TIỂU LUẬN:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN
HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ
PHÁT TRIỂN VĂN HÓA, THỰC HIỆN TIẾN BỘ VÀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Trong bài viết này, tác giả đã phân tích 6 vấn đề bức xúc cần chú ý trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Đó là, 1/ Phải quan tâm tới thực trạng
kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của đất nước trong mối tương quan với các
nước khác; 2/ Phải chú ý tới các hệ hình tư duy gắn với những lợi ích; 3/ Vấn đề
gia tăng dân số và các hệ luỵ của nó; 4/ Vấn đề giáo dục; 5/ Vấn đề cơ chế thị
trường. Theo tác giả, các vấn đề này đặc biệt quan trọng cả về mặt lý luận lẫn về
mặt thực tiễn, gắn liền với việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”.
Tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là
những mục tiêu về kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội rất quan trọng trong quá
trình chúng ta xây dựng lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, nhà nước và nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa. Các mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng
ta đã lựa chọn cách thức phát triển kinh tế và văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội bằng phương thức công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đất
nước. Đây là cách thức phát triển xã hội chung của các nước đang và kém phát
triển. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa ở những nước
đang và chậm phát triển có những sắc thái rất khác nhau do quá khứ lịch sử, quá
khứ ruộng đất, thể chế chính trị và bản sắc văn hóa tạo nên. Nước ta thực hiện tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội dưới sự
lãnh đạo của một Đảng, duy nhất một Đảng mácxít, từ một quá khứ ruộng đất rất
nhỏ lẻ, manh mún, từ một lịch sử dân tộc đoàn kết và nhiều võ công, từ những
cuộc chiến lớn bước vào cơ chế thị trường trong một thế giới đang cam kết hội
nhập... Tất cả những đặc điểm ấy đã đặt ra nhiều vấn đề mà chúng ta cần chú ý
trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thông qua giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.(*)
Vấn đề thứ nhất là phải quan tâm tới thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội và văn
hóa của chúng ta hiện nay trong tương quan với các nước đang phát triển và phát
triển trong khu vực cũng như ngoài khu vực. Vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn và ý
nghĩa lý luận rất sâu sắc để chúng ta biết mình đang ở đâu trong thế giới này,
chúng ta cần đặt mục tiêu cho sự phát triển đến đâu và thời gian để thực hiện mục
tiêu ấy là bao lâu để tránh sự khái quát lý luận không phù hợp với thực tiễn của
quá trình phát triển.
Sự thật thì về điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng, thu nhập bình quân tính theo đầu
người... chúng ta còn nghèo, thậm chí có những mặt, những vùng còn rất nghèo so
với ngay các nước đang phát triển ở khu vực Mỹ Latinh, ở Trung Đông, hoặc một
số nước châu Phi. Quá khứ ruộng đất của nước ta rất manh mún, điều đó đòi hỏi
phải có một hệ hình tư duy mới mới có thể đưa nền nông nghiệp lạc hậu lên sản
xuất hàng hóa. Kỹ thuật cổ điển trong nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng rất lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Phải có nhiều tiền, phải có vốn liếng khổng lồ mới
nâng năng suất nông nghiệp lên được và thu hẹp thành phần nông dân lại để
chuyển vào khu vực công nghiệp.
Ở nước ta hiện nay, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn
có sự chênh lệch rất lớn làm chậm trễ sự tiến bộ xã hội và đặt ra rất nhiều vấn đề
cho công bằng xã hội. Đô thị hóa, các doanh nghiệp công nghiệp phát triển, người
nông dân mất ruộng, mất đất, không có việc làm ùa vào đội quân thất nghiệp của
thành phố, hình thành những chợ lao động mới giữa thủ đô và một số đô thị lớn,
làm cản trở sự tiến bộ xã hội, tạo nên những phản văn hóa to lớn kìm hãm tăng
trưởng kinh tế...
Có thể nói, khi đề ra các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội, trước hết chúng ta cần đánh giá thực trạng từng lĩnh
vực ấy cũng như các mối quan hệ khách quan và tất yếu giữa chúng. Đánh giá
thực trạng không phải chỉ nhìn vào mặt yếu kém mà chủ yếu trên quan điểm nguồn
lực, tạo nguồn.Chúng ta cần nhận thức rằng có lĩnh vực còn nhiều tiềm năng mà
thực tiễn của chúng ta chưa bộc lộ hoặc trong tương quan và ở các quan hệ này nó
chưa bộc lộ, không thể bộc lộ hay chưa có điều kiện chín muồi để bộc lộ; ngược
lại, có thể trong mối quan hệ khác, tương quan khác, nó lại bộc lộ. Không ít vấn đề
đã được thổi phồng lên như một nguồn lực lớn, nguồn lực tự nhiên, nguồn tài sản
cha ông cho... cứ thế mà khai thác đến cạn kiệt. Người ta đã hối hả dùng hàng trăm
thứ chất nổ, hoá chất để tạo ra những sản phẩm từ đất, từ rừng, từ biển, ao, hồ, sông
suối. Tập quán sản xuất mới này đã gây hậu quả là hoá chất không chỉ ngấm đầy
mặt đất, nguồn nước chuyển hoá vào thực phẩm mà còn là những rác thải công
nghiệp, y tế có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của các cộng đồng dân cư. Điều đó
làm mất cân bằng sinh thái khi chúng ta giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế và
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong giai đoạn lịch sử
mới. Nhiều người đã ngủ say và mơ mộng về những chiến công của cha ông, những
“tiền rừng, biển bạc” do thiên nhiên ưu đãi, yên ổn với các giá trị truyền thống, giữ
gìn mồ mả, đất đai của tổ tiên; do đó, họ đã mơ về “bao giờ cho đến cái ngày
xưa”!... Có rất nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khi chúng ta
bắt đầu nhận diện thực trạng từng lĩnh vực vàmối quan hệ giữa các lĩnh vực
ấy ngay ngày hôm nay gắn liền với ngày hôm qua.
Vấn đề thứ hai cần quan tâm khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
phát triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là phải chú ý đến các hệ
hình tư duy gắn với những lợi ích. Lợi ích địa phương, lợi ích tín ngưỡng, lợi ích thế
hệ. Mỗi hệ hình tư duy lại quan niệm về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội rất khác nhau.
Trước hết, chúng ta cần chú ý việc giải quyết mối quan hệ này liên quan đến nhận
thức về các vấn đề xoay quanh phạm trù truyền thống và hiện đại. Có rất nhiều ý
kiến và quan điểm khác nhau về tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội liên quan tới việc gìn giữ các giá trị truyền thống và
phát triển cái hiện đại. Có ý kiến duy nhất hóa sự tăng trưởng kinh tế, cho rằng
muốn công bằng xã hội thì kinh tế phải giàu có. Kinh tế cũng là thước đo văn hóa và
tiến bộ xã hội. Quan điểm này dẫn đến cứ tăng trưởng lực lượng sản xuất tức khắc
văn hóa phải phát triển theo và công nghệ phát triển thì tiến bộ xã hội sẽ được thực
hiện. Sản phẩm xã hội nhiều thì tất mọi người sẽ được chia phần.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa Ở nước ta hiện nay, một
số người nhân danh khoa học kỹ thuật, nhân danh sự phát triển tương lai của dân
tộc, họ rất ít chú ý đến truyền thống. Họ hướng sự phát triển đất nước theo con
đường các nước tư bản công nghiệp. Từ đó nảy sinh sự bất bình đẳng chính kiến,
có sự va chạm mạnh các chuẩn mực và giá trị văn hóa, làm mất công bằng xã hội.
Có một tình hình ngược lại, một số người đã nhân danh việc gìn giữ các giá trị
truyền thống, họ ra sức bảo tồn từng tấc đất, phong tục tập quán, mồ mả của cha
ông cản trở công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế. Thực tế này những
năm qua chúng ta đã gặp các hệ hình tư duy của doanh nhân công nghiệp và hệ
hình tư duy của những người tiểu nông. Những doanh nhân này muốn lấy đất đai
của nông dân để phát triển công nghiệp bằng mọi giá, không cần biết tương lai của
người nông dân sẽ ra sao. Ngược lại, chúng ta cũng bắt gặp những người nông dân
giữ lại đất đai của mình bằng mọi giá, không quan tâm đến lợi ích của doanh
nghiệp, của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có một hệ hình tư duy khác xuất phát từ các tín ngưỡng, các niềm tin tôn giáo đã
đặt lợi ích của tín ngưỡng lên trên luật pháp và tiến bộ xã hội, phát triển văn hóa.
Do có sự giảm quyền lực của các lãnh tụ tinh thần địa phương, do chưa nắm vững
luật pháp nhà nước, do nhận thức không đúng về tự do và tất yếu trong lĩnh vực
tiến bộ và công bằng xã hội mà đã tạo ra những xung đột văn hóa. Đó là chưa kể
đến các thế lực bên ngoài vì những lợi ích đen tối đã làm rối loạn mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở
nước ta.
Chung quanh những vấn đề về nhận thức gắn với các lợi ích khi giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội cần phải chú ý đặc biệt đến vấn đề thế hệ. Giữa thế hệ trẻ và thế hệ già
ở nước ta tuy không có mâu thuẫn, nhưng có khác biệt. Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tăng trưởng kinh tế, toàn cầu hóa và hội nhập là cơ hội thăng tiến lớn của thế
hệ trẻ. Thế hệ trẻ là những người chủ tương lai của nước nhà. Họ là nguồn lực to
lớn phát triển văn hóa và kinh tế cũng như tiến bộ xã hội. Vấn đề công bằng xã hội
phải được giải quyết trên cơ sở cống hiến và hưởng thụ. Không thể giải quyết theo
quan điểm gia trưởng. Phải tin tưởng mạnh mẽ vào thế hệ trẻ mới giải quyết tốt
đẹp mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng
xã hội. Thực tế hiện nay có một bộ phận giới trẻ quan niệm chưa đúng đắn về bản
sắc dân tộc của văn hóa, chưa quan tâm đến các giá trị truyền thống, chưa đưa văn
hóa vào trong phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải quan tâm sâu sắc
đến bộ phận này khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển
văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội.
Một vấn đề lớn của nhận thức được đặt ra khi giải quyết mối quan hệ này là phải đặt
vào thực tiễn quá khứ chiến tranh ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh khốc liệt ở Việt Nam
đã làm nhiều gia đình không còn sức lao động tham gia phát triển kinh tế. Nhiều gia
đình có thương binh, liệt sĩ, có người bị nhiễm chất độc da cam mà xã hội phải giúp
đỡ nhân đạo. Để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội,
chúng ta phải có một chính sách đặc biệt đối với các đối tượng này.
Vấn đề thứ ba đặc biệt quan trọng là vấn đề gia tăng dân số và các hệ lụy từ
nó trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tính đến năm 2008, dân số của chúng ta là
85 triệu người. Mặc dù chúng ta đã kiềm chế được mức sinh 1,2%/năm, nhưng so
với phát triển kinh tế thì mức sinh vẫn cao. Trong tổng kết điều tra dân số và nhà ở
năm 2009, Việt Nam có một tỷ lệ dân số vàng, nghĩa là số người đến tuổi lao động
gấp đôi những người ngoài tuổi lao động. Sự thật thì tỷ lệ ấy chưa nói lên điều gì
khi mà kỹ năng lao động của những người đến tuổi lao động rất thấp. Tăng dân số,
miệng ăn nhiều, đất đai vẫn vậy. Đất đai đã nhỏ lẻ, dân số mỗi gia đình nông dân
tăng lại chia nhỏ ra mãi. Khu vực nông nghiệp đã kém phát triển, nay lại bổ sung
thêm một đội quân đông hơn, thiếu đất đai, thiếu việc làm. Sự gia tăng dân số
trong khu vực nông nghiệp gắn với nhiều hủ tục văn hóa, không những không
phản ánh sự tiến bộ xã hội mà còn tạo ra nhiều sự không công bằng trong giáo dục
và y tế. Nhà đông con, xã hội phải lo trường học và chữa bệnh.
Nghịch lý thay, để tăng trưởng kinh tế chúng ta đang cần rất nhiều lao động có kỹ
năng để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhưng số người thất nghiệp, số
người dôi dư trong lao động không chỉ đặt vấn đề chúng ta phải lo công ăn việc
làm mà còn an ninh xã hội. Nạn đề đóm, hút hít, trộm cắp có cội nguồn từ nạn thất
nghiệp. Vấn đề đặt ra cho tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội là chúng ta phải có một chính sách kiểm soát quyết liệt đối
với việc gia tăng dân số. Ở Trung Quốc, chính sách mỗi gia đình chỉ có một con
được thực hiện rất nghiêm ngặt tạo đà cho kinh tế, văn hoá và xã hội Trung Quốc
vươn lên mạnh mẽ.
Vấn đề thứ tư là vấn đề giáo dục. Chúng ta vẫn nói, giáo dục là quốc sách hàng
đầu, bởi giáo dục quyết định tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ xã hội
và thể hiện sự công bằng trong các cơ hội phát triển con người.
Tầm quan trọng của giáo dục đối với tăng trưởng kinh tế là hết sức rõ ràng. Nền
giáo dục mạnh thể hiện sự giàu có của đất nước. Các quốc gia giàu có nhất là các
quốc gia đã đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Tất cả các nước tiên tiến đều đầu tư cho
giáo dục đi trước hàng thập kỷ phát triển công nghiệp. Ở Nhật Bản, một nửa dân
số nam giới đã được nâng cao học vấn trước khi công nghiệp hóa hàng thế hệ.
Ngay từ năm 1840, ở Hoa Kỳ có tới 90% người da trắng được học hành tử tế.
Những quốc gia thành công trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế
do ưu tiên giáo dục khoa học tự nhiên và giáo dục hợp lý khoa học xã hội và khoa
học nhân văn.
Giáo dục cũng liên quan mật thiết đến phát triển văn hóa. Từ ghế nhà trường,
người ta gìn giữ bản sắc dân tộc của văn hóa bằng sự truyền thụ những giá trị văn
hóa của dân tộc, lớp trẻ được tiếp xúc một cách bài bản, khoa học với nhiều nền
văn hóa quốc tế. Ngôn ngữ, văn học, nghệ thuật, cả các tri thức dân tộc học, xã hội
học… đã tăng cường mối quan hệ giữa văn hóa dân tộc và các giá trị văn hóa của
loài người tiến bộ.
Giáo dục là nơi truyền đạt các tri thức tiến bộ và đề xuất, phân tích, nghiên cứu các
mô hình tiến bộ xã hội... Thông qua giáo dục, người ta có thể lựa chọn những mô
hình phù hợp với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Giáo dục còn là nơi dạy dỗ
đạo lý làm người, tình cảm đồng loại và những chuẩn mực công bằng xã hội và
đặc biệt là đào tạo nhân tài. Vì thế, khi giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nhất thiết chúng
ta phải quan tâm toàn diện, triệt để và liên tục đến giáo dục.
Hiện nay, dân số của chúng ta tăng nhanh hơn rất nhiều so với những cơ sở giáo dục.
Nhân dân đang rất cần trường sở có chất lượng cho con em họ học tập từ nhà trẻ, lớp
vỡ lòng đến tiểu học, trung học, đại học và sau đại học. Tuy chúng ta đã coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu, nhưng giáo dục vẫn không đủ nguồn tài chính kịp thời đáp ứng
với việc tăng dân số. Hệ thống trường sở, cơ sở vật chất cho giáo dục đã rất cũ kỹ, lạc
hậu. Ở vùng xa, vùng sâu, ở vùng nông thôn rộng lớn, các cơ sở vật chất của giáo dục
đã xuống cấp nghiêm trọng cần một nền tài chính lớn để xây dựng lại.
Cùng với việc thiếu cơ sở giáo dục, sự xuống cấp về trường sở, nền giáo dục của ta
rất cổ điển. Người ta thường nói rằng, giáo dục ở Việt Nam thừa thầy, thiếu thợ.
Thực tế cho thấy, thầy giỏi đang rất thiếu, do đó chưa đào tạo được nhiều trò giỏi.
Chương trình giáo dục các cấp của chúng ta liên tục thay đổi nhưng vẫn không đáp
ứng được những đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước. Sự nghiệp nâng cao dân
trí, phát triển đất nước không chỉ cần những kiến thức cơ bản mà còn cần cập nhật
và ứng dụng. Đội ngũ đi giáo dục cần phải được đào tạo lại cho phù hợp với thực
tiễn phát triển của dân tộc và thế giới. Có thầy giỏi mới có trò giỏi. Ta thường nói
chúng ta học hay vì bằng cấp mà ít quan tâm đến thực chất. Nhưng sự thật bằng
cấp của chúng ta cũng không đủ để nền giáo dục quốc tế thừa nhận các giá trị.
Hiện nay, trong giáo dục ở nước ta có tình hình bằng thật mà học giả. Có rất nhiều
người trong các cấp học chưa nắm vững chương trình mình theo học. Đầu vào chất
lượng kém, do đó không thể đào tạo tốt được. Không đào tạo tốt nên đầu ra chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển đất nước.
Thực tiễn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội đòi hỏi hệ thống giáo dục tự điều chỉnh và dự báo để
đáp ứng với cơ cấu giáo dục. Chúng ta cần bao nhiêu những người nghiên cứu
khoa học xã hội và nhân văn? Chúng ta cần bao nhiêu những lao động có các trình
độ khác nhau về khoa học tự nhiên và kỹ thuật? Điều đó có ý nghĩa chiến lược
không chỉ cho phát triển chính ngành giáo dục, mà còn cho phát triển kinh tế - xã
hội của quốc gia.
Cần có ngay một cuộc cách mạng trong giáo dục trên toàn bộ các khâu từ trường
sở đến nội dung giáo trình, giáo án, kế hoạch và chỉ tiêu đào tạo thầy giáo và học
sinh cũng như mọi vấn đề liên quan đến giáo dục mới có thể đáp ứng được nhu cầu
phát triển đất nước và nâng cao thu nhập quốc dân, phát triển văn hóa, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội. Hiện nay, chúng ta đang ra sức xã hội hóa giáo
dục để giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước. Tuy nhiên, xã hội hóa tràn lan thì chất
lượng đào tạo không cao và sự nghiệp trồng người của chúng ta mang dáng dấp
những dịch vụ thương mại. Phải kiểm soát quá trình xã hội hóa này một cách chặt
chẽ và nghiêm túc, bởi nó có ảnh hưởng to lớn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế,
phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Vấn đề quan trọng thứ năm trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là vấn đề cơ chế
thị trường.Hiện nay, chúng ta thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị hóa
để tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ xã hội trong điều kiện
kinh tế thị trường. Dù chúng ta đã định hướng xã hội chủ nghĩa thì cơ chế thị
trường vẫn là cơ chế thị trường. Sức mạnh của cơ chế thị trường dù có sự can thiệp
của nhà nước thì hiệu quả kinh doanh vẫn là chủ yếu. Các vòng quay lợi nhuận
không quan tâm đến người nghèo, người giàu, đến tiến bộ xã hội, công bằng xã hội
và sự cân bằng các giá trị văn hóa. Lợi nhuận là một nguyên tắc tuyệt đối cứng
trong cơ chế thị trường. Do lợi nhuận và lợi nhuận cao, có thể các lực lượng ngang
nhau trên sân chơi thương mại phải tạo được thế quân bình để duy trì sự vận động
của các lợi ích. Tuy nhiên, cuối cùng vẫn có người được, người mất. Và trong cơ
chế thị trường thì người ta mong được lớn, được tối đa; do đó, không thể xác lập
được sự công bằng toàn diện.
Vẫn biết cơ chế thị trường nào cũng không thể có tự do vô hạn độ, song chiều sâu
nhất của cơ chế thị trường vẫn phải chấp nhận sự bất bình đẳng, sự bất công, chấp
nhận kẻ mạnh thì được, kẻ yếu thì thua, nó rất ít quan tâm đến trình độ nhân tính của
văn hóa, gìn giữ các giá trị truyền thống. Nhiều nhà triết học có tâm huyết hiện nay
đều thừa nhận rằng, quy luật kinh tế thị trường thử thách gay gắt sự tăng trưởng kinh
tế, tàn phá dữ dội những giá trị văn hóa tốt đẹp, thúc đẩy chủ nghĩa thực dụng, tạo ra
sự phân tầng xã hội to lớn làm mất công bằng sâu sắc giữa các khu vực, các tầng lớp
trong xã hội. Phải nói rõ hơn, các thị trường tài chính, ngân hàng, chứng khoán, lao
động, vay nợ nước ngoài, các làn sóng xuất khẩu, đầu tư, tin học của quá trình toàn
cầu hóa đã mang lại cơ hội lớn để chúng ta giải quyết các vấn đề lợi ích quốc gia, lợi
ích dân tộc, lợi ích quốc tế, lợi ích cá nhân... Song, chính cái thị trường ấy cũng chứa
đầy những hiểm nguy có thể đe dọa sự tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, làm
rối loạn sự tiến bộ và công bằng xã hội bởi những sự mất mát, những đổ vỡ, những
nô dịch, tha hóa vô nhân đạo.
Rõ ràng, vấn đề tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển văn hóa tốt đẹp, thực hiện
công bằng và tiến bộ xã hội thành công không chỉ là vấn đề của lực lượng sản
xuất, vấn đề lao động, thu nhập bình quân, mà còn có liên hệ bản chất tới chế độ
xã hội, đến chính sách làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài
nguyên trong tay một tầng lớp nhỏ đặc quyền của xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, cơ
chế thị trường mới vận hành chưa đầy 25 năm nhưng đã có rất nhiều vấn đề đặt ra
cho cả tăng trưởng kinh tế lẫn phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội. Vì
sao cơ cấu lao động đơn giản trong nông nghiệp của chúng ta còn lớn đến như
vậy? Vì sao nhiều nghề lao động đơn giản lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao
động phức tạp. Vì sao nhiều sản phẩm lao động trí óc phức tạp vẫn chưa có thị
trường? Có thể nói, chúng ta chưa xác lập được một hệ chuẩn khoa học điều chỉnh
sự cân bằng ngay trong phạm vi mỗi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, tiến bộ và công
bằng xã hội. Chúng ta đã coi văn hóa là nền tảng tinh thần của sự phát triển xã hội,
nhưng trong cơ chế thị trường hiện nay, cái hệ chuẩn mực, cái khung giá trị của nền
tảng tinh thần ấy được xác định như thế nào? Đó chính là vấn đề quan trọng đặt ra
để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công
bằng xã hội.
Do chưa có một hệ chuẩn mực đúng, một khung giá trị đủ bao quát các lĩnh vực
quan trọng của đời sống mà trong mọi lĩnh vực còn xảy ra tình trạng vô chuẩn,
không tạo được mối liên hệ nội tại phổ biến trong tăng trưởng kinh tế, phát triển văn
hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Để thực hiện và giải quyết tốt đẹp mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội,
nhất định chúng ta phải xây dựng môi trường xã hội chủ nghĩa trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với một hệ chuẩn và một khung giá trị thật tiến
bộ. Chỉ có môi trường này với sự định hướng tích cực của nhà nước xã hội chủ
nghĩa thì các song đề phát triển kinh tế, văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội mới
được định hướng mạnh mẽ theo hướng nhân đạo hóa, vì một chủ nghĩa nhân văn
cao cả, vì những giá trị của con người và từ định hướng đó, “sự phát triển tự do của
mỗi người trong sự phát triển tự do của tất cả mọi người” mới được thực hiện.
Cùng với các vấn đề xây dựng một hệ chuẩn mực và những khung giá trị, việc giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội còn đòi hỏi phải quan tâm đến vấn đề chống tham nhũng. Vấn
đề này được dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng, văn kiện của
Đảng đề cập liên tục. Có tham nhũng lớn thì kinh tế không thể phát triển bền vững,
có tham nhũng rộng thì không thể nói xã hội có sự phát triển văn hóa, có tham
nhũng sâu thì không thể nói có tiến bộ và công bằng xã hội được.
Có thể nói, để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội có rất nhiều vấn đề cần phải chú ý. Trong
bài này, chúng tôi chỉ nêu lên 6 vấn đề. Những vấn đề đó có nội hàm rất rộng cả về
lý luận lẫn thực tiễn và liên quan tới rất nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Các vấn đề này gắn liền với việc thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh; đồng thời, là giải pháp trực tiếp để giải quyết tốt
đẹp mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội.q
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN HỆ THỐNG AN SINH XÃ HỘI – MỘT
CÔNG CỤ QUAN TRỌNG NHẰM THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA
PHẠM THỊ NGỌC TRẦM (*)
Bài viết đã luận chứng nhằm làm rõ rằng, hệ thống an sinh xã hội mạnh là một công cụ
quan trọng góp phần thực hiện công bằng xã hội. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
an sinh xã hội có vai trò và ý nghĩa to lớn đối với mỗi cá nhân cũng như cộng đồng và
toàn thể xã hội. Tác giả bài viết đã trình bày các khái niệm an sinh xã hội và hệ thống an
sinh xã hội; phân tích việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội trên các mặt:
cấu trúc (các hợp phần cơ bản), chức năng, nhiệm vụ, các thể chế và nguyên tắc cơ bản
của hệ thống, coi đó là một nhiệm vụ cấp bách và thiết thực nhằm thực hiện công bằng
xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho mọi người dân, sự ổn định và phát triển bền vững
của xã hội.
1. Công bằng xã hội là một khái niệm mang tính tổng hòa nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, dùng để chỉ sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người và
người theo nguyên tắc phân phối lợi ích (cả vật chất lẫn tinh thần) phù hợp giữa
cống hiến và hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa thưởng và phạt…, đồng
thời với việc thực hiện phân phối theo phúc lợi xã hội và an sinh xã hội.
Tuy nhiên, để công bằng xã hội có thể trở thành hiện thực cần phải có những điều
kiện cụ thể trong nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội đến văn hóa, giáo
dục… Trên bình diện chung, những điều kiện quan trọng nhất để tiến tới công
bằng xã hội hiện nay ở nước ta là phải thực hiện sự bình đẳng xã hội, phân phối
theo phúc lợi xã hội và xây dựng, hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống an
sinh xã hội vừa là công cụ đắc lực làm giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội, vừa
là phương tiện chuyển tải và thực hiện những chính sách xã hội của Nhà nước và
cộng đồng đến người dân nhằm thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho mọi người, sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.(*)
2. Mối quan hệ giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Về mặt khái niệm,
công bằng xã hội và bình đẳng xã hội rất gần nhau, vì chúng đều là sự ngang bằng
nhau giữa người với người. Tuy nhiên, nếu bình đẳng xã hội là sự ngang bằng
nhau giữa người với người về một phương diện nào đó của cuộc sống, chẳng hạn
như về chính trị, kinh tế, văn hóa, v.v. hoặc về mọi phương diện (bình đẳng xã hội
toàn diện), thì công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người với người chỉ
về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và
hưởng thụ, giữa nghĩa vụ và quyền lợi. Như vậy, công bằng xã hội chỉ là một
dạng, một trường hợp đặc biệt của bình đẳng xã hội, là một quyền của con người
sống trong xã hội như các quyền được sống, được độc lập, tự do…, được hưởng
hạnh phúc, v.v.. Công bằng xã hội không phải là một quyền của con người nghiễm
nhiên được hưởng, nếu không có cống hiến tài năng và sức lực của mình dưới mọi
hình thức lao động (lao động chân tay, lao động trí óc), trừ những người đã già
yếu, những người bị bệnh tật hiểm nghèo, bị tật nguyền bẩm sinh, trẻ em chưa đến
tuổi lao động và các loại cống hiến khác như vốn, tài sản, tư liệu sản xuất. Để có
được công bằng xã hội cần phải có những điều kiện cụ thể, bắt buộc, trước tiên là
quyền bình đẳng. Chẳng hạn, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, tuy
đang đồng thời tồn tại nhiều thành phần kinh tế từ cá thể, liên doanh với nước
ngoài, hợp tác xã đến các doanh nghiệp nhà nước, nhưng về nguyên tắc, tất cả
đều bình đẳng với nhau trong sản xuất, kinh doanh trong giới hạn của luật pháp
hiện hành; mọi công dân, mọi thành phần kinh tế đềucó quyền bình đẳng với nhau
trước pháp luật; mọi người đều có quyền bình đẳng trong sáng tác và hưởng thụ
văn hóa, nghệ thuật, nếu điều đó không vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục và
đặc biệt là luật pháp, v.v..
Bình đẳng được coi là một quyền của con người sống trong xã hội. Tuy nhiên,
quyền bình đẳng cũng như nhiều quyền khác của con người không phải lúc nào
cũng được thực hiện một cách đầy đủ, mà nó phụ thuộc rất chặt chẽ vào trình độ
phát triển của xã hội, và hơn thế, cũng không bao giờ được thực hiện một cách vô
hạn định. Trong Phê phán cương lĩnh Gôta, C.Mác đã viết: “Quyền không bao giờ
có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do
chế độ kinh tế đó quyết định”(1). “Quyền” ở đây được hiểu là quyền lợi, lợi ích cả
vật chất lẫn tinh thần.
Như đã nói ở trên, công bằng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa người và người
chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực hoàn toàn xác định – lĩnh vực mối quan hệ
giữa cống hiến và hưởng thụ, nghĩa vụ và quyền lợi. Do đó, thực hiện công bằng
xã hội là giải quyết đúng đắn, thỏa đáng, hợp lý mối quan hệ này, làm sao để sự
hưởng thụ hay những quyền lợi mà con người được hưởng phải phù hợp với những
cống hiến của họ cả về vật chất lẫn tinh thần, đó chính lànguyên tắc cống hiến
ngang nhau thì được hưởng thụ bằng nhau hay nguyên tắc trả ngang giá. Cũng cần
phải xác định rằng, sự ngang bằng nhau ở đây không thể tuyệt đối, mà chỉ là tương
đối. Ngoài ra, để công bằng xã hội được thực thi cần phải tuân theo một nguyên tắc
quan trọng khác, đó là nguyên tắc tự nguyện của công bằng xã hội. Nguyên tắc này
quan hệ chặt chẽ với nội dung quan trọng nhất của công bằng xã hội – nội dung về
sự phân phối lợi ích cho người lao động theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì
hưởng thụ bằng nhau.
Trong nội dung phân phối của công bằng xã hội còn có một kiểu phân phối khác
không hoàn toàn tuân theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ bằng
nhau, đó là sự phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Kiểu phân phối này rất gần
hay cũng có thể nói, gắn liền với sự bình đẳng xã hội. Nếu như phân phối theo
nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ bằng nhau, tức là phân phối theo
lao động, theo nguồn vốn và theo các nguồn lực khác, lấy hiệu quả kinh tế, giá trị
và vật chất cụ thể làm thước đo để phân phối, thì phương thức phân phối thông qua
phúc lợi xã hội lại quan tâm chủ yếu đến hiệu quả xã hội, đến giá trị nhân đạo.
Chính điều này làm cho phương thức phân phối theo phúc lợi xã hội gần gũi hơn
với bình đẳng xã hội về phương diện kinh tế và xã hội.
Tiền đề cơ bản và quan trọng để thực hiện công bằng xã hội là sự bình đẳng về cơ
hội cho tất cả mọi người trong cống hiến (được lao động dưới mọi hình thức) để
có thể có được sự hưởng thụ những lợi ích về vật chất và tinh thần phù hợp với
cống hiến đó. Trong Văn kiện Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã viết:
“Công bằng xã hội thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu
phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát
triển và sử dụng tốt năng lực của mình”(2); trong Văn kiện Đại hội X ghi rõ: “Tạo
điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển” (tác giả nhấn
mạnh)(3).
Việc tạo cơ hội tiếp cận bình đẳng với các điều kiện và nguồn lực phát triển thực
sự là tiền đề, nền tảng cần thiết cho mọi thành viên trong xã hội không phân biệt
đẳng cấp, dân tộc, tôn giáo, vùng, miền đều có thể được hưởng sự công bằng xã
hội bằng chính sức lực và tài năng của mình. Càng giảm thiểu sự bất bình đẳng xã
hội trong việc tiếp cận với các điều kiện và nguồn lực phát triển cũng như các dịch
vụ xã hội (dịch vụ công) thì càng có nhiều cơ hội thuận lợi để thực hiện công bằng
xã hội.
Vậy, làm thế nào để có thể giảm thiểu sự bất bình đẳng xã hội nhằm thực hiện
ngày càng tốt hơn sự công bằng xã hội? Một trong những phương thức quan trọng
và hữu hiệu nhất nhằm giải quyết mối quan hệ giữa giảm thiểu sự bất bình đẳng xã
hội với việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay là xây dựng và hoàn
thiện hệ thống an sinh xã hội.
3. An sinh xã hội và hệ thống an sinh xã hội ở nước ta.
An sinh xã hội được hiểu là sự bảo đảm an toàn cho cuộc sống của tất cả mọi
thành viên trong xã hội trong việc đối phó với các nguy cơ, rủi ro đến với con
người từ thiên nhiên (bão lũ, hạn hán,…) và từ xã hội (sự suy thoái kinh tế; tai
nạn giao thông, tai nạn nghề nghiệp; ốm đau, bệnh tật hiểm nghèo; bị các dị tật bẩm sinh; các dịch bệnh).(2)
Trên bình diện chung, hệ thống an sinh xã hội ở nước tađược hiểu là một hệ thống
các cơ chế, chính sách, các giải pháp công nhằm trợ giúp mọi thành viên trong xã
hội đối phó với các rủi ro, các hiểm nguy do các nguyên nhân kinh tế, xã hội và
môi trường tự nhiên mang đến cho con người, gây ra những hậu quả tiêu cực làm
mất an toàn đối với cuộc sống của họ và sự phát triển bền vững của xã hội. Về mặt
kinh tế, những rủi ro có thể là do sự suy thoái hoặc sự phát triển “quá nóng” của
nền kinh tế, khiến cho nhiều thành viên trong xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn,
túng thiếu vì mất việc làm hay giảm mức thu nhập thường xuyên; giá cả tăng cao
nhanh chóng, nhất là giá những mặt hàng thiết yếu, như lương thực, thực phẩm,
xăng dầu… Những rủi ro về mặt xã hội có thể là do những mâu thuẫn, những xung
đột trong dân chúng gây hậu quả nghiêm trọng về người và của cho các gia đình
nạn nhân; do bệnh tật hiểm nghèo và các bệnh nghề nghiệp, do các dịch bệnh; do
tuổi già sức yếu không có nơi nương tựa; sự kém may mắn, thiệt thòi của một bộ
phận dân cư sống ở những vùng, miền có các điều kiện kinh tế - xã hội kém phát
triển như ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo hay những người bị những dị
tật bẩm sinh… Những rủi ro, sự cố do biến động của môi trường thiên nhiên (bão
lũ, lốc xoáy, sạt lở đất, nắng hạn, giá rét kéo dài) đến với con người ngày càng
thường xuyên hơn, gay gắt hơn và thiệt hại cũng nặng nề hơn.
Đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách, những rủi ro hiểm nguy luôn rình rập,
đe dọa cuộc sống của con người, mỗi thành viên trong xã hội không thể tự thân
vận động để đối phó và giải quyết chúng, mà còn rất cần đến sự hỗ trợ của cộng
đồng theo tinh thần “một người vì mọi người, mọi người vì một người”, dưới sự
quản lý, điều hành, trợ giúp của Nhà nước thông qua một hệ thống các cơ chế,
chính sách, các giải pháp công. Các hệ thống chính sách thuộc lĩnh vực an sinh xã
hội có mối quan hệ gắn bó, chặt chẽ với nhau, chúng sẽ tạo ra nhiều tầng, nhiều
nấc nhằm bảo vệ các thành viên trong xã hội phòng tránh sự tác động tiêu cực,
không mong muốn của các tai họa từ cả nền kinh tế, xã hội lẫn tự nhiên, để họ
không bị lâm vào tình trạng bần cùng hóa. Nếu hệ thống các chính sách an sinh xã
hội được thực hiện một cách đồng bộ, phổ biến, đầy đủ sẽ là cơ hội tốt nhất giúp
mọi thành viên trong xã hội đều có điều kiện tiếp cận bình đẳng với các nguồn lực
phát triển, các dịch vụ xã hội, từ đó tạo tiền đề cho việc thực hiện công bằng xã hội
trong một xã hội còn nhiều khó khăn như Việt Nam hiện nay.
4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
* Về mặt cấu trúc, hệ thống an sinh xã hội được tạo thành từ một số hợp phần cơ
bản sau đây:
Một là, các chương trình và chính sách bảo hiểm xã hội với nhiệm vụ huy động sự
tích góp một phần thu nhập của các thành viên trong xã hội lúc bình thường để
dành chi tiêu khi gặp khó khăn, rủi ro, như bị thất nghiệp; tai nạn lao động, nghề
nghiệp; ốm đau, già yếu không còn khả năng lao động… Vì vậy, trong bảo hiểm
xã hội bao gồm cả bảo hiểm y tế, bảo hiểm con người (nhân thọ), bảo hiểm rủi ro,
tai nạn lao động (bảo hiểm nghề nghiệp), bảo hiểm thất nghiệp và một số hình thức
bảo hiểm khác nhằm đảm bảo cho con người có được một cuộc sống an toàn theo
nghề nghiệp chuyên môn hay theo những hình thức lao động mình đã lựa chọn.
Hai là, chương trình và chính sách ưu đãi xã hội. Đây là hình thức bảo đảm cuộc
sống của những người đã có công với cách mạng trong các cuộc kháng chiến trước
đây, như các thương binh, gia đình liệt sĩ, các mẹ Việt Nam anh hùng, giúp họ có
mức sống ít nhất trên trung bình so với mức sống chung của toàn xã hội. Cống
hiến của họ vì lợi ích chung cần phải được ghi nhận và đền đáp một cách thỏa
đáng và họ hoàn toàn xứng đáng được hưởng điều đó.
Ba là, chương trình và chính sách trợ cấp xã hội. Đó là những chính sách nhằm trợ
giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội, như người tàn tật, cô
đơn, trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ; trợ cấp cho những người làm việc trong
môi trường độc hại hay nguy hiểm; trợ cấp thai sản cho phụ nữ trong thời gian sinh
con theo qui định; trợ cấp đào tạo nghề cho những người đặc biệt khó khăn; trợ
cấp cho những người, những vùng bị thiên tai tàn phá, dịch bệnh hoành hành.
Bốn là, chương trình và chính sách tương trợ xã hội và cứu tế xã hội nhằm mục
tiêu quan trọng nhất là xóa đói giảm nghèo. Giải phóng con người khỏi đói nghèo
là một trong những nội dung quan trọng và thiết thực nhất của an sinh xã hội.
Trong các chính sách tương trợ xã hội và cứu tế xã hội, Nhà nước với tư cách
người quản lý sẽ tạo điều kiện cho người nghèo, những người gặp rủi ro, bất hạnh
trong xã hội có cơ hội tiếp cận bình đẳng đối với những nguồn lực phát triển và
dịch vụ xã hội, như được vay vốn để làm ăn, được hưởng các quyền lợi về chăm
sóc sức khỏe, giáo dục đào tạo… để họ tự vươn lên thoát đói nghèo bằng chính sức
lực của mình.
Các chương trình và chính sách trong hệ thống an sinh xã hội có mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ với nhau giống như những lớp tường rào nhiều tầng, nhiều lớp bảo vệ
các thành viên trong xã hội không để họ rơi vào tình cảnh bần cùng hóa, nghèo
khổ và tuyệt vọng.
* Về chức năng và nhiệm vụ của hệ thống an sinh xã hội.
- Về phương diện tổng thể, hệ thống an sinh xã hội có chức năng cơ bản là quản lý
và đối phó với rủi ro, bao gồm ba nấc:
Một là, phòng ngừa rủi ro thông qua hệ thống các chính sách bảo hiểm xã
hội. Bảo hiểm xã hội là bộ phận quan trọng nhất, có ý nghĩa vô cùng to lớn và thiết
thực đối với đời sống của người lao động trong hệ thống an sinh xã hội. Với việc
mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đến mọi người dân dưới hai hình thức tham gia
bắt buộc và tự nguyện; với chế độ bảo hiểm xã hội bằng các khoản trợ cấp dài hạn,
trợ cấp ngắn hạn và bảo hiểm y tế; với việc quản lý và thực hiện bảo hiểm xã hội
tập trung thống nhất, và với việc quỹ bảo hiểm xã hội được thanh toán độc lập
dưới sự bảo trợ và điều hành của Nhà nước, thì hệ thống an sinh xã hội sẽ hoàn
toàn có thể làm tốt chức năng phòng ngừa rủi ro.
Trong cuộc sống hầu như không ai không một lần gặp rủi ro, bất hạnh. Có những
rủi ro đột xuất không thể dự đoán được, như tai nạn nghề nghiệp, thất nghiệp, nhưng
cũng có những rủi ro không ai có thể tránh được như bệnh tật, tuổi già. Bởi vậy,
phòng ngừa rủi ro là nhiệm vụ của mỗi người, của toàn dân mà Nhà nước là người
đứng ra tổ chức, điều hành. Phòng ngừa rủi ro phải phòng ngừa từ xa. Từ lúc con
người còn trẻ khỏe, làm việc, sống bình thường, phải lo tích lũy một số vốn nào đó
trong quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ bảo hiểm y tế… để khi đã già, yếu không còn sức
lao động nữa họ vẫn có thể sống được nhờ vào lương hưu, tiền bảo hiểm tuổi già,
tiền bảo hiểm y tế tại các bệnh viện. Thực tế cho thấy, chi phí cho phòng ngừa rủi ro
sẽ thấp hơn rất nhiều so với chi phí để khắc phục rủi ro.
Hai là, giảm thiểu rủi ro. Rủi ro xảy ra có thể rất nặng nề, gây nên những mất mát
rất lớn về vật chất và tinh thần, nhưng với hệ thống các chính sách an sinh xã hội,
hậu quả của các rủi ro đó hoàn toàn có thể được giảm nhẹ, được khống chế ở mức
độ có thể chấp nhận được. Để có thể giảm thiểu rủi ro, một mặt, Nhà nước phải có
một hệ thống tổ chức, điều hành chặt chẽ, nhưng linh hoạt hệ thống an sinh xã
hội; mặt khác, mọi thành viên trong xã hội cũng cần phải có ý thức tự giác tham gia
vào các quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, quỹ phòng chống
thiên tai, quỹ an sinh xã hội v.v.. trước hết vì cuộc sống của bản thân và gia đình
của mỗi người, sau nữa là vì cộng đồng, sự ổn định và phát triển của xã hội. Việc
giảm thiểu rủi ro này chủ yếu thuộc về các chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp và các chính sách trợ giúp xã hội có liên quan đến giáo dục, dạy nghề, tạo
việc làm.
Ba là, khắc phục rủi ro được thực hiện chủ yếu thông qua các chính sách trợ giúp
xã hội (trợ cấp xã hội, tương trợ xã hội và cứu tế xã hội). Có hai chế độ trợ giúp:
thường xuyên (áp dụng đối với các đối tượng người già cô đơn, trẻ em mồ côi
không nơi nương tựa, người tàn tật nặng…) và trợ giúp đột xuất đối với những đối
tượng chẳng may gặp rủi ro, hoạn nạn. Hệ thống an sinh xã hội phải có trách nhiệm
chủ đạo trong việc khắc phục các rủi ro đó nhằm giúp cho mọi thành viên trong xã
hội mau chóng ổn định cuộc sống.
- Về nhiệm vụ: an sinh xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước thông
qua hệ thống luật pháp, các chính sách và các chương trình quan trọng của một
quốc gia nhằm mục tiêu giữ gìn sự ổn định chính trị, xã hội của đất nước, sự an toàn
cho đời sống của con người trong bầu không khí dân chủ, bình đẳng giữa người với
người, bình đẳng về giới; xóa đói, giảm nghèo, xóa bỏ sự phân hóa giàu nghèo, sự
phân tầng trong xã hội; từ đó, tạo ra sự đồng thuận trong cộng đồng, tiến đến thực
hiện công bằng xã hội Dưới sự tổ chức, quản lý và điều hành của Nhà nước, hệ
thống an sinh xã hội có những nhiệm vụ sau đây:
Một là, điều hòa các mâu thuẫn xã hội đã, đang và có thể xảy ra bằng cách xử lý và
hạn chế các nguyên nhân làm nảy sinh mâu thuẫn, bất ổn của xã hội.
Hai là, áp dụng các giải pháp nhằm điều tiết phân phối lại thu nhập, điều tiết sự
phân phối lại giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, giữa các nhóm dân cư; từ
đó, làm giảm sự bất bình đẳng giữa các vùng, miền, giữa các thành viên trong xã
hội.
Ba là, điều tiết phân phối lại của cải xã hội, cân đối, điều chỉnh các nguồn lực (vốn,
khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực…) nhằm tăng cường cho các vùng sâu, vùng
xa còn nghèo khó, chậm phát triển, từ đó, tạo nên sự phát triển hài hòa giữa các
vùng khác nhau trong nước, giảm dần sự chênh lệch giữa các vùng không chỉ về
kinh tế mà cả về đời sống của người dân.
Bốn là, hệ thống an sinh xã hội phải liên tục mở rộng các đối tượng tham gia vào
các loại bảo hiểm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… mở rộng
chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội nhằm làm giảm bớt sự bất bình
đẳng giữa các nhóm dân cư.
Thực hiện tốt các nhiệm vụ trên đây tức là hệ thống an sinh xã hội đã hoàn thành
được các chức năng phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro. Hệ thống an sinh
xã hội càng hoàn thiện, càng có nhiều khả năng làm tròn nhiệm vụ và chức năng
của mình. Với một hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ có tác động mạnh mẽ và tích cực
thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh hơn, bền vững hơn, nhất là trong thời kỳ hội nhập
kinh tế như hiện nay, hệ thống an sinh xã hội càng đóng vai trò to lớn hơn đối với
sự phát triển của đất nước, trước hết là phát triển kinh tế. Vì rằng, các nhà đầu tư
trong nước và đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài, khi đầu tư vào phát triển kinh
tế, họ không chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế mà còn rất quan tâm đến các yếu tố xã
hội như sự ổn định, an ninh, an sinh xã hội. Ngoài các yếu tố kinh tế, một xã hội ổn
định, an sinh tốt sẽ là cơ sở quan trọng giúp cho các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát
triển lâu dài, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh, liên tục và ngược lại. Một điều
quan trọng nữa là, bản thân sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội hiện đại cũng
là một lĩnh vực dịch vụ “có thu” như lĩnh vực bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thất nghiệp…, điều này sẽ tạo thêm nguồn tài chính góp phần vào phát triển
kinh tế đất nước.
Nhiệm vụ chính và quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội là hướng đến sự ổn
định xã hội. Khi tham gia vào hệ thống an sinh xã hội, mỗi thành viên trong xã hội
đều có nghĩa vụ và quyền lợi. Trong cuộc sống không ai luôn gặp may mắn và cũng
không ai luôn gặp rủi ro, nhưng thường thì bất hạnh hay đến với những người
nghèo, vùng nghèo, những người yếu thế trong xã hội, mà khi đã gặp rủi ro, họ khó
có thể tự vượt qua được bằng nguồn tài chính eo hẹp của mình. Hệ thống các chính
sách an sinh xã hội sẽ giúp cho mọi người cùng biết chia sẻ trách nhiệm xã hội để
giảm thiểu và khắc phục các rủi ro khi những thành viên trong xã hội chẳng may
gặp rủi ro; từ đó, tạo sự ổn định, đồng thuận xã hội và đó là nền tảng để thực hiện
bình đẳng và công bằng xã hội, nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
* Về các thể chế và nguyên tắc cơ bản của hệ thống an sinh xã hội.
- Về thể chế: để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoạt động một cách có hiệu
quả, cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các thể chế cơ bản sau:
Một là, thể chế chính sách - cần phải xác định đối tượng tham gia, đối tượng điều
chỉnh đối với các loại thành viên khác nhau trong xã hội, với những tiêu chí cụ thể;
xác định các chế độ hưởng thụ và những điều kiện ràng buộc; xác định trách nhiệm
của các cán bộ ngành, địa phương trong việc thực hiện chính sách.
Hai là, thể chế tài chính - là thể chế quan trọng nhất của hệ thống an sinh xã hội.
Nhiệm vụ cụ thể của thể chế tài chính của hệ thống an sinh xã hội là phải xác định
được cơ chế tạo nguồn tài chính (cụ thể là sự đóng góp của các đối tượng tham gia,
của người sử dụng lao động và của Nhà nước); cơ chế quản lý, sử dụng nguồn tài
chính; cơ chế chi trả hợp lý.
Ba là, thể chế về tổ chức quản lý và cán bộ chuyên trách.Phải thiết lập một hệ thống
tổ chức quản lý với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phụ trách
việc điều hành hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống tổ chức quản lý này có thể được
thiết lập cho từng trường hợp của an sinh xã hội hoặc cũng có thể sử dụng luôn bộ
máy chính quyền hiện có để thực hiện công việc này, tùy theo điều kiện cụ thể của
từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ, từng địa phương… Tuy nhiên, dưới góc độ quản
lý nhà nước thì chỉ nên để một cơ quan, một hệ thống tổ chức quản lý là phù hợp
nhất.
Trong ba thể chế trên, thể chế tài chính là quan trọng nhất, vì đó là cơ sở vật chất
của sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống an sinh xã hội. Nếu thể chế tài
chính không được thực hiện một cách nghiêm minh, chặt chẽ, minh bạch hoặc bị
xâm hại thì hệ thống an sinh xã hội cũng không thể tồn tại, cho dù thể chế chính
sách và thể chế về tổ chức quản lý vẫn còn đó. Ngay trong thể chế tài chính cũng
tồn tại nhiều cơ chế hoạt động, cách thức vận hành khác nhau: có thể chế tài chính
vận hành theo cơ chế “có đóng góp, có hưởng” (có chi, trả), mức hưởng phụ thuộc
vào mức đóng góp, chẳng hạn như bảo hiểm xã hội; hoặc có cơ chế “số đông bù số
ít” hay “mọi người vì một người và một người vì mọi người” như bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp… Cũng có loại thể chế có hưởng nhưng không có đóng góp,
mức hưởng không phụ thuộc vào mức đóng góp mà chỉ phụ thuộc vào thu nhập,
như trợ cấp xã hội cho những người tàn tật nặng mất khả năng lao động, trợ cấp cho
trẻ em mồ côi, trợ cấp cho người già không nơi nương tựa, cứu tế xã hội trong
trường hợp rủi ro đột xuất.
Để có thể thực hiện được các thể chế của hệ thống các chính sách an sinh xã hội cần
phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc thứ nhất: hướng tới “bao phủ” mọi thành viên trong xã hội vào hệ thống
an sinh xã hội, nhằm bảo vệ sự an toàn cho cuộc sống của họ trước những biến cố
rủi ro có tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế của họ và gia đình họ. Điều này phụ
thuộc rất lớn vào việc thiết lập hệ thống tiêu chí xác định các đối tượng tham gia
vào các hợp phần khác nhau của hệ thống an sinh xã hội sao cho phù hợp, để mỗi
loại đối tượng khác nhau có quyền lợi và nghĩa vụ (trách nhiệm) khác nhau, tương
thích với địa vị của họ trong xã hội, với hoàn cảnh cụ thể của họ.
Nguyên tắc thứ hai: phải đảm bảo tính bền vững về tài chính bằng cách bảo đảm
nguồn thu, sự đóng góp của các đối tượng tham gia vào hệ thống an sinh xã hội,
nguồn hình thành (chủ yếu lấy từ thuế, từ ngân sách nhà nước) và chi trả hợp lý,
đúng đối tượng được hưởng.
Nguyên tắc thứ ba: phải bảo đảm ổn định về thể chế tổ chức quản lý, điều này cho
phép hệ thống an sinh xã hội hoạt động liên tục và có hiệu quả. Về mặt cấu trúc, tổ
chức của hệ thống an sinh phải hợp lý để có đủ khả năng quản lý các loại đối tượng
tham gia vào hệ thống; cấu trúc hợp lý của tổ chức còn phải bảo đảm khả năng theo
dõi, đánh giá quá trình thực hiện của hệ thống an sinh xã hội một cách trung thực,
khách quan để làm cơ sở cho việc hoàn thiện các thể chế khác trong hệ thống, như
thể chế chính sách, thể chế tài chính và thể chế tổ chức quản lý thực hiện.
Nguyên tắc thứ tư: nhà nước phải là người bảo trợ cho hệ thống an sinh xã hội hoạt
động có hiệu quả và đúng pháp luật. Đối với hệ thống an sinh của một quốc gia,
nhà nước vừa giữ vai trò người tổ chức, người quản lý, người điều hành và thực
hiện (trợ giúp đặc biệt đối với những người có công, trợ giúp xã hội đối với những
người tàn tật nặng, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, người già yếu không còn
sức lao động…), vừa giữ vai trò là người bảo trợ (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,
bảo hiểm thất nghiệp), đặc biệt là khi hệ thống an sinh xã hội gặp rủi ro về tài chính.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, không chỉ có các cơ quan, các doanh nghiệp nhà
nước, mà tất cả các thành phần kinh tế khác trong xã hội đều có trách nhiệm tham
gia vào hệ thống an sinh xã hội. Vì vậy, Nhà nước không chỉ giữ vai trò tổ chức,
quản lý điều hành, mà còn phải có trách nhiệm bảo trợ cho các tổ chức ngoài quốc
doanh tham gia vào hệ thống an sinh xã hội khi họ gặp rủi ro, thất bát.
Việc xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoàn thiện từ việc xác định các hợp
phần cơ bản, chức năng, nhiệm vụ đến các thể chế và nguyên tắc cơ bản là vô cùng
khó khăn, phức tạp và lâu dài. Tuy nhiên, đây là việc làm rất cần thiết, bởi nước ta
đang hình thành nền kinh tế thị trường, mà đã là kinh tế thị trường thì phải có cạnh
tranh khốc liệt, người được, kẻ mất, nên rủi ro khôn lường. Hơn nữa, nước ta đã bắt
đầu quá trình hội nhập toàn cầu về kinh tế khi tham gia vào WTO. “Cái được” khi
tham gia vào WTO cũng nhiều, nhất là về mặt kinh tế, nhưng “cái mất”, “cái rủi ro”
cũng lắm. Ngoài những rủi ro từ kinh tế, xã hội, con người ngày nay còn phải chịu
nhiều rủi ro, tổn thất do thiên tai, vì những điều kiện tự nhiên ngày càng trở nên
khắc nghiệt hơn. Do vậy, để ổn định xã hội, tạo cơ sở, tạo đà cho tăng trưởng kinh
tế, kết hợp với thực hiện công bằng xã hội… thì việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống an sinh xã hội là đòi hỏi cấp thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập. t.49, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr.36.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biều toàn quốc lần thứ VIII.
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.101.
NHO GIÁO VÀ CHỦ NGHĨA DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI ĐẠI
TOÀN CẦU HOÁ
LÊ THỊ LAN (*)
Tư tưởng dân tộc chủ nghĩa đã hình thành rất sớm ở Việt Nam và được Nho giáo
bổ sung, nâng lên tầm mức lý luận, trở thành hệ tư tưởng chính trị của các triều
đại phong kiến. Trải qua nhiều thăng trầm, Nho giáo và chủ nghĩa dân tộc Việt
Nam khi thì gắn kết chặt chẽ, lúc bị tách rời về mặt hình thức hoặc nội dung,
nhưng ảnh hưởng của Nho giáo vẫn âm ỉ tác động tới sự vận động của chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả đã phân tích 3 vấn đề: 1/ Vai trò của
Nho giáo trong sự hình thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam; 2/ Đặc
trưng của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam; 3/ Biện chứng của chủ nghĩa dân tộc trong
thời đại toàn cầu hoá.
1. Vai trò của Nho giáo trong sự hình thành tư tưởng dân tộc chủ nghĩa ở Việt
Nam
Lý luận về chủ nghĩa dân tộc hiện nay dường như đã đạt được một số nhất trí khi
phái trung tâm châu Âu, kể cả quan điểm mácxít vấp phải những khó khăn không
nhỏ trong phân tích, lý giải và dự phóng về sự vận động lịch sử của các nước châu
Á đang phát triển, đặc biệt là các nước trong khu vực ảnh hưởng của Nho giáo, như
Trung Quốc, Việt Nam(1)… Đó là sự thừa nhận chủ nghĩa dân tộc nơi đây đã được
hình thành từ rất lâu và có sức mạnh bền vững đến mức người phương Tây khó có
thể tưởng tượng, trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện với sức mạnh phá tan những
thành trì kiên cố nhất của chủ nghĩa phong kiến. Sự hình thành chủ nghĩa dân tộc
đặc biệt này, không nghi ngờ gì, có sự góp phần mạnh mẽ của lý luận Nho giáo.
Có thể đánh dấu thời gian hình thành ý thức dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam một
cách rõ nét, do tác động của Nho giáo, là vào khoảng thế kỷ III sau Công nguyên, với vai trò của Sĩ Nhiếp(*)(Thái thú Giao Chỉ từ 186 - 227). Ngược lại lịch sử, năm
111 TCN, khi Nhà nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Hán thôn tính, Việt Nam
trở thành một quận của nhà Hán, thì quá trình xâm nhập và ảnh hưởng của văn hoá
Hán, đặc biỆt là Nho giáo mới có thêm các điều kiện thuận lợi và dần rõ nét trong
đời sống tinh thần của người Việt, tác động mạnh mẽ tới sự hình thành tư tưởng
quốc gia dân tộc của vùng đất này. Có sự khác biệt rõ rệt về tầm tư duy giữa ý thức
về cộng đồng như là tiền thân của tư tưởng dân tộc chủ nghĩa trước khi Việt Nam
bị Bắc thuộc với các tư tưởng dân tộc chủ nghĩa này khi chịu tác động của Nho
giáo(2). Sự chuyển hoá phương thức bảo vệ cộng đồng về mặt văn hoá, phong tục,
tập quán trước sự xâm lược và đồng hoá của một dân tộc, một nền văn hoá mạnh
hơn, lâu đời hơn, trưởng thành hơn tỪ văn học truyền miệng, ngôn ngữ nói, truyền
thuyết lên trình độ ngôn ngữ viết và tư duy lý luận cùng với việc cấy ghép một số
yếu tố văn hoá Hán vào phương thức hình dung về cộng đồng dân tộc là một quá
trình thích nghi, xây dựng và khẳng định của tư duy dân tộc chủ nghĩa Việt Nam.
Sĩ Nhiếp là một điển hình cho khuynh hướng tiếp thu tư tưởng Nho giáo và vận
dụng mô hình tổ chức Nhà nước Trung Hoa vào xã hội Việt Nam để giải quyết vấn
nạn đó. Với trường hợp Sĩ Nhiếp, ý thức quốc gia dân tộc của người Việt cổ đã
được mở rộng và nâng cao trên cơ sở lấy tinh thần chống phương Bắc làm hệ
chuẩn. Sự có mặt của Sĩ Nhiếp trong thần điện của Việt Nam thời kỳ khẳng định
một bản sắc dân tộc riêng biệt cũng cho ta thấy rõ hơn tầm tư duy của người Việt
khi đó. Tất cả những gì là hữu ích, có lợi cho sự phát triển cộng đồng đều được
chấp nhận, thậm chí được chủ động thiết lập. Sĩ Nhiếp được tôn là ông tổ Nho học
của dân Việt, là người đã thành công trong việc tạo lập những yếu tố căn bản nhất
xác định diện mạo một thực thể văn hoá xã hội Việt phân biệt với xã hội Hán. Là
người uyên bác chuyên về sách Tả thị Xuân Thu, Kinh Thi, Kinh Thư, ông đã xây
dựng một nền chính trị khôn ngoan trên đất Giao Chỉ, thu hút nhân tài Trung
Nguyên, tạo môi trường thuận lợi để người Việt chủ động tiếp thu tinh hoa Nho
giáo và xây dựng nên những cơ sở lý luận về quốc gia dân tộc vững chắc cho
người Việt. “Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được
người thân yêu mà đạt tới quý thịnh một thời. Lại hiểu lễ nghĩa, thức thời, tuy tài
và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún mình thờ nước lớn, để giữ vẹn
bờ cõi, có thể coi là người trí”(3). Sĩ Nhiếp đã thành công trong việc giải quyết vấn
đề bảo vệ lãnh thổ và tự chủ của Giao Chỉ bằng sự kết hợp lối tư duy mềm dẻo,
chuộng hoà hợp của người Việt với các chuẩn mực đạo đức - chính trị có tính duy
lý cao của Nho giáo Trung Hoa: “Vi chính dĩ đức, thí như bắc thần cư kỳ sở, nhi
chúng tinh củng chi” (Như ai thi hành việc chính trị, cầm quyền cai trị nước nhà
mà biết đem cái đức của mình bổ hoá ra, thì mọi người đều phục tùng theo. Tỷ như
ngôi sao Bắc đẩu ở một chỗ, mà có mọi vì sao chầu theo)(4).
Sĩ Nhiếp đã có công gắn kết một cách tương thích và hợp thức những khái niệm về
tôn ti trật tự, về tổ chức nhà nước, về đạo đức xã hội theo Nho giáo vào diện mạo
tinh thần cộng đồng Việt, làm nên một bản sắc chính trị - văn hoá rõ nét, phân biệt
với tộc Hán cả về lãnh thổ, dân cư, kinh tế, văn hoá: “Giao Châu Sĩ phủ quân đã
học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị, trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được
một quận hơn hai mươi năm, bờ cõi không xảy ra việc gì, dân không mất nghiệp,
những bọn khách xa đến trú chân đều được nhờ ơn… Khi ra vào thì đánh chuông
khánh, uy nghi đủ hết, kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh
xe để đốt hương thường có mấy mươi người…”(5).
Như vậy, dân tộc Việt Nam và đi cùng với nó là ý thức dân tộc chủ nghĩa được
hình thành từ rất sớm. Trước nguy cơ bị đế quốc Trung Hoa đồng hoá về mọi mặt,
dân tộc Việt Nam tự ý thức về việc củng cố và phát triển tinh thần quốc gia dân tộc
thông qua hội nhập các giá trị lý luận Nho giáo tương thích với nhu cầu bảo vệ dân
tộc. Xu hướng đấu tranh giành lại chủ quyền và xây dựng nhà nước theo mô hình
Hán ngày càng được củng cố và nâng cao về mặt lý luận, đặc biệt là đến thời Nam
Việt đế (Lý Bí, 541 - 547)(6). Ông “thấy người mình có khả năng quản lý được đất
nước mình” và đã nghĩ tới “những nguyên tắc làm cơ sở cho một quốc gia… trong
đó những chức danh như đế hiệu, quốc hiệu, niên hiệu, quốc giáo, kinh đô, cách
thức tổ chức chính quyền… đều được tính tới”(7). Như vậy, tới Lý Bí, ý thức độc
lập dân tộc, ý thức bình đẳng dân tộc với Trung Hoa đã được thể hiện cả trên bình
diện thực tiễn lẫn lý luận. Xu hướng dân tộc chủ nghĩa này trở thành một đường lối
ổn định và liên tục qua các thế hệ thủ lĩnh người Việt từ Lý Bí, Triệu Việt Vương,
Lý Phật Tử, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo, Ngô Quyền
và các bậc quân vương trị vì nước Việt độc lập sau này.
Có thể khái quát những ảnh hưởng cơ bản của Nho giáo tới sự hình thành tư tưởng
dân tộc chủ nghĩa Việt Nam trong quá trình lịch sử xác lập một thực thể dân tộc
Việt Nam phân biệt với Trung Hoa và với các dân tộc khác trên những phương
diện sau:
- Sự du nhập và cấy ghép các khái niệm chính trị - xã hội Nho giáo vào nhận thức về thực thể dân tộc và xây dựng ý thức dân tộc.(7)
- Sự vận dụng và củng cố tri thức chính trị - xã hội Nho giáo vào lý luận và thực
tiễn để giải quyết vấn nạn vong quốc và dựng nước. Sau khi giành độc lập lâu dài,
Nho giáo như là công cụ lý luận chính trị - xã hội căn bản để củng cố ý thức dân
tộc chủ nghĩa đặc sắc của Việt Nam và xây dựng quốc gia dân tộc.
- Đến thời Cận đại, chủ nghĩa dân tộc Việt Nam (với nòng cốt là Nho giáo) vừa
duy trì những nền tảng lý luận Nho giáo được cố định hoá trong các thể chế và
hình dung về dân tộc, vừa tiếp thu thêm lý luận của chủ nghĩa dân tộc phương Tây
(Liên Xô, Pháp, Mỹ) trong thực tiễn đấu tranh giành độc lập và phát triển lý luận
dân tộc chủ nghĩa của mình.
2- Đặc trưng của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam
Trải qua lịch sử hàng ngàn năm bảo vệ và xây dựng đất nước với bệ đỡ tinh thần
vững chắc là chủ nghĩa dân tộc được hình thành và phát triển đồng thời với quá
trình đó, người Việt Nam đã duy trì và phát triển một chủ nghĩa dân tộc kiên định
với những đặc trưng riêng(8). Có thể chỉ ra những đặc trưng đó là:
- Độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ là tiêu chí xuyên suốt và tối cao của chủ
nghĩa dân tộc Việt Nam. Tiêu chí này xuất hiện từ rất sớm trong thời kỳ đấu tranh
chống lại ách thống trị phương Bắc trên cơ sở ý thức cộng đồng thời mở nước của
người Việt, ngày càng được củng cố về mặt lý luận qua lịch sử tiếp thu Nho giáo.
Với việc tiếp thu mô hình quản lý nhà nước Hán vào xây dựng chế độ quân chủ
phong kiến Việt Nam, ý thức chủ quyền về lãnh thổ, quốc gia với đại diện hợp
pháp là vị quân vương ngày càng được nâng cao và củng cố bằng lý luận Nho
giáo(9). Nhà vua như là biểu trưng của dân tộc được coi là người chủ sở hữu hợp
pháp của quốc gia, đồng thời phải gánh trách nhiệm tối cao về độc lập tự do và
toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Quan niệm Nho giáo về thiên mệnh, về bậc quân
chủ, về tính hợp thức thần thánh của mỗi quốc gia, dân tộc được người Việt tiếp
thu để tuyên bố tính hợp thức và khẳng định quyền dân tộc của mình(10).
Tuy nhiên, chủ nghĩa dân tộc là một thực thể tinh thần độc lập với hệ tư tưởng
phong kiến, có lúc song hành, thậm chí đồng nhất, và có lúc tách rời. Triều đại nào
bảo toàn và đề cao được tiêu chí tối cao độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ, tức
đảm bảo quyền lợi dân tộc thống nhất với quyền lợi của vương triều thì sẽ được
lòng dân và tồn tại bền vững, và ngược lại. Đây là điểm đặc trưng căn bản nhất của
chủ nghĩa dân tộc Việt Nam.
- Ý thức tự hào về nền văn hoá riêng đã xuất hiện từ rất sớm và được các thế hệ
người Việt coi là một biểu hiện đặc trưng nhất của tinh thần dân tộc. Ngay những
thế kỷ đầu thời kỳ Bắc thuộc, người Việt đã ý thức bảo vệ nền văn hoá riêng với
những biểu tượng về trống đồng và ký ức văn hoá Văn Lang, Âu Lạc. Trống đồng
là biểu tượng văn hoá của cộng đồng người Việt, là biểu trưng sức mạnh tâm linh
Việt, cũng là biểu trưng quyền uy của thủ lĩnh Việt. Trong ý thức dân tộc Việt thời
đầu Bắc thuộc, trống đồng còn là cộng đồng còn. Vì vậy, bảo vệ trống đồng khỏi
sự phá huỷ của các thế hệ thái thú phương Bắc như Mã Viện thời Đông Hán, Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, Lan Khâm thời Lục triều…(10)là một trong những nhiệm
vụ tối cao của người Việt thời Bắc thuộc chống lại âm mưu đồng hoá văn hoá của
phương Bắc. Bảo vệ, tôn vinh trống đồng còn là hoạt động tôn giáo, tâm linh chính
thống được các vua Việt duy trì đến thời nhà Trần với lễ hội thờ thần Đồng Cổ.
Ngay cuộc khởi nghĩa vũ trang đầu tiên trong lịch sử chống phương Bắc của Hai
Bà Trưng cũng nêu cao nhiệm vụ bảo vệ các thiết chế văn hoá cộng đồng Việt:
“Canh Tý, năm thứ 1 940), (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, vua
(Trưng Trắc, người viết) khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù
Định giết chồng mình, mới cùng em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở
châu”(11) nhằm “rửa sạch nước thù” và “nối lại nghiệp xưa vua Hùng”(12). Nối
lại nghiệp xưa vua Hùng chính là nhằm khôi phục lại những thiết chế tổ chức nhà
nước và văn hoá của cộng đồng Việt trước Bắc thuộc.
Tuy nhiên, việc truyền bá, cấy ghép và phát triển các yếu tố văn hoá Nho giáo vào
Việt Nam từ thời Sĩ Nhiếp đã tiếp tục diễn ra suốt chiều dài lịch sử gần hai nghìn
năm. Do đó, bên cạnh niềm tự hào và ý thức về một nền văn hoá cổ truyền (được
lưu giữ trong văn hoá làng xã), sự tiếp thu và thừa nhận văn hoá Trung Hoa (Nho -
Phật - Lão) như một bộ phận cấu thành của văn hoá Việt, làm nên truyền thống
văn hoá dung hoà Nho - Phật - Lão với các yếu tố truyền thống là điều tất yếu.
Chịu ảnh hưởng của quan điểm văn hoá lấy Trung Hoa làm trung tâm “nội hạ
ngoại di”, “hoa hạ”, song người Việt cũng luôn tự hào về nền văn hiến của mình,
coi nước Việt là trung tâm của văn hoá, phân biệt với các nước láng giềng xung
quanh, kể cả với các nước phương Tây (Tây Di). Mặc dù vậy, niềm tự hào và sự
đồng nhất về tính ưu việt văn hoá của Việt Nam với Trung Quốc ở đây không bao
hàm sự đồng nhất về các giá trị văn hoá. Điều đó đã được nhiều thế hệ thuộc tầng
lớp tinh hoa Việt khẳng định. Vua Trần Minh Tông nói: “Nhà nước đã có phép tắc
nhất định, Nam Bắc khác nhau”(13). Nguyễn Trãi trong Cáo Bình Ngô đã tuyên
xưng niềm tự hào về nền văn hoá đặc sắc riêng của dân tộc một cách đanh thép:
“Xét như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến.
Bờ cõi núi sông đã riêng,
Phong tục Bắc Nam cũng khác”(14).
Niềm tự hào về tính đặc sắc của văn hoá dân tộc là một yếu tố căn bản nhất của
chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, đồng thời là một trong những động lực và ý nghĩa
căn bản của các cuộc kháng chiến bảo vệ độc lập dân tộc. Hoàng đế Quang Trung
tuyên bố một trong những mục đích cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược của
hơn 20 vạn quân Thanh là nhằm bảo vệ nền văn hoá riêng của dân tộc: “Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng”.(1Cho dù đến thế kỷ XIX, Nho giáo được độc
tôn làm quốc giáo, được ứng dụng vào mọi mặt tổ chức, quản lý đời sống chính trị
- xã hội và trở thành thành tố văn hoá bao trùm xã hội Việt Nam thì các nhà tư
tưởng cải cách thế hệ đầu tiên của Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX, như
nhà nho Đặng Huy Trứ, vẫn nhận thức và tự hào về tính đặc trưng riêng của nền
văn hoá dân tộc. Ông đã coi việc phải gọt tóc giả dạng người Thanh đi khảo sát
tình hình Quảng Đông, “gắng mang đức trung kính đi vào nơi Di Địch” là nỗi khổ
lớn. Nhưng, vào đầu thế kỷ XX, trong bối cảnh bị Pháp cai trị, trước sức xâm lược
của văn hoá phương Tây, nguy cơ nền văn hoá truyền thống với Nho giáo là trụ
cột bị mai một bởi chính sách đồng hoá văn hoá của Pháp, các trí thức hàng đầu
của Việt Nam khi đó, như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh đã lên tiếng kêu gọi bảo
vệ Nho giáo như bảo vệ “quốc hồn quốc tuý” của văn hoá Việt. Thừa nhận sự
đồng nhất văn hoá Việt với Nho giáo trên phạm vi khu vực Đông Á (Việt Nam,
Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản là những nước đồng văn) trong quan điểm của
các nhà dân tộc chủ nghĩa cận đại, như Phan Bội Châu, thể hiện sự nhận thức vấn
đề dân tộc trên bình diện mới, trên phạm vi khu vực, trên tầm đối sánh văn hoá
Đông - Tây. Đó cũng là một bước phát triển nhận thức về văn hoá của chủ nghĩa
dân tộc ở Việt Nam đầu thế kỷ XX trong bối cảnh mất độc lập dân tộc. Nhận thức
này đã giúp các nhà dân tộc chủ nghĩa định hướng kiếm tìm sự ủng hộ sự nghiệp
giải phóng dân tộc vượt khỏi khuôn khổ lãnh thổ Việt Nam. Cuối thế kỷ XX, làn
sóng toàn cầu hoá về kinh tế kéo theo sự lan toả và xâm nhập mạnh mẽ của các
nền văn hoá - kinh tế mạnh (Mỹ, Nhật) một lần nữa đòi hỏi chủ nghĩa dân tộc Việt
Nam phải nhận diện và dự phóng được tiến trình văn hoá Việt trong dòng chảy văn
hoá khu vực và toàn cầu như một nhiệm vụ hàng đầu, nhằm xây dựng một chiến
lược hiệu quả trong việc bảo vệ tính đặc sắc văn hoá của dân tộc.
- Ý thức đoàn kết dân tộc trên nền tảng tâm thức về một cội nguồn tổ tiên chung,
một nòi giống chung “con Rồng cháu Tiên” như tiếng gọi thiêng liêng tập hợp sức
mạnh dân tộc chống lại kẻ thù. Ngay từ buổi đầu dựng nước, cộng đồng tộc Việt
đã nhận thức được sức mạnh đoàn kết là vũ khí bất khả chiến bại giúp bảo vệ cộng
đồng trước thiên tai, địch họa. Ý thức này ngày càng được củng cố vững chắc theo
lịch sử giữ nước, với sự ra đời và lưu truyền truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long
Quân trong cộng đồng Việt. Ý niệm về nguồn gốc thống nhất, về quan hệ huyết
thống cùng chung một tổ tiên dòng dõi thần tiên cao quý lưu truyền và củng cố qua
hàng trăm thế hệ đã trở thành sức mạnh tập hợp, đoàn kết người Việt trong cuộc
đấu tranh giành độc lập, chủ quyền dân tộc. Ý thức “đồng bào” này đã giúp cộng
đồng Việt chống lại sự đồng hoá tàn khốc của kẻ thống trị phương Bắc suốt hơn
1000 năm đầu của lịch sử dân tộc. Cũng chính ý thức “con Rồng cháu Tiên” đã
vun đắp sức mạnh đoàn kết và ý chí đấu tranh chiến thắng ách cai trị của chủ nghĩa
đế quốc phương Tây. Cho đến nay, niềm tự hào về nguồn gốc chung thiêng liêng,
cao quý của dân tộc vẫn và mãi là sức mạnh liên kết người Việt trên mọi lãnh thổ
vì một dân tộc Việt Nam giàu mạnh. Từ một truyền thuyết truyền miệng được coi
là ra đời trong buổi đầu chống kẻ cai trị phương Bắc đến khi được sử gia Nho học
Ngô Sĩ Liên chính thức biên chép thành chính sử trong Kỷ Hồng Bàng thị của Đại
Việt sử ký toàn thư vào thế kỷ XV rồi đến sự tổ chức quốc lễ giỗ tổ Hùng Vương là
khoảng cách 2000 năm lịch sử để một tâm thức thiêng liêng về cội nguồn dân tộc
ngày càng được phổ biến hoá, lý luận hoá, chính thống hoá và ăn sâu vào hồn dân
tộc như một nguồn lực tâm linh tiềm tàng làm nên sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
Việt Nam.
- Lòng yêu nước mãnh liệt, sâu sắc và trường tồn được xây dựng bắt đầu từ tình
yêu gia đình rồi mở rộng dần tới làng xóm, quê hương, đất nước trên cơ sở kết hợp
tình cảm cộng đồng gia đình, làng xã với lý luận Nho giáo về cương thường, trở
thành một khuôn khổ đạo đức bền vững của xã hội. Đạo đức Nho giáo với các
chuẩn mực về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín xây dựng trên nền tảng nhận thức siêu hình
về mối liên đới trời - đất - người và lý tưởng một xã hội đức trị an vui, thái hoà đã
tạo dựng một không gian đạo đức phù hợp với xã hội nông nghiệp phương Đông
như Việt Nam, nơi mà tri thức và đạo đức được tôn vinh hơn là của cải và đẳng
cấp trong các mối quan hệ xã hội. Lý luận đạo đức Nho giáo được các vị vua Nho
học, như Lê Thánh Tông, Minh Mệnh, Tự Đức đề cao, kết hợp với những giá trị
đạo đức cộng đồng làng xã vốn có đã góp phần tạo dựng nên một nền đạo đức xã
hội ổn định và một hệ giá trị đạo đức đặc trưng của Việt Nam. Những chuẩn mực
đạo đức đó đã góp phần củng cố hơn nữa độ bền vững của gia đình, làng xã, quê
hương, đất nước về mặt tinh thần và thể chế. Trung - hiếu là hai đức lớn duy trì sự
bền vững của gia đình, dòng họ, vương triều. Trong thể chế phong kiến, hiếu đi
liền với trung và trung quân đi liền vớiái quốc. Ở Việt Nam, nơi mà lòng yêu nước
luôn là sự ngạc nhiên lớn của bất cứ ai quan tâm nghiên cứu Việt Nam, tình yêu
nước là tình cảm tối cao, được nâng thành một phẩm chất đạo đức giá trị trên cả
trung quân. Trong đạo đức Nho giáo Việt Nam, việc lựa chọn các giá trị đạo đức
“lấy trung thay hiếu”, “trung với nước”, “trung quân” phải đi cùng “ái quốc” và
không thể thay thế cho “ái quốc”… là lựa chọn hàng đầu mỗi khi hoàn cảnh đòi
hỏi(15). Trong lịch sử Việt Nam, khi Nho giáo xâm nhập và trở thành một yếu tố
tinh thần của người Việt, Nho giáo đã lý luận hoá, cố định hoá những tình cảm gia
đình, quốc gia thành khuôn mẫu vững bền và sáng tỏ. Từ cuối thế kỷ XIX, khi các
giá trị văn hoá, tôn giáo, đạo đức phương Tây du nhập vào Việt Nam, thì một
trong những hình thức biểu hiện của tinh thần yêu nước, yêu dân tộc được các lãnh
đạo trí thức của dân tộc cụ thể hoá bằng phong trào bảo vệ các giá trị truyền thống
của dân tộc(16). Đạo trung hiếu, đạo thờ kính tổ tiên, các giá trị gia đình bền
vững… trong hình thức biểu hiện của Nho giáo là những nhân tố tinh thần cụ thể,
lâu bền góp phần gia tăng và củng cố lòng yêu nước của người Việt.
Những đặc trưng căn bản nhất của chủ nghĩa dân tộc Việt như đã nêu trên đã làm
thành sức mạnh của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc tồn tại và phát triển qua
những thử thách cam go, thương đau và hào hùng của lịch sử. Tuy nhiên, những
biến động lớn của thời cuộc hiện nay đòi hỏi chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, một
mặt, phải duy trì và củng cố những đặc trưng làm nên sức mạnh truyền thống của
dân tộc; mặt khác, phải xây dựng và củng cố thêm những nền tảng lý luận và sức mạnh mới.(15)
3- Biện chứng của chủ nghĩa dân tộc trong thời đại toàn cầu hoá
Dường như quá trình toàn cầu hoá đã làm mờ nhạt rất nhiều khái niệm về biên
giới, lãnh thổ, quốc gia… bởi biểu hiện bề mặt kinh tế, xã hội và văn hoá với
những đồng tiền chung châu Âu, nền kinh tế thị trường, các nhóm G8, G20, khối
các nước APEC, ASEAN... Tuy nhiên, trong chiều sâu xã hội và trên phương diện
chính trị, dường như vấn đề dân tộc và chủ nghĩa dân tộc lại nổi lên như một vấn
đề thời sự. Bên cạnh vấn đề chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ luôn là vấn đề
hàng đầu của mỗi dân tộc, là vấn đề vị thế của dân tộc trên mọi lĩnh vực trên
trường quốc tế. Bên cạnh những lợi ích, cơ hội phát triển mà toàn cầu hoá đem lại
cho mỗi dân tộc là những nguy cơ xâm thực, mất chủ quyền, mất vị thế, thậm chí
mất bản sắc, mất hình ảnh dân tộc. Cho dù giả thiết về sự va chạm của các nền văn
minh, sự phân chia lại các khu vực văn hoá của Samuel Huntington có thể trở
thành hiện thực trong tương lai, thì đó cũng là tương lai xa và vấn đề dân tộc, chủ
nghĩa dân tộc không phải là vấn đề có thể phân định dễ dàng như vậy.
Toàn cầu hoá và những vấn đề toàn cầu, một mặt, tạo nên một diện mạo toàn cầu
mới, một thế giới toàn cầu, nhưng chỉ là trong phạm vi một số lĩnh vực, một số
khía cạnh nhất định, trong đó, con người có thể và cần phải chia sẻ rất nhiều những
giá trị chung. Vì thế, con người hướng tới những nhận thức toàn cầu, nhằm cùng
nhau giải quyết những bài toán chung để bảo vệ ngôi nhà chung là trái đất. Theo
xu hướng đó, dường như chủ nghĩa dân tộc bị lu mờ một cách giả tạo, hay bị đặt
sang một bên một cách tạm thời. Mặt khác, điều đó không thay thế được vấn đề
dân tộc và phát triển dân tộc đang hàng ngày, hàng giờ hiển hiện trong đời sống
chính trị - xã hội toàn cầu. Chủ nghĩa dân tộc sắc tộc đang làm thay đổi bản đồ
hành chính thế giới và quá trình đó vẫn còn tiếp tục(17), tác động trực tiếp tới mỗi
quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Cùng với chủ nghĩa dân tộc sắc tộc là chủ nghĩa dân
tộc văn hoá, vẫn đang và sẽ là vấn đề nổi bật của chủ nghĩa dân tộc trong thời đại
toàn cầu bởi nhu cầu tự thân khẳng định nguồn gốc, bản sắc khiến con người
hướng về dân tộc.
Trong bối cảnh chung đó, Việt Nam không là ngoại lệ. Bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền dân tộc về lãnh thổ, văn hoá theo phương thức truyền thống, chủ nghĩa
dân tộc Việt Nam đứng trước thách thức phải bổ sung sức mạnh lý luận về phát triển dân tộc trong thời đại toàn cầu hoá.(1Đối mặt với vấn nạn này, lý luận truyền
thống, một mặt, dường như không đủ, cho dù vẫn phải củng cố như là những lý
luận nền tảng. Mặt khác, sự kiếm tìm những yếu tố cốt lõi trong chủ nghĩa dân tộc
truyền thống (với đóng góp của Nho giáo) khả thể gắn kết được với những nhân tố
hiện đại, những nhân tố mà có thể tăng thêm sức mạnh mới cho chủ nghĩa dân tộc
Việt Nam trong giải quyết thách thức của thời đại, cũng là một nhiệm vụ quan
trọng của các nhà lý luận dân tộc chủ nghĩa Việt Nam hiện đại. Bên cạnh một đất
nước Trung Quốc mà vị thế ngày càng mạnh trên trường quốc tế và như một đối
trọng với Mỹ và phương Tây, được thúc đẩy và yểm trợ bởi chủ nghĩa dân tộc
Trung Hoa, thì chủ nghĩa dân tộc Việt Nam, với quá khứ có nhiều điểm gắn kết
chặt chẽ với văn hoá Nho giáo, có thể tìm thấy nhiều gợi mở và kinh nghiệm cho
con đường đi riêng của dân tộc trong thời đại mới. Và cùng với điều đó, chìa khoá
vàng cho một chủ nghĩa dân tộc Việt Nam hiện đại là sự bổ sung một chủ thuyết khả
dĩ khơi dậy được sức mạnh sáng tạo và xây dựng của mọi tầng lớp nhân dân vì một
Việt Nam có vị thế đáng tự hào trên trường quốc tế.q
(*) Tiến sĩ, Phó Trưởng phòng Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Viện
Khoa học Xã hội Việt Nam.
(1) Lý luận về dân tộc và chủ nghĩa dân tộc hiện đại cho phép chúng ta thừa nhận
Việt Nam và một số dân tộc phương Đông đã có quá trình hình thành dân tộc và
chủ nghĩa dân tộc từ rất sớm do đặc thù cố kết cộng đồng trong đấu tranh với thiên
nhiên và kẻ thù xâm lược. Xin tham khảo GS. Phan Huy Lê: Vấn đề hình thành
dân tộc và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam. Báo cáo tóm tắt tại toạ đàm “Vấn đề dân
tộc và chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”
(ngày 10/09/2008) http://www.ush.edu.vn/index.php?option =com_content&view…
, Lữ Phương: Chủ nghĩa dân tộc Việt Nam http://www.viet-studies.
Info/LuPhuong _ChuNghiaDanTocVietNam.htm, Phạm Hồng Tung: Văn hoá chính
trị và lịch sử dưới góc nhìn văn hoá chính trị. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2008, tr.225 - 245.
(2) Xem: GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên. Lịch sử tư tưởng triết học Việt
Nam. t.1. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006, tr.51 - 68.
(3) Lời sử gia Lê Văn Hưu trong Đại Việt sử ký toàn thư, t.1. Nxb Văn hoá Thông
tin, Hà Nội, 2000, tr.228.
NỘI HÀM THÔNG DIỄN HỌC TRONG “VÂN ĐÀI LOẠI NGỮ” CỦA LÊ
QUÝ ĐÔN
TRIẾT HỌC, SỐ 12 (223), THÁNG 12-2009
LÂM DUY KIỆT (*)
Bài viết bàn về chương “Vân đài loại ngữ” quyển V (Văn nghệ) của Lê Quý Đôn
(1726-1784) - nhà nhân văn Việt Nam thời Hậu Lê. Thông qua sự phân tích của
mình, tác giả muốn làm rõ hàm nghĩa giải thích học hàm chứa trong cuốn sách.
Hàm nghĩa giải thích học được chia làm hai bộ phận: hình thức và nội dung. Phần
hình thức nói về hai loại hình thức đặc sắc trong “Vân đài loại ngữ” và hai loại ý
chí do hai loại hình thức này tạo ra (ý chí tác giả và ý chí người biên soạn). Phần
nội dung đi sâu thảo luận quan điểm, thái độ và phương pháp của các nhà Nho
thời Tống, Minh (Chu Hy, Trương Tải) và Lê Quý Đôn.
I. Hình thức tác phẩm và ý chí tác giả của Vân đài loại ngữ
Vân đài loại ngữ là tác phẩm của nhà nhân văn Lê Quý Đôn - người có ảnh hưởng
sâu sắc vào thời Hậu Lê ở Việt Nam. Ý nghĩa của “Vân đài” là nơi giữ sách, Vân
đài loại ngữ có thể hiểu là biên soạn, tuyển chọn thư tịch theo loại.
Theo tự thuật của Lê Quý Đôn, quá trình hình thành bộ sách Vân đài loại ngữ là
“Đọc và ghi chép lại các sự tích truyền kỳ, thêm bớt khái quát, có thêm ý kiến bình
luận, tích lũy lâu dần thành kho sách, chia thành 9 quyển”(1). Chín quyển của bộ
sách này lần lượt là: Lý khí, Hình tượng,Khu vũ, Điển hội, Văn nghệ, Âm tự, Thư
tịch, Sĩ quy, Phẩm vật; “Văn nghệ” là quyển thứ 5. Xét từ hình thức bản
văncủa sách này, cái mà Lê Quý Đôn gọi là “Bình luận theo ý kiến” (thực ra là
“Bình luận theo những gì đã thấy”) và “Biên tập văn bản cũ đưa vào” là hai
phương thức thành thư khác nhau. Nếu là phương thức “Bình luận theo ý kiến”,
thì Vân đài loại ngữ đã thể hiện được “kiến giải của mình” của Lê Quý Đôn (ý
nghĩa của từ “Bình luận” có thể mở rộng thành “biểu đạt bất kỳ thứ gì đã nhìn
thấy”, chứ không đơn thuần chỉ là đánh giá một số văn tự lựa chọn và ghi lại), bản
thân Lê Quý Đôn có thể coi là “tác giả”; nếu phương thức thành thư của Vân đài
loại ngữ là “Biên tập văn bản cũ đưa vào” thì sách này là “Tuyển tập”, khi đó, Lê
Quý Đôn là “người biên soạn”. Việc kiểm tra, xem xét nội dung của Vân đài loại
ngữ cho thấy, cuốn sách bao gồm cả hai phương diện này. Mà hai phương thức thành thư đó cũng quyết định tính chất có bình luận trong quyển sách này.((*)
Trong hàm ý giải thích học, tính chất của “bình luận” và “tuyển tập”, “tác giả” và
“người biên soạn” có sự phân biệt rất rõ. Thông thường, với tư cách tác phẩm
“bình luận”, có thể coi đó là sự phát triển “ý chí của tác giả”. Với tư duy đó, việc
lý giải ý nghĩa hoặc nội dung của quyển này cũng có thể coi đó là nắm bắt “ý chí
của tác giả”. Còn “Tuyển tập” lại là đọc văn bản mang tính hỗ trợ, nhân tố biên
soạn thường xuất phát từ người biên soạn cho rằng người bình thường không thể
hiểu được những tài liệu lịch sử hoặc văn bản rộng ở một số quyển nào đó. Do
vậy, phải tiến hành chọn lọc, tuyển chọn lại những tài liệu này nhằm thu hẹp
khoảng cách giữa người đọc với tài liệu lịch sử gốc hoặc văn bản. Trong khi đó, đọc
và lý giải tuyển tập là việc người đọc trong quá trình đọc thông qua “ý chí của người
biên soạn” để nắm “ý chí của tác giả”. Tóm lại, vấn đề ở đây đề cập đến “tính chất
văn bản” và “ý chí” của người biên soạn/tác giả(2).
Trước hết, nói về vấn đề có liên quan tới “tính chất văn bản”. Vân đài loại ngữ quả
thực có hai tính chất, bao gồm cả “bình luận” lẫn “tuyển tập”. Tuy nhiên, so sánh
với “bình luận”, tính chất văn bản của “tuyển tập” càng cần phải làm rõ. “Lời nói
đầu của Vân đài loại ngữ” nói nội dung của Vân đài loại ngữ là học thuyết “cách
vật trí tri”, điều này chứng tỏ tính chất của cuốn sách. Hơn nữa, sau khi thành thư
mặc dù vẫn không thể “chí quảng đại, tân tinh vi, dĩ tạo chí cách vật chi vực”
(thành tựu này còn cần phải có sách của bốn tác giả Liêm, Lạc, Quan, Môn”,
nhưng vẫn có thể “khảo kính tam tài, thù tạc bách biến”, điều đó chứng tỏ hiệu quả
của cuốn sách này. Có thể đạt được “hiệu quả” “khảo kính tam tài, thù tạc bách
biến” là mục đích biên tập cuốn sáchVân đài loại ngữ, đều thích hợp với “tuyển
tập” và “bình luận”. Hơn nữa, “tuyển tập” còn có một tính chất khác - đóng vai trò
là “công cụ” hoặc “phương thức”. Bất kỳ một văn bản nào thực ra đều có tính chất
công cụ: đối với bản thân văn bản, nó có thể biểu đạt nội dung mà tác giả hoặc
người biên soạn muốn biểu đạt; đối với độc giả, trong ý nghĩa rộng lớn của văn
bản họ có thể nhận thức, thay đổi sự vật và bản thân (theo cách nói của Trình Chu
là cách vật và thiết dĩ đan xen vào nhau). Có điều, “công cụ” hay “phương thức” ở
đây đặc biệt chỉ quan hệ thuyết tồn tại giữa “văn bản và văn bản”. Để thảo luận
quan hệ này, trước hết có thể tham khảo nguồn gốc biên tập của Chu Hy (Nguyên Hối, 1130-1200) và Cận tư lục.(2)
Trong “Hậu thư cận tư lục”, Chu Hy đã giải thích rõ về nguồn gốc biên tập “Cận
tư lục” của mình như sau: Mùa hè năm Ất Mùi, Thuần Hy đến từ Đông Dương,
nghỉ lại quán cạnh dòng suối mát 10 ngày. Đọc sách của Chu Tử, Trình Tử,
Trương Tử, cảm thấy kiến thức vô cùng rộng lớn mà học giả mới vào nghề không
thể biết được. Do đó đã lấy những phần đại khái và có liên quan đến đời sống hàng
ngày, biên tập lại… Như vậy, sau đó đọc hết sách của Tứquân tử(3).
Có rất nhiều tư liệu lịch sử gốc của bốn vị quân tử (Chu Liêm Khê, Trương Tải,
Trình Minh Đạo, Trình Y Xuyên), xứng đáng là kho sách bao la rộng lớn (Quảng
đại hồng bác, nhược vô tân nhai), do đó cần phải có người biên tập trọng điểm và
nội dung “quen thuộc”. Đây là mục đích biên soạn và tuyển chọn Cận tư lục.
“Quảng đại hồng bác, nhược vô tân nhai”, “lựa chọn những cái khái quát”, hoặc
cũng có thể dùng để miêu tả tâm trạng biên soạn tuyển chọn - mặc dù trong “Lời
nói đầu của Vân đài loại ngữ” không tự thuật như vậy. Hơn nữa, Cận tư lục với tư
cách tuyển tập, còn có thể từ tính chất tuyển tập này làm nổi bật tính chất đặc biệt.
Điều này được đề cập đến trong bài viết: Người đọc có thể từ Cận tư lục đi vào
“tìm đọc toàn bộ tập sách của bốn vị quân tử” (từ tuyển tập đến đọc nguyên bản).
Điểm này có thể so sánh với lời kết của Chu Tử về Cận tư lục: “Tứ tử”, lục kinh
chi giai đệ (bậc thang của Lục kinh). Cận tư lục, “Tứ tử” chi giai đệ (Bậc thang
của “Cận tư lục”, “Tứ tử”)(4).
“Tứ tử” ở đây chỉ “Tứ tử thư” (tức “Tứ thư”). Từ Cận tư lụcthông sang Tứ thư, rồi
lại từ Tứ thư thông sang Lục Kinh, đó là quan hệ giữa các “nội dung” kinh điển của
các bộ, thực ra không có quan hệ với “hình thức” văn bản của tuyển tập. Nhưng,
trong lời nói đầu của Cầu chư tứ quân tử chi toàn thư, cũng có thể coi giữa Cận tư
lục và Tứ quân tử chi toàn thư có quan hệ bậc thang nào đó theo thuyết tồn tại.
Những người đã từng leo bậc thang thì đều biết bậc thang không thể dừng mãi ở
bậc thang. Nói cách khác, mục đích tồn tại của bậc thang chính là để con người
thông qua nó đạt đến một nơi khác.
Cũng như vậy, việc biên tập Cận tư lục cũng không phải chỉ dừng lại ở Cận tư lục,
mà còn thông qua đó để đọc sâu hơn nữa tác phẩm của Chu, Trương và nhị Trình.
Trong đó, bao hàm quan hệ “phương thức và mục tiêu” mà Gadamer đã nêu ra
(Mittel-Zweck-Zusamenhọnge)(5). Xét từ quan hệ giữa phương thức và mục tiêu,
tính chất này của phương thức và mục tiêu cũng có một nhiệm vụ khác, đó là một
khi độc giả đã đạt tới sự lý giải ở một mức độ nhất định, đó là thời khắc thoát khỏi
biên tập (tạm thời). Theo đó, có thể phát huy chức năng biên tập của họ, tức là dựa
trên những hiểu biết của họ để giúp đỡ người đọc hiểu hết; do vậy, cũng có thể từ
đó kéo dài thêm vị thế “thứ giai” (nấc thang sau) nào đó khi so sánh với tư liệu lịch
sử gốc.
Trong “Lời nói đầu của Vân Đài loại ngữ” hoàn toàn không thông qua Vân Đài
loại ngữ để đọc lần lượt những nấc thang của các kinh điển khác, mà nhấn mạnh
nhiều lần bộ sách này là học tập cách vật trí tri. Lấy cách vật trí tri để khảo sát
tam tài, tạc thù bách biến làm mục đích của nó. Nói cách khác, từ Vân Đài loại
ngữ quay trở lại tính chất bậc thang của văn bản khác (giống như thông qua Cận tư
lục quay lại tất cả các sách của tứ quân tử), hoàn toàn không phải là mục đích biên
soạn của Vân Đài loại ngữ. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn có thể tưởng tượng bộ sách
này cũng có cấp độ tính chất tồn hữu luận của “bậc thang”, tuy không hoàn toàn
triệt để. Độc giả nguyên thủy đầu tiên của Vân Đài loại ngữ là Lê Quý Đôn, một
học giả của triều Hậu Lê ở Việt Nam. Ông đã tiếp xúc với không ít kinh điển của
Trung Quốc. Vì vậy, phần điều mục tuyển chọn trongVân Đài loại ngữ và sự mạch
lạc của nó không phải là hoàn toàn mới lạ. Chỉ cần từ nội dung tuyển chọn và ghi
chép lại, quay lại văn bản gốc – cho dù hình thức này là sự liên tưởng trên mạch
học vấn hoặc sự tìm kiếm trên hành động thực tế - đã có thể xem là có tính chất
bậc thang. (Ngoài ra cần phải giải thích là, nội dung của Vân Đài loại ngữbiểu hiện
mức độ nhìn nhận quen thuộc đối với lý học, không thể tưởng tượng được nếu như
nói Lê Quý Đôn hoàn toàn không biết Cận tư lục và mục đích biên soạn của Cận
tư lục).
Trở lại vấn đề liên quan đến “ý chí”. Do Vân Đài loại ngữ có cả hai tính chất văn
bản là “bình luận” và “tuyển tập”, nên nội dung của nó cũng hàm chứa “ý chí tác
giả” và “ý chí người biên soạn”. Tính chất trước của văn bản (bình luận) liên quan
đến vấn đề ý chí tương đối đơn thuần, còn tính chất sau (tuyển tập) thì tương đối
phức tạp hơn. Về tài liệu biên tập và tuyển chọn mà nói, tài liệu được biên tập và
tuyển chọn có tác giả ban đầu (ví dụ đã biên tập và tuyển chọn sách vở của Chu
Hy, tức Chu Hy là tác giả những tác phẩm này). Hơn nữa, tác giả ban đầu có ý chí
của tác giả, có thể gọi là (tài liệu biên tập và tuyển chọn) có “ý chí của tác giả ban
đầu”. Khi đọc các tài liệu dưới hình thức biên soạn và tuyển chọn này, phải đồng
thời hiểu hai loại ý chí (“ý chí của tác giả ban đầu” và “ý chí của người biên
soạn”). Người đọc, ngoài việc phải hiểu ý chí của tác giả ban đầu, cũng cần phải
nắm vững dụng ý biên soạn của người biên soạn đối với những tư liệu này, đặc
biệt nếu người biên soạn tiến hành cắt xén nguyên bản và lấy các văn bản có
nguồn gốc không giống nhau tổ hợp làm một. Như vậy, tuyển tập thực ra cũng có
thể được coi là một tác phẩm “mới”, bởi vì nó tách các đoạn hoặc các câu tương
đối ngắn thoát khỏi văn cảnh trong nguyên bản để chỉnh hợp đến vị trí mới. Đặc
biệt, cách sắp xếp mới này luôn tạo thành quan điểm đọc mới, đồng thời cũng ảnh
hưởng đến cách hiểu của độc giả đối với văn bản ban đầu.
Tổng hợp hai hình thức “bình luận” và “tuyển tập”, quá trình đọc Vân Đài loại
ngữ càng trở thành cách hiểu đối với “ý chí tác giả”, “ý chí của tác giả ban đầu” và
“ý chí người biên soạn”. Như vậy, hành vi đọc bao gồm trình bày hợp lý đối với ba
loại ý chí này. Trình bày như thế nào? Hình thức trước căn cứ vào tính chất bình
luận, hai hình thức sau căn cứ vào tính chất tuyển tập. Ví dụ: nội dung đoạn trích
và nguyên bản không giống nhau (cắt bỏ bộ phận câu chữ); văn tự không bị bỏ sót
nhưng đoạn trích rời khỏi vị trí văn bản gốc; những đoạn văn trích dẫn khác nhau
đan xen lẫn nhau (trong cùng một mục của Vân Đài loại ngữ bao gồm nội dung
những văn bản không giống nhau). Tình trạng này khiến người ta không thể xem
nhẹ vai trò “ý chí người biên soạn”.
Mặc dù Vân Đài loại ngữ có ba loại ý chí đã trình bày ở trên, song “tỷ lệ ý chí”
trong các quyển của tác phẩm hoàn toàn không giống nhau. Ví dụ, mặc dù trong
quyển 1 là thiên “Lý khí” đã bao gồm nhiều khái niệm mà các nhà lý học quen
dùng, đã dẫn ra không ít khuôn mẫu của Âm Dương gia và Dịch học, nhưng ngôn
ngữ và tư tưởng của Lê Quý Đôn cũng nhiều hơn. Quyển 5 thiên “Văn nghệ” thì
không giống như vậy, mặc dù trong đó có không ít quan điểm của Lê Quý Đôn,
nhưng ông đã sao chép tương đối nhiều các tác phẩm kinh điển. Nói cách khác,
trong thiên “Văn nghệ”, “ý chí của tác giả ban đầu” và “ý chí của người biên soạn”
chiếm tỷ lệ tương đối lớn, tuy nhiên “ý chí của tác giả” cũng không thể xem
nhẹ.
II. Nội dung giải thích học của Vân Đài loại ngữ
Có thể coi thiên “Văn nghệ” quyển 5 của Vân đài loại ngữlà một tuyển chọn “văn
luận” của Quảng Ngãi, nội dung của nó bao hàm điều mục cần phải xử lý, giải
thích học. Những điều mục quan trọng này đều lựa chọn từ những tác phẩm của
Tống Nho, dùng khái niệm của Chu Hy, có thể xem là “Phương pháp đọc sách”. Ý
nghĩa của “pháp” rất rộng lớn, bao gồm nguyên tắc, thái độ, phương pháp… Phần
này sẽ phân tích một số đoạn trích của Trương Tải và Chu Hy làm ví dụ thảo luận,
đồng thời phân tích một đoạn bình luận của Lê Quý Đôn.
1. Trước hết, cần xem xét điều mục trích từ Trương Tải (Tử Hậu, Hoành Cừ, 1020-
1077): Đọc sách ít thì không vì kiểm tra được cái hay của ý nghĩa. Sách cần phải
thành công cụ suy nghĩ, không ghi nhớ thì suy nghĩ không ra, nhưng sau khi hiểu
được cái gốc ban đầu, sách cũng dễ nhớ. Thế là không nghi ngờ những chỗ đáng
nghi, mới là tiến bộ(6).
Đoạn trích dẫn trên có thể chia thành ba phần, tổng cộng đưa ra ba thái độ và
phương pháp đọc sách là “đọc sách nhiều”, “ghi nhớ” và “hoài nghi”. Những thái
độ này cũng có thể thấy được trong Nhị Trình tập (chủ yếu là Y Xuyên) vàChu Tử
ngữ loại. Nhìn bề ngoài, chúng ta thấy ba loại thái độ này có hàm nghĩa tương đối
liên quan đến phạm trù “đọc sách”, nhưng thực ra cũng có thể thấy hàm nghĩa giải
thích học - phương pháp “lý giải” tương đối rõ ràng.
“Đọc sách nhiều” là để muốn lý giải tường tận ý nghĩa – nguyên văn của Trương
Tải chỉ rõ hơn mục đích của “tu dưỡng” (cultivation). Đây chính là sự liên kết giữa
giải thích học với việc bàn về tu dưỡng: “thảo luận thêm sau khi đọc sách”; trong
khi đọc sách nhiều hoàn toàn không phải là gia tăng số lượng và số lần đọc sách,
đồng thời còn muốn có thể “thuộc lòng” (kết hợp giữa ghi nhớ và đọc thuộc). Cuối
cùng, không nghi ngờ những chỗ đáng nghi mới là để nâng cao học vấn. Nâng cao
học vấn có liên quan đến tìm tòi học vấn. Cũng có thể nói “thế là không nghi ngờ
những chỗ đáng nghi” là để “giải thích những điều mình còn nghi ngờ). “Hoài
nghi” có thể đổi thành “không hiểu” trong ngôn ngữ của giải thích học, không hiểu
cũng là một phương pháp đạt đến sự hiểu.
2. Hai là, dẫn từ điều mục của Chu Hy
〔
(a) Chu Tử nói: “Phàm là đọc sách, mọi người nói giống và khác nhau là điều dễ
nh ận thấy nhất”(7) ……), (b) Lại nói: “Đọc sách cần phải đọc nhiều lần, nghiền
〔
ngẫm từng câu từng chữ mới thú vị. Nếu có chỗ nào không hiểu, suy nghĩ kỹ; cũng
không hiểu được, sau đó m ới xem chú giải mới có ý nghĩa”(8) ……), (c) Lại nói:
“Khi mới đọc thì tiên đoán lấy ý của mình, lời nói của tiền thánh đều không thể
thâm nhập vào. Đây là cái tật của người đi học thời nay”(9), (d) Phàm những câu
nói này, không có cách nào gợi ý phương pháp đọc cho người học, “liêu niêm xuất
chi”(10).
Để tiện cho việc thảo luận, điều mục này lấy mẫu chữ cái tiếng Anh phân thành số
đoạn. Ba đoạn trích dẫn hầu như tương đương với nguyên văn của Chu Hy, nhưng
về ý nghĩa câu chữ hai đoạn là độc lập với nhau; cho đến câu cuối cùng “phàm
những câu nói này” thì là tổng kết của Lê Quý Đôn, chỉ rõ đây đều là phương pháp
của Lê Quý Đôn. Hơn nữa, ý nghĩa các đoạn độc lập với nguyên văn, chỉ dựa vào
câu này để liên hệ chúng với nhau.
Đi sâu hơn, điều đoạn (a) nói đến là “so sánh quan điểm” ý kiến giữa những người
giải thích, thông qua sự so sánh này mới có thể hiểu kinh văn một cách hiệu quả.
Tham khảo người chú giải hoặc sự giải thích của các nhà Nho, vốn không đưa ra
sự việc, nhưng cũng cần phải thuyết minh một chút về sự khác nhau trong quan
điểm của những người giải thích. Sau nguyên văn của Chu Hy có văn tự dưới
đây: Như Tạ Thương Thái nói như thế này, Dương Khưu Sơn nói như thế kia,
người nào là được? Người nào là mất? Cho nên người được là như thế nào? Cho nên người mất là như thế nào?(7)Được và mất hoàn toàn không đơn giản là đúng và
sai, càng có ý nghĩa lo lắng, khuyết điểm. Đoạn (b) yêu cầu nghiền ngẫm về “bản
văn” (text) và tham khảo chú giải (exegesis). Hơn nữa, dùng “nghiền ngẫm” để
hình dung nắm vững “ý nghĩa” rõ ràng là sự liên hệ cảm quan với ý nghĩa
(meaning). Về “bản văn”, cần có sự thuyết minh một chút. Bất cứ nhà Nho nào
cũng khẳng định nghiền ngẫm “bản văn”, nhưng Chu Hy trong các trước tác khác
và ngữ lục không ngừng nhấn mạnh thái độ kết hợp để xem xét, tức sẽ biết cách
nói này hoàn toàn không ngẫu nhiên. Cách vật trí tri với “độc thư cùng lý” là hai
phong cách trọng yếu của Trình Chu. Hơn nữa, nghiền ngẫm “bản văn” tức là sự
phát hiện đến trình độ cao của phong cách này. Đoạn (c) thì nhấn mạnh rằng, khi
đọc không thể trước tiên có sự quấy nhiễu “tiền kiến" hoặc “tiền phán đoán’ (pre-
judice, pre-judgement), trong mỗi một trình độ cũng có thể nói là đã loại trừ sự lý
giải “tiền kết cấu” (pre-structure). Theo quan điểm của những nhà giải thích học
người Đức (đặc biệt là Heidegger và Gadamer), việc bài trừ triệt để “tiền kết cấu”
hoặc “tiền ý kiến” khi lý giải sự kiện là không thể được.
3. Xem xét quan điểm dưới đây của Khổng Tử, Chu Tử và Thẩm Ước:
Khổng Tử nói: "Từ đạt nhi dĩ hĩ", người thành đạt, gọi là bình dị. Chu Tử nói
“Điều kỳ diệu của đạo lý phần lớn lại ở sự bình dị” và “Kẻ đọc sách lẽ nào không
có mưu lược, lẽ nào không có địa vị cao, lẽ nào không có tài, lẽ nào không thành
đạt”. Thẩm Ước cũng nói: “Văn chương đi kèm với ba điều dễ dàng, dễ thấy sự
việc, dễ tải đạo, dễ thông hiểu sách vở”(11).
“Từ đạt nhi dĩ hĩ” trích từ Luận ngữ - Vệ Linh công là một câu riêng biệt. Chu Hy
chú giải là: “Từ, có được ý nghĩa mà thôi, không lấy sự tráng lệ là tinh tế”. Hà Yến
trong Tập giải từ dẫn Khổng An Quốc mà chú giải là: “Phàm việc gì không cần
thiết lắm, đạt đến sự diễn đạt của từ là đủ rồi, không cần từ ngữ phiền phức”. Ý
nghĩa giải thích của hai câu này gần giống nhau, đều nhấn mạnh sự diễn đạt ngắn
gọn, không cầu cầu kỳ, phức tạp. Nói cách khác, “Từ đạt nhi dĩ hĩ" là nói sáng tác
sự kiện chứ không lý giải sự kiện. Đoạn trích dẫn cuối cùng của Thẩm Ước là cách
nói về ba sự khác nhau trong “Văn chương” của Nhan thị gia huấn của Nhan Chi
Thôi (dễ thấy sự việc, dễ tải đạo, dễ thông hiểu sách vở), cũng không thuộc phạm
trù của giải thích học, bởi cách nói này là sự sáng tạo hợp lý, câu chữ sử dụng đơn
giản và kết hợp dễ dàng. Luận ngữ - Vệ Linhcông và cách nói của Thẩm Ước đều
không thể coi là giải thích học thực sự, chỉ có cách giải thích của Chu Hy mới phù hợp với yêu cầu.(11)
Cách giải thích của Chu Hy về “lẽ nào không có mưu lược, lẽ nào không có địa vị
cao, lẽ nào không có tài, lẽ nào không thành đạt” và “Điều kỳ diệu của đạo lý phần
lớn lại ở sự bình dị” đều liên quan đến thái độ và phương pháp đọc, dường như
cũng đã biểu đạt. Cách nhìn nhận này từ mỗi sự “giải thích” và tu dưỡng đan xen
lẫn nhau (giống như phần thảo luận về Trương Tải ở trên), tức là hiểu văn bản
hoàn toàn không chỉ là hiểu hành vi đơn thuần, mà còn là quá trình an ủi, giải trừ
những buồn phiền trong cuộc sống. Vì vậy, tu dưỡng hoàn toàn không là sự phát
triển hoặc kết quả sau khi lý giải văn bản kinh điển, mà là nhân tố phát sinh đồng
thời với lý giải. Gadamer đem lý giải (Understanding) và ứng dụng (Application)
liên kết với nhau và do vậy, đã mở rộng mức độ thực tiễn của giải thích học. Chu
Hy thì lấy ý nghĩa của “kỹ thuật lý giải” và “tu dưỡng bản thân” (self-cultivation)
thay thế cho nhau; vì vậy, ông đã phát triển ý nghĩa tu dưỡng của giải thích học. Nếu
như kỹ thuật lý giải và quá trình tu dưỡng là hai thành tố tồn tại đồng thời, thì
phương pháp học và nhân văn học sẽ có một mối liên hệ nội tại mật thiết. Kỹ thuật
sẽ không chỉ áp chế đối với cái tồn hữu, mà còn có thể bồi dưỡng và tạo thành cái
tồn hữu.
Nhìn tổng thể, Lê Quý Đôn lấy “bình dị” để giải thích “đạt” trong thiên “Vệ Linh
công”. Đó là một sự khiêm nhường nếu nhìn từ cách dùng từ "tam dị" của Thẩm
Ước và bình dị của Chu Hy.
4. Quan điểm của Lê Quý Đôn:
Cuối đời Nam Tống, người soạn kinh điển không đọc văn bản và chú giải của các
nhà Nho thời trước, nhưng lấy những bài văn tuyển chọn trong khoa cử trong
những đời gần đây, mô phỏng bắt chước, lựa chọn trong những kinh điển có thể
xem là câu của đề mục, dùng ý nghĩa gượng ép, dựa theo đưa ra chủ trương, cách
thi cử này đáng chê trách, trong khi sau này đầy sự gian lận (…). Đọc sách không
xem ý chỉ lớn, mệnh đề không đề cao chính nghĩa, thì không thể trách sự lộn xộn
này được(12).
Điều mục này không là tuyển văn, mà là quan điểm riêng của Lê Quý Đôn. Xem
xét từ nội dung, sự phê bình của Lê Quý Đôn là nhằm vào tình hình thi cử khoa
bảng mà đọc sách của thánh Trình; hơn nữa, trong đó quay về danh hiệu thi đình
của Chu Hy. Theo đó, lập trường và ảnh hưởng của Chu Hy đối với thi cử không
thể không có liên quan. Chu Hy cho rằng, “Gần đây người thực sự đọc sách không
ít, cũng noi theo khi khoa cử, mới đem sách ra đọc, bèn lập ra trước ý tứ, muốn nói
điều mới lạ, đều không hiểu ý muốn thực sự của họ là gì”(13); rằng, “Học hành
cần phải cố gắng hết sức mình mới có được kiến thức sâu sắc. Hiện nay, người học
hành chỉ muốn dùng để đi thi cử; dĩ cập đệ, thì dùng tạp văn; người cao hơn, thì
dùng cổ văn, đều xem xét cái bên ngoài”(14). Nhưng với cách bình luận điều mục
trên, càng tiếp cận Tượng Sơn (Cửu Uyên, 1139 - 1193) (Bạch Lộc Động thư viện
giảng nghĩa)(16), trong đó “công sức dễ dàng” và “sự nghiệp tan tành” là sự khác
biệt về phán ngữ của Tượng Sơn với học vấn của Chu Hy.
Nhìn nhận về mặt giải thích học, ý nghĩa chính trong bình luận trên của Lê Quý
Đôn khi tán dương học vấn của thánh Trình mà chê bai thi cử khoa bảng, chẳng
qua là câu “lựa chọn trong những kinh điển có thể xem là câu của đề mục, dùng ý
nghĩa gượng ép, dựa theo đưa ra chủ trương”… mặc dù mâu thuẫn vẫn chỉ hướng
đến khoa cử, cũng có thể thấy thái độ giải thích đối với kinh văn, xem như là liên
quan đến lý giải sự kiện. Sự đối lập giữa “nghĩa lý của thánh Trình” với “thi cử
khoa bảng”, đến sự khác biệt giữa “công sức dễ dàng” và “sự nghiệp tan tành”, về
mặt hình thức, là sự bất đồng trên con đường học vấn (tôn đức tính và đạo vấn
học). Nhưng, nhìn nhận sâu sắc hơn, có thể thấy đó là sự phát hiện vấn đề trong
giải thích học. Lý do của sự tranh luận con đường học vấn hoặc sự nghiệp này,
quanh đi quẩn lại vẫn là lý giải chính xác nghĩa lý kinh điển trong văn bản như thế
nào; hơn nữa, “lý giải nghĩa lý” văn bản kinh điển, tức dẫn dắt đến “lý giải ý
nghĩa” văn bản kinh điển. Lục Tượng Sơn thường tuyên xưng khi đọc sách của
thánh Trình là “trước tiên tạo lập cái lớn” “mở mang cõi lòng mình” và Chu Hy
chỉ trích những học giả kiểu như Lục Tượng Sơn đọc nghĩa lý kinh thư không tỉ
mỉ, không chỉ là sự tranh luận về học vấn của các nhà Nho, mà còn là sự tranh luận
về giải thích học. Sự bình luận của Lê Quý Đôn,một mặt, biểu hiện sự hàm chứa
“có học vấn” tính chất lý giải sự kiện; mặt khác, cũng đề cập đến Chu Hy và khoa
cử, vì vậy mà gián tiếp liên quan đến sự khác biệt về từ giữa Chu Hy và Lục
Tượng Sơn, dẫn đến sự khác biệt về giải thích học.
5. Kết luận
Bài viết này tiến hành phân tích sự giải thích học của Vân Đài loại ngữ từ hai
phương diện là hình thức văn bản và nội dung. Thông qua phân tích đối với hình
thức, bài viết đã đưa ra kết luận cho rằng, trong tuyển tập và bình luận, người biên
soạn và tác giả khi lý giải sự kiện có giải thích học – tính chất tồn hữu luận. Thông
qua phân tích đối với nội dung, bài viết lấy sự tuy(cid:0)(cid:0)
TRÍ THỨC KHOA HỌC - VỐN VÀ HÀNG HOÁ QUÝ HIẾM TRONG THỊ
TRƯỜNG KINH TẾ TRI THỨC
TRẦN CAO SƠN (*)
Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra những luận chứng để khẳng định trí thức khoa
học là nguồn vốn và hàng hoá đặc biệt quý hiếm trong thị trường kinh tế tri thức.
Theo tác giả, Việt Nam đi vào kinh tế tri thức là một tất yếu khách quan và để làm
được điều đó, rất cần có một đội ngũ trí thức có trình độ cao, có năng lực sáng tạo
và cống hiến vì sự phát triển của đất nước. Nhằm xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức, họ cần được tạo cơ hội để phát triển và lao động sáng tạo, được sử
dụng hợp lý và đãi ngộ tương xứng với sự cống hiến của mình.
1. Xu thế thời đại
Trong lịch sử phát triển của khoa học - kỹ thuật, cuộc cách mạng hiện nay được
coi là cuộc cách mạng lần thứ 3. Theo K.Thurow, cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ ba được đánh dấu bằng sự quá độ từ các hệ thống kinh tế quốc gia sang
nền kinh tế toàn cầu. Cũng giống như cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
được đánh dấu bằng sự thay đổi các hệ thống kinh tế địa phương bằng các hệ
thống kinh tế quốc gia.
Nếu như cuộc cách mạng lần thứ hai được đặc trưng bởi "sự phát triển có tính
rượt đuổi" dựa trên sự sao chép các công nghệ hiện có, thì cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba đòi hỏi sự phát triển có tính độc lập, có tính tích cực và
sự tăng trưởng gấp nhiều lần, tri thức là điều kiện cơ bản để mang lại thành tựu
kinh tế hiện đại.
Cục diện thế giới ngày càng có những thay đổi to lớn, khi cuộc cách mạng khoa
học - kỹ thuật mới lấy công nghệ thông tin làm trung tâm phát triển sôi động, các
nước đang phát triển phải đối mặt với nhiều thách thức gay gắt..., chúng ta phải cải
cách hơn nữa thể chế kinh tế chính trị và thể chế giáo dục để theo kịp trào lưu thời
đại, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Rất nhiều xung đột bề ngoài xem ra mang tính chính trị, song trên thực tế lại bao
hàm sự khác biệt căn bản và sâu xa về tri thức. Sự xung đột nội bộ và chính trị của
thời đại chúng ta không đơn giản chỉ là hoặc thậm chí, chủ yếu không phải là
những vấn đề chính trị hoặc kinh tế, mà về cơ bản là vấn đề tri thức, bắt rễ sâu ở
quan niệm giá trị và cảm giác hình thành trong lịch sử.(*)
2. Xã hội kinh tế tri thức: xã hội nhân tài
- Nhân tài là cốt lõi của tri thức: ở thời đại kinh tế tri thức, sự thành bại của doanh
nghiệp trên thực tế được quyết định bởi sự quản lý của con người. Cầu tài, nhận
biết người tài, chăm sóc bồi dưỡng nhân tài, sử dụng người tài là tố chất cần phải
có đối với mỗi một nhà quản lý doanh nghiệp thành công.
- Trong quản lý doanh nghiệp tiên tiến, con người là nhân tố rất quan trọng. Giỏi
về lựa chọn người là một điều cần thiết phải có đối với một nhà doanh nghiệp ưu
tú. Trong thời đại kinh tế tri thức, nếu chỉ dựa vào sức mạnh cá nhân sẽ khó làm
tốt được. Vì vậy, các nhà doanh nghiệp phải biết tuyển chọn người, sử dụng người
và phân quyền ở mức độ thích hợp.
- Ở thời đại kinh tế tri thức, khoa học và kỹ thuật cao phát triển nhanh chóng thì
tiêu chí của cạnh tranh được biểu hiện ở sự đọ sức về kỹ thuật.
Con người là mục đích vận hành của xã hội. Xã hội kinh tế tri thức xuất phát từ
con người, khai thác con người, phục vụ con người; xã hội kinh tế tri thức là xã
hội nhân tài.
Được nhân tài, được thiên hạ; mất nhân tài, mất thiên hạ. Người Mỹ phải mất 3 lần
đến Đức mới mời được A.Einstein. Nước Mỹ dùng tiền mua những nhà khoa học
đoạt giải Nobel nhằm tăng cường nội lực khoa học của mình. Trên một trăm năm
về trước (1905), thiên tài A.Einstein với lý thuyết tương đối và hệ thức nổi tiếng E = m.c2 đã đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên bùng nổ của tiến bộ khoa học. Theo
ông, sáng tạo vĩ đại đòi hỏi những sự thực nghiệt ngã và những bước nhảy phi
lôgíc tới phía trước mà sau này được chứng minh là đúng đắn do việc lùi lại
những nguyên lý đã biết. Chỉ có những kẻ nổi loạn mới có thể làm được điều đó.
Nổi loạn ở đây có nghĩa là sự táo bạo khám phá những cái mới, không chấp nhận
bước theo lối mòn vạch sẵn, vượt khỏi những quy luật tư duy thông thường (TCS).
Một trong những bí quyết thành công của Thung lũng thần kỳ Silicon chính là
những tư tưởng triết học trong phát triển của họ: "Thất bại cũng chẳng hề gì";
"Biết dung nhận sự hỗn loạn có tính sáng tạo"; "Hãy làm người cạnh tranh mãnh
liệt nhất của chính mình"... Các nhà khoa học luận thế giới đã tìm ra một kết luận
chung nhất về các nguyên lý dẫn tới thành công: "Thành tựu của Silicon đã chứng
tỏ tư tưởng con người là điều quan trọng bậc nhất cho đổi mới, mà việc bồi dưỡng
nên tư tưởng và tố chất chỉ có thể thực hiện được thông qua tương tác xã hội. Mục
tiêu và nhiệm vụ của quản lý tri thức là phải tạo ra một môi trường sinh thái nhân
văn thích hợp. Nhân tố nhân văn trong khoa học - kỹ thuật cao còn quan trọng hơn
so với chính nhân tố kỹ thuật". Phải chăng đây là sự kế thừa và phát triển tư tưởng
vĩ đại của A.Einstein trong thời đại mới và nhờ vậy họ đã trở nên thần kỳ?
Người Trung Quốc đã sử dụng triết lý thuận - nghịch cổ xưa một cách nhuần
nhuyễn, biến cái nghịch không giống ai - quy mô và áp lực dân số khổng lồ - thành
cái thuận hiếm có, tức là một quốc gia có tiềm năng lao động, nguồn lực trí tuệ
hùng hậu không ai sánh kịp, đáp ứng nhu cầu săn lùng chất xám toàn cầu. Trung
Quốc trở thành điểm đến của trí thức khoa học thế giới thuộc hầu hết các lĩnh vực,
làđại học đường tinh luyện nhân tài cho mình và thế giới. Trung Quốc đã quán
triệt sâu sắc quan điểm ủng hộ trí thức khoa học, chiêu mộ hiền tài. Gần đây, nhiều
nhà khoa học danh tiếng từ các nước phương Tây đã trở về Trung Quốc, họ được
hưởng nguyên số lương như ở nước ngoài, được cấp nhà, cấp xe và nhiều điều
kiện vật chất khác. Mức sống thực tế của họ tăng lên nhiều so với trước.
3. Kinh tế tri thức và đội ngũ trí thức khoa học Việt Nam - những ẩn số chưa có lời
giải
Việt Nam đi vào kinh tế tri thức là tất yếu. Phát triển kinh tế tri thức là phương
thức để rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến. Hai nhiệm vụ song hành lồng
ghép, hòa quyện hỗ trợ, bổ sung, đó là từ kinh tế nông nghiệp tiến thẳng vào nền
kinh tế công nghiệp, từ kinh tế công nghiệp tiến vào kinh tế tri thức. Công nghiệp
hóa của Việt Nam được thực hiện trong thời đại khoa học - kỹ thuật đạt trình độ
cao với thuộc tính cơ bản nhất là tính hiện đại. Suốt mấy trăm năm vật lộn trên lộ
trình công nghiệp hóa, các nước đi trước có bước đi mang tính tuần tự, kế tiếp, lúc
tiệm tiến, khi nhảy vọt, là một chuỗi liên hoàn theo thời gian kéo dài hàng thế kỷ.
Lịch sử không lặp lại các bước đi ấy với những nước đi sau. Công nghiệp hóa của
Việt Nam là mô hình khá chuyên biệt, chưa có tiền lệ, đòi hỏi đến mức nghiệt ngã
những yêu cầu: hiệu quả - chất lượng - tốc độ - thời gian - cơ hội.
Đúng như P.Drucker, nhà khoa học luận và nhà kinh tế hàng đầu của Mỹ đã
nói: các nước đang phát triển không thể mong chờ đặt sự phát triển của mình dựa
trên lợi thế so sánh về lao động - tức lao động công nghiệp rẻ được nữa. Lợi thế so
sánh có hiệu quả bây giờ phải là ứng dụng tri thức. Việt Nam không có mặt trong
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, đứng ngoài lề cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ hai, bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba từ hoàn cảnh
sau hơn một thế kỷ bị nô dịch, chiến tranh, cô lập, cấm vận, nền kinh tế và hạ tầng
kỹ thuật vốn yếu kém lại bị tàn phá nặng nề. Chúng ta chưa được tập dượt ở sự
phát triển có tính rượt đuổi thì đã phải sẵn sàng bước vào sự phát triển có tính độc
lập, có tính tích cực và sự tăng trưởng gấp nhiều lần tri thức. Đó là một thách thức
lớn.
Các quan điểm về một giải pháp cho Việt Nam được đưa ra rất phong phú. Các khái
niệm: tạo khâu đột phá, thực hiện nhiệm vụ kép, xây dựng khu công nghệ cao, có
chính sách thu hút nguồn nhân tài, có chiến lược phát triển nguồn lực con người,
v.v. đã thể hiện một quyết tâm có tính khả thi đối với Việt Nam.
Chúng ta "đi tắt đón đầu" - như Đại hội VIII đề ra - có nghĩa là chúng ta phải đi
nhanh vào kinh tế tri thức. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta phải sử dụng
những tri thức mới nhất, khoa học và công nghệ mới nhất của thời đại. Chúng ta phải
kết hợp nhiệm vụ công nghiệp hoá với nhiệm vụ đi vào nền kinh tế tri thức làm một;
không thể tuần tự kết thúc giai đoạn này mới đến giai đoạn khác.
Đương nhiên, ở đây, khái niệm “đi tắt đón đầu” nên hiểu như thế nào cho đúng,
không thể hiểu nôm na cơ học như “đánh du kích” trong rừng núi thời chiến tranh.
Muốn đi tắt thì cần hai điều kiện. Thứ nhất, kẻ đi trước phải đi đường vòng; thứ
hai, người đuổi sau phải đủ sức mở đường tắt, đường mới. Mở đường tắt không
phải đơn giản khi kẻ đi trước đang băng băng trên xa lộ. Cả hai yếu tố này hình
như không hiện hữu trong cuộc chạy đua kinh tế và trí tuệ thời đại ngày nay. Các
nước đi trước đã tìm ra con đường ngắn nhất, tiếp cận nhanh nhất mục tiêu lựa
chọn. Chúng ta tìm đường nào để đi tắt quả không phải là chuyện đơn giản. Không
thể cứ nói cho vui, cho thêm lòng tự tin mà được.
Bước chung trên một con đường của khoa học và trí tuệ với trăm nghìn thách thức,
phương cách duy nhất của kẻ đi sau là tăng tốc và rượt đuổi, đúng cả trong nguyên
lý vận hành, cả trong thực tiễn. Giữ vững khoảng cách với các nước tiên tiến đã khó,
lại phải tăng tốc và rượt đuổi để rút ngắn khoảng cách, đó thật sự là một thách đố
với nhiều ẩn số. Tìm được lời giải đã khó, nhưng chấp nhận lời giải còn khó gấp
trăm lần. Bỏ nhiều của vay mượn để mua sắm cái tốt nhất về dùng không phải là
nguyên lý của “đi tắt đón đầu” trong sự thay đổi và cạnh tranh hiện nay.
Cần phải tạo lập chuẩn mực giá trị cho khoa học và nhà khoa học, đặt khoa học lên
đài vinh quang, kéo họ trở về với bản ngã đích thực. Đây là một khâu đột phá quan
trọng. Xây dựng đất nước thành vườn ươm trí tuệ, tạo dựng hình tượng người khổng
lồ trong sáng tạo và cống hiến.
P.Druker, người được mệnh danh là cha đẻ của nền quản lý kinh tế hiện đại, có
một câu nói nổi tiếng, đó là "Những hậu quả về vật chất mà một dân tộc phải gánh
chịu, có thể còn khắc phục được, nhưng những hậu quả thiệt hại về mặt trí tuệ thì
không bao giờ; tri thức trở thành nguồn của cải mới, là điều chưa diễn ra trước
đây”.
Hy vọng từ đây sẽ đặt ra nhiều vấn đề cần cân nhắc, xem xét đối với chính sách
khoa học và đội ngũ trí thức khoa học trong công cuộc cải cách hành chính mà
chúng ta đang tiến hành.
4. Thực trạng về đội ngũ trí thức khoa học Việt Nam: đối tượng nhạy cảm ở
nhiều khía cạnh liên quan
Một câu hỏi lớn thường trực trong đời sống xã hội, vừa truyền thống vừa thời sự,
đó là vấn đề trí thức khoa học, vấn đề người thầy trong nghiên cứu, giảng dạy, đào
tạo. Một sự kỳ vọng lớn và liên quan đến nó là chiến lược xây dựng đội ngũ, chính
sách nuôi dưỡng nguồn tiềm năng trí tuệ trong chiến lược phát triển.
Đó là điều may, bởi dân tộc nào biết quan tâm thì dân tộc đó thành công, đặc biệt
trong cuộc thương chiến toàn cầu trình độ cao hiện nay.
Một lẽ giản đơn, trong nó hàm chứa giá trị siêu việt của một tài sản, một nguồn
vốn, một hàng hoá thượng đẳng siêu lợi, khó tính hết lãi suất xã hội do nó tạo ra.
Trí thức là một phạm trù rộng, đa dạng về cách hiểu với một loạt khái niệm, định
nghĩa không nhất quán. Nếu như anh chàng AQ của văn hào Lỗ Tấn hiểu “cách
mạng là cách mẹ cái đầu” đầy hài hước, thể hiện sự thô sơ, mộc mạc và
không chuẩn xác của người nông dân Trung Quốc đầu thế kỷ trước về cách mạng,
thì chí ít trong đó vẫn hiện hữu những hạt nhân hợp lý. Còn ở đây, mọi thao tác hoá
về khái niệm trí thức nhằm tìm ra diện mạo đặc trưng e sẽ có độ dung sai lớn hơn
nhiều, khó tìm được sự đồng thuận.
Trong nội dung bài viết này, chỉ xin đề cập tới một đối tượng cụ thể, đó là đội ngũ
giáo sư, phó giáo sư, những người được Nhà nước xét phong chức danh khoa học.
Họ nằm trong cái chung của trí thức khoa học, làm công tác nghiên cứu, đào tạo
trình độ cao tại các trường đại học và các viện nghiên cứu chuyên ngành, được xét
công nhận trên nguyên tắc thực hiện đúng và đủ những quy định về thành tích
khoa học và đào tạo theo các tiêu chí quy định. Đây chính là đối tượng mà dư luận
xã hội luôn quan tâm.
Các quy chế của Nhà nước trong xét công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư đã
thể hiện rõ những đặc trưng hoạt động: lao động trí tuệ, sáng tạo, phát minh,
truyền thụ và đào tạo ở trình độ cao và trải qua một quá trình lâu dài; sản phẩm lao
động của họ là tri thức, là đào tạo nguồn lực trí tuệ. Đối với chương trình đào tạo
bậc cao, đại học và trên đại học, việc truyền thụ không thuần tuý chỉ mang đến cho
người học cái đã có sẵn như giáo dục phổ thông, mà quan trọng hơn là phải cung
cấp cho họ những cái chưa có sẵn, được người thầy tự nghiên cứu làm ra, mới mẻ,
hiệu quả, đúng yêu cầu, làm phong phú khoa học và nâng tầm người được đào tạo.
Để có được chứng chỉ công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư, các nhà khoa học
phải trải qua một lộ trình lâu dài, công phu.
Tuyệt đại bộ phận những người có chức danh khoa học, không có chức vụ quản lý
nhà nước, hoặc các địa vị xã hội khác, mà chỉ thuần tuý làm khoa học trong các cơ
sở khoa học và đào tạo thì mức thu nhập không khác gì công chức bình thường.
Cuộc sống thiếu thốn do lương thấp, không được trọng thị, kính nể, mặc dù cái uy
tín trong học thuật của họ là rất đáng quý. Xét trong cả cuộc đời lao động nghiên
cứu khoa học, đào tạo trình độ cao mà đội ngũ khoa học hàng đầu có mức thu nhập
thấp kém như ở Việt Nam là điều chưa từng có ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.
Họ trở thành thành phần yếu kém của xã hội về đời sống kinh tế. Đây chính là
nguyên nhân của những tiêu cực trong giới trí thức mà xã hội thường bàn tới:
- Xin chuyển đi nơi khác có thu nhập cao hơn, đi làm thuê cho các tổ chức phi
chính phủ, cho các tổ chức nước ngoài, thậm chí cho cả chính học trò của mình.
Việc làm trở nên vô thức, rất hồn nhiên. Tất cả vì đồng tiền, vì cuộc sống.
- Chấp nhận các tiêu cực trong giảng dạy, “chạy sô” dạy thêm, dạy thuê cho các cơ
sở ngoài nhà nước có mức thù lao cao, cầm chừng công việc được giao. Chấp nhận
mọi sự chi phối để có thêm thu nhập.
Những người làm khoa học chân chính, người thầy chân chính thì vẫn giữ đúng
phẩm giá của mình: giấy rách giữ lề; sinh nghề, tử nghiệp; đói sạch, rách
thơm… Dù trong hoàn cảnh nào, họ vẫn luôn lấy công việc chuyên môn làm lẽ
sống, hoàn thành tốt trách nhiệm và thực sự có những đóng góp lớn lao, có ý nghĩa
cho khoa học và cho sự nghiệp đào tạo. Đây mới chính là cái mà chúng ta đang gọi
là trí thức khoa học, là người thầy, là đối tượng thứ thiệtchúng ta cần biết và phải
có chế độ như thế nào cho hợp lý, tương xứng với sự đóng góp của họ.
Như vậy, mỗi con người đều biết được cái vốn hàng hoá mà mình đang có và đã
biết tìm hướng kinh doanh hợp lý theo cách riêng. Hãy nên coi đó là vốn, là hàng
hoá quý hiếm của đất nước và người có trách nhiệm kinh doanh có lãi nhất, hiệu
quả nhất chính là Nhà nước thông qua các chính sách sử dụng.
Xét theo bình diện chung trên thế giới, nhất là đối chiếu với hệ thống đại học của
các quốc gia tiên tiến, cấu trúc hệ thống nghiên cứu khoa học và đào tạo bậc cao
nước ta thuộc loại không giống ai.
Hệ thống đại học của các nước tiên tiến trên thế giới nhìn chung là hệ thống khép
kín, hoàn chỉnh, tổng thể, bao gồm cả nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và
đào tạo. Các viện nghiên cứu nằm ngay trong hệ thống các trường đại học. Hệ
thống các viện nghiên cứu khoa học của Việt Nam (Viện Khoa học xã hội, Viện
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ) với gần một trăm viện nghiên cứu chuyên
ngành và hàng ngàn nhà khoa học có kinh nghiệm và trình độ lại nằm riêng biệt,
tách khỏi đại học. Các trường đại học thì thiếu đến mức trầm trọng đội ngũ cán bộ
giảng dạy có trình độ cao. Mấy năm gần đây, hàng loạt trường đại học mới được
thành lập: trường chính quy nhà nước, trường dân lập, bán công, trường đa khoa,
chuyên ngành. Đội ngũ giảng viên được thu gom theo nhiều dạng: người đã nghỉ
hưu nhưng còn khả năng và nhu cầu phục vụ, giáo viên các trường cao đẳng
chuyển lên, sinh viên mới tốt nghiệp loại khá giữ lại và một đội ngũ đông đảo cán
bộ thỉnh giảng chưa qua chọn lọc. Trong khi đó, nhiều nhà khoa học có trình độ
thuộc hai viện khoa học lớn vẫn chưa được sử dụng thoả đáng trong mặt trận này.
Đội ngũ trí thức khoa học Việt Nam nằm trong thực trạng: vừa thiếu, vừa thừa;
hợp tác không chặt chẽ, không phát huy nội lực sáng tạo cá nhân, vị kỷ và thiếu tự
tin. Đó là đặc điểm nổi bật.
Chúng ta có một đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo về số lượng và rải khắp mọi
lĩnh vực. Nhưng chưa bao giờ Việt Nam có được một công trình khoa học hay một
phát minh lớn nào xứng đáng với tầm quốc tế. Những học sinh giỏi toán, lý, hoá
đoạt giải trong các kỳ thi quốc tế rất đáng khen, nhưng chỉ một thời gian sau lại tan
biến đâu mất.
Phấn đấu để có số lượng đông đảo người có bằng cấp tính trên đầu dân là điều
không khó. Nhưng cái khó là chất lượng của đội ngũ ấy sẽ như thế nào và sử
dụng họ ra sao. Bằng cấp muốn cấp, muốn trao là có ngay, nhưng trí tuệ thì không
phải thế. Chưa thấy một chân dung khoa học nào thực sự là niềm tự hào của Việt
Nam trước thế giới. Huống chi đến khi có thêm hàng vạn người có bằng cấp được
đào tạo vội theo chỉ tiêu thì sẽ ra sao? Biết bao nhiêu vị sau khi có đầy đủ học hàm
học vị là lập tức rời khỏi mặt trận khoa học và tiến thân vào con đường khác. Bằng
cấp, chứng chỉ nằm trong tủ như một kỷ niệm. Kiến thức khoa học mới manh nha đã
chìm vào dĩ vãng. Đương nhiên, đối tượng này chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ.
5. Lời kết: Ngày xưa, Đại sư Huyền Trang đời Đường sang Tây Trúc thỉnh kinh.
Thầy trò Đường Tam Tạng nếm trải 81 kiếp nạn đầy kỳ thú. Họ đi Tây Thiên theo
chỉ dụ của Hoàng đế Đại Đường vì Trung Quốc chưa có chân kinh, chưa có cái
gốc Chân - Thiện - Mỹ của Phật tổ Như Lai. Rốt cuộc, họ cũng đến đích và mọi
người đều nhận được phần thưởng xứng đáng, thoả công gian khổ .
Nghìn năm sau, đoàn người Việt Nam cũng sang trời Tây, nhưng là Tây Âu chứ
không phải Tây Trúc để học và nhận bằng cử nhân, tiến sĩ, khó khăn không kém.
Nhưng rồi cái nhận được sau khi “tu hành chính quả” lại là hàng loạt những nổi
cộm xã hội. Cái vốn trí tuệ và văn hoá quả thật khó hạch toán thông thường. Họ
thực sự trở thành một nhóm xã hội đặc hữu cho thị trường kinh tế, văn hoá, trí tuệ
đất nước. Cái lợi nhuận mang lại là rất lớn, không thể đo đếm thông thường .
Chúng ta có thể nhắc lại lời của Prigogine: tôi tin rằng mỗi người chúng ta đều có
một tài năng, nhưng mới chỉ có ít người trong chúng ta có được ưu đãi để thể hiện
nó. Điều này đã minh chứng cho vấn đề tạo lập cơ hội cho mỗi cá nhân trong thời
đại mới đến nhường nào, và các quốc gia trên đây đã sớm ý thức được. Hy vọng
Việt Nam cũng sớm có tên trong danh mục ấy.q
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Xã hội học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
VỀ CHƯƠNG TRÌNH CẢI TỔ CÁC MÔN KHOA HỌC MÁC - LÊNIN
NGUYỄN VĂN VỊNH (*)
Trong xu thế chung của cải cách giáo dục, vài năm trở lại đây, Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã thành lập nhóm biên soạn lại giáo trình các môn khoa học Mác - Lênin
dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên trên toàn quốc. Hai năm
trở lại đây, Trung tâm bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin cùng với nhóm làm việc của
Bộ Giáo dục và Đào tạo về chương trình này đã tổ chức tập huấn cho giảng viên
khối không chuyên trên toàn quốc. Mặt khác, hiện cuốnGiáo trình mới về các môn
học này đã được xuất bản dưới tên gọi Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Bộ Giáo dục và Đào tạo (TS.Phạm Văn Sinh và GS,TS. Phạm Quang
Phan - Đồng chủ biên), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. Qua quá trình tập
huấn và đưa vào giảng dạy, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề liên quan
đến Giáo trình này cần phải trao đổi. Cũng cần nói ngay rằng, trong bài viết này,
chúng tôi chưa đi sâu vào phân tích cụ thể nội dung, mà mới chỉ đưa ra một số ý
kiến về hình thức khoa học và cách tổ chức kết cấu chung của Giáo trình này. Ai
cũng hiểu một công trình khoa học nào đó trước hết phải đảm bảo những tiêu
chuẩn tối thiểu về lôgíc, kết cấu của nội dung, khi các tiêu chí này chưa đạt yêu
cầu thì các vấn đề khác không cần đặt ra. Chúng tôi đã có dịp trao đổi trực tiếp
với hai đồng tác giả tại đợt tập huấn ở Cửa Lò (Nghệ An) hồi tháng 8 vừa qua.
Mặc dù vậy, chúng tôi vẫn mong có sự phản hồi chính thức của nhóm biên
soạn Giáo trìnhđể thông qua trao đổi, chúng ta có được một Giáo trìnhhoàn thiện
hơn. Mới đây đã có bài viết của tác giả Lê Trọng Ân (và chúng tôi chia sẻ những ý
kiến này) đăng trên Tạp chí Triết học - số 10 (221) 2009; vì vậy, chúng tôi xin lược bỏ những ý kiến trùng lặp.(*)
1. Về chủ trương, chúng tôi ủng hộ việc cắt giảm thời lượng cũng như sự cần thiết
phải biên soạn lại một phần nội dung của các môn học (Triết học Mác -
Lênin; Kinh tế - chính trị học; Chủ nghĩa xã hội khoa học; Lịch sử Đảng vàTư
tưởng Hồ Chí Minh). Về thời lượng, trước đây, những môn này có thời gian giảng
dạy thực tế là 330 tiết (đối với khối các trường không chuyên), hiện cắt xuống còn
10 tín chỉ (tương đương với 225 tiết). Từ trước đến nay, vẫn có dư luận cho rằng,
thời lượng cũ là quá dài đối với các môn thuộc phần giáo dục đại cương. Với mục
tiêu hội nhập và tăng cường cho các môn chuyên ngành trong cấp đào tạo đại học,
cao đẳng, việc cắt giảm này là cần thiết. Về nội dung các môn học, cụ thể là 3
môn: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác - Lênin và Chủ nghĩa xã
hội khoa học, cũng được co lại và biên tập lại; song, vấn đề ở đây là biên tập như
thế nào? Điều quan trọng nhất khi cắt giảm về thời lượng là vẫn phải giữ được
trình tự lôgíc, nội dung, các nguyên lý và quy luật cơ bản của ba môn khoa học
trên, điều này trong khoa học gọi là sự tinh giản vững chắc. Đáng tiếc là nhóm
tác giả đã không hiểu được yêu cầu tối thiểu đó về mặt khoa học, cái này trong
môn Cờ tướng gọi là “chưa sạch nước cản”. Vì vậy, ở 3 phần (9 chương) thể hiện
ba môn học này đã bị cắt giảm một cách cơ học, tuỳ tiện nên ngay cả những giảng
viên có chuyên môn vững cũng chẳng hiểu “đầu cua tai nheo” của môn học này là
gì - chưa kể phần Triết học có 3 chương thì 2 chương trùng nhau.
2. Tên của môn học hiện dùng là: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin (hiện nay, các giảng viên và sinh viên gọi tắt là môn nguyên lý), chúng tôi
nhận thấy đây là sự lắp ghép gượng gạo 3 môn khoa học có đối tượng nghiên cứu
tương đối độc lập với nhau. Đối tượng của Triết học là những quy luật chung nhất
về sự vận động và phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; vấn đề cơ bản nhất của
triết học là quan hệ giữa tồn tại và tư duy; đối tượng của Kinh tế chính trị học là
những mặt chung nhất, cơ bản nhất của hệ thống quan hệ sản xuất xã hội trong mối
quan hệ với lực lượng sản xuất, tức là những mối quan hệ giữa người với người
được hình thành trong quá trình sản xuất, quản lý, phân phối, trao đổi và tiêu dùng
của cải vật chất; nghiên cứu các quy luật kinh tế của sự hoạt động và phát triển các
hình thái kinh tế trong lịch sử. Kinh tế chính trị học là ngành khoa học có tính giai
cấp sâu sắc. Môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng có đối tượng nghiên cứu của
riêng nó. Theo C.Mác và Ph.Ănghen, chủ nghĩa xã hội khoa học trước hết là một
trào lưu tư tưởng, trên cơ sở đó xây dựng thành công chế độ xã hội. Xuất phát từ
sự phân tích chế độ tư bản chủ nghĩa tại các nước phát triển nhất ở châu Âu giữa
thế kỷ XIX, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cho rằng, tất yếu sẽ dẫn đến sự
bùng nổ cách mạng xã hội nhằm xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và chuyển lên chủ nghĩa
xã hội. Việc xác định đối tượng nghiên cứu của mỗi khoa học là tiền đề cơ bản cho
sự tồn tại và phát triển của mỗi khoa học. Trình tự phổ biến mang tính bắt buộc,
trường quy với mỗi môn khoa học nào đó khi đưa vào giảng dạy là: Khái luận
chung về môn học - tóm tắt lịch sử môn học - các nguyên lý, quy luật… Như vậy,
trong trường hợp này, đối tượng, phương pháp, lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin
sẽ được giới thiệu, phân tích nhằm giúp người học hiểu được tính khoa học, tính
chân lý, sự tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin so với các học thuyết trước đó.
Chính vì sự cắt xén tuỳ tiện nên bản thân các tác giả đã không chỉ ra được đối
tượng của môn học (xin tham khảo thêm bài của tác giả Lê Trọng Ân). Nếu để như
vậy, chúng ta sẽ thấy đây là một môn học không có đối tượng nghiên cứu cụ thể,
không có phương pháp luận thống nhất và trong trường hợp này, nó không đủ tư
cách trở thành một môn khoa học để có thể đưa vào giảng dạy cho cấp đại học và
cao đẳng. Về mặt định danh khoa học, ai cũng biết rằng một chủ nghĩa nào đó là
“hệ thống lý luận về chính trị, triết học, kinh tế, văn hoá, nghệ thuật thể hiện bằng
quan niệm, quan điểm, lập trường, khuynh hướng, phương pháp luận, phương
pháp sáng tác… do một người hay một tập thể đề xuất”… các thuật ngữ này khi
chuyển sang ngôn ngữ Ấn - Âu có "hậu tố ism, isme, thí dụ. idealisme,
materialism…” (Từ điển Bách khoa Việt Nam). Các môn khoa học cụ thể sẽ có vĩ
tố là logie (thí dụ: Biologie, Geologie…) hoặc là các Studies (nghiên cứu), thí dụ:
Vietnam studies… Trong khi đó, nếu chuyển đổi môn học này sang thuật ngữ quốc
tế thì đương nhiên sẽ phải bắt đầu là tiền tố Prinsip (nguyên lý). Trong trường hợp
này, cụm từ chủ nghĩa Mác - Lênin trong tên giáo trình chỉ còn giữ vai trò bổ trợ
để làm rõ nội hàm. Các nguyên lý, quy luật, định lý, định luật chỉ là các thành
phần trong một lý thuyết khoa học. Như vậy, về mặt cấp độ nhận thức khoa học
thì thay vì là một chủ nghĩa, môn học này chỉ còn là sự tập hợp không theo trình
tự các nguyên lý của các khoa học khác nhau. Nếu nhóm tác giả để tên Giáo
trình là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, còn cụm từ “Những nguyên lý cơ bản” là phần
phụ chú thì vấn đề lại khác. Đây là sự bất cẩn, hoặc là thiếu hiểu biết về mặt khoa
học của nhóm biên tập.
3. Về kết cấu lôgíc của nội dung Giáo trình, thứ nhất, đối với môn Triết học, ai
cũng biết đây là một trong những môn khoa học có lịch sử lâu dài nhất trong các
khoa học; nó có vai trò là thế giới quan và phương pháp luận cho con người trong
các hoạt động nhận thức và cải tạo thực tiễn, với rất nhiều những tên tuổi lớn trong
lịch sử nhân loại. Môn học này vốn luôn có mặt ở tất cả các trường cao đẳng và đại
học trên toàn thế giới từ xưa đến nay. Trong khi đó, ở Giáo trình Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin lại không thể hiện được sự khái lược cần thiết,
cũng như sự tóm tắt về lịch sử của môn này. Hơn nữa, theo tinh thần của Giáo
trình này, Triết học nói chung và Triết học Mác - Lênin nói riêng đã chính thức bị
“khai tử”. Theo đó, từ nay trở đi, trên giảng đường các trường đại học và cao đẳng
tại Việt Nam không còn một khoa học có tên là Triết học nữa. Cái chết tức tưởi
của Triết học, tiếc thay, lại do những người đã từng là môn đệ của môn khoa học
này xuống tay. Thứ hai, đối với môn Kinh tế chính trị học thì tình hình còn tệ hại
hơn nữa, không có giới thiệu chung, không có khái luận chung, không có đối
tượng và phương pháp nghiên cứu, mà đã bị cắt đầu cắt đuôi đẩy ngay người học
vào phần học thuyết giá trị và học thuyết giá trị thặng dư. Thứ ba, một cách tương
tự, môn Chủ nghĩa xã hội khoa học cũng vậy. Như vậy, chúng ta thấy rằng, với
môn học này, nhóm biên soạn đã làm một cử chỉ gọi là “đoạn tuyệt với ký ức xã
hội” – ký ức xã hội ở đây được hiểu là những tri thức khoa học của loài người có
được trong lịch sử phát triển. Một trong những chức năng quan trọng nhất của các
trường đại học là truyền tải ký ức xã hội cho sinh viên.
4. Về nghiệp vụ sư phạm, Giáo trình này còn quá nhiều khiếm khuyết, chưa đủ tiêu
chuẩn để đưa vào giảng dạy.Thứ nhất, với cách phân chia để đánh giá theo tín chỉ
thì môn học này được dành cho 5 tín chỉ; trong đó, phần Triết học gồm 2 tín chỉ,
hai môn còn lại gồm 3 tín chỉ. Riêng việc này đã là một sự khó khăn cho quá trình
đánh giá điểm, không thể để mỗi môn trong 2 môn còn lại 1,5 tín chỉ được, vì mỗi
tín chỉ là một đơn vị đánh giá tối thiểu theo quy định của cách đào tạo mới. Thứ
hai, cần có các câu hỏi, thang điểm (theo qui ước tín chỉ) cho từng tín chỉ cụ thể.
Thế nhưng, trong giáo trình mới này, chúng tôi không thấy thể hiện điều đó. Mặt
khác, trong tình hình hiện tại, mới chỉ có một số trường cao đẳng và đại học
chuyển đổi sang hình thức đào tạo theo tín chỉ, đa số các trường vẫn theo cách cấu
tạo điểm bằng các đơn vị học trình. Thứ ba, với cách co chương trình lại như vậy,
còn đặt ra một vấn đề khác, đó là: nguồn nhân lực giảng viên sẽ thừa ra 1/3. Từ
trước đến nay, với chương trình đào tạo cũ, một nguồn nhân lực được đào tạo
nhiều năm vẫn đảm bảo được quá trình đào tạo trong các trường cao đẳng và đại
học. Mặt khác, nguồn nhân lực này được đào tạo theo xu hướng chuyên sâu và đã
đạt được một trình độ chuyên môn vững chắc. Nếu rút ngắn chương trình lại, việc
thừa giảng viên là điều đương nhiên và vẫn có thể để các giảng viên này giảng dạy
những môn mình đã được đào tạo trên cơ sở tinh giản vững chắc chuyên môn
mình có. Nhưng hiện nay, theo chủ trương chung đã được tập huấn thì các giảng
viên môn Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học được tập huấn môn Kinh tế
chính trị học, còn giảng viên môn Kinh tế chính trị học thì chuyển sang tập huấn
Triết học. Mục tiêu mà Trung tâm bồi dưỡng lý luận Mác – Lênin đề ra là các
giảng viên môn học này cần phải giảng dạy được toàn bộ chương trình. Đây là một
ý tưởng phi sư phạm nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Theo thông lệ
sư phạm, một người để giảng dạy tốt một chuyên môn đã được đào tạo chuyên sâu
cho các trường đại học và cao đẳng, cần phải có 10 năm đứng trên bục mới gọi là
làm chủ được chương trình. Tất nhiên, thời gian trong nghề càng lâu càng tốt, nó
ứng với câu “thầy giáo già, con hát trẻ”. Vậy mà chỉ với mấy buổi tập huấn, người
ta nghĩ rằng các giảng viên đã có thể giảng dạy toàn bộ chương trình thì điều đó
thật là hoang tưởng. Như chúng tôi được biết, trong lĩnh vực khoa học Mác -
Lênin, chúng ta có rất nhiều các nhà khoa học được đào tạo bài bản, đó là các giáo
sư đầu ngành, không hiểu vì lý do gì mà không thấy sự có mặt của họ trong việc
biên soạn một giáo trình quan trọng dành cho sinh viên cả nước.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày một số nhận xét về Giáo trình “Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”. Chúng tôi mong nhận được ý kiến phản hồi
của các đồng nghiệp để trong tương lai, chúng ta có một cuốn giáo trình tốt hơn.q
TriÕt häc, sè 12 (223), th¸ng 12-2009
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội.
vÊn ®Ò x¸c ®Þnh néi dung vµ ®Þnh nghÜa kh¸i niÖm
“h×nh vu«ng l«gÝc” trong c¸c s¸ch l«gÝc häc
nguyÔn nh- h¶i (*)
Trong bµi viÕt nµy, t¸c gi¶ ®· ph©n tÝch nh»m lµm râ thªm yÕu tè hîp lý hoÆc
thiÕu sãt trong c¸c quan niÖm, ®Þnh nghÜa kh¸c nhau vÒ kh¸i niÖm “h×nh vu«ng
l«gÝc” ®· ®-îc tr×nh bµy trong mét sè tµi liÖu l«gÝc häc. Trªn c¬ së ®ã, t¸c gi¶ ®·
®-a ra quan niÖm cña m×nh vÒ h×nh vu«ng l«gÝc, s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc, c¸c
®iÒu kiÖn ®Ó ®-a c¸c ph¸n ®o¸n A, E, I, O vµo h×nh vu«ng l«gÝc còng nh- lµm
râ thªm ý nghÜa cña h×nh vu«ng l«gÝc.
hi tr×nh bµy vÒ mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n A, I, E, O, ®a sè c¸c s¸ch
viÕt vÒ l«gÝc häc ®Òu sö dông kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc". Song, tÊt c¶ c¸c s¸ch hiÖn cã ®Òu ch-a ®Ò cËp ®Çy ®ñ néi dung vµ ch-a ®Þnh nghÜa
kh¸i niÖm nµy hoÆc ®Þnh nghÜa ch-a chÝnh x¸c. §iÒu ®ã dÉn ®Õn viÖc ng-êi
häc gÆp khã kh¨n khi nhËn thøc vµ vËn dông nã ®Ó x¸c ®Þnh gi¸ trÞ cña c¸c ph¸n
®o¸n A, I, E, O trong tr-êng hîp biÕt tr-íc gi¸ trÞ cña mét ph¸n ®o¸n nµo ®ã trong
bèn ph¸n ®o¸n Êy. Bµi viÕt nµy sÏ ®Ò cËp ®Õn nh÷ng néi dung vµ ®Þnh nghÜa
cña kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc".
Tr-íc hÕt, ph¶i kh¼ng ®Þnh r»ng, viÖc ®-a kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc" vµo
ch-¬ng tr×nh l«gÝc häc lµ cÇn thiÕt. Bëi v×, nã lµ c«ng cô gióp cho con ng-êi cã
thÓ kh¸i qu¸t ®-îc c¸c mèi quan hÖ gi÷a bèn ph¸n ®o¸n c¬ b¶n A, I, E, O vµ ®Æc
biÖt, gióp t×m ra ®-îc nh÷ng gi¸ trÞ l«gÝc cña c¸c ph¸n ®o¸n cßn l¹i khi biÕt tr-íc
gi¸ trÞ cña mét trong bèn ph¸n ®o¸n ®ã mµ kh«ng cÇn ph¶i ®èi chiÕu néi dung
cña tõng ph¸n ®o¸n ®ã víi hiÖn thùc; gãp phÇn lµm cho t- duy l«gÝc cña con ng-êi
ph¸t triÓn. Do ®ã, nh÷ng cuèn s¸ch nµo ch-a ®Ò cËp ®Õn kh¸i niÖm "h×nh vu«ng
l«gÝc" lµ mét sù thiÕu sãt cÇn ®-îc kh¾c phôc vµ bæ sung.
§èi víi mét sè s¸ch cã ®Ò cËp ®Õn "h×nh vu«ng l«gÝc", viÖc tr×nh bµy kh¸i
niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc" cßn rÊt kh¸c nhau, ch-a ®Çy ®ñ hoÆc thiÕu tÝnh
chÝnh x¸c khi ®Þnh nghÜa vÒ nã. Ch¼ng h¹n, trong L«gÝc häc, t¸c gi¶
E.A.Kh¬menc« ®· viÕt: "TÊt c¶ c¸c lo¹i quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®Òu cã thÓ
so s¸nh víi nhau (trõ nh÷ng ph¸n ®o¸n ®ång nhÊt) ®Òu cã thÓ biÓu hiÖn ë mét ®å
thøc thèng nhÊt, mµ trong l«gÝc häc ®-îc gäi lµ "h×nh vu«ng l«gÝc". Trong ®å
thøc nµy ®· biÓu hiÖn râ rµng nh÷ng mèi quan hÖ l«gÝc kh¸c nhau gi÷a c¸c lo¹i
ph¸n ®o¸n c¬ b¶n. C¸c lo¹i nµy mang nh÷ng ký hiÖu (A, E, I, O) ®-îc ®Æt ë c¸c
gãc cña h×nh vu«ng"(1). Trªn c¬ së ®ã, t¸c gi¶ ®-a ra m« h×nh "h×nh vu«ng
l«gÝc". Trong viÖc x¸c ®Þnh ®ã cña E.A.Kh¬menc«, chóng ta thÊy ch-a bao qu¸t
hÕt ®-îc c¸c néi dung c¬ b¶n cña kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc" vµ ch-a ®-a ®Õn
mét ®Þnh nghÜa ng¾n gän, chÝnh x¸c vÒ "h×nh vu«ng l«gÝc".
C¸c t¸c gi¶ cña cuèn L«gÝc häc, do Nhµ xuÊt b¶n §ång Nai ph¸t hµnh, ®· tr×nh
bµy vÒ h×nh vu«ng l«gÝc nh- sau: "Trõ ph¸n ®o¸n t-¬ng ®-¬ng, c¸c ph¸n ®o¸n
trong c¸c quan hÖ cßn l¹i ®-îc biÓu diÔn b»ng h×nh vu«ng l«gÝc. C¸c ®Ønh cña
h×nh vu«ng lµ ph¸n ®o¸n ®¬n thuéc tÝnh A, E, I, O, c¸c c¹nh, ®-êng chÐo biÓu
thÞ quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®ã"(2). Bªn c¹nh ®ã, c¸c t¸c gi¶ ®-a ra m« h×nh
A
E
®èi chäi trªn m©u thuÉn
lÖ
lÖ
thuéc
thuéc
m©u thuÉn
O
I
®èi chäi d-íi
(*) Phã gi¸o s-, TiÕn sÜ, Phã chñ nhiÖm khoa Gi¸o dôc ChÝnh trÞ, §¹i häc S- ph¹m Hµ Néi.
(1) E.A.Kh¬menc«. L«gic häc. Nxb Qu©n ®éi nh©n d©n, 1977, tr.125.
sau:
¦u thÕ trong quan niÖm cña c¸c t¸c gi¶ cuèn L«gÝc häc nãi trªn lµ ë chç, hä ®·
chØ ra ®-îc hai dÊu hiÖu c¬ b¶n cña h×nh vu«ng l«gÝc lµ "c¸c ®Ønh cña h×nh
vu«ng lµ ph¸n ®o¸n ®¬n thuéc tÝnh A, E, I, O", "c¸c c¹nh, ®-êng chÐo biÓu thÞ
mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®ã" vµ ®-a ra ®-îc s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc. Tuy
nhiªn, tÝnh chÝnh x¸c cña c¸c dÊu hiÖu ®ã cÇn ph¶i cô thÓ h¬n. MÆt kh¸c, viÖc
sö dông cÆp thuËt ng÷ "®èi chäi trªn", "®èi chäi d-íi" ®Ó chØ quan hÖ gi÷a A víi
E vµ I víi O lµ kh«ng hîp lý. Bëi v×, h×nh vu«ng l«gÝc Êy cã thÓ quay quanh trôc
®i qua giao ®iÓm cña 2 ®-êng chÐo. Khi quay, nã sÏ lµm cho thuËt ng÷ "trªn" vµ
"d-íi" kh«ng cßn ý nghÜa ®Ó so s¸nh quan hÖ cña A vµ E víi quan hÖ cña I vµ O,
do c¸c quan hÖ ®ã cã thÓ chuyÓn sang ph¶i, xuèng d-íi, sang tr¸i hoÆc lªn trªn. V×
vËy, kh«ng nªn sö dông thuËt ng÷ "®èi chäi trªn", "®èi chäi d-íi" trªn s¬ ®å h×nh
vu«ng l«gÝc, mµ nªn dïng "®èi lËp chung" hay "®èi lËp toµn thÓ" vµ "®èi lËp
riªng" hay "®èi lËp bé phËn" th× chÝnh x¸c h¬n.
Trong Gi¸o tr×nh l«gÝc häc do Nhµ xuÊt b¶n ChÝnh trÞ Quèc gia ph¸t hµnh
n¨m 2002, c¸c t¸c gi¶ ®· tr×nh bµy h¼n mét môc "3. H×nh vu«ng l«gÝc". §©y lµ
mét viÖc cÇn thiÕt, nh-ng tiÕc r»ng c¸c t¸c gi¶ kh«ng tr×nh bµy ®Çy ®ñ néi dung
cña "h×nh vu«ng l«gÝc", mµ chØ x¸c ®Þnh "h×nh vu«ng l«gÝc ®-îc x©y dùng
A
E
(2) PGS.PTS.T« Duy Hîp, PTS.NguyÔn Anh TuÊn. L«gÝc häc. Nxb §ång Nai, 1997, tr.147.
O
I
(3),(4) PGS.TS.Lª Do·n T¸; PGS.TS.T« Duy Hîp; TS.Vò Träng Dung…, Gi¸o tr×nh l«gÝc häc. Nxb ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi, 2002, tr.82 vµ 84.
trªn c¬ së A, E, O, I lµm thµnh bèn ®Ønh cña nã, cã d¹ng nh- sau…"(3)
Sau ®ã, c¸c t¸c gi¶ x¸c ®Þnh tiÕp: "C¸c quan hÖ t-¬ng thÝch vµ kh«ng t-¬ng
thÝch gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n A, E, O, I biÓu thÞ cô thÓ trong h×nh vu«ng l«gÝc nh-
Chèng ®èi m¹nh
Phô thuéc
Phô thuéc
Chèng ®èi yÕu
sau…"(4).
C¶ hai s¬ ®å vÒ "h×nh vu«ng l«gÝc" ë trªn lµ kh«ng ®Çy ®ñ. ë s¬ ®å thø nhÊt
th× thiÕu c¸c mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n c¬ b¶n, cßn ë s¬ ®å thø hai th×
thiÕu b¶n th©n c¸c ph¸n ®o¸n c¬ b¶n A, I, E, O (cã thÓ lçi nµy lµ do c«ng t¸c xuÊt
b¶n in thiÕu). Nh-ng dï thÕ nµo ®i n÷a th× còng chØ nªn dïng mét s¬ ®å thËt
chuÈn x¸c lµ ®ñ vµ còng kh«ng nªn dïng c¸c thuËt ng÷ "chèng ®èi m¹nh", "chèng
®èi yÕu" trªn s¬ ®å ®ã. Bëi v×, c¸c thuËt ng÷ Êy còng kh«ng lét t¶ ®-îc b¶n chÊt
cña mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n A víi E vµ I víi O.
Trong Gi¸o tr×nh nhËp m«n l«gÝc, khi ®Ò cËp ®Õn "h×nh vu«ng l«gÝc", t¸c
gi¶ NguyÔn §øc D©n còng tr×nh bµy h¼n mét môc "3.3. H×nh vu«ng l«gÝc".
Trong ®ã, x¸c ®Þnh "gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n kh¼ng ®Þnh chung (A), kh¼ng ®Þnh
riªng (I), phñ ®Þnh chung (E) vµ phñ ®Þnh riªng (O) cã mèi quan hÖ mËt thiÕt
víi nhau. Trong l«gÝc cæ ®iÓn, c¸c ph¸n ®o¸n nµy ®-îc biÓu hiÖn trªn 4 ®Ønh
cña h×nh vu«ng. H×nh vu«ng nµy ®-îc gäi lµ "h×nh vu«ng l«gÝc"(5). Sau ®ã, t¸c
gi¶ viÕt thªm: "C¸c ph¸n ®o¸n A, E, I, O ®-îc biÓu hiÖn trªn h×nh vu«ng l«gÝc
§èi chäi trªn
A
B
Thø
Thø
bËc
bËc
O
I
§èi chäi d-íi
nh- h×nh 3.3"(6) d-íi ®©y:
Quan niÖm nh- vËy vÒ h×nh vu«ng l«gÝc lµ kh«ng ®Çy ®ñ vµ thiÕu tÝnh
chÝnh x¸c; bëi nã kh«ng bao qu¸t hÕt c¸c néi dung c¬ b¶n cña h×nh vu«ng l«gÝc,
sö dông c¸c thuËt ng÷ ch-a hîp lý vµ thiÕu mèi quan hÖ ë s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc
(Sù thiÕu mèi quan hÖ vµ thay E = B ë m« h×nh cã thÓ do lçi cña chÕ b¶n in).
Khi ®Ò cËp ®Õn "h×nh vu«ng l«gÝc" trong s¸ch L«gÝc häc ®¹i c-¬ng, t¸c gi¶
V-¬ng TÊt §¹t ®· x¸c ®Þnh: "quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®¬n ®-îc biÓu thÞ b»ng
s¬ ®å lµ h×nh vu«ng l«gÝc" (H×nh 40), c¸c ®Ønh cña nã biÓu thÞ c¸c ph¸n ®o¸n
kh¼ng ®Þnh chung (a), ph¸n ®o¸n phñ ®Þnh chung (e), ph¸n ®o¸n kh¼ng ®Þnh
riªng (i) vµ ph¸n ®o¸n phñ ®Þnh riªng (o); c¸c c¹nh vµ c¸c ®-êng chÐo biÓu thÞ c¸c
quan hÖ l«gÝc gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®ã"(7). Trong quan niÖm ®ã, chóng ta thÊy, t¸c
gi¶ ®· chØ ra ®-îc hai dÊu hiÖu c¬ b¶n lµ "c¸c ®Ønh cña nã biÓu thÞ c¸c ph¸n
®o¸n" vµ "c¸c c¹nh vµ c¸c ®-êng chÐo biÓu thÞ quan hÖ l«gÝc gi÷a c¸c ph¸n
®o¸n ®ã". Nh-ng ë ®©y, t¸c gi¶ còng ch-a chØ râ ®-îc c¸c ph¸n ®o¸n c¬ b¶n Êy
ph¶i cã cïng chñ tõ, vÞ tõ vµ ch-a ®-a ra ®-îc mét ®Þnh nghÜa ng¾n gän. H¬n
n÷a, s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc mµ t¸c gi¶ x¸c ®Þnh lµ "h×nh 40" còng thiÕu chÝnh
x¸c. Bëi v×, c¸c quan hÖ cña c¸c ph¸n ®o¸n kh«ng ®-îc biÓu thÞ trong s¬ ®å ®ã.
GÇn ®©y, trong Gi¸o tr×nh l«gÝc häc, t¸c gi¶ Lª Thanh ThËp viÕt: "§Ó hÖ
thèng hãa cho dÔ nhí, dÔ nghiªn cøu ta biÓu diÔn tÝnh chÊt cña c¸c mèi quan hÖ
b»ng h×nh vu«ng (th-êng ®-îc gäi lµ h×nh vu«ng l«gÝc hoÆc bµn cê l«gÝc"(8).
Trªn c¬ së ®ã, t¸c gi¶ ®-a ra s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc. ViÖc x¸c ®Þnh h×nh vu«ng
(5),(6) GS.TS.NguyÔn §øc D©n. Gi¸o tr×nh l«gÝc h×nh thøc. Nxb Thèng kª, Hµ Néi, 2003, tr.93.
(7) V-¬ng TÊt §¹t. L«gÝc häc ®¹i c¬ng. Nxb §¹i häc S- ph¹m, 2004, tr.77,78.
(8) TS.Lª Thanh ThËp. Gi¸o tr×nh l«gÝc häc. Nxb C«ng an nh©n d©n, 2009, tr.85.
l«gÝc nh- vËy cho thÊy, c¸c néi dung cña kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc" vµ viÖc
®Þnh nghÜa nã còng ch-a ®-îc nªu ra mét c¸ch ®Çy ®ñ vµ ®óng ®¾n.
Râ rµng, trong c¸c s¸ch viÕt vÒ l«gÝc häc hiÖn nay, chóng ta thÊy kh¸i niÖm
"h×nh vu«ng l«gÝc" ch-a ®-îc tr×nh bµy mét c¸ch ®Çy ®ñ vµ viÖc ®Þnh nghÜa
nã cßn thiÕu chÝnh x¸c.
§Ò cËp ®Õn "h×nh vu«ng l«gÝc", chóng t«i cho r»ng cÇn ph¶i chØ ra ®-îc bèn
néi dung c¬ b¶n sau ®©y:
Thø nhÊt, ph¶i ®Þnh nghÜa ®óng kh¸i niÖm “h×nh vu«ng l«gÝc". §Þnh nghÜa
nµy ph¶i bao qu¸t ®-îc ba dÊu hiÖu c¬ b¶n: "Nã lµ h×nh vu«ng", "ë t¹i c¸c ®Ønh
lµ c¸c ph¸n ®o¸n A, I, E, O cã cïng chñ tõ vµ vÞ tõ", "C¸c c¹nh vµ c¸c ®-êng chÐo
thÓ hiÖn mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n c¬ b¶n A, I, E, O Êy". Bëi v×, c¸c dÊu
hiÖu c¬ b¶n ®ã lµ nh÷ng néi dung b¶n chÊt thuéc néi hµm cña kh¸i niÖm "h×nh
vu«ng l«gÝc". NÕu thiÕu mét trong c¸c dÊu hiÖu Êy sÏ dÉn ®Õn viÖc hiÓu
kh«ng chÝnh x¸c, thËm chÝ sai lÖch vÒ "h×nh vu«ng l«gÝc". Trªn c¬ së ®ã, cÇn
ph¶i ®Þnh nghÜa kh¸i niÖm "h×nh vu«ng l«gÝc" nh- sau: "H×nh vu«ng l«gÝc lµ
h×nh vu«ng mµ ë t¹i c¸c ®Ønh lµ c¸c ph¸n ®o¸n A, I, E, O cã cïng chñ tõ vµ vÞ tõ,
cßn c¸c c¹nh vµ c¸c ®-êng chÐo thÓ hiÖn mèi quan hÖ gi÷a c¸c ph¸n ®o¸n ®ã".
§Þnh nghÜa nh- vËy vÒ h×nh vu«ng l«gÝc ®· tu©n thñ ®Çy ®ñ 4 quy t¾c cña
®Þnh nghÜa kh¸i niÖm. V× vËy, nã lµ ®Þnh nghÜa ®óng ®¾n.
Thø hai, ph¶i chØ ra s¬ ®å h×nh vu«ng l«gÝc. Theo chóng t«i, s¬ ®å h×nh
§èi lËp chung
E
A
Chi
Chi
phèi
phèi
phô
phô
I
O
§èi lËp riªng
vu«ng l«gÝc ph¶i cã ®Çy ®ñ c¸c yÕu tè d-íi ®©y:
S¬ ®å ®ã thÓ hiÖn ®Çy ®ñ c¸c dÊu hiÖu trong néi hµm cña kh¸i niÖm "h×nh
vu«ng l«gÝc" mµ ®Þnh nghÜa ë trªn ®· tr×nh bµy.
Thø ba, ph¶i nªu ra ®iÒu kiÖn ®Ó ®-a c¸c ph¸n ®o¸n A, E, I, O vµo h×nh
vu«ng l«gÝc. Së dÜ ph¶i ®Ò cËp ®Õn néi dung nµy, bëi kh«ng ph¶i tÊt c¶ c¸c
ph¸n ®o¸n A, I, E, O ®Òu cã thÓ ®-a vµo h×nh vu«ng l«gÝc ®Ó sö dông trong
lËp luËn vÒ gi¸ trÞ cña chóng. H×nh vu«ng l«gÝc chØ thÝch øng víi c¸c ph¸n
®o¸n A, I, E, O cã cïng chñ tõ vµ vÞ tõ. Do ®ã, ®iÒu kiÖn ®Ó ®-a c¸c ph¸n ®o¸n
A, I, E, O vµo trong h×nh vu«ng l«gÝc lµ c¸c ph¸n ®o¸n ®ã ph¶i cã cïng chñ tõ vµ
vÞ tõ.
Thø t-, cÇn ph¶i nãi vÒ ý nghÜa cña h×nh vu«ng l«gÝc, nghÜa lµ ph¶i ®Ò cËp
®Õn nh÷ng gi¸ trÞ mµ h×nh vu«ng l«gÝc ®em l¹i, gióp ng-êi häc n¾m v÷ng vµ sö
dông nã trong viÖc x¸c ®Þnh tÝnh ch©n thùc hoÆc tÝnh gi¶ dèi cña c¸c ph¸n
®o¸n khi nghiªn cøu mèi quan hÖ cña chóng. ý nghÜa ®ã lµ, nhê cã h×nh vu«ng
l«gÝc, ta cã thÓ suy ra ®-îc gi¸ trÞ cña c¸c ph¸n ®o¸n cßn l¹i trong bèn ph¸n ®o¸n
c¬ b¶n A, I, E, O cã cïng chñ tõ vµ vÞ tõ, khi biÕt tr-íc gi¸ trÞ cña mét ph¸n ®o¸n
nµo ®ã trong bèn ph¸n ®o¸n Êy mµ kh«ng cÇn ph¶i ®èi chiÕu néi dung cña chóng
víi thùc tÕ. Trªn c¬ së ®ã, vËn dông vµo 8 tr-êng hîp cô thÓ khi cho Ac hoÆc Ag,
Ic hoÆc Ig, Ec hoÆc Eg, Oc hoÆc Og ®Ó suy ra gi¸ trÞ cña c¸c ph¸n ®o¸n cßn l¹i
cña tõng tr-êng hîp. Ch¼ng h¹n:
Bèn tr-êng hîp d-íi ®©y tÊt yÕu suy ra ®-îc gi¸ trÞ cña c¸c ph¸n ®o¸n t-¬ng øng
cßn l¹i.
®èi lËp chung
m©u thuÉn
m©u thuÉn
Og
Ac
Eg
Ic
Chi phèi phô thuéc
chi phèi phô thuéc
Chi phèi phô thuéc
m©u thuÉn
m©u thuÉn
Ig
Oc
Ec
Ag
m©u thuÉn
m©u thuÉn
Eg
Ac
Og
Ic
Chi phèi phô thuéc
Cßn 4 tr-êng hîp d-íi ®©y chØ suy ra ®-îc gi¸ trÞ cña c¸c ph¸n ®o¸n t-¬ng øng
mét c¸ch tÊt yÕu trong quan hÖ m©u thuÉn. C¸c ph¸n ®o¸n cßn l¹i lµ kh«ng x¸c
®Þnh. Muèn x¸c ®Þnh c¸c gi¸ trÞ cña chóng cÇn ph¶i cã thªm ®iÒu kiÖn A víi E
§èi lËp chung
M©u thuÉn
gi¶ dèi vÒ l-îng hay vÒ chÊt vµ I víi O ch©n thùc vÒ l-îng hay vÒ chÊt.
Eg
Ic
Oc
§èi lËp riªng
Lîng
Ag
M©u thuÉn
Ec
Ig
Oc
§èi lËp chung
§èi lËp riªng
M©u thuÉn
Ag
Oc
Ic
§èi lËp riªng
§èi lËp chung
Eg
§èi lËp chung
M©u thuÉn
Ac
Ic
Og
§èi lËp riªng
ChÊt
M©u thuÉn
Oc
Ag
Eg
§èi lËp chung
Ic
M©u thuÉn
Og
Eg
Ac
§èi lËp riªng
§èi lËp chung
§èi lËp riªng
§èi lËp riªng
Ic
Eg
Ac
§èi lËp chung
Lîng
Oc
M©u thuÉn
Ig
Ec
Ag
§èi lËp chung
§èi lËp riªng
M©u thuÉn
Nh- vËy, khi ®Ò cËp ®Õn "h×nh vu«ng l«gÝc", cÇn ph¶i nªu ra ®-îc 4 néi dung
c¬ b¶n ®ã vµ ph¶i ®Þnh nghÜa nã nh- trªn míi ®em l¹i quan niÖm ®óng ®¾n vÒ
"h×nh vu«ng l«gÝc"; lµm cho néi dung cña c¸c cuèn s¸ch ®Çy ®ñ h¬n, chÝnh x¸c
h¬n vµ gióp ng-êi häc vËn dông dÔ dµng vµo lËp luËn nh»m t¹o ®iÒu kiÖn ®Ó ph¸t
triÓn t- duy l«gÝc, chÆt chÏ, cã hÖ thèng khi tiÕn hµnh x¸c ®Þnh gi¸ trÞ l«gÝc cña
c¸c ph¸n ®o¸n A, I, E, O cã cïng chñ tõ vµ vÞ tõ trong c¸c mèi quan hÖ gi÷a chóng víi
nhau.
"CÔNG VIỆC ĐỐI VỚI CON NGƯỜI" TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH
HỒ CHÍ MINH
TRẦN THỊ HUYỀN (*)
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ vĩ đại và kính yêu của Đảng và dân tộc Việt Nam,
người chiến sĩ đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hoá lớn của nhân
loại. Trước khi đi xa, Người đã để lại cho dân tộc ta, đất nước ta một di sản vô cùng
quý giá - Di chúc của Người. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một
văn kiện lịch sử vô giá, kết tinh cả tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp của Người,
cả những nội dung cơ bản và quan điểm cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh; vạch ra
phương hướng phát triển cho cách mạng Việt Nam không chỉ 40 năm đã qua, mà cả
hôm nay và mai sau.
Trong một bài viết đăng trên Vietnamnet - “Chân lý từ những điều giản dị”, Giáo sư
Tương Lai đã khẳng định Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “một sự dồn nén, chưng
cất của ý tưởng, tình cảm đạt tới độ minh triết trên một tầm vóc tư duy không bị ràng
buộc và câu nệ bởi bất cứ cái gì: thời gian thúc bách hay không gian hạn hẹp cho những
“điều mong muốn cuối cùng”. Vì thế, chúng ta có quyền tin chắc vào độ “chín”, đạt đến
sự tường minh của tư tưởng trình bày trong “Di chúc””(1).
Thật vậy, đọc lại Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, một trong những
tư tưởng nổi bật, thể hiện triết lý nhân văn sâu sắc của Người đã được thể hiện đậm
nét trong tác phẩm chứa đầy tâm huyết này của Người là tư tưởng về con người – “công việc đối với con người”.(*)
Xét theo nghĩa rộng, tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh nằm trong tư tưởng về
văn hóa, vì giá trị cao nhất trong các giá trị văn hóa chính là nhân tính. Xét theo nghĩa
hẹp, tư tưởng của Hồ Chí Minh về con người nằm trong tư tưởng về đạo đức, là trung
tâm của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Con người được bàn đến trong quan niệm
của Hồ Chí Minh là những con người hiện thực, không phải những hình mẫu lý tưởng,
như Thượng đế trong quan niệm của Thiên Chúa giáo, người Quân tử trong quan niệm
của Nho gia, v.v.. Vì lẽ đó mà những con người được bàn tới trong tư tưởng của
Người là những con người rất đỗi thân quen, gần gũi với cuộc sống. Trong những con
người ấy tồn tại cả cái xấu lẫn cái tốt, cái thiện lẫn cái ác, cái cao cả lẫn cái tầm
thường,… Nhưng, với Hồ Chí Minh, điều quan trọng không phải để chỉ ra những mặt
tốt hay xấu, cao cả hay thấp hèn ấy, mà quan trọng hơn là cần có biện pháp và cách
thức giáo dục để con người hướng thiện, hướng tới lối sống cao đẹp. Người tin rằng,
trong bản thân mỗi người chúng ta, dù tốt hay xấu, dù lương thiện hay dã man, dù cao
cả hay tầm thường thì sâu xa nhất trong tâm hồn mỗi người đều có một hằng số, một
giá trị cốt lõi - đó là nhân tính. Chính niềm tin vào tính người, vào phần rất đỗi người
trong mỗi người như vậy mà Hồ Chí Minh cũng tin vào khả năng khơi dậy nhân tính
trong họ thông qua giáo dục và cảm hóa. Và, niềm tin vào những giá trị cao đẹp ấy
trong con người là biểu hiện đậm nét nhất cho tinh thần nhân văn Hồ Chí Minh.
Cùng với đó, vấn đề con người trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được thể hiện
trong Di chúc còn được biểu hiện thông qua tình yêu thương đối với tất cả mọi tầng
lớp người trong xã hội. Lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ triết lý sống và thể hiện nhất quán trong cả cuộc đời vì nước, vì dân của
Người. Người đã từng khái quát: Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và
làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại
đau khổ và bị áp bức(2). Người đã thể hiện sự cảm thông và quan tâm sâu sắc đối
mọi đối tượng, mọi tầng lớp nhân dân, từ đồng bào, chiến sĩ tới thanh niên xung
phong, từ đoàn viên thanh niên đến nông dân, từ các cụ phụ lão cho đến phụ nữ và
các cháu nhi đồng,… Với từng đối tượng, Người đều chỉ ra những công việc cụ thể
cần phải làm để đáp ứng những nguyện vọng, nhu cầu thiết thân của họ.
Lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là sự thương hại,
“ban phát” từ bên trên, mà là sựcảm thông sâu sắc, sự biết ơn, trân trọng con người
và niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của con người. Trong Di chúc, Người đã khẳng
định: “Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân
dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”; lực lượng vũ trang nhân
dân và thanh niên xung phong được rèn luyện trong chiến đấu, luôn “dũng cảm hy
sinh một phần xương máu của mình”; “đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt,
mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”; “phụ nữ
đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất”(3),... Với
khẳng định này, với sự tin tưởng sắt đá vào sức mạnh của đồng bào, chiến sĩ cả nước,
trong Di chúc, Người quả quyết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải
kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là
một điều chắc chắn”(4).
Lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là sự quan tâm,
chăm sóc, mà còn là sự nhắc nhở chăm lo cải tạo và xây dựng con người, giải phóng
con người,bởi Người luôn đặt niềm tin mãnh liệt vào sự hướng thiện của con người,
sự vươn lên của họ thông qua giáo dục và tự giáo dục để hướng tới những giá trị cao
đẹp. Người cho rằng, người ta ai cũng có tính tốt và tính xấu, có thiện và ác trong
lòng, điều này phần lớn do giáo dục mà ra và do vậy, thái độ của người cách mạng là
phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người “nảy nở như hoa mùa xuân” và
phần xấu bị mất dần đi. Trong Di chúc, Người viết: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư”; Đảng cần phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cho những chiến sĩ trẻ và thanh niên
xung phong thành “những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập
trường cách mạng vững chắc”; phải chăm lo giáo dục cho đoàn viên và thanh niên
thành “những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng”, vừa “chuyên”;
“phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ” phụ nữ để “ngày
thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo” và “bản thân
phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên”, thực hiện “quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”;
phải "vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật” để cải tạo, giúp những nạn nhân của chế độ
xã hội cũ “trở nên những người lao động lương thiện”,(5)… Người không chỉ quan
tâm đến đời sống nhân dân, mà trên hết là chăm lo giáo dục, đào tạo họ, làm cho họ
trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là sự quan tâm, tin
tưởng, giáo dục, động viên, mà cònphải hành động, làm những việc thiết thực, đáp
ứng nguyện vọng, nhu cầu của con người. Theo Người, đất nước độc lập mà nhân
dân không được ấm no, hạnh phúc thì độc lập, tự do cũng không có ích gì. Nước ta
còn nghèo và lạc hậu, lại phải trải qua nhiều năm chiến tranh khốc liệt, sự hy sinh và
cống hiến của nhân dân là vô cùng to lớn. Do vậy, thương yêu con người không phải
chỉ bằng lời nói, mà phải bằng những hành động và việc làm cụ thể vì con người.
Người chỉ rõ: Sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta, sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước ta đều nhằm mục tiêu phục vụ con người. Trong Di chúc, Người viết:
“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(6). Với nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến
tranh, khi nói về những “công việc đối với con người”, Người yêu cầu “phải có kế
hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”(7).
Người căn dặn, ngay sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, phải quan tâm giải
quyết đời sống cho các tầng lớp nhân dân, phù hợp với từng đối tượng cụ thể. Đối
với thương binh “phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, tạo điều
kiện để họ dần dần có thể “tự lực cánh sinh””. Đối với gia đình thương binh, liệt sĩ
“phải giúp đỡ họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”. Đối
với những người trẻ tuổi đã trải qua rèn luyện trong chiến đấu thì phải đào tạo, bồi
dưỡng để họ xứng đáng là “đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội ở nước ta”. Đối với nông dân, Người đề nghị “miễn thuế nông nghiệp 1
năm… để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản
xuất,...”(8).
Không chỉ thế, khi khẳng định Chính phủ của ta là công bộc của dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ, Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân
lên trên hết thảy, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải
hết sức tránh, phải chú ý giải quyết mọi vấn đề, dầu khó khăn đến đâu cũng phải cố
gắng giải quyết(9). Để hoàn thành thắng lợi công việc hàn gắn vết thương chiến
tranh, xây dựng đất nước, theo Người, phải làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên,
mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó, “toàn tâm, toàn ý phục vụ
nhân dân”.
Với Hồ Chí Minh, thương yêu con người thì phải biết trân trọng, bảo vệ những thành
quả lao động của con người, phải tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian của
nhân dân. Trong Di chúc, Người nhắc nhở không được “lãng phí ngày giờ và tiền bạc
của nhân dân”(10).
Lòng thương yêu con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Di chúc rộng
lớn, sâu sắc, nhưng cũng rất thiết thực, cụ thể và giản dị. Theo Di chúc của Người,
mỗi cán bộ, đảng viên trước hết cần phải có cái tâm, phải thương yêu con người, thật
sự quan tâm đến con người, đến mọi người và mỗi người; phải kính trọng dân, giúp
đỡ dân, trân trọng, tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân; phải bằng những hành
động thiết thực, cụ thể để giải quyết thấu đáo nguyện vọng của nhân dân; không thờ
ơ, lãnh đạm với những tâm tư, nguyện vọng của con người, của mỗi người; không
gây phiền hà, sách nhiễu, hách dịch với dân, không lãng phí thì giờ, tiền bạc của dân;
không vô cảm trước khó khăn, hoạn nạn, đau khổ của nhân dân; phải gắng sức phấn
đấu để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 đã nhấn mạnh:
Cán bộ phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải dựa vào nhân dân để phát hiện, kiểm
tra và giám sát cán bộ. Đó là thiết thực học tập và làm theo tấm gương của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và cũng là mong muốn của Người đối với Đảng và đối với mỗi cán bộ,
đảng viên.
Qua sự phân tích trên có thể thấy, tư tưởng vì con người được thể hiện đậm nét
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự biểu hiện tập trung nhất triết lý nhân
sinh của Người. Triết lý ấy là sự gắn kết giữa chủ nghĩa nhân đạo cao cả với tư tưởng
nhân văn sâu sắc. Cội nguồn của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là truyền
thống nhân ái của dân tộc Việt Nam kết hợp với truyền thống nhân ái của nhân loại.
Mục tiêu cao cả của chủ nghĩa nhân đạo và tư tưởng nhân văn ấy là giải phóng dân tộc,
giải phóng xã hội, giải phóng con người. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thể hiện
trong Di chúc là chủ nghĩa nhân văn cách mạng, sáng ngời lý tưởng cộng sản. Chính vì
lẽ đó mà trong điều mong muốn cuối cùng, Người đã viết: “Toàn Đảng toàn dân ta
đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(11). Chỉ
một điều mong muốn giản dị ấy, song trong đó đã chứa đựng cả một lý tưởng, một
khát khao cháy bỏng về một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và quan
trọng hơn là thực hiện được mục tiêu cao cả nhất, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội - dân
giàu và nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mục tiêu đó, suy đến cùng,
vẫn chỉ là vì con người và hướng tới một xã hội tốt đẹp mà ở đó, mỗi cá nhân đều có
thể phát triển một cách toàn diện.
40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta, nhân dân ta đã giành
được những thắng lợi hết sức to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Giờ đây, ánh sáng của các tư tưởng nhân văn cao cả
trong Di chúc của Người vẫn đang tiếp tục soi sáng các mục tiêu, những bước đi trên
con đường đổi mới của nhân dân ta đến dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.q
(*) Thạc sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) http://vietnamnet.vn/nhandinh/2006/05/ 571743/.
(2) Xem: Võ Nguyên Giáp. Một số nội dung tư tưởng nhân văn, đạo đức, văn hoá Hồ
Chí Minh. Tạp chí Cộng sản, số 9, 1973, tr.3.
(3) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr.498, 503, 504.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.506.
(5) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.498, 504.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.498.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.503, 504.
(9) Xem: Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.47.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.499.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.500.
TỪ QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC VỀ SẢN XUẤT - TIÊU DÙNG, SUY NGHĨ VỀ
NHU CẦU TIÊU DÙNG NGHỆ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TRIẾT HỌC, SỐ 12 (223), THÁNG 12-2009
LÊ HƯỜNG (*)
Trên cơ sở quan điểm của C.Mác về sản xuất - tiêu dùng, bài viết bàn về vấn đề sản
xuất tinh thần nói chung, sản xuất nghệ thuật nói riêng, nhằm làm sáng tỏ nhu cầu
tiêu dùng sản phẩm thẩm mỹ hiện nay ở Việt Nam. Cuối cùng, bài viết chỉ ra xu
hướng sản xuất nghệ thuật và tiêu dùng nghệ thuật trên thế giới, đồng thời dự báo xu
hướng biến đổi quá trình sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam.
Vấn đề mối quan hệ giữa nhu cầu và sản xuất là một trong những trọng tâm nghiên
cứu của C.Mác. Trên cơ sở quan điểm của C.Mác về sản xuất và tiêu dùng, bài viết
xem xét vấn đề nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật ở nước ta hiện nay.
1. Quan điểm của C.Mác về sản xuất – tiêu dùng
Theo C.Mác, cái quy định bản chất nhu cầu của con người, quy định tính nhiều loại
nhu cầu của con người là quá trình sản xuất và tiêu dùng. Sản xuất tạo ra tiêu dùng
với ba nghĩa:Một là, tạo ra vật liệu cho tiêu dùng; hai là, xác định phương thức tiêu
dùng; ba là, làm nảy sinh ở người tiêu dùng cái đối tượng là sản phẩm do sản xuất
tạo ra(1). Sản xuất tạo ra sản phẩm cho tiêu dùng, xác định cách thức và phương
pháp tiêu dùng, kích thích và làm nảy sinh những nhu cầu về đối tượng mới cho tiêu
dùng, nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người về sản phẩm tiêu dùng. Còn tiêu dùng
kích thích khả năng của người sản xuất, do nó kích thích nhu cầu hướng vào một
mục tiêu nhất định của anh ta(2). Như vậy, tiêu dùng không chỉ là nhu cầu, là động
lực kích thích sản xuất, mà còn là thước đo đánh giá khả năng của người sản xuất (về
mức độ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng).
Từ quan điểm trên của C.Mác, có thể thấy, mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng là
mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại lẫn nhau. Một mặt, sản xuất quyết định hình
thức, phương pháp tiêu dùng sản phẩm. Mặt khác, quá trình tiêu dùng tác động trở lại
quá trình sản xuất bằng cách làm nảy sinh những đối tượng mới với cách thức tiêu
dùng mới và đó cũng là lúc nó gửi tới người sản xuất thông điệp về những nhu cầu
mới của người tiêu dùng. C.Mác cho rằng, “không có nhu cầu thì không có sản xuất.
Nhưng chính tiêu dùng lại tái sản xuất ra nhu cầu”(3). Trong mối quan hệ nhu cầu,
sản xuất và tiêu dùng này, khi sản xuất càng phát triển thì nhu cầu tiêu dùng của con
người càng phát triển, đi vào chiều sâu. Nó biểu hiện ở chỗ, trình độ của nhu cầu cao
hơn, hướng đến sản phẩm có chất lượng cao hơn và cách thức thỏa mãn nhu cầu có
văn hóa cao hơn.
Từ góc độ sản xuất, C.Mác đã chỉ ra rằng, phương thức sản xuất quy định toàn bộ quá
trình đời sống xã hội, chính trị, tinh thần và theo đó, sản xuất nghệ thuật với tư cách
một bộ phận của sản xuất tinh thần cũng phải thích ứng với quá trình sản xuất vật chất
ấy. Thuật ngữ “sản xuất nghệ thuật” được C.Mác nói đến lần đầu tiên trong Lời nói
đầu Phê phán khoa kinh tế chính trị. So với tư tưởng liên hệ giữa đặc trưng bản chất
của con người với hoạt động lao động sản xuất trong Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844, tư tưởng liên hệ nghệ thuật với sản xuất của C.Mác chín muồi hơn. Đó là kết
quả của việc C.Mác phát triển hơn nữa những nghiên cứu nghệ thuật từ góc độ lao
động. Nghiên cứu sự vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác chỉ
ra rằng, phương thức sản xuất đó xoay quanh quan hệ tiền - hàng, quan hệ này thống
trị trong các lĩnh vực sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần. Theo đó, nghệ thuật cũng
trở thành loại hình sản xuất hàng hoá. Từ góc độ lịch sử phát triển của nhân loại,
C.Mác khẳng định rằng, hiện tượng nghệ thuật trở thành hàng hóa, nghệ sỹ trở thành
người lao động làm thuê là một bước tiến lớn của xã hội.
Cũng theo những nghiên cứu của C.Mác về sự vận động của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa, với nhà tư bản, giá trị thặng dư là mục đích cao nhất, tiền là thước đo
duy nhất. Do đó, khi nghệ thuật trở thành hàng hoá, nhà tư bản quan tâm đến giá cả,
chứ không quan tâm đến giá trị thẩm mỹ của sản phẩm nghệ thuật. Thực chất, các giá
trị thẩm mỹ không thể đo bằng thời gian lao động cần thiết. Cái đẹp trong sản phẩm
nghệ thuật không phải là sản phẩm thuộc về số lượng. Lao động nghệ thuật là lao
động đặc biệt tạo nên cái đẹp. Cái đẹp của nghệ thuật là sản phẩm hiếm có của tài
năng và khác với lao động trực tiếp phổ thông. Nhưng, khi nghệ thuật bị chi phối bởi
quan hệ tiền - hàng, sản xuất nghệ thuật sẽ bị thương mại hóa.
Có thể nói, sự xuất hiện khái niệm “sản xuất nghệ thuật” là một dấu mốc quan trọng
trong tư tưởng mácxít về nghệ thuật. Đặc biệt, khái niệm “sản xuất nghệ thuật” còn
tạo nên một bước tiến lớn trong lịch sử mỹ học. Ở chỗ, thứ nhất, với khái niệm này,
nghiên cứu hoạt động mỹ thuật được mở rộng từ lĩnh vực tinh thần thuần tuý sang
lĩnh vực hiện thực; thứ hai, hoạt động nghệ thuật không còn là lý luận thụ động, mà
đã trở thành lý luận năng động với cơ sở của nó là chủ nghĩa duy vật(4).
Trong những nghiên cứu về kinh tế chính trị, qua sự so sánh giữa sản xuất vật chất
và sản xuất tinh thần, C.Mác đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa hai loại sản xuất
đó và đặc điểm của sản xuất nghệ thuật. Nếu trong hoạt động sản xuất vật chất, con
người thông qua những hoạt động có ích của mình biến đổi hình thái vật chất của tự
nhiên, thì sản xuất nghệ thuật là việc con người biến đổi hình thái vật chất của tự
nhiên với thái độ khen chê và tình cảm yêu ghét thể hiện thông qua những hình
tượng thẩm mỹ điển hình. Nếu sản xuất vật chất thoả mãn nhu cầu thực dụng của con
người bằng các sản phẩm có giá trị sử dụng thì sản xuất nghệ thuật thoả mãn nhu cầu
về tình cảm và tinh thần của con người thông qua sản phẩm có giá trị thẩm mỹ.
2. Sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay
Theo chúng tôi, sở dĩ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ngày càng trở nên
quan trọng trong đời sống của công chúng hiện nay là do có sự tác động của ba yếu
tố sau:
- Thứ nhất là sự tác động của quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế. Đó là sự chuyển
đổi từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình chuyển đổi đó đã tạo điều kiện cho sự nâng cao
đời sống vật chất của xã hội, kéo theo đó là sự tăng lên về nhu cầu văn hoá tinh thần.
Nhu cầu này lại tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật
hiện nay ở nước ta.
- Thứ hai, xu hướng hội nhập và phát triển văn hoá của Việt Nam với thế giới trong
bối cảnh toàn cầu hoá đã có sự tác động lớn đến đời sống văn hoá nghệ thuật trong
nước, trong đó có quá trình sản xuất và tiêu dùng các các loại hình nghệ thuật. Xu
hướng này hoàn toàn trái ngược với tính thuần nhất và ổn định của đời sống văn hoá
Việt Nam trước đổi mới. Trước đổi mới, mọi hoạt động văn hoá đều được thực hiện
theo cơ chế kế hoạch hoá, thống nhất và tập trung theo sự chỉ đạo từ trên xuống.
Điều đó đã tạo nên một đặc điểm của đời sống văn hoá nghệ thuật trước đổi mới là
nghèo nàn, đơn điệu, không có xáo trộn và xung đột. Còn trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mọi hoạt động sản xuất văn hoá nghệ thuật và
tiêu dùng nghệ thuật đều phát triển cả về quy mô lẫn nhịp độ. Sản xuất văn hoá nghệ
thuật tư nhân có điều kiện tồn tại và phát triển theo quy luật cung cầu. Mọi hoạt động
văn hoá nghệ thuật diễn ra trên cơ sở vừa cạnh tranh, vừa hợp tác cả ở thị trường
trong nước và ngoài nước. Do vậy, hoạt động sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật trong
nước có cơ hội giao lưu, “va chạm” và học hỏi hoạt động sản xuất và tiêu dùng nghệ
thuật thế giới. Đó cũng là cơ hội để công chúng trong nước được nâng cao đời sống
văn hoá tinh thần. Quá trình này đồng thời cũng là quá trình làm thay đổi nhận thức,
cách thức sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật trong nước diễn ra theo cả hai chiều tích
cực và tiêu cực.
- Thứ ba là sự định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Trong quá trình đổi
mới, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rằng, văn hoá nghệ thuật là nền tảng tinh thần,
là động lực, là mục tiêu của sự phát triển xã hội và theo đó, là những chính sách cụ
thể cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng văn hoá nghệ thuật. Định hướng chiến lược
này đã tác động mạnh mẽ đến quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hoá nghệ thuật
hiện nay.
Tóm lại, ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu vật chất, nhu cầu tinh thần nói chung, nhu
cầu tiêu dùng nghệ thuật nói riêng của công chúng đang trở thành một nhu cầu quan
trọng trong đời sống.
a. Tiêu dùng nghệ thuật
Một trong những đặc điểm quan trọng của nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật là luôn phụ
thuộc vào giai cấp, xã hội, điều kiện kinh tế và vốn giáo dục. Ở phương Tây, ngay từ
thời Phục Hưng, mâu thuẫn giữa nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật với các yếu tố giai
cấp, điều kiện kinh tế và trình độ giáo dục đã được thể hiện trong văn học và hội họa.
Đó là mâu thuẫn giữa nhu cầu nghệ thuật rất lớn của đông đảo quần chúng nhân dân
với sự thu hẹp phạm vi tác động thẩm mỹ của nghệ thuật đối với quần chúng nhằm
tập trung nghệ thuật phục vụ cho giai cấp tư sản đang lên. Trong xã hội phương Tây
hiện đại, mâu thuẫn này bộc lộ rõ qua sự phân chia thành hai phạm vi đối lập nhau:
nghệ thuật “thượng lưu” và nghệ thuật “quần chúng”, nghệ thuật “hạ đẳng” và
“thượng đẳng”, “bậc nhất” và “bậc hai”. Nguyên tắc “tính thượng lưu” trong thẩm
mỹ đã biến nghệ thuật thành thứ không thể hợp với quần chúng rộng lớn, đối lập với
chủ nghĩa nhân đạo trong sự phát triển của nghệ thuật thế giới.
Ở Việt Nam, trong xã hội phong kiến, giai cấp thống trị bao giờ cũng có những điều
kiện thuận lợi trong việc tiếp cận và hưởng thụ những thành quả nghệ thuật. Nghệ
thuật bác học là món ăn tinh thần, là đối tượng thưởng thức của giai cấp thống trị
nắm quyền lực về kinh tế, quyền lực về chính trị và được giáo dục bài bản. Với quần
chúng nhân dân lao động, đời sống tinh thần của họ là nghệ thuật bình dân. Song,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật ngày
càng phát triển cùng với sự phân hoá mạnh mẽ theo điều kiện kinh tế, vị trí xã hội,
điều kiện giáo dục của cá nhân.
Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta đang sống trong một xã hội tiêu thụ, nhưng nhu
cầu tiêu dùng nghệ thuật của công chúng hiện tại vẫn tập trung vào các sản phẩm
nghệ thuật bình dân. Anne Kristine Naess, nhà nhân học xã hội người Nauy, sau một
thời gian dài nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc xã hội, kinh tế, chính trị đối với
đời sống của nghệ sĩ Hà Nội đã cho rằng, số đông công chúng cảm thấy có khoảng
cách, hoặc hoàn toàn xa lạ để hiểu về nghệ thuật bác học, hoặc nghệ thuật hiện đại,
nhưng họ lại đủ khả năng cảm nhận về một thứ nghệ thuật “hời hợt”, hoặc “thô tục”.
Rất khó khăn để một người Việt Nam đi thăm gallery, đến nhà hát opera hoặc sử
dụng bất cứ dịch vụ văn hóa cao cấp nào khác. Ngoài số ít nhà sưu tầm nghệ thuật,
dân chúng không mua sản phẩm nghệ thuật nếu họ có tiền dư giả. Chỉ có khoảng 3%
số các sáng tác nghệ thuật được bán ở Việt Nam cho chính người Việt Nam(5). Theo
chúng tôi, rào cản công chúng đến với nghệ thuật vẫn phụ thuộc vào yếu tố giai cấp,
vị thế xã hội, điều kiện kinh tế và vốn văn hóa giáo dục. Nền kinh tế thị trường phát
triển kéo theo sự phân hoá giàu nghèo tăng lên, nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật của
công chúng vì thế cũng sẽ phân hoá mạnh mẽ theo mức sống, điều kiện của các tầng
lớp dân cư trong xã hội. Việc khắc phục mâu thuẫn của sự phân tầng xã hội phụ
thuộc vào sự định hướng, mục tiêu và chính sách phát triển của mỗi quốc gia.
Nội dung tiêu dùng nghệ thuật của công chúng ở Việt Nam hiện nay vô cùng phong
phú, đa dạng, hướng đến nhiều góc cạnh của đời sống. Nếu như trong thời kỳ chiến
tranh và thời kỳ sau khi đất nước thống nhất, nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật của công
chúng hướng tới những tác phẩm nghệ thuật chứa đựng những giá trị tư tưởng về lịch
sử hào hùng của dân tộc, cảm hứng anh hùng ca về hai cuộc chiến thắng vĩ đại của
dân tộc, hướng đến những giá trị thẩm mỹ mang đậm cái ta chung của toàn dân tộc,
thì trong cơ chế thị trường, tính năng động của con người được “đánh thức”, nội
dung nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật của công chúng hoàn toàn có tính mở. Bản thân
nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật của công chúng cũng hướng đến cái tôi, cái riêng độc
đáo, quan tâm đến con người bản năng, đến các loại hình nghệ thuật.
Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, chưa có sự tương ứng giữa sự phát triển nhanh
chóng trong các lĩnh vực sản xuất nghệ thuật với trình độ, khả năng tiếp nhận của
công chúng, dẫn đến tính tự phát trong nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật. Đó là, thứ
nhất, tính tự phát trong nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam có nguyên nhân từ
việc công chúng đa phần chưa được giáo dục về nghệ thuật, không có “vốn” về một
loại hình nghệ thuật nào đó, hoặc chưa kịp trang bị kiến thức về những loại hình
nghệ thuật mới. Thứ hai, tính tự phát trong nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật còn do công
chúng hiện nay chưa được định hướng, hoặc chưa kịp được định hướng “đến nơi đến
chốn” về cách thức tiêu dùng nghệ thuật như thế nào cho phù hợp với bản thân, phù
hợp với dân tộc và thời đại. Chính vì thiếu sự định hướng trong nhu cầu tiêu dùng
nghệ thuật, nên dẫn tới việc a dua, bắt chước chạy theo cái bóng, cái rởm của nghệ
thuật. Và có tình hình là, tưởng như người tiêu dùng chủ động trong nhu cầu tiêu
dùng nghệ thuật, nhưng thực tế là bị động trước một thị trường khổng lồ văn hoá
phẩm như hiện nay. Sự thụ động trong tiêu dùng nghệ thuật đã tạo nên sự dễ dãi
trong thưởng thức nghệ thuật. Tính tự phát trong nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật sẽ tạo
ra những thói quen xấu trong nhận thức và trong cách thức tiêu dùng nghệ thuật.
C.Mác đã chỉ ra rằng, phương thức tiêu dùng nghệ thuật là sản phẩm của lịch sử. Vì
thế, chúng không những phụ thuộc vào trình độ văn minh của mỗi dân tộc, mà còn
phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác, như thói quen, nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
Khi phần đông công chúng chưa có thói quen tiêu dùng nghệ thuật, khi nghệ thuật
chưa trở thành nhu cầu sinh hoạt tinh thần thường xuyên của cá nhân, thì nghệ
thuật còn đứng bên ngoài, còn xa lạ với đời sống của họ.
b. Sản xuất nghệ thuật
C.Mác đã chỉ ra rằng, “vật phẩm không phải là một vật phẩm nói chung, mà là một
vật phẩm nhất định, phải được tiêu dùng theo một cách thức nhất định, cách thức đó
lại do bản thân sản xuất định trước”(6). Theo đó, có thể nói, nhu cầu tiêu dùng nghệ
thuật và cách thức tiêu dùng nghệ thuật phụ thuộc trực tiếp vào quá trình sản xuất
nghệ thuật. Vậy, quá trình sản xuất nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay như thế nào?
Ở Việt Nam hiện nay, sản xuất nghệ thuật có sự phân hoá rõ rệt theo nhu cầu nghệ
thuật của người tiêu dùng. Trong cơ chế thị trường, cái đẹp xuất hiện đồng thời với
cái hữu ích trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Sự phân hoá trong sản xuất
nghệ thuật đã dẫn đến sự phân hoá trong nhu cầu tiêu dùng. Sản xuất nghệ thuật theo
chiều sâu chiếm tỷ lệ khá nhỏ trên thị trường, do phần đông đối tượng tiêu dùng nghệ
thuật hiện nay là khán giả bình dân. Mặt khác, lĩnh vực sản xuất nghệ thuật này vừa
kén khán giả, vừa phải đầu tư nhiều công sức, thời gian, tiền bạc và quan trọng là,
phụ thuộc vào tài năng của người nghệ sĩ.
Ví dụ, trong lĩnh vực hội họa Việt Nam hiện nay, một số họa sĩ tâm huyết với nghệ
thuật thật sự và nỗ lực theo đuổi con đường nghệ thuật gian truân không nhiều. Hay
trong lĩnh vực âm nhạc, người ta thấy ngày càng xuất hiện nhiều những sản phẩm âm
nhạc bình dân với những ca từ dễ dãi, phục vụ phần lớn công chúng là giới trẻ.
Không ít nhạc sĩ trẻ biện hộ rằng, có thể những ca từ này không mang tính thẩm mỹ
truyền thống theo cách người Việt vẫn nghĩ, vẫn hy vọng tìm thấy trong âm nhạc,
nhưng nó gần với cuộc sống hiện tại, nên nó có quyền được “bước” vào bài hát.
Cuộc sống ngày nay vội vã hơn, người ta nghe nhạc theo nghĩa giải trí thuần túy,
mấy ai còn có thời gian suy ngẫm về ý nghĩa nhiều tầng giấu trong bài hát(7). Một
cách tự nhiên, những bài hát như vậy không đến được với họ và nhạc sĩ không cần
thiết phải sáng tác những tác phẩm có chiều sâu. Vấn đề ở đây là, công chúng có nhu
cầu như vậy, hay đó là lý do để không ít nhạc sĩ trẻ biện hộ cho sự kém tài của mình.
Ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại một loại hình nghệ thuật thị trường với phần đông
lượng khán giả có nhu cầu. Khi công chúng có nhu cầu, thì thị trường sẽ cung cấp.
Tuy nhiên,cung đang chiều theo cầu. Nhà sản xuất đang chiều theo những nhu cầu dễ
dãi của một bộ phận công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Họ là những “thượng đế” chưa
được chuẩn bị để trở thành công chúng nghệ thuật thực sự. Nếu như nghệ thuật trong
thời kỳ bao cấp có giá trị tuyên truyền và giáo dục, thì giờ đây, nghệ thuật đã trở
thành hàng hoá với các mục đích thương mại khác nhau. Lợi nhuận và mục đích tối
ưu của hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường đang chi phối mạnh mẽ các hoạt
động sản xuất, trong đó có sản xuất nghệ thuật. Xu hướng “thương mại hoá” trong
sản xuất nghệ thuật đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện những văn hoá phẩm độc hại,
có nguy cơ làm băng hoại đời sống tinh thần của công chúng, đặc biệt là giới trẻ.
Đây chính là mặt trái của sản xuất nghệ thuật trong nền kinh tế thị trường.
Từ góc độ phương thức sản xuất, C.Mác đã chỉ ra rằng, phương thức mà con người
sản xuất không những phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh
hoạt mà con người có sẵn và tư liệu mà con người tái sản xuất ra, mà còn phụ thuộc
vào hoạt động sống của con người. “Do đó, họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với
sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như cách mà họ sản xuất”(8). Theo
đó, xét về điều kiện để sáng tác, nghệ sĩ Việt Nam chưa có nhiều điều kiện thuận lợi
để yên tâm sáng tác (ví dụ, sự tài trợ về kinh phí, không gian để trưng bày, triển
lãm…). Xét về trình độ, tài năng cùng sự thiếu hụt kiến thức về văn hóa, lịch sử,…
đang là một trở ngại đối với nghệ sĩ trẻ Việt Nam trong việc tạo ra những tác phẩm
có tầm vóc. Điều đó phản ánh một thực trạng là, sản xuất nghệ thuật hiện nay ở nước
ta đang trong một cái vòng luẩn quẩn giữa khát vọng sản xuất thì lớn, nhưng điều
kiện sản xuất có hạn; nghệ sĩ đang phải đối mặt với mâu thuẫn trong sáng tác nghệ
thuật giữa một bên là chất lượng của tác phẩm nghệ thuật cần phải đầu tư thời gian
và công sức để có được và một bên là cần phải sản xuất nhanh chóng, đáp ứng những
thị hiếu tức thời, trước mắt.
Từ thực trạng sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay, vấn đề
là, cung phải chi phối cầu, bắt cầu phải thay đổi; mặt khác, cầu phải là động lực thúc
đẩy cung theo hướng tạo ra những giá trị thẩm mỹ vì con người. Theo chúng tôi, Nhà
nước cần có sự quan tâm, đầu tư cho những tài năng nghệ thuật, tạo điều kiện nâng
cao trình độ sản xuất và cách thức sản xuất nghệ thuật, vì nó quyết định tới chất
lượng sản phẩm nghệ thuật và tiêu dùng nghệ thuật; mặt khác, cần nâng cao chất
lượng nhu cầu tiêu dùng nghệ thuật, nghĩa là nâng cao khả năng nhận thức và trình
độ tiêu dùng nghệ thuật để lĩnh hội các giá trị thẩm mỹ. Điều này có ý nghĩa rất quan
trọng, sau khi lĩnh hội các giá trị thẩm mỹ, chủ thể nhận thức quay lại với bản thân
mình, sau khi thế giới tinh thần đã được làm phong phú thêm, với tư cách một cá
nhân sản xuất và tái sản xuất ra bản thân mình. Và khi đó, tiêu dùng của cá nhân sẽ là
động lực thúc đẩy bên trong của sản xuất hướng tới việc thoả mãn nhu cầu cao về
nghệ thuật.
3. Xu hướng sản xuất nghệ thuật và tiêu dùng nghệ thuật trên thế giới. Dự báo
xu hướng biến đổi quá trình sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam
Xu hướng sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật trên thế giới đang chịu sự tác động
mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông cùng xu thế toàn cầu hoá văn hoá và
theo đó, vai trò, vị thế của người sản xuất và người tiếp nhận đang có sự thay đổi
mạnh mẽ. Đối với tác giả, vấn đề không phải là làm ra chất liệu, mà là làm với chất
liệu. Những hình thức, giá trị, huyền thoại, biểu tượng, hệ tư tưởng đối với anh ta là
đã có sẵn ở đấy rồi, giống như người công nhân trong một nhà máy lắp ráp ô tô,
người nghệ sĩ tạo nên sản phẩm của mình từ những chất liệu đã được xử lý(9).
Đối với người nghệ sĩ trong thời đại kỹ thuật số và toàn cầu hoá, nghệ sĩ chính là
người hiểu và thăm dò các phương tiện mới một cách tốt nhất. Họ đi trước thời đại
trong việc nắm bắt khả năng của những loại hình tư duy và liên kết mới mẻ. Nghệ sĩ
trong xã hội có vai trò đặc biệt như thể là một “kẻ vô hình” sở hữu “sự ý thức về toàn
thể”(10).
Nếu như nghệ thuật truyền thống luôn xuất phát từ quyền năng đặc biệt bởi sự kính
trọng, thiêng liêng và vị thế duy nhất trong không gian, thời gian, thì giờ đây, những
đặc tính duy nhất đó đã bị phá vỡ khi các công nghệ truyền thông tác động đến nghệ
thuật. Chẳng hạn, nếu như trước đây, một bức tranh có giá trị duy nhất thì ngày nay
với sự ra đời của máy photocopy, bức tranh duy nhất này được thay thế bằng vô số
bản copy. Sự phát minh ra nhiếp ảnh đã làm cho “bản gốc” không còn chỗ đứng.
Việc ứng dụng công nghệ 3D khiến cho nàng Mona Lisa (trong triển lãm “Nghệ
thuật cổ điển thế giới tương tác” được tổ chức mới đây tại Hàn Quốc) còn biết nói và
“vui vẻ” trả lời những câu hỏi liên quan đến tuổi tác và cuộc sống. Hay, những bức
tượng thánh thần từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại có thể cử động được, tạo dáng và
không ngừng nói về các sự tích, chi tiết về cuộc đời mình. Tuy nhiên, sự tác động
của công nghệ truyền thông cũng góp phần tạo ra ngày càng nhiều nghệ thuật giả
danh vì mục đích thương mại. Chẳng hạn, bức tranh nàng Mona Lisa của Leonardo da
Vinci bị tỉa râu, bức tượng chàng David của Michelangelo bị mặc chiếc quần đùi võ
sĩ…
Có thể nói, trong thời đại ngày nay, mọi cái đang biến đổi bởi con người và có thể
chuyển hoá bởi con người. Do đó, công chúng tiêu dùng nghệ thuật trên thế giới
đang tiếp nhận nghệ thuật với tinh thần chủ động, nghiễn ngẫm và có tinh thần phê
phán. Ngược lại, nghệ thuật mới cũng đòi hỏi khán giả một cái nhìn phức hợp, buộc
khán giả phải có khả năng nhận thức đa diện về những cách thức thể hiện mới.
Còn ở Việt Nam thì sao?
Có thể thấy, với đặc tính năng động của cơ chế thị trường cùng sự tác động mạnh mẽ
của khoa học - kỹ thuật đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, sự mở rộng giao lưu,
hợp tác văn hoá với các nước trong khu vực và trên thế giới, sản xuất nghệ thuật ở
Việt Nam hiện nay không nằm ngoài xu hướng sản xuất nghệ thuật chung của thế
giới. Sản xuất nghệ thuật ở Việt Nam đang chịu sự tác động sâu sắc của các phương
tiện truyền thông hiện đại. Sự tác động này là một trong những yếu tố dẫn đến sự
phân hoá trong sản xuất nghệ thuật, phân hoá đối tượng người tiêu dùng nghệ thuật ở
Việt Nam. Mặt khác, nó tạo ra những sản phẩm nghệ thuật có chất lượng cao, là kết
quả của một quá trình sản xuất nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp, khoa học và
đồng bộ, hướng tới đối tượng người tiêu dùng có nhu cầu cao về nghệ thuật. Tuy
nhiên, sự ứng dụng các phương tiện truyền thông hiện đại vào sản xuất nghệ thuật
cũng khiến cho “tính thương mại” trong lĩnh vực sản xuất này được đà phát triển,
xuất hiện nhiều cái đẹp giả danh, phi thẩm mỹ.
Trong khi đó, cùng với xu hướng chung của thế giới, sự tiếp nhận nghệ thuật của
công chúng ở Việt Nam cũng đang có sự thay đổi mạnh mẽ. Đó là sự thay đổi về
trạng thái tiếp nhận, sự phối hợp tổng thể các giác quan trong việc tiếp nhận nghệ
thuật. Không gian và thời gian tiếp nhận nghệ thuật được rút ngắn, rất nhiều người
biết đến âm nhạc của Bach, của Bethoven từ các đĩa CD hay từ đài truyền thanh, chứ
không nhất thiết phải đến nhà hát để thưởng thức… Rõ ràng, sự tiếp nhận nghệ thuật
của công chúng ở Việt Nam đang chuyển từ thế bị động sang thế chủ động.
Tuy nhiên, có vấn đề là, công chúng có thể là một giám khảo, song cũng có thể là vị
giám khảo lơ đễnh nhất. Điều này gần gũi một cách nguy hiểm với dạng công chúng
sở hữu một trí tuệ trống rỗng, hoặc một trí tuệ bị điều khiển(11).
Tóm lại, trước xu hướng biến đổi mạnh mẽ của quá trình sản xuất và tiêu dùng nghệ
thuật trên thế giới, quá trình sản xuất và tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam đang có
những bước chuyển mình tương ứng. Kéo théo đó là sự đòi hỏi cao về trình độ và
khả năng của nhà sản xuất, của người tiêu dùng nghệ thuật. Tuy nhiên, xét về mức
độ, quy mô và khả năng, sự chuyển mình đó còn có rất nhiều hạn chế. Song, có thể
nói, khát vọng thay đổi, nhu cầu tồn tại, khả năng vận động của các nhà sản xuất
nghệ thuật và của công chúng tiêu dùng nghệ thuật muốn vượt qua chính mình, vượt
qua những lối mòn nhận thức quen thuộc, muốn vươn ra thế giới bên ngoài để chiếm
lĩnh những giá trị thẩm mỹ mới của nhân loại là rất mạnh mẽ. Đây là một xu hướng
chủ đạo, mở ra sự phát triển mới trong lĩnh vực sản xuất nghệ thuật và hướng tới
những nhu cầu cao trong tiêu dùng nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay.q
(*) ThS. Phòng Đạo đức – Mỹ học, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
(1) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, tr.866.
(2) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.12, tr.867.
(3) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Sđd., t.12. tr.865.
ĐỖ HUY (*)