GIÁO DỤC ĐẠI HỌC TRÊN ĐƯỜNG HỘI NHẬP
1. Xu hướng đại chúng hoá giáo dục đại học: Cùng với sự phát triển nhanh
vmọi mặt của xã hội, giáo dục đại học đã chuyển mạnh từ nền giáo dục tinh hoa
sang giáo dục đại chúng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao vđời sống văn hoá và
nguồn nhân lực trình độ cao. Số trường đại học mới thành lập gia tăng nhanh
chóng cùng với sự đa dạng hoá các loại hình đào tạo [ tại chức, đào tạo từ xa, đào
tạo liên thông…] sphân tầng các trường về mặt chất lượng [ bằng tốt nghiệp
c trường có giá trị khác nhau ]. Các tổ chức độc lập quốc gia hay quốc tế định kỳ
đánh giá xếp hạng các trường lớn các nước. Bên cạnh những trường đại học
nổi tiếng vẫn tiếp tục tuyển sinh khắc khe, nhiều trường đã mrộng cửa cho đầu
vào, nhưng kiểm soát cht đầu ra, nhất là các trường đại học mở.
2. Thay đổi mục tu đào tạo theo yêu cu phát triển xã hội: Trong thời
đại thông tin, khối lượng kiến thức của nhân loại gia tăng nhanh chóng, ít nhất là
gấp đôi qua mỗi thập niên, thì vấn đề quan trọng hơn không phải là truyền đạt cho
sinh viên bao nhiêu kiến thức, mà trang bcho sinh viên khnăng tự thu thập
kiến thức, tự thân phát triển năng lực giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Vì
vậy, người ta nói: dạy đại học trên hết là dạy cách học cho sinh viên. Sthành
đạt của con người ngày nay dựa chủ yếu vào những kiến thức tự học chứ không
phải là skiến thức hạn chế do thầy truyền đạt nhà trường. Vì vậy, nếu xưa kia
mục tiêu giáo dục đại học tập trung vào việc trang bị kiến thức hàn m cho sinh
viên thì ngày nay bên cạnh mục tiêu vkiến thức đạo đức nghề nghiệp, những
trường danh tiếng còn đề ra nhiều mục tiêu thiết thực kng kém phần quan trọng
khác vcác mặt: kỹ ng thực hành, khnăng tự học suốt đời [life-long learner],
óc phê phán sáng tạo [critical & creative thinking], năng lực giải quyết vấn đề
[problem solving], ý thức lập nghiệp [entrepreneurial mentality], kỹ năng giao tiếp
[communication skill], làm việc tập thể [team work], phát triển bền vững và ý thc
vmôi trường [sustainable development & environmental commitment], kiến thức
xã hội, đạo đức, thẩm m và tất nhiên cả ngoại ngữ.
3. Thay đi vai trò ca ngưi thầy và cách học của sinh viên: Nếu trước
kia vai trò chính của người thầy là truyền đạt kiến thức còn sinh viên là người tiếp
thu kiến thức ch yếu từ thầy, thì ngày nay vai trò ch yếu của người thầy là
hướng dẫn sự học tập [facilitator of learning] của sinh viên, còn sinh viên tiếp thu
kiến thức chủ yếu thông qua tự học và thảo luận nhóm, dưới sự hướng dẫn của
thầy, theo phương châm lấy sinh viên làm trung tâm [student centered learning].
Để làm được điều này, các trường đã áp dụng nhiều phương pháp dạy và học phát
huy tính năng động, sáng tạo của sinh viên như nghiên cứu tình huống [case
study], học trên sở giải quyết vấn đề [problem based learning], học qua khám
phá [learning by discovery]…Internet các phương tiện kỹ thuật hiện đại đã
được tích cực huy động để hỗ trợ cho việc học tập của sinh viên. Sinh viên ngày
càng tham gia nhiều hơn hiệu quả hơn vào các ng trình nghiên cứu khoa
học để rèn luyện năng lực sáng tạo.
4. Xu hướng giảm sự bao cấp của nhà nước về tài chính: S phát triển
mạnh quy đào to cùng với sgia tăng nhanh chi phí đào tạo đại học đã tr
thành gánh nặng tài chính đối với các chính phủ. Nếu trước kia các trường đại học
công chyếu tồn tại nhờ vào nguồn tài chính công [một số nước, ngay cả các
trường cũng được nhà nước tài tr một phần], thì nay một số nước như Thái
Lan và cnước giàu như Nhật Bản cũng đang thực hiện chính sách giảm dần mức
tr cấp của nhà nước cho các trường đại học công cho phép các trường t
ch v tài chính. Điều này bước đầu gây một số khó khăn cho các trường,
nhưng ngược lại cũng thúc đẩy các trường chi tiêu hợp hơn, nâng cao tính năng
động và hiệu quả hoạt động trong các lĩnh vực: hợp đồng nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ, tìm nguồn tài tr, sản xuất và dịch vụ…Mặt khác, học phí
nguồn tài chính quan trọng nhất của trường, vì vậy các trường cũng phải nâng
cao chất lượng đào tạo để cạnh tranh thu hút nhiều sinh viên, kể cả sinh viên nước
ngoài vào hc. Để nhanh chóng nâng cao chất lượng đào tạo, nhiều trường đại học
các nước Đông Nam Á đã mrộng hợp c với các trường đại học danh tiếng
Âu-Mỹ và giảng dạy bằng tiếng Anh theo chương trình của các trường đó.
5. Mrộng quyền tự chủ của các trường: Ngoài những trường các nước
đã quy chế tự chủ từ trước, xu hướng mở rộng quyền tự chủ đại học, nhất là t
chtrong đào tạo, được đẩy mạnh những nước vốn chưa truyền thống này,
tiêu biểu là Trung Quốc, một nước vốn nhiều điểm tương đồng với nước ta về
mặt y. Bước đầu các trường đại học lớn Trung Quốc đã được phép cấp bằng
tốt nghiệp cho cả tiến được quyền phong giáo sư. Quyền tự chủ giúp cho các
trường thoát khỏi việc phải vượt qua những chặn rào thtục hành chính không
đáng có để áp dụng những cải tiến, những biện pháp tiên tiến nhất mà hiệu quả đã
được kiểm chứngnhiều nước.
6. Xu ng trường đa ngành: Ưu thế quan trọng nhất của các trường đa
ngành so với trường đơn ngành tận dụng hiệu quả hơn nguồn nhân lực sở
vật chất của trường, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho shợp tác liên
ngành trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Đây là xu hướng đã diễn ra mạnh
các nước Đông Nam Á, Trung Quốc các nước Đông Âu. Ngoài các trường đa
ngành mới thành lập, nhiều trường đơn ngành trước kia đã chuyển thành các
trường đa ngành, ngay ckhi tên cũ của trường vẫn được giữ như ở Trung Quốc.
7. Chú trọng sphát triển năng lực nhân: Các chương trình đào tạo
được thiết kế linh hoạt n với tỷ lệ phần tự chọn cao hơn đi đôi với là học
chế tín chỉ giúp cho sinh viên nhiều khả năng tự sắp xếp tiến đhọc tập cũng như
chọn hướng chuyên sâu theo khnăng của mình. Nh vậy những sinh viên giỏi
thể rút ngắn thời gian hoàn thành chương trình hay học thêm một ngành khác.
Những xu hướng trên đã hình thành trên cơ sở quá trình cải tiến lâu dài
các nền giáo dục đại học trên thế giới và cũng đã chứng minh được tính thích
ứng với yêu cầu phát triển của thời đại. Thật ra một số hướng chuyển đổi nói
trên đã manh nha nước ta, thậm chí một số mặt đã được áp dụng miền
Nam từ hơn 30 năm trước. Sự chuyển biến rất chậm nước ta phải chăng là
do triết giáo dục đại học của ta về cơ bản vẫn không đổi, nên chúng ta ch
mới đặt một chân vào rìa của dòng chảy giáo dục đại học hiện đại. Vừa qua
BGD&ĐT đã cho phép các trường trọng điểm quốc gia được đề xuất một
số chương trình đào tạo hiện đại [không bị ràng buộc bởi chương trình khung
của bộ], dựa trên sở tham khảo các chương trình đào tạo của nước ngoài.
Đó thật sự là một tin vui, một chuyển biến rất đáng hoan nghênh.