
CỤC HÀNG HẢI VIỆT NAM
TRƯỜNG CAO ĐẲNG HÀNG HẢI II
GIÁO TRÌNH
MÔ ĐUN: CHUYÊN ĐỀ KHAI THÁC THƯƠNG VỤ
NGHỀ ĐIỀU KHIỂN TÀU BIỂN
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG
(Ban hành kèm theo quyết định số: 29/QĐ-CĐHH ngày 13 tháng 10 năm 2021
Của trường Cao Đẳng Hàng Hải II)
(Lưu Hành Nội Bộ)
TP. HCM , năm 2021

2
Chương 1. Khái niệm chung về vận tải
1.1. Định nghĩa, phân loại vận tải
1.1.1. Định nghĩa
Vận tải là sự di chuyển về không gian và thời gian của công cụ sản xuất, sản
phẩm lao động và con người.
Vận tải tạo ra khả năng sử dụng rộng rãi giá trị sử dụng của hàng hóa và thỏa
mãn nhu cầu đi lại của con người. Lịch sử phát triển của vận tải gắn liền với lịch sử
phát triển của xã hội loài người.
1.1.2. Phân loại
- Căn cứ vào phạm vi sử dụng vận tải: vận tải công cộng và vận tải nội bộ nhà
máy, Xí nghiệp.
- Theo môi trường và điều kiện sản xuất: vận tải đường bộ, đường sắt, đường
thủy và vận tải hàng không.
- Căn cứ vào đối tượng chuyên chở: vận tải hành khách, vận tải hàng hóa, vận tải
hành khách – hàng hóa.
- Căn cứ vào khoảng cách hoạt động: vận tải đường gần (trong thành phố, trong
vùng nhất định), vận tải đường xa (nội địa, quốc tế).
- Căn cứ vào qui trình kỹ thuật chuyên chở: vận tải nguyên chiếc (nguyên toa,
nguyên tàu, nguyên ôtô, một máy bay), vận tải hàng lẻ, vận tải hàng hỗn hợp.
- Căn cứ vào hành trình vận tải: vận tải trực tiếp, vận tải nhiều chặng, vận tải liên
hợp.
1.2. Đặc điểm của sản xuất vận tải
- Đặc điểm lớn nhất của hoạt động vận tải là mang tính phục vụ. Đặc điểm này
chỉ rõ vai trò của vận tải trong nền kinh tế quốc dân.
- Mang tính thông nhất giữa sản xuất và tiêu thụ. Tiêu thụ và sản xuất gắn chặt
với nhau một cách đồng thời. Tính thống nhất giữa sản xuất và tiêu thụ được
xét trên 3 mặt: thời gian, không gian và qui mô.
- Trong hoạt động vận tải không có sản xuất dự trữ. Đây là do tính thông nhất
giữa sản xuất và tiêu thụ. Do đó, trong sản xuất vận tải phải có dự trữ phương
tiện để đáp ứng nhu cầu của vận tải.
- Trong vận tải không có hoạt động trung gian giữa sản xuất và tiêu thụ.
- Là hoạt động sản xuất phức tạp bao gồm nhiều bộ phận hợp thành.
1.3. Vai trò của vận tải trong nền kinh tế quốc dân
Vận tải đóng vai trò rất quan trọng và có tác dụng to lớn đối với nền kinh tế quốc
dân.
Mối quan hệ giữa vận tải và các ngành kinh tế khác là rất sâu sắc và muôn hình
muôn vẻ, có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Vận tải là điều kiện cần thiết của tái sản xuất và các mặt hoạt động khác của xã

3
hội. Ngược lại kinh tế phát triển tạo ra những tiền đề và đòi hỏi phát triển nhanh chóng
ngành vận tải.
Vận tải hành khách phục vụ trực tiếp lĩnh vực tiêu dùng xã hội, tức là thỏa mãn
nhu cầu đi lại, bảo vệ sức khỏe, giáo dục, văn hóa của nhân dân.
Vận tải là yếu tố cần thiết đối với tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất. Vận
tải không tách rời khỏi quá trình sản xuất xã hội. Các nhà máy xí nghiệp là những bộ
phận thống nhất của hệ thống kinh tế quốc dân chỉ có thể tiến hành sản xuất kinh
doanh bình thường và thuận lợi trong điều kiện có sự liên hệ mật thiết với nhau trong
quá trình sản xuất của ngành vận tải. Hệ thống vận tải được ví như hệ thống tuần hoàn
trong cơ thể sống.

4
Chương 2. Các bên hữu quan trong ngành vận tải biển
2.1. Khái niệm chung về các bên hữu quan trong ngành vận tải biển
2.1.1. Các bên hữu quan chính
a. Người sở hữu tàu (shipowner)
Người sở hữu tàu là một người hoặc một pháp nhân có quyền làm chủ, sử dụng
và kinh doanh khai thác tàu một cách hợp pháp.
Người sở hữu tàu có thể khai thác tàu trực tiếp trên vận đơn của mình (khi đó họ
đồng thời là chủ tàu) hoặc trao quyền sử dụng tàu cho một người khác theo hợp đồng
thuê tàu (khi đó họ là người cho thuê tàu) hay đem bán, cầm cố, cho, tặng cho người
khác.
b. Chủ tàu (shipowner)
Chủ tàu là người đứng tên của mình thực hiện công tác vận chuyển đường biển
bằng tàu của chính mình hoặc bằng tàu của người khác mà mình đã thuê được hoặc
được ủy nhiệm đứng tên khai thác.
Chủ tàu đóng vai trò là một bên trong tất cả các hợp đồng liên quan đến việc khai
thác tàu.
c. Người vận chuyển (carrier)
Đây là một người thật hoặc một pháp nhân đảm nhiệm việc chuyên chở hàng hóa
hoặc hành khách bằng đường biển để nhận tiền cước vận chuyển trên cơ sở hợp đồng.
Phạm vi trách nhiệm của người vận chuyển được rút ra từ hợp đồng vận chuyển,
luật hàng hải và công ước quốc tế.
Trong tất cả các hợp đồng vận chuyển một trong hai bên sẽ là người vận chuyển
không cần phân biệt đó là chủ tàu, người sở hữu tàu hay người thuê tàu.
d. Chủ hàng (cargo owner)
Chủ hàng là một người thật hoặc một pháp nhân được hợp pháp hóa việc là chủ
đối với hàng hóa vận chuyển trên tàu.
Chủ hàng có thể là người gửi hàng hay người nhận hàng, song thường người
đứng ra trực tiếp gửi hàng hoặc nhận hàng là đại lý được ủy thác.
e. Người thuê tàu
Người thuê tàu là một người thật hoặc một pháp nhân ký kết với chủ tàu (người
vận chuyển) hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển dưới hình thức hợp đồng
thuê tàu chuyến hoặc định hạn.
Người thuê tàu có thể là chủ hàng, song thường là một người khác tiến hành theo
sự ủy thác của chủ hàng. Có hai loại người thuê tàu, đó là người thuê tàu theo hợp
đồng và người đăng ký lưu khoang.
2.1.2. Các bên hữu quan khác
a. Người môi giới hàng hải (shipbroker)
Người môi giới hàng hải là một người thật hoặc một pháp nhân. Trên cơ sở ủy

5
thác từng lần một, từng công việc cụ thể, người môi giới đứng ra làm trung gian trong
việc ký kết các hợp đồng – bán tàu, các hợp đồng vận chuyển, hợp đồng thuê tàu định
hạn, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng sửa chữa tàu và các hợp đồng khác trong lĩnh vực
hàng hải.
Người môi giới nhận được tiền công môi giới nếu việc môi giới có kết quả.
b. Đại lý tàu biển (ship’s agent)
Đại lý tàu biển là người được chủ tàu tin cậy, ủy thác làm một số công việc phục
vụ cho việc kinh doanh khai thác tàu.
Đại lý chỉ chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình trước chủ tàu. Trách
nhiệm của đại lý là quan tâm đến lợi ích của người vận chuyển (chủ tàu), làm những
công việc được ủy thác theo sự chỉ dẫn của chủ tàu. Đại lý phải định kỳ thanh toán với
hãng tàu, giữ liên lạc mật thiết với hãng tàu và thuyền trưởng.
Dựa theo hợp đồng đại lý được ký kết giữa đại lý và hãng tàu, đại lý nhận được
một khoản tiền theo công việc được ủy thác gọi là đại lý phí.
c. Người gửi hàng (shipper)
Người gửi hàng là một người thật hoặc là một pháp nhân tiến hành giao hàng cho
người vận chuyển, thực hiện trách nhiệm của người thuê tàu đã thỏa thuận trong hợp
đồng.
Người gửi hàng là người đại diện cho các quyền lợi của người thuê tàu trong
phạm vi đưa hàng để vận chuyển. Họ phải được nói đến trong hợp đồng vận chuyển
cũng như trong vận đơn đường biển.
Người gửi hàng có những quyền hạn sau:
- yêu cầu tàu cấp cho họ biên lai thuyền phó xác nhận số hàng đã xếp lên tàu;
- yêu cầu người vận chuyển cấp cho họ vận đơn sau khi thu lại biên lai thuyền
phó;
- qui định số bản chính vận đơn;
- chỉ rõ cá nhân mà người vận chuyển sẽ cấp vận đơn cho họ;
- yêu cầu đề rõ trong vận đơn người thuê tàu đóng vai trò như người gửi hàng;
- yêu cầu cấp cho mình loại vận đơn mà họ cần;
- quyết định về việc cho xếp hàng trên boong;
d. Người nhận hàng (receiver or consignee)
Người nhận hàng là người có quyền trực tiếp nhận hàng hóa được tàu vận chuyển
đến tại cảng đích. Người nhận hàng hợp pháp có thể được ghi rõ trong vận đơn. Họ có
quyền ủy thác công việc nhận hàng cho một người nào đó nên thông thường hàng
được nhận dưới danh nghĩa của người được ủy thác làm công việc này.
Trách nhiệm của người nhận hàng là tiếp nhận hàng hóa từ tàu đúng thời gian qui
định và thanh toán cho người vận chuyển mọi khoản nợ phát sinh trong việc vận
chuyển hàng hóa.
Người nhận hàng có quyền yêu cầu tàu lập biên bản về hàng hóa hư hỏng, thiếu