NGUYÊN THỊ HUẾ


®Ð ii
TƯ LIỆU
1iăn hoá ân gian

$9: một thế kỷ trước đây, cùng với sự xâm nhập của chủ nghĩa thực Pháp vào Đông Dương và Việt Nam, thì một đội ngũ những trí thức người Pháp cũng đã tới vùng đất này để thám hiểm, điều tra, nghiên cứu về các mặt lịch sử. dân tộc, địa lý, xã hội và văn học nghệ thuật... với nhiều mục đích khác nhau. Trong số họ, một bộ phận là những nhân viên của Nhà nước
đân
thuộc địa hoạt động cho công cuộc khai thác, ví như những giáo sĩ, những nhà điều tra, những viên công sứ ở các vùng dân tộc thiểu số của Tây Nguyên, Hoà Bình, Tây Bắc v.v... Đồng thời cũng có một bộ phận những trí thức Pháp - đặc biệt là những nhà hoạt động trong lĩnh vực khoa học xã hội - họ đã dành tâm huyết cho việc nghiên cứu khoa học và đã để lại dấu ấn, thành quả lao động của mình mà đến nay đối với chúng ta vân rất có giá trị. Đó là việc nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu Sử thi Đam San của Leopold Sabatler, là các tác phẩm nghiên cứu về dân tộc học của (:.Condominas và việc phát hiện ra bộ đàn đá nổi tiếng ở người Moø-nông của ông, là công trình nghiên cứu Mgười Mường - địa lý nhân uăn 0à xã hột học của jJeanne Culsinler v.v...
GIỚI THIỆU BỘ SƯU TẬP "TRUYỂN THUYẾT VÀ CỔ TÍCH
AN NAM" CỦA A.LANDES (CONTES ET LÉGENDES ANNAMITES - 1886)
NGUYÊN THỊ HUẾP)
Trong thời kỳ này, riêng ở lĩnh vực sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu vốn folklore Việt Nam, A.Landes thực sự đã là người có khá nhiều đóng góp Ông là tác giả của hai bộ sưu tập có giá trị, đó là bộ Confes ef légendes qnnamites (Truyền thuyết và cổ tích Annam) xuất bản năm 1886, giới thiệu 127 truyền thuyết và cổ tích của người Việt và 23 truyện cười được ông sưu tầm ở vùng Bắc Kỳ và Nghệ An. Và bộ Confes tjames (Truyện cổ Chàm) xuất bản năm 1887, giới thiệu 16 truyện và một số bài đồng đao được sưu tầm ở vùng đồng bào dân tộc Chàm. Trong bài viết này chúng tôi muốn tập trung giới thiệu bộ sưu tập Contes et légendes qnnamites (Truyền thuyết và cổ tích Annam) của ông.
A.Landes là nhân viên hành chính của bộ phận Bản xứ của Nhà nước bảo hộ Pháp. Nhưng ngoài phận sự của người làm công việc trên, ông còn có công lao sưu tầm và tập hợp được một số lượng lớn những truyện dân gian lưu truyền ở vùng Bắc Kỳ mà cụ thể là ở vùng Nghệ An. Từ năm 188§ã đến năm 1886, lần lượt trên tập san xcurslons eo ` reCONNdissances (Du lịch và quan sát) từ số VIIT đến số XI,

(*) TS, Viện Văn học. TƯ LIỆU FOLKLORE
69


A.Lbandes đã cho công bố những truyện kể trên bằng tiếng Pháp. Sau đó, năm 1886 bộ sưu tập Confes et lógendes annamites được xuất bản tại Sài Gòn (Nhà xuất bản Imprimerie Colonlale). Bộ sưu tập dày 398 trang, ¡in lại hầu như toàn bộ những truyện kể đã được công bố trên tập san xcursions ef reconnaissances, tác giả chỉ thay đổi chút ít thứ tự sắp xếp trước sau của một vài truyện và bớt đi ba truyện vì nhận thấy có sự trùng lặp về nội dung.
Trong bộ sưu tập, ta thấy hầu hết những truyền thuyết mà cho đến nay đã trở nên quen thuộc: Truyền thuyết uề lão Bợ, Truyện Cao Biền, Truyện thần nút Tún Viên, Truyện bà hoàng hậu triêu Tổng, Truyện Lý Khắc Cần, Truyện Ngô Bát Ngạo, Truyện uua Đỉnh Tiên Hoàng, Truyện hoàng tử nhà Mạc, Truyện công chúa triều Lê, Truyện đội Tạo, Truyện đội Mậu 0à con vòi, Truyện Cố Bu, Truyện Nguyên Đăng Giai, Truyện Nguyễn Trãi, Truyện đền Lý Quang, Truyện Nguyễn Công Trú, Truyện cô Điểm, Truyện Hồ Xuân Hương, Truyện công chúa Liễu Hạnh uà hai ông Trạng Quỳnh uà Trạng Trình l0:
Những cốt truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam cũng đã sớm được tập hợp trong bộ sưu tập này như Truyện con Tấm uà con Cám, Truyện Thủ Huồn, Thần Nước, Truyện Thằng Cuội, Con chó, Con 0ịt uà đàn chim (Nguyễn Đổng Chỉ trong Lược bkhdo uề thần thoại Việt Nam đã đặt lại tên truyện là Cuộc fu bổ lại các giống uật), Truyện sao Hôm sao Mai, Truyện con cá sấu uà con khỉ, Sự tích con trâu, Sự tích con bọ hung, Sự tích
cái chân sau của chó, Qua 0à công, Con thỏ thông mình, Sự tích Thạch Sùng, Sự tích con bhỉ, Sự tích chim đa đa, Sự tích cá heo, Truyện ông sư hoá thành bình uôi, Truyện uề cái chết của năm ông sư, Cô gái lấy chồng hoàng tử, Người thợ săn uà mụ chằng, Con mụ lường, Ngọc hoàng uà anh chàng nghèo khổ, Truyện con ma báo thù, Truyện nàng Út, Thùy cứu Trò, Bán cha hay sự tích cái khăn tang, Phép màu nhiệm của con chim bhúách, Con 0uợ bhhôn lấy thằng chồng dại, Lấy chồng dê, Vua Heo, 0.0...
Phần Truyện cười cũng gồm những truyện như: Kế hà tiện, Lũ tham ăn, Những thằng ngốc, Kẻ nói dối, Thằng lười, Kẻ nói khoác, Gã thầy bói, Làm rể, Lý trưởng hay Những kẻ chức sắc, Thày thuốc, Thày pháp hay Thùy phù thuy, Mèo lại hoàn mèo, U.U...
Trong số những truyện trên, A.Landes cho biết có tham khảo và sử dụng một đôi truyện của Trương Vĩnh Ký ở tập Chuyện đời xưa được sưu tầm và công bố trước đó (Sài Gòn xuất bản lần đầu vào năm 1866, tái bản lần 9 năm 1873, lần 3 năm 1883). Còn lại phần lớn các truyện đều do A.Landes trực tiếp sưu tầm trong dân gian.
Các cốt truyện do A.Landes kể lại đều ngắn gọn song khá đây đủ về chỉ tiết, bảo đảm diễn tiến của cốt truyện, các tình tiết được kể đều mang tính hợp lý và lôgíc. Trong quá trình kể chuyện, ông còn sử dụng những câu văn vần, những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ xen kẽ trong nội dung truyện. Những truyện có nhiều cách kể khác nhau, ông cũng đưa ra những varian của nó và đặt ở phần chú thích dưới mỗi truyện. 70
NGUYÊN THỊ HUẾ


Trong Lời mở đầu, A. Landes đã cho biết vùng sưu tầm của ông chủ yếu diễn ra ở Nghệ An. Ông viết: "Cần lưu ý răng nhiều truyền thuyết được sưu tập ỏ đây liên quan đến những vùng Bắc Kỳ và Trung Kỳ theo đúng nghĩa của nó và đặc biệt là ở Nghệ An. Bởi nguyên do là những người cung cấp chủ yếu cho tôi là một nhà Nho và một thầy bói, cả hai đều gốc dân tỉnh này".
A.Lbandes khẳng định rằng: "Ở Bắc kỳ. mỗi hòn đá mỗi ngôi chùa đều có một truyền thuyết và không thể không kể ra. Nơi đây còn có những truyền thuyết có không ít đị bản nên dù cho có sặp nhiều khó khăn khi kể, sưu tập này chắc chắn sẽ tập hợp được một số lượng rất lón".
Và ông nói: "Tôi không còn phải làm gì ngoài việc nói ra cái cách thức thu thập những câu chuyện này và dịch chúng ra".
Sự thật, A.Landes đã
công việc sưu tầm của gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại mà nếu như không có một sự kiên nhẫn, bền bỉ thì chắc chắn ông ta sẽ không đạt được mục đích của mình.
Cũng trong Lời mở đầu, A.Landes đã nói rõ quan điểm của một nhà sưu tầm đích thực đối với những truyện kể dân gian Việt Nam - một kho tàng phong phú và quý báu của nền văn hoá Việt Nam. Ông viết: "Mục tiêu trước hết của tôi là nhằm thu thập những truyện dân gian đã được lưu truyền ở người Ân Nam và qua những truyện đó sẽ giúp cho ta hiểu biết được tư tưởng, phong hoá và tín ngưỡng của họ. Chắc chắn là tôi không bỏ sót hoặc không cẩu
thả khi kể lại những truyện mang dấu ấn chung nhất của truyện thần kỳ, đặc biệt là ở những truyện thường được lượm lặt ngoài lề và chúng giống như những tiểu thuyết ngây ngô của thời kỳ sơ khai". Và ông khẳng định rằng: "Tôi thiết nghĩ rằng trong tập sách này bất cứ một truyện kể nào, ngay cả những truyện cảm thấy như vô nghĩa nhất, không hề lôi cuốn hay ít tình tiết nhất cũng mang một lời khuyên răn hữu ích nào đấy".
Ông bộc bạch: "Thật tiếc, ở người châu Âu không thể nghĩ tới việc thu nhận trực tiếp với những người biết những câu chuyện đó. Để làm việc này phải đi khắp đất nước, sống lâu dài với người dân địa phương mà kết quả vẫn chưa lấy gì làm chắc".
A.Landes cho chúng ta thấy ông đã gặp phải những vất và, khó khăn như thế nào trong công việc thu thập những chuyện kể này: "Đã hơn một lần, từ sau bức tường vì sốt ruột muốn nghe thấy được một câu chuyện mà tôi chỉ nhớ bập bõm, tôi vội đi đến trước mặt đám cử toạ, lập tức người kể im bặt. Nếu ta hỏi người kể chuyện rằng ông ta có biết kể chuyện cổ tích không, thì ông ta sẽ chối ngay là không biết. Chỉ sau khi nghe những lời hứa hẹn và khẩn khoản van nài thì ông ta mới lại tiếp tục..."
Trong điều kiện vật chất, điều kiện trang bị lúc đó, cộng với bức rào ngăn cách về ngôn ngữ, A.Landes đã phải cố gắng hết sức. "Ngoài việc nắm vững tuyệt đối ngôn ngữ, có lẽ cần phải có một trí nhớ tuyệt vời hoặc phải cần đến một cái máy ghi âm thì mới giải quyết được vấn để. Thực chất, nếu trong khi TƯ LIỆU FOLKLORE
======ễEễEEEEEEE —— ễỶễỶễỀẼỄỀỀẺỄỄễễễ
nghe kể chuyện mà anh ngắt lời người kể để đòi giải thích về những gì còn chưa rõ thì anh ta sẽ ngừng luôn và không nói gì nữa. Hoặc trong trường hợp ưu ái hơn thì anh ta sẽ kể lại từ đầu mà không giải thích gì hết. Còn ghi chép lúc ấy thì đừng có nghĩ tới". Ông còn cho biết thêm: "Những khó khăn đó ở đâu cũng sẽ gặp phải, nhưng ở đây những khó khăn thực sự lớn hơn rất nhiều, nếu như tôi cố nài nỉ giải thích văng tôi cần thu thập và cần công bố. Tôi đã tìm được vài người trung gian có thiện chí, lúc đầu họ đã viết ra những gì họ biết, nhưng chẳng được là bao nhiêu".
Gạt ra ngoài những mục đích khác có thể có, ví như A.Landes đã nói: “Bộ sưu tập này không là gì khác hơn ngoài một bộ sưu tập những truyền thống địa phương và những câu chuyện thần kỳ. Nhưng nó cũng không kém phần quý giá đối với người châu Âu vốn muốn thâm nhập một cách sâu sắc hết mức về người bản xứ”. Song ở đây ta không thể phủ nhận công lao của A.Lạndes trong việc đã đem lại cho chúng ta ngày nay một tập hợp tư liệu có giá trị. Những truyện kể dân gian do A.Landes sưu tầm đóng một vai trò mở đầu trên con đường vẽ nên diện mạo của nền văn học dân gian Việt Nam. Trong đó A.Lbandes nhìn nhận nó trong sự giao lưu, so sánh văn hoá Đông- Tây. Khi nói về kết quả công việc của mình, ông đã cho biết: "Có thể nói rằng những truyện mà tôi đã dịch ra đây thể hiện đúng điện mạo chung của việc kể chuyện ở một vùng Trung Kỳ thực sự. Trong truyện thường có nhiều chỗ lặp lại, vì người kể chuyện đã luôn luôn sợ người
ÿ
nghe không hiểu được, không theo dõi được nên thính thoảng lại đưa ra những lời giải thích nhìn chung là vô ích, trong khi không eó cách gì để bắt anh ta giải thích ở những chỗ cần thiết. Ở đây diện mạo của truyện AnNMam không làm cho tôi cảm thấy khác nhiều so với những truyện tương đồng ở châu Ẩu”...
A.Landes đã chỉ ra những gì mà ông cảm thấy có xuất xứ từ Trung Quốc, Phật giáo và Chàm và ông cũng chỉ ra một số truyện mà ông cho là có xuất xứ và tương đồng ở châu Âu, nhưng cũng chỉ trong một chừng mực nhất định, vì ông cho rằng "... những ý kiến của tôi chưa chắc đã hoàn toàn đúng".
Thực vậy, có những chỗ A.Landes đã so sánh khá là khập khiếng, thí dụ như khi nhận định về truyện Cow dơi ông nói "Câu chuyện này là sự nhạo báng bọn con lai (Trung Quốc), vốn là những tay đại bịp". Hoặc khi ông cho rằng câu chuyện này là một dạng khác của truyện số ð ở quyển II trong tuyển tập truyện của La Fontaine, mặc dù ông khẳng định là nó mang đậm màu sắc địa phương, màu sắc dân bản xứ. Rải rác trong bộ sưu tập của mình, A*sLandes còn tiếp tục đưa ra những nhận định tương tự như vậy: "Người An Nam thật không may lại có ít những truyện này (những truyện được lượm lặt ngoài lề mang yếu tố thần kỳ, chúng giống như những tiểu thuyết thời kỳ sơ khai); khi mà toàn bộ nền văn học dân gian của Đông Dương được biết đến nhiều hơn thì chắc chắn là sẽ không khó chứng minh rằng chúng được đưa Tổ
NGUYỄN THỊ HUẾ


từ bên ngoài vào. Đa phần trong số những truyện mà tôi kể lại đây giống với việc phân tích đơn giản một truyện của nước ngoài được thu thập một cách ngẫu nhiên hơn là sự sáng tác của dân tộc. Nó đã được biết đến và được kể lại là do người ta thích nó"...
Những điều nhận định còn lệch lạc, khiếm khuyết của A.Landes đưa ra ở cuối thế kỷ XIX thì đến nay các nhà khoa học Việt Nam đã bổ sung. đính chính lại cho chính xác và ngày càng hoàn chỉnh hơn. Song điều đáng khẳng định ở đây là bộ sưu tập Confes et légendes annamites của A.Landes thực sự là một công trình sưu tập đồ sộ và công phu, nhất là trong điều kiện của thế kỷ XIX trước đây. Chí ít, ông cũng đã là một trong những người mở đường cùng với các trí thức bản địa thời bấy giờ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của và một số trí thức Pháp khác vạch ra một con đường đi tìm kiếm những câu chuyện còn ẩn sâu, dấu kín trong dân gian và còn được rất ít người quan tâm và biết đến. Chính A.Landes cũng đã nói tới điều này: "Trong tình hình đó, khi anh hồi một người An Nam rằng anh ta có biết nhiều truyện cổ xưa không, thì chẳng ngần ngại có đến ba phần tư trong số họ trả lời là không biết và đó là sự thật, ngay cả khi anh tiếp xức với nhà Nho hoặc nửa nhà Nho. Nếu như thân mật với anh thì người nói chuyện sẽ không quên hỏi "Anh định với những truyện đó?". Và người ấy sẽ tỏ ra hoàn toàn không hiểu được những lời giải thích của anh và đi đến kết luận rằng, thật không thể hiểu nổi khi một người
anh: làm gì
hiểu biết như thế (một con người trí thức) lại đi quan tâm đến những truyện nôm na nhằm nhí, trong khi còn biết bao điều hay ho tốt đẹp đáng nói trong bốn, năm nghìn trang luận ngữ ở các pho sách cổ".
Cũng cần phải nói đôi lời về phương pháp dịch thuật, chuyển ngữ của A.Landes trong bộ sưu tập Confes ef légendes annamites này. Ông đã nói: "Còn về vấn đề dịch thuật thì tôi đã dịch trung thành với hết khả năng của mình. Tôi đã bổ chỗ này, chỗ kia một vài tiểu tiết, nhưng tôi tin rằng tôi đã không để mất phần cốt lõi và tôi không hề thêm thắt trong bất kỳ trường hợp nào...". Ông khẳng định mục đích công việc của mình: "Đối với tôi, tôi chỉ muốn là mình đã góp một tài liệu trung thực cho những người làm công việc nghiên cứu văn học dân gian và đặc biệt hơn là cho những ai muốn quan tâm tìm hiểu tư tưởng, phong hoá của người An Nam” _
Hơn một thế kỷ qua, những cốt truyện được tập hợp trong bộ sưu tập Contes c( lóégendes của A.Landes đã tồn tại và chứng tỏ sức sống của nó. Điều này cũng khẳng định công lao và sự đóng góp của A.Landos trong việc phát hiện và bảo lưu những truyện kể dân gian truyền thống của Việt Nam. Dấu ấn của những câu chuyện được A.Landes sưu tầm và công bố đã xuất hiện trong nhiều bộ sưu tập của các nhà sưu tầm, biên soạn truyện kể dân gian nước nhà có tên tuổi như Nguyễn Đồng Chi, Nguyễn Văn Ngọc, Sơn Nam, Tô Nguyệt Đình, Nguyễn Duy.v.v... ở những thời kỳ sau này.
qnngamites TƯ LIỆU FOLKLORE
73


Khi xây dựng bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nguyễn Đồng Chi đã sử dụng khá nhiều những cốt truyện của A.Lbandes. Trước đó, trong cuốn Lược bhdo uề thần thoại Việt Nam, ông cũng đã sử dụng những cốt truyện như Con Uit, con chó 0à đàn chim (với tên truyện là Cuộc tu bổ lại các giống uật), truyện Thần lửa (tức Truyện uề lão Bợ), truyện Diệêm Vương, truyện Hạt lúa, truyện Thằng Cuối... và đặt chúng trong hệ thống thần thoại Việt Nam. Trong 5 tập của bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, với hơn 200 cốt truyện được Nguyễn Đổng Chỉ xem như là những bản kể chính, có khoảng trên 30 đến 40 cốt truyện ông có tham khảo của A.bandes. Ngoài ra là ở những bản bhảo đị, ông cũng giới thiệu thêm nhiều bản kể được rút ra từ cả hai bộ sưu tập của A.Landes, bộ Conftes et légendes annamites và bộ Contes tjames. Ông đã bổ sung, thêm bớt, điều chỉnh, gọt giũa, sắp xếp, bồi đắp cho các cốt truyện được đầy đủ hơn, hay hơn, hấp dẫn và hợp lý hơn về tình tiết, về chủ để và đặc biệt là về văn phong, ngôn ngữ kể chuyện. Nguyễn Đổng Chỉ bằng tất cả tài năng của một nhà văn, nhà sáng tạo, nhà văn học dân gian cộng với tài năng của một nghệ nhân kể chuyện tâm cỡ siêu việt, ông đã làm cho những câu chuyện thêm da thêm thịt, thêm chất nhựa sống dân dã Việt Nam và chúng đã trở nên sinh động và hấp dẫn biết nhường nào.
Một điều đáng nói ở đây là, Confes et légendes annamites được A.Landes sưu tầm trực tiếp ở người dân cách đây hơn một thế kỷ. Đó là những cốt truyện thô sơ mang nét nguyên mẫu của
truyện cổ Việt Nam ở thế kỷ XIX, chúng phản ánh những sinh hoạt, những lối ngôn ngữ tự sự của người dân thường ngày. Chúng thực sự là đối tượng của chúng ta trong công việc nghiên cứu về văn bản truyện cổ. Do vậy bộ sưu tập của A.Landes sẽ hữu ích khi chúng được chuyển ngữ trở lại tiếng Việt, trở về nguyên trạng của những cốt truyện dân gian cách xa chúng ta hơn cả trăm năm và được giới thiệu với đông đảo bạn đọc.
Công việc sưu tầm, tập hợp truyền thuyết và truyện cổ tích Việt Nam của A.Landes thật sự đáng ghi nhận, nhờ có công lao của ông và những trí thức Pháp có tâm huyết khác mà cho đến nay nhiều câu chuyện dân gian đã còn lại với chúng ta. Những gì mà A.Landes cũng như những người Pháp còn chưa hiểu rõ, hoặc còn chưa làm được bao nhiêu cho chúng ta thì hơn một thế kỷ qua những nhà folklore Việt Nam đã làm và tiếp tục khẳng định với nhiều thành tựu to lớn trong lĩnh vực sưu tầm cũng như nghiên cứu nền folklore Việt Nam. Tên tuổi của họ là những tấm gương khoa học hết mình như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Đổng Chi, Tô Nguyệt Đình, Nguyễn Duy, Sơn Nam, Vũ Ngọc Phan, Trương Chính, Phong Châu... và ngày nay đội ngũ folklore Việt Nam đang tích cực bước tiếp trên con đường mà các nhà tiền bối đã mở ra và chúng ta còn phải học tập ở họ nhiều hơn nữa.
Hà Nội, tháng 12-2001 N.T.H