intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giải pháp quản lý nhà nước về khoáng sản

Chia sẻ: Trần Mạnh Hùng | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:7

184
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo là một trong những nguồn lực quan trọng để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Trong những năm qua, ngành công nghiệp khai khoáng của Việt Nam. Vậy giải pháp quản lý khoáng sản được thực hiện như thế nào cho hiệu quả, mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Giải pháp quản lý nhà nước về khoáng sản" dưới đây.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giải pháp quản lý nhà nước về khoáng sản

  1. Khoáng sản là tài nguyên không tái tạo, là một trong nh ững nguồn lực quan trọng để thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa ­ hiện  đại hóa đất nước. Trong những năm qua, ngành công nghiệp khai khoáng  của Việt Nam nói chung, của tỉnh Sơn La nói riêng đã có bước phát triển,  cung cấp nguyên liệu cho nhiều lĩnh vực sản xuất, đóng góp đáng kể cho  ngân sách nhà nước và góp phần tích cực trong phát triển kinh tế ­ xã hội  của đất nước Công tác quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản đã được thực hiện theo  đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành và theo qui trình  thống nhất, có sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các ngành, huyện và xã trong việc  quản lý hoạt động khoáng sản, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp  đầu tư lĩnh vực khoáng sản. Việc thực hiện quy hoạch và cấp giấy phép thăm  dò, khai thác khoáng sản trên địa bàn tỉnh đã được thực hiện đúng theo quy định  của pháp luật. Tuy nhiên, trên địa bàn tỉnh vẫn còn có hiện tượng khai thác khoáng sản trái  phép, một số dự án khai thác khoáng sản chưa đúng với thiết kế mỏ, còn gây ô  nhiễm môi trường. Các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động khoáng sản chưa  thực hiện đầy đủ quan trắc môi trường định kỳ theo nội dung đã cam kết trong  báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc cam kết bảo vệ môi trường, việc xả  chất thải rắn trong khai thác mỏ chưa đúng quy định; chưa đăng ký và xử lý chất  thải nguy hại; chưa có tổ chức, cá nhân nào thực hiện lập hồ sơ đề nghị xác  nhận hoàn thành các công trình, biện pháp bảo vệ môi trường và đóng cửa mỏ.  Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 được Quốc hội Nước cộng hoà xã hội chủ  nghĩa Việt Nam thông qua ngày 17 tháng 11 năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ  ngày 01 tháng 7 năm 2011 đã tạo hành lang pháp lý cho công tác quản lý Nhà  nước trong lĩnh vực này. Nội dung của Luật Khoáng sản năm 2010 có nhiều đổi  mới, thay đổi căn bản các qui định về công tác bảo vệ, quản lý, khai thác, sử  dụng nguồn tài nguyên khoáng sản quốc gia; giải quyết được các vấn đề gây  bức xúc và tranh luận trong công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản từ trước  đến nay; đồng thời bãi bỏ các quy định bất cập, bổ sung các quy định mới phù  hợp hơn với thực tiễn. Để thực hiện có hiệu quả Luật khoáng sản năm 2010 nhằm nâng cao năng lực  công tác quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản trên địa bàn tỉnh cần thực 
  2. hiện một số giải pháp sau: 1. Ủy ban nhân dân các cấp, đặc biệt là Ủy ban nhân dân cấp xã, thực hiện đúng  thẩm quyền và trách nhiệm quản lý nhà nước về khoáng sản theo quy định của  pháp luật. Thường xuyên tổ chức kiểm tra, xử lý kiên quyết, triệt để các trường  hợp khai thác khoáng sản trái phép; mua, bán, vận chuyển, tiêu thụ khoáng sản  không có nguồn gốc hợp pháp; đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các quy định  của pháp luật về khoáng sản trong cán bộ, nhân dân địa phương. Thực hiện  nghiêm chỉnh việc bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn. Phối hợp thực  hiện tốt việc quản lý, bảo vệ tài nguyên khoáng sản và các lĩnh vực khác với  các xã, huyện và tỉnh bạn; khuyến khích thành lập các tổ, cụm các địa phương  giáp ranh trong việc thực hiện quản lý chung, thường xuyên trao đổi thông tin,  tổng kết đánh giá tình hình cụ thể. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân lập hồ sơ  xin thăm dò, khai thác, khai thác tận thu, đóng cửa mỏ và thực hiện các quy định  khác theo quy định của pháp luật Khoáng sản. Tăng cường các biện pháp kiểm  tra quản lý thu thuế, phí, lệ phí về hoạt động khai thác, kinh doanh, vận chuyển  tài nguyên khoáng sản; xây dựng cơ chế điều tiết khoản thu từ hoạt động  khoáng sản để hỗ trợ phát triển kinh tế ­ xã hội cho các địa phương có hoạt  động khoáng sản, đồng thời hướng dẫn quản lý sử dụng phí bảo vệ môi trường  đối với hoạt động khoáng sản theo quy định tại Nghị định số 74/2011/NĐ­CP  ngày 25/8/2011 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với khai thác  khoáng sản. Tuyên truyền phổ biến pháp luật về khoáng sản trên các phương  tiện thông tin đại chúng như: Báo, Đài phát thanh, truyền hình, tạp chí trung  ương và địa phương; phối hợp các sở, ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội  tuyên truyền về Tài nguyên và Môi trường nói chung, khoáng sản nói riêng trên  địa bàn tỉnh góp phần nâng cao hiểu biết, ý thức chấp hành pháp luật về khoáng  sản của tổ chức, cá nhân; tập trung viết bài đưa tin hoặc đặt theo chuyên mục,  chuyên đề biểu dương những điển hình tốt, phê phán những hành vi vi phạm  pháp luật về các hoạt động quản lý, thăm dò, khai thác, vận chuyển, kinh doanh  khoáng sản trên địa bàn tỉnh.  2. Xây dựng cơ chế thu hút các thành phần kinh tế đầu tư vào công tác điều tra  cơ bản địa chất về khoáng sản. Khuyến khích đầu tư các dự án khai thác, chế  biến khoáng sản có công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường; sử dụng triệt  để và tiết kiệm khoáng sản. Có cơ chế ưu đãi việc nghiên cứu, phát hiện các 
  3. công dụng mới của các loại khoáng sản và ứng dụng vào sản xuất. Hạn chế và  tiến tới sớm chấm dứt tình trạng đầu tư khai thác khoáng sản manh mún, nhỏ  lẻ, kém hiệu quả, đặc biệt là tình trạng khai thác khoáng sản trái phép trên địa  bàn tỉnh. Có quy định cụ thể, chặt chẽ hơn về điều kiện đối với tổ chức tham  gia thăm dò, khai thác, chế biến từng loại khoáng sản, đặc biệt là quản lý tốt về  khoáng sản có giá trị như: than, vàng, đồng, Nikel… Xây dựng cơ chế đấu giá  quyền khai thác khoáng sản, bảo đảm lợi ích của Nhà nước phù hợp với đặc  điểm của từng loại khoáng sản. Điều chỉnh kịp thời, hợp lý các loại thuế liên  quan đến hoạt động khai thác, chế biến và xuất khẩu khoáng sản, tăng thu ngân  sách nhà nước; có cơ chế thu hồi kinh phí Nhà nước đã đầu tư cho công tác điều  tra, thăm dò khoáng sản. Áp dụng quy định mức ký quỹ bảo đảm phục hồi môi  trường, môi sinh và đất đai trong từng thời kỳ để bảo đảm trách nhiệm của các  tổ chức khai thác khoáng sản. Thực hiện có hiệu quả công tác quản lý tài  nguyên khoáng sản, đẩy mạnh kinh tế hóa ngành Tài nguyên và Môi trường  phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,  nông thôn trên địa bàn tỉnh; kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế, xã  hội với bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển bền vững. 3. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; công tác đào tạo, bồi dưỡng  về trình độ chuyên môn, lý luận chính trị cho cán bộ, công chức làm công tác  quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản. Bổ sung biên chế làm công tác  quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản cho Sở Tài nguyên và Môi trường  tỉnh và các huyện có khoáng sản tập trung, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ  được giao.
  4. Hoat domg cap giay phep Sau gần 15 năm thực thi Luật Khoáng sản, ngành khai khoáng của Việt  Nam bên cạnh những đóng góp tích cực cho sự phát triển của nền kinh tế  cũng đã bộc lộ không ít những yếu kém, hạn chế, khiến nguồn tài nguyên  khoáng sản cạn kiệt, thất thoát, người dân mất đất sản xuất, ngân sách  nhà nước thất thu, môi trường thì bị xâm hại nghiêm trọng.   Cấp phép càng nhiều, tổn thất càng lớn Sở hữu trên 5000 điểm mỏ với hơn 60 loại khoáng sản khác nhau nên thật  không khó lí giải vì sao ngành khai khoáng tại Việt Nam lại phát triển nhanh tới  vậy. Số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này tăng trung bình  hơn 21%/năm, đồng nghĩa với việc tăng nhanh lượng giấy phép được cấp. Theo thống kê, chỉ trong vòng 3 năm từ 2005 đến 2008, các địa phương đã cấp  hơn 3.880 giấy phép khai thác khoáng sản, nhiều gấp 10 lần so với số lượng  giấy phép mà các bộ cấp trong 12 năm từ 1996 đến 2008. Điều đáng ngại là hoạt  động cấp phép không theo quy hoạch, cấp phép vượt quy hoạch và chồng chéo  quy hoạch vẫn diễn ra ở nhiều nơi trong khi đội ngũ và năng lực các cơ quan  chuyên môn lại có hạn nên việc quản lí hoạt động khai khoáng trở nên khó kiểm  soát. Đó là chưa kể tới thực trạng nhiều doanh nghiệp tuy không đủ năng lực,  không có hồ sơ thiết kế mỏ, không làm báo cáo đánh giá tác động môi trường  hoặc nếu có cũng chỉ là chiếu lệ… nhưng vẫn được cấp phép. Thậm chí không  ít mỏ khoáng sản có trữ lượng lớn đã bị xé lẻ để tiện bề cho việc cấp phép ở  địa phương. Cá biệt, một số trường hợp khai thác trái phép còn được “bảo kê”  bởi các cán bộ cơ sở, khiến công tác xử lý trở nên dai dẳng, khó giải quyết.
  5. Lãng phí tài nguyên Hệ lụy từ việc cấp phép tràn lan kết hợp với các khâu khai thác sử dụng công  nghệ cũ, khai thác thô, manh mún khiến nguồn tài nguyên khoáng sản bị tổn thất  nghiêm trọng. Thống kê của Viện Tư vấn phát triển (CODE) cho thấy, tổn thất  tài nguyên trong quá trình khai thác hiện ở mức rất cao, đặc biệt là tại nhiều mỏ  do địa phương quản lý. Theo đó, tổn thất khai thác than hầm lò lên tới 40 – 60%, khai thác apatit là 26 –  43%, quặng kim loại 15 – 30%, vật liệu xây dựng từ 15 – 20%… Đối với các  mỏ vừa và nhỏ, sự thất thoát không chỉ dừng lại ở một vài chục phần trăm mà  nguy cơ mất mỏ là rất nghiêm trọng. Điều này dễ thấy nhất trong hoạt động  khai thác vàng khi mà độ thu hồi quặng vàng chỉ đạt 30 – 40%, số còn lại đều  nằm tại bãi thải. Môi trường sinh thái bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ nạn đào đãi vàng trái phép  (Ảnh: Tainguyenmoitruong.vn) Ngân sách thất thu Sự lãng phí tài nguyên trong hoạt động khai thác cộng với sự yếu kém trong  công tác quản lí cùng những kẽ hở trong cơ chế giám sát cũng tất yếu khiến  nguồn ngân sách nhà nước bị thất thu. Trong khi tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác khoáng sản chiếm vị trí cao so  với nhiều ngành và lĩnh vực kinh tế thì hiệu quả đóng góp vào tăng trưởng GDP  của ngành này lại chưa tương xứng. Bằng chứng là trong giai đoạn từ 2005 đến  2008, tổng vốn đầu tư cho ngành khai thác đứng vị trí thứ 5/18 ngành và lĩnh vực  nhưng hiệu quả đóng góp cho nền kinh tế chỉ đứng thứ 8.
  6. Hiện nay, nguồn thu trực tiếp từ việc khai khoáng vẫn dựa chủ yếu vào thuế tài  nguyên khoáng sản. Doanh nghiệp tự kê khai sản lượng khoáng sản thực tế khai  thác hàng năm và cơ quan chức năng sẽ lấy đó làm cơ sở cho việc tính thuế tài  nguyên khoáng sản, ngoại trừ dầu khí có luật riêng. Tuy nhiên, trên thực  tế, nhiều trường hợp báo cáo chưa đúng sản lượng khai thác gây thất thoát  nguồn thu ngân sách. Việc duy trì phương thức tính thuế tài nguyên dựa theo hóa  đơn xuất của doanh nghiệp cũng có thể dẫn tới tình trạng doanh nghiệp bắt tay  với đối tác ghi giá trên hóa đơn thấp hơn so với giá thực tế nhằm trốn thuế và  các loại phí liên quan. Tại Điện Biên, một số doanh nghiệp còn mượn cớ “đang trong thời kì thiết kế  mỏ” để trốn nghĩa vụ nộp thuế dù trước đó họ đã tiến hành khai thác từ lâu.  Đây cũng là một trong những lí do khiến địa phương này chỉ thu được vỏn vẹn  gần 3 tỉ đồng tiền thuế khai thác khoáng sản trong suốt 3 năm (2007 – 2010) dù  có tới gần 90 điểm mỏ được cấp phép khai thác đủ các loại khoáng sản từ vàng  cốm, vàng sa khoáng đến than, chì, kẽm, sắt, bauxit, antimon, đá vôi, cát sỏi… Môi trường và dân sinh bị ảnh hưởng Bất cập không chỉ dừng lại ở câu chuyện tổn thất tài nguyên và nguồn thu ngân  sách mà hệ lụy từ việc cấp phép khai thác khoáng sản tràn lan cũng khiến nhiều  hộ gia đình điêu đứng vì thiếu hoặc mất hẳn đất sản xuất. Phần lớn các mỏ  khai thác tại một số địa phương chưa xây dựng bãi thải theo đúng quy định, gây  bồi lấp dòng chảy, ruộng vườn; làm thu hẹp diện tích đất lâm nghiệp; gây hỏng  cầu cống, đường sá… Một số ít doanh nghiệp tuy thực hiện đền bù hoặc đưa  máy móc vào dọn dẹp đất thải nhưng nhiều vướng mắc vẫn chưa ngớt phát  sinh, liên quan trực tiếp đến việc bồi thường và cải tạo đất. Tuy nhiên, hậu quả tiêu cực về môi trường có lẽ vẫn là điều đáng lo ngại nhất  bởi sẽ phải mất một nguồn kinh phí vô cùng lớn và trong một thời gian vô cùng  dài thì mới mong khắc phục được một phần hậu quả. Không chỉ làm phát sinh  các chất thải nguy hiểm, hoạt động khai thác khoáng sản trong nhiều trường  hợp còn gây ô nhiễm không khí, nguồn nước; làm mất đa dạng sinh học; tàn phá  rừng; sa mạc hóa đất đai; gây bồi lấp, sụt lún, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, di  tích lịch sử… Càng đáng lo hơn khi hầu hết hoạt động khai thác khoáng sản  hiện tập trung chủ yếu ở các vùng núi và trung du khiến phạm vi tác động sâu  rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến các vùng rừng và diện tích đất rừng xung  quanh khu vực khai thác. Không ít những doanh nghiệp còn lợi dụng việc triển  khai dự án để thọc sâu vào các khu vực cấm thuộc vườn quốc gia, khu bảo tồn  nhằm tìm vàng và sa khoáng, gây bao hệ lụy khôn lường, điển hình là vụ khai  thác vàng mới xảy ra tại VQG Ba Vì (Hà Nội); khai thác vàng trong vùng lõi  VQG Pù Mát (Nghệ An), Khu Bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), Khu Bảo 
  7. tồn thiên nhiên Pù Huống (Nghệ An); khai thác thạch anh hồng ở VQG Chư  Yang Sin (Đăk Lăk)… Có thể nói, bên cạnh một số doanh nghiệp làm ăn khá nghiêm chỉnh thì còn tồn  tại không ít những đơn vị chỉ biết chạy theo lợi nhuận mà bất chấp mọi hệ lụy  có thể gây ra đối với môi trường và đời sống dân sinh. Hiện mỗi địa phương  vẫn còn tồn tại hàng trăm điểm khai thác tự phát, nhỏ lẻ, khiến môi trường nơi  nơi bị hủy hoại, tài nguyên thì cạn kiệt. Rất nhiều bằng chứng cho thấy, nơi  nào giàu tài nguyên khoáng sản, nơi đó dễ phát sinh những mâu thuẫn, xung đột  về lợi ích kinh tế và lợi ích môi trường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2