
GIẢM KALI-HUYẾT VÀ TĂNG KALI-
HUYẾT
(HYPOKALEMIA AND
HYPERKALEMIA)
PHẦN I
1/ TẠI SAO SỰ ĐIỀU HÒA CHẶT CHẼ KALI-HUYẾT LÀ QUAN
TRỌNG ?
Chỉ khoảng 56mEq trong số 4200 mEq K của toàn bộ cơ thể là ở ngoài tế bào.
Do đó, những thay đổi K của dịch ngoài tế bào, hoặc là do những xê dịch giữa
các khoang hoặc do được thêm vào hoặc mất đi, làm biến đổi đáng kể tỷ số
giữa K ngoài tế bào đối với K trong tế bào. Bởi vì tỷ số này xác định điện thế
màng lúc nghỉ (resting membrane potential), nên những thay đổi nhỏ của K
trong dịch ngoài tế bào có thể ảnh hưởng sâu đậm lên tính dễ kích thích thần
kinh cơ (neuromusculat excitability).
2/ MỘT SỰ GIẢM NỒNG ĐỘ KALI TRONG MÁU CÓ PHẢN ÁNH
MỘT SỰ GIẢM K TOÀN CƠ THẾ ?
Không. Giảm-kali huyết (hypokalemia) có thể xảy ra, hoặc do sự vận chuyển
qua tế bào của kali từ ngăn ngoài tế bào vào ngăn trong tế bào (giảm kali-huyết
do tái phân bố : redistibution hypokalemia) hoặc do giảm K toàn bộ cơ thể
(total body K).

3/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO KIỂM SOÁT SỰ CÂN BẰNG NỘI TẠI CỦA
K ?
Một số các yếu tố làm di chuyển kali vào tế bào, gồm có insulin, nhiễm kiềm
(alkalosis), và catecholamines.
4/ NHỮNG NGUYÊN NHÂN CỦA GIẢM KALI-HUYẾT DO TÁI PHÂN
BỐ (REDITRIBUTION HYPOKALEMIA) ?
Những nguyên nhân của sự phân bố qua tế bào bị rối loạn gồm có nhiễm kiềm
(alkalosis), insulin dùng quá mức, các tác nhân chủ vận beta-adrenergic, bại liệt
hạ kali-huyết xảy ra từng kỳ (hypokalemic periodic paralysis), ngộ độc barium,
sự tăng sinh tế bào (leukemia hay B.lymphoma), và điều trị với digoxin
immune Fab.
5/ GIẢM KALI-HUYẾT XẢY RA DO CHUYỂN DỊCH TỄ BÀO CÓ
CẦN PHẢI ĐIỀU TRỊ KHÔNG ?
Bởi vì loại giảm kali-huyết này không phản ảnh một sự thiếu hụt toàn cơ thể
thật sự của K, nên không cần phải điều trị, ngoại trừ những trường hợp cấp cứu,
như bại liệt hạ kali-huyết xảy ra từng kỳ (hypokalemic periodic paralysis) hay
nhồi máu cơ tim.
6/ MÔ TẢ NHỮNG TRIỆU CHỨNG CỦA GIẢM KALI-HUYẾT.
Do tác dụng làm giảm tính kích tích thần kinh-cơ, giảm kali-huyết đưa đến yếu
cơ, với liệt tứ chi (quadriplegia), giảm thông khí (hypoventilation), tắc ruột bất
động lực (adynamic ileus), và hạ huyết áp tư thế đứng (orthostatic
hypotension). Hạ kali-huyết nghiêm trọng làm phá vỡ sự toàn vẹn của tế bào,
dẫn đến tiêu cơ vân (rhabdomyolysis). Những tác dụng lên thận gồm có kích

thích thận sản xuất ammonia, có thể làm thúc đẩy bệnh não (encephalopathy)
nơi những bệnh nhân với bệnh gan tiến triển. Trong số những hậu quả nguy cấp
nhất là hậu quả lên tim, gồm có loạn nhịp nhĩ và thất. Điện tâm đồ cho thấy hạ
đoạn ST (S-T segment depression) và các sóng T dẹt, đưa đến những sóng U
nổi bật. Những sóng U nổi bật đến lượt cho cảm giác khoảng QT bị kéo dài.
7/ PHƯƠNG CÁCH CHẨN ĐOÁN MỘT BỆNH NHÂN VỚI HẠ KALI-
HUYẾT ?
Sau khi loại bỏ những trường hợp giả (như tăng bạch cầu), giảm kali-huyết thật
(true hypokalemia) có thể được chẩn đoán dựa trên nồng độ K nước tiểu, tình
trạng toan-kiềm toàn thân và nồng độ clo nước tiểu.
Một nồng độ K nước tiểu thấp (< 20mEq/ngày) chỉ cho thấy sự hấp thụ kém
(poor intake) hay mất ngoài thận (extrarenal losses). Hấp thụ kém được thấy
nơi người già, người nghiện rượu, và những bệnh nhân chán ăn. Mất ngoài thận
thường là do mất theo đường dạ dày-ruột (gastrointestinal losses), như tiêu
chảy với dịch tiêu hóa chứa nhiều K.
Một nồng độ K nước tiểu cao (>20mEq/ngày) chỉ cho thấy potassium mất theo
đường thận (renal losses) và có thể được xếp loại tùy theo pH toàn thân. Nhiễm
toan chuyển hóa (metabolic acidosis) với giảm kali-huyết được thấy trong
nhiễm toan ống uốn thận (renal tubular acidosis) (xa và gần), nhiễm xeton-axit
do đái đường (diabetic ketoacidosis), nhiễm xeton-axit do rượu (alcoholic
ketoacidosis) và ngộ độc ethylene glycol và methanol. Một pH bình thường với
hạ kali-huyết được thấy trong hoại tử ống thận cấp tính (acute tubular necrosis),
bài niệu sau tắc (postobstructive diuresis), thiếu hụt Mg, và bài niệu thẩm thấu
(osmolar diuresis) như glucose. Nhiễm kiềm chuyển hóa (metabolic alkalosis)
với hạ kali-huyết lại được xếp loại tùy theo nồng độ clo nước tiểu. Nếu nồng độ
clo nước tiểu < 10 mEq/L, nguyên nhân hoặc là do mửa hoặc do thuốc lợi tiểu.
Nếu nồng độ clo > 10mEq/L trong bối cảnh cao huyết áp, thì sự mất K qua thận

có thể là do tăng aldosteron (hyperaldosteronism), do mineralocorticoid quá
thừa (tăng sản thượng thận bẩm sinh: congenital adrenal hyperplasia), do gia
tăng hoạt tính của kênh sodium (Liddle’s syndrome), hoặc do gia tăng
glucocorticoids (ACTH lạc chỗ hay tuyến thùy). Nếu không có cao huyết áp và
nồng độ clo > 10 mEq/L, chẩn đoán phân biệt gồm có hội chứng Batter và các
biến thể của nó (như hội chứng Gitelman).
8/ KHI NÀO KALI- HUYẾT ĐÁNH GIÁ SAI K CƠ THỂ ?
Sự di chuyển K vào trong tế bào/ ra ngoài tế bào có một tác dụng rõ rệt lên
những trị số K trong máu. Sự chuyển động hổ tương K và H+ qua màng tế bào
đưa đến một sự gia tăng K huyết khoảng 0,6 mEq/L đối với mỗi sự sụp giảm
pH 0,1 đơn vị trong trường hợp toan-huyết (acidemia), và một sự hạ kali- huyết
0,1- 0,4 mEq/L đối với mỗi gia tăng pH 0,1 đơn vị trong trường hợp kiểm máu
(alkalemia).
9/ NHỮNG THUỐC NÀO GÂY MẤT K BẰNG ĐƯỜNG THẬN, GIẢM
KALI-HUYẾT, VÀ GIẢM K TOÀN CƠ THỂ ?
Những thuốc thông thường nhất là thuốc lợi tiểu như (thiazides, thuốc lợi tiểu
quai, và acetazolamide).
Acetazolamide gia tăng K nước tiểu bằng cách phong bế sự tái hấp thu
sodium bicarbonate ở ống uốn gần (proximal convoluted tubule).
Thiazides có thể gây mất K nhiều hơn so với thuốc lợi tiểu quai (loop
diuretics). Lý do chính là thiazides có một thời gian bán hủy dài hơn
nhiều so với hầu hết các thuốc lợi tiểu quai.
Penicillin và các chất tương cận penicillin (ví dụ carbenicillin,
ticarcillin, piperacillin) cũng gây nên mất K, được trung gian qua nhiều
cơ chế khác nhau.

Amphotericin, platinum, và aminoglycosides gây mất K ngay cả lúc
không có giảm tốc độ lọc vi cầu.
10/ GIẢM KALI-HUYẾT ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ NHƯ THẾ NÀO ?
Trong hầu hết các trường hợp, KCl được sử dụng. Trong nhiễm toan chuyển
hóa, thay thế bằng K bicarbonate hay tương đương (ví dụ K citrate, acetate, hay
gluconate) được khuyến nghị để giúp làm nhẹ bớt tình trạng nhiễm toan.
Những người nghiện rượu và những người bị bệnh đái đường mất bù thường có
sự thiếu hụt phosphate và nên nhận một ít potassium như K phosphate. Thay
thế bằng đường miệng là đường an toàn nhất, và cho phép cho những liều lên
đến 40 mEq nhiều lần mỗi ngày. Những dạng thuốc phóng thích chậm có
khuynh hướng làm giảm rối loạn tiêu hóa được khi dùng với những liều cao
hơn.
11/ KHI NÀO CẦN THAY THẾ K BẰNG ĐƯỜNG TĨNH MẠCH ?
NHỮNG NGUY CƠ LÀ GÌ ?
Khi không thể cho bằng đường miệng, như khi đường tiêu hóa không hoạt
động, hoặc trong những tình huống đe dọa tính mạng như yếu người nghiêm
trọng, nguy khốn hô hấp, loạn nhịp tim, hay tan cơ vân (rhabdomyolysis), K
phải được thay thế bằng đường tĩnh mạch.Tốc độ tiêm truyền bình thường phải
được giới hạn 10 mEq/giờ để tránh tác dụng có khả năng gây tai họa của một
liều K tiêm trực tiếp vào tim. Trong những tình huống cực kỳ, dưới monitoring
tim và với sự theo dõi nồng độ K thường xuyên, tốc độ tiêm truyền lên đến 30
mEq/giờ có thể được sử dụng.
12/ TRONG NHỮNG TÌNH HUỐNG KHÁC NÀO, SỰ THAY THẾ K
CẦN ĐƯỢC ĐẶC BIỆT CHÚ Ý ?

