3-) và lượng

Hàm lượng đạm (NH4

+; N03

-), lân (PO4

vật chất hữu cơ tiêu tao oxy.

Đạm lân vô cơ là các loại muối dinh dưỡng chủ

yếu và quan trọng nhất quyết định đến năng suất cây

trồng trên cạn cũng như năng suất sinh vật dưới nước.

Các chất hữu cơ trong nước là nguồn dự trữ đạm,

lân và các chất muối khoáng khác sau khi được phân

hủy và vô cơ hóa. Đạm, lân và các chất hữu cơ càng

nhiều (trong phạm vi nhất định) thì sức sản xuất cũng

như năng suất càng cao. Vì vậy, việc đánh giá một

vùng nước thông qua các chỉ tiêu đạm, lân và các

chất hữu cơ (vật chất tiêu hao oxy) là một điều hết

sức cần thiết. Cũng chính vì vậy mà việc nghiên cứu

xác định những đặc điểm về hàm lượng đạm, lân và

các chất hữu cơ được coi trọng và phân tích có hệ

thống hơn so với các yếu tố khác.

Sự biến động hàm lượng N,P và mùn bã hữu cơ

của hồ chứa nước có sự phức tạp hơn so với sông và

hồ thiên nhiên. Sự biến động này thể thể qua các

năm, theo mùa vụ, theo chiều ngang và theo độ sâu.

1- Sự biến động hàm lượng muối N,P và mùn bã

hữu cơ theo năm:

Những hồ chứa mới ngập nước , do mùn bã hữu

cơ và muối khoáng từ lưu vực dồn về nên hàm lượng

muối đạm (NH4) và lân (PO4) tương đối khá. Sau một

thời gian sử dung thì hàm lượng đạm giảm nhanh và

lân tăng ít.

Ví dụ:

(cid:0) Hồ Cấm Sơn, đợt điều tra năm 1971 cho kết

quả NH4 có hàm lượng 0,115mg/lít và lân PO4 là

0,043mg/lít. Nhưng đến năm 1993 đo lại ở hồ này

hàm lượng đạm bằng 0, hàm lượng lân là 0,75mg/lít.

(cid:0) Các đợt điều tra ở hồ Vân Trục cũng có kết qủa

tương tự. Năm 1973 hàm lượng đạm (NH4) là 0,05-

0,25mg/lít, lân (PO4) 0 - 0,29mg/l.Đến năm 1993

hàm lượng muối đạm bằng 0 và lân bằng 1.

Đối chiếu với bảng phân loại dinh dưỡng của

Đặng Ngọc Thanh thì hầu hết hồ chứa đều nghèo

dinh dưỡng.

Sự biến đổi đạm, lân và mùn bã hữu cơ trong quá

trình hình thành và sử dụng hồ chứa nước thường

biến đổi qua 3 giai đoạn:

1. Giai đoạn đầu (giai đoạn dinh dưỡng phát

triển): Xảy ra vào thời kỳ đầu hồ mới ngập nước. Ở

giai đoạn này quá trình sinh hóa diễn ra mạnh nhất,

đặc biệt là quá trình phân hủy của vi sinh vật. ở thời

kỳ này hàng loạt sinh vật đáy không thích nghi thì bị

tiêu diệt, các cây cối thì bị ngập nước và chết. Tất cả

đều được vi khuẩn phân hủy mạnh giải phóng ra một

lượng rất lớn phốt pho và đạm amôn. Sau đó đạm

amôn lại được chuyển hóa thành các dạng khác như

NO2 và NO3. Mức độ dinh dưỡng của hồ thời kỳ này

là mạnh nhất và thời gian kéo dài từ 2-3 năm đầu.

2. Giai đoạn muối dinh dưỡng suy giảm (suy

thoái): Giai đoạn này được thể hiện vào lúc động vật

đáy, thực vật không thích nghi do ngập nước bị chết

đã hoàn toàn bị vi sinh vật phân hủy và được các loài

thủy sinh vật trong nó sử dụng hết hoặc do bị dòng

chảy của nước cuốn trôi. Lúc này hàm lượng các

muối dinh dưỡng trong hồ là rất nghèo nàn (như đã

nêu trong ví dụ ở hồ Vân Trục ở trên). Đây là một

trong những nguyên nhân làm giảm lượng sinh vật

phù du và lượng sinh vật đáy của hồ chứa nước. Thời

gian của gian đoạn này dài ngắn khác nhau tùy thuộc

vào điều kiện của từng hồ và thường từ 10-15 năm.

3. Giai đoạn phục hồi dinh dưỡng: (giai đoạn dinh

dưỡng ổn định tăng dần). ở giai đoạn này chất đáy

của hồ của hồ đã được tự nhiên hóa (đáy hồ đã có

một lớp mùn bã hữu cơ ổn định), sinh vật đáy đã

thích nghi dần và đã bắt đầu phát triển trong điều

kiện mới của hồ. Mặc khác các qui luật biến động của

mức nước trong hồ đã ổn định dần