3
MỤC LỤC
Phần mở đầu
5
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về người khuyết tật
8
I. Khái quát về người khuyết tật
8
II. Quan điểm, chính sách về chăm sóc, phục hồi chức năng đối với người
khuyết tật
14
III. Thực trạng công tác quản lý xã hội về chăm sóc, giáo dục, phục hồi
chức năng cho trẻ em khuyết tật việt nam hiện nay
23
Chương 2: Tổng quan về bại não
33
I. Khái niệm bại não
33
II. Nguyên nhân bại não
33
III. Phân loại - các thể lâm sàng
36
IV. Một số dấu hiệu phát hiện sớm trẻ bại não
41
V. Đặc điểm tâm - sinh lý
42
VI. Những vấn đề khó khăn thường gặp của trẻ bại não
52
VII. Các vấn đề xã hội nảy sinh trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho tr
bại não
54
VIII. Nguyên nhân và hậu quả của các vấn đề xã hội trong lĩnh vực phục
hồi chức năng
60
IX. Nhu cầu của trẻ bại não
61
Chương 3: Phục hồi chức năng cho trẻ bại não
68
I. Khái niệm phục hồi chức năng
68
II. Hình thức phục hồi chức năng
68
III. Mục đích của phục hồi chức năng
71
IV. Các phương pháp phục hồi chức năng cho trẻ bại não
72
4
V. c nguồn lực trợ giúp trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi chức năng
125
Chương 4: Công tác xã hội trợ giúp trẻ bại não phục hồi chức năng
134
I. Khái niệm công tác xã hội
134
II. Vị trí, vai trò và trách nhiệm
138
III. Nguyên tắc tác nghiệp, yấu cầu kiến thức của nhân viên CTXH trợ giúp
trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi chức năng
140
IV. thuyết hệ thống CTXH trợ giúp trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi
chức năng
146
V. Tham vấn trợ giúp trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi chức năng
157
VI. CTXH cá nhân trợ giúp trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi chức năng
165
VII. CTXH nhóm với việc trợ giúp trẻ bại não trong lĩnh vực phục hồi chức
năng
211
VIII. Công tác xã hội cộng đồng
230
Lời kết
235
Phụ lục 1: Một số văn bản pháp quy về chính sách đối với người khuyết tật
236
Phụ lục 2: Kết quả khảo sát, nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến trẻ bại
não
240
Tài liệu tham khảo
242
5
PHẦN MỞ ĐẦU
Con người tổng hòa của các mối quan hệ hội. Hoạt động của con
người đã hình thành phát triển hội. Nói cách khác con người sản phẩm
của bản thân trong quá trình hoạt động thực tiễn hội. chỉ trong hoạt
động ấy con người mới trở thành chính mình. Con người muốn trở thành con
người thực sthì phải gia nhập hội loài người, để được sức mạnh của loài
người, từ đó con người sống phát triển. Nvậy, sự hình thành phát triển
con người gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội trong mọi thời đại.
Người khuyết tật nói chung, trẻ em khuyết tật nói riêng cũng là con người.
Do vậy theo quy luật, họ không thể tách rời, cách ly hoặc từ bỏ mọi hoạt động
của con người. Do nhiều nguyên nhân họ đã mất đi quyền bình đẳng về thân
thể trí lực, nhưng đồng loại, những con người bình thường không thể lãng
quên hay bỏ rơi họ, bởi bản thân họ là người chịu nhiều thiệt thòi về cả thể chất
lẫn tinh thần. Xã hội cần phải trợ giúp, thương yêu, hỗ trợ để htrở thành con
người có ích trong xã hội và phục vụ cho xã hội.
hội càng phát triển, kinh tế càng tăng trưởng đời sống văn hóa tinh
thần ngày càng cao. Do đó, sự đòi hỏi về tự do, bình đẳng và giải phóng cho mỗi
con người ngày càng trở thành những giá trị hiện thực chân chính cao cả. Tại
Hội nghị Nhân quyền thế giới ngày 25/6/1993, quyền của người khuyết tật được
khẳng định: “Mọi người sinh ra đều quyền bình đẳng, đều quyền sống,
phúc lợi, giáo dục việc làm, sống một cách độc lập tham gia tích cực
vào mọi mặt của đời sống hội. Bất kỳ một sự phân biệt trực tiếp hoặc đối xử
phân biệt tiêu cực khác đối với người khuyết tật đều vi phạm quyền của người
đó”.
Người khuyết tật người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận của
thể, hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tật khác nhau, bị hạn chế
khả năng hoạt động, khiến cho việc sinh hoạt, học tập, lao động gặp nhiều
khó khăn. Nhưng người khuyết tật không phải là người tàn phế hoàn toàn mà tùy
vào các mức độ khác nhau của các dạng tật, người khuyết tật bị hạn chế một hay
nhiều hoạt động so với người bình thường.
6
Bên cạnh đó do thể có khả năng bù trừ các chức năng, nên rất nhiều
người khuyết tật có những khả năng, tố chất rất đặc biệt. Người khuyết tật có khả
năng tham gia mọi hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Đó chính
quyền của người khuyết tật phải được bảo vệ trợ giúp, đhọ hòa nhập với
cộng đồng. ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với bản thân người
khuyết tật mà còn đối với toàn xã hội.
Mọi hoạt động chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cho người khuyết
tật đều nhằm giúp họ khả năng phục hồi chức năng các bộ phận trong thể,
tăng cường về thể lực trí tuệ. Lịch sử hình thành và phát triển con người đã
chứng minh rằng chính nhờ hoạt động lao động, học tập con người đã dần
dần từng bước phát triển, hoàn thiện.
Người khuyết tật do chịu thiệt thòi về bệnh tật nên thường tâm
bị bỏ rơi, bị lãng quên, h rất khao khát được hoạt động, được làm việc, được
học tập tham gia các hoạt động khác như người bình thường. Bản thân họ rất
muốn được t lập, tự chủ về kinh tế và bình đẳng về mọi mặt. Do vậy, nếu chỉ
sống dựa vào sự trợ giúp của gia đình hội, không điều kiện học tập,
sáng tạo, thì quyền bình đẳng của họ khó có thể thực hiện.
Người khuyết tật luôn nhu cầu, khát khao được tham gia các hoạt động
văn hóa thể thao, vui chơi giả trí. Nếu hội định hướng hỗ trợ thì họ sẽ phát
huy được những khả năng, nhân tố đặc biệt của mình trong lĩnh vực này. Khi
hội, cộng đồng tạo điều kiện cho họ tham gia mọi hoạt động, chăm lo về vật chất
tinh thần, sẽ làm nhẹ đi nỗi đau cho các gia đình người khuyết tật, giải
phóng lực lượng lao động cho hội, giúp cho người khuyết tật cống hiến cho
xã hội. Điều đó thể hiển tính nhân đạo, nhân văn cao cả của xã hội.
Hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau, số lượng người khuyết
tật nước ta chiếm tỷ lệ cao. Đây vấn đề hội rất bức xúc cần phải giải
quyết. Chính vậy việc trợ giúp chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cho
người khuyết tật một tất yếu trong xã hội, là đạo lý, lương tâm, trách
nhiệm của hội, cộng đồng của mỗi người; đồng thời, cũng thể hiện bản
chất tốt đẹp của xã hội với mục tiêu vì hạnh phúc của con người. Đây nhu cầu
7
đòi hỏi của quyền bình đẳng, quyền tham gia vào mọi hoạt động, cộng đồng
hội của người khuyết tật.
Trên thực tế cho thấy phần lớn người khuyết tật thường tti mặc cảm,
không ít người khuyết tật tự đặt rào cản cho chính bản thân mình. Hầu hết người
khuyết tật thiếu những kỹ năng hội cần thiết. Họ không biết cách tiếp cận với
các chính sách hỗ trợ. Bên cạnh đó nhận thức của một bộ phận không nhỏ
nhân, tổ chức trong hội chưa đúng đắn về người khuyết tật, còn sự kỳ thị,
phân biệt.
Chúng ta thường đau đớn trở nên dtổn thương khi trải qua mất mát
hay tổn thất. Những người khuyết tật sống trong môi trường được đánh giá bằng
các tiêu chuẩn của những người không khuyết tật lại càng phải thường xuyên
chịu đựng những mất mát: Mất đi hình ảnh bản thân, mất đi những cơ hội, thế
mất cả hy vọng ước ... Do vậy người khuyết tật không ch cần
những tổ chức của mình mà còn cần nhân viên xã hội hỗ trợ họ và gia đình họ.
Qua kết quả khảo sát nghiên cứu thực tế về nhu cầu công tác hội
trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho trẻ bại não, cho thấy tỷ lệ nhu cầu cần
thiết về công tác xã hội trong lĩnh vực này như sau: Đối với trẻ bại não: 76,67%;
Đối với gia đình trẻ: 94,67%; Đối với nhân viên chăm sóc trẻ bại não tại sở:
98,89%; Đối với cán bộ quản lý tại các cơ sở: 96,67%... Như vậy chúng ta thấy
vai trò của công tác hội trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho trẻ bại não
rất quan trọng. Vì vậy cần đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ nhân viên công tác
xã hội chuyên sâu trong lĩnh vực này.
Tài liệu công tác xã hội trong lĩnh vực phục hồi chức năng cho trẻ bại não
chương trình đào tạo nhân viên hội mang tính chuyên sâu trợ giúp cho trẻ
khuyết tật nói chung, trẻ bại não nói riêng. Tài liệu giúp nhân viên hội hiểu
được tâm, sinh của trẻ bại não, nhu cầu thực tế của đối tượng này gia đình
họ, đồng thời cũng đưa ra các phương pháp, biện pháp tác động trợ giúp cho trẻ
bại não tiếp cận các dịch vụ xã hội, giúp các em xóa đi mặc cảm tự ti do bệnh tật,
phát huy khả năng vốn để hòa nhập cộng đồng, sống ích cho bản thân, gia
đình và xã hội.