Và cũng trong sách đã dẫn Henry Wallich đã chỉ rõ: Tiền đề và điều kiện

thành công trong đầu tư chứng khoán là "nhà đầu tư phải có tầm bao quát

rộng diễn biến kinh tế, có khả năng phán đoán trường hạn, am hiểu tường

tận các quan hệ chính sách và chí ít ra phải có bản năng giao dịch CK"

Đó là một số trong những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô, những yếu tố này

có ảnh hưởng mạnh mẽ đến TTCK, đến giá cả chứng khoán một cách trực

hoặc gián tiếp mà mỗi người tham gia vào thị trường nên hiểu, nên phân tích

trước và trong cả quá trình thực hiện quản lý đầu tư, hoặc kinh doanh của

mình và nó là tiền đề quan trọng để tạo điều kiện cho quyết định đầu tư, kinh

doanh, quản lý của bạn mang lại hiệu quả cao.

Đối với người đầu tư: Qua các xem xét các yếu tố của môi trường đầu tư

người đầu tư có thể dự báo được khả năng hình thành của giá cả, mức sinh

lời dự kiến, khả năng bảo toàn vốn và khả năng sản sinh rủi ro. Đây là những

yếu tố mà tất cả mọi người đầu tư đều rất quan tâm.

Đối với người kinh doanh: Xem xét tổng quan các nhân tố của môi trường

đầu tư các nhà kinh doanh chứng khoán có thể đánh giá thị trường, dự báo

sự phát triển của thị trường, dự báo các đối thủ cạnh tranh, những thuận lợi,

khó khăn trong quá trình kinh doanh và từ đó có quyết sách thích hợp.

Đối với người quản lý: Người quản lý có nghĩa vụ vừa quản lý vừa xây

dựng, cụ thể là:

- Giữ vững kỷ luật, kỷ cương của thị trường, đảm bảo cho thị trường hoạt

động theo quy chế và pháp luật.

- Tạo điều kiện để phát triển thị trường.

- Tạo động lực để các thành viên tham gia thị trường với thái độ xây dựng.

- Ngăn ngừa những hành vi phá hoại, thao túng thị trường.

- Đạt mục tiêu cuối cùng là làm cho thị trường hoạt động trung thực, công

bằng và hiệu quả.

Để đạt được các mục tiêu đó, một trong những lĩnh vực mà người quản lý

cần quan tâm là môi trường vĩ mô của thị trường. Hiểu rõ môi trường này

người quản lý có thể:

+ Có biện pháp quản lý thích hợp hơn

+ Có các chính sách khuyến khích phát triển thích hợp hơn

+ Điều chỉnh kịp thời các quy chế, biện pháp phù hợp với môi trường

và sự biến đổi của môi trường.

Đối với nhà phân tích, bình luận:

Nếu hiểu rõ môi trường vĩ mô của thị trường thì nhà phân tích, bình luận sẽ

có căn cứ để đánh giá, phân tích thị trường chính xác, sâu sắc hơn.

Chúng ta có thể phân tổ môi trường đầu tư theo các nhóm như sau: Môi

trường kinh tế, môi trường xã hội, môi trường pháp lý, môi trường tài chính,

môi trường quốc tế và hạ tầng cơ sở của thị trường chứng khoán. Sau đây

chúng ta sẽ lần lượt xem xét chúng.

MÔI TRƯỜNG KINH TẾ

Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường đầu tư liên

quan đến thị trường chứng khoán là môi trường kinh tế. Chúng ta xem xét

môi trường kinh tế qua các mặt: Các chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế quốc

dân GDP, GNP,. ., lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc

tế, dự trữ ngoại tệ, cân đối ngân sách nhà nước, nợ nước ngoài, tỷ giá hối

đoái và một số phân tích kinh tế vĩ mô khác.

MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI.

Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng rất sâu rộng đến hiệu quả hoạt động của

TTCK. Ngày 5/3/1953 chỉ số TOPIX của Nhật bản giảm đến 8.75% và

nguyên nhân là do Stalin ốm nặng. Khi Bill Clinton thú nhận trong việc bê

bối với người tình Lewisky, thì chỉ số Dow Jones đã giảm 200 điểm. Điều

đó có nghĩa là TTCK rất nhạy cảm đối với các sự kiện chính trị. Để xem xét

môi trường xã hội ta nên xem xét ở các mặt sau:

o Chế độ chính trị thế nào? có ổn định hay không? khả năng diễn biến

của nó.

o Năng lực quản lý của đội ngũ lãnh đạo ra sao? Phẩm chất của đội ngũ

này thế nào? tình trạng tham ô, hối lộ ra sao? Và hiệu quả của các

biện pháp khắc phục.

o Khả năng thích nghi của hệ thống điều hành chính sách đối với sự

biến đổi của thời cuộc & các cam kết của chính phủ đối với các chính

sách kinh tế ra sao?

o Sự ủng hộ của nhân dân vào chế độ như thế nào? vào Đảng lãnh đạo

ra sao?

o Sự ủng hộ quốc tế đối với đảng, với chính phủ cầm quyền ra sao?

o Tâm lý dân tộc, ý thức của nhân dân trong tiết kiệm và đầu tư thế nào?

o Các "đối thủ" tham gia thị trường là ai? thủ đoạn, tâm lý của họ ra

sao?

o ….vv.

MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ

Môi trường pháp lý cũng là điều kiện rất cơ bản để TTCK hoạt động an toàn,

hiệu quả. Xu hướng phát triển chung, truyền thống từ trước đến nay là cứ

cho thị trường hoạt động và phát triển trước và từ đó đúc rút ra kinh nghiệm

và xây dựng hệ thống pháp lý phù hợp sau ở các nước có thị trường chứng

khoán truyền thống. Xu hướng thứ hai là thiết lập khung pháp lý cho thị

trường chứng khoán trước. Việt nam ta đang theo xu thế sau, vì chúng ta đi

sau nên có thể tận hưởng được kinh nghiệm của các nước đi trước và rút

ngắn được bước đi. Môi trường pháp lý cũng là yếu tố rất quan trọng để thu

hút vốn đầu tư nước ngoài.

Chúng ta nên xem xét môi trường pháp lý theo các góc độ như sau:

- Hệ thống hành lang pháp lý của thị trường chứng khoán được xây dựng

như thế nào? có đủ để bảo vệ quyền lợi chính đáng của người đầu tư không?

- Các luật pháp khác liên quan có trùng chéo, mâu thuẫn không?

- Khả năng thực thi luật pháp thế nào?

- Những mặt khuyến khích, ưu đãi và hạn chế được quy định trong hệ thống

pháp luật

- Sự ổn định của hệ thống luật pháp, khả năng sửa đổi và ảnh hưởng của

chúng đến TTCK.

MÔI TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Thực ra chúng ta có thể phân tổ môi trưởng tài chính là một bộ phận của môi

trường kinh tế nhưng do tầm quan trọng của nó đối với TTCK nên để nó

thành một mục riêng. Hệ thống tài chính được coi là cơ sở hạ tầng, hệ thống

huyết mạch của nền kinh tế. Nếu hệ thống này trục trặc sẽ ảnh hưởng đến

khả năng cung cấp các nguồn năng lượng cho toàn bộ cơ thể kinh tế. Xem

xét môi trường tài chính chúng ta nên chú trọng đến các mặt sau:

- Nền tài chính quốc gia ra sao? Qua các chỉ tiêu đánh giá đã phân tích ở

phần môi trường kinh tế như bội chi ngân sách, dự trữ ngoại tệ, xuất - nhập

khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, nợ quốc gia, nợ tư nhân và doanh nghiệp.

- Hoạt động của hệ thống ngân hàng ra sao? có hiệu quả không? Tình hình

nợ khó đòi thế nào?

- Chính sách về thuế, phí đối với giao dịch, kinh doanh CK thế nào có

khuyến khích đầu tư không? hoặc khuyến khích ở lĩnh vực nào, hạn chế ở

lĩnh vực nào. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành

giao dịch.

- Các thị trường vốn khác, như thị trường Leasing, Morgage, bất động sản

hoạt động ra sao. Kinh nghiệm Thái Lan cho thấy, do sự phát triển quá mức

thành bong bóng của thị trường bất động sản nên đã gây đổ vớ cho nhiều

ngân hàng và công ty tài chính và dẫn đến sự suy sụp của TTCK.

- Giá trị đồng nội tệ thế nào? chính sách đối với thị trường hối đoái ra sao?

- Các quỹ: Bảo hiểm, đầu tư, hưu trí hoạt động thế nào? đây là các nhà đầu

tư tiềm năng mà mọi đối tượng đầu tư cần chú ý đến họ.

- Lãi suất ngân hàng, lãi suất trái phiếu chính phủ quy định như thế nào

- Cân đối tài chính chính phủ, ngân sách..

- Các chính sách tài chính quốc gia khác.

- Một số phân tích tình hình tài chính quốc gia khác mà nhà đầu tư có thêm

thông tin.

MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ

Hiện nay, kinh tế của bất cứ nước nào cũng không thể tách rời nền kinh tế

thế giới. Xu hướng phân công lao động quốc tế, hợp tác quốc tế ngày càng

phát triển. Bởi vậy, điều kiện phát triển nói chung của một quốc gia không

thể thoát hẳn môi trường quốc tế. Chúng ta nên xem xét môi trường quốc tế

trên các mặt sau:

- Tình hình tài chính quốc tế, khu vực ra sao? Đang khủng hoảng? và khả

năng ảnh hưởng đến quốc gia mình đang quan tâm.

- Quan hệ ngoại giao của chính phủ như thế nào? có được cộng đồng quốc tế

ủng hộ không?

- Sự ủng hộ của các tổ chức tài chính lớn như IMF, WB, ADB… đối với

chính phủ ra sao?

- Hợp tác kinh tế quốc tế thế nào? Quan hệ bạn hàng quốc tế trong xuất,

nhập khẩu ra sao? có biến đổi gì lớn không?

- Những đối thủ cạnh tranh trên thương trường quốc tế và khả năng cạnh

tranh của các doanh nghiệp, quốc gia mình quan tâm.

- Quan hệ nợ nần, giải quyết nợ, khả năng trả nợ của quốc gia, doanh nghiệp.

Khả năng quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ ra sao?

- Cán cân BoP, cán cân thương mại

- Tình hình tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán nội địa

và ngược lại.

- Định mức tín nhiệm của quốc gia trên thị trường quốc tế.

- Diễn biến của các thị trường chứng khoán trên thế giới, nhất là các thị

trường lớn như New York, Tokyo, London, Hồng Kông, …

CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA TTCK

Chúng ta xem xét cơ sở hạ tầng của TTCK trong quá trình đầu tư theo các

góc độ sau:

- Khối lượng hàng hoá của thị trường. Các chính sách phát triển và khả năng

phát triển của nó.

- Cơ sở vật chất của thị trường: Địa điểm, mức độ cơ giới hoá, cơ sở thông

tin, phương pháp, quy trình giao dịch.

- Cơ sở nguồn nhân lực của TTCK: Nhân lực quản lý, nhân lực tư vấn, nhân

lực môi giới các công ty chứng khoán.

- Hiểu biết và điều hành hệ thống tài chính, khả năng quản lý của chính phủ

- Các chi phí trong quá trình giao dịch.

- Khả năng thanh toán, thời gian thanh toán.

- Hệ thống kiểm toán.

- Đánh giá, định mức tín nhiệm.

Rủi ro trong đầu tư chứng khoán

Rủi ro là gì? Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được định nghĩa là sự dao

động của lợi nhuận. Dao động càng cao thì rủi ro càng cao và ngược lại.

Nguyên nhân của rủi ro:

Chúng ta biết rằng sự dao động của thu nhập, dao động của giá chứng khoán

hay cổ tức lãi suất là những yếu tố gây ra rủi ro. Một số rủi ro nằm ngoài sự

kiểm soát của công ty phát hành và ảnh hưởng đến một số lượng lớn chứng

khoán. Một số rủi ro phát sinh từ nội tại của công ty và công ty có thế kiểm

soát ở mức tương đối. Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài

công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường

và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống. Ngược lại, những

rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động

đến một ngành hay tới một công ty, một hoặc một số chứng khoán, gọi là rủi

ro không hệ thống.

Rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến giá của tất cả các loại chứng khoán. Những

thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội và những yếu tố tạo ra rủi ro hệ thống.

Rủi ro không hệ thống do các yếu tố như khả năng quản lý, thị hiếu tiêu

dùng, đình công hay những yếu tố khác gắn với những thay đổi trong thu

nhập của một công ty gây ra. Các yếu tố rủi ro không hệ thống thường độc

lập với các yếu tố rủi ro liên quan đến toàn bộ thị trường nói chung. Do

những rủi ro này thường ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải

được xem xét cho từng công ty một cách riêng biệt.

Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống là những công ty mà

doanh số, lợi nhuận và giá chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh

tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty

trong những ngành công nghiệp cơ bản và khai khoáng, những ngành có

định phí lớn thì chịu ảnh hưởng nhiều của các loại rủi ro này. Trong các

ngành công nghiệp, người ta thấy những ngành liên quan đến sản xuất ô tô

chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, đó là những ngành: thép, cao su,

kính,. ..

Các công ty trong lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, định phí bé thường có

rủi ro không hệ thống cao hơn. Ví dụ như những công ty cung cấp nhu yếu

phẩm như điện thoại, năng lượng, dệt, thực phẩm. Doanh số, lợi nhuận và

giá cả cổ phiếu của những công ty này không phụ thuộc nhiều vào các diễn

biến kinh tế hay tình hình chung của thị trường chứng khoán.

Rủi ro hệ thống và rủi ro không hệ thống lại có thể chia nhỏ thành các rủi ro

khác nhau. Rủi ro hệ thống đổi với trái phiếu nói chung thường được xác

định là rủi ro về lãi suất; đối với cổ phiếu gọi là rủi ro thị trường. Đối với

chứng khoán nói chung, có thể có thêm rủi ro về sức mua. Có thể chia rủi ro

không hệ thống thành rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.

Rủi ro hệ thống

Rủi ro thị trường

Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc

dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thế rất

khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư

về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng.

Những thay đổi trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường

chủ yếu là do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro

thị trường.

Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với

những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt

giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho

phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản

ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính

trị, xã hội.

Các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường.

Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm

lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá

các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân

gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn. Những phản ứng

dây chuyền làm tăng vượt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống

thấp so với giá trị cơ sở.

Chúng ta đã nói nhiều về tác động tiêu cực, tuy nhiên vẫn có thể có hiệu

tượng mua vào rất nhiều khi có những sự kiện bất thường xẩy ra, lúc đó giá

cả chứng khoán sẽ tăng lên.

Rủi ro lãi suất

Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền

thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất

chung.

Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu

Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại

chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách

khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro chứng