
Hans Robert Jauss: Lịch sử văn học là lịch sử tiếp nhận
4
PGS.TS. Huỳnh Vân
Đại học Văn hiến - Tp. Hồ Chí Minh
Có thể nói rằng Jauss quan niệm mỗi một nhát cắt đồng đại là một hệ thống,
một cấu trúc văn học của một thời điểm lịch sử, trong đó bao gồm những yếu tố
khác chất của quá khứ cũng như của tương lai, nhưng lại tạo nên một tầm
chung, một tầm có tính chất tạo nghĩa của những đón đợi văn học sắp tới, của
những hồi tưởng về văn học quá khứ và cả dự tưởng tương lai. Vì vậy tất yếu
phải tiếp tục những nhát cắt đồng đại qua chiều lịch đại. Mỗi một nhát cắt như
vậy cũng sẽ có một tầm chung với những yếu tố cấu trúc không tách rời ra
được. Và tương tự như với lịch sử ngôn ngữ ở đây cũng có những yếu tố ổn
định và những yếu tố biến dị mà ta có thể định vị như là những chức năng hệ
thống. Yếu tố tương đối ổn định cũng giống như ngữ pháp hay cú pháp trong
ngôn ngữ. Đó là cơ cấu của những thể loại truyền thống và các thể loại không
quy tắc, các cách diễn đạt, các loại phong cách và những hình thái tu từ. Đối
lập với nó là một lĩnh vực biến dị mạnh hơn như ngữ nghĩa trong ngôn ngữ học:
các đề tài, các cổ mẫu, những biểu tượng và ẩn dụ văn học. Như đã thấy, tất cả
ở đây cũng nằm trong lịch sử tiếp nhận: Jauss đã trình bày thêm một phương
diện khác nữa của lịch sử tiếp nhận.

Jauss còn cho rằng cũng có thể tạo ra một dạng tương tự như yêu cầu của Hans
Blumenberg về lịch sử triết học. Đó là một “hệ thống hình thức về việc giải
thích thế giới (…) mà trong cấu trúc của nó có thể định vị những sự thay thế vị
trí (Umbesetzungen) tạo nên tính chất tiến trình của lịch sử cho đến tận sự thay
đổi triệt để của thời kỳ”(20). Theo đó, Jauss muốn khắc phục quan niệm của
thuyết thực thể bằng sự giải thích theo chức năng mối quan hệ có tính chất tiến
trình giữa sản xuất và tiếp nhận để “có thể nhận thấy được rằng sau sự biến đổi
của các hình thức và nội dung văn học những sự thay thế vị trí” trong một hệ
thống văn học của sự nhận thức thế giới làm cho có thể nắm bắt được sự thay
đổi tầm trong quá trình của kinh nghiệm thẩm mỹ (198).
Qua những ý kiến trên phần nào ta thấy được quan niệm ở đây của Jauss về lịch
sử văn học: Đằng sau sự thay đổi của các hình thức và nội dung văn học của một
thời kỳ có một nguyên nhân, đó là sự thay thế vị trí - một sự thay thế làm cho
người ta nghĩ tới một sự thay đổi các thế hệ văn học - nó sẽ dẫn tới sự thay đổi
tầm, tức là sự đổi mới, cái sẽ tạo nên giá trị nghệ thuật và từ đó giá trị lịch sử
của văn học. Điều này có thể nhận ra qua những nhát cắt đồng đại của một thời
điểm lịch sử trên trục lịch đại. Chính đấy là cái được Jauss gọi là “những tiền đề”
mà từ chúng “có thể phát triển một lịch sử văn học” không theo lối truyền thống.
Và “vấn đề lựa chọn cái có ý nghĩa đối với một lịch sử văn học mới có thể giải
quyết theo một phương thức chưa hề được thử nghiệm với sự hỗ trợ của cách
xem xét đồng đại: một sự thay đổi tầm đón đợi trong tiến trình lịch sử của “sự
tiến hoá văn học” không cần phải chỉ theo dõi ở phức hợp của tất cả những dữ

liệu và quan hệ nguồn gốc thuộc lịch đại mà cũng còn có thể được xác định ở
hiện trạng đã thay đổi của hệ thống văn học đồng đại và có thể được đọc ra ở
những phân tích theo nhát cắt ngang tiếp theo” (198).
Có thể nhận ra ở đây một điều là phương thức biên soạn “lịch sử văn học mới”
dựa chủ yếu vào các “sự kiện” bên trong văn học và căn bản từ chối lối biên
soạn theo lịch đại vốn dựa vào những yếu tố có liên quan đến nguồn gốc, đến
sản xuất văn học. Quan tâm tới chiều kích đồng đại thì mới có thể đạt được
mục đích trở thành một lịch sử văn học “đặc thù”, một lịch sử văn học “riêng”
như Jauss mong muốn. Tuy thế, một lịch sử văn học như vậy cũng chưa thực
hoàn thiện với cách thức trình bày chủ yếu theo đồng đại như trên mà theo
Jauss nó còn phải được “xem xét trong mối quan hệ riêng của nó với lịch sử
chung với tính cách là một lịch sử đặc thù”. Jauss không chấp nhận quan niệm
truyền thống về mối quan hệ giữa lịch sử văn học và lịch sử chung, bởi theo
ông nó “không thể hiện ra ở chỗ là trong văn học mọi thời đại có thể tìm thấy
hình ảnh được điển hình hoá, được lý tưởng hoá, có tính chất châm biếm hay có
tính chất không tưởng về đời sống xã hội”. Ở đây một lần nữa Jauss cho rằng
lịch sử văn học không thể được trình bày trên cơ sở của mỹ học miêu tả và mỹ
học sản xuất. Như vậy, chức năng xã hội của văn học không nên xem xét ở chỗ
phản ánh hiện thực, phản ánh xã hội hay miêu tả thực tế cuộc sống vì ở đó
không thể có tính lịch sử, mà “chức năng xã hội của văn học trong cái khả năng
đích thực của nó chỉ biểu hiện ra ở nơi mà kinh nghiệm văn học của người đọc
đi vào trong tầm đón đợi của thực tiễn đời sống của anh ta, tiền tạo sự hiểu biết

thế giới của anh ta và như thế cũng tác động trở lại vào thái độ ứng xử xã hội
của anh ta” (199). Nhưng ngược lại không thể không nhận thấy một điều là
chính kinh nghiệm thực tiễn, kinh nghiệm sống của người đọc cũng đi vào tầm
đón đợi văn học của anh ta và “tiền tạo” sự hiểu biết văn học của anh ta.
Trên cơ sở của quan niệm về chức năng văn học đó, Jauss phê phán một loạt
các quan niệm khác về chức năng văn học. Với “xã hội học văn học truyền
thống”, Jauss nhận xét rằng nó “chỉ thay thế bề ngoài nguyên lý cổ điển về sự
mô phỏng tự nhiên (imitatio naturae)(21) bằng sự xác định văn học là sự miêu tả
một hiện thực có sẵn”, và do đó phải đề cao “chủ nghĩa hiện thực” của thế kỷ
19 thành phạm trù văn học ở mức cao nhất. Không chỉ với “xã hội học văn
học” mà với “chủ nghĩa cấu trúc” văn học Jauss cũng cho là nó “vẫn bị trói
buộc hoàn toàn vào mỹ học miêu tả về cơ bản có tính chất cổ điển chủ nghĩa và
vào các khuôn mẫu có sẵn của sự “phản ánh” và “điển hình hoá” và do đó đã
“đi chệch khỏi chức năng xã hội nổi bật, tức chức năng kiến tạo xã hội của văn
học” (200).
Jauss muốn nhấn mạnh rằng những tìm tòi của ông là nhằm xác định sự đóng
góp đặc trưng của văn học trong tiến trình chung của sự hình thành kinh
nghiệm và để khu biệt với những hình thức khác của sự ứng xử xã hội. Jauss
hoàn toàn phủ nhận sự “phản ánh”, sự “miêu tả” hiện thực xã hội là chức năng
đích thực của văn học, mà đó có thể gọi là thuộc vào cái tiền sử của tác phẩm
văn học, cái góp phần tạo nên tác phẩm. Ông chỉ chú ý duy nhất vào chức năng
tác động của văn học, tức là cái hậu sử của nó. Tuy thế ở đây có thể nói rằng

ông đã phần nào thoát ra khỏi lối xem xét văn học thuần tuý nội tại trong văn
học để chạm đến những vấn đề bên ngoài văn bản, những vấn đề của xã hội.
Không hoàn toàn đồng tình với lối xem xét bên trong văn học của chủ nghĩa
hình thức về giá trị của tác phẩm, Jauss cho rằng “tác phẩm văn học mới chẳng
những được tiếp nhận và đánh giá trên cái nền của những hình thức nghệ thuật
khác mà còn trên cái nền của kinh nghiệm sống thường nhật. Về phương diện
mỹ học tiếp nhận, chức năng xã hội của tác phẩm trong lĩnh vực đạo đức có thể
được nắm bắt như nhau trong các dạng thức hỏi và trả lời, vấn đề và giải pháp,
thông qua đó nó đi vào trong tầm của sự tác động xã hội của nó” (203). Rất tiếc
là ở đây Jauss đã không nói rõ và cụ thể là kinh nghiệm sống thường nhật này
gồm có những yếu tố nào, biểu hiện ra ở đâu và tác động như thế nào đến sự
tiếp nhận của người đọc.
Nếu như ở cực này Theodor Adorno, người đại diện hàng đầu của trường phái
Frankfurt (Frankfurter Schule) tuyên bố rằng “sự nội tại của xã hội trong tác
phẩm là mối quan hệ cơ bản của nghệ thuật chứ không phải sự nội tại của nghệ
thuật trong xã hội”(22), lịch sử tác động của tác phẩm đối lập với nhận thức về
sự biểu lộ xã hội của nghệ thuật thì Hans Robert Jauss, người đại diện tiêu biểu
cho trường phái mỹ học tiếp nhận Konstanz (Konstanzer Schule) lại gần như
quả quyết điều ngược lại.