
HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)
361
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ RỦI RO TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN GANG
THÉP THÁI NGUYÊN (TISCO)
SOLUTIONS FOR FINACIAL RISK MANAGEMENT AT THAI NGUYEN IRON AND
STEEL JOINT STOCK CORPORATION (TISCO)
TS. Hoàng Thị Thu, ThS. Vũ Thị Hậu, Phạm Xuân Thuỷ
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Dựa trên kết quả nghiên cứu khái quát về rủi ro tài chính của doanh nghiệp (khái niệm, các nhân tố ảnh
hưởng, hệ thống chỉ tiêu đo lường) và quản lý rủi ro tài chính của doanh nghiệp (khái niệm, vai trò, quy trình
và các nhân tố ảnh hưởng), bài viết này đi sâu nghiên cứu thực trạng rủi ro tài chính tại Công ty cổ phần
Gang thép Thái Nguyên (TISCO) giai đoạn 2007 - 2011. Trên cơ sở xác định rủi ro (nhận dạng rủi ro), nhóm
tác giả đề xuất một số giải pháp quản lý rủi ro tài chính tại Công ty cổ phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO)
góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược sản xuất kinh doanh giai đoạn 2010 – 2015.
Từ khóa: Rủi ro tài chính, quản lý rủi ro tài chính, cơ cấu nguồn vốn, cơ cấu nợ, khả năng sinh lời, hiệu
quả hoạt động.
ABSTRACT
Based on the research of financial risks (definition, the effects and measurement system) and financial
risk management (definition, the role and effects), this paper aims to study the financial risks of Thai Nguyen
Iron and Steel Joint Stock Corporation (TISCO) in 2007-2011. Due to the identified financial risks, authors
suggest some solutions for managing financial risk at Thai Nguyen Iron and Steel Joint Stock Corporation
(TISCO) to improve the business strategy in 2010-2015.
Keywords: Financial risk, financial risk management, capital structure, debt structure, profitability,
operation ability.
1. Khái quát rủi ro tài chính và quản lý rủi
ro tài chính của doanh nghiệp
1.1. Rủi ro tài chính của doanh nghiệp
Theo nghĩa rộng, rủi ro tài chính là
khả năng xảy ra những tổn thất gắn liền
với hoạt động tài chính và
thường bắt nguồn
từ việc thực hiện các giao dịch liên quan trực
tiếp đến tài chính như: mua bán, đầu tư, vay nợ
và một số hoạt động kinh doanh khác; nhưng
cũng có thể là hệ quả gián tiếp của sự thay đổi
các chính sách của chính phủ, các biến cố
chính trị trong nước và quốc tế, hoặc có thể do
tác động của thiên tai. Theo nghĩa hẹp, rủi ro
tài chính là nguy cơ mất khả năng thanh toán
các khoản nợ tài chính khi đến hạn do doanh
nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính - sử dụng
nguồn vốn vay trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Trong bài viết này, rủi ro tài chính
được hiểu theo nghĩa hẹp.
Rủi ro tài chính của một doanh nghiệp là
hệ quả tổng hòa của các nhân tố bên trong và
bên ngoài doanh nghiệp bao gồm: môi trường
của doanh nghiệp, sản phẩm và thị trường của
doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, tình hình
tài chính…
* Môi trường của doanh nghiệp
Mỗi doanh nghiệp đều hoạt động trong một
điều kiện cụ thể nào đó của môi trường kinh
doanh và các yếu tố môi trường tạo ra những
tác động đến doanh nghiệp thông qua những cơ
hội hay nguy cơ xuất phát từ những thay đổi
của môi trường.
- Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp:
Nghiên cứu về môi trường vĩ mô nhằm đánh
giá quy mô và tiềm năng thị trường của doanh
nghiệp và sự tác động của môi trường như: môi
trường văn hóa xã hội, môi trường chính trị -
pháp luật, môi trường công nghệ, môi trường

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
362
kinh tế (lãi suất tín dụng, tỷ giá hối đoái, giá
cả, thị trường tài chính…);
- Môi trường ngành: Vị thế cạnh tranh của
doanh nghiệp sẽ không được thấy rõ nếu chỉ
dựa vào những kết quả đánh giá môi trường vĩ
mô. Phân tích và đánh giá môi trường ngành
nhằm xác định vị thế của doanh nghiệp trong
ngành mà nó hoạt động bào gồm: chu kỳ kinh
doanh, triển vọng tăng trưởng của ngành, phân
tích về cạnh tranh trong ngành, các nguồn cung
ứng trong ngành, áp lực cạnh tranh tiềm tàng.
* Sản phẩm và thị trường của doanh
nghiệp
Khi đánh giá sản phẩm của doanh nghiệp,
cần đánh giá trên các phương diện như: tầm
quan trọng, chu kỳ sống… Thông qua những
đánh giá này có thể nhận thấy vị thế của doanh
nghiệp thông qua sản phẩm và thị trường của
doanh nghiệp.
- Sản phẩm của doanh nghiệp: Sản phẩm
của doanh nghiệp được đánh giá trên các
phương diện như: vai trò sản phẩm đối với xã
hội và nền kinh tế, đánh giá chu kỳ sống của
sản phẩm, đánh giá tiềm năng của sản phẩm,
đánh giá chất lượng của sản phẩm;
- Thị trường của doanh nghiệp: quy mô thị
trường tiềm năng, thị phần của doanh nghiệp,
chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp…
* Quản trị doanh nghiệp
Mục tiêu của các hoạt động quản trị là
nhằm nâng cao vị thế cạnh tranh của doanh
nghiệp và hướng tới sự phát triển bền vững.
Các nội dung đánh giá bao gồm:
- Công nghệ, thiết bị của doanh nghiệp:
Những thông tin về công nghệ hiện tại của
doanh nghiệp giúp xác định công nghệ thuộc
loại lạc hậu hay hiện đại, công nghệ sẽ quyết
định việc sản xuất ra những sản phẩm ngày
càng hoàn hảo, với chi phí giảm đi. Khi phân
tích thông tin về công nghệ người ta thực hiện:
đánh giá công nghệ hiện tại của doanh nghiệp,
đánh giá chiến lược đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp, đánh giá công suất máy móc
thiết bị của doanh nghiệp, đánh giá sự tác động
của công nghệ với môi trường.
- Nguồn nguyên liệu của doanh nghiệp:
Đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến,
nguồn nguyên liệu giữ vai trò rất quan trọng
bởi chất lượng của nguyên liệu có thể tác động
mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Hơn thế
nữa, trữ lượng tiềm năng và tính ổn định của
nguồn nguyên liệu có thể quyết định sự tồn tại
của doanh nghiệp. Khi đánh giá nguồn cung
ứng, cần tiến hành đánh giá trên các phương
diện như: đánh giá tính ổn định của nguồn
nguyên liệu, đánh giá quãng đường vận chuyển
nguyên liệu, đánh giá phương án thay thế
nguồn nguyên liệu.
- Địa điểm của doanh nghiệp: Địa điểm của
doanh nghiệp có một vai trò rất quan trọng bởi
nó có thể đem lại cho doanh nghiệp lợi thế
thương mại nếu đặt gần các trục giao thông hay
các đô thị. Song nó cũng có thể đem lại cho
doanh nghiệp những nguy cơ nếu có khả năng
phải di dời. Do đó, đánh giá địa điểm của
doanh nghiệp nhằm xác định những cơ hội hay
triển vọng xuất phát từ địa điểm. Khi đánh giá
địa điểm của doanh nghiệp, cần phân tích trên
các phương diện: phương diện kinh tế, phương
diện chính trị, phương diện xã hội, phương
diện tự nhiên.
- Loại hình doanh nghiệp và tổ chức quản
lý: Trên phương diện pháp lý và kinh doanh,
các chủ sở hữu doanh nghiệp hoàn toàn có
quyền tự do lựa chọn loại hình và cơ cấu tổ
chức cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trên thực tế
việc lựa chọn này đều tuân theo những quy luật
và nguyên tắc nhất định. Bởi vậy, có thể dựa
vào những quy luật này để: đánh giá loại hình
là doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty cổ phần…; đánh giá về tổ
chức – quản lý doanh nghiệp; đánh giá quy mô
của doanh nghiệp.
- Quản trị nguồn nhân lực: Đánh giá nền
văn hóa và bản sắc của doanh nghiệp, đánh giá
chính sách nhân sự của doanh nghiệp, đánh giá
chính sách phát triển nguồn nhân lực của
doanh nghiệp, đánh giá tiềm năng nhân sự của
doanh nghiệp, đánh giá về ban lãnh đạo doanh
nghiệp.
- Quy mô của doanh nghiệp: Quy mô của
doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng
cần được xem xét khi nghiên cứu rủi ro tài
chính của các doanh nghiệp. Vì hiện nay, ở các
nước đang phát triển như ở Việt Nam luôn tồn

HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)
363
tại cách nghĩ, các doanh nghiệp càng lớn thì
càng ổn định và vững chắc và ít có khả năng
rơi vào tình trạng vỡ nợ.
* Tình hình tài chính
Phân tích thông tin tài chính là cơ sở cung
cấp cho chúng ta về tình trạng hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Các nội dung cần
đánh giá bao gồm:
- Phân tích các chỉ tiêu tài chính: Thông
qua phân tích các chỉ tiêu tài chính, người ta có
thể xác định tình hình tài chính của doanh
nghiệp ở thời điểm hiện tại. Đồng thời các chỉ
tiêu tài chính cũng tạo điều kiện cho việc so
sánh “sức khỏe” của doanh nghiệp giữa các
thời kỳ và so sánh với các doanh nghiệp khác
hay giá trị trung bình của ngành. Hệ thống chỉ
tiêu tài chính dùng để phân tích rủi ro tài chính
của doanh nghiệp thường được chia thành các
nhóm như sau:
+ Nhóm chỉ tiêu đo lường năng lực thanh
toán: Đây là nhóm chỉ tiêu dùng để đáp ứng
các khoản nợ của doanh nghiệp, đặc biệt là các
khoản nợ ngắn hạn. Các tỷ số thường được sử
dụng trong nhóm chỉ tiêu thanh khoản như: hệ
số thanh toán khái quát, hệ số thanh toán nợ
ngắn hạn, hệ số thanh toán nhanh, hệ số thanh
toán lãi vay…
+ Nhóm chỉ tiêu đo lường năng lực hoạt
động: Đây là nhóm chỉ tiêu đo lường mức độ
hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của doanh
nghiệp. Các chỉ tiêu hoạt động được thiết lập
trên doanh thu nhằm xác định tốc độ quay
vòng của một số đại lượng, cung cấp những
thông tin cần thiết cho công tác quản lý tài
chính, đồng thời cũng là những chỉ tiêu cho
biết được mức độ rủi ro tài chính của doanh
nghiệp. Các tỷ số thường được sử dụng: vòng
quay hàng tồn kho, vòng quay các khoản phải
thu, vòng quay tài sản cố định…
+ Nhóm chỉ tiêu cơ cấu nguồn vốn và cơ
cấu tài sản: Cơ cấu nguồn vốn của doanh
nghiệp được đo lường thông qua các chỉ tiêu
như tỷ suất nợ, tỷ suất tự tài trợ hay tỷ suất nợ
phải trả trên vốn chủ sở hữu. Đây là nhóm chỉ
tiêu phản ánh quy mô nợ so với vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp, là bằng chứng về khả năng
hoàn trả các khoản nợ của doanh nghiệp trong
dài hạn, là một nhân tố quan trọng trong bất kỳ
một loại hình xác định mức độ rủi ro của doanh
nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, sử dụng
đòn bẩy kinh doanh lớn thì khả năng chống đỡ
những có sốc khắc nghiệt của môi trường kinh
doanh mà nó đang hoạt động càng thấp. Điều
này có nghĩa là xác suất có nguy cơ phá sản
tăng khi đòn bẩy kinh doanh tăng. Cơ cấu tài
sản được đo lường thông qua chỉ tiêu tỷ suất
đầu tư tài sản cố định (tỉ lệ tài sản cố định trên
tổng tài sản). Về mặt lý thuyết, khi tỉ lệ tài sản
cố định chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản,
doanh nghiệp có cơ hội thế chấp các tài sản
này để tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài.
+ Nhóm chỉ tiêu đo lường khả năng sinh
lời: Khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp được đo lường thông qua các
chỉ tiêu như khả năng sinh lời trên tài sản, khả
năng sinh lời trên doanh thu. Đây là nhóm chỉ
tiêu để đánh giá hiệu quả trong việc sử dụng
các nguồn lực của DN để tạo ra lợi nhuận. Có
nghĩa là, giá trị hay lợi nhuận của DN càng lớn
sẽ có nhiều khả năng thanh toán để làm giảm đi
khả năng có nguy cơ phá sản.
- Hiệu quả: Đây là chi phí cho việc tạo ra
doanh thu được đo lường bằng cách theo dõi
hai phạm trù chi phí lớn là chi phí nhân công
và chi phí vật tư…
- Doanh thu: Theo kết quả nghiên cứu đã
được công bố thì tỷ số doanh thu trên tài sản
cao là điều kiện đầu tiên để đạt được thu hồi
vốn cao với sự đầu tư tương đối thấp và có
những ảnh hưởng tích cực lên khả năng thanh
toán bằng tiền mặt của doanh nghiệp, do vậy sẽ
giảm khả năng có nguy cơ phá sản.
- Tỷ lệ tăng trưởng: Tốc độ tăng trưởng của
một doanh nghiệp là một nhân tố quan trọng
trong việc tính toán xác suất có nguy có phá
sản. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tỷ lệ tăng
trưởng với tỷ lệ vỡ nợ, mối quan hệ này không
đơn giản như những tỷ lệ khác so với tỷ lệ vỡ
nợ. Vì các doanh nghiệp tăng trưởng nhanh
thường không thể đương đầu với những thác
thức quản lý bởi chính bản thân họ. Thêm nữa,
tăng trưởng quá nhanh không chắc được tài trợ
từ lợi nhuận, dẫn đến kết quả là khả năng nợ và
các rủi ro liên quan tăng lên.
- Chính sách phân phối lợi nhuận của
doanh nghiệp: Chính sách phân chia lợi nhuận

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
364
có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển
của doanh nghiệp và sự gia tăng giá trị của vốn
chủ sở hữu. Khi kết thúc niên độ kế toán, lãnh
đạo doanh nghiệp quyết định mức chia lợi tức
và tỷ lệ trích lập các quỹ dự phòng, quỹ tích
lũy tái đầu tư. Nếu mức chia lợi tức cổ phần
thấp có thể làm sụt giảm giá mua – bán cổ
phần. Ngược lại, nếu mức chia lợi tức cổ phần
quá cao sẽ đem lại cho doanh nghiệp nhiều khó
khăn về chính sách tài trợ ngân quỹ. Nếu
doanh nghiệp xây dựng một chính sách phân
chi lợi nhuận hợp lý sẽ gia tăng tiềm năng tăng
trưởng của doanh nghiệp, bởi lợi nhuận giữ lại
là một nguồn tài trợ ngân quỹ để tái đầu tư mở
rộng kinh doanh rất quan trọng. Tiềm năng
tăng trưởng làm gia tăng sự hấp dẫn đối với
các nhà đầu tư tiềm tàng. Các chủ nợ tiềm tàng,
các nhà cung cấp và công chúng đầu tư thường
đánh giá cao những doanh nghiệp có chính
sách phân chia lợi nhuận hợp lý. Vì vậy, một
doanh nghiệp có chính sách phân phối lợi
nhuận hợp lý sẽ được đánh giá cao.
- Lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp:
Phân tích luồng tiền (cash flows) là nhằm đánh
giá nguy cơ phá sản, hay khả năng thanh toán
cho các khoản chi tiêu, hay tái đầu tư mở rộng
sản xuất. Khả năng này được thể hiện qua chỉ
tiêu giữa giá trị dòng tiền thu trong kỳ và các
nhu cầu chi tiêu cho đầu tư và trả nợ của doanh
nghiệp.
Luồng tiền là những khoản tiền được tạo ra
trong một khoảng thời gian nào đó và chúng
sẵn sàng cho việc đầu tư, hay trả nợ dài hạn,
hay hoàn trả vốn gốc cho chủ sở hữu. Luồng
tiền hàng năm được xác định như sau: Các chỉ
tiêu thanh khoản đánh giá khả năng thanh toán
các khoản nợ ngắn hạn (bao gồm cả các khoản
nợ vay ngắn hạn và các khoản nợ phát sinh từ
hoạt động kinh doanh) ở thời điểm hiện tại và
trong quá khứ. Còn luồng tiền phản ánh khả
năng thanh toán các khoản nợ dài hạn của
doanh nghiệp khi chúng đáo hạn trong tương
lai. Đánh giá luồng tiền thường dựa vào chỉ
tiêu luồng tiền trên tổng nợ của doanh nghiệp.
Bởi vậy, luồng tiền là một chỉ số chính xác đo
lường “tình hình sức khỏe” tài chính của doanh
nghiệp. Nhiều doanh nghiệp mặc dù có triển
vọng, sinh lời rất khả quan nhưng luồng tiền bị
cạn kiệt nên dẫn tới bị phá sản.
- Hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp: Hiệu
quả kinh tế là phần giá trị tăng thêm trong kỳ,
xuất phát từ hiệu năng quản lý của các nhà
quản trị của doanh nghiệp. Chỉ tiêu hiệu quả
kinh tế giúp đo lường chất lượng của đội ngũ
các nhà quản trị trên phương diện tài chính.
1.2. Quản lý rủi ro tài chính của doanh
nghiệp
Quản lý rủi ro tài chính là xác định mức độ
rủi ro mà doanh nghiệp mong muốn, nhận diện
được mức độ rủi ro hiện nay của doanh nghiệp
đang gánh chịu và sử dụng các công cụ tài
chính để điều chỉnh mức độ rủi ro thực sự theo
mức rủi ro mong muốn.
Hoạt động quản lý rủi
ro tài chính có vai trò giúp doanh nghiệp: tránh
khỏi nguy cơ phá sản, đóng góp trực tiếp vào
lợi nhuận, tránh được những giảm sút về thu
nhập hoặc thiệt hại về tài sản, và tham gia vào
những dự án có khả năng sinh lời cao. Về cơ
bản, q
uy trình quản lý rủi ro tài chính của
doanh nghiệp
bao
gồm các bước:
xác định
,
đo lường và kiểm soát rủi ro
.
Hình 1. Quy trình quản lý rủi ro tài chính-
Xác định rủi ro (Financial risk
ident
i
f
i
cation): l
iên quan đến
phân biệt
sự
kiện rủi ro (như rủi ro do thay đổi chính
sách, rủi ro do chính sách đầu tư và tài

HỘI THẢO VỀ KHOA HỌC QUẢN TRỊ (CMS-2013)
365
trợ…) và
phát
hiện nguyên nhân tiềm
năng
trước
khi
rủi ro
xảy ra
.
- Đo lường rủi ro (Financial risk
measurement):
có
nghĩa
là
đánh giá và
định
lượng các
tác
động
và hậu quả của
rủi ro
.
Bước này sẽ t
ận dụng
các nguyên mẫu
hoặc các phương pháp
khác
nhau
để xác
định rủi ro như tỷ suất nợ phải trả trên
tổng tài sản, phân tích
xác suất
, hệ số
đòn
bẩy tài chính, đồng thời
cung cấp
dữ liệu
chính xác
để ngăn chặn
và kiểm soát
rủi
ro tài chính của doanh nghiệp.
- Kiểm soát rủi ro (Financial risk contro
l):
t
rên cơ sở kết quả đo lường rủi ro, kiểm soát
rủi ro là việc sử dụng các chiến lược, các
chương trình hành động, công cụ, kỹ thuật
phù hợp… nhằm ngăn ngừa, né tránh hoặc
giảm thiểu những tổn thất, những ảnh hưởng
không mong đợi của rủi ro đối với doanh
nghiệp.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro
tài chính của doanh nghiệp bao gồm: nhận
thức của nhà quản lý doanh nghiệp đối với rủi
ro, quy mô và hình thức tổ chức của doanh
nghiệp, sự phát triển thị trường các sản phẩm
phái sinh, chính sách quản lý rủi ro, phương
thức quản lý rủi ro (chủ động và thụ động), các
công cụ quản lý rủi ro (như hợp đồng bảo
hiểm, hợp đồng tài chính phái sinh, các dịch vụ
tài trợ quốc tế, lập quỹ dự trữ…).
2. Thực trạng rủi ro tài chính tại Công ty cổ
phần Gang thép Thái Nguyên (TISCO)
2.1. Khái quát về Công ty cổ phần Gang thép
Thái Nguyên (TISCO)
Công ty Cổ phần Gang thép Thái Nguyên
(TISCO) hoạt động theo mô hình CTCP từ
ngày 01/7/2009, tiền thân là Công ty Gang thép
Thái Nguyên - cái nôi của ngành công nghiệp
luyện kim Việt Nam, được khởi công xây dựng
từ năm 1959, là khu Công nghiệp đầu tiên và
duy nhất tại Việt Nam có dây chuyền sản xuất
liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến
sản xuất gang, phôi thép và cán thép. Ngày
29/11/1963, mẻ gang đầu tiên của TISCO ra lò
đã đánh dấu mốc son quan trọng trong công
cuộc xây dựng và phát triển của đất nước. Trải
qua hơn 50 năm xây dựng và phát triển, TISCO
không ngừng tăng trưởng và lớn mạnh. Công
suất sản xuất thép cán hiện tại đạt 650.000
tấn/năm, hệ thống phân phối sản phẩm rộng
với 5 chi nhánh đặt tại Hà Nội, Quảng Ninh,
Thanh Hoá, Nghệ An, Đà Nẵng, và mạng lưới
các nhà phân phối tại các tỉnh và thành phố
trong cả nước.
Sản phẩm thép TISCO đã trở nên nổi tiếng
trên cả nước, được sử dụng vào hầu hết các
Công trình xây dựng trọng điểm quốc gia như
thủy điện Hòa Bình, Yaly, Sơn La, sân vận
động Quốc gia Mỹ Đình, cầu Thăng Long,
Chương Dương, và nhiều công trình khác;
thâm nhập vào thị trường quốc tế như Canada,
Indonesia, Lào, Campuchia. TISCO cùng với
sản phẩm thép mang thương hiệu TISCO đã
giành được nhiều giải thưởng: Hàng Việt Nam
chất lượng cao, Sao vàng đất Việt, Thương
hiệu nổi tiếng với người tiêu dùng, Nhãn hiệu
có uy tín tại Việt Nam, và nhiều giải thưởng có
giá trị khác.
Với những thành tích nổi bật đóng góp vào
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước,
TISCO đã vinh dự được phong tặng Danh hiệu
Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, Huân
chương Độc lập hạng Nhất, Nhì, Ba và nhiều
phần thưởng cao quý khác của Đảng và Nhà
Nước. Những thành tựu đạt được đã khẳng
định vị thế lớn mạnh của TISCO trên thị
trường trong nước và Quốc tế. Ngày
29/09/2007, TISCO đã khởi công thực hiện dự
án đầu tư mở rộng sản xuất giai đoạn 2, đánh
dấu mốc phát triển mới quan trọng. Dự án với
tổng mức đầu tư gần 4.000 tỷ VND; ngày
19/07/2009, Nhà máy cán thép Thái Trung
công suất 500.000 tấn/năm với công nghệ hiện
đại của Italia đã được khởi công xây dựng,
nhằm mục tiêu đến khi hoàn thành dự án nâng
năng lực sản xuất phôi thép và thép cán từ
nguyên liệu trong nước lên 1.000.000 tấn/năm,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường và đưa
TISCO trở thành một trong những nhà sản xuất
thép có quy mô, công nghệ và thiết bị tiên tiến