Góp vốn mua chung cư: Lợi

ít, rủi ro nhiều

Khách hàng mua nhà theo dạng hợp đồng góp vốn thì tính rủi ro

cao hơn các hình thức khác rất nhiều vì các chủ đầu tư tìm mọi cách

để lách luật, trốn tránh thực hiện những nghĩa vụ của mình với

khách hàng.

Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ về quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở (sau đây xin gọi tắt là Nghị

định 71) quy định, khi dự án đã hoàn thành xong phần móng thì chủ đầu

tư được phép huy động vốn bằng hình thức hợp đồng góp vốn với khách

hàng. Hình thức huy động vốn này có thêm những quy định chặt chẽ

dành cho phía chủ đầu tư để thực hiện nghĩa vụ của mình với người mua

nhà nhưng trong thực tế hầu hết người mua nhà lại không được biết.

Điều này sẽ khiến cho việc xin làm giấy chứng nhận quyền sở hữu của

người mua nhà sau này gặp nhiều rắc rối, thậm chí có nguy cơ không

được làm sổ đỏ...

Với hình thức mua nhà dưới dạng hợp đồng góp vốn, Nghị định 71 quy

định chủ đầu tư được phép ký hợp đồng huy động vốn không quá 20%

số lượng nhà ở trong mỗi dự án mà không phải thông qua sàn giao dịch

bất động sản khi dự án đã hoàn thành xong phần móng.

Quy định cũng buộc chủ đầu tư, nếu tổ chức việc huy động vốn theo

hình thức này thì phải có văn bản thông báo cho Sở Xây dựng tỉnh,

thành phố, nơi phát triển dự án, chậm nhất sau 15 ngày kể từ khi công bố

bán nhà, đồng thời phải báo rõ hình thức và số vốn cần huy động, địa chỉ

của nhà đầu tư, số lượng nhà sẽ bán. Chỉ khi chủ đầu tư làm đầy đủ các

thủ tục đó, sau này những người đã góp vốn trong giai đoạn đầu ở diện

20% không thông qua sàn đó mới được các cơ quan có thẩm quyền cấp

giấy chứng nhận quyền sở hữu.

Những điều kiện bắt buộc này nhằm làm cho thị trường bất động sản

minh bạch hơn, tuy vậy, nhiều chủ đầu tư vì lợi nhuận hoặc vì lý do

khác đã phớt lờ các quy định. Và đương nhiên, người góp vốn mua nhà

sẽ phải lãnh đủ. Họ sẽ không thể làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận

quyền sở hữu vì… vi phạm quy định.

Theo thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội, từ tháng 10/2010 đến nay, Sở

Xây dựng mới chỉ nhận được 10 danh sách và cũng mới xác minh được

2 danh sách, trong khi tổng số dự án lớn nhỏ trên địa bàn Hà Nội là con

số khổng lồ. Như vậy, chủ đầu tư đã cố tình lờ đi nghĩa vụ của mình đối

với khách hàng khi đã thu tiền nhưng không nộp danh sách lên để Sở

Xây dựng kiểm tra theo quy định.

Nguyên nhân thì không khó để hiểu, bởi nếu có danh sách đó thì chủ đầu

tư sẽ bị kiểm soát, không thể bán quá số lượng 20%, hoặc bán toàn bộ

khi dự án mới chỉ vừa hoàn thành xong phần móng. Hậu quả của câu

chuyện này là những người góp vốn mua nhà trong diện 20% không

thông qua sàn sẽ không đủ điều kiện để được cấp sổ đỏ. Với các dự án

trên địa bàn TP Hà Nội hiện nay thì số lượng khách hàng chịu thiệt thòi

chắc chắn cũng không phải là ít.

Luật sư Bùi Sinh Quyền, Trưởng Văn phòng luật sư Phúc Thọ cho biết,

khách hàng mua nhà theo dạng hợp đồng góp vốn thì tính rủi ro cao hơn

các hình thức khác rất nhiều vì các chủ đầu tư tìm mọi cách để lách luật,

trốn tránh thực hiện những nghĩa vụ của mình với khách hàng. Văn

phòng luật sư Phúc Thọ cũng đã từng phải tham gia bảo vệ quyền lợi

cho nhiều khách hàng với những trường hợp tương tự. Khi ký kết hợp

đồng khách hàng có quyền yêu cầu chủ đầu tư bắt buộc phải thực hiện

theo hợp đồng đã ký và thực hiện đúng lộ trình cấp sổ đỏ. Nếu chủ đầu

tư không thực hiện đúng các cam kết và theo đúng lộ trình thì có thể đưa

vấn đề ra toà án để giải quyết.

Bên cạnh đó, trước khi ký kết, khách hàng cũng cần phải chú ý xem xét

kỹ lưỡng các điều khoản trong hợp đồng bởi thực tế qua những vụ việc

cụ thể mà luật sư đã gặp thì trong các hợp đồng này, trách nhiệm của

khách hàng thì nhiều, còn đối với chủ đầu tư thì ngược lại. Khi khách

hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình qua các đợt nộp tiền

cũng cần phải yêu cầu chủ đầu tư cho xem xét tiến độ thực hiện dự án,

rồi cơ sở hạ tầng như: đường xá, điện, nước… ví dụ như đợt 1 đóng 30%

giá trị hợp đồng thì dự án thực hiện đến đâu, đợt 2 đóng 35% giá trị hợp

đồng thì tiến độ dự án ở giai đoạn nào. Khách hàng cần chủ động yêu

cầu chủ đầu tư, đồng thời chủ đầu tư cũng phải có trách nhiệm cho

người mua nhà biết mọi vấn đề liên quan đến tiến độ thực hiện dự án.

Thêm nữa, người mua nhà cũng cần phải "chọn mặt gửi vàng" với các

chủ đầu tư có uy tín vì thời gian qua đã xảy ra rất nhiều những vụ lừa

đảo, những chủ đầu tư làm ăn không đúng theo các quy định của pháp

luật.

Bên cạnh những hợp đồng mua nhà theo hình thức góp vốn có nguy cơ

không được cấp sổ đỏ hiện này là tình trạng rất nhiều chung cư mini

cũng khó có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, và số lượng

chung cư mini này cũng không nhỏ. Yêu cầu bắt buộc với chung cư mini

là phải có giấy phép xây dựng đảm bảo nhiều yếu tố như quy hoạch của

khu vực, phương thức phòng cháy chữa cháy, cầu thang thoát hiểm, phải

nộp thuế và các lệ phí kinh doanh…

Tuy nhiên, kết quả kiểm tra đột xuất tại 16 xã, phường thuộc 11 quận,

huyện thuộc thành phố Hà Nội của đoàn kiểm tra liên ngành trong tháng

5/2011 vừa qua thì kết quả là rất ít chung cư mini đáp ứng đầy đủ các

quy định để được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu. Cũng chính vì thế

mà đến thời điểm hiện tại, việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho

chung cư mini trên địa bàn TP Hà Nội vẫn đang bị tắc.

Lý giải về điều này, ông Nguyễn Trọng Hiền, Trưởng phòng Quản lý

nhà và thị trường bất động sản - Sở Xây dựng Hà Nội cho hay, ngoài các

quy định như đã nêu trên, muốn được cấp giấy chứng nhận, tòa nhà cần

phải thỏa mãn thêm 2 điều kiện: dưới 6 tầng, tùy vị trí, UBND quận,

huyện hoặc Sở Xây dựng sẽ xem xét cấp phép xây dựng; nếu công trình

từ 9 tầng trở lên, phải có thêm thỏa thuận về quy hoạch.

Thực tế từ đợt kiểm tra vừa rồi, phần lớn các dự án chung cư mini đã và

đang xây dựng hiện nay đều trong tình trạng giấy phép xây dựng một

đàng, chủ nhà làm một nẻo và vì thế nên tình trạng không xin được giấy

chứng nhận sở hữu trở nên khá phổ biến. Bên cạnh đó, hầu hết các dự án

đều xây dựng trên các diện tích đất nhỏ, trong ngõ sâu, hạ tầng quá tải,

chật hẹp. Vi phạm các quy định về an toàn sử dụng nên không đủ điều

kiện cấp phép