Hệ Nano Polyelectrolyte chống ăn mòn-bảo vệ
kim loại
Trong bài này đề cập đến vấn đề sử dụng polyelectrolyte kết hợp với
chất ức chế ăn mòn, vai trò như lớp phủ, để tạo thành hchống ăn
mòn khnăng tự phục hồi khi những tác động bên ngoài làm
trầy bề mặt lớp phủ.
Chế tạo lớp phủ
Daria các cộng sự đã thực hiện 3 phương pháp phủ đó là: phun khô
(spray-drying), phquay (spin-coating) ph nhún (dip-coating), PEI-
PSS ng đphủ, so sánh 3 phương pháp bằng phổ Ir. Phổ Ir của
màng phun khô (hình a), phquay (hình b), phnhún (hình c) cho thấy
có sự khác biệt đáng kể ở cường độ peak.
Vùng hấp thu của PEI PSS dùng phương pháp phun khô thì cường
độ peak mạnh, và các peak hiện rõ ràng. Vùng hấp thu của bề mặt nhôm
1077 cm-1 1400 cm-1 cũng như 1642 cm-1 shấp thu của nước
đều biến mất ba phổ. Nghĩa ng polyelectrolyte đã tạo được liên
kết lên bề mặt nhôm. Vì vậy, 3 phương pháp đều cho kết quả là biến tính
bề mặt nhôm rất tốt.
Hình thái của lớp phủ
Hình 2 cho thấy hPEI-PAA (hình a) PEI-PSS (hình b) đều cho thấy
skhác biệt về độ gồ gề của bề mặt. Nguyên nhân do đdày một
lớp PEI-PSS mỏng chỉ có 80nm, nên nó làm hiện ra độ gồ gề của bề mặt
nhôm, và độ dày PEI-PAA là 800nm nên có thể phủ lắp được sự gồ gề.
Ngược lại, lớp phủ PDADMAC-PSS hình c cho thấy có sự kết tcác
hạt có kích thước 20-40nm phân btrên bmặt. Sự hình thành kết tụ
thlà nguyên nhân của kết dính kém giữa PDADMAC với bề mặt kim
loại Al. Từ các kết quả này cho thấy lớp phủ PEI-PSS PEI-PAA thì
bền và đồng nhất; Trong khi đó hệ PDADMAC-PSS thì bị kết tụ.
Kiểm tra quá trình ăn mòn của bề mt nhôm có lớp phủ
Tác gi đã nghiên cứu tính chng ăn mòn của 3 hệ polyelectrolyte: PEI-
PAA, PEI-PSS và PDADMAC-PSS bằng cách sử dụng k thuật quét
điện cực dao động (scanning vibrating electrode technique, SVET).
Phương pháp SVET tạo ra một giản đồ mật dòng điện trên bmặt mẫu,
cho phép hiển thị dòng catot và anod trong vùng ăn mòn.
Để thể thúc đẩy sự ăn mòn xảy ra, nên b mặt nhôm đã ph
polyelectrolyte được rạch trầy, ngâm trong dung dịch muối NaCl 0.1M.
Đường màu đỏ, màu xanh lam hình A dòng anot (đặc trưng tính oxi
hóa, ăn mòn) catot (đặc trưng tính khử, không ăn mòn) (micro A/
cm2).
- Hệ PDADMAC-PSS
Hình A cho thấy trong 12h dòng ăn mòn (màu đỏ) xuất hiện. Hình B cho
thấy trong thời gian 3 giờ ngâm, xuất hiện cực anod (đỉnh màu cam)
catot (vùng màu lam) trong thời gian thí nghiệm cho thấy sphát
triển ăn mòn vết rạch trên bmặt mẫu. Sự ăn mòn của vết trầy được
quan sát bằng ảnh SEM (hình C).
PDADMAC PSS mật độ điện tích cao nên tương tác giữa chúng
quá chặt chẽ. Ngoài ra, có s hình thành của một lớp phức giữa
PDADMAC PSS cũng làm cho tương tác giữa PDADMAC với bề
mặt kim loại yếu.
- Hệ PEI-PSS
Lp phủ PEI-PSS cho thấy tính bảo vệ kim loại, chống ăn mòn rất tốt. Ở
hình C cho thấy không bất k dấu hiệu nào của sự phát triển ăn mòn,
lớp rạch trầy trên bmặt nhôm (được chỉ mũi tên). hình A, B không
xuất hiện sự ng mật đdòng theo thời gian trong 12h. hình B
không stập trung ăn mòn tại một chỗ như hình 4B, các đỉnh ăn
mòn giảm cường độ mạnh gần với nhiễu nền.
- Hệ PEI-PAA
Cũng như hệ PEI-PSS, hệ PEI-PAA cũng thể hiện được khả năng bảo vệ
kim loại trong môi trường ăn mòn. Giản đSVET của hPEI-PAA cho
thấy trong khoảng thời gian 7 giờ ngâm thì có thấy xuất hiện sự ăn mòn
(Hình 6A, bên trái). Hđệm PEI-PAA đã ngăn chặn được sự phát triển
ăn mòn trong thời gian 30 phút sau đó. (Hình 6A, bên phải). Giản đồ mật
độ dòng theo thời gian (hình 8B) chứng tỏ hiệu quả ngăn chặn sự phát
triển của ăn mòn trong vòng 12h chxuất hiện duy nhất một dấu hiệu
xảy ra sự ăn mòn. Sbảo vệ của PEI-PAA yếu hơn PEI-PSS được giải
thích do snhấp ncủa bề mặt lớp phủ làm tăng sự thấm nước vào
hệ polyelectrolyte.