BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN HỮU NGỰ

HIỆU QUẢ BỔ SUNG VITAMIN K2 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP

CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, SỨC KHỎE XƯƠNG

Ở TRẺ EM 7-10 TUỔI TẠI HUYỆN TIỀN HẢI, THÁI BÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Thái Bình - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH

NGUYỄN HỮU NGỰ

HIỆU QUẢ BỔ SUNG VITAMIN K2 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP

CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, SỨC KHỎE XƯƠNG

Ở TRẺ EM 7-10 TUỔI TẠI HUYỆN TIỀN HẢI, THÁI BÌNH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế

MÃ SỐ: 62 72 01 64

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. Hoàng Năng Trọng

2. TS. Trương Hồng Sơn

Thái Bình - 2023

LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện thành công đề tài nghiên cứu và luận án này, tôi đã nhận

được sự giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân dịp này tôi xin được gửi

lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau đại học,

Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược Thái Bình cùng các thầy, cô giáo

đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Nhà giáo nhân dân,

PGS.TS. Hoàng Năng Trọng và TS.BS. Trương Hồng Sơn – những người thầy

đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu

và hoàn thành luận án này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn Viện Y học ứng dụng Việt Nam, Ban Giám

đốc bệnh viện và Khoa Sinh hóa Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, Ban Giám

đốc bệnh viện và Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Thái Bình,

Bệnh viện huyện Tiền Hải, Ban Giám hiệu cùng các cộng tác viên, phụ huynh

và học sinh các trường tiểu học Tây Lương, Tây Tiến và Tây Giang huyện Tiền

Hải tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề

tài, thu thập, xử lý số liệu và hoàn thành luận án.

Xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, chia

sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Thái Bình, tháng năm 2023

Nguyễn Hữu Ngự

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi

trực tiếp tiến hành. Những kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực,

chính xác, chấp hành đầy đủ các quy định về y đức trong nghiên cứu Y sinh

học và chưa được công bố tại các công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận án

Nguyễn Hữu Ngự

MỤC LỤC

Trang

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................. 3

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 4

1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao và các yếu tố ảnh hưởng........................ 4

1.1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao trẻ em .............................................. 4

1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chiều cao ......................... 5

1.2. Tình trạng dinh dưỡng và phát triển chiều cao .................................... 14

1.2.1. Trên thế giới .................................................................................. 14

1.2.2. Tại Việt Nam ................................................................................. 17

1.3. Biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương .... 22

1.3.1. Các biện pháp can thiệp ................................................................ 22

1.3.2. Một số nghiên cứu về cải thiện tình trạng dinh dưỡng và mật độ xương

................................................................................................................. 26

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 32

2.1. Đối tượng, địa bàn, thời gian nghiên cứu ............................................ 32

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 33

2.1.2. Địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 36

2.1.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 37

2.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 37

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 37

2.2.2. Cỡ mẫu cho nghiên cứu ................................................................ 38

2.2.3. Phương pháp chọn mẫu ................................................................. 40

2.2.4. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu: .............................................. 41

2.2.5. Phương pháp thu thập số liệu và kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu

................................................................................................................. 42

2.2.6. Quá trình tổ chức nghiên cứu ........................................................ 47

2.2.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu ........................................ 56

2.2.8. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................................. 59

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 61

3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học

huyện Tiền Hải, Thái Bình .......................................................................... 61

3.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu ................................................................. 75

3.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và

sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại

địa bàn nghiên cứu ...................................................................................... 81

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN .............................................................................. 94

4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học

huyện Tiền Hải, Thái Bình ........................................................................ 94

4.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu ................................................................. 99

4.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và

sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại

địa bàn nghiên cứu .................................................................................... 104

4.4. Những đóng góp và tính mới của đề tài ............................................. 124

4.5. Những hạn chế của đề tài ................................................................... 124

KẾT LUẬN ................................................................................................... 126

KHUYẾN NGHỊ ........................................................................................... 128

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Bone Mineral Content (khối lượng xương) BMC

Bone Mineral Density (mật độ xương) BMD

Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể) BMI

BMIZ Body Mass Index Z-score (Z-score theo chỉ số khối cơ thể)

cOC Carboxylated osteocalcin (Osteocalcin đã được carboxyl hóa)

CSHQ Chỉ số hiệu quả

IGF-1

Insulin-like Growth Factor - 1 (Yếu tố tăng trưởng giống Insulin-1)

Growth Hormone (Hormone tăng trưởng) GH

Height for Age Z-score (chỉ số Z-score chiều cao theo tuổi) HAZ

Menaquinone (vitamin K2) MK

25th percentile (bách phân vị 25%) p25

75th percentile (bách phân vị 75%) p75

Parathyroid hormone (Hormone tuyến cận giáp) PTH

Suy dinh dưỡng SDD

(Osteocalcin chưa được ucOC

Uncarboxylated osteocalcin carboxyl hóa)

UCR

Uncarboxylated osteocalcin - carboxylated osteocalcin rate (Tỷ lệ giữa osteocalcin chưa được carboxyl hóa và osteocalcin đã được carboxyl hóa)

UNICEF United Nations International Children's Emergency Fund

Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

World Heath Organization (Tổ chức y tế thế giới) WHO

Weight for Age Z-score (Chỉ số Z-score cân nặng theo tuổi) WAZ

DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tuổi và giới tại địa bàn nghiên cứu ...................... 61

Bảng 3.2. Phân bố theo tuổi và giới của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

bàn nghiên cứu ................................................................................................ 75

Bảng 3.3. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng

độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu theo tuổi ........................................................................................ 76

Bảng 3.4. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng

độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu theo giới tính ................................................................................ 77

Bảng 3.5. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng

độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu theo tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ....................................... 77

Bảng 3.6. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại

địa bàn nghiên cứu theo tuổi ........................................................................... 78

Bảng 3.7. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

bàn nghiên cứu theo giới ................................................................................. 78

Bảng 3.8. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu theo phân loại SDD thấp còi ............................................................ 79

Bảng 3.9. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi ........................................................... 79

Bảng 3.10. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới .............................................. 80

Bảng 3.11. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại SDD ............................................. 80

Bảng 3.12. Thay đổi cân nặng của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp ........ 81

Bảng 3.13. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng của đối tượng nghiên cứu ......... 82

Bảng 3.14. Thay đổi chiều cao của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp ........ 82

Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao của đối tượng nghiên cứu ........ 83

Bảng 3.16. Thay đổi HAZ trung bình của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

......................................................................................................................... 83

Bảng 3.17. Phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh sưỡng thấp còi trước và

sau can thiệp .................................................................................................... 84

Bảng 3.18. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ có suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy

dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu............................................... 85

Bảng 3.19. Thay đổi mật độ xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp 85

Bảng 3.20. Hiệu quả can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu .... 86

Bảng 3.21. Thay đổi khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

......................................................................................................................... 86

Bảng 3.22. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu

......................................................................................................................... 87

Bảng 3.23. Thay đổi canxi ion của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp .......... 88

Bảng 3.24. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ canxi ion trước và sau

can thiệp .......................................................................................................... 89

Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp lên canxi ion của đối tượng nghiên cứu ........ 89

Bảng 3.26. Thay đổi vitamin D của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp 90

Bảng 3.27. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ vitamin D trước và sau

can thiệp .......................................................................................................... 91

Bảng 3.28. Hiệu quả can thiệp lên vitamin D của đối tượng nghiên cứu ....... 91

Bảng 3.29. Thay đổi osteocalcin của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp .......... 92

Bảng 3.30. Hiệu quả can thiệp lên osteocalcin của đối tượng nghiên cứu ..... 93

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi lại địa bàn nghiên cứu 62

Biểu đồ 3.2. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 63

Biểu đồ 3.3. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo giới tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 64

Biểu đồ 3.4. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo xã tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 65

Biểu đồ 3.5. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân lại địa bàn nghiên

cứu ................................................................................................................... 66

Biểu đồ 3.6. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 67

Biểu đồ 3.7. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo giới tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 68

Biểu đồ 3.8. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo xã tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 69

Biểu đồ 3.9. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu

......................................................................................................................... 70

Biểu đồ 3.10. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 71

Biểu đồ 3.11. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo giới tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 72

Biểu đồ 3.12. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo xã tại địa bàn

nghiên cứu ....................................................................................................... 73

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong quá trình phát triển xã hội, yếu tố con người luôn đóng một vai trò

rất quan trọng, đặc biệt là trẻ em. Trẻ em là chủ nhân tương lai của mọi quốc

gia trên thế giới. Chính vì vậy, sự phát triển về thể lực trí tuệ của trẻ luôn được

quan tâm hàng đầu. Tăng trưởng ở trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu tố: yếu tố

di truyền và môi trường bên ngoài trong đó có dinh dưỡng, bệnh tật và môi

trường sống. Yếu tố di truyền: Bao gồm các yếu tố về giới, chủng tộc; các yếu

tố gen; các bất thường bẩm sinh. Yếu tố môi trường: Bao gồm điều kiện kinh

tế- xã hội, điều kiện địa lý, các yếu tố về bà mẹ, yếu tố dinh dưỡng, hoạt động

thể lực, yếu tố tâm lý…[1],[2].

Ở trẻ nhỏ, giai đoạn tiểu học từ 7 đến 10 tuổi là lứa tuổi chuyển tiếp từ

trẻ em thành trẻ vị thành niên. Trong giai đoạn này, trẻ thường có những chuyển

biến về mức tăng trưởng thể chất cũng như tinh thần và là một giai đoạn phát

triển quan trọng làm nền tảng cho những thời điểm tiếp theo trong cuộc đời trẻ.

Việc cải thiện dinh dưỡng không chỉ quan trọng ở những năm đầu đời mà còn

là một quá trình liên tục suốt những năm học đường đặc biệt là giai đoạn vị

thành niên [3].

Lứa tuổi dậy thì đặc trưng bởi sự tăng trưởng vượt bậc về cơ bắp, khung

xương cũng như các chức năng sinh dục mới. Ở giai đoạn 10 tuổi, cứ mỗi năm

lại tăng thêm 6 cm ở bé gái và tăng dần đến khi đạt được 9 cm một năm ở đội

tuổi 12. Đỉnh tốc độ tăng trưởng của trẻ nam là 12 tuổi (5 cm/ năm) và đạt tối

đa ở 14 tuổi (10 cm/ năm). Tốc độ tăng trưởng sẽ giảm dần và tiệm cận 0 ở độ

tuổi 15 ở nữ và 17 ở nam giới. Thời gian phát triển chiều cao mạnh nhất ở nữ

giới là 8-17 tuổi, quyết định đến 23% chiều cao trung bình ở người trưởng

thành. Kích thước xương, khối lượng xương và mật độ chất khoáng ở mỗi

xương tăng lên khoảng 4% mỗi năm tính từ giai đoạn trẻ 8 tuổi cho đến qua

2

giai đoạn vị thành niên [4]. Trong giai đoạn này, cơ thể có nhiều cơ hội để khắc

phục các tình trạng chậm tăng trưởng do thiếu dinh dưỡng ở các giai đoạn trước.

Vai trò của một số loại vi chất dinh dưỡng như canxi, sắt, kẽm, vitamin

A, vitamin D...đối với tăng trưởng ở trẻ em nói chung đã được đề cập từ lâu.

Tuy nhiên, vitamin K2 gần đây mới được các nghiên cứu chứng minh có hiệu

quả trong việc giúp xương chắc khỏe hơn. Vitamin K2 có tác dụng hoạt hóa

protein osteocalcin giúp gắn canxi vào xương, do vậy có tác dụng làm tăng mật

độ xương, giảm tốc độ loãng xương [5],[6].

Trường học cung cấp môi trường thể chất, xã hội và giáo dục cho trẻ em,

có khả năng định hình hoạt động thể chất và hành vi ăn uống của trẻ. Do đó,

việc tổ chức tại trường học những hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về

dinh dưỡng và tổ chức/khuyến khích các hoạt động thể dục thể thao ở trẻ em

tiểu học là vô cùng cần thiết để chuẩn bị điều kiện tốt nhất cho trẻ có thể phát

huy được tối đa tiềm năng phát triển khi bước vào tuổi dậy thì [7].

Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuộc Đồng Bằng sông Hồng, kinh tế

xã hội tuy đã có nhiều thay đổi tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ

suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn

còn là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó cho đến nay chưa có nhiều

thông tin về tình trạng dinh dưỡng của nhóm trẻ từ 7-10 tuổi là giai đoạn rất

quan trọng trong phát triển thể chất của trẻ vì là nền tảng cho giai đoạn tăng tốc

về tăng trưởng ở giai đoạn dậy thì. Hiện nay, trên cả nước nói chung và tại tỉnh

Thái Bình nói riêng, chưa có nghiên cứu nào toàn diện về việc bổ sung vitamin

K2 cũng như các biện pháp can thiệp để cải thiện mật độ xương và tình trạng

dinh dưỡng của trẻ em. Nhằm góp phần đề xuất biện pháp can thiệp để cải thiện

tầm vóc người Việt Nam, chúng tôi thực hiện đề tài: “Hiệu quả bổ sung vitamin

K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe

xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, Thái Bình” nhằm mục tiêu:

3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường

tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình.

2. Xác định tình trạng sức khỏe xương (mật độ xương, khối lượng xương,

nồng độ vitamin D, canxi ion và osteocalcin) ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm

tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu.

3. Đánh giá hiệu quả bổ sung Vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp

cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi

chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu.

4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao và các yếu tố ảnh hưởng

1.1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao trẻ em

Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển vì vậy tăng trưởng là một đặc

điểm sinh học cơ bản. Có năm nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ

em: di truyền, môi trường, nội tiết, bệnh tật và khuynh hướng thời gian. Mô hình

tăng trưởng thể chất của trẻ em không phải đứng yên mà thay đổi theo thời gian.

Sự tăng trưởng của xương ở trẻ em sẽ quyết định đến chiều cao của một

người sau này. Ở lứa tuổi tiểu học tốc độ tăng trưởng chiều cao khoảng 5,5cm

mỗi năm, mật độ xương cũng tăng lên khoảng 1% một năm ở cả bé trai và bé

gái. Giai đoạn tiền dậy thì là giai đoạn mà khẩu phần ăn (năng lượng và các

chất dinh dưỡng) rất cần thiết cho phát triển cơ thể trẻ em trước khi dậy thì. Đối

với lứa tuổi này, khẩu phần ăn (protein nguồn gốc động vật) và chiều cao của

cha mẹ có mối liên quan dương tính với mức tăng chiều cao trẻ em [4]. Đặc

điểm phát triển ở giai đoạn này là có sự tác động của hormone tăng trưởng GH

có khả năng kích thích chiều dài của xương. Hàm lượng hormone này ở tuổi

tiền dậy thì tăng lên và bên cạnh việc kích thích tăng trưởng, nó còn có chức

năng điều chỉnh chuyển hóa protein, lipid và glucid [8].

Tuổi tiểu học là giai đoạn quyết định sự phát triển tối đa các tiềm năng di

truyền liên quan đến tầm vóc, thể lực và trí tuệ. Đây là giai đoạn trẻ tích lũy chất

dinh dưỡng cần thiết chuẩn bị cho giai đoạn dậy thì tiếp theo, là giai đoạn có sự

biến đổi nhanh cả về thể chất và tâm lý, nhưng cũng là giai đoạn rất dễ bị tổn

thương khi bị thiếu hụt về dinh dưỡng. Đặc biệt trong giai đoạn những năm đầu

tiên của cuộc đời, sự phát triển về trí tuệ và khả năng học tập của một con người

được hình thành và phát triển hơn 50%, khoảng 30% tiếp theo được phát triển cho

đến khi trẻ được 8 tuổi, từ đó trí tuệ con người sẽ tiếp tục phát triển trong quá trình

5

học tập và làm việc trong những năm tiếp theo. Điều này cho thấy, việc cải thiện

dinh dưỡng không chỉ quan trọng ở những năm đầu đời, mà là một quá trình liên

tục cả những năm tuổi học đường đặc biệt là giai đoạn vị thành niên [9].

Lứa tuổi dậy thì đặc trưng bởi sự tăng trưởng vượt bậc về cả cơ bắp,

khung xương cũng như các chức năng sinh dục mới. Ở giai đoạn 10 tuổi, cứ

mỗi năm lại tăng 6cm ở bé gái và tăng dần đến khi đạt được 9cm một năm ở độ

tuổi 12. Đỉnh tốc độ tăng trưởng của trẻ nam là 12 tuổi (5cm/năm) và đạt tối đa

đến 14 tuổi (10cm/năm). Tốc độ tăng trưởng sẽ giảm dần và tiệm cận 0 ở độ

tuổi 15 ở nữ giới và 17 ở nam giới. Thời gian phát triển chiều cao mạnh nhất ở

nữ giới là từ 8-17 tuổi, quyết định đến 23% chiều cao trung bình ở người trưởng

thành. Kích thước xương, khối lượng xương và mật độ chất khoáng ở mỗi

xương tăng lên khoảng 4% mỗi năm tính từ giai đoạn trẻ 8 tuổi cho đến qua giai

đoạn vị thành niên [8]. Sự tích lũy nhanh chóng về khối lượng xương có liên

quan đến sự tăng trưởng và phát triển chiều cao và có thể cả sự hoạt động của

các hormone tăng trưởng như hormone tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1),

steroid sinh dục và các receptor của các hormone. Tích lũy IGF-1 tương quan

với sự phát triển giới tính và sự tương tác với các steroid sinh dục. Cụ thể là, sự

tăng tiết các hormone sinh dục sẽ làm tăng tiết IGF-1 [10] .

1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chiều cao

1.1.2.1. Yếu tố di truyền

Chiều cao là một đặc điểm nhân trắc học quan trọng của con người, có

thể đo lường và ước tính được sự phân bố chiều cao trung bình trong quần thể.

Những nghiên cứu trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 trên những

cặp song sinh được nhận nuôi hoặc được chính sự chăm sóc trong gia đình cho

thấy chiều cao là một đặc điểm mang tính di truyền [11],[12].

Yếu tố di truyền quyết định tiềm lực tối đa có thể đạt được (chiều cao,

cân nặng) của một cá thể. Nhiều quan sát trên các chủng tộc người khác nhau

6

cho thấy có sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến chiều cao, cân nặng, vóc

dáng của người trưởng thành. Tuy nhiên, số liệu điều tra và kết quả một số

nghiên cứu cho thấy rằng sự khác nhau về tiềm năng tăng trưởng giữa các chủng

tộc có thể do dinh dưỡng và môi trường hơn là do di truyền. Qua so sánh số liệu

từ một số nước phát triển và kém phát triển nhận thấy ở các vùng đô thị với quần

thể dân cư được nuôi dưỡng tốt thì chỉ 3% sự khác nhau về chiều cao và 6% về

cân nặng là có thể quy cho chủng tộc; ngược lại, sự khác nhau về điều kiện kinh

tế xã hội và tình trạng dinh dưỡng giữa nông thôn và thành thị có thể lên đến

12% về chiều cao và 30% về cân nặng trong cùng một nhóm chủng tộc [1].

Chiều cao con người được kiểm soát bởi nhiều gen và cả yếu tố môi

trường. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy yếu tố gen có thể chiếm khoảng

60-80%, sự khác biệt về chiều cao giữa các cá thể và yếu tố môi trường chỉ

khoảng 20-40% [13].

1.1.2.2. Yếu tố môi trường

❖ Yếu tố dinh dưỡng

Các nhà nghiên cứu cho rằng, tăng trưởng là tấm gương phản chiếu các

điều kiện sống. Tăng trưởng kém là biểu hiện của nghèo đói, thiếu dinh dưỡng

và khi điều kiện sống khá hơn thì tăng trưởng được cải thiện. Nhiều yếu tố kinh

tế xã hội có ảnh hưởng đến tăng trưởng đã được biết đến như tầng lớp xã hội,

vùng đô thị và nông thôn, vùng địa lý, điều kiện nhà ở... Tại các nước đang phát

triển như Việt Nam, các nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến phát triển trẻ em

là khẩu phần ăn kém, bệnh nhiễm trùng cao và kích thước khi sinh nhỏ [9].

Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm đặc biệt là sữa mẹ và sữa bò trong

thời thơ ấu của trẻ cũng được cho là có liên quan đến việc tăng chiều cao, được

coi là thước đo quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. Một nghiên

cứu cắt ngang được thực hiện trên 653 trẻ em ở độ tuổi 2-18 tuổi ở Jeddah, Ả

Rập Saudi năm 2015 bởi AbdulmoeinEidAl-Agha và cộng sự. Nghiên cứu này

7

nhằm xác định mối liên quan giữa chế độ ăn uống (hàng ngày, hàng tuần và

hiếm khi) với chiều cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với chiều cao, việc

tiêu thụ protein, rau, sữa và chế phẩm từ sữa, chất béo, thức ăn nhanh và đồ

ngọt với những tần suất khác nhau như hàng ngày, hàng tuần và hiếm khi có

những tác dụng khác nhau đối với sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ. Những trẻ ăn

đủ và phù hợp các nhóm thực phẩm cũng như cung cấp đầy đủ năng lượng hàng

ngày có xu hướng chiều cao tốt hơn so với những trẻ khác [14].

Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa yếu tố dinh

dưỡng với sự tăng trưởng và phát triển chiều cao của trẻ. Việc cải thiện tình

trạng dinh dưỡng, chế độ ăn và vi chất hợp lý không chỉ có thể giúp trẻ bình

thường có được chiều cao tốt hơn mà còn có thể giúp những trẻ bị suy dinh

dưỡng có thể phục hồi và phát triển bình thường.

*Vitamin D

Vitamin D là yếu tố thiết yếu để duy trì mức độ bình thường của canxi

và phosphat trong máu, từ đó cần thiết đối với quá trình khoáng hóa bình thường

ở xương, co cơ, dẫn truyền thần kinh và các chức năng chung ở tất cả tế bào

trong cơ thể. Vitamin D sẽ phát huy những tác dụng đó sau khi chuyển hóa

thành dạng hoạt động, 1,25-dihydroxyvitamin D [1,25(OH)2D], hoặc calcitriol.

Chất này sẽ điều hòa quá trình phiên mã của một số gen phụ thuộc vào vitamin

D mã hóa các protein vận chuyển canxi và protein chất nền xương.

Vitamin D đóng vai trò rất quan trọng với sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe

xương. Vitamin D có vai trò: tăng cường quá trình cốt hóa xương, thông qua

cơ chế phân phối phosphocanxi; làm tăng sự thấp thu canxi ở thành ruột dưới

dạng liên kết (vitamin D - Ca ++); kích thích sự tái hấp thu các muối phosphat

ở ống thận, giúp cơ thể tiết kiệm được nguồn dự trữ phosphat; Vitamin D làm

tăng hoạt lực enzymphosphatase của xương, làm giảm sự bài tiết canxi qua

thành ruột già; Ngoài ra, vitamin D còn tham gia điều hòa chức năng của một

8

số gen, tham gia một số chức năng bài tiết insulin, hormone cận giáp, hệ miễn

dịch, phát triển hệ sinh sản ở nữ giới [15].

Thiếu vitamin D, xương sẽ mất canxi, phospho, trở nên mềm xốp, dễ

gãy. Đó là chứng còi xương ở trẻ em hoặc xốp xương ở người trưởng thành.

Ngoài ra, thiếu vitamin D cũng gây rối loạn hấp thu canxi và phospho, có thể

gây ra những biểu hiện cấp tính như cơn co giật tetani. Thiếu vitamin D ở trẻ

nhỏ có thể gây chậm tăng trưởng ở trẻ nhỏ và gây ra những dấu hiệu và triệu

chứng điển hình của bệnh còi xương [16].

*Vitamin K

Vitamin K là tên gọi dành cho một nhóm các chất có cấu trúc liên quan

đến nhau, bao gồm: vitamin K1 (phylloquinone) có trong thực phẩm, vitamin

K2 (menaquinone- viết tắt là MK) được sản xuất bởi các vi khuẩn ở ruột già và

vitamin K3 (menadione) là một loại thuốc tổng hợp. Vitamin K2 là một nhóm

các loại vitamin thường được gọi là menaquinones (viết tắt là MK), được tổng

hợp và sản xuất ra bởi vi khuẩn đường ruột của các loại động vật có xương

sống. Trong cấu trúc phân tử, sự lặp lại của các chuỗi isoprenoid thường từ 4-

13 lần, do đó, tạo ra các phân tử vitamin K2 có chiều dài khác nhau, được gọi

tên từ MK-4 đến MK-13. Các sản phẩm từ động vật, ví dụ như thịt, trứng, sữa,

và các sản phẩm lên men, ví dụ như như pho mát, sữa chua là những nguồn

cung cấp chủ yếu vitamin K2. Dạng vitamin K2 phổ biến nhất trong các sản

phẩm từ động vật là MK-4 nhưng MK-7 lại là dạng vitamin K2 được nhiều

nghiên cứu sử dụng hơn cả [17].

Quá trình tạo cốt bào sản xuất ra osteocalcin, giúp lấy canxi từ tuần hoàn

máu và gắn vào ma trận xương. Osteocalcin là một protein không phải collagen

điển hình khá đặc hiệu cho quá trình tạo xương. Osteocalcin do tạo cốt bào tổng

hợp phụ thuộc ba vitamin: vitamin D, vitamin K, vitamin C và bị ức chế bởi

PTH, glucocorticoid, coumarin. Ở người trẻ, nồng độ osteocalcin huyết thanh

9

dao động 2-12 ng/mL. Nồng độ osteocalcin tăng lên theo tuổi và ở nữ cao hơn

nam đặc biệt là phụ nữ sau 50 tuổi trong 15 năm đầu mãn kinh. Osteocalcin có

ảnh hưởng đến quá trình khoáng hóa xương vì osteocalcin có thể gắn với các

chất khoáng có trong xương, do đó có thể giúp xương chắc khỏe và giảm nguy

cơ gãy xương. Tuy nhiên, các tế bào osteocalcin mới hình thành lại ở dạng chưa

hoạt động và cần có vitamin K2 để được hoạt hóa hoàn toàn (thông qua quá

trình carboxyl hóa) và có thể gắn với canxi [18],[19]. Số lượng osteocalcin

được carboxyl hóa (cOC) là một phương pháp tốt để đánh giá tình trạng vitamin

K của cơ thể [20],[21],[22]: nếu tỷ lệ osteocalcin chưa được carboxyl hóa (ucOC)

cao chứng tỏ cơ thể đang bị thiếu vitamin K và ngược lại. Một chỉ số khác để

đánh giá tình trạng vitamin K của cơ thể là sử dụng chỉ số UCR. Chỉ số UCR

chính là tỷ lệ ucOc:cOC. Nếu chỉ số UCR cao chứng tỏ cơ thể đang bị thiếu

vitamin K và ngược lại. Vitamin K2 còn giúp canxi không bị lắng đọng ở các

thành mạch máu. Protein điều chỉnh quá trình canxi hóa là protein MGP là một

loại protein phụ thuộc vitamin K, được các tế bào cơ trơn sản xuất ra và có chức

năng điều chỉnh lượng canxi trong cơ thể [23]. Các nghiên cứu trên đối tượng

người cao tuổi đã gợi ý rằng, nồng độ osteocalcin chưa được carboxyl hóa

(ucOC) trong huyết thanh và chỉ số UCR là những chỉ số đáng tin cậy và ổn định

để đánh giá tình trạng vitamin K của xương. Ngoài ra, việc bổ sung vitamin K

có thể giúp cải thiện lượng khoáng chất trong xương, giúp xương chắc khỏe và

giảm nguy cơ gãy xương ở trẻ em [5].

Trên đối tượng trẻ em, cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về mối liên quan

giữa hàm lượng ucOC huyết thanh, tình trạng vitamin K trong cơ thể và sức

khỏe xương. Nghiên cứu của Summeren và cộng sự vào năm 2001 trên 86 trẻ

em khỏe mạnh từ 3- 18 tuổi cho thấy, nồng độ ucOC và cOC ở trẻ em cao hơn

ở người lớn (31,3 so với 3,6 và 15,4 so với 4,7; p<0,001). Thêm vào đó, chỉ số

UCR ở trẻ em cao hơn đáng kể so với ở người trưởng thành (2,3 so với 0,8,

10

p<0,001), điều này gợi ý rằng, khi xương đang trong phát triển (trẻ em và tuổi

dậy thì), tình trạng vitamin K của xương sẽ kém hơn, cũng tức là, trẻ em thường

sẽ bị thiếu vitamin K trong giai đoạn này [24]. Cũng trong nghiên cứu này, khi

phân tích sâu hơn, các nhà nghiên cứu thấy rằng, chỉ số ucOC cao nhất trong

giai đoạn dậy thì và sẽ giảm đi sau khi trẻ dậy thì xong. Chỉ số UCR luôn cao

trong cả 3 giai đoạn: tiền dậy thì, đang dậy thì và cuối dậy thì [24]. Chỉ số ucOC

là một chỉ số đáng tin cậy để đánh giá tình trạng thiếu vitamin K, ucOC càng

cao, tình trạng thiếu vitamin K càng trầm trọng. Kết quả của nghiên cứu này gợi

ý rằng, trong giai đoạn xương phát triển mạnh, cơ thể thường sẽ rơi vào tình trạng

thiếu vitamin K và chế độ ăn uống thường không đủ để đáp ứng nhu cầu vitamin

K của cơ thể trong giai đoạn này. Trẻ em ở độ tuổi dậy thì thường có tốc độ tái

tạo xương nhanh hơn ở người trưởng thành, điều này có thể giải thích cho việc

trẻ em ở mọi độ tuổi thường sẽ có nguy cơ thiếu vitamin K cao hơn [24].

Từ những thực trạng trên, nghiên cứu can thiệp đã được tiến hành để kiểm

tra hiệu quả thực sự của việc bổ sung vitamin K2 lên sức khỏe xương của trẻ.

Năm 2009, một nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên, có đối chứng đã được tiến hành

trên 55 trẻ em. Những trẻ này được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm 1 (28 trẻ)

được bổ sung 45mcg MK-7 (trong vòng 8 tuần và nhóm 2 được bổ sung giả

dược. Nồng độ ucOC, cOC và MK-7 trong huyết thanh sẽ được đo lường vào

trước khi can thiệp và sau 8 tuần. Sau 8 tuần được bổ sung vitamin K2 dưới dạng

MK-7, lượng ucOC trong máu giảm đi, chỉ số UCR được cải thiện trong khi hàm

lượng MK-7 tăng cao. Các chỉ số này ở nhóm nhận giả dược không thay đổi sau

8 tuần. Kết quả này chứng minh rằng, ở trẻ em khỏe mạnh, bổ sung liều vừa phải

vitamin K2 sẽ cải thiện tình trạng vitamin K của cơ thể và tăng số lượng

osteocalcin được carboxyl hóa [6]. Osteocalcin có chứa dư lượng của acid

glutamic (Gla), do vậy, có ái lực rất lớn với các canxi ion. Tăng được lượng

11

osteocalcin của xương cũng tức là sẽ tăng được lượng canxi ion gắn vào xương,

giúp xương chắc khỏe hơn.

*Canxi

Canxi là một dưỡng chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong quá trình

điều hòa các enzyme thần kinh cơ, quá trình hình thành cục máu đông và tạo

nên độ cứng cho bộ xương cùng với các muối phosphat. Các vai trò phi cấu

trúc của canxi đòi hỏi sự cân bằng nghiêm ngặt canxi ion nội mô. Thiếu canxi

trong khẩu phần, hấp thu canxi kém và/hoặc mất quá nhiều canxi dẫn đến rối

loạn khoáng hóa tại xương. Thiếu canxi mạn tính (do hấp thu kém ở ruột non,

do khẩu phần ăn không đủ canxi…) là một trong những nguyên nhân quan trọng

dẫn đến giảm mật độ xương, gây bệnh loãng xương ở người lớn và còi xương

ở trẻ em. Canxi trong máu giảm thì cơ thể sẽ huy động canxi từ trong xương

vào máu để tham gia quá trình chuyển hóa, gây triệu chứng đau nhức các xương

đặc biệt các xương dài ở trẻ em đang tuổi phát triển, ngoài ra có thể gây tình

trạng mất ngủ, tính tình nóng nảy. Khi lượng canxi ăn vào dư thừa, canxi được

bài tiết ra khỏi cơ thể, vì thế hiếm gặp các trường hợp thừa canxi trong máu hay

tích tụ canxi trong mô. Khi dùng thuốc canxi liều cao có thể dẫn đến sỏi thận,

thận làm việc kém hiệu quả, giảm hấp thu các chất khoáng cần thiết khác (sắt,

kẽm, magie và phospho…) [15].

❖ Yếu tố vận động

Hormone tăng trưởng (GH) được giải phóng từ tuyến yên một cách

không liên tục và bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, giới tính, dinh dưỡng, giấc ngủ,

cấu tạo cơ thể, mức độ vận động thể dục và hormone steroid giới tính. Tập thể

dục và chơi thể thao là một cách kích thích sinh lý mạnh mẽ giúp giải phóng

GH. Cường độ và thời gian tập thể dục, kết quả của quá trình tập thể dục, khối

lượng cơ bắp được sử dụng trong khi tập thể dục và trạng thái tập luyện ảnh

hưởng đến phản ứng của GH với tập thể dục. Cường độ tập thể dục có thể đóng

12

một vai trò quan trọng, mỗi người cần đạt được cường độ tập thể dục cần thiết

trước khi cơ thể tiết ra thêm hormone GH. Nồng độ GH trong huyết tương tăng

trong vòng 10 phút đến 20 phút tập thể dục, đạt cực đại trong trong khi tập thể

dục hoặc ngay sau khi tập thể dục, và duy trì ở mức cao hơn mức cơ bản trong

khoảng 2 giờ sau khi tập thể dục [25].

Tóm lại, vận động là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc kích thích

cơ thể tăng trưởng và phát triển chiều cao nhờ vào việc là tác nhân thúc đẩy sự

sản sinh hormone GH giúp cơ thể tăng trưởng. Thường xuyên luyện tập thể

thao sẽ có ích cho việc phát triển chiều cao của trẻ em. Luyện tập thể thao sẽ

giúp cơ và xương chắc khỏe, giúp duy trì cân nặng hợp lý và kích thích sản xuất

hormone tăng trưởng GH.

❖ Yếu tố giấc ngủ

Có một vài nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa việc tăng trưởng chiều

cao và giấc ngủ. Giấc ngủ được cho là giúp giải phóng hormone tăng trưởng và

phục hồi cơ thể lúc ngủ. Khi ngủ cơ thể tiết ra lượng hormone tăng trưởng nhiều

gấp 4 lần khi thức. Khi con người đi vào giấc ngủ, hormone tăng trưởng mới sản

sinh ra, sau 1 tiếng lượng hormone sẽ đạt đỉnh, thường là từ 22 giờ cho tới 1 giờ.

Do vậy, nếu trẻ không ngủ đúng giờ sẽ bỏ lỡ quãng thời gian hormone tăng

trưởng tiết ra nhiều nhất và gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ. Trẻ 1-3

tuổi cần ngủ từ 12-14 giờ mỗi ngày, trẻ 3-6 tuổi sẽ cần phải ngủ đủ từ 10-12 giờ

mỗi ngày và trẻ 6-12 tuổi cần ngủ 10-11 giờ mỗi ngày. Do đó, thiếu ngủ là

nguyên nhân của chậm tăng trưởng chiều cao [26].

❖ Yếu tố bệnh tật

Dinh dưỡng và bệnh tật là hai đồng yếu tố ảnh hưởng đến chiều cao.

Thiếu dinh dưỡng cũng gây ra nhiều bệnh tật trong đó có nhiễm trùng. Ngược

lại, bệnh tật có thể làm giảm quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng, vận chuyển

các chất dinh dưỡng đến các mô cơ thể, là nguyên nhân trực tiếp gây ra thất

13

thoát chất dinh dưỡng, tăng nhu cầu chuyển hóa hoặc ảnh hưởng đến sự phát

triển và mật độ xương. Thật đúng như vậy, kém dinh dưỡng, tiêu chảy là những

lý do chính gây ra chậm tăng trưởng ở giai đoạn thơ ấu. Nhiễm trùng mà chủ

yếu là tiêu chảy, giun móc, và ký sinh trùng đường tiêu hóa có thể ảnh hưởng

đến sự phát triển chiều cao. Trong khi đó sốt và nhiễm trùng đường hô hấp cũng

làm mất chất dinh dưỡng và các bệnh gây viêm nhiễm có thể làm chậm sự tăng

trưởng của xương dài. Cùng với đó, viêm xoang cũng có liên quan đến sự suy

giảm tăng trưởng ở những nước thu nhập cao cũng như làm tăng tỷ lệ mắc bất

cứ bệnh nào ở giai đoạn thơ ấu. Không chỉ vậy, quá trình điều trị một số bệnh

cũng làm chậm sự phát triển thể chất của trẻ [27].

❖ Yếu tố khác.

Tầng lớp xã hội của cha mẹ, điều kiện kinh tế nghèo nàn và trình độ học

vấn của mẹ là những yếu tố vô cùng quan trọng với sự phát triển chiều cao của

trẻ. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự tiếp cận các nguồn lực đời sống, tiếp

xúc với các yếu tố nguy cơ và hành vi sức khỏe của bà mẹ. Những yếu tố này

ảnh hưởng chật chẽ với dinh dưỡng và bệnh tật trong suốt hai giai đoạn vàng

phát triển của con người. Những thách thức trong sự phát triển của con người

như điều kiện sống nghèo nàn, nơi ở chật chội, khó tiếp cận đến dịch vụ y tế,

thực hành kém trong nuôi dưỡng trẻ, thực phẩm có sẵn nghèo nàn và thức ăn đồ

uống kém an toàn đều có ảnh hưởng đến mạng lưới dinh dưỡng.

Tuy nhiên sự phụ thuộc của chiều cao đối với tình trạng kinh tế xã hội sẽ

được cải thiện khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển hơn. Tuy vậy mối liên

quan giữa chiều cao trung bình và thu nhập không phải là đường tuyến tính và

chiều cao trung bình của quần thể có thể phụ thuộc vào sự phân bố tình trạng

kinh tế xã hội. Sự thay đổi điều kiện kinh tế sẽ giúp trẻ em gia tăng chiều cao,

trong khi ở những gia đình giàu có chiều cao có thể không thay đổi vì họ vốn

dĩ đã được tích lũy dinh dưỡng và phát triển tốt [28]. Một nghiên cứu về những

14

yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng phát triển chiều cao ở các nước châu Âu cho

thấy có mội liên quan thuận chiều giữa thu nhập bình quân đầu ngưới đến xu

hướng phát triển chiều cao, giữa chỉ số bình đẳng xã hội, mức độ chi trả cho y

tế, đô thị hóa với xu hướng phát triển chiều cao [29].

1.2. Tình trạng dinh dưỡng và phát triển chiều cao

1.2.1. Trên thế giới

1.2.1.1. Thực trạng về tình trạng cân nặng theo tuổi

Tiểu học là một giai đoạn đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp dinh

dưỡng cho học sinh bởi đó là thời gian xây dựng cơ thể để chuẩn bị cho sự tăng

trưởng nhanh chóng của tuổi vị thành niên. Hơn 30% dân số thế giới đang phát

triển bị ảnh hưởng từ sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng vẫn là vấn

đề sức khỏe nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao trong tỷ lệ tử vong của trẻ em với gần

1/3 số trẻ em trên thế giới đang bị SDD thể nhẹ cân và thấp còi. Dữ liệu trên toàn

thế giới từ 2416 nghiên cứu đã được các nhà nghiên cứu đánh giá và tổng hợp

để tạo ra một mô hình hoàn chỉnh nhất về tỷ lệ SDD nhẹ cân của 31,5 triệu trẻ từ

5 đến 19 tuổi đã thay đổi như thế nào trong những năm 1975 đến năm 2016. Kết

quả cho thấy, 192 triệu trẻ em hiện đang mắc phải tình trạng SDD nhẹ cân ở mức

độ vừa và nặng trong năm 2016 [30].

Theo số liệu của điều tra dinh dưỡng ở khu vực Đông Nam Á

(SEANUTS) gồm 16744 trẻ em từ 6 tháng đến 12 tuổi tại 4 nước Indonesia,

Malaysia, Việt Nam, Thái Lan từ năm 2010-2012, SDD nhẹ cân vẫn là một vấn

đề cần quan tâm tại các khu vực nông thôn ở Việt Nam và Indonesia. Sự khác

biệt ở hai khu vực nông thôn và thành thị ở hai quốc gia còn lại không quá lớn.

Tại Indonesia, nhìn chung tỷ lệ SDD nhẹ cân giảm trong khi tỷ lệ thừa cân đang

dần tăng. Theo số liệu của điều quốc gia về sức khỏe, tỷ lệ SDD nhẹ cân của

học sinh tại quốc gia này đang là 12,1% vào năm 2007. Tỷ lệ này sau đó giảm

nhẹ còn 11,2% vào năm 2013 [31].

15

1.2.1.2. Thực trạng về tình trạng chiều cao theo tuổi

Vào năm 2016, 87 triệu trẻ SDD thấp còi sống tại Châu Á, 59 triệu tại

Châu Phi và 6 triệu tại khu vực Mỹ Latinh và Caribe. Trong đó, 5 khu vực có tỷ

lệ này cao trên 30% là Tây Phi (31,4%), Trung Phi (32,5%), Đông Phi (36,7%),

Nam Á (34,1%) và Châu Đại Dương (38,3%). Đặc biệt ở Châu Á và Châu Đại

Dương tỷ lệ này được cho có quá trình giảm tỷ lệ SDD thấp còi ở mức thấp [32].

Một nghiên cứu tổng quan hệ thống thực hiện trong giai đoạn 2006-2016

tại khu vực Châu Phi hạ Saraha. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD cao nhất

tại các khu vực phía Đông và phía Tây Châu Phi so với mục tiêu phát triển thiên

niên kỷ của WHO năm 2015. Tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ em cao nhất tại Burundi

(57,7%) và Malawi (47,1%) ở phía Đông Phi; Niger (43,9%), Mali (38,3%), Sierra

Leone (37,9%) và Nigeria (36,8%) tại các nước ở khu vực Tây Phi [33].

Trên thế giới, Châu Á được đánh giá là khu vực có tỷ lệ phần trăm trẻ

dưới 5 tuổi bị SDD nhẹ cân, thấp còi và gầy còm rất cao với 103,5 triệu trẻ thấp

còi, 39,2 triệu trẻ gầy còm và 76,6 trẻ nhẹ cân theo số liệu năm 2011. Trong số

năm khu vực ở Châu Á, Đông Nam Á là khu vực được xếp thứ hai có tỷ lệ SDD

thấp còi là 29,4% với 15,6 triệu trẻ; tỷ lệ SDD gầy còm là 9,4% với 5 triệu trẻ

và tỷ lệ SDD nhẹ cân là 18,3% với 9,7 triệu trẻ [34].

1.2.1.3. Thực trạng về tình trạng thừa cân béo phì

Trên thế giới, thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ thứ 5 gây tử vong

với 2,8 triệu người trưởng thành tử vong hàng năm. Bên cạnh đó, 44% bị béo

phì, 23% thiếu máu cục bộ ở tim và từ 7% đến 41% mắc một số bệnh ung thư

có nguyên nhân từ thừa cân và béo phì. Trong 3 thập kỷ qua (1980-2010) số ca

béo phì đã tăng gấp đôi trên toàn thế giới. Tỷ lệ thừa cân béo phì đang trở thành

mối đe dọa hàng đầu đối với sức khỏe trẻ em hiện nay trên thế giới, đặc biệt là

đối với những nước đang phát triển chứ không còn ở những quốc gia công

nghiệp hóa. Theo kết luận của một điều tra đa quốc gia về tỷ lệ béo phì, sự thay

16

đổi lối sống ảnh hưởng không hề nhỏ đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đặc

biệt là lối sống phương Đông. Gần 80% người Thái Lan hiện nay đang sở hữu

điện thoại di động, trẻ em chơi game, xem tivi nhiều hơn các hoạt động ngoài

trời như trước đây. Và bởi vậy, chúng ta nhìn thấy sự tăng nhanh một cách đáng

kể tỷ lệ béo phì tại quốc gia này [35].

1.2.1.4. Thực trạng về tăng trưởng chiều cao của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi

Trên thế giới, vấn đề về nghiên cứu hình thái sinh lý ở người mà cụ thể

là cân nặng và chiều cao đã được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm và ngày

nay càng trở nên đa dạng, phong phú để dựa vào đó có thể đưa ra các chỉ số

chuẩn cho con người hiện đại, làm cơ sở cho các chương trình giáo dục, chăm

sóc hay hoạch định các chiến lược phát triển xã hội trong tương lai.

Một nghiên cứu được thực hiện trên 141 quốc gia bao gồm cả thu nhập

thấp và thu nhập trung bình trong giai đoạn từ 1985 đến 2011 để đánh giá xu

hướng chiều cao theo tuổi và cân nặng theo tuổi của trẻ em đã được tiến hành.

Kết quả cho thấy trẻ em ở thành thị có cân nặng và chiều cao cao hơn trẻ em ở

các khu vực nông thôn. Điều này đúng ở hầu hết các quốc gia tham gia vào

nghiên cứu [36].

Một nghiên cứu đánh giá tại Nhật Bản và Hàn Quốc trong giai đoạn 50

năm, từ năm 1965-2005 ở Hàn Quốc và 1950-2010 ở Nhật Bản đã được thực

hiện nhằm đánh giá và ước tính các dữ liệu về chiều cao và cân nặng trung bình

theo giới tính ở các nhóm tuổi từ 1 đến 20. Kết quả cho thấy mô hình tăng

trưởng ở cả hai nước đã có sự thay đổi đáng kể trong suốt thời gian nghiên cứu,

ảnh hưởng không chỉ đến chiều cao cân nặng mà còn cả tuổi phát triển của trẻ.

Ở Hàn Quốc xu hướng dậy thì sớm hơn Nhật Bản và thời điểm dậy thì ở Nhật

ổn định vào những năm 1970. Hầu hết sự gia tăng chiều cao nhận thấy ở người

trưởng thành đã được tích lũy từ 1,5 tuổi; trong khi sự gia tăng cân nặng ở người

trưởng thành tích lũy trong suốt thời thơ ấu [37].

17

Indonesia là một quốc gia với rất nhiều lục địa, bao gồm nhiều biển đảo vây

quanh với sự đa dạng về sắc tộc. Một nghiên cứu được thực hiện trên 300000 trẻ

em và thanh thiếu niên nhằm đánh giá cân nặng và chiều cao đã được thực hiện

tại quốc gia này vào năm 2018. Kết quả cho thấy có sự khác biệt giữa chiều cao

tiêu chuẩn quần thể theo đánh giá của WHO và chiều cao của đa phần thanh thiếu

niên tại Indonesia. Ở cả hai giới, chiều cao của trẻ thấp hơn một chút và thời gian

trưởng thành sớm hơn so với tiêu chuẩn của WHO [38].

Ở trẻ em và thanh thiếu niên, 23,4% đạt được mức hoạt động thể chất so

với khuyến nghị. Mức hoạt động thể chất thường giảm theo tuổi, mắc dù mức

độ quan sát được trong nhóm 10-13 tuổi cao hơn một chút so với các nhóm

khác [39].

1.2.2. Tại Việt Nam

1.2.2.1. Thực trạng về tình trạng cân nặng theo tuổi

Tại Việt Nam, tỷ lệ SDD nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi có xu hướng giảm

dần trong khoảng 5 năm 2010-2015 từ 17,5% còn 14,1%, thành công trong việc

đạt được mục tiêu đặt ra cho năm 2015 (dưới 15%) và đặt ra hi vọng sẽ tiếp tục

giảm thiểu trong những năm tiếp theo [40].

Tại huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 2014, một nghiên cứu đánh giá tình

trạng dinh dưỡng của trẻ từ 6 đến 10 tuổi cho kết quả tỷ lệ gầy còm là 5,8%

theo chuẩn WHO 2007 [41]. Một nghiên cứu khác cũng thực hiện trên địa bàn

Hà Nội, huyện Thường Tín với 217 học sinh lớp 2,3,4 tham gia đã đánh giá với

8,3% trẻ SDD thể nhẹ cân. Tác giả tìm thấy có mối liên quan giữa các chỉ số

cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, tuổi của trẻ, canxi, vitamin A, chất bột

đường khẩu phần với điểm số trong thang điểm đánh giá [42].

Nghiên cứu về tình trạng nhân trắc của trẻ từ 6-9 tuổi được thực hiện tại

các vùng nông thôn, thành phố Hải Phòng chỉ ra một số kết quả với tỷ lệ trẻ

SDD nhẹ cân, thấp còi và gầy còm lần lượt là 8,0%, 5,1% và 5,3%. Theo nghiên

18

cứu, trình độ học vấn của người mẹ thấp có mối liên quan đến việc tăng cao tỷ

lệ SDD gầy còm và những thất bại trong nhân trắc học ở trẻ [43].

Một nghiên cứu về thực trạng SDD ở trẻ tiểu học tại tỉnh Hưng Yên sau

điều tra cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 6,8%. Trẻ của những gia đình có 3 con

trở lên có nguy cơ SDD nhẹ cân cao hơn so với những gia đình có 1-2 con. Bên

cạnh đó, trẻ có mẹ bị thiếu năng lượng trường diễn có nguy cơ SDD nhẹ cân

cao hơn so với những trẻ có mẹ không thiếu năng lượng trường diễn [3].

Tác giả Trương Quang Đạt và các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu mô

tả cắt ngang nhằm xác định một số chỉ số nhân trắc và dinh dưỡng của học sinh

tiểu học tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định năm 2016 và đã tìm ra một số

kết quả. Trong tất cả 2.139 học sinh từ 6-10 tuổi được tham gia vào nghiên cứu,

tỷ lệ học sinh nhẹ cân là 8,51% [44]. Tác giả cũng thực hiện một nghiên cứu

khác trên số lượng đối tượng lớn hơn với 6514 học sinh tham gia, kết quả

nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 10,79% [40].

1.2.2.2. Thực trạng về tình trạng chiều cao theo tuổi

Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em vẫn đang là một thách thức đối với công

tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trong những năm qua, mặc dù Việt Nam được

đánh giá là quốc gia thành công trong việc giảm nhanh tỷ lệ SDD trẻ em nói

chung và SDD thấp còi nói riêng, nhưng theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện vẫn

còn ở mức cao. Theo Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng 2011-2020 và tầm nhìn

2030 sẽ giảm tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi là 26% xuống còn 23% vào

năm 2020. Đến năm 2020, chiều cao của trẻ 5 tuổi tăng từ 1,5-2cm cho cả trẻ

trai/gái; chiều cao thanh niên tăng từ 1-1,5cm so với năm 2010 [45]. Tuy nhiên,

theo số liệu của WHO, so với một số nước lân cận và một số nước có cùng mức

thu nhập, tỷ lệ mắc SDD thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi ở Việt Nam vẫn ở mức cao:

19

Một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 750 trẻ từ 6 đến 10 tuổi được tiến

hành tại 3 xã, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên cho thấy tỷ lệ SDD thấp còi là

5,9% và SDD gầy còm là 11,3% [3].

Theo Nguyễn Minh Phương, năm 2017, nghiên cứu trên đối tượng trẻ từ

6-14 tuổi cho thấy trẻ thấp còi chiếm tỷ lệ 26,1%. Trẻ gái thấp còi chiếm tỷ lệ

31,4% cao hơn trẻ trai 20,6% [46].

Nghiên cứu vào năm 2017 về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em lứa tuổi

tiểu học được tiến hành trên 2008 học sinh tiểu học tại huyện Phú Bình, Thái

Nguyên. Kết quả cân nặng và chiều cao trung bình là 22,7 kg ±4,1; 123,3 cm

±6,7. Chỉ số BMI trung bình là 14,8 kg/m2±1,5. Có sự khác biệt về cân nặng,

chiều cao, chỉ số BMI giữa học sinh nam và nữ. Z-score trung bình cân

nặng/tuổi là -1,31±0,97; chiều cao/tuổi là -1,21 ± 0,85 và BMI/ tuổi là -

0,83±0,92. Tỷ lệ SDD thể thấp còi là 17,2% và thể gầy còm là 7,9% [47].

Việt Nam là quốc gia có sự giảm mạnh tỷ lệ trẻ em SDD thấp còi so với

nhiều quốc gia khác trong khu vực. Điều này góp phần không nhỏ bởi những

cố gắng trong công tác đảm bảo nguồn nước, vệ sinh, sự phát triển nông nghiệp

và tăng cường hệ thống y tế. Từ năm 2000 đến 2011, nguồn nước sạch có thể

đáp ứng cho người dân đã tăng từ 79% lên 99%. Cùng với đó, hệ thống y tế

được nâng cấp với 92,4% phụ nữ mang thai được sinh đẻ tại các cơ sở y tế vào

năm 2011 so với tỷ lệ này chỉ 63,8% năm 2006. Sự thành công này tại Việt

Nam đã chỉ ra được ảnh hưởng của các can thiệp nhạy cảm về dinh dưỡng, ví

dụ như tăng cường cung cấp nước sạch, vệ sinh, khả năng tiếp cận nguồn thức

ăn, khả năng tiếp cận y tế đến việc giảm thiểu tỷ lệ SDD thấp còi. Và bởi vậy,

những can thiệp về đời sống xã hội vẫn cần được tiếp tục song song với dinh

dưỡng trong những bước định hướng lâu dài cho tương lai [48].

1.2.2.3. Thực trạng về tình trạng thừa cân béo phì

20

Ở Việt Nam, thừa cân béo phì đang tăng nhanh và trở thành vấn đề sức

khỏe cần được quan tâm của cả cộng đồng ở thế kỷ XXI.

Nghiên cứu cắt ngang trên 1.236 học sinh (646 nam và 590 nữ) tại 6

trường tiểu học tại quận Thanh Xuân, Hà Nội với mục tiêu mô tả tình trạng

dinh dưỡng và xác định các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì ở

trẻ từ 6-20 tuổi đã đưa ra kết quả: tỷ lệ thừa cân và béo phì lần lượt là 23,8%

và 18,6%. Tỷ lệ này cao gấp nhiều lần tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm và thấp

còi tại khu vực nghiên cứu [49].

Một nghiên cứu các chỉ số thể lực của 1127 học sinh từ 6-10 tuổi ở thành

phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương cho thấy: các chỉ số thể lực của học sinh

tăng liên tục từ 6 đến 10 tuổi nhưng tốc độ tăng không đều giữa các độ tuổi và

giới tính. Chiều cao, cân nặng và vòng ngực của học sinh tăng nhanh nhất ở

giai đoạn 9-10 tuổi. Trong nhóm nghiên cứu, chỉ số BMI ở mức béo phì chiếm

tỷ lệ khá cao với 25,22% ở nam và 18,91% ở nữ [50].

1.2.2.4. Thực trạng về tăng trưởng chiều cao của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi

Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về nhân trắc học cũng bắt đầu từ rất sớm.

Các chỉ số về thể lực không phải là hằng định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào

môi trường tự nhiên và điều kiện xã hội, đáng kể nhất là chế độ sinh hoạt và

dinh dưỡng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với giai đoạn tiểu học, giai đoạn

đặt nền móng cho sự phát triển trong tương lai của trẻ.

Chiều cao là một trong những chỉ tiêu quan trọng thường được dùng

trong các cuộc điều tra thể lực ở người. Chiều cao chịu ảnh hưởng của nhiều

yếu tố như di truyền, dinh dưỡng, vận động thể lực… Theo WHO, chiều cao

đạt lúc 3 tuổi sẽ quyết định chiều cao khi trưởng thành, giai đoạn từ 3 đến 10

tuổi đóng vai trò quyết định đến 60% tiềm năng tăng trưởng chiều cao. Điều

này có nghĩa là trẻ càng được chăm sóc tốt ở những giai đoạn đầu tiên của cuộc

đời thì sự phát triển trong những giai đoạn tiếp theo càng thuận lợi hơn, hứa

21

hẹn chắc chắn chiều cao thanh thiếu niên Việt Nam ở các thế hệ sau sẽ có sự

tăng trưởng ở tốc độ nhanh. Hiện nay, sự phân chia các giai đoạn sinh trưởng

và phát triển ở trẻ em vẫn chưa thống nhất, tuy nhiên giai đoạn từ 7-10 tuổi có

những đặc điểm hình thái, sinh lý cơ bản, đây là nhóm tuổi nằm giữa hai mức

tăng trưởng là tuổi mẫu giáo và lứa tuổi dậy thì.

Sự khác biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn có thể được coi là một

ví dụ rất quan trọng về khoảng cách trong sự phát triển dân số. Một nghiên cứu

có sự tham gia của 1455 trẻ em tại khu vực Trung tâm Hà Nội và ngoại thành

thuộc Ba Vì, Hà Nội đã cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa quá

trình tăng trưởng với trình độ học vấn của người mẹ cũng như các nguồn lực

của gia đình, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn [51].

Nghiên cứu thực hiện tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định năm 2016

trên 2139 học sinh từ 6-10 tuổi với 1094 nam và 1045 nữ cho kết quả chiều cao

học sinh tăng trung bình 4,9cm ở nam và 5,63cm ở nữ/năm, cân nặng trung

bình tăng 2,71kg ở nam và 3kg ở nữ/năm [44].

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về đặc

điểm hình thái, thể lực con người nói chung và lứa tuổi học đường nói riêng

ngày càng phong phú. Tuy kết quả của các nghiên cứu có khác nhau nhưng đều

cho thấy được xu hướng thay đổi của các chỉ số theo hướng tích cực. Một trong

những nguyên nhân giúp chiều cao trẻ em Việt Nam tăng trưởng nhanh trong

thời gian qua là nhờ thành quả chương trình giảm SDD thấp còi. WHO và

UNICEF đánh giá Việt Nam là nước có mức giảm SDD rất ấn tượng, Theo

WHO, có hai thời kỳ chiều cao người Việt Nam thua kém chiều cao của các nước

là từ 6-12 tháng và lúc 6-11 tuổi. Do đó, để nâng cao tầm vóc người Việt cần có

những tác động phù hợp vào các giai đoạn tăng trưởng quan trọng này [45].

22

1.3. Biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương

1.3.1. Các biện pháp can thiệp

1.3.1.1. Các biện pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng

❖ Cải thiện chất lượng khẩu phần ăn

Đây là một trong những nội dung quan trọng trong nhiều năm liền của

Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng. Khẩu phần ăn của người Việt Nam nói chung

và trẻ em Việt Nam nói riêng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị dinh

dưỡng, đặc biệt là sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn [45].

Phát triển trong thời kỳ bào thai, phát triển thể lực trong giai đoạn trước

tuổi đi học rất quan trọng và là cơ sở cho phát triển trong giai đoạn vị thành

niên sau này. Vì vậy để phòng ngừa suy dinh dưỡng trẻ em, người ta đã chú

trọng vào can thiệp vào thời kỳ mang thai của người mẹ, bằng cách tăng cường

năng lượng ăn vào và cho thấy hiệu quả tốt trong việc giảm nguy cơ đẻ nhẹ cân

và chiều dài không đạt chuẩn.

Protein cần được chú ý đúng mức trong khẩu phần ăn của trẻ, vì protein

có vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và tình trạng miễn dịch của

trẻ. Thiếu protein thường dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng đi kèm với mắc

bệnh nhiễm trùng. Nếu protein trong khẩu phần giảm thấp tới 3%, chiều cao

ngừng phát triển và xuống cân. Vì vậy việc tăng cường năng lượng và các chất

dinh dưỡng thông qua thức ăn bổ sung cho trẻ cũng cần được chú ý đúng mức

trong vấn đề cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ [1].

❖ Bổ sung vi chất dinh dưỡng

Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và UNICEF đã khuyến cáo bổ sung vi chất

dinh dưỡng nên là một giải pháp cần thiết trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ

em. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh bổ sung vi chất dinh dưỡng có tác dụng

làm tăng tốc độ phát triển cân nặng và chiều cao của cơ thể, đặc biệt ở những trẻ

suy dinh dưỡng thể thấp còi. Các thống kê chung trên thế giới cũng cho kết luận

23

tương tự về hiệu quả của bổ sung vi chất dinh dưỡng đến phát triển chiều cao,

cân nặng của trẻ. Bổ sung vi chất dinh dưỡng đã và đang là một giải pháp trung

hạn, hiệu quả, bền vững nhằm thanh toán thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng, góp

phần vào công cuộc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em ở nước ta cũng như

trên thế giới. Các giải pháp này được thực hiện thông qua các chiến dịch bổ

sung vi chất, hoặc bằng các sản phẩm đã bổ sung vi chất và khoáng (muối iốt,

nước mắm bổ sung kẽm, nấu bằng nồi sắt). Nhóm biện pháp này được nhiều

nước nhìn nhận như là giải pháp lâu dài để phòng chống thiếu vi chất dinh

dưỡng và suy dinh dưỡng trẻ em. Các vi chất dinh dưỡng thường được bổ sung

bao gồm: vitamin A được bổ sung vào đường (Trung Mỹ), dầu ăn (Philippine,

Indonesia), mỳ ăn liền, thức ăn nhanh (Thái Lan) và cho kết quả khả quan trong

việc cải thiện chiều cao [32].

❖ Cải thiện dịch vụ y tế

Các nghiên cứu kinh điển đã chỉ ra vòng luẩn quẩn giữa suy dinh dưỡng

và nhiễm khuẩn, và khẳng định rằng nhiễm khuẩn, mà trong đó nhiễm khuẩn

hô hấp và tiêu chảy thường gặp nhất, là nguyên nhân trực tiếp của suy dinh

dưỡng ở trẻ em. Chính vì vậy phòng chống bệnh tật cũng như chăm sóc trẻ ốm

đúng cách sẽ góp phần không nhỏ trong việc hạn chế nguy cơ suy dinh dưỡng

ở trẻ em. Tuyên truyền vệ sinh (đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường,

vệ sinh trong ăn uống, chế biến thực phẩm) có tác dụng hữu hiệu đến việc giảm

thiểu nguy cơ mắc bệnh; Phổ biến kiến thức nuôi trẻ khoa học trong khi mắc

bệnh (cung cấp bữa ăn đủ dinh dưỡng, phù hợp với thể trạng trẻ, không kiêng

khem bất hợp lý) để giúp cho trẻ có một thể lực tốt để chống đỡ với bệnh tật,

không bị suy dinh dưỡng là các nội dung được cho là rất cần thiết trong việc

phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.

1.3.1.2. Các biện pháp cải thiện sức khỏe xương

24

Trong suốt giai đoạn thơ ấu và vị thành niên, bộ xương của con người đã

trải qua những biến đổi mạnh mẽ trong đó có quá trình phá hủy xương và tái

tạo lại xương giúp hình thành nên bộ xương của người trưởng thành và giúp

con người đạt đỉnh khối lượng xương. Tối ưu hóa quá trình đạt đỉnh khối lượng

xương đòi hỏi sự phối hợp tương tác thích hợp giữa các yếu tố môi trường, chế

độ dinh dưỡng, hormone và sự ảnh hưởng của bộ gen. Rất nhiều tình trạng bệnh

tật cấp và mạn tính cũng như tính đa hình của bộ gen có liên quan đến sự suy

giảm mật độ xương, làm gia tăng nguy cơ gẫy xương cả ở giai đoạn thơ ấu và

trưởng thành sau này [52].

Khối lượng xương được xác định bởi sự tương tác phức tạp giữa yếu tố

môi trường, hành vi và yếu tố gen chi phối. Yếu tố gen đóng góp khoảng 60-

80% vào việc hình thành đỉnh khối lượng xương mặc dù việc nhận diện các gen

tham gia vào quá trình này vẫn chưa được xác định rõ [53].

Yếu tố môi trường và hành vi chiếm 20-40% còn lại ảnh hưởng đến khối

lượng xương. Trong đó yếu tố dinh dưỡng đặc biệt là canxi và vitamin D cũng

như hoạt động thể lực vô cùng quan trọng. Ngoài ra những dưỡng chất khác

như vitamin K, đồng, protein, phospho, magie, mangan, kẽm sắt và năng lượng

cũng có ảnh hưởng đến sự khỏe mạnh của xương. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ

ra mối liên quan giữa vận động và mật độ xương ở vận động viên (thể dục dụng

cụ, tenis), trong đó việc tăng cường hoạt động này giúp tăng mật độ xương,

kích thước và độ chắc khỏe của xương trong giai đoạn phát triển.

❖ Bổ sung Canxi

Quá trình tăng trưởng của trẻ em luôn cần lượng canxi tính trên trọng

lượng cơ thể cao gấp hai đến bốn lần so với người trưởng thành. Lượng canxi

nạp vào mỗi ngày khoảng 1600mg/ ngày sẽ tạo ra sự cân bằng canxi lên đến

300mg/ngày. Nghiên cứu theo dõi 160 trẻ từ 8-12 tuổi ở Gambia sau khi được

bổ sung canxi carbonate trong vòng 12 tháng (1000mg canxi, 5 ngày/tuần)

25

trong vòng 12 năm. Kết quả cho thấy, ở trẻ trai, sự phát triển chiều cao ở lứa

tuổi dậy thì tốt hơn khi được bổ sung canxi. Bổ sung canxi giúp các bé trai có

tầm vóc tốt hơn khi 15,5 tuổi (tăng 2,0 ± 0,8cm, p=0,01) và sẽ đạt được chiều

cao tối đa sớm hơn 7,4±2,9 tháng. Điều này sẽ đi kèm với việc nhóm được bổ

sung canxi sẽ ngừng phát triển sớm hơn (p=0,02) và sẽ thấp hơn 3,5±1,1cm khi

ở độ tuổi 23,5. Cân nặng và chu vi vòng cánh tay cũng tăng tương ứng với chiều

cao. Không có tác dụng đáng kế nào theo dõi được ở các bé gái [54].

❖ Bổ sung Canxi kết hợp Vitamin D

Vitamin D được biết đến bởi khả năng kích thích việc hấp thụ canxi. Tuy

nhiên, thực tế có nhiều dạng vitamin D, mỗi dạng có ảnh hưởng khác nhau

trong hoạt động chuyển hóa canxi. Có hai dạng vitamin D chính: Vitamin D2

(ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Trong đó, vitamin D3 được

tổng hợp dưới da nhờ tia cực tím. Ánh sáng mặt trời chuyển tiền vitamin D (7-

dehydrocholesterol) thành vitamin D3 (cholecalciferol). Sau đó vitamin D3

được vận chuyển đến gan và được chuyển đổi bởi enzyme thành 25-

hydroxycholecalciferol, chất này có hoạt tính gấp 5 lần cholecalciferol. Một

enzyme trong thận tiếp tục chuyển đổi 25-hydrocholecalciferol thành 1,25-

dihydroxycholecalciferol, chất này có hoạt tính gấp 10 lần cholecalciferol và là

dạng có hoạt tính nhất của vitamin D3 [55].

❖ Bổ sung Canxi kết hợp Vitamin D và Vitamin K2

Vitamin K là một nhóm vitamin tan trong dầu, bao gồm nhiều loại

vitamin có cấu trúc giống nhau, bao gồm phylloquinone (vitamin K1),

menaquinones (vitamin K2) và menadion (vitamin K3). Vitamin K2 là một

nhóm các loại vitamin thường được gọi là menaquinones (viết tắt là MK), được

tổng hợp và sản xuất ra bởi vi khuẩn đường ruột của các loại động vật có xương

sống. Một chức năng quan trọng khác của vitamin K mới được phát hiện đó là

tham gia vào quá trình chuyển hóa xương. Xương là một cấu trúc cứng ở bên

26

ngoài và bao gồm một ma trận xốp của các mô bên trong. Xương được coi là

một cấu trúc sống. Toàn bộ xương sẽ được thay thế từ 7-10 năm một lần. Trong

quá trình tái tạo xương, cơ thể sẽ giải phóng canxi từ xương vào máu để đáp

ứng nhu cầu chuyển hóa của cơ thể, giúp xương thay đổi kích thước, hình dạng

khi xương phát triển hơn hoặc hồi phục sau chấn thương. Quá trình tái tạo

xương được điều chỉnh bởi quá trình tạo cốt bào (osteoblasts) hay còn gọi là

quá trình hình thành xương và quá trình hủy cốt bào (osteoclasts) còn gọi là quá

trình phá hủy xương. Miễn là quá trình hình thành xương xảy ra nhiều hơn quá

trình phá hủy xương, thì cấu trúc khỏe mạnh của xương sẽ được duy trì [56].

❖ Tập luyện

Các kết quả nghiên cứu và nhiều hướng dẫn ủng hộ việc hoạt động thể

lực giúp tối ưu hóa sự phát triển xương của nam giới.

1.3.2. Một số nghiên cứu về cải thiện tình trạng dinh dưỡng và mật độ xương

Tại Việt Nam, nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em mẫu giáo

và học sinh tiểu học, Chương trình Sữa học đường đã ra đời giúp trẻ được uống

sữa hàng ngày, nhằm làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao tầm vóc, thể lực

của trẻ em Việt Nam, góp phần phát triển nguồn nhân lực trong tương lai.

Chương trình này đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong việc cải thiện chiều

cao, tầm vóc của trẻ em Việt Nam. Nghiên cứu tại 6 trường mẫu giáo được triển

khai Chương trình Sữa học đường tại Nghệ An cho thấy: đối với học sinh mẫu

giáo: tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm 2,8% (p<0,05), tỷ lệ suy dinh dưỡng

thấp còi giảm 1,4%, tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm giảm 1%. Z-score cân

nặng/tuổi, cân nặng/chiều cao được cải thiện có ý nghĩa thống kê khi so sánh

giữa thời điểm trước và sau can thiệp. Đối với học sinh tiểu học, tỷ lệ suy dinh

dưỡng nhẹ cân giảm 3,1% (p<0,05), suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm 1,5% và

suy dinh dưỡng thể gầy còm giảm 1% ở nhóm can thiệp sử dụng sữa tươi bổ

sung vi chất. Chiều cao của nhóm can thiệp được cải thiện, tăng 0,4cm cao hơn

27

so với nhóm chứng. Ngoài những thay đổi về tăng trưởng, chương trình Sữa

học đường còn giúp cải thiện khẩu phần canxi, tăng 219mg/ngày, khẩu phần

vitamin D tăng 2,13mcg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ Ca/P được cải

thiện rõ rệt (0,46 lên 0,9), giúp hỗ trợ sự hấp thu canxi được tốt hơn [57].

Vitamin D có vai trò nhất định đối với sự phát triển ở trẻ. Thiếu vitamin

D ở trẻ nhỏ có thể gây chậm tăng trưởng ở trẻ nhỏ và gây ra những dấu hiệu và

triệu chứng điển hình của bệnh còi xương [58].

Bổ sung vitamin D cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ ở độ tuổi đến trường có thể

giúp trẻ tăng trưởng và phát triển tốt hơn. Sau thử nghiệm bổ sung Vitamin D

cho trẻ sơ sinh ở Delhi (DIVIDS), trẻ em tiếp tục được theo dõi ở thời điểm 3-

6 tuổi để khảo sát tác dụng lâu dài của can thiệp. 446 trẻ ở nhóm bổ sung vitamin

D và 466 trẻ ở nhóm giả dược đã tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy, chỉ

số khối cơ thể Z-score (BMIZ) thấp hơn (p hiệu chỉnh =0,003) ở nhóm được

bổ sung vitamin D (-1,18± 0,92) khi so sánh với nhóm chứng (-1,02 ± 0,91).

Điều này cho thấy nhóm bổ sung vitamin D có cân nặng ít hơn một chút và cao

hơn một chút so với nhóm chứng. Nhóm bổ sung vitamin D cũng có chu vi

vòng đùi thấp hơn, vùng cơ cánh tay và chu vi vòng cánh tay trên thấp hơn.

Không có sự khác biệt về lượng mỡ trong cơ thể, huyết áp và chỉ có một vài

khác biệt về các chỉ số phát triển vận động ở 2 nhóm. Nghiên cứu này đi đến

kết luận rằng, bổ sung vitamin D cho trẻ sơ sinh có cân nặng sơ sinh thấp có

thể khiến trẻ gầy hơn khi 3-6 tuổi nhưng không gây ra sự khác biệt gì về các

hoạt động chức năng [59].

Một nghiên cứu trên 105 trẻ trong độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi đang điều trị

hormone GH ở bệnh viện được bổ sung thêm vitamin D 500 IU, 2 lần một ngày

trong vòng 12 tháng sau khi điều trị hormone, thấy mức độ tăng trưởng tăng

thêm trong vòng 2 năm vừa điều trị bằng GH vừa bổ sung vitamin D, cụ thể là

mức độ tăng chiều cao trung bình từ 5,5 cm mỗi năm tăng lên thành 8,5 cm mỗi

28

năm. Nghiên cứu cũng kết luận rằng vitamin D góp phần thúc đẩy quá trình

tăng trưởng ở trẻ em [60].

Nghiên cứu tại Phần Lan cho thấy, 71% số trẻ từ 7-19 tuổi bị thiếu

vitamin D (25(OH)D huyết thanh dưới 50nmol). Hàm lượng 25(OH)D trung

bình cho trẻ nữ là 41nmol/L và với trẻ nam là 45 nmol/L. Mức độ bổ sung

vitamin D ở trẻ nữ là 9,1mcg/ngày và ở trẻ nam là 10mcg/ngày. Phân tích hồi

quy sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng cho thấy, mức độ tập trung

25(OH)D có thể giải thích được cho 5,6% sự khác biệt trong mật độ khoáng

chất ở xương đùi, 25(OH)D và mức độ luyện tập thể thao có thể giải thích được

7,6% sự khác biệt về mật độ khoáng chất tại xương hông và 17% sự khác biệt

về tổng mật độ khoáng chất trong xương trên toàn cơ thể. Nghiên cứu này đi

đến kết luận rằng, mặc dù trẻ được bổ sung vitamin D nhiều hơn lượng khuyến

nghị một ngày, nhưng tình trạng thiếu vitamin D vẫn có thể xảy ra. Tình trạng

vitamin D của cơ thể là một yếu tố quan trọng để đánh giá hàm lượng khoáng

chất trong xương. Từ đó nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết cần bổ sung vitamin D

cho trẻ nhỏ để tối đa hóa sức khỏe xương cho trẻ [61].

Thiếu vitamin D có ảnh hưởng nhiều mặt đến chức năng và sức mạnh

cơ. Một nghiên cứu đã tìm hiểu ảnh hưởng của thiếu vitamin D trầm trọng đến

mức chuyển hóa năng lượng cao ở cơ xương trong trạng thái nghỉ, thông qua

đó giám sát đáp ứng của việc bổ sung vitamin D bằng phổ cộng hưởng từ

(MRS). Nhiên cứu được thực hiện trên 19 người có sức khỏe bình thường

nhưng mức 25(OH)D (sản phẩm sau khi chuyển hóa vitamin D) trong huyết

thanh thấp (<5 ng/ml). Đối tượng được cung cấp vitamin D3 theo liều

60.000 IU/tuần trong vòng 12 tuần. Kết quả phổ cộng hưởng từ cho chỉ số về

phosphat vô cơ (Pi), phosphocreatine (PCr), phosphodiester (PDE) và ATP của

bắp chân được lấy từ trước vào sau khi bổ sung vitamin D. Tỉ lệ PCr/Pi (dấu

hiệu xác nhận chức năng ty thể trong cơ) tăng đáng kể trong khi [Pi] và

29

PDE/ATP giảm đi và (OH)D trong huyết thanh tăng lên sau 12 tuần dùng thuốc.

Nghiên cứu cho thấy lượng 25(OH)D đóng một vai trò quan trọng trong cải

thiện chuyển hóa năng lượng cơ xương. Thiếu vitamin D có thể là một trong

những lý do chính đối với tỉ lệ PCr/Pi thấp và PDE cao [62].

Kanellakis và cộng sự nghiên cứu hiệu quả của các sản phẩm sữa được

bổ sung canxi, vitamin D3 và vitamin K1 hoặc vitamin K2 lên quá trình chuyển

hóa xương ở phụ nữ sau mãn kinh trong thời gian 12 tháng can thiệp. 173 phụ

nữ tuổi từ 55-65 được chia ngẫu nghiên vào 4 nhóm: nhóm đối chứng, cả 3

nhóm can thiệp đều được bổ sung 800mg canxi và 10mcg vitamin D3 (CaD),

ngoài ra, một nhóm sẽ được bổ sung thêm 100mcg vitamin K1 (nhóm CaDK1)

và một nhóm sẽ được bổ sung 100mcg vitamin K2 (nhóm CaDK2). Sau can

thiệp, nồng độ 25 (OH)D huyết thanh đều tăng ở cả 3 nhóm can thiệp. Ngoài

ra, nhóm CaDK1 và CaDK2 có chỉ số UCR (ucOC:cOC) giảm đáng kể so với

nhóm CaD và nhóm chứng. Tất cả các nhóm can thiệp đều tăng khối lượng

xương trên toàn cơ thể so với nhóm chứng (p<0,05), trong khi tăng khối lượng

xương vùng cột sống thắt lưng chỉ quan sát thấy ở nhóm CaDK1 và CaDK2 so

với nhóm chứng (p<0,05). Do vậy, có thể kết luận rằng, quá trình chuyển hóa

xương và khối xương thay đổi một cách tích cực ở nhóm sử dụng các sản phẩm

sữa có bổ sung vitamin K1 và K2 [63].

Tại Việt Nam, các can thiệp về dinh dưỡng thường ít khi được tiến hành

trên trẻ em độ tuổi đến trường, mặc dù đây là nhóm đối tượng có tỷ lệ thiếu vi

chất dinh dưỡng cao [64]. Nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Liên và cộng sự đăng

trên tạp chí Dinh dưỡng Châu Á Thái Bình Dương tiến hành trên 454 trẻ từ 7-

8 tuổi cho thấy, sau 6 tháng can thiệp với sữa được bổ sung 156mg canxi, 4,4

IU vitamin A và 0,7 IU vitamin D3, cả cân nặng theo tuổi và chiều cao theo

tuổi của trẻ đều được cải thiện. Tỷ lệ nhẹ cân vào thấp còi giảm 10% ở nhóm

được can thiệp sữa. Trẻ ở nhóm được can thiệp sữa cũng có trí nhớ ngắn hạn

30

tốt hơn so với trẻ ở nhóm chứng. Cha mẹ của trẻ trong nhóm này cũng báo cáo

lại rằng, chất lượng cuộc sống của trẻ được cải thiện đáng kể sau khi được can

thiệp sữa. Nghiên cứu này cho thấy rằng, sữa được bổ sung vi chất dinh dưỡng

sẽ đem lại lợi ích cho trẻ em ở vùng nông thôn Việt Nam, bao gồm làm giảm

tỷ lệ nhẹ cân, thấp còi, cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng, có các chỉ số về

học tập tốt hơn cũng như cải thiện được chất lượng cuộc sống của trẻ

[65].Nghiên cứu tương tự của Nguyễn Trung Hiếu và cộng sự đã nhận thấy sự

cải thiện về chiều cao theo cân nặng Z-score của trẻ lứa tuổi đi học tại Quảng

Nam được cải thiện sau khi được bổ sung bánh quy có chứa 50% nhu cầu

khuyến nghị vitamin A của trẻ 9 tuổi, 20% nhu cầu khuyến nghị canxi và

vitamin D, và 7% nhu cầu vitamin K [64].

Vi chất dinh dưỡng cũng rất cần thiết để thực hiện các hoạt động thể chất

và nâng cao thành tích thể thao. Hiệu quả của thức uống dinh dưỡng bổ sung đa

vi chất dinh dưỡng lên kết quả tập luyện thể thao ở trẻ em độ tuổi đi học đã được

tiến hành trong nghiên cứu của Vaz và cộng sự. 300 trẻ em 7-10 tuổi được chia

ngẫu nhiên vào 3 nhóm: nhóm được uống bột cacao bổ sung vi 19 loại chất dinh

dưỡng (nhóm F), nhóm được uống một loại đồ uống khác, cung cấp lượng năng

lượng tương đương (nhóm U) và nhóm chứng (nhóm C). Can thiệp được tiến hành

trong 120 ngày. Các chỉ số đầu ra đo lường bao gồm sức bền, khả năng tập aerobic,

sức bền cánh tay, tốc độ chạy nước rút 40m, tốc độ phản ứng, lực bóp của bàn tay.

Ở nhóm F, có sự tăng đáng kể khả năng luyện tập aerobic và sức bền toàn cơ thể

(p<0,05), cùng lúc đó cải thiện tình trạng dinh dưỡng của cơ thể, so với sự thay

đổi ở nhóm U và nhóm C. Nghiên cứu này gợi ý rằng bổ sung đa vi chất dinh

dưỡng cho trẻ lứa tuổi đi học có thể có lợi cho việc cải thiện tình trạng vi chất dinh

dưỡng và tăng cường sức bền, khả năng luyện tập aerobic của trẻ [66].

Nghiên cứu tại Hàn Quốc với đối tượng là phụ nữ trên 60 tuổi về tác

dụng của việc bổ sung phối hợp vitamin K+vitamin D+canxi lên sức khỏe

31

xương. Trong nghiên cứu này, 38 phụ nữ sẽ được bổ sung 15mg vitamin K2 3

lần/ngày + 400 IU vitamin D 1 lần/ngày và 315mg canxi 2 lần/ngày trong vòng

6 tháng. 40 phụ nữ trong nhóm đối chứng sẽ chỉ được bổ sung vitamin D và

canxi. Các đặc điểm về xương của tất cả các phụ nữ trước khi được bổ sung vi

chất dinh dưỡng đều như nhau. Sau 6 tháng can thiệp, mật độ khoáng chất trong

cột sống thắt lưng thứ 3 của phụ nữ nhóm được bổ sung vitamin K cao hơn

đáng kế so với nhóm đối chứng (0,01±0,03g/cm2 so với -0,008±0,04g/cm2,

p<0,05). Mức độ tập trung của ucOC cũng giảm đi đáng kể ở nhóm được bổ

sung vitamin K (giảm 1,6±1,6ng/dL so với giảm 0,4±1,1ng/dL, p=0,008). Tác

giả nghiên cứu đưa ra kết luận, bổ sung vitamin K kết hợp với vitamin D và

canxi ở phụ nữ Hàn Quốc sau mãn kinh sẽ làm tăng mật độ khoáng trong xương

sống vùng thắt lực và giảm mức độ tập trung của ucOC trong xương [67].

Martin N. và cộng sự tiến hành một nghiên cứu theo dõi trong vòng 5

năm trên 833 nam giới với độ tuổi trung bình là 24,1 +- 0,6, sử dụng bộ câu hỏi

tự trả lời để thu thập thông tin về mô hình hoạt động thể lực hàng ngày của

những nam giới tham gia nghiên cứu. Đồng thời những đối tượng này cũng

được đo mật độ xương (BMD) và khối lượng xương (BMC) bằng phương pháp

DEXA. Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu có 529 đối tượng có vận động thể

thao hàng ngày và 304 đối tượng không có bất cứ một hoạt động nào liên quan

đến thể thao. Kết quả của nghiên cứu cho thấy càng tăng vận động thì khối

lượng xương của toàn cơ thể, tăng mật độ xương ở cột sống và toàn bộ vùng

xương chậu với p < 0,001. Từ đó các tác giả kết luận tăng vận động có liên

quan đến sự phát triển tích cực của mật độ xương và tập thể dục có tác dụng tối

ưu hóa việc đạt đỉnh khối lượng xương ở nam thanh niên [68].

32

CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Tiêu chuẩn và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu

2.1.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ

Theo Hướng dẫn đánh giá và quản lý trẻ em tại các cơ sở chăm sóc sức

khỏe ban đầu nhằm ngăn ngừa thừa cân và béo phì trong bối cảnh gánh nặng

kép về suy dinh dưỡng của WHO năm 2017 [69]: Sử dụng các số đo tháng tuổi,

cân nặng, chiều cao của trẻ tính toán: cân nặng theo tuổi (WAZ), chiều cao theo

tuổi (HAZ) và cân nặng theo chiều cao (WHZ) và so sánh với phân loại theo

WHO 2005 [70].

Tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi

Chỉ số và điểm ngưỡng so sánh với giá trị trung vị của chuẩn tăng trưởng trẻ em của WHO

Béo phì WHZ > 3 độ lệch chuẩn của trung vị (SD)

Thừa cân 2SD < WHZ ≤ 3SD

SDD nhẹ cân mức độ vừa -3SD ≤ WAZ < -2SD

SDD nhẹ cân mức độ nặng WAZ < -3SD

SDD thấp còi mức độ vừa -3SD ≤ HAZ ≤ -2SD

SDD thấp còi mức độ nặng HAZ < -3SD

SDD gầy còm mức độ vừa -3SD ≤ WHZ ≤ -2SD

SDD gầy còm mức độ nặng WHZ < -3SD

2.1.2. Quy ước trẻ chậm tăng trưởng chiều cao

Trong nghiên cứu này, trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao được quy ước

là những đối tượng có chỉ số Z-score chiều cao theo tuổi (HAZ) nằm trong

khoảng từ trên -3SD đến -1SD theo tiêu chuẩn WHO 2005 [70]. Trong đó, những

trẻ có chỉ số HAZ nằm trong khoảng -3SD

33

còi, còn những trẻ có chỉ số HAZ nằm trong khoảng -2SD≤HAZ≤-1SD được

quy ước là nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi (còn được gọi là SDD thấp còi mức

độ nhẹ [71],[72]).

2.1.3. Sức khỏe xương

Sức khỏe xương được đánh giá qua các chỉ số chính liên quan đến xương

bao gồm: mật độ xương (BMD), khối lượng xương (BMC), vitamin D, canxi

ion và osteocalcin [73],[74].

2.1.4. Quy ước về các mốc thời gian sử dụng trong nghiên cứu

Đối với mục tiêu 3 của nghiên cứu về đánh giá hiệu quả bổ sung Vitamin

K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe

xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên

cứ, các thời điểm đánh giá trong thời gian tiến hành can thiệp được quy ước

như sau:

- Thời điểm đánh giá trước can thiệp: T0

- Thời điểm đánh giá sau khi can thiệp được 3 tháng: T3

- Thời điểm đánh giá sau khi can thiệp được 6 tháng: T6

2.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian nghiên cứu

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài được thực hiện theo ba giai đoạn nghiên cứu liên tiếp nhau tương

ứng 3 mục tiêu được đề ra với đối tượng nghiên cứu lần lượt như sau:

2.2.1.1. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình

Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1 là tất cả trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại

3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải bao gồm: Trường tiểu học Tây Lương,

Trường tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang.

a. Tiêu chuẩn lựa chọn:

Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau:

34

- Trẻ từ 7 đến 10 tuổi (học lớp 2 đến lớp 5) đang theo học tại 3 trường

tại thời điểm tiến hành nghiên cứu.

b. Tiêu chuẩn loại trừ:

Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu:

- Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu

- Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia thu thập các chỉ số nhân trắc.

2.2.1.2. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe

xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2 là tất cả trẻ em từ 7 đến 10 tuổi

chậm tăng trưởng chiều cao sau khi được đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở mục

tiêu 1 tại 3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải bao gồm: Trường tiểu học

Tây Lương, Trường tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang.

a. Tiêu chuẩn lựa chọn:

Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau:

- Trẻ trong độ tuổi: 7 đến 10 tuổi (học từ lớp 2 đến lớp 5)

- Trẻ đã tham gia đánh giá tình trạng dinh dưỡng tại mục tiêu 1 và có

kết quả chậm tăng trưởng chiều cao

- Trẻ được bố mẹ/ người giám hộ đồng ý cho tham gia nghiên cứu

b. Tiêu chuẩn loại trừ:

Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu:

- Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu

- Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia lấy mẫu xét nghiệm.

2.2.1.3. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện

pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ

7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

35

Đối tượng nghiên cứu là trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều

cao tại 3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải.

a. Tiêu chuẩn lựa chọn:

Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau:

- Trẻ em trong độ tuổi: 7 đến 10 tuổi (học từ lớp 2 đến lớp 5)

- Trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đã tham gia đánh giá tình trạng sức

khỏe xương tại mục tiêu 2.

- Trẻ có thời gian học tập và sinh sống tại địa bàn từ 3 tháng trở lên

- Trẻ được bố mẹ/ người giám hộ đồng ý cho tham gia nghiên cứu

- Gia đình cam kết không sử dụng bất kỳ một sản phẩm bổ sung hoặc

thực phẩm bảo vệ sức khỏe trong toàn bộ khoảng thời gian nghiên cứu.

b. Tiêu chuẩn loại trừ:

Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu:

-Trẻ thừa cân/béo phì (Zscore cân nặng theo tuổi ≥2SD) theo tiêu chuẩn

WHO 2005

- Trẻ đã và đang mắc các bệnh lý mạn tính có thể gây giảm mật độ xương

như: viêm khớp mạn, cường giáp, cường cận giáp tiên phát, hội chứng Cushing,

bệnh gan thận mạn tính, hội chứng kém hấp thu, đau tủy xương, bất động kéo

dài, trẻ có sử dụng thuốc Glucocorticoid….

- Trẻ mắc các bệnh nan y (Ung thư, bệnh về máu...)

- Trẻ có dị tật bẩm sinh, trẻ khuyết tật về tâm thần hoặc vận động (ví dụ:

trẻ bị Down, bị tự kỷ...)

- Trẻ được nhận can thiệp từ các nghiên cứu khác (ví dụ: trẻ đã hoặc đang

nhận can thiệp từ một nghiên cứu khác về dinh dưỡng…)

- Trẻ có dấu hiệu dậy thì

- Trẻ có tiền sử kém dung nạp lactose

- Trẻ có bố mẹ là người gốc nước ngoài

36

2.2.2. Địa bàn nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện tại 3 trường tiểu học cơ sở thuộc 3 xã của

huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, bao gồm: Trường tiểu học Tây Lương, Trường

tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang.

Tiền Hải là một huyện ven biển của tỉnh Thái Bình. Huyện Tiền Hải giáp

huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình về phía tây, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ

(biển Đông Việt Nam), phía bắc giáp huyện Thái Thụy Thái Bình với ranh giới

là sông Trà Lý, phía nam giáp tỉnh Nam Định với ranh giới là sông Hồng.

Huyện Tiền Hải gồm 1 thị trấn Tiền Hải và 34 xã.

Tây Tiến là một xã có 4.454 nhân khẩu chia thành 4 thôn. Tổng diện tích

tự nhiên của Tây Tiến là 5,3km2. Trường tiểu học Tây Tiến có tổng số 10 lớp

học với tổng số 261 học sinh, trong đó khối 1 có 46 học sinh, khối 2 có 57 học

sinh, khối 3 có 60 học sinh, khối 4 có 54 học sinh và khối 5 có 44 học sinh.

Tây Lương là một xã nằm về phía Tây bắc huyện Tiền Hải. Xã Tây

Lương có tổng diện tích đất tự nhiên là 634,54 ha, trong đó diện tích đất canh

tác có 365,684 ha. Dân số xã hiện có 7043 người. Trường tiểu học Tây Lương

có tổng số 13 lớp học với tổng số 340 học sinh, trong đó khối 1 có 65 học sinh,

khối 2 có 68 học sinh, khối 3 có 71 học sinh, khối 4 có 68 học sinh và khối 5

có 68 học sinh.

Tây Giang là một xã có 6834 người, diện tích theo địa giới hành chính là

477,72 ha. Trường tiểu học Tây Giang có tổng số 15 lớp học với tổng số 443

học sinh, trong đó khối 1 có 85 học sinh, khối 2 có 81 học sinh, khối 3 có 94

học sinh, khối 4 có 99 học sinh và khối 5 có 84 học sinh.

Cả ba xã thuộc địa bàn nghiên cứu đều là xã nông nghiệp, kinh tế phát

triển bằng nghề nông, chủ yếu là trồng trọt và canh tác. Cả ba xã đều có đường

tỉnh lộ đi qua, đều có khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và

thực phẩm tương đồng với nhau. Các trường tiểu học trên địa bàn nghiên cứu

37

thường không tổ chức ăn bán trú cho trẻ. Tại thời điểm triển khai nghiên cứu,

trên địa bàn nghiên cứu không có các chương trình triển khai liên quan đến dinh

dưỡng học đường.

Bản đồ hành chính huyện Tiền Hải

2.2.3. Thời gian nghiên cứu

- Thời gian thu thập số liệu từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018.

- Thời gian xử lý số liệu, viết báo cáo từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 8

năm 2019.

2.3. Phương pháp nghiên cứu

2.3.1. Thiết kế nghiên cứu

- Thiết kế nghiên cứu cho mục tiêu 1 và mục tiêu 2 là nghiên cứu mô tả

cắt ngang.

- Thiết kế nghiên cứu cho mục tiêu 3 là nghiên cứu can thiệp cộng đồng

có đối chứng.

38

2.3.2. Cỡ mẫu cho nghiên cứu

2.3.2.1. Cỡ mẫu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ

7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình

Cỡ mẫu cho mục tiêu 1 – nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang được tính

theo công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ [75]:

Trong đó:

n: cỡ mẫu cần điều tra

Z: hệ số tin cậy tính theo α, chọn α = 0,05 với khoảng tin cậy 95% thì giá

trị của Z là 1,96.

d: khoảng sai lệch mong muốn giữa kết quả thu được từ mẫu với kết quả

thực của quần thể (chọn d = 0,03).

p: tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo kết quả điều tra thử trước khi

tiến hành nghiên cứu (p = 0,255).

Cỡ mẫu sau khi tính toán được n = 811. Trên thực tế tổng số trẻ em học

lớp 2 đến lớp 5 đủ điều kiện tham gia vào nghiên cứu tại 3 trường là 848, do

vậy chúng tôi điều tra toàn bộ 848 trẻ em học từ lớp 2 đến lớp 5 tại 3 trường

điều tra.

2.3.2.2. Cỡ mẫu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em

từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng một giá trị trung

bình [75]:

Trong đó:

n: Cỡ mẫu cần thiết.

39

S: Độ lệch chuẩn.

∆: Sai số chấp nhận giữa kết quả thu được từ mẫu với kết quả thực tế

của quần thể.

Với S = 5,5 (qua điều tra thử xác định chiều cao trung bình của 1 lớp

học sinh), sai số chấp nhận là 2,5%, tính được cỡ mẫu là 186. Số đối tượng

thực tế tham gia vào nghiên cứu là 216 đối tượng.

2.3.2.3. Cỡ mẫu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp

cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi

chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Cỡ mẫu cho mục tiêu 3 – nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng được

tính theo công thức [76]:

Trong đó:

- n: Cỡ mẫu cần thiết

- S: Độ lệch chuẩn (ước tính từ nghiên cứu trước đó). Trong trường hợp

này, độ lệch chuẩn của hai nhóm được coi là như nhau.

- : Mức ý nghĩa thống kê, là xác suất của việc phạm phải sai lầm loại I.

Với  = 0,05 (độ tin cậy 95%), tra bảng có Z = 1,96.

- : Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II.

Với  = 0,1; tra bảng có Z = 1,28

- Tra bảng có giá trị của Z 2(,β) = 10,5

- 1 - 2: là sự khác biệt theo mong muốn về mật độ xương giữa hai nhóm

(nhóm can thiệp và nhóm chứng) vào cuối thời gian nghiên cứu.

Với α= 0,05; β=0,10 và dựa vào các nghiên cứu đã tiến hành trước

đây để xác định µ1- µ2= 0,02g/cm2, S = 0,042g/cm2 [77]. Từ công thức trên

40

tính được n=93 cho mỗi nhóm. Cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu là

196 đối tượng.

Dự kiến tỷ lệ bỏ cuộc trong toàn bộ thời gian triển khai nghiên cứu là

10%, số đối tượng cần thiết cho mỗi nhóm chứng và nhóm can thiệp là 103 đối

tượng. Do đó, tổng số đối tượng cần cho mục tiêu 3 là 206.

2.3.3. Phương pháp chọn mẫu

2.3.3.1. Chọn mẫu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em

từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình

Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 1 là chọn mẫu toàn

bộ. Toàn bộ trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu đảm bảo tất cả các tiêu

chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn loại trừ nào được lựa chọn

mời tham gia vào nghiên cứu.

2.3.3.2. Chọn mẫu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ

em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 2 là chọn mẫu toàn

bộ. Toàn bộ trẻ từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên

cứu đảm bảo tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn

loại trừ nào được lựa chọn mời tham gia vào nghiên cứu.

2.3.3.3. Chọn mẫu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can

thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10

tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 3 là chọn mẫu có chủ

đích. Điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán văn hóa và lối sống của người dân ở 3

xã Tây Giang, Tây Lương và Tây Tiến là tương đương nhau. Số trẻ từ 7 đến 10

tuổi tại trường Tây Giang gần tương đương với tổng số trẻ từ 7 đến 10 tuổi của

hai trường Tây Lương và Tây Tiến. Do đó, nhằm đảm bảo được số đối tượng

cần thiết cho mỗi nhóm chứng và can thiệp là 103 đối tượng/nhóm, chọn chủ

41

đích 103 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại hai trường tiểu học Tây Lương và

Tây Tiến vào nhóm can thiệp và chọn chủ đích 103 trẻ chậm tăng trưởng chiều

cao tại trường tiểu học Tây Giang vào nhóm chứng. Toàn bộ 206 đối tượng đều

đảm bảo tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn loại

trừ nào được lựa chọn mời tham gia vào nghiên cứu can thiệp.

2.3.4. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu:

2.3.4.1. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng

dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải,

Thái Bình

- Giới tính, tuổi, chiều cao và cân nặng của trẻ

- Phân bố tình trạng dinh dưỡng theo các thể suy dinh dưỡng

2.3.4.2. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng

sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

bàn nghiên cứu

- Giới tính, tuổi của trẻ, tình trạng chậm tăng trưởng chiều cao

- Các kết quả xét nghiệm liên quan đến sức khỏe xương:

+ Mật độ xương (BMD)

+ Khối lượng xương (BMC)

+ Nồng độ Vitamin D huyết thanh

+ Tỷ lệ thiếu Vitamin D huyết thanh

+ Nồng độ canxi ion huyết thanh

+ Tỷ lệ thiếu canxi ion huyết thanh

+ Nồng độ osteocalin huyết thanh

2.3.4.3. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả

một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương

ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

- Giới tính, tuổi của trẻ

42

- Chiều cao, cân nặng, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi/chậm tăng

trưởng chiều cao của trẻ trước và sau can thiệp cùng hiệu quả can thiệp

- Các kết quả xét nghiệm liên quan đến sức khỏe xương trước và sau can

thiệp cùng hiệu quả can thiệp bao gồm:

+ Mật độ xương (BMD)

+ Khối lượng xương (BMC)

+ Nồng độ Vitamin D huyết thanh

+ Tỷ lệ thiếu Vitamin D huyết thanh

+ Nồng độ canxi ion huyết thanh

+ Tỷ lệ thiếu canxi ion huyết thanh

+ Nồng độ osteocalin huyết thanh

2.3.5. Phương pháp thu thập số liệu và kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu

2.3.5.1. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu nhân trắc:

a. Tính tuổi

Dựa vào ngày, tháng, năm sinh và ngày, tháng, năm điều tra cùng với

quy ước tính tuổi để tính ra tuổi cho trẻ. Cách tính tuổi hiện nay đang được

dùng trong các tài liệu của WHO và áp dụng ở Việt Nam như sau [70]:

Từ 1 năm đến 1 năm 11 tháng 29 ngày là 1 tuổi.

Do đó:

- Từ 7 năm đến 7 năm 11 tháng 29 ngày là 7 tuổi.

- Từ 8 năm đến 8 năm 11 tháng 29 ngày là 8 tuổi.

- Từ 9 năm đến 9 năm 11 tháng 29 ngày là 9 tuổi.

- Từ 10 năm đến 10 năm 11 tháng 29 ngày là 10 tuổi.

b. Số đo nhân trắc và xác định tình trạng dinh dưỡng

- Thu thập các số đo nhân trắc

43

Cân nặng Chiều cao

Dụng cụ Cân Tanita có độ Thước đo 3 mảnh của UNICEF có độ

chính xác đến 0,1kg chính xác đến 0,1cm

Vị trí đặt Nơi bằng phẳng và Đặt thước đo trên mặt phẳng cứng, bằng

dụng cụ thuận tiện để cân phẳng, tựa vào tường.

Yêu cầu Trẻ bỏ mũ, nón, giày Trẻ tháo bỏ giày dép, cặp tóc hay thứ gì

trước khi dép và tất cả các vật trên đầu làm ảnh hưởng đến kết quả đo.

nặng mang theo. đo

Kỹ thuật Trẻ đứng giữa bàn Trẻ đứng dựa lưng vào thước, bàn chân ở

đo cân, không cử động, giữa thước, gót chân, bắp chân, mông, vai

mắt nhìn thẳng, trọng và đầu theo một đường thẳng áp sát vào

lượng phân bố đều ở thước, mắt nhìn thẳng về phía trước theo

hai chân. đường nằm ngang, hai tay buông thõng

hai bên mình.

Người đo chính: tay trái giữ cằm sao cho

đầu thẳng và áp sát vào mặt thước. Tay

phải ép mặt thanh trượt vào sát đầu. Khi

vị trí của trẻ đã chính xác, đọc số đo chính

xác đến 0,1cm. Số đo được ghi với đơn vị

cm và với 1 số lẻ. Bỏ thanh trượt trên đầu

trẻ ra và bỏ tay trái ra khỏi cằm trẻ, giúp

trẻ ra khỏi thước đo.

Người trợ giúp: ghi ngay kết quả và đọc

to cho người đo chính để kiểm tra tính

chính xác.

Yêu cầu Cân nặng được ghi với Chiều cao được ghi với đơn vị là cm và 1

kết quả đơn vị kg và 1 số lẻ. số lẻ.

44

2.3.5.2. Đo mật độ xương và khối lượng xương

Mật độ xương và khối lượng xương của trẻ được đo bằng phương pháp

đo hấp thụ tia X năng lượng kép DEXA (Dualenergy X-ray absorptiometry),

sử dụng máy đo DEXXUM T tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đại học

Y Thái Bình.

- Nguyên tắc đo:

Dùng nguồn tia X phát ra hai chùm tia có mức năng lượng khác nhau

quét lên vùng định đo, dựa vào mức độ hấp thụ tia X của xương và mô mềm để

đánh giá mật độ xương và khối lượng xương của vùng định khảo sát. Máy đo

DEXXUM T tự động lựa chọn các thông số như liều lượng tia, thời gian quét,

tốc độ quét… tất cả thể hiện trên màn điều khiển để kỹ thuật viên theo dõi phép

đo. Sự hằng định về liều lượng tia, tốc độ, thời gian chuẩn của máy được định

cỡ hằng ngày theo một Phantom mẫu để đảm bảo độ chính xác của các phép đo.

- Vị trí đo và quy trình tiến hành:

Đo tại vùng cột sống thắt lưng từ L1 - L4.

Tư thế đo: Trẻ em được đặt ở tư thế nằm ngửa, hai tay xuôi theo thân

người, chân gác lên một gối cao (có kích thước chuẩn đi kèm theo máy) để

giảm độ ưỡn thắt lưng tới mức thấp nhất.

Thông tin nhập lưu trữ trên máy DEXA gồm: họ và tên, mã số code hồ

sơ, ngày tháng năm sinh, giới tính, chiều cao, cân nặng của trẻ.

Mức độ tiếp xúc bức xạ ở khoảng cách 1 mét từ máy: ít hơn 1millirem

(1mR), nên không cần phương tiện che chắn hay bảo vệ. Thời gian đo tối đa 5

phút, tính cả thời gian nhập các dữ liệu, thông tin cá nhân.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng giá trị khối lượng xương (đơn

vị: gram) và giá trị mật độ xương (đơn vị: gram/cm2) của toàn bộ cột sống thắt

lưng (L1-L4).

45

2.3.5.3. Các xét nghiệm

Trẻ được lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng để làm xét nghiệm định lượng

Vitamin D, ioncanxi và Osteocalcin. Trẻ nhịn ăn sáng và không uống bất kỳ

một loại thực phẩm nào trước khi xét nghiệm. Sau khi lấy máu xét nghiệm, trẻ

em được tổ chức ăn sáng tại chỗ bằng bánh mỳ và sữa tươi.

Mỗi trẻ em được lấy 3ml mẫu máu tĩnh mạch vào buổi sáng (7h00 đến

8h00) tại trường học, sau đó được bảo quản lạnh và vận chuyển về Khoa sinh

hóa Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình để phân tích.

Các đối tượng được lấy 3ml máu tĩnh mạch trong khoảng thời gian từ 7

đến 8 giờ sáng, được chuyển vào ống nghiệm và được bảo quản trong phích

lạnh, tránh ánh sáng. Sau đó, các mẫu máu được vận chuyển đến Khoa sinh hóa

– Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình trong vòng 1 giờ và được ly tâm ở tốc độ

3000 vòng/phút để tách huyết thanh. Các mẫu huyết thanh được giữ ở nhiệt độ

-20ºC cho đến khi mẫu được phân tích.

* Định lượng Vitamin D

Theo phương pháp miễn dịch kiểu cạnh tranh, sử dụng công nghệ điện

hóa phát quang (ECLIA). Tổng thời gian phân tích một mẫu 18 phút.

- Giai đoạn ủ thứ nhất: 25-OH vitamin D3 trong mẫu bệnh phẩm cạnh

tranh với biotin có gắn vitamin D trong phức hợp trong thuốc thử R2 (gồm

biotin-vitamin D/ polyclonal 25-OH vitamin D3- Kháng thể đặc hiệu có gắn

ruthenium). Phần còn lại của phức hợp phụ thuộc vào nồng độ chất phân tích

trong mẫu.

- Giai đoạn ủ thứ hai: Sau khi cho thêm các vi hạt được bao phủ bởi

Streptavidin. Phức hợp được gắn kết vào pha rắn do sự tương tác giữa biotin và

streptavidin.

- Phức hợp phản ứng được đưa vào buồng đo. Tại đây các vi hạt được

giữ lại bằng từ tính trên bề mặt điện cực. Những chất thừa được rửa đi bằng

46

procell. Dùng một dòng điện một chiều tác động vào điện cực nhằm kích thích

phát quang và cường độ tín hiệu ánh sáng phát ra có thể đo được bằng bộ phận

nhận quang.

- Kết quả được tính toán dựa vào đường cong chuẩn thu được bằng cách

chuẩn 2 điểm và đường cong gốc được cung cấp từ nhà sản xuất. Nồng độ chất

cần định lượng tỷ lệ thuận với cường độ ánh sáng thu được.

- Mức tối thiểu 30 ng/ml vitamin D được coi là đủ, dưới mức này được

coi là vitamin D thấp, cụ thể giá trị từ 29 đến 20 ng/ml là nguy cơ thiếu, mức

dưới 20 ng/ml là thiếu và mức dưới 7 ng/ml là thiếu trầm trọng [78].

* Định lượng Canxi ion

Canxi ion hóa được định lượng theo nguyên lý điện cực chọn lọc. Tại điện

cực Ca++ có một màng bán thấm chỉ cho ion Ca++ đi qua. Căn cứ vào lượng Ca++

thấm qua màng (thông qua sự thay đổi điện thế ở màng) để xác định nồng độ.

Bình thường, nồng độ Canxi ion trong máu từ 1,15 – 1,3 mmol/l

[79],[80].

* Định lượng Osteocalcin

Nguyên lý của kỹ thuật hóa phát quang miễn dịch: dựa trên nguyên lý sandwich

pha rắn, các hạt nhựa được phủ các kháng thể kháng osteocalcin được ủ với

huyết thanh của mẫu cần định lượng osteocalcinhình thành phức hợp kháng thể

kháng osteocalcin - osteocalcin. Phức hợp này sẽ được gắn với kháng thể thứ

hai có gắn alkalinephosphatase tạo phức hợp kháng thể - osteocalcin - kháng

thể gắn alkalinephosphatase. Sau khi loại bỏ các phần không được gắn vào phức

hợp bởi các chu trình rửa, phức hợp này được phát hiện bằng cơ chất dioxetane.

Khi cơ chất dioxetane phản ứng với alkalinephosphatase sẽ tạo ra ánh sáng.

Lượng ánh sáng tỷ lệ thuận với nồng độ osteocalcin cần định lượng. Các tia

sáng sẽ được thu và khuếch đại vào các ống nhận quang. Sau khi đối chiếu với

đường cong chuẩn sẽ tính ra nồng độ osteocalcin cần định lượng [81],[82],[83].

47

2.3.5.4. Khám sàng lọc

Khám sàng lọc để phát hiện và loại trừ những trường hợp không đủ tiêu

chuẩn lựa chọn cho nghiên cứu can thiệp theo mục tiêu 3 như trẻ bị dị tật bẩm

sinh, trẻ mắc một số bệnh mạn tính gây ảnh hưởng đến mật độ xương. Đồng

thời khám phát hiện các biểu hiện tiền dậy thì hoặc biểu hiện dậy thì ở trẻ

(Phụ lục 3.1).

2.3.6. Quá trình tổ chức nghiên cứu

2.3.6.1. Lựa chọn và tập huấn cho các cán bộ tham gia nghiên cứu

- Chọn và tập huấn cho cán bộ tham gia nghiên cứu: Các điều tra viên

được chọn là các cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong nhóm nghiên cứu

của Trường Đại học Y Dược Thái Bình, Viện Y học ứng dụng Việt Nam và

Bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải. Các nghiên cứu viên được tập huấn về mục

đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, cách lựa chọn trẻ

tham gia nghiên cứu, cách tiến hành điều tra ban đầu, các hoạt động can thiệp

và điều tra sau can thiệp.

- Chọn và tập huấn cho cộng tác viên: Cộng tác viên được chọn từ các

cô giáo của 3 trường tiểu học tiến hành nghiên cứu.

Mỗi trường chọn một cán bộ phụ trách là Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu

trưởng để tham gia công tác tổ chức tiếp nhận, quản lý sản phẩm dinh dưỡng

đường uống hàng tháng cũng như các bữa ăn bổ sung bằng sản phẩm dinh

dưỡng đường uống buổi sáng hàng ngày của trẻ.

- Các giám sát viên được chọn là các cán bộ có kinh nghiệm trong nhóm

nghiên cứu của Trường Đại học Y Dược Thái Bình, Viện Y học ứng dụng Việt

Nam và Bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải: Giám sát việc cung cấp và sử dụng

sản phẩm dinh dưỡng đường uống hàng ngày của trẻ em tại các trường tiểu học.

Mỗi một trường tiểu học có một quyển sổ theo dõi số lượng sản phẩm dinh

dưỡng đường uống cung cấp và sử dụng hàng ngày của trẻ.

48

Giám sát việc tổ chức truyền thông cho trẻ em về các biện pháp tăng

cường mật độ xương, tư vấn cho các bà mẹ về các thực phẩm giàu can xi và

vitamin D để các bà mẹ lựa chọn trong bữa ăn gia đình. Khuyến cáo để các bà

mẹ tự thực hiện trong các bữa ăn của trẻ.

2.3.6.2. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình

Lập danh sách thông tin toàn bộ trẻ trong độ tuổi từ 7 đến 10 tuổi tại địa

bàn nghiên cứu để lựa chọn trẻ đủ tiêu chuẩn. Nghiên cứu sinh và các nghiên

cứu viên phối hợp với nhà trường thông báo tới các phụ huynh của trẻ về hoạt

động đánh giá tình trạng dinh dưỡng thông qua cân đo cân nặng và chiều cao

của trẻ diễn ra tại trường học.

Tổng số có 848 đối tượng đảm bảo đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn

và không có tiêu chuẩn loại trừ nào. Các đối tượng được tiến hành cân đo và

thu thập các chỉ số nhân trắc dựa trên kỹ thuật thu thập số đo nhân trắc và đánh

giá tình trạng dinh dưỡng đã được trình bày trong mục 2.2.5 và được ghi chép

vào phiếu thu thập thông tin cho mục tiêu 1 (Phụ lục 1). Số liệu từ các phiếu

này được nhập liệu vào máy tính và tính toán các chỉ số đánh giá tình trạng

dinh dưỡng bao gồm HAZ, WAZ và BMIZ từ đó đánh giá tình trạng dinh dưỡng

của trẻ tại địa bàn nghiên cứu.

2.3.6.3. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe

xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn

nghiên cứu

Dựa trên kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ 7 đến 10 tuổi

tại địa bàn nghiên cứu ở mục tiêu 1, lập danh sách trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa

bàn nghiên cứu có kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng là chậm tăng trưởng

chiều cao theo quy ước đã được trình bày tại mục 2.1.1.2 để lựa chọn trẻ đủ

tiêu chuẩn và mời tham gia vào nghiên cứu cho mục tiêu 2 (sử dụng phiếu

49

sàng lọc – phụ lục 2.1). Tổng số có 216 đối tượng đảm bảo đáp ứng đủ các

tiêu chuẩn lựa chọn, không có tiêu chuẩn loại trừ nào và phụ huynh/người

giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia vào nghiên cứu (sử dụng bản cung cấp thông

tin cho đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm phiếu chấp thuận tham gia

nghiên cứu – phụ lục 2.2).

Toàn bộ 216 đối tượng sau khi được đồng ý tham gia vào nghiên cứu

được tiến hành lấy mẫu xét nghiệm tại địa bàn nghiên cứu nhằm đánh giá

tình trạng sức khỏe xương bao gồm: mật độ xương, khối lượng xương, nồng

độ vitamin D huyết thanh, nồng độ canxi ion huyết thanh và nồng độ

osteocalcin huyết thanh các chỉ số nhân trắc dựa trên kỹ thuật thu thập số đo

nhân trắc và đánh giá tình trạng dinh dưỡng đã được trình bày trong mục

2.2.5. Kết quả đánh giá tình trạng sức khỏe xương được ghi vào phiếu thu

thập thông tin cho mục tiêu 2 (phụ lục 2.3).

2.3.6.4. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện

pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ

7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Sau khi tiến hành đánh giá tình trạng sức khỏe xương ở mục tiêu 2, lập

danh sách trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đã đánh giá tình trạng sức khỏe

xương để lựa chọn trẻ đủ tiêu chuẩn và mời tham gia vào nghiên cứu can thiệp

cho mục tiêu 3 (sử dụng phiếu sàng lọc – phụ lục 3.1). Chọn chủ đích 206 đối

tượng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn, không có tiêu chuẩn loại trừ nào và

phụ huynh/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia vào nghiên cứu (sử dụng bản

cung cấp thông tin cho đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm phiếu chấp

thuận tham gia nghiên cứu – phụ lục 3.2) chia đều vào hai nhóm can thiệp và

nhóm chứng để tiến hành can thiệp trong 06 tháng.

50

Đánh giá trước can thiệp: các kết quả nhân trắc và đánh giá tình trạng

dinh dưỡng cũng như đánh giá tình trạng sức khỏe xương từ mục tiêu 1 và 2

của 206 đối tượng được sử dụng để đánh giá trước can thiệp.

Đánh giá sau can thiệp: Tại thời điểm cuối tháng thứ 3 từ khi can thiệp

(giữa kỳ) và cuối tháng thứ 6 từ khi can thiệp (cuối kỳ), đối tượng được đánh

giá lại các chỉ số nhân trắc, tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sức khỏe xương

theo quy trình tương tự như tại thời điểm đánh giá trước can thiệp (sử dụng

phiếu thu thập thông tin cho mục tiêu 3 – Phụ lục 3.3).

Nội dung can thiệp:

Nhóm chứng

Nội dung Bổ sung dinh dưỡng đường uống Có

Nhóm can thiệp Có (Sản phẩm can thiệp) Có (Sản phẩm chứng) Không

Không Có

Phối hợp tập luyện thể dục và tắm nắng Truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng học sinh tiểu học a. Bổ sung dinh dưỡng đường uống:

Đối tượng ở cả hai nhóm được bổ sung 180ml sản phẩm dinh dưỡng

đường uống mỗi ngày. Cả hai loại sản phẩm dinh dưỡng đường uống sử dụng

cho cả hai nhóm chứng và can thiệp được sản xuất theo yêu cầu của nghiên cứu

đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được tiệt trùng bằng công nghệ UHT và

được đóng trong hộp giấy tiệt trùng theo công nghệ của Tetra Pak. Sản phẩm,

được chuyển thẳng từ nhà máy đến và lưu trữ tại địa bàn nghiên cứu trong

phòng kín, khô và đảm bảo vệ sinh mỗi hai tuần từ khi bắt đầu cho đến khi kết

thúc nghiên cứu.

Thành phần của sản phẩm dinh dưỡng đường uống sử dụng cho nhóm

can thiệp được bổ sung Vitamin K2 và có thành phần còn lại tương đương với

sản phẩm sử dụng cho nhóm chứng.

51

Thành phần

Hàm lượng trong 180ml sản phẩm chứng Hàm lượng trong 180ml sản phẩm can thiệp

147,4 5,6 6,30 17,1 396,0 99,0 0 230,4 Năng lượng (Kcal) Protein (g) Lipid (g) Carbohydrate (g) Vitamin A (IU) Vitamin D3 (IU) Vitamin K2 (mcg) Canxi (mg) 147,4 5,6 6,30 17,1 396,0 99,0 10,26 230,4

Nhu cầu khuyến nghị vitamin K trung bình cho nhóm tuổi 2-12 tuổi là

97,5mcg/ngày [15]. Do đó, trong 180ml sản phẩm can thiệp được bổ sung 10,26

mcg vitamin K2 để đảm bảo tạo ra hiệu quả tương đương khoảng 10,5% nhu

cầu khuyến nghị hằng ngày nhằm đạt hiệu quả cải thiện sức khỏe xương tối ưu

cũng như đảm bảo ngưỡng an toàn khi bổ sung vitamin K [84],[85]. Vitamin

K2 có liên quan đến sức khỏe xương và các tác dụng khác với sức khỏe nhiều

hơn so với vitamin K1. Do vậy, việc lựa chọn bổ sung vitamin K2, thay vì K1

trong sản phẩm dinh dưỡng đường uống sẽ có khả năng tăng hấp thu vitamin K

ở trẻ [86],[87].

Các ngày trong tuần, từ thứ 2 đến thứ 6, đối tượng sử dụng sản phẩm tại

địa bàn nghiên cứu (trường tiểu học). Vào thời điểm nghỉ giữa giờ ca học buổi

sáng (lúc 8h50), các đối tượng được mời sang một phòng riêng biệt (phòng hội

trường), sử dụng sản phẩm trong vòng 05 phút. Đối tượng được theo dõi lượng

sản phẩm uống hết và được ghi chép vào sổ cấp phát và theo dõi sử dụng sản

phẩm (phụ lục 3.4).

Đối với ngày thứ 7, chủ nhật và ngày nghỉ khác, đối tượng được phát sản

phẩm ứng với số ngày nghỉ, giám sát viên phối hợp cùng cộng tác viên cung

cấp, giám sát và nhắc nhở việc sử dụng sản phẩm tại nhà. Cộng tác viên phối

52

hợp với nhà trường và gia đình theo dõi đối tượng sử dụng sản phẩm và ghi

chép vào sổ cấp phát và theo dõi sử dụng sản phẩm.

Những trường hợp không đến trường vì lý do sức khỏe hoặc các lý do

khác, cộng tác viên tìm hiểu lý do, liên hệ và phối hợp với phụ huynh phát sản

phẩm đến đối tượng và báo cáo lại với giám sát viên/nghiên cứu viên.

Đối tượng nghiên cứu được bổ sung dinh dưỡng đường uống liên tục

trong vòng 06 tháng từ tháng 11/2017 đến tháng 04/2018. Trong suốt quá trình

bổ sung dinh dưỡng đường uống, bên cạnh theo dõi sử dụng sản phẩm, đối

tượng cũng được theo dõi tình trạng sức khỏe có thể gặp phải trong quá trình

bổ sung dinh dưỡng đường uống và được ghi vào sổ cấp phát và theo dõi sử

dụng sản phẩm bao gồm: buồn nôn, nôn, đau bụng, nổi mề đay, tiêu chảy, sống

phân, táo bón… (phụ lục 3.4).

b. Hoạt động phối hợp tập luyện thể dục và tắm nắng

Can thiệp được tiến hành từ tháng 11 đến tháng 4, là khoảng thời gian

mặt trời lên đỉnh muộn hơn, do đó, thời gian phối hợp tắm nắng và tập thể dục

được thực hiện vào hai buổi sáng và chiều trong những ngày đi học. Thời gian

tập luyện được sắp xếp vào thời điểm giải lao giữa giờ. Hoạt động tập thể dục

của nghiên cứu là độc lập so với môn thể dục mà đối tượng đang được học theo

chương trình của nhà trường.

Đối tượng được tổ chức bài tập thể dục với mục tiêu kéo dãn cơ thể và

phát triển chiều cao, tập trong 10 phút.

Trong những ngày trời mưa hoặc lạnh kèm theo gió mùa đông bắc, đối

tượng được tổ chức tập luyện dưới hành lang có mái che hoặc trong phòng họp

có cửa sổ kính lớn và được nhà trường và cộng tác viên báo cáo tới nghiên cứu

sinh và các nghiên cứu viên.

Hoạt động phối hợp tập luyện thể dục và tắm nắng được thực hiện dưới

sự giám sát của nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên. Trong quá trình tập

53

luyện, các cộng tác viên theo dõi tình trạng sức khỏe của đối tượng nghiên cứu

bao gồm nhịp thở và mồ hôi để kiểm soát tình hình sức khỏe của đối tượng

nghiên cứu trong lúc tập luyện. Bất cứ bất thường nào được phát hiện trong quá

trình tập luyện đều được báo cáo với nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên.

Nội dung tập luyện:

STT Bài tập Nội dung

1 Khởi động Di chuyển tại chỗ, nâng cao đầu gối.

(2 phút) Đung đưa cánh tay về phía trước và phía sau.

Tăng tốc độ và cường độ dần dần.

2 Nhảy phối Đứng thẳng với hai bàn chân chạm nhau và cánh tay

hợp buông thẳng.

(2 phút) Nhảy lên, dang rộng hai chân rộng hơn hông và vươn

cao cánh tay qua đầu.

Quay trở lại vị trí bắt đầu bằng cách nhảy một lần nữa

và đưa hai chân chạm nhau khi tiếp đất trong khi hạ

cánh tay xuống.

Lặp lại bài tập này trong hai phút.

3 Nâng cao Đứng thẳng với hai chân rộng bằng hông.

đầu gối Nâng đầu gối phải càng cao càng tốt về phía ngực

(2 phút) trong khi vẫn giữ cho bàn chân trái đặt trên mặt đất.

Hạ chân phải xuống và lặp lại động tác tương tự với

đầu gối trái.

Tiếp tục luân phiên nâng cao đầu gối trong hai phút.

4 Cúi giãn Đứng hai chân rộng bằng vai.

(2 phút) Từ từ gập người về phía trước ở thắt lưng, giữ cho hai

chân thẳng.

Cố gắng dùng ngón tay chạm vào ngón chân.

54

STT Bài tập Nội dung

Nếu trẻ chưa thể với tới các ngón chân, trẻ cần nhắm

tới cẳng chân hoặc xa nhất có thể.

Giữ căng trong vài giây rồi trở về vị trí bắt đầu.

Lặp lại bài tập này trong hai phút.

5 Chống đẩy Đứng quay mặt vào tường và cách tường khoảng một

tường cánh tay.

(2 phút) Đưa cánh tay lên phía trước và đặt lòng bàn tay lên

tường ở độ cao ngang vai.

Nghiêng người về phía trước, giữ hai bàn chân đặt trên

mặt đất cho đến khi cảm thấy ngực và vai căng nhẹ.

Giữ tư thế này trong 20-30 giây đồng thời hít thở chậm

và sâu.

Dần dần đẩy cơ thể khỏi bức tường, duy trì sự căng ở

ngực và vai.

Lặp lại bài tập này trong hai phút.

Đối với nhóm chứng: Khi nghỉ giữa giờ học sinh thường nghỉ tại chỗ,

nói chuyện hoặc tham gia các hoạt động nghỉ giải lao tự do giữa giờ.

c. Truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cho trẻ em

- Tổ chức truyền thông trực tiếp cho nhà trường và giáo viên về dinh

dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học: Sau khi lựa chọn địa bàn nghiên cứu

can thiệp, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên đã tổ chức buổi truyền thông

giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cho trẻ ở độ tuổi tiểu học. Nội dung buổi

truyền thông bao gồm: các thông tin về dinh dưỡng cần thiết cho học sinh tiểu

học (phụ lục 3.5) và hướng dẫn giáo viên lồng ghép các nội dung liên quan đến

dinh dưỡng và lối sống lành mạnh vào các hoạt động trên lớp. Tại thời điểm

55

triển khai nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu chưa có chương trình Sữa Học

Đường, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên giúp nhà trường làm rõ về tầm

quan trọng của sữa đối với học sinh tiểu học và gợi ý những cách để nhà trường

chủ động tìm kiếm, cũng như có thể tiếp tục triển khai hoạt động cho học sinh

uống sữa sau khi nghiên cứu kết thúc.

- Tổ chức truyền thông/giáo dục sức khỏe/tư vấn cho phụ huynh về dinh

dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học: tại buổi phổ biến nội dung nghiên cứu

và ký xác nhận tham gia nghiên cứu, phụ huynh được mời đến trường và được

truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng học sinh tiểu học (nội dung dựa

trên phụ lục 3.5). Phụ huynh được nhấn mạnh về tầm quan trọng của dinh

dưỡng đầy đủ, đặc biệt là sữa, cùng với các hoạt động vận động thể chất và sinh

hoạt cần thiết đối với sự phát triển tầm vóc của trẻ. Sau ba tháng can thiệp, phụ

huynh tiếp tục được mời tới tham dự buổi truyền thông/giáo dục sức khỏe/tư

vấn về dinh dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học lần thứ hai. Tại buổi truyền

thông lần thứ hai, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên tập trung vào nội

dung tìm hiểu sự thay đổi trong sinh hoạt của trẻ kể từ khi can thiệp và giải đáp

các thắc mắc/câu hỏi của phụ huynh liên quan đến dinh dưỡng và sự phát triển

toàn diện của trẻ.

- Tổ chức truyền thông/giáo dục sức khỏe cho trẻ thông qua áp phích

tháp dinh dưỡng và tập luyện được dán ở bảng tin của trường, bên cạnh cửa lớp

học và cạnh bảng xanh trong lớp học.

d. Giám sát can thiệp

Để đảm bảo đối tượng nghiên cứu tuân thủ trong quá trình can thiệp cũng

như nhanh chóng phát hiện kịp thời và giải quyết các vấn đề phát sinh trong

quá trình triển khai nghiên cứu, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên của đề

tài kết hợp với các cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu thực hiện giám sát việc

triển khai biện pháp can thiệp tại các trường tiểu học.

56

SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU

57

2.3.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu

Trước khi nhập số liệu trên các phần mềm để xử lý, nghiên cứu viên đã

xử lý thô các thông tin trên các sổ ghi chép và phiếu hỏi. Những trường hợp

thông tin giữa nghiên cứu viên, điều tra viên và cộng tác viên không trùng nhau

sẽ có sự gặp mặt giữa nghiên cứu viên, cộng tác viên và đối tượng nghiên cứu

để kiểm tra lại thông tin. Những đối tượng đảm bảo các tiêu chí sau sẽ được

đưa vào phân tích:

- Đối tượng tham gia trong suốt thời gian can thiệp

- Đối tượng uống đủ ít nhất 80% số lượng sản phẩm can thiệp, và có

đầy đủ ghi chép về sử dụng sản phẩm trong sổ theo dõi.

- Đối tượng không nghỉ học quá 1 tuần trong thời gian can thiệp.

- Đối tượng không gặp phải tình trạng bệnh hoặc có vấn đề về sức

khỏe nghiêm trọng hoặc kéo dài trong thời gian can thiệp.

- Đối tượng không gặp phải các chấn thương gây hạn chế vận động

trong thời gian can thiệp.

Số liệu được nhập bằng phần mềm EPIDATA 3.1. Số liệu về nhân trắc

học được xử lý bằng phần mềm ENA Smart với quần thể chuẩn của WHO

(2005) để đánh giá chiều cao, cân nặng của trẻ theo tuổi và xác định tình trạng

dinh dưỡng của trẻ.

Phân tích số liệu bằng phần mềm Statistical Package for Social Sciences

(SPSS 20.0). Trước khi sử dụng phép các phép thống kê, số liệu (các biến số)

được kiểm định về phân bố chuẩn.

Các test thống kê tham số được sử dụng cho số liệu định lượng phân bố

chuẩn gồm: T-test độc lập được sử dụng để so sánh giá trị trung bình giữa hai

nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. T-test ghép cặp được sử dụng để so sánh

giá trị trung bình trước và sau can thiệp của các biến số. ANOVA test (phương

58

sai đồng nhất) được sử để so sánh giá trị trung bình giữa nhiều hơn hai nhóm

độc lập tại cùng một thời điểm.

Các test thống kê phi tham số được sử dụng cho số liệu định lượng phân

bố không chuẩn gồm: Mann-Whitney test được sử dụng để so sánh giá trị trung

bình giữa hai nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. Wilcoxonsigned-rank test

được sử dụng để so sánh giá trị trung bình trước và sau can thiệp của các biến

số. Kruskal-Wallis test được sử để so sánh giá trị trung bình giữa nhiều hơn hai

nhóm độc lập tại cùng một thời điểm.

Test 2 và Fisher’s exact test được sử dụng để so sánh, tìm sự khác biệt

giữa giá trị trung bình của các số liệu định tính.

- Tính chỉ số hiệu quả để đánh giá hiệu quả can thiệp thực sự. Chỉ số hiệu

quả (CSHQ) được tính theo các bước sau:

*Bước: đánh giá hiệu quả can thiệp (%) của nhóm can thiệp–HQ(CT):

│P1 – P2 │

HQ(CT) = x 100

P1 P1: chỉ số đánh giá trước thời điểm can thiệp. Trong đó:

P2: chỉ số đánh giá sau thời điểm can thiệp.

* Bước 2: đánh giá hiệu quả can thiệp (%) của nhóm đối chứng–HQ(ĐC):

│P’1 – P’2 │

HQ(ĐC) = x 100

P’1 P1’: chỉ số đánh giá trước thời điểm can thiệp. Trong đó:

P2’: chỉ số đánh giá sau thời điểm can thiệp.

* Bước 3: đánh giá hiệu quả can thiệp thực sự (%) của nghiên cứu bằng

chỉ số hiệu quả (CSHQ):

59

CSHQ=HQ(CT)–HQ(ĐC)

2.3.8. Đạo đức trong nghiên cứu

Đề cương nghiên cứu đã được chấp thuận bởi Hội đồng Đạo đức trong

nghiên cứu Y sinh học của trường Đại học Y Dược Thái Bình theo chứng nhận

số 8621/HĐĐĐ ngày 20 tháng 10 năm 2017.

Nghiên cứu tiến hành đảm bảo tuân thủ theo các nguyên tắc về đạo đức

trong nghiên cứu y học:

- Các đối tượng và gia đình, nhà trường được giải thích cụ thể, rõ ràng

mục đích, quy trình nghiên cứu.

- Các thông tin riêng tư của đối tượng được đảm bảo bí mật.

- Các trẻ tham gia nghiên cứu can thiệp đều được sử dụng sản phẩm dinh

dưỡng đường uống miễn phí trong thời gian can thiệp, được đo mật độ xương

và làm xét nghiệm máu miễn phí. Sản phẩm dinh dưỡng đường uống cung cấp

cho đối tượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và đảm bảo về chất lượng.

Việc lấy máu xét nghiệm được thực hiện bởi các cán bộ y tế có kỹ thuật tốt và

đảm bảo an toàn. Ngoài ra trong quá trình thực hiện nghiên cứu còn tổ chức

khám tổng quát cho đối tượng.

- Đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA hiện nay được sử dụng

rộng rãi trên thế giới và trong nước. Phương pháp này không gây đau đớn cho

bệnh nhân và là phương pháp được đánh giá có độ an toàn cao, có giá trị chẩn

đoán sớm loãng xương và định hướng cho điều trị.

- Tất cả phụ huynh và trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao đều được mời

tham gia nghiên cứu, được cung cấp thông tin và cam kết nhận sản phẩm dinh

dưỡng đường uống cùng các biện pháp can thiệp miễn phí cho trẻ trong thời

gian 6 tháng. Phụ huynh đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu sau khi nghiên

cứu trang thông tin trong bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu.

60

- Sau khi kết thúc nghiên cứu, các trẻ em trong nhóm đối chứng cũng

được sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống có vitamin K2 tương tự như

nhóm can thiệp. Các hoạt động liên quan đến tổ chức tắm nắng/vận động và

truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng trẻ em cũng được thực hiện tại

địa bàn nghiên cứu của nhóm chứng tương tự như nhóm can thiệp.

61

CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học

huyện Tiền Hải, Thái Bình

Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tuổi và giới tại địa bàn nghiên cứu

Nam Nữ Chung

7 tuổi 8 tuổi 9 tuổi 10 tuổi Chung n 95 120 130 114 459 % 11,2 14,2 15,3 13,4 54,1 n 112 105 91 81 389 % 13,2 12,4 10,7 9,6 45,9 n 207 225 221 195 848 % 24,4 26,5 26,1 23,0 100

Bảng 3.1 cho thấy trong số 848 đối tượng đủ điều kiện tham gia vào

nghiên cứu, tỷ lệ số trẻ nam lớn hơn tỷ lệ số trẻ nữ là 8,5% với tỷ lệ lần lượt là

54,1% và 45,9%. Tỷ lệ số lượng theo độ tuổi là gần như tương đồng với nhau,

cao nhất là 8 tuổi với tỷ lệ 26,5%, 9 tuổi xếp thứ hai với tỷ lệ 26,1%, tiếp sau

là 7 tuổi với 24,4% và cuối cùng là 10 tuổi với 23%. Đối với phân bố giới tính

theo tuổi, ở ba nhóm tuổi 8, 9 và 10 tuổi, tỷ lệ trẻ nam đều cao hơn tỷ lệ trẻ nữ,

trong khi ở nhóm 7 tuổi, tỷ lệ nam và nữ có xu hướng ngược lại. Đối với phân

bố độ tuổi theo giới tính, ở trẻ nam, độ tuổi chiếm đa số là 9 tuổi (15,3%) và độ

tuổi có tỷ lệ thấp nhất là 7 tuổi với 11,2%. Trong khi đó, phân bố độ tuổi theo

giới tính ở trẻ nữ cho thấy xu hướng khác biệt so với ở trẻ nam. Ở trẻ nữ, tỷ lệ

trẻ trong nhóm 7 tuổi là cao nhất với 13,2% còn tỷ lệ trẻ ở độ tuổi 10 là thấp

nhất với 9,6%.

Với số mẫu nghiên cứu của mục tiêu 1 (848 trẻ), kết quả của cân nặng

và chiều cao trung bình của trẻ nam là 28,4 ± 7,3 kg, 128,4 ± 8,8cm và trẻ nữ

lần lượt là: 25,8 ± 6,1kg và 129,6 ± 8,2cm. Cân nặng và chiều cao của chung 2

giới là 27,2 ± 6,9 kg và 129,0 ± 8,5cm.

n=848

3,4%

25,6%

Bình thường (Không SDD thấp còi)

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

71%

62

Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi lại địa bàn nghiên cứu

Biểu đồ 3.1 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa

bàn nghiên cứu. Trong số 848 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ không suy dinh

dưỡng thấp còi chiếm 71%, tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 29%, trong

đó tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 25,6% và tỷ lệ trẻ suy dinh

dưỡng thấp còi là 3,4%.

2,3%

5,8%

1,5%

3,9%

100%

24,4%

26,2%

25,6%

26,2%

80%

60%

ệ l ỷ T

40%

73,3%

72,3%

70,5%

68,0%

20%

0%

7 Tuổi (n=207)

8 Tuổi (n=225)

9 Tuổi (n=221)

10 Tuổi (n=195)

p<0,05 (2)

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Bình thường (Không SDD thấp còi)

63

Biểu đồ 3.2. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.2 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo

từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ không suy

dinh dưỡng thấp còi đều chiếm tỷ lệ khoảng 70%, lần lượt là 70,5% ở nhóm 7

tuổi, 68% ở nhóm 8 tuổi, 73,3% ở nhóm 9 tuổi và 72,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ

trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi ở cả bốn nhóm tuổi đều nằm trong

khoảng 25%, cao nhất là hai nhóm 8 và 10 tuổi với tỷ lệ đều là 26,2%, xếp sau

64

đó là nhóm 7 tuổi với 25,6% và thấp nhất là nhóm 9 tuổi với 24,4%. Tỷ lệ suy

dinh dưỡng thấp còi ở cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, cao nhất là ở nhóm 8

tuổi với 5,8%, theo sau là nhóm 7 và 9 tuổi với tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi

lần lượt là 3,9% và 2,3%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp nhất là ở nhóm

3,9%

2,8%

100%

25,0%

26,2%

80%

60%

ệ l ỷ T

40%

72,2%

69,9%

20%

0%

Nam (n=459)

Nữ (n=389)

p>0,05 (2)

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Bình thường (Không SDD thấp còi)

trẻ 10 tuổi với 1,5%.

Biểu đồ 3.3. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo giới tại địa bàn

nghiên cứu

65

Biểu đồ 3.3 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa

bàn nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh

dưỡng thấp còi đều chiếm gần 70% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi

và có nguy cơ suy dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng 30%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ

bình thường không suy dinh dưỡng thấp còi là 72,2% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ

nam là 69,9%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy

dinh dưỡng thấp còi ở trẻ nữ đều thấp hơn các tỷ lệ này ở trẻ nam, lần lượt là

3,1%

5,6%

2,2%

100%

26,9%

26,5%

22,3%

80%

60%

ệ l ỷ T

40%

72,1%

70,9%

70,4%

20%

0%

Tây Giang (n=358)

Tây Lương (n=275)

Tây Tiến (n=215)

p>0,05 (2)

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Bình thường (Không SDD thấp còi)

2,8% và 24,9% ở trẻ nữ và 3,9% và 26,1% ở trẻ nam.

Biểu đồ 3.4. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo xã tại địa bàn

nghiên cứu

66

Biểu đồ 3.4 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa

bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh dưỡng

thấp còi đều chiếm gần hơn 70% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và

có nguy cơ suy dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng gần 30%. Sự khác biệt về

phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở ba xã không có ý nghĩa thống kê

n=724

4,4%

8,7%

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD nhẹ cân

86,9%

(p>0,05).

Biểu đồ 3.5. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân lại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.5 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại

địa bàn nghiên cứu. Trong số 724 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ bình

thường chiếm 86,9% và tỷ lệ trẻ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 8,7%. Tỷ lệ trẻ

thừa cân béo phì chiếm 4,4%.

100%

5,4%

7,3%

8,9%

11,1%

80%

60%

87,7%

85,3%

ệ l ỷ T

93,3%

85,5%

40%

20%

5,8%

5%

1,3%

3,4%

0%

7 Tuổi (n=207)

8 Tuổi (n=224)

9 Tuổi (n=219)

10 Tuổi (n=74)

p<0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD nhẹ cân

67

Biểu đồ 3.6. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.6 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo

từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ bình thường

đều chiếm tỷ lệ khoảng hơn 80%, lần lượt là 85,5% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở

nhóm 8 tuổi, 87,7% ở nhóm 9 tuổi và 93,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ suy dinh

dưỡng nhẹ cân cao nhất là ở nhóm 7 tuổi với 11,1%, theo sau là nhóm 8 và 9 tuổi

với tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân lần lượt là 8,9% và 7,3%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng

68

nhẹ cân thấp nhất là ở nhóm trẻ 10 tuổi với 5,4%. Tỷ lệ thừa cân béo phì ở cả

bốn nhóm tuổi đều dưới 6%, cao nhất là ở nhóm 8 tuổi với 5,8%, theo sau là

nhóm 9 và 7 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì lần lượt là 5% và 3,4% và thấp nhất

100%

8,3%

9,0%

90%

80%

70%

60%

50%

83,7%

ệ l ỷ T

90,5%

40%

30%

20%

10%

7,2%

1,2%

0%

Nam (n=387)

Nữ (n=337)

p<0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD nhẹ cân

là nhóm 10 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì là 1,3%.

Biểu đồ 3.7. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo giới tại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.7 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại địa bàn

nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh dưỡng

69

nhẹ cân đều chiếm khoảng trên 80% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân

chiếm khoảng hơn 8% và tỷ lệ thừa cân béo phì đều dưới 10%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ

bình thường là 90,5% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ nam là 83,7%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ

suy dinh dưỡng nhẹ cân và thừa cân béo phì ở trẻ nữ đều thấp hơn các tỷ lệ này ở

100%

6,9%

8,6%

9,9%

90%

80%

70%

60%

50%

87,2%

ệ l ỷ T

86,7%

86,8%

40%

30%

20%

10%

5,9%

4,7%

3,3%

0%

Tây Giang (n=303)

Tây Lương (n=233)

Tây Tiến (n=188)

p>0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD nhẹ cân

trẻ nam, lần lượt là 8,3% và 1,2% ở trẻ nữ và 9% và 7,2% ở trẻ nam.

Biểu đồ 3.8. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo xã tại địa bàn

nghiên cứu

70

Biểu đồ 3.8 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại địa

bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ hơn 80%,

theo sau đó là tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân từ 6,9-9,9% và cuối cùng là tỷ lệ trẻ thừa

cân béo phì (3,3-5,9%). Sự khác biệt giữa các xã về tỷ lệ trẻ theo các tình trạng

n=848

6,5%

7,1%

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD gầy còm

86,4%

SDD nhẹ cân không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Biểu đồ 3.9. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu

Biểu đồ 3.9 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại

địa bàn nghiên cứu. Trong số 848 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ bình

thường chiếm 86,4%, trong khi đó, tỷ lệ trẻ trẻ suy dinh dưỡng gầy còm là

7,1%. Tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì chiếm 6,5%.

100%

5,9%

7,1%

7,2%

8,2%

80%

60%

87,3%

85,3%

84,1%

ệ l ỷ T

88,9%

40%

20%

7,7%

7,6%

6,8%

3,9%

0%

7 Tuổi (n=207)

8 Tuổi (n=225)

9 Tuổi (n=221)

10 Tuổi (n=195)

p>0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD gầy còm

71

Biểu đồ 3.10. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo tuổi tại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.10 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo

từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ bình thường

đều chiếm tỷ lệ khoảng hơn 80%, lần lượt là 88,9% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở

nhóm 8 tuổi, 87,3% ở nhóm 9 tuổi và ở nhóm 10 tuổi là 84,1%. Tỷ lệ suy dinh

dưỡng gầy còm cao nhất là ở nhóm 10 tuổi với 8,2%, theo sau là nhóm 7 và 8

tuổi với tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm lần lượt là 7,2% và 7,1%. Tỷ lệ suy dinh

72

dưỡng gầy còm thấp nhất là ở nhóm trẻ 8 tuổi với 5,9%. Tỷ lệ thừa cân béo phì

ở cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, cao nhất là ở nhóm 10 tuổi với 7,7%, theo

sau là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì lần lượt là 7,6% và 6,8% và

100%

6,8%

7,5%

90%

80%

70%

60%

82,1%

50%

ệ l ỷ T

91,5%

40%

30%

20%

10%

11,1%

1,0%

0%

Nam (n=459)

Nữ (n=389)

p<0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD gầy còm

thấp nhất là nhóm 7 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì là 3,9%.

Biểu đồ 3.11. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo giới tại địa bàn

nghiên cứu

Biểu đồ 3.11 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa

bàn nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh

73

dưỡng gầy còm đều chiếm khoảng trên 80%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ bình thường là

91,5% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ nam là 82,1%. Tương tự, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng

gầy còm ở trẻ nữ cao hơn các tỷ lệ này ở trẻ nam, lần lượt là 7,5% và 6,8%.

Ngược lại, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì ở trẻ nữ là 1%, thấp hơn tỷ lệ này ở trẻ

100%

3,7%

7,6%

8,7%

90%

80%

70%

60%

88,4%

50%

85,8%

ệ l ỷ T

85,7%

40%

30%

20%

10%

7,9%

6,6%

5,6%

0%

Tây Giang (n=358)

Tây Lương (n=275)

Tây Tiến (n=215)

p>0,05 (2)

Thừa cân béo phì

Bình thường

SDD gầy còm

nam là 11,1%.

Biểu đồ 3.12. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo xã tại địa bàn

nghiên cứu

74

Biểu đồ 3.12 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa

bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ cao nhất,

trên 80%, tỷ lệ trẻ SDD gầy còm từ 3,7-8,7% và cuối cùng là tỷ lệ trẻ thừa cân

béo phì (5,6-6,6%). Sự khác biệt giữa các xã về tỷ lệ trẻ theo các tình trạng

SDD gầy còm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

75

3.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Trong tổng số 246 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, có 216 trẻ đồng ý

tham gia vào nghiên cứu.

Bảng 3.2. Phân bố theo tuổi và giới của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại

địa bàn nghiên cứu

Tuổi

Nam

Nữ

Chung

p

>0,05 (2 test)

7 tuổi 8 tuổi 9 tuổi 10 tuổi Chung

n 24 37 29 30 120

% 24,5 29,2 25,5 20,8 100

% 11,1 17,1 13,4 13,9 55,6

n 53 63 55 45 216

n 29 26 26 15 96

% 13,4 12,0 12,0 6,9 44,4 Bảng 3.2 cho thấy trong số 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đồng ý

tham gia vào nghiên cứu, tỷ lệ số trẻ nam cao hơn tỷ lệ số trẻ nữ là 11,2% với

tỷ lệ lần lượt là 55,6% và 44,4%. Tỷ lệ số lượng trẻ chậm tăng trưởng chiều cao

đồng ý tham gia vào nghiên cứu theo độ tuổi cao nhất là 8 tuổi với tỷ lệ 29,2%,

9 tuổi xếp thứ hai với tỷ lệ 25,5%, tiếp sau là 7 tuổi với 24,5% và cuối cùng là

10 tuổi với 20,8%. Đối với phân bố giới tính theo tuổi, ở ba nhóm tuổi 8, 9 và

10 tuổi, tỷ lệ trẻ nam đều cao hơn tỷ lệ trẻ nữ, trong khi ở nhóm 7 tuổi, tỷ lệ

nam và nữ có xu hướng ngược lại. Đối với phân bố độ tuổi theo giới tính, ở trẻ

nữ, độ tuổi chiếm đa số là 7 tuổi (13,4%) và độ tuổi có tỷ lệ thấp nhất là 10 tuổi

với 6,9%. Trong khi đó, phân bố độ tuổi theo giới tính ở trẻ nam cho thấy xu

hướng khác biệt so với ở trẻ nữ, tỷ lệ trẻ trong nhóm 8 tuổi là cao nhất với

17,1% còn tỷ lệ trẻ ở độ tuổi 7 là thấp nhất với 11,1%.

76

Bảng 3.3. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion,

nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

9 tuổi

7 tuổi

8 tuổi

Tổng

10 tuổi

p

(n=55) 0,64

BMD

(n=53) 0,56

(n=63) 0,60

(n=216) 0,61

(n=45) 0,66

<0,05*

(g/cm2)1

(0,51; 0,6)

(0,55; 0,63)

(0,59; 0,68)

(0,61; 0,69)

(0,56; 0,66)

16,09

19,19

22,88

21,48

20

BMC (g)1

(14,33;

(17,26;

(21,32;

<0,05*

(19,7; 23,36)

(17,2; 22,18)

18,02)

20,83)

24,56)

Canxi

1,09±0,05

1,06±0,05

1,1±0,07

1,07±0,05

1,08±0,06

>0,05**

(mmol/l)2

Vitamin D

29,5±5,62

30,66±7,22

30,21±7,05

32,86±6,86

30,72±6,8

<0,05**

(ng/mL)2

103,6

103,9

109,25

102,6

Osteocalcin

97,08

(82,59;

(85,99;

(92,43;

(86,63;

>0,05*

(ng/mL)1

(82,5; 110)

120,5)

121,1)

123,9)

118,71)

1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Kruskal-Wallis test 2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:ANOVA test

bàn nghiên cứu theo tuổi

Bảng 3.3 trình bày đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ

canxi ion, nồng độ vitamin D và nồng độ osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo tuổi. BMD, BMC và nồng

độ vitamin D ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao cho thấy xu hướng tăng theo tuổi

(p<0,05), với giá trị trung bình của từng chỉ số lần lượt là 0,61 (0,56; 0,66)g/cm2,

20 (17,2; 22,18)g và 30,72±6,8ng/mL. Nồng độ Canxi ion và osteocalin trung

bình lần lượt là 1,08±0,06mmol/l và 102,6 (86,63; 118,71)ng/mL và không có

sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi (p>0,05).

77

Bảng 3.4. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion,

nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

Nam

Nữ

Tổng

p

>0,05*

BMD (g/cm2)1 BMC (g)1

>0,05*

(n=120) 0,61 (0,56; 0,65) 19,8 (17,65; 22,34) 1,08±0,06

(n=96) 0,62 (0,55; 0,67) 20,11 (16,21; 21,89) 1,08±0,06

(n=216) 0,61 (0,56; 0,66) 20 (17,2; 22,18) 1,08±0,06

>0,05**

29,37±6,41

31,8±6,93

30,72±6,8

<0,05**

>0,05*

103,3 (87,36; 119,8)

102,6 (86,63; 118,71)

Canxi (mmol/l)2 Vitamin D (ng/mL)2 99,18 Osteocalcin (ng/mL)1 (85,8; 116,81) 1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Mann-Whitney test 2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:T-test độc lập

bàn nghiên cứu theo giới tính

Bảng 3.4 mô tả đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ

canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều

cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo giới tính. Các chỉ số BMD,

BMC, nồng độ Canxi ion và nồng độ osteocalcin không có sự khác biệt có ý

nghĩa thống kê giữa hai giới (p>0,05). Nồng độ vitamin D ở nam giới cao hơn

so với nữ giới có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với các giá trị lần lượt là 31,8±6,93

và 29,37±6,41ng/mL.

Bảng 3.5. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion,

nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Tổng

p

BMD (g/cm2)1

<0,05*

BMC (g)1

<0,05*

Canxi (mmol/l)2

(n=188) 0,61 (0,56; 0,67) 20,61 (17,72; 22,41) 1,08±0,06

(n=28) 0,56 (0,5; 0,61) 17,06 (16,66; 18,76) 1,08±0,05

(n=216) 0,61 (0,56; 0,66) 20 (17,2; 22,18) 1,08±0,06

>0,05**

Vitamin D

30,76±6,91

30,43±6,05

30,72±6,8

>0,05**

(ng/mL)2

Osteocalcin

103,5 (87,48; 120,05)

>0,05*

96,16 (82,82; 109,83)

102,6 (86,63; 118,71)

(ng/mL)1

1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Mann-Whitney test 2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:T-test độc lập

bàn nghiên cứu theo tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi

78

Bảng 3.5 mô tả đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ

canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều

cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo tình trạng SDD thấp còi. Các

chỉ số nồng độ Canxi ion, nồng độ vitamin D và nồng độ osteocalcin không

có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ có nguy cơ SDD thấp còi và trẻ

SDD thấp còi (p>0,05). Chỉ số BMD và BMC ở trẻ SDD thấp còi thấp hơn có

ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với trẻ có nguy cơ SDD thấp còi, các giá trị lần

lượt là 0,56 (0,5; 0,61) và 0,61 (0,56; 0,67)g/cm2 với BMD và 17,06 (16,66;

18,76) và 20 (17,2; 22,18)g với BMC.

Bảng 3.6. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao

7 tuổi

8 tuổi

9 tuổi

p

n

%

n

%

n

%

10 tuổi % n

Chung n

%

1

1,9

0

0

2

3,6

1

2,2

4

1,9

>0,05*

Canxi ion bình thường Canxi ion thấp Tổng

52 53

98,1 100

63 63

100 100

53 55

96,4 100

44 45

97,8 100

212 216

98,1 100

*:Fisher's exact test

tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi

Bảng 3.6 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo độ tuổi. Tỷ lệ trẻ có canxi ion thấp

trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 98,1%. Trong đó, ở nhóm 8 tuổi, tất cả trẻ đều có

nồng độ canxi ion thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa các

nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.7. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại

Nam

Nữ

Chung

p

>0,05*

n 2 118 120

% 1,7 98,3 100

n 2 94 96

% 2,1 97,9 100

n 4 212 216

% 1,9 98,1 100

Canxi ion bình thường Canxi ion thấp Tổng

*:Fisher's exact test

địa bàn nghiên cứu theo giới

Bảng 3.7 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion

79

thấp ở cả trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 98,3% và 97,9%. Sự khác biệt về phân bố

tình trạng canxi ion giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.8. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa

p

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Chung

>0,05*

n 4 184 188

% 2,1 97,9 100

n 0 28,0 28

% 0 100 100

n 4 212 216

% 1,9 98,1 100

Canxi ion bình thường Canxi ion thấp Tổng

*:Fisher's exact test

bàn nghiên cứu theo phân loại SDD thấp còi

Bảng 3.8 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại suy dinh dưỡng thấp còi.

Tỷ lệ trẻ có canxi ion thấp trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới

97,9%. Trong khi đó, 100% trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ canxi

ion thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa trẻ có nguy cơ SDD

thấp còi và trẻ SDD thấp còi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.9. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng

p

*

7 tuổi (n=53) n 21 32 53

% 39,6 60,4 100

8 tuổi (n=63) n 34 29 63

% 54,0 46,0 100

9 tuổi (n=55) n 31 24 55

% 56,4 43,6 100

10 tuổi (n=45) n 30 15 45

% 66,7 33,3 100

Chung (n=216) % n 53,7 >0,05 116 46,3 100 100 216

Vitamin D bình thường Vitamin D thấp Tổng *:2test

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi

Bảng 3.9 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ

chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo độ tuổi. Tỷ lệ trẻ có

nồng độ vitamin D thấp trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 46,3%. Đối với phân bố

tình trạng nồng độ vitamin D theo độ tuổi, tỷ lệ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ 7

tuổi là cao nhất với 60,4% trẻ 7 tuổi và thấp nhất là tỷ lệ trẻ 10 tuổi với 33,3%

trẻ 10 tuổi có nồng độ vitamin D thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng

vitamin D giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

80

Bảng 3.10. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng

Nam

Nữ

Chung

p

<0,05*

n 72 48 120

% 60,0 40,0 100

n 44 52 96

% 45,8 54,2 100

n 116 100 216

% 53,7 46,3 100

Vitamin D bình thường Vitamin D thấp Tổng *:2test

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới

Bảng 3.10 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ

chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Tỷ lệ trẻ có nồng

độ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ nam thấp hơn trẻ nữ, lần lượt là 40% và 54,2%.

Sự khác biệt về phân bố tình trạng nồng độ vitamin D giữa hai giới có ý nghĩa

thống kê với p<0,05.

Bảng 3.11. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng

Nguy cơ SDD thấp còi

SDD thấp còi

Chung

p

(n=188)

(n=28)

(n=216)

>0,05*

n 102 86 188

% 54,3 45,7 100

n 14 14 28

% 50 50 100

n 116 100 216

% 53,7 46,3 100

Vitamin D bình thường Vitamin D thấp Tổng *:2test

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại SDD

Bảng 3.11 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ

chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại suy dinh

dưỡng thấp còi. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong nhóm nguy cơ suy

dinh dưỡng thấp còi lên tới 45,7%. Trong khi đó, một nửa số trẻ suy dinh dưỡng

thấp còi đều có nồng độ nồng độ vitamin D thấp. Sự khác biệt về phân bố tình

trạng canxi ion giữa trẻ có nguy cơ SDD thấp còi và trẻ SDD thấp còi không

có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

81

3.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng

và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao

tại địa bàn nghiên cứu

Trong số 216 trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao đã tham gia đánh giá một

số chỉ số sức khỏe xương, có 206 trẻ em được lựa chọn vào nghiên cứu can thiệp.

Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi và giới giữa hai nhóm. Sau

can thiệp, toàn bộ 206 trẻ đều đảm bảo điều kiện để được đưa vào phân tích.

Bảng 3.12. Thay đổi cân nặng của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Cân nặng (kg)

T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ 22,79 23,651 24,461, 2 0,90 0,81 1,70 SD 4,30 4,39 4,58 0,70 0,90 1,13 X̅ 22,92 23,931 24,961, 2 1,01 1,03 2,04 SD 4,73 4,69 4,68 0,53 0,51 0,78 >0,05* >0,05* >0,05* >0,05* <0,05* <0,05**

Thay đổi cân nặng (kg) *: Mann-Whitney test **: T-test độc lập 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.12, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về cân nặng giữa

nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về cân nặng giữa hai

nhóm. Cân nặng trung bình của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê

khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong

3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng cân nặng của nhóm can thiệp cao

hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,01±0,53kg và 0,9±0,7kg (p>0,05). Trong 3 tháng

tiếp theo, mức trung bình tăng cân nặng của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao

hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,03±0,51kg và 0,81±0,9kg, mức tăng của nhóm

can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung,

sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng cân nặng

82

là 2,04±0,78kg, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với

mức tăng cân nặng là 1,7±1,13kg.

Bảng 3.13. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng của đối tượng nghiên cứu

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả nhóm chứng 3,8% 3,4% 7,3% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 4,4% 4,3% 8,9% Hiệu quả can thiệp 0,6% 0,9% 1,6%

Bảng 3.13 trình bày hiệu quả của can thiệp lên cân nặng của đối tượng

nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và

toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 0,6%, 0,9% và 1,6%.

Bảng 3.14. Thay đổi chiều cao của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

X̅ 122,14 122,871 123,811, 2 0,73 0,94 1,68 T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 SD 5,89 6,03 6,18 0,64 0,62 0,88 X̅ 121,76 123,101 124,401, 2 1,34 1,29 2,63 SD 6,20 6,30 6,31 0,71 0,45 0,74 >0,05* >0,05* >0,05* <0,05* <0,05** <0,05**

Chiều cao (cm) Thay đổi chiều cao (cm) *: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.14, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về chiều cao

giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về chiều cao giữa

hai nhóm. Chiều cao trung bình của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống

kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp.

Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng chiều cao của nhóm can thiệp

cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,34±0,71cm và 0,73±0,64cm (p<0,05). Trong

3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng chiều cao của nhóm can thiệp vẫn tiếp

tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,29±0,45cm và 0,94±0,62cm, mức tăng

83

của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn

chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng

chiều cao là 2,63±0,74cm, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm

chứng với mức tăng chiều cao là 1,68±0,88cm.

Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao của đối tượng nghiên cứu

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả nhóm chứng 0,6% 0,8% 1,4% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 1,1% 1,1% 2,2% Hiệu quả can thiệp (%) 0,5% 0,3% 0,8%

Bảng 3.15 trình bày hiệu quả của can thiệp lên chiều cao của đối tượng

nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và

toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 0,5%, 0,3% và 0,8%.

Bảng 3.16. Thay đổi HAZ trung bình của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

HAZ

Thay đổi HAZ

*: Mann-Whitney test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ -1,45 -1,541 -1,591, 2 -0,09 -0,08 -0,14 SD 0,42 0,43 0,45 0,12 0,56 0,16 X̅ -1,50 -1,43 -1,48 0,01 0,02 0,02 SD 0,44 0,60 0,43 0,12 0,13 0,13 >0,05* >0,05* <0,05* <0,05* <0,05* <0,05*

Theo bảng 3.16, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về HAZ giữa

nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về HAZ giữa hai

nhóm. HAZ trung bình của nhóm chứng thấp hơn có ý nghĩa thống kê khi so

sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi

đó, sự thay đổi HAZ của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều không có sự

khác biệt khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can

84

thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng HAZ của nhóm can

thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,01±0,12 và -0,09±0,12 (p<0,05). Trong

3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng HAZ của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục

cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,02±0,13 và -0,08±0,56, mức tăng của nhóm

can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung,

sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng HAZ là

0,02±0,13, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức

tăng HAZ là -0,14±0,16.

Bảng 3.17. Phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh sưỡng thấp còi trước

và sau can thiệp

Thời điểm

Nhóm chứng (n=103) Nguy cơ SDD thấp Nhóm can thiệp (n=103) Nguy cơ SDD thấp

T0 T3 T6 Bình còi thường n % n % n % 0 0 90 87,4 13 12,6 3,9 82 79,6 17 16,5 4 2,9 80 77,7 20 19,4 3

Bình còi thường n % n % n % 0 0 89 86,4 14 13,6 4,8 86 83,5 12 11,7 5 7,8 83 80,5 12 11,7 8 Bảng 3.17 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh

dưỡng thấp còi trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, mặc dù tỷ lệ trẻ

bình thường tăng từ 0% tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu lên thành 3,9% sau 3

tháng đầu can thiệp, tuy nhiên lại giảm còn 2,9% khi kết thúc can thiệp. Tỷ lệ

suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm chứng lần lượt tăng từ 12,6% trước can thiệp

lên thành 16,5% sau 3 tháng can thiệp và lên 19,4% sau khi kết thúc can thiệp.

Ở nhóm can thiệp, tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi tăng từ 0% lên 4,8%

và 7,8% sau 3 tháng và 6 tháng can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm

can thiệp cũng giảm từ 13,6% tại thời điểm bắt đầu can thiệp xuống còn 11,7%

sau 3 tháng can thiệp và duy trì cho đến hết nghiên cứu.

85

Bảng 3.18. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ có suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy

dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu

Chỉ số hiệu quả Chỉ số hiệu quả Hiệu quả can

nhóm chứng nhóm can thiệp thiệp

3 tháng đầu 3,9% 4,8% 0,9%

3 tháng cuối 1% 3,1% 2,1%

6 tháng can thiệp 2,9% 7,8% 4,9%

Bảng 3.18 trình bày hiệu quả của can thiệp lên tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp

còi và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả

can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can

thiệp lần lượt là 0,9%, 2,1% và 4,9%.

Bảng 3.19. Thay đổi mật độ xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

X̅ 0,60 0,60 0,641, 2 0,00 0,04 0,04 T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 SD 0,08 0,08 0,08 0,05 0,06 0,07 X̅ 0,62 0,661 0,741, 2 0,04 0,08 0,12 SD 0,08 0,10 0,11 0,04 0,07 0,07 <0,05** <0,05* <0,05* <0,05* <0,05* <0,05*

BMD (g/cm2) Thay đổi BMD (g/cm2) *: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.19, tại thời điểm T0, mật độ xương trung bình của nhóm

chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với

thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay

đổi mật độ xương của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý nghĩa

thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can

thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng mật độ xương của

86

nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,04±0,04g/cm2 và

0±0,05g/cm2 (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng mật độ

xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là

0,08±0,07g/cm2 và 0,04±0,06g/cm2, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn

nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng

thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng mật độ xương là

0,12±0,07g/cm2, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với

mức tăng mật độ xương là 0,04±0,07g/cm2.

Bảng 3.20. Hiệu quả can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả nhóm chứng 0,0% 6,7% 6,7% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 6,5% 12,1% 19,4% Hiệu quả can thiệp 6,5% 5,5% 12,7%

Bảng 3.20 trình bày hiệu quả của can thiệp lên mật độ xương của đối

tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp

theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 6,5%, 5,5% và 12,7%.

Bảng 3.21. Thay đổi khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

BMC (g)

Thay đổi BMC (g)

*: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ 19,78 20,611 23,481, 2 0,83 2,86 3,69 SD 3,63 3,60 3,66 0,93 2,47 2,90 X̅ 19,99 22,581 27,991, 2 2,59 5,41 8,00 SD 4,00 4,51 6,76 2,00 3,97 5,02 >0,05** <0,05* <0,05* <0,05* <0,05* <0,05*

Theo bảng 3.21, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về khối lượng

xương giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về khối

87

lượng xương giữa hai nhóm. Khối lượng xương của từng nhóm đều cao hơn có

ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng

đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng khối lượng

xương của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 2,59±2g và

0,83±0,93g (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng khối lượng

xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là

5,41±3,97g và 2,86±2,47g, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng

có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can

thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng khối lượng xương là 8,00±5,02g, cao hơn

có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng khối lượng

xương là 3,96±2,9g.

Bảng 3.22. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả nhóm chứng 4,2% 13,9% 18,7% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 13,0% 24,0% 40,0% Hiệu quả can thiệp 8,8% 10,0% 21,3%

Bảng 3.22 trình bày hiệu quả của can thiệp lên mật độ xương của đối

tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp

theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,8%, 10,0% và 21,3%.

88

Bảng 3.23. Thay đổi canxi ion của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Canxi ion (mmol/l)

SD 0,06 0,09 0,18 0,10 0,16 0,18 T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ 1,08 1,191 1,821, 2 0,11 0,63 0,75 X̅ 1,09 1,231 1,851, 2 0,14 0,63 0,77 SD 0,06 0,06 0,12 0,06 0,11 0,12 >0,05* <0,05* <0,05* <0,05* >0,05* >0,05*

Thay đổi canxi ion (mmol/l) *: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.23, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ canxi

ion giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về nồng độ

canxi ion giữa hai nhóm. Nồng độ canxi ion của từng nhóm đều cao hơn có ý

nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu

can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng nồng độ canxi ion

của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,14±0,06mmol/l và

0,11±0,1mmol/l (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng nồng

độ canxi ion của nhóm can thiệp tương tự nhóm chứng, lần lượt là

0,63±0,11mmol/l và 0,63±0,16mmol/l. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời

gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ canxi ion là

0,77±0,12mmol/l trong khi nhóm chứng có mức tăng nồng độ canxi ion là

0,75±0,18mmol/l.

89

Bảng 3.24. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ canxi ion trước và sau

can thiệp

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Bình thường Canxi ion thấp Bình thường Canxi ion thấp

T0 T3 T6 n 2 46 103 % 1,9 44,7 100 n 101 57 0 % 98,1 55,3 0 n 1 86 103 % 1,0 83,5 100 n 102 17 0 % 99,0 16,5 0

Bảng 3.24 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại canxi ion

trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ canxi ion thấp giảm từ

98,1% xuống còn 55,3% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm xuống còn 0% sau

3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tý lệ trẻ canxi ion thấp sau 3 tháng đầu can

thiệp cũng được quan sát thấy ở nhóm can thiệp. Tuy nhiên, sau 3 tháng đầu

can thiệp, tỷ lệ canxi ion thấp ở nhóm can thiệp giảm từ 99% xuống chỉ còn

16,5% và tiếp tục giảm còn 0% sau 3 tháng tiếp theo tương tự nhóm chứng.

Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp lên canxi ion của đối tượng nghiên cứu

Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp

Canxi ion

Chỉ số hiệu quả nhóm chứng 10,2% 52,9% 68,5% 12,8% 50,4% 69,7% Hiệu quả can thiệp (%) 2,7% -2,5% 1,2%

Tỷ lệ canxi ion huyết thanh thấp 43,6% 100,0% 100,0% 83,3% 100,0% 100,0% 39,7% 0,0% 0,0%

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp 3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp

Bảng 3.25 trình bày hiệu quả của can thiệp lên canxi ion và tỷ lệ canxi

ion huyết thanh thấp của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp lên canxi

ion của giai đoạn 3 tháng đầu và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 2,7% và

90

1,2%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ canxi ion huyết thanh thấp là 39,7% trong 3

tháng đầu can thiệp.

Bảng 3.26. Thay đổi vitamin D của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

p

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Vitamin D (ng/mL)

T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ 31,07 31,14 37,851, 2 0,07 6,71 6,79 SD 6,26 5,86 6,75 3,82 4,27 4,93 X̅ 30,44 31,541 40,221, 2 1,10 8,68 9,78 SD 7,59 6,61 7,21 3,64 4,47 5,68 >0,05* >0,05** <0,05* <0,05** <0,05* <0,05**

Thay đổi vitamin D (ng/mL) *: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.26, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ

vitamin D giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về

nồng độ vitamin D giữa hai nhóm. Nồng độ vitamin D trung bình của nhóm

chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với

thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay

đổi nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý

nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu

can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng nồng độ vitamin

D của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,1±3,64ng/mL và

0,07±3,82ng/mL (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng nồng

độ vitamin D của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm

chứng, lần lượt là 8,68±4,47ng/mL và 6,71±4,27ng/mL. Nhìn chung, sau toàn

bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ vitamin D

là 9,78±5,68ng/mL có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng có mức tăng nồng

độ vitamin D là 6,79±4,93ng/mL.

91

Bảng 3.27. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ vitamin D trước và sau

can thiệp

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Bình thường Bình thường

Vitamin D thấp Vitamin D thấp

T0 T3 T6 n 61 60 89 % 59,2 58,3 86,4 n 42 43 14 % 40,8 41,8 13,6 n 49 55 95 % 47,6 53,4 92,2 n 54 48 8 % 52,4 46,6 7,8

Bảng 3.27 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ

vitamin D trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ nồng độ vitamin

D thấp tăng từ 40,8% lên 41,8% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm xuống còn

13,6% sau 3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tý lệ trẻ nồng độ vitamin D thấp được

quan sát thấy ở nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can thiệp, tỷ lệ nồng độ vitamin

D thấp ở nhóm can thiệp giảm từ 52,4% xuống còn 46,6% và tiếp tục giảm chỉ

còn 7,8% sau 3 tháng tiếp theo tương tự nhóm chứng.

Bảng 3.28. Hiệu quả can thiệp lên vitamin D của đối tượng nghiên cứu

Hiệu quả can thiệp

Chỉ số hiệu quả nhóm chứng

0,2% 21,5% 21,8% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 3,6% 27,5% 32,1% 3,4% 6,0% 10,3%

2,5% 67,5% 11,1% 83,3% 8,6% 15,8%

66,7% 85,1% 18,4% Tỷ lệ vitamin D huyết thanh thấp Vitamin D 3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp 3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp

Bảng 3.28 trình bày hiệu quả của can thiệp lên nồng độ vitamin D và tỷ lệ

nồng độ vitamin D huyết thanh thấp của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can

thiệp lên nồng độ vitamin D của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn

92

bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 3,4%, 6% và 10,3%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ

nồng độ vitamin D huyết thanh thấp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo

và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,6%, 15,8% và 18,4%.

Bảng 3.29. Thay đổi osteocalcin của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp

P

Nhóm chứng (n=103) Nhóm can thiệp (n=103)

Osteocalcin (ng/mL)

T0 T3 T6 T3-T0 T6-T3 T6-T0 X̅ 105,76 105,56 110,441, 2 -0,20 4,87 4,67 SD 26,01 26,41 23,73 11,53 8,44 12,04 X̅ 101,01 102,19 108,361, 2 1,18 6,17 7,35 SD 25,54 29,06 19,22 18,50 15,56 16,14 >0,05** >0,05** >0,05* >0,05** <0,05* >0,05**

Thay đổi osteocalcin (ng/mL) *: Mann-Whitney test **: T-test 1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05

Theo bảng 3.29, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ

osteocalcin giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về nồng

độ osteocalcin giữa hai nhóm. Nồng độ osteocalcin trung bình ở mỗi nhóm đều

cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm

ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức

trung bình tăng nồng độ osteocalcin của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần

lượt là 1,18±18,5ng/mL và -0,2±11,53ng/mL. Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung

bình tăng nồng độ osteocalcin của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so

nhóm chứng, lần lượt là 6,17±15,56ng/mL và 4,87±8,44ng/mL. Nhìn chung, sau

toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ

osteocalcin là 7,35±16,14ng/mL cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng

có mức tăng nồng độ osteocalcin là 4,67±12,04ng/mL.

93

Bảng 3.30. Hiệu quả can thiệp lên osteocalcin của đối tượng nghiên cứu

3 tháng đầu 3 tháng cuối 6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả nhóm chứng -0,2% 4,6% 4,4% Chỉ số hiệu quả nhóm can thiệp 1,2% 6,0% 7,3% Hiệu quả can thiệp 1,4% 1,4% 2,9%

Bảng 3.30 trình bày hiệu quả của can thiệp lên osteocalcin của đối tượng

nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và

toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 1,4%, 1,4% và 2,9%.

94

CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN

4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu

học huyện Tiền Hải, Thái Bình

Nghiên cứu của chúng tôi là một trong số ít các nghiên cứu đã đánh giá

tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại tỉnh Thái Bình cho tới nay.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi,

suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu.

Kết quả cho thấy tỷ lệ các thể suy dinh dưỡng này đều dưới 10%, cụ thể là 3,4%

cho suy dinh dưỡng thấp còi, 8,7% cho suy dinh dưỡng nhẹ cân và 7,1% cho

suy dinh dưỡng gầy còm.

Đối với suy dinh dưỡng thấp còi, trong mẫu gồm 848 trẻ, tỷ lệ trẻ không

bị suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 71%, trong khi tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh

dưỡng thấp còi là 25,6% và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi là 3,4%. Nếu xem

xét các nhóm tuổi riêng lẻ, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng

thấp còi chiếm khoảng 70% trong mỗi nhóm tuổi, với tỷ lệ cụ thể là 70,5% ở

nhóm 7 tuổi, 68% ở nhóm 8 tuổi, 73,3% ở nhóm 9 tuổi và 72,3% ở nhóm 10

tuổi. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi trong cả bốn nhóm tuổi đều

dao động trong khoảng 25%, với tỷ lệ cao nhất là 26,2% ở nhóm tuổi 8 và 10,

tiếp theo là 25,6% ở nhóm tuổi 7 và thấp nhất là 24,4% ở nhóm tuổi 9. Tỷ lệ trẻ

suy dinh dưỡng thấp còi trong cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, với tỷ lệ cao

nhất là 5,8% ở nhóm tuổi 8, tiếp theo là 3,9% ở nhóm tuổi 7 và 2,3% ở nhóm

tuổi 9. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp nhất được ghi nhận ở nhóm trẻ 10

tuổi, chỉ 1,5%. Khi xem xét theo giới tính, chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ không bị suy

dinh dưỡng thấp còi đạt gần 70% trong cả hai giới. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng

thấp còi và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng 30%. Cụ

thể, tỷ lệ trẻ nữ không bị suy dinh dưỡng thấp còi là 72,2%, cao hơn so với tỷ

lệ này ở trẻ nam là 69,9%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ nữ bị suy dinh dưỡng thấp còi và

95

có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi đều thấp hơn so với trẻ nam, lần lượt là

2,8% và 24,9% đối với trẻ nữ, và 3,9% và 26,1% đối với trẻ nam.

Đối với tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân, chúng tôi đã quan sát trên

724 trẻ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh

dưỡng bình thường là 86,9%, trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 8,7%

và tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì là 4,4%. Đối với cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ có tình

trạng dinh dưỡng bình thường đều vượt qua mức 80%. Cụ thể, tỷ lệ là 85,5% ở

nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,7% ở nhóm 9 tuổi và 93,3% ở nhóm 10

tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân cao nhất được ghi nhận ở nhóm 7 tuổi với

11,1%, tiếp theo là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 8,9% và 7,3%. Nhóm

trẻ 10 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân thấp nhất là 5,4%. Tất cả bốn nhóm

tuổi đều có tỷ lệ thừa cân béo phì dưới 6%. Nhóm 8 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo

phì cao nhất là 5,8%, tiếp theo là nhóm 9 và 7 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 5% và

3,4%. Nhóm 10 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất là 1,4%. Xem xét theo

giới tính, tỷ lệ trẻ nam có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 83,7%, thấp hơn

so với tỷ lệ này ở trẻ nữ, là 90,5%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ nữ suy dinh dưỡng

nhẹ cân và thừa cân béo phì đều thấp hơn so với trẻ nam. Cụ thể, tỷ lệ suy dinh

dưỡng nhẹ cân là 8,3% và tỷ lệ thừa cân béo phì là 1,2% ở trẻ nữ, trong khi tỷ

lệ tương ứng ở trẻ nam là 9% và 7,2%.

Đối với tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm, chúng tôi đã quan sát 848

trẻ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng

bình thường là 86,4%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng gầy còm là 7,1%

và tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì là 6,5%. Đối với cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ có tình

trạng dinh dưỡng bình thường đều vượt qua mức 80%. Cụ thể, tỷ lệ là 88,9% ở

nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,3% ở nhóm 9 tuổi và 84,1% ở nhóm 10

tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm cao nhất được ghi nhận ở nhóm 10 tuổi với

8,2%, tiếp theo là nhóm 7 và 8 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 7,2% và 7,1%. Nhóm

96

trẻ 8 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm thấp nhất là 5,9%. Tất cả bốn nhóm

tuổi đều có tỷ lệ thừa cân béo phì dưới 10%. Nhóm 10 tuổi có tỷ lệ thừa cân

béo phì cao nhất là 7,7%, tiếp theo là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 7,6%

và 6,8%. Nhóm 7 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất là 3,9%. Xem xét theo

giới tính, tỷ lệ trẻ nữ có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 91,5%, cao hơn

so với tỷ lệ này ở trẻ nam, là 82,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ nữ suy dinh dưỡng gầy

còm cũng cao hơn so với trẻ nam, lần lượt là 7,5% và 6,8%. Trái lại, tỷ lệ trẻ

thừa cân béo phì ở trẻ nữ chỉ chiếm 1%, trong khi tỷ lệ này ở trẻ nam là 11,1%.

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000 của Viện dinh

dưỡng thì tỉ lệ trẻ em 6 – 10 tuổi bị SDD là 26,6%, nông thôn nhiều hơn thành

thị (28,2% so với 19,6%) [88]. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2009 – 2010

của Viện dinh dưỡng thì tỉ lệ trẻ em 5 – 10 tuổi bị SDD thấp còi là 23,4% (Nam

27,5% và Nữ 19,5%) [89]. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 của

Viện dinh dưỡng, ở nhóm trẻ 5-19 tuổi, tỷ lệ SDD thể thấp còi trên toàn quốc

là 14,8%, tỷ lệ SDD nhẹ cân là 12,2%, và tỷ lệ thừa cân béo phì là 19%. Cũng

theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng, tỉnh Thái

Bình có tỷ lệ SDD thấp còi nằm trong khoảng từ 10-20% trẻ dưới 5 tuổi [90].

Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại quận Ninh Kiều, thành phố

Cần Thơ năm 2018-2019 bởi tác giả Trần Tú Nguyệt và cộng sự trên 894 đối

tượng là học sinh tại các trường tiểu học cho kết quả tỷ lệ học sinh có tình trạng

suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ 6,1% ở nam và 9,3% ở nữ; thừa cân, béo phì chiếm

tỉ lệ khá cao với 38% ở nam và 32,5% ở nữ [91]. Kết quả nghiên cứu này cao

hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân có thể đến từ địa bàn

nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác nhau, cũng như điều kiện kinh tế xã

hội của từng vùng khác nhau. Khi so sánh với báo cáo tổng điều tra dinh dưỡng

2019-2020 của Viện dinh dưỡng, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy kết quả

không tương tự như với số liệu toàn quốc và số liệu của tỉnh Cần Thơ [90].

97

Tác giả Nguyễn Thị Mai Anh đã báo cáo tỉ lệ thấp còi ở học sinh 6 – 8

tuổi tại trường tiểu học Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội năm 2006 là 14,1%

[92]. Theo Hồ Thu Mai và cộng sự năm 2007, tỉ lệ thấp còi của học sinh từ 6-

8 tuổi tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội là 28% [93]. Tác giả Lê Thị Hợp và Lê

Nguyễn Bảo Khanh năm 2012 đã báo cáo tỉ lệ thấp còi của học sinh phổ thông

khu vực thành thị, nông thôn và miền núi tại ba tỉnh thành phía Bắc là 6,1%,

20,7% và 23,9% [94]. Nguyễn Song Tú và cộng sự cũng đã báo cáo năm 2017

rằng tỉ lệ thấp còi học sinh tiểu học 7- 10 tuổi tại 5 xã của huyện Phú Bình, tỉnh

Thái Nguyên là 17,2%, tỉ lệ nhẹ cân là 24,5% và gầy còm là 7,9% [47].

Có thể thấy rằng kết quả về tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nghiên cứu này thấp

hơn các số liệu từ các nghiên cứu toàn quốc và 1 số nghiên cứu khác (tỷ lệ trẻ

từ 7 đến 10 tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh

dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu đều dưới 10% lần lượt là 3,4%, 8,7% và

7,1%). Nguyên nhân có thể đến từ việc nghiên cứu này được nghiên cứu tại địa

bàn có khu vực địa lý không quá xa khu vực thành phố, khả năng tiếp cận với

dịch vụ y tế và chăm sóc trẻ em tốt, hơn nữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ 7-10

tuổi trên địa bàn nghiên cứu cũng đang trên xu hướng được cải thiện do được

hưởng lợi từ các hoạt động chăm sóc cho trẻ dưới 5 tuổi đã được triển khai

trong nhiều năm, kiến thức và hành vi dinh dưỡng của các bà mẹ của vùng

nghiên cứu cũng có nhiều thay đổi tích cực do đó có sự chênh lệch giữa tỷ lệ

suy dinh dưỡng các thể trong nghiên cứu của chúng tôi so với các báo cáo tổng

điều tra dinh dưỡng 2019-2020 của Viện dinh dưỡng. Bên cạnh đó, nghiên cứu

của chúng tôi chỉ tiến hành trên cỡ mẫu ở mức độ hạn chế, không đại diện cho

toàn bộ tỉnh Thái Bình, do đó, kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ mô tả thực

trạng dinh dưỡng của trẻ em 7-10 tuổi tại các trường được đưa vào nghiên cứu.

Kết quả này cũng gợi ý về việc có thể đã có những tăng trưởng giúp trẻ vượt

ngưỡng suy dinh dưỡng (-2SD) tại địa bàn nghiên cứu vì vậy đã có sự giảm tỷ

98

lệ suy dinh dưỡng đáng kể, tuy nhiên chúng tôi cũng lưu ý là cân nặng và chiều

cao trung bình của trẻ ở nhóm tuổi này vẫn thấp hơn so với chuẩn tăng trưởng

và vì vậy còn cần các giải pháp can thiệp nhằm đạt được chuẩn tăng trưởng

trong thời gian tới.

Tương tự, một nghiên cứu xuất bản vào năm 2022 được thực hiện bởi

tác giả Lê Thị Hợp và cộng sự nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng của 487

học sinh lứa tuổi tiểu học tại ba tỉnh Điện Biên, Thái Nguyên và Hà Nam cũng

cho thấy kết quả khác với nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ trẻ bị SDD thể gầy

còm và thấp còi chung cho cả 2 giới lần lượt là 5,5% và 15,6%. Tỷ lệ thừa cân

– béo phì chung ở cả 2 giới là 24,2%; với tỷ lệ cao hơn có ý nghĩa ở học sinh

nam (30,1%) so với học sinh nữ (18,3%). Tỷ lệ thừa cân – béo phì ở học sinh

tại Hà Nam chiếm tỉ lệ cao nhất (37%), tiếp đến là Thái Nguyên (30,5%). Tại

Điện Biên tỷ lệ này tương đối thấp là 4,4%. Tỷ lệ thấp còi ở Điện Biên chiếm tỷ

lệ cao nhất là 32,9%, tỷ lệ này ở Thái Nguyên và Hà Nam tương đương nhau là

7,3%. Khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, những kết quả nghiên cứu này

cho thấy tình trạng gánh nặng kép do sự gia tăng tỷ lệ thừa cân béo phì ở học

sinh tiểu học thừa dinh dưỡng bên cạnh các tình trạng suy/thiếu dinh dưỡng [95].

Đối với tình trạng thừa cân béo phì, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì trong

nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu về tình trạng dinh

dưỡng của học sinh lứa tuổi tiểu học tại thành phố Lạng Sơn được xuất bản

năm 2018 bởi Lê Thị Kiều Oanh và cộng sự. Trong nghiên cứu của tác giả này,

tỷ lệ học sinh tiểu học bị thừa cân béo phì là 11,9% , cao gấp hơn hai lần so với

tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì được báo cáo trong nghiên cứu của chúng tôi [96].

Một nghiên cứu khác tại Bình Định năm 2016 cũng cho tỷ lệ thừa cân

béo phì cao hơn nhiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu này, tác giả Trương

Quang Đạt và tác giả Nguyễn Thị Tường Loan đã báo cáo tỷ lệ học sinh nam

thừa cân và béo phì chiếm 21,39% và nữ chiếm 15,31% (p < 0,05). Cùng với

99

đó, tỷ lệ học sinh gầy còm, thấp còi, nhẹ cân và thừa cân - béo phì lần lượt là

10,99%; 4,11%; 8,51% và 18,42% [44].

Một nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học tại huyện

Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 được thực hiện bởi tác giả

Phạm Công Danh và tác giả Phạm Văn Phú, cho kết quả cũng khác biệt so với

nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ suy dinh dưỡng gầy còm

ở học sinh tiểu học là 3,5%. Tỉ lệ thừa cân béo phì ở học sinh là 48,1% trong

đó 25,9% là béo phì [97].

Các nghiên cứu nêu trên cùng với hàng loạt nghiên cứu khác cho kết quả

tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học thường ở mức hai con số và gánh

nặng kép từ suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì như các nghiên cứu tại Đoan

Hùng tỉnh Phú Thọ năm 2022, Củ Chi – thành phố Hồ Chí Minh năm 2018, Hà

Nội năm 2018 và tại thành phố Thái Nguyên năm 2018 [98],[99],[100],[101].

Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi chỉ cho thấy kết quả đáng quan ngại ở

nhóm trẻ suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng. Từ đây có thể thấy

rằng, tại địa bàn nghiên cứu, suy dinh dưỡng vẫn là một tình trạng và gánh nặng

nổi trội đối với sức khỏe và sự phát triển của trẻ tiểu học – độ tuổi đặc biệt quan

trọng ngay trước khi bước vào giai đoạn dậy thì. Do đó, cần nhiều hơn các biện

pháp can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình trong tương lai.

4.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào đánh giá mật độ xương, nồng độ

vitamin D và markers chu chuyển xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp. Trong số 246 trẻ chậm

tăng trưởng chiều cao, có 216 trẻ đồng ý tham gia vào nghiên cứu.

100

Chúng tôi đã tiến hành đánh giá mật độ xương (BMD) của trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao trước khi thực hiện can thiệp tại địa bàn nghiên cứu. Nhìn

chung, giá trị trung vị của mật độ xương cho 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều

cao là 0,61 (0,56; 0,66) g/cm². Giá trị trung vị mật độ xương tăng dần theo độ

tuổi, bắt đầu từ 0,56 g/cm² ở nhóm 7 tuổi, 0,6 g/cm² ở nhóm 8 tuổi, 0,64 g/cm²

ở nhóm 9 tuổi và đạt đến 0,66 g/cm² ở nhóm 10 tuổi. Giá trị trung vị của mật

độ xương ở trẻ nam tương tự như ở trẻ nữ và tương đương với giá trị trung vị

của mật độ xương cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 0,61 (0,56; 0,65) g/cm², 0,62

(0,55; 0,67) g/cm², và 0,61 (0,56; 0,66) g/cm². Giá trị trung vị của mật độ xương

cho trẻ thuộc nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là 0,61 (0,56; 0,67) g/cm²,

cao hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê so với giá trị trung vị của mật độ xương

cho trẻ thuộc nhóm suy dinh dưỡng thấp còi, là 0,56 (0,5; 0,61) g/cm².

Sau đó, chúng tôi tiếp tục đánh giá khối lượng xương của trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước khi thực hiện can thiệp. Nhìn

chung, giá trị trung vị của khối lượng xương cho 216 trẻ chậm tăng trưởng

chiều cao là 20 (17,2; 22,18)g. Giá trị trung vị của khối lượng xương tăng dần

theo độ tuổi, bắt đầu từ 16,09g ở nhóm 7 tuổi, 19,19g ở nhóm 8 tuổi, 21,48g ở

nhóm 9 tuổi và đạt đến 22,88g ở nhóm 10 tuổi. Giá trị trung vị của khối lượng

xương trung bình ở trẻ nam thấp hơn so với trẻ nữ và thấp hơn giá trị trung vị

của khối lượng xương cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 19,8 (17,65; 22,34)g,

20,11 (16,21; 21,89)g và 20 (17,2; 22,18)g. Giá trị trung vị của khối lượng

xương cho trẻ chậm tăng trưởng chiều cao có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi

cao hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, lần lượt là

20,26 ± 3,69g và 16,97 ± 3,04g.

Kết quả đánh giá nồng độ canxi ion trong huyết thanh của trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, giá trị nồng độ canxi ion trung

bình cho 216 trẻ là 1,08 ± 0,06 mmol/l. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình

101

của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo độ tuổi lần lượt là 1,09 mmol/l ở nhóm

7 tuổi, 1,06 mmol/l ở nhóm 8 tuổi, 1,1 mmol/l ở nhóm 9 tuổi và 1,07 mmol/l ở

nhóm 10 tuổi. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình của trẻ nam tương tự như

của trẻ nữ và tương tự giá trị nồng độ canxi ion trung bình cho toàn bộ 216 trẻ,

là 1,08 ± 0,06 mmol/l. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình của trẻ có nguy cơ

suy dinh dưỡng thấp còi tương tự như của trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương

tự giá trị nồng độ canxi ion trung bình cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 1,08 ±

0,06 mmol/l, 1,08 ± 0,05 mmol/l và 1,08 ± 0,06 mmol/l. Tỷ lệ trẻ có nồng độ

canxi ion thấp trong toàn bộ 216 trẻ là 98,1%. Trong nhóm 8 tuổi, tất cả các trẻ

đều có nồng độ canxi ion thấp. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp trong cả trẻ

nam và trẻ nữ lần lượt là 98,3% và 97,9%. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp

trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là 97,9%. Đáng chú ý là 100% trẻ

suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ canxi ion thấp.

Mặc dù chưa có nhiều dữ liệu về tình trạng thiếu canxi ở trẻ trong độ tuổi

tiểu học ở Việt Nam, một vài nghiên cứu về tình trạng canxi ở trẻ trong các độ

tuổi khác cũng cho thấy sự hiện hữu của tình trạng thiếu canxi ở trẻ em cũng

khá phổ biến. Một nghiên cứu được thực hiện tại phòng khám Viện Dinh Dưỡng

năm 2018 cho kết quả rằng, trong số 144 trẻ 6-36 tháng được đưa đến khám

dinh dưỡng tại đây, 46,5% số trẻ bị thiếu canxi. Cụ thể, trong đó, 53,3% số trẻ

SDD bị thiếu canxi, và 41,2% số trẻ đe dọa SDD bị thiếu canxi [102]. Tuy

nhiên, một nghiên cứu khác được thực hiện tại Phòng khám Dinh dưỡng, Bệnh

viện Nhi Trung ương lại chỉ cho kết quả tỷ lệ trẻ thiếu canxi là 3% [103]. Sự

khác biệt về đối tượng, phương pháp, địa điểm và thời gian nghiên cứu, cũng

như là sự không sẵn có của các dữ liệu về tình trạng thiếu canxi ở trẻ từ nghiên

cứu của chúng tôi và các nghiên cứu kể trên không có sự tương đồng rõ rệt.

Kết quả đánh giá nồng độ Vitamin D huyết thanh của trẻ chậm tăng

trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu cho thấy giá trị nồng độ vitamin D

102

trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 30,72±6,8ng/mL. Giá trị

nồng độ vitamin D trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo độ

tuổi lần lượt là 29,5ng/mL ở nhóm 7 tuổi, 30,66ng/mL ở nhóm 8 tuổi,

30,21ng/mL ở nhóm 9 tuổi và tăng lên đến 32,86ng/mL ở nhóm 10 tuổi. Giá trị

nồng độ vitamin D trung bình của trẻ nam cao hơn trẻ nữ và giá trị nồng độ

vitamin D trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là

31,8±6,93ng/mL, 29,37±6,41ng/mL và 30,72±6,8ng/mL. Giá trị nồng độ

vitamin D trung bình của trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi tương tự như

ở trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương tự với giá trị nồng độ vitamin D trung

bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là là 30,76±6,91ng/mL,

30,43±6,05ng/mL và 30,72±6,8ng/mL. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp

trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 46,3%. Đối với phân bố tình trạng nồng độ vitamin

D theo độ tuổi, tỷ lệ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ 7 tuổi là cao nhất với 60,4%

trẻ 7 tuổi và thấp nhất là tỷ lệ trẻ 10 tuổi với 33,3% trẻ 10 tuổi có nồng độ

vitamin D thấp. Tỷ lệ trẻ có nồng độ nồng độ vitamin D thấp ở cả trẻ nam thấp

hơn trẻ nữ, lần lượt là 40% và 54,2%. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong

nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới 45,7%. Trong khi đó, một nửa

số trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ nồng độ vitamin D thấp.

Một nghiên cứu đánh giá thực trạng thiếu vitamin D ở trẻ suy dinh dưỡng

ở các trường mầm non, tiểu học tại hai huyện Lục Yên và Yên Bình, tỉnh Yên

Bái, năm 2017 cho kết quả nồng độ vitamin D trung bình và tỷ lệ trẻ có nồng

độ vitamin D thấp ở mức cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Cụ thể, tỷ

lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp là 58,3%. Hàm lượng vitamin D trung bình là

57,85 nmol/l ở trẻ mầm non và 60,0 nmol/l ở trẻ tiểu học [104].

Tác giả Lưu Thị Mỹ Thục và cộng sự đã đánh giá sự thiếu hụt Vitamin

D ở trẻ 6-11 tuổi tại bệnh viện Nhi trung ương. Kết quả nghiên cứu của tác giả

này cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D chung là 23,9%, ở thành thị cao hơn nông

103

thôn rõ rệt (36,4% so với 17,0%), với p<0,05. Kết quả này thấp hơn kết quả

nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào những

trẻ có phụ huynh nhận thấy trẻ có vấn đề về dinh dưỡng và đưa đi khám [105].

Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện bởi tác giả Đoàn Huy Cường và

cộng sự trên trẻ 9 tuổi tại trường tiểu học thành phố Hải Dương năm 2017 cho

thấy tỷ lệ thiếu vitamin D là 10,6%, trong đó trẻ gái là 12,7% và trẻ trai là 8,7%.

Tỷ lệ nguy cơ thiếu vitamin D là 70,5%, ở nữ là 75,7% cao hơn ở nam là 65,8%,

khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [106],[107]. Mặc dù các nghiên cứu

trên đều cho thấy các kết quả không tương tự so với nghiên cứu của chúng tôi,

tuy nhiên, từ kết các kết quả nghiên cứu đã được trình bày, có thể thấy được

rằng nhìn chung, trẻ suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng thường

sẽ có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp.

Chúng tôi cũng tiến hành đánh giá nồng độ Osteocalcin trong huyết thanh

của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu. Nhìn chung, giá trị

nồng độ osteocalcin trung vị cho 216 trẻ là 102,6 (86,63; 118,71) ng/mL. Giá

trị nồng độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tăng

theo độ tuổi lần lượt là 97,08 ng/mL ở nhóm 7 tuổi, 103,6 ng/mL ở nhóm 8

tuổi, 103,9 ng/mL ở nhóm 9 tuổi và tăng lên đến 109,25 ng/mL ở nhóm 10 tuổi.

Giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của trẻ nam cao hơn trẻ nữ và giá trị nồng

độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là

103,3 (87,36; 119,8) ng/mL, 99,18 (85,8; 116,81) ng/mL và 102,6 (86,63;

118,71) ng/mL. Giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của trẻ có nguy cơ suy dinh

dưỡng thấp còi cao hơn trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương tự với giá trị nồng

độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là

103,5 (87,48; 120,05) ng/mL, 96,16 (58,21; 170) ng/mL và 102,6 (86,63;

118,71) ng/mL. Kết quả này của chúng tôi tương đồng với kết quả của trẻ dậy

thì muộn (102,20±37,13 ng/mL) trong nghiên cứu của Michael năm 2016 trên

104

244 trẻ (dậy thì sớm và dậy thì muộn, với độ tuổi trung bình 11,87±3,77) [108].

Kết quả trong nghiên cứu này thấp hơn nghiên cứu của Ambroszkiewicz với

nồng độ osteocalcin của trẻ nữ ở Phần Lan là 115,6±21,3 ng/ml [109]. Điều này

có thể lý giải là do nghiên cứu trên đo trên trẻ bước vào giai đoạn dậy thì - giai

đoạn mà nồng độ osteocalcin bắt đầu đạt đỉnh. Trong khi đó kết quả của chúng

tôi lại cao hơn rất nhiều nghiên cứu trên trẻ em khỏe mạnh của Đài Loan với

khoảng nồng độ osteocalcin từ 30,2 đến 41 ng/mL và nghiên cứu của Sen A.T.

trên trẻ em tiền dậy thì là 17,2±6,3 ng/mL [110],[111]. Nguyên nhân của sự

khác nhau có thể do đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là những trẻ suy

dinh dưỡng thấp còi hoặc có chiều cao thấp hơn so với chuẩn của tuổi; hơn nữa

việc loại trừ các đối tượng dậy thì sớm chưa được chặt chẽ, ảnh hưởng đến kết

quả nồng độ osteocalcin.

4.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng

và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao

tại địa bàn nghiên cứu

Nhằm đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp cải thiện mật độ

xương và tình trạng dinh dưỡng cho trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu,

chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu can thiệp trên hai nhóm can thiệp và

chứng, với số trẻ trong mỗi nhóm được đưa vào phân tích cuối cùng là 103 trẻ.

Can thiệp gồm hai hoạt động là can thiệp dinh dưỡng và truyền thông giáo dục

sức khỏe.

* Hiệu quả can thiệp lên tình trạng dinh dưỡng

Kết quả đánh giá sự tăng cân sau can thiệp của chúng tôi cho thấy cân

nặng trung bình của từng nhóm đều tăng đáng kể so với thời điểm trước can

thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu, nhóm

can thiệp có mức tăng cân trung bình cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị là

1,01±0,53kg và 0,9±0,7kg (p>0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức

105

tăng cân trung bình của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần

lượt là 1,03±0,51kg và 0,81±0,9kg, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với

p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp kéo dài 6 tháng,

nhóm can thiệp có mức tăng cân nặng là 2,04±0,78kg, đây là mức tăng có ý

nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng cân nặng là

1,7±1,13kg. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3

tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt đạt 0,6%, 0,9% và 1,6%.

Kết quả đánh giá sự gia tăng chiều cao sau can thiệp của chúng tôi cho

thấy chiều cao trung bình của cả hai nhóm đều tăng đáng kể so với thời điểm

trước can thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng

đầu, nhóm can thiệp có mức tăng chiều cao trung bình cao hơn so với nhóm

chứng, với giá trị là 1,34±0,71cm và 0,73±0,64cm (p<0,05). Trong giai đoạn 3

tháng tiếp theo, mức tăng chiều cao trung bình của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục

cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,29±0,45cm và 0,94±0,62cm, và sự khác biệt

này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chun/g, sau toàn bộ khoảng thời gian

can thiệp kéo dài 6 tháng, nhóm can thiệp có mức tăng chiều cao là

2,63±0,74cm, đây là mức tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với

nhóm chứng với mức tăng chiều cao là 1,68±0,88cm. Hiệu quả can thiệp lên

chiều cao trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can

thiệp lần lượt đạt 0,5%, 0,3% và 0,8%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã nhận thấy rằng HAZ trung

bình của nhóm chứng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm trước can

thiệp và sau 3 tháng đầu can thiệp. Tuy nhiên, không có sự thay đổi đáng kể

trong HAZ của nhóm can thiệp so với thời điểm trước can thiệp và sau 3 tháng

đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu, nhóm can thiệp có mức tăng trung

bình HAZ cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị là 0,01±0,12 và -0,09±0,12

(p<0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức tăng trung bình HAZ của

106

nhóm can thiệp vẫn cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,02±0,13 và -0,08±0,56,

và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tổng cộng, sau 6 tháng

can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình HAZ là 0,02±0,13, mức tăng

này cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng

trung bình HAZ là -0,14±0,16. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ bình thường tăng

từ 0% trước can thiệp lên 3,9% sau 3 tháng đầu can thiệp, nhưng lại giảm xuống

2,9% khi kết thúc can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm chứng

tăng từ 12,6% trước can thiệp lên thành 16,5% sau 3 tháng can thiệp và tiếp tục

tăng lên 19,4% khi kết thúc can thiệp. Trong nhóm can thiệp, tỷ lệ trẻ không

suy dinh dưỡng thấp còi tăng từ 0% lên 4,8% sau 3 tháng và 7,8% sau 6 tháng

can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm can thiệp cũng giảm từ

13,6% trước can thiệp xuống còn 11,7% sau 3 tháng can thiệp và duy trì cho

đến cuối nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ suy dinh dưỡng trong giai

đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt đạt

0,9%, 2,1% và 4,9%.

Tổng kết lại, sau 6 tháng can thiệp, cả nhóm can thiệp và nhóm chứng

đều đã có sự cải thiện về cân nặng, chiều cao và HAZ. Tuy nhiên, nhóm can

thiệp đã đạt được mức tăng cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng.

Ở nhóm can thiệp, khi so với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 6 tháng

can thiệp, đã có sự tăng đáng kể về chiều cao, HAZ và BMIZ. Đáng chú ý là

mức tăng chiều cao và HAZ trong 3 tháng cuối cũng cao hơn so với 3 tháng

đầu của can thiệp. Trong khi so sánh giữa hai đối tượng suy dinh dưỡng thấp

còi và nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm can thiệp, sau 6 tháng can

thiệp, nhóm suy dinh dưỡng đã có mức độ tăng chiều cao cao hơn và có ý nghĩa

thống kê so với nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng.

Những kết quả trên cho phép rút ra kết luận bao gồm: Sử dụng sản phẩm

có chứa đa vi chất giúp trẻ có nguy cơ hoặc đang mắc suy dinh dưỡng thấp còi

107

cải thiện được cân nặng và chiều cao. Sử dụng sản phẩm có chứa vitamin A,

vitamin D, canxi và vitamin K2 giúp trẻ có nguy cơ hoặc đang mắc suy dinh

dưỡng thấp còi tăng trưởng chiều cao tốt hơn và thời gian sử dụng càng lâu thì

việc cải thiện chiều cao càng thấy rõ rệt hơn. Trong khi ở cân nặng lại không

thấy điều này. Bổ sung sản phẩm sữa có chứa vitamin A, vitamin D, canxi và

vitamin K2 có thể giúp nhóm trẻ suy dinh dưỡng thấp còi tăng tốc độ phát triển

nhanh hơn.

Tác dụng tăng cân có lẽ đến phần nhiều từ việc tăng thêm năng lượng hàng

ngày cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, cả hai nhóm đều được sử dụng hai

loại sữa có giá trị năng lượng tương đương nhau chỉ khác nhau về thành phần

vitamin K2, do vậy mà việc tăng cân này có thể đến từ cả việc được bổ sung

vitamin K2 kết hợp với công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng.

Bổ sung đa vi chất từ lâu không chỉ là một giải pháp khắc phục cho tình

trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em mà còn có tác dụng đến tăng tưởng ở

trẻ. Nghiên cứu của Abram và cộng sự năm 2003 cho thấy việc bổ sung đa vi

chất dinh dưỡng có tác dụng đến việc thay đổi cân nặng, chỉ số BMI và chu vi

vòng cánh tay và cân nặng theo tuổi tính theo Z-score với p<0,01, nhưng lại

không có tác dụng có ý nghĩa thống kê với chiều cao. Nghiên cứu của Abram

được tiến hành trên 311 trẻ em từ 6-11 tuổi ở vùng nông thôn, tiêu thụ 240ml

nước giải khát có vị hoa quả mỗi ngày liên tục trong 8 tuần. Nước uống này có

năng lượng 100kcal, bổ sung đa vi chất như sắt, vitamin A (beta-carotene),

kẽm, iod, acidfolic…. không giống với sản phẩm sử dụng trong nghiên cứu này

[112]. Trong khi đó nghiên cứu của Ash và cộng sự năm 2003 cũng cho thấy

bổ sung đa vi chất có tác động tích cực đến sự thay đổi cân nặng chiều cao và

BMI của nhóm can thiệp so với nhóm chứng với p=0,001. Nhóm trẻ bổ sung

đa vi chất tăng trung bình nhiều hơn 0,05kg cân nặng và 0,57cm chiều cao,

BMI cũng tăng 0,35kg/m2 [113]. Nghiên cứu của Ash cũng tương đối giống

108

với nghiên cứu của Abram khi cung cấp 250ml nước giải khát với năng lượng

90kcal mỗi ngày trong vòng 6 tháng, và các vi chất bổ sung không giống với

nghiên cứu này. Nghiên cứu của Hyder và cộng sự năm 2007 cho thấy bổ sung

đa vi chất thay đổi cân nặng, chu vi vòng cánh tay và BMI ở nhóm can thiệp.

Tuy nhiên lại không nhận thấy sự biến đổi khác biệt có ý nghĩa thống kê về

chiều cao ở hai nhóm [114]. Nghiên cứu Sarma năm 2006, Sivakumar năm

2006, nghiên cứu Shatrugna năm 2006 và Vazir năm 2006 đều cho thấy sự thay

đổi có ý nghĩa thống kê ở cân nặng, chiều cao, BMI, HAZ, WAZ và tốc độ tăng

cân nặng so với nhóm chứng p<0,05 [115],[116],[117],[118]. Nghiên cứu

Manger năm 2008 và nghiên cứu của Winichagoon năm 2006 đều cho thấy bổ

sung đa vi chất không hề làm tăng các chỉ số nhân trắc có ý nghĩa thống kê

[119],[120]. Tương tự nghiên cứu của Osendarp năm 2007 tại Úc và Indonesia,

nghiên cứu của Solon năm 2003 và nghiên cứu Zimmermann năm 2004 đều

không có sự khác biệt về chỉ số nhân trắc giữa hai nhóm

[121],[122],[123],[124].

Nghiên cứu của nước ngoài có thể cho thấy các kết quả khác nhau về

tăng cân ở nhóm bổ sung đa vi chất, còn tại Việt Nam, hai nghiên cứu của Đỗ

Liên và Trần Thị Thúy Nga năm 2009 bổ sung đa vi chất vào sữa và bánh bích

quy cho trẻ em ở vùng nông thôn đều không có tác dụng tích cực đến việc thay

đổi các chỉ số nhân trắc [65],[125]. Nghiên cứu của Đỗ Liên được tiến hành

trên 454 trẻ trong độ tuổi trung bình từ 5,5-13,4 tuổi, ở Yên Phong- Bắc Ninh,

bổ sung 250ml sữa có chứa 380kcal có 15.5g protein, 45mcg vitamin A, 2.9 IU

vitamin D và 225mg canxi, hàm lượng vitamin K quá nhỏ không được định

lượng và nhiều vi chất khác liên tục trong 6 tháng [65]. Nghiên cứu của Trần

Thị Thúy Nga được thực hiện trên 510 trẻ 6-8 tuổi ở Hưng Yên, sử dụng 30g

bánh bích quy trong 5 ngày/tuần liên tục trong 4 tháng, cung cấp 133kcal,

300mcg vitamin A, 74mcg (2960IU) vitamin D, 10mcg vitamin K và cùng

109

nhiều vi chất khác [125]. Cả hai nghiên cứu này đều sử dụng sản phẩm có năng

lượng không cao bằng sản phẩm nghiên cứu của chúng tôi và hàm lượng các vi

chất nêu trên cũng không cao bằng. Đó có thể là nguyên nhân mà những nghiên

cứu này không quan sát được sự thay đổi các chỉ số nhân trắc trên đối tượng

nghiên cứu.

Theo chuẩn tăng trưởng của WHO, trong độ tuổi tiểu học, trung bình sau

3 tháng, trẻ sẽ tăng khoảng 0,8 cm và 6 tháng là khoảng 1,6 cm. Như vậy, có

thể thấy, trong can thiệp của chúng tôi, cả 2 loại sữa dùng cho nhóm can thiệp

và nhóm chứng có tác dụng làm tăng chiều cao của trẻ nhiều hơn so với chuẩn

tăng trưởng. Nguyên nhân là do cả 2 loại sữa là nguồn cung cấp canxi và

vitamin D cho cơ thể. Canxi đã được nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh

là tham gia vào quá trình tạo xương, vitamin D giúp hỗ trợ hấp thu canxi, từ đó

giúp hỗ trợ tăng trưởng chiều cao cho trẻ. Nghiên cứu của Mugunthan cho thấy

bổ sung canxi và vitamin D cho trẻ có thể giúp trẻ tăng tới 9,1cm/năm [126].

Tuy nhiên, sự khác biệt về mức tăng chiều cao giữa nhóm can thiệp và nhóm

chứng còn có thể được lý giải bởi sự khác nhau giữa thành phần của 2 loại sữa

sử dụng cho nhóm chứng và nhóm can thiệp.

Về cân nặng, trẻ trong nhóm can thiệp của chúng tôi tăng 2,04 kg sau 6

tháng. Kết quả này cao hơn một chút so với kết quả của Đỗ Thị Kim Liên, sau

6 tháng, cân nặng của trẻ nhóm dùng sữa can thiệp tăng 1,6kg; nhóm chứng

tăng 1,5kg và kết quả của Sazawal [65],[127]. Trong nghiên cứu của Sazawal,

sau 1 năm can thiệp, trẻ ở nhóm được bổ sung sữa tăng 3,04kg. Kết quả này

tương đương với nghiên cứu của Anuradha, sau 12 tháng can thiệp, cả nhóm

chứng và nhóm can thiệp đều tăng 4,2kg [128]. Nhưng mức tăng cân nặng này

lại thấp hơn so với nghiên cứu bổ sung Canxi+vitamin A của Yang và cộng sự

(trẻ được bổ sung Canxi+vitamin A tăng 1,08kg sau 3 tháng) [129]. Cùng trong

nghiên cứu của chúng tôi, sau 6 tháng can thiệp cân nặng của nhóm chứng và

110

nhóm can thiệp đều tăng có ý nghĩa thống kê; tương tự như nghiên cứu của

Anuradha và cộng sự [128].

Theo chuẩn tăng trưởng của WHO, sau 3 tháng, trẻ 8-11 tuổi tăng trung

bình 0,5kg và sau 6 tháng có thể tăng tới khoảng 1kg. Như vậy, có thể thấy, cả

2 sản phẩm sử dụng cho nhóm can thiệp và nhóm chứng đều có tác dụng giúp

tăng trưởng cân nặng, ngoài cân nặng tăng tự nhiên theo tuổi. Nguyên nhân có

thể là do sản phẩm can thiệp là một sản phẩm bổ sung với hàm lượng năng

lượng tương đối cao (81,9Kcal/100ml), cao hơn công thức F75 (75Kcal/100ml

sữa) là công thức cơ bản mà Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị dành cho trẻ

suy dinh dưỡng thấp còi.

Truyền thông giáo dục sức khỏe từ lâu đã được coi như một trong các

phương pháp can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em bên

cạnh các can thiệp dinh dưỡng khác. Ngay từ những năm 2006, tác giả Hoàng

Khải Lập và Hà Xuân Sơn báo cáo rằng các phương pháp giáo dục dinh dưỡng

cộng đồng được sử dụng cho các mẹ ở xã Nga My, Phú Bình, Thái Nguyên vào

thời điểm đó đã giúp cải thiện rõ rệt về tinh trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân và

thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi với hiệu quả can thiệp lên tới trên 20% [130]. Không

chỉ với kết quả từ những nghiên cứu, các văn bản của Chính phủ cũng rất chú

trọng trong các hoạt động truyền thông, giáo dục dinh dưỡng. Bên cạnh việc

truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng và cộng đồng, Chiến

lược quốc gia về dinh dưỡng 2021-2030 cũng tập trung vào việc thực hiện các

hoạt động xây dựng và củng cố các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe

tại trường học bên cạnh việc đẩy mạnh bữa ăn học đường [131].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cùng với việc bổ sung sản phẩm dinh

dưỡng đường uống như một phần của bữa ăn học đường, chúng tôi đã cộng tác

với nhà trường, với sự cộng tác của các thầy/cô giáo thực hiện các hoạt động

truyền thông giáo dục dinh dưỡng cho phụ huynh và các học sinh là đối tượng

111

nghiên cứu bao gồm: dinh dưỡng hợp lý, thực phẩm có lợi và an toàn cho sức

khỏe phòng, tăng cường hoạt động thể lực học sinh tiểu học, sinh hoạt hợp lý,

ngủ đủ giấc, giữ gìn vệ sinh... cùng với việc tăng cường các hoạt động thể dục

ngoài trời trong khoảng thời gian đi học. Do đó, kết quả cải thiện tình trạng

dinh dưỡng ở nhóm can thiệp tốt hơn so với nhóm chứng trong nghiên cứu của

chúng tôi là đến từ việc phối hợp cả can thiệp dinh dưỡng bằng sản phẩm sản

phẩm dinh dưỡng đường uống vào bữa ăn học đường và truyền thông giáo dục

sức khỏe. Kết quả này là phù hợp với các phương pháp can thiệp cải thiện tình

trạng dinh dưỡng đã được hướng dẫn và khuyến nghị bởi nhà nước cũng như các

tổ chức Y tế và các tác giải nghiên cứu tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới.

Khi xét đến tác dụng của vitamin K đối với các chỉ số nhân trắc, nghiên

cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên bổ sung vitamin K có tác dụng làm

tăng các chỉ số này. Như giải thích trước đó, tác dụng tăng chỉ số nhân trắc có

lẽ đến nhiều từ việc bổ sung thêm năng lượng từ sản phẩm can thiệp hơn là tác

dụng riêng rẽ của vitamin K. Trong các nghiên cứu bổ sung riêng rẽ vitamin K

trên thế giới, các tác giả chỉ coi chỉ số nhân trắc như là một kết quả phụ hoặc là

một yếu tố để điều chỉnh tác dụng của vitamin K với mật độ khoáng của xương.

Duy nhất nghiên cứu của Van summeren 2008 có thấy sự khác biệt về chiều

cao của trẻ khỏe mạnh trong độ tuổi 8-14 khi được khuyến khích sử dụng nhiều

thực phẩm có vitamin K và sự khác biệt này có liên quan đến tỷ số UCR [5].

Còn lại đa phần cân nặng đều không được đề cập đến. Đây cũng là một trong

những điểm cần quan tâm khi mở rộng hướng nghiên cứu trong tương lai khi

đánh giá tác dụng của vitamin K với chỉ số nhân trắc của trẻ em đặc biệt là

chiều cao.

Canxi và vitamin D được biết đến là hai vi chất quan trọng trong việc

phát triển chiều cao. Tuy nhiên trong một nghiên cứu tổng quan hệ thống về

tác dụng của vitamin D và canxi thì người ta lại thấy không sự khác biệt nào

112

đáng kể giữa nhóm được bổ sung và nhóm không được bổ sung dựa trên kết

quả của hàng loạt nghiên cứu đã tiến hành. Trong khi đó, các giả thuyết mới

được hình thành về việc cần có vitamin K đặc biệt là vitamin K2 để hoạt hóa

các ma trận Gla giúp vận chuyển canxi vào xương, và vitamin D giúp tăng

cường hấp thu canxi vào cơ thể. Bộ ba vitamin K, canxi và vitamin D có thể là

một bộ vi chất mới giúp cải thiện chiều cao ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao.

Về chỉ số HAZ, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như

nghiên cứu của Panis và cộng sự vào năm 2006, khi bổ sung canxi, vitamin D3

và vitamin K cho trẻ. Trong nghiên cứu này, sau 1 năm can thiệp, HAZ của trẻ

nhóm can thiệp tăng 0,1±0,5, còn HAZ của nhóm chứng giảm 0,1±0,3[132].

Nghiên cứu của chúng tôi, với thời gian can thiệp là 6 tháng, HAZ của trẻ nhóm

can thiệp tăng 0,02±0,13 và HAZ của trẻ nhóm chứng giảm 0,14±0,32 cũng có

thể coi là con số tương đương. Kết quả can thiệp của chúng tôi tốt hơn rất nhiều

so với nghiên cứu của Sazawal, sau 1 năm can thiệp bằng sữa chua bổ sung vi

chất, HAZ của trẻ nhóm can thiệp tăng từ -1,01 lên -1,00 (chỉ tăng 0,01) [127].

Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể là do thành phần của sản phẩm can

thiệp. Đó có thể là nguyên nhân khiến chỉ số HAZ trong nghiên cứu của chúng

tôi tăng gần gấp 3 lần so với nghiên cứu của Sazawal. Tuy nhiên, nghiên cứu

này có kết quả thấp hơn nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Liên và cộng sự, sau 6

tháng, HAZ nhóm can thiệp tăng 0,16 [65]. Việc tăng HAZ là một điểm tích

cực trong nghiên cứu vì việc thay đổi chiều cao theo tuổi sẽ khó hơn rất nhiều

so với việc chỉ cải thiện chiều cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho

thấy rằng, can thiệp dinh dưỡng ở nhóm can thiệp cho thấy tiềm năng cải thiện

HAZ, từ đó cải thiện tình trạng thấp còi ở trẻ.

* Hiệu quả can thiệp lên tình trạng mật độ xương và khối lượng xương

Mật độ xương và khối lượng xương là hai yếu tố tiếp theo được phân tích

nhằm đánh giá hiệu quả can thiệp. Mật độ xương trung bình của nhóm chứng

113

cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời

điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi

mật độ xương của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý nghĩa

thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can

thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng mật độ xương của

nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,04±0,04g/cm2 và

0±0,05g/cm2 (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng mật độ

xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là

0,08±0,07g/cm2 và 0,04±0,06g/cm2, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn

nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng

thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng mật độ xương là

0,12±0,07g/cm2, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với

mức tăng mật độ xương là 0,04±0,07g/cm2. Hiệu quả can thiệp lên mật độ

xương của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp

lần lượt là 6,5%, 5,5% và 12,7%.

Khối lượng xương trong nghiên cứu của chúng tôi của từng nhóm đều

cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm

sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng

khối lượng xương của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là

2,59±2g và 0,83±0,93g (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng

khối lượng xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần

lượt là 5,41±3,97g và 2,86±2,47g, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm

chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời

gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng khối lượng xương là 8,00±5,02g,

cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng khối

lượng xương là 3,96±2,9g. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của giai

114

đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là

8,8%, 10,0% và 21,3%.

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự cải thiện mật độ xương và khối

lượng xương đo tại cột sống đều tăng cao ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng.

Nghiên cứu của Panis năm 2006 cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống

kê với p<0,0001 ở khối lượng xương liên quan đến lượng vitamin K nạp vào,

trong khi đó không hề có sự thay đổi BMD liên quan đến vitamin K sau 2 năm

can thiệp trên trẻ em 3-17 tuổi bị bệnh galactosemia với hàm lượng vitamin K1

là 0,5mg/ngày [133]. Nghiên cứu của Van summeren năm 2008 cũng chỉ ra mối

liên quan giữa sự thay đổi khối lượng xương ở xương hông và cổ xương đùi và

cột sống và khối lượng xương toàn cơ thể liên quan đến UCR và ucOC [5].

Trong nghiên cứu này 24 trẻ khỏe mạnh từ 8-14 tuổi được khuyến khích sử

dụng nhiều sản phẩm có chứa vitamin K theo dõi trong vòng 2 năm. Nghiên

cứu của Kalkwarf năm 2004 cũng cho thấy mối liên quan giữa sự thay đổi khối

lượng xương ở cổ xương đùi, cột sống và toàn cơ thể với hàm lượng

phyloquinone nạp vào và lượng phylloquinone có trong huyết tương và %ucOC

[134]. Nghiên cứu trên được tiến hành ở trẻ khỏe mạnh trong độ tuổi 3-16 bổ

sung 45mcg vitamin K/ngày. Nghiên cứu của Inoue năm 2001 và nghiên cứu

của Ozdemir năm 2013 đều chỉ ra sự thay đổi mật độ xương trên các đối tượng

trẻ em bị bệnh đều có ý nghĩa thống kê [135],[136]. Nghiên cứu Inoue tiến hành

trên trẻ đang điều trị glucocorticoid trong độ tuổi 4-14 tuổi trong vòng 6 tháng

với lượng vitamin K2 được bổ sung 2mg/kg/ngày [135]. Nghiên cứu của

Ozdemir tiến hành trên trẻ bị thalassemia 3-18 tuổi trong vòng 12 được bổ sung

50mg/ngày vitamin K2 [136]. Nghiên cứu của Rianthavor năm 2012 là nghiên

cứu duy nhất chỉ ra vitamin K giúp làm thay đổi cả khối lượng xương và mật

độ xương ở nhóm chứng so với nhóm can thiệp có ý nghĩa thống kê ở trẻ dưới

18 tuổi đang điều trị liều corticoid ổn định trong 12 tháng [137].

115

Như vậy đối với tình trạng bệnh lý ảnh hưởng tới chất lượng của xương

như các bệnh phải điều trị corticoid hoặc suy dinh dưỡng thấp còi, việc bổ sung

vitamin K có thể làm cải thiện được chất lượng xương. Mới chỉ có một số

nghiên cứu chứng minh được việc tăng mật độ khoáng hóa xương có liên quan

đến việc nạp vitamin K hoặc các parameter của vitamin K (UCR, nồng độ

vitamin K trong máu, ucOC), nhưng các mối liên quan ở mức yếu khi r gần 0

và cũng cũng chỉ phát hiện được ở những nghiên cứu dài hạn từ 12 tháng cho

đến 36 tháng [5],[6],[132],[134].

Vitamin K2 có lẽ chưa phải là yếu tố duy nhất tạo nên sự khác biệt về

mật độ khoáng hóa xương. Nghiên cứu tổng quan hệ thống về tác dụng của

vitamin D và canxi đối với sức khỏe đã được tiến hành. Có 7 nghiên cứu tính

đến năm 2014 nghiên cứu về sự kết hợp giữa vitamin D và canxi tác động đến

mật độ xương hoặc khối lượng xương. Tuy nhiên chỉ có 3 nghiên cứu can thiệp

trên đối tượng trẻ dưới 18 tuổi. Kết quả của những nghiên cứu này cũng khá đa

dạng. Có nghiên cứu cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi bổ sung và

có nghiên cứu thì không [138].

* Hiệu quả can thiệp lên tình trạng canxi ion, vitamin D và osteocalcin

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng nồng độ canxi ion trong

cả hai nhóm đều tăng lên một mức cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với thời

điểm ban đầu và so với thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3

tháng đầu can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình của nồng độ canxi

ion cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị lần lượt là 0,14±0,06mmol và

0,11±0,1mmol (p<0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức tăng trung bình

của nồng độ canxi ion trong nhóm can thiệp và nhóm chứng tương tự nhau, đạt

giá trị lần lượt là 0,63±0,11mmol và 0,63±0,16mmol. Tổng cộng, sau toàn bộ

6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình của nồng độ canxi

ion là 0,77±0,12mmol, trong khi nhóm chứng có mức tăng trung bình là

116

0,75±0,18mmol. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp đã

giảm từ 98,1% xuống còn 55,3% sau 3 tháng đầu can thiệp, và giảm xuống 0%

sau 3 tháng tiếp theo. Một xu hướng giảm tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp

cũng được quan sát trong nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can thiệp, tỷ lệ trẻ

có nồng độ canxi ion thấp trong nhóm can thiệp đã giảm từ 99% xuống chỉ còn

16,5%, và tiếp tục giảm xuống 0% sau 3 tháng tiếp theo, tương tự như nhóm

chứng. Hiệu quả của can thiệp lên nồng độ canxi ion trong giai đoạn 3 tháng

đầu và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 2,7% và 1,2%. Hiệu quả can thiệp

lên tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion huyết thanh thấp đạt 39,7% trong giai đoạn 3

tháng đầu can thiệp.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ trung bình của vitamin D trong

nhóm chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can

thiệp với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp.

Trong khi đó, sự thay đổi nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp tại mỗi thời

điểm xét nghiệm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm trước can

thiệp và sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu can thiệp, nhóm

can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D cao hơn nhóm chứng,

lần lượt là 1,1±3,64ng/mL và 0,07±3,82ng/mL (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp

theo, nhóm can thiệp cũng có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D cao hơn

và có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, lần lượt là 8,68±4,47ng/mL và

6,71±4,27ng/mL. Tổng cộng, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can

thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D là 9,78±5,68ng/mL, cao

hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng có mức tăng trung bình nồng độ

vitamin D là 6,79±4,93ng/mL. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ có nồng độ

vitamin D thấp đã tăng từ 40,8% lên 41,8% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm

xuống còn 13,6% sau 3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tỷ lệ trẻ có nồng độ

vitamin D thấp cũng được quan sát trong nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can

117

thiệp, tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong nhóm can thiệp đã giảm từ

52,4% xuống còn 46,6%, và tiếp tục giảm chỉ còn 7,8% sau 3 tháng tiếp theo,

tương tự như nhóm chứng. Hiệu quả can thiệp lên nồng độ vitamin D trong giai

đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là

3,4%, 6% và 10,3%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D huyết

thanh thấp trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can

thiệp lần lượt là 8,6%, 15,8% và 18,4%.

Sau khi can thiệp kết thúc, chúng tôi đã quan sát thấy rằng nồng độ

osteocalcin trung bình ở cả hai nhóm đều cao hơn và có ý nghĩa thống kê so

với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng

đầu can thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ osteocalcin

cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,18±18,5ng/mL và -0,2±11,53ng/mL. Trong

3 tháng tiếp theo, nhóm can thiệp cũng có mức tăng trung bình nồng độ

osteocalcin cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, lần lượt là

6,17±15,56ng/mL và 4,87±8,44ng/mL. Tổng cộng, sau toàn bộ thời gian can

thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ osteocalcin là

7,35±16,14ng/mL, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng với mức

tăng nồng độ osteocalcin là 4,67±12,04ng/mL. Hiệu quả can thiệp lên

osteocalcin của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can

thiệp lần lượt là 1,4%, 1,4% và 2,9%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số canxi ion của hai nhóm sau 6

tháng can thiệp đều tăng lên so với thời điểm ban đầu có ý nghĩa thống kê.

Tương tự với kết quả của nghiên cứu bổ sung canxi đơn chất của Anuradha và

cộng sự [68], chỉ số canxi ion tăng có ý nghĩa thống kê sau 12 tháng can thiệp.

Về chỉ số vitamin D huyết thanh, sau 6 tháng can thiệp, chỉ số vitamin D huyết

thanh ở cả 2 nhóm đều tăng có ý nghĩa thống kê. Và mặc dù có giảm, nhưng

ngưỡng vitamin D huyết thanh ở nhóm can thiệp vẫn ở trên ngưỡng bình thường

118

(>30ng/mL), trong khi nhóm chứng có ngưỡng vitamin D ở dưới mức bình

thường (<30ng/mL). Kết quả sau khi can thiệp của chúng tôi cũng tương tự như

kết quả của Cosenza tiến hành can thiệp trên trẻ 10 tuổi sau 4 tháng, mức vitamin

D trong huyết thanh của trẻ nhóm can thiệp là 33,8ng/mL và của nhóm chứng là

24,5ng/mL [139]. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại thấp hơn rất nhiều so với

kết quả của Thacher và cộng sự [140]. Sau 6 tháng can thiệp, hàm lượng vitamin

D huyết thanh của trẻ nhóm can thiệp Canxi+vitamin D là 55,4ng/mL, nhóm chỉ

can thiệp Canxi là 37,9ng/mL. Nguyên nhân của sự khác biệt này đến từ hàm

lượng của sản phẩm bổ sung. Nghiên cứu của Thacher , trẻ được bổ sung canxi

và vitamin D trực tiếp với liều cao (Canxi 938mg, Vitamin D 50.000IU), trong

khi trong thử nghiệm này, canxi và vitamin D chỉ được bổ sung gián tiếp thông

qua chế phẩm từ sữa và với hàm lượng thấp hơn rất nhiều [140].

Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự thay đổi nồng độ osteocalcin sau 6

tháng của nhóm chứng và nhóm can thiệp lần lượt là 4,67±12,04ng/mL và

7,35±16,14ng/mL. Kết quả sự khác biệt ở hai nhóm cũng có ý nghĩa thống kê;

và sự khác biệt ở 3 tháng cuối cao hơn ba tháng đầu có ý nghĩa thống kê. Điều

này chứng tỏ việc sử dụng dài hạn cũng đem lại kết quả tốt hơn [135]. Các

nghiên cứu can thiệp vitamin K2 trên thế giới chủ yếu đo lường lượng

osteocalcin chưa được carboxyl hóa và được carboxyl hóa - là hai chỉ số đặc

hiệu để đo lường nồng độ vitamin K2 [141],[142],[143],[144],[145],[146]. Tuy

nhiên ở Việt Nam hiện nay chỉ đo được nồng độ osteocalcin, nên khó có thể so

sánh hiệu quả thay đổi nồng độ osteocalcin trong nghiên cứu này với các nghiên

cứu khác trên thế giới.

119

* Giải pháp can thiệp toàn diện tại học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh

dưỡng và sức khỏe xương của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao

Sữa từ lâu đã được sử dụng để can thiệp như một phần của các chương

trình dinh dưỡng học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ trên

thế giới. Một trong những chương trình sữa học đường nổi tiếng và lâu đời nhất

được biết đến là Chương trình Sữa đặc biệt tại Mỹ hay còn được gọi là Chương

trình Thực phẩm Chiến thắng. Chương trình này được triển khai vào năm 1942

nhằm giảm tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em và hỗ trợ nông dân chăn nuôi bò

sữa trong Thế chiến thứ hai. Cho tới nay, mặc dù có rất ít nghiên cứu đã được

thực hiện về chương trình này, tuy nhiên, chương trình Sữa đặc biệt đã được

chứng minh là làm tăng mức tiêu thụ sữa ở trẻ em tại các trường tham gia, tăng

lượng năng lượng và một số chất dinh dưỡng được nạp vào ở trẻ em [147].

Một chương trình sữa học đường lâu đời khác cũng được biết đến rộng

rãi là chương trình sữa học đường tại Nhật Bản. Loại sữa học đường đầu tiên

được sử dụng ở các trường học Nhật Bản là sữa bột tách béo do các cơ quan

viện trợ phi chính phủ của Hoa Kỳ cung cấp quanh khu vực Tokyo vào năm

1946. Bữa trưa ở trường cùng với sữa được đưa ra như một biện pháp hướng

tới tương lai không chỉ nhằm chống lại tình trạng suy dinh dưỡng phổ biến

trong những năm sau chiến tranh mà còn cung cấp nền tảng dinh dưỡng chung

cho tất cả học sinh. Ngày nay, chương trình ăn trưa với sữa ở trường học Nhật

Bản được xây dựng để cung cấp 33-50% chất dinh dưỡng cần thiết mỗi ngày

và 50% lượng canxi được khuyến nghị trong chế độ ăn uống, điều mà rất khó

có được từ các bữa ăn của người Nhật. Một nghiên cứu được xuất bản năm

2016 cho thấy tỷ lệ diện tích xương (%) (mật độ xương của xương gót chân

phải đo bằng phương pháp Benus α) ở nhóm ăn trưa với bữa ăn học đường có

sữa cao hơn đáng kể so với nhóm ăn chứng (nam 31,0±0,3 so với 30,3±0,2; nữ

30,6±0,2 so với 29,7±0,2). Xu hướng này không thay đổi ngay cả sau khi điều

120

chỉnh các yếu tố gây nhiễu liên quan đến sự phát triển của xương. Kết quả cho

thấy chương trình ăn trưa và sữa ở trường học Nhật Bản đã góp phần tăng cường

sự phát triển xương ở trẻ tiểu học [148].

Vào những năm 1970, chính phủ Hàn Quốc đã khởi xướng chương trình

sữa học đường ở các trường tiểu học, sau đó mở rộng sang các trường trung

học cơ sở và trung học phổ thông và cuối cùng trở thành một chương trình toàn

quốc. Chương trình sữa học đường được bắt đầu để cung cấp các chất dinh

dưỡng cân bằng và thiết yếu với sữa để tăng trưởng và tăng cường sức khỏe ở

trẻ em và thanh thiếu niên Hàn Quốc. Một nghiên cứu trước đây cho thấy lượng

canxi trong chế độ ăn uống trung bình hàng ngày của những học sinh tham gia

chương trình sữa học đường cao gấp 1,5 lần so với những học sinh không tham

gia. Điều này cho thấy rằng tham gia chương trình sữa học đường có thể là một

trong những cách để tăng lượng canxi ở thanh thiếu niên [149].

Tại Ấn Độ, một nghiên cứu được thực hiện như một phần của chương

trình Món quà Sữa tại 36 trường học và 15000 học sinh với sữa can thiệp được

tăng cường vitamin A và D. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm rõ ràng hơn ở nhóm

can thiệp sau, với 95% CI là (7,37; 7,42) và (10,63; 10,58) về sự khác biệt về

tỷ lệ giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng đối với tương ứng là còi cọc và

gầy gò. Điều này có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [150].

Nhìn chung, Chương trình sữa học đường hiện đã trở thành hoạt động

mang tính toàn cầu do Liên Hợp Quốc kêu gọi trong 1 thế kỷ qua và đã có 60

quốc gia hưởng ứng. Trong đó, hầu hết các nước (trong đó có những nước

không có truyền thống sản xuất sữa tại châu Á như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn

Quốc…) đều ưu tiên chọn sữa tươi sạch - loại sữa giữ nguyên vẹn giá trị dinh

dưỡng và bổ sung các vi chất cần thiết cho trẻ.

Tại Việt Nam, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định

số 1340/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Sữa học đường nhằm cải thiện tình

121

trạng dinh dưỡng góp phần nâng cao tầm vóc trẻ em mẫu giáo và tiểu học đến

năm 2020 [151]. Chương trình Sữa học đường đặc biệt quan tâm tới trẻ em ở

các huyện nghèo và trẻ em nghèo, cận nghèo ở các vùng còn lại. Trong bối cảnh

ngân sách còn khó khăn, Chương trình đưa ra chủ trương xã hội hóa, kêu gọi

nhiều nguồn lực tham gia. Là một phần của hoạt Chương trình Sữa học đường,

vào năm 2014, nghiên cứu về hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi

chất dinh dưỡng của học sinh mẫu giáo và tiểu học bằng can thiệp sữa học

đường đã được thực hiện tại huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Kết quả nghiên

cứu cho thấy, khi sử dụng sữa can thiệp có bổ sung đa vi chất, tỷ lệ SDD cả 3

thể của nhóm can thiệp đều giảm nhiều hơn so với nhóm chứng. Đặc biệt, tỷ lệ

SDD thấp còi ở nhóm chứng không những không giảm mà còn bị tăng 0,9%

[152]. Mặc dù có sự khác biệt về thời gian nghiên cứu, đối tượng và sản phẩm

can thiệp, nhưng nhìn chung, xu hướng kết quả của nghiên cứu này cũng tương

tự như ở nghiên cứu của chúng tôi khi tại thời điểm tháng thứ 6 can thiệp so

với thời điểm tháng thứ 3, tỷ lệ trẻ chậm phát triển chiều cao ở nhóm can thiệp

giảm, trong khi đó, ở nhóm chứng, tỷ lệ này lại không giảm đi. Các kết quả này

cho thấy rằng, việc chỉ bổ sung sữa học đường là chưa đủ. Cần lựa chọn loại

sữa được bổ sung đầy đủ vi chất dinh dưỡng cần thiết để chiều cao của trẻ được

phát triển tối ưu.

Nghiên cứu trên cũng như các nghiên cứu tương tự về đánh giá hiệu quả

chương trình Sữa học đường tại Việt Nam đều cho thấy rằng, các can thiệp sữa

học đường trong các nghiên cứu này đều tập trung vào bổ sung đa vi chất nhằm

cải thiện đa dạng chỉ số liên quan đến sức khỏe của trẻ như tình trạng dinh

dưỡng, tình trạng thiếu máu, và thiếu các vi chất thiết yếu khác. Mặc dù các kết

quả đều cho thấy kết quả giảm tỷ lệ SDD thấp còi, nhưng sự cải thiện về chiều

cao của trẻ còn chưa được thể hiện rõ ràng, khi trẻ tiểu học ở nhóm can thiệp

chỉ cao hơn nhóm chứng 0,4cm sau 5 tháng can thiệp [152],[153].

122

Với các giải thích rằng thiếu vitamin D dẫn đến sự thất bại của quá trình

khoáng hóa xương đang phát triển, gây nên các đặc điểm được thể hiện trên

lâm sàng và X quang của bệnh còi xương và thiếu canxi (do chế độ ăn uống

không đầy đủ hoặc kém hấp thu) làm tăng quá trình dị hóa vitamin D và cuối

cùng dẫn đến thiếu vitamin D và còi xương, các can thiệp dinh dưỡng, đặc biệt

là về sữa ở trẻ em, thường chỉ tập trung vào hai vi chất này nhằm đạt được mục

đích cải thiện tình trạng thấp còi của trẻ [154]. Trong nghiên cứu của chúng tôi,

vitamin K2 đã được bổ sung thêm vào cùng với vitamin D và canxi nhằm mục

đích hỗ trợ sức khỏe và sự phát triển của xương ở trẻ, bao gồm cả phát triển

chiều cao. Vitamin D3 kiểm soát sự hấp thu canxi vào máu, đảm bảo canxi có

thể đến được khối xương. Vitamin K2 xác định nơi canxi được hấp thụ, đảm

bảo canxi được sử dụng trong xương và ngăn ngừa vôi hóa động mạch. Vitamin

K2 cũng kích hoạt protein được gọi là Osteocalcin, liên kết với canxi để tạo

xương. Sự tương tác giữa Vitamin D3 và Vitamin K2 đảm bảo canxi không chỉ

được hấp thụ mà còn được vận chuyển đến nơi cần thiết nhất - xương. Điều này

giúp hình thành và củng cố xương, góp phần phát triển chiều cao ở trẻ em, từ

đó cho kết quả cải thiện chiều cao ở trẻ rõ rệt hơn so với chỉ bổ sung sữa có

canxi và vitamin D [142],[155],[156].

Cho đến nay, các giải pháp bổ sung sữa học đường nói riêng và bổ sung

các vi chất dinh dưỡng nói chung trên thế giới và Việt Nam, có những nghiên

cứu cho thấy hiệu quả đối với sự tăng trưởng ở trẻ em [115],[116],[117],[118],

có những nghiên cứu thì không thấy rõ hiệu quả lên sự tăng trưởng đó

[66],[119],[120],[121],[122],[123],[124]. Các lý giải được đưa ra có liên quan

đến vấn đề phối hợp vitamin D, canxi và vitamin K2 như đã trình bày ở trên.

Việc bổ sung canxi kết hợp với vitamin D và vitamin K2 được coi là một trong

các giải pháp đem lại hiệu quả cao hơn cho cải thiện chiều cao cũng như sức

khỏe xương ở trẻ em[156].

123

Tuy nhiên, giải pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và chiều cao của trẻ

chậm tăng trưởng chiều cao của chúng tôi không chỉ tập trung vào giải pháp

dinh dưỡng mà còn tập trung vào truyền thông giáo dục sức khỏe cũng như tạo

điều kiện cho trẻ có thể tập luyện phối hợp với tắm nắng trong khoảng thời gian

phù hợp. Những giải pháp này đã được chứng minh và luôn được khuyến nghị

thực hiện phối hợp cùng các giải pháp dinh dưỡng nhằm cải thiện chiều cao

cũng như tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Truyền thông giáo dục sức khỏe đã

được chỉ ra rằng có thể cung cấp cho trẻ kiến thức và ý thức về dinh dưỡng cần

thiết, và trẻ cũng có thể chia sẻ với phụ huynh để hiểu rõ về tầm quan trọng của

dinh dưỡng đúng và đủ như tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu protein, canxi,

vitamin và khoáng chất cần thiết để phát triển chiều cao và sức khỏe tốt cũng

như cách tránh thực phẩm không lành mạnh, có thể gây tác động không tốt đến

sự phát triển và tình trạng dinh dưỡng của trẻ [157],[158],[159]. Tương tự, phối

hợp luyện tập/chơi thể thao với tắm nắng cũng đã được khuyến nghị để giúp

cho quá trình hấp thụ canxi và sự phát triển của xương - đặc biệt quan trọng

trong giai đoạn phát triển của trẻ em, từ đó tạo ra môi trường thúc đẩy trẻ tham

gia vào các hoạt động vận động, vui chơi ngoài trời và hoạt động thể lực giúp

trẻ phát triển cơ bắp và chiều cao [160],[161],[162],[163].

Nghiên cứu của chúng tôi phối hợp cả 3 giải pháp can thiệp, bao gồm

giải pháp về dinh dưỡng – bổ sung sản phẩm dinh dưỡng đường uống có bổ

sung vitamin K2, giải pháp truyền thông giáo dục sức khỏe và giải pháp tổ chức

tập luyện phối hợp với tắm nắng nhằm hướng tới giải pháp can thiệp đầy đủ

nhất có thể tổ chức được tại cộng đồng nhằm cải thiện tình trạng trẻ chậm phát

triển chiều cao tại cộng đồng. Không giống với chương trình các giải pháp can

thiệp khác chỉ tập trung vào can thiệp dinh dưỡng hoặc có mục đích cải thiện

nhiều chỉ tiêu, giải pháp tổng hợp của chúng tôi tập trung vào đối tượng là trẻ

chậm tăng trưởng chiều cao, cần được cải thiện tình trạng dinh dưỡng và tăng

124

chiều cao rõ rệt. Với các kết quả được trình bày trong nghiên cứu này, giải pháp

can thiệp của chúng tôi cho thấy kết quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức

khỏe xương của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao với hiệu quả rõ rệt.

4.4. Những đóng góp và tính mới của đề tài

Luận án đã đóng góp thêm những dữ liệu về tình trạng dinh dưỡng của

trẻ em lứa tuổi tiểu học ở tỉnh Thái Bình.

Nghiên cứu của chúng tôi là một trong số ít nghiên cứu đánh giá các chỉ

số liên quan đến sức khỏe xương của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao bao gồm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ vitamin D, canxi

ion và osteocalcin.

Nghiên cứu là bằng chứng khoa học về giải pháp có thể áp dụng cho

những trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao nhằm hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng

thấp còi và tỷ lệ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ tiểu học. Nghiên cứu

cho thấy sau 6 tháng can thiệp đã có cải thiện các chỉ số nhân trắc, mật độ

xương, khối lượng xương, vitamin D, canxi ion và osteocalcin ở trẻ em chậm

tăng trưởng chiều cao từ 7 đến 10 tuổi tại một số trường tiểu học huyện Tiền

Hải, tỉnh Thái Bình.

4.5. Những hạn chế của đề tài

Nghiên cứu chưa đánh giá được khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu

nên chưa tìm hiểu được ảnh hưởng của khẩu phần ăn đến tình trạng dinh dưỡng

và sức khỏe xương của trẻ em.

Nghiên cứu chưa đánh giá chi tiết và cụ thể về kiến thức, thái độ và thực

hành của nhà trường và phụ huynh sau khi được tiếp nhận các hoạt động giáo

dục sức khỏe thuộc can thiệp.

Nghiên cứu cũng chưa đánh giá được các chỉ số nhân trắc, mật độ xương,

khối lượng xương, vitamin D, canxi ion và osteocalcin ở trẻ em ở giai đoạn sau

khi kết thúc can thiệp để có thể theo dõi hiệu quả của can thiệp được duy trì

125

trong bao lâu… cho nên cần có thêm những nghiên cứu dọc dài hơn, trên nhiều

nhóm trẻ hơn (bao gồm cả trẻ bình thường và suy dinh dưỡng) và tìm hiểu cả

khẩu phần ăn của trẻ em để có sự đánh giá thuyết phục hơn.

126

KẾT LUẬN

1. Tình trạng dinh dưỡng của em từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu

Trong tổng số 848 trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ

trẻ em suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ thấp, cụ thể là suy dinh dưỡng thấp còi chiếm

3,4%, suy dinh dưỡng nhẹ cân chiếm 8,7%, suy dinh dưỡng gầy còm chiếm

7,1% và thừa cân béo phì chiếm 6,5%. Tỷ lệ trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao

là 29%.

2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng

chiều cao tại địa bàn nghiên cứu

Mật độ xương và khối lượng xương của những trẻ suy dinh dưỡng thấp

còi thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với những trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng

thấp còi với các giá trị trung vị lần lượt là 0,56 và 0,61g/cm2 với mật độ xương;

17,06 và 20,0g với khối lượng xương.

Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp chiếm 98,1%.

Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp chiếm 46,3%.

3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và

sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại

địa bàn nghiên cứu

Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống bổ sung vitamin K2 kết hợp

với truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng và tập luyện giúp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng

trưởng chiều cao sau 6 tháng can thiệp, cụ thể như sau:

Nhóm can thiệp tăng 2,04±0,78kg cân nặng và 2,63±0,74cm chiều cao,

cao hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng 1,7±1,13kg cân nặng và

1,68±0,88cm chiều cao ở nhóm chứng (p<0,05) với hiệu quả can thiệp lần lượt

là 1,6% và 0,8%.

127

Hiệu quả can thiệp đối với việc giảm tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều

cao giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng là 4,9%.

Nhóm can thiệp tăng 0,12±0,07g/cm2 mật độ xương và 8,00±5,02g khối

lượng xương, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng 0,04±0,07g/cm2

mật độ xương và 3,96±2,9g khối lượng xương ở nhóm chứng (p<0,05) với hiệu

quả can thiệp lần lượt là 12,7% và 21,3%.

Sau can thiệp, toàn bộ 100% số trẻ ở cả hai nhóm đều có nồng độ canxi ion

ở mức bình thường. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp ở nhóm can thiệp giảm

còn 7,8% và nhóm chứng giảm còn 13,6% với hiệu quả can thiệp là 18,4%.

128

KHUYẾN NGHỊ

1. Hoạt động đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em tiểu học cần

được thực hiện định kỳ, ít nhất là 2 lần mỗi năm học để phát hiện sớm những

trường hợp trẻ bị suy dinh dưỡng, nhất là những trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng

thấp còi, từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp sớm giúp cải thiện tình trạng dinh

dưỡng ở học sinh tiểu học.

2. Cần bổ sung vitamin K2 vào các sản phẩm dinh dưỡng sử dụng cho

trẻ em lứa tuổi tiểu học bên cạnh các vi chất cần thiết khác như canxi và vitamin

D, vitamin A.

3. Cần tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng cho nhà trường

và gia đình kết hợp với việc tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, đồng thời

khuyến khích trẻ vận động thể lực hàng ngày nhằm giúp cho việc tăng trưởng

của trẻ em được tối ưu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Thị Thanh Hương (2009). Đặc điểm tăng trưởng và hiệu quả bổ sung sản

phẩm giàu dinh dưỡng trên trẻ từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi tại huyện Sóc Sơn-

Hà Nội, Luận án tiến sỹ dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng.

2. Bozzoli C., Deaton A. and Quintana-Domeque C. (2009). Adult height and

childhood disease. Demography, 46 (4), 647-669.

3. Nguyễn Quang Dũng và Nguyễn Thị Hiền (2017). Suy dinh dưỡng ở trẻ tiểu

học và các yếu tố liên quan tại một số xã của huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yến.

Tạp chí y học Dự phòng, 27 (7), 59.

4. Lê Thị Hợp và Hà Huy Khôi (2010). Dinh dưỡng và gia tăng tăng trưởng

của người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

5. Van Summeren M.J., Van Coeverden S.C., Schurgers L.J., et al. (2008).

Vitamin K status is associated with childhood bone mineral content. Br J Nutr,

100 (4), 852-858.

6. Van Summeren M.J., Braam L.A., Lilien M.R., et al. (2009). The effect of

menaquinone-7 (vitamin K2) supplementation on osteocalcin carboxylation in

healthy prepubertal children. Br J Nutr, 102 (8), 1171-1178.

7. Garden E.M., Pallan M., Clarke J., et al. (2020). Relationship between

primary school healthy eating and physical activity promoting environments

and children's dietary intake, physical activity and weight status: a longitudinal

study in the West Midlands, UK. BMJ Open, 10 (12), e040833.

8. Matkovic V., Jelic T., Wardlaw G.M., et al. (1994). Timing of peak bone mass

in Caucasian females and its implication for the prevention of osteoporosis.

Inference from a cross-sectional model. J Clin Invest, 93 (2), 799-808.

9. Lê Thị Hợp, Lê Bạch Mai và Bùi Thị Nhung (2016). Thực trạng và giải pháp

đẩy mạnh chương trình dinh dưỡng học đường nhằm cải thiện thể lực và trí lực

của trẻ em Việt Nam. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 12 (1).

10. Moll G.W., Jr., Rosenfield R.L. and Fang V.S. (1986). Administration of

low-dose estrogen rapidly and directly stimulates growth hormone production.

Am J Dis Child, 140 (2), 124-127.

11. Silventoinen K., Jelenkovic A., Sund R., et al. (2015). The CODATwins

Project: The Cohort Description of Collaborative Project of Development of

Anthropometrical Measures in Twins to Study Macro-Environmental Variation

in Genetic and Environmental Effects on Anthropometric Traits. Twin Res Hum

Genet, 18 (4), 348-360.

12. Jelenkovic A., Hur Y.M., Sund R., et al. (2016). Genetic and environmental

influences on adult human height across birth cohorts from 1886 to 1994. Elife, 5.

13. Batty G.D., Shipley M.J., Gunnell D., et al. (2009). Height, wealth, and

health: an overview with new data from three longitudinal studies. Econ Hum

Biol, 7 (2), 137-152.

14. Al-Agha A.E., Al-Barad W.R., Al-Rahman D.A., et al. (2016). Associations

between Various Nutritional Elements and Weight, Height and BMI in Children

and Adolescents.

15. Bộ Y Tế và Viện Dinh Dưỡng (2016). Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị

cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

16. Edwards M.H., Gregson C.L., Patel H.P., et al. (2013). Muscle size,

strength, and physical performance and their associations with bone structure

in the Hertfordshire Cohort Study. J Bone Miner Res, 28 (11), 2295-2304.

17. Weber P. (2001). Vitamin K and bone health. Nutrition, 17 (10), 880-887.

18. Hoang Q.Q., Sicheri F., Howard A.J., et al. (2003). Bone recognition

mechanism of porcine osteocalcin from crystal structure. Nature, 425 (6961),

977-980.

19. Hauschka P.V. (1986). Osteocalcin: the vitamin K-dependent Ca2+-

binding protein of bone matrix. Haemostasis, 16 (3-4), 258-272.

20. Binkley N.C., Krueger D.C., Engelke J.A., et al. (2000). Vitamin K

supplementation reduces serum concentrations of under-gamma-carboxylated

osteocalcin in healthy young and elderly adults. Am J Clin Nutr, 72 (6), 1523-1528.

21. Shearer M.J. (1995). Vitamin K. Lancet, 345 (8944), 229-234.

22. Ferland G., Sadowski J.A. and O'Brien M.E. (1993). Dietary induced

subclinical vitamin K deficiency in normal human subjects. J Clin Invest, 91

(4), 1761-1768.

23. Theuwissen E., Smit E. and Vermeer C. (2012). The role of vitamin K in

soft-tissue calcification. Adv Nutr, 3 (2), 166-173.

24. Van Summeren M., Braam L., Noirt F., et al. (2007). Pronounced elevation of

undercarboxylated osteocalcin in healthy children. Pediatr Res, 61 (3), 366-370.

25. Thompson D.L., Weltman J.Y., Rogol A.D., et al. (1993). Cholinergic and

opioid involvement in release of growth hormone during exercise and recovery.

J Appl Physiol (1985), 75 (2), 870-878.

26. Grandner M.A., Schopfer E.A., Sands-Lincoln M., et al. (2015).

Relationship between sleep duration and body mass index depends on age.

Obesity (Silver Spring), 23 (12), 2491-2498.

27. Herzog D., Fournier N., Buehr P., et al. (2014). Early-onset Crohn's disease

is a risk factor for smaller final height. Eur J Gastroenterol Hepatol, 26 (11),

1234-1239.

28. Perkins J.M., Subramanian S.V., Davey Smith G., et al. (2016). Adult

height, nutrition, and population health. Nutr Rev, 74 (3), 149-165.

29. Grasgruber P., Cacek J., Kalina T., et al. (2014). The role of nutrition and

genetics as key determinants of the positive height trend. Econ Hum Biol, 15,

81-100.

30. Collaboration N.C.D.R.F. (2017). Worldwide trends in body-mass index,

underweight, overweight, and obesity from 1975 to 2016: a pooled analysis of

2416 population-based measurement studies in 128.9 million children,

adolescents, and adults. Lancet, 390 (10113), 2627-2642.

31. Syahrul S., Kimura R., Tsuda A., et al. (2016). Prevalence of underweight

and overweight among school-aged children and it's association with children's

sociodemographic and lifestyle in Indonesia. International Journal of Nursing

sciences, 3, 169-1771.

32. WHO (2018). Reducing stunting in children - Equity considerations for

achieving the Global Nutrition Targets 2025.

33. Akombi B.J., Agho K.E. and Hall J.J. (2017). Child malnutrition in sub-

Saharan Africa: A meta-analysis of demographic and health surveys (2006-

2016). PLoS ONE 12 (5), 1-11.

34. Black R.E., Victora C.G., Walker S.P., et al. (2013). Maternal and child

undernutrition and overweight in low-income and middle-income countries.

The Lancet, 382 (9890), 427-451.

35. Friesland Campina Institute (FCI), the Nutrition Society of Malaysia (NSM)

and the University Kebangsaan Malaysia (UKM) (2012). Nutrition and health

status of children in South East Asia, South East Asian Nutrition Surveys.

36. Paciorek C.J., Stevens G.A., Finucane M.M., et al. (2013). Children’s

height and weight in rural and urban populations in low-income and middle-

income countries: a systematic analysis of population-representative data.

Lancet Global Health, 1, 300-309.

37. Cole T.J. and Mori H. (2018). Fifty years of child height and weight in

Japan and South Korea: Contrasting secular trend patterns analyzed by SITAR.

Am J Hum Biol, 30 (1).

38. Pulungan A.B., Julia M., Batubara J.R.L., et al. (2018). Indonesian National

Synthetic Growth Charts. Acta Scientific Paediatrics, 1 (1), 20-34.

39. Amornsriwatanakul A., Lester L., Bull F.C., et al. (2017). Are Thai children

and youth sufficiently active? prevalence and correlates of physical activity

from a nationally representative cross-sectional study. Int J Behav Nutr Phys

Act, 14 (1), 72.

40. Truong Q.D., Le N.H.G., Nguyen T.T.L., et al. (2018). The prevalence of

malnutrition based on anthropometry among primary schoolchildren in Binh

Dinh province, Vietnam in 2016. AIMS Public Health, 5 (3), 203-216.

41. Bùi Thị Nhung và Trần Quang Bình (2014). Đánh giá tình trạng dinh dưỡng

của trẻ 6-10 tuổi tại huyện Từ Liên theo các tiêu chuẩn Quốc tế. Tạp chí y học

Dự phòng, (160), 76.

42. Nguyễn Thu Vân và Bùi Thị Nhung (2017). Tình trạng trí lực và dinh dưỡng

của học sinh lớp 2, 3 và 4 tại trường tiểu học Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà

Nội năm 2016. Tạp chí Y học Dự phòng, 27 (7), 234.

43. Hoang N.T.D., Orellana L., Le T.D., et al. (2018). Anthropometric Status

among 6–9-Year-Old School Children in Rural Areas in Hai Phong City,

Vietnam. Nutrients, 10 (1431), 1-14.

44. Trương Quang Đạt và Nguyễn Thị Tường Loan (2017). Một số chỉ số nhân

trắc và dinh dưỡng ở học sinh tiểu học tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định

năm 2016. Tạp chí y học Dự phòng, 27 (8), 322.

45. Bộ Y Tế và Viện Dinh Dưỡng (2015). Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng

2011-2020 và tầm nhìn 2030, Nhà xuất bản Y học.

46. Nguyễn Minh Phương (2017). Nghiên cứu mật độ xương, tình trạng vitamin

D và một số markers chu chuyển xương ở trẻ em từ 6 đến 14 tuổi tại thành phố

Cần Thơ, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội.

47. Nguyễn Song Tú, Trần Thúy Nga, Hoàng Văn Phương, et al. (2017). Thực

trạng dinh dưỡng học sinh tiểu học 7-10 tuổi tại 5 xã của huyện Phú Bình, tỉnh

Thái Nguyên, năm 2017. Tạp chí y học Dự phòng, 27 (6), 172.

48. Chaparro C., Oot L. and Sethuraman K. (2014). Overview of the Nutrition

Situation in Seven Countries in Southeast Asia, USAID.

49. Bùi Thị Nhung, Lê Danh Tuyên, Cao Thị Thu Hương và cộng sự (2017). Tình

trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến thừa cân và béo phì ở trẻ 6-10 tuổi

tại quận Thanh Xuân, Hà Nội năm 2011. Tạp chí Y học Dự phòng, 27 (3), 122.

50. Nguyễn Thị Thu Hiền và Nguyễn Thị Thúy Hiệp (2015). Nghiên cứu thể

lực của học sinh tiểu học ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tạp chí

Đại học Thủ Dầu Một, 5 (24), 43-50.

51. Nguyen H.T., Eriksson B., Petzold M., et al. (2013). Factors associated with

physical growth of children during the first two years of life in rural and urban

areas of Vietnam. BMC Pediatr, 13, 149.

52. Levine M.A. (2012). Assessing bone health in children and adolescents.

Indian J Endocrinol Metab, 16 (Suppl 2), S205-212.

53. Liu C.T., Karasik D., Zhou Y., et al. (2012). Heritability of prevalent

vertebral fracture and volumetric bone mineral density and geometry at the

lumbar spine in three generations of the Framingham study. J Bone Miner Res,

27 (4), 954-958.

54. Prentice A., Dibba B., Sawo Y., et al. (2012). The effect of prepubertal

calcium carbonate supplementation on the age of peak height velocity in

Gambian adolescents. Am J Clin Nutr, 96 (5), 1042-1050.

55. Fleet J.C. (2022). Vitamin D-Mediated Regulation of Intestinal Calcium

Absorption. Nutrients, 14 (16).

56. Maresz K. (2015). Proper Calcium Use: Vitamin K2 as a Promoter of Bone

and Cardiovascular Health. Integr Med (Encinitas), 14 (1), 34-39.

57. Bùi Thị Nhung và Lê Thị Hợp (2014). Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng

và vi chất dinh dưỡng của sử dụng "Sữa tươi tiệt trùng sữa học đường-có

đường"của học sinh mẫu giáo và tiểu học của huyện Nghĩa Đàn, Viện Dinh dưỡng.

58. Holick M.F. and Nieves J.W. (2015). Nutrition and Bone Health 2nd edition.

59. Trilok-Kumar G., Kaur M., Rehman A.M., et al. (2015). Effects of vitamin

D supplementation in infancy on growth, bone parameters, body composition

and gross motor development at age 3-6 years: follow-up of a randomized

controlled trial. Int J Epidemiol, 44 (3), 894-905.

60. Galesanu C., Grozavu I. and Alexandru F.A. (2015). Vitamin D

supplementation can improve velocity of growth in children with vitamin D

deficiency which are in treatment with RHGH for growth hormone deficiency.

Bone Abstracts.

61. Pekkinen M., Viljakainen H., Saarnio E., et al. (2012). Vitamin D is a major

determinant of bone mineral density at school age. PLoS ONE, 7 (7), e40090.

62. Rana P., Marwaha R.K., Kumar P., et al. (2014). Effect of vitamin D

supplementation on muscle energy phospho-metabolites: a (3)(1)P magnetic

resonance spectroscopy-based pilot study. Endocr Res, 39 (4), 152-156.

63. Kanellakis S., Moschonis G., Tenta R., et al. (2012). Changes in parameters

of bone metabolism in postmenopausal women following a 12-month

intervention period using dairy products enriched with calcium, vitamin D, and

phylloquinone (vitamin K(1)) or menaquinone-7 (vitamin K (2)): the

Postmenopausal Health Study II. Calcif Tissue Int, 90 (4), 251-262.

64. Nguyen T.H., Sandalinas F., de Sesmaisons A., et al. (2012). Multi-

micronutrient-fortified biscuits decreased the prevalence of anaemia and

improved iron status, whereas weekly iron supplementation only improved iron

status in Vietnamese school children. Br J Nutr, 108 (8), 1419-1427.

65. Do T.K.L., Bui T.N., Nguyen C.K., et al. (2009). Impact of milk

consumption on performance and health of primary school children in rural

Vietnam. Asia Pac J Clin Nutr, 18 (3), 326-334.

66. Vaz M., Pauline M., Unni U.S., et al. (2011). Micronutrient

supplementation improves physical performance measures in Asian Indian

school-age children. J Nutr, 141 (11), 2017-2023.

67. Ferland G. (2012). The discovery of vitamin K and its clinical applications.

Ann Nutr Metab, 61 (3), 213-218.

68. Nilsson M., Ohlsson C., Oden A., et al. (2012). Increased physical activity

is associated with enhanced development of peak bone mass in men: a five-

year longitudinal study. J Bone Miner Res, 27 (5), 1206-1214.

69. World Health Organization (2017). Guideline: Assessing and Managing

Children at Primary Health-Care Facilities to Prevent Overweight and Obesity

in the Context of the Double Burden of Malnutrition: Updates for the Integrated

Management of Childhood Illness (IMCI), World Health Organization, Geneva.

70. World Health Organization (2006). WHO child growth standards :

length/height-for-age, weight-for-age, weight-for-length, weight-for-height

and body mass index-for-age : methods and development / World Health

Organization, Department of Nutrition for Health and Development, World

Health Organization, Geneva.

71. Becker P.J., Nieman Carney L., Corkins M.R., et al. (2014). Consensus

statement of the Academy of Nutrition and Dietetics/American Society for

Parenteral and Enteral Nutrition: indicators recommended for the identification

and documentation of pediatric malnutrition (undernutrition). J Acad Nutr Diet,

114 (12), 1988-2000.

72. Aydin K., Dalgic B., Kansu A., et al. (2023). The significance of MUAC z-

scores in diagnosing pediatric malnutrition: A scoping review with special

emphasis on neurologically disabled children. Front Pediatr, 11, 1081139.

73. (2004). Bone Health and Osteoporosis: A Report of the Surgeon General,

Rockville (MD).

74. Kuo T.R. and Chen C.H. (2017). Bone biomarker for the clinical assessment

of osteoporosis: recent developments and future perspectives. Biomark Res, 5, 18.

75. Hoàng Văn Minh (2018). Khái niệm và thuật ngữ cơ bản sử dụng trong các

nghiên cứu khoa học sức khỏe định lượng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

76. Hoàng Văn Minh (2019). Phương pháp nghiên cứu can thiệp: thiết kế và

phân tích thống kê, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

77. Ali G.Y., Abdelbary E.E., Albuali W.H., et al. (2017). Bone mineral density

& bone mineral content in Saudi children, risk factors and early detection of

their affection using dual-emission X-ray absorptiometry (DEXA) scan.

Egyptian Pediatric Association Gazette, 65 (3), 65-71.

78. Ringe J.D. and Kipshoven C. (2012). Vitamin D-insufficiency: An estimate

of the situation in Germany. Dermatoendocrinol, 4 (1), 72-80.

79. Dixon J. and Miller S. (2018). Successful pregnancies and reduced

treatment requirement while breast feeding in a patient with congenital

hypoparathyroidism due to homozygous c.68C>A null parathyroid hormone

gene mutation. BMJ Case Rep, 2018.

80. de Jonge E., van der Vooren M., Gillis J., et al. (2023). Negative calcium

balance despite normal plasma ionized calcium concentrations during citrate

anticoagulated continuous venovenous hemofiltration (CVVH) in ICU

patients. J Nephrol, 36 (4), 1019-1026.

81. Hamdi R.A. (2013). Evaluation of Serum Osteocalcin Level in Iraqi

Postmenopausal Women with Primary Osteoporosis. Journal of the Faculty of

Medicine Baghdad, 55 (2), 166-169.

82. Singh S., Kumar D. and Lal A.K. (2015). Serum Osteocalcin as a

Diagnostic Biomarker for Primary Osteoporosis in Women. J Clin Diagn Res,

9 (8), RC04-07.

83. Lacombe J., Al Rifai O., Loter L., et al. (2020). Measurement of bioactive

osteocalcin in humans using a novel immunoassay reveals association with

glucose metabolism and beta-cell function. Am J Physiol Endocrinol Metab,

318 (3), E381-E391.

84. EFSA NDA Panel (2007). Dietary Reference Values for vitamin K.

EFSA Journal.

85. Golden M.H. (2009). Proposed recommended nutrient densities for

moderately malnourished children. Food Nutr Bull, 30 (3 Suppl), S267-342.

86. Beulens J.W., Booth S.L., van den Heuvel E.G., et al. (2013). The role of

menaquinones (vitamin K(2)) in human health. Br J Nutr, 110 (8), 1357-1368.

87. Grober U., Reichrath J., Holick M.F., et al. (2014). Vitamin K: an old

vitamin in a new perspective. Dermatoendocrinol, 6 (1), e968490.

88. Bộ Y tế và Viện Dinh Dưỡng (2003). Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000,

Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

89. Viện Dinh Dưỡng và UNICEF (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam

2009 - 2010. Nhà xuất Bản Y học, Hà Nội,

90. Viện Dinh Dưỡng (2020). Tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020.

91. Trần Tú Nguyệt, Phạm Thị Tâm, Lâm Nhựt Anh và cộng sự (2021). Đánh giá

tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học tại quận Ninh

Kiều, thành phố Cần Thơ năm 2018-2019. Tạp chí y dược học Cần Thơ, 34.

92. Nguyễn Thị Mai Anh (2006). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên

quan của học sinh 6 - 8 tuổi Trường tiểu học Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội,

Trường Đại học Y tế công cộng.

93. Hồ Thu Mai, Phạm Văn Hoan và Nguyễn Hữu Bắc (2010). Tình trạng dinh

dưỡng, khẩu phần và một số yếu tố liên quan của học sinh 6-14 tuổi tại huyện

Sóc Sơn, Hà Nội. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 6 (2), 23-30.

94. Lê Thị Hợp và Lê Nguyễn Bảo Khanh (2012). Tình trạng dinh dưỡng và

phát triển thể lực của học sinh phổ thông khu vực thành thị, nông thôn và miền

núi tại 3 tỉnh thành phía Bắc. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 8 (2), 1-8.

95. Lê Thị Hiệp, Lê Danh Tuyên, Trần Thúy Nga, et al. (2022). tình trạng dinh

dưỡng của học sinh tiểu học ở ba tỉnh miền Bắc năm 2020. Tạp chí Y học Việt

Nam, 516 (1).

96. Lê Thị Kiều Oanh, Nguyễn Thị Phương Lan và Phạm Trung Kiên (2018).

Thực trạng dinh dưỡng của học sinh lứa tuổi tiểu học tại thành phố Lạng Sơn.

Tạp chí Y học Việt Nam, 472 (Số đặc biệt).

97. Phạm Công Danh và Phạm Văn Phú (2020). Tình trạng dinh dưỡng ở học

sinh tiểu học tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019. Y học

cộng đồng, 58 (5), 142-148.

98. Lê Thị Thanh Hoa, Trương Thị Thuỳ Dương, Trần Thị Huyền Trang, et al.

(2022). thực trạng thừa cân, béo phì ở học sinh hai trường tiểu học huyện Đoan

Hùng, tỉnh Phú Thọ. Tạp chí Y học Việt Nam, 515 (1).

99. Đỗ Thị Mỹ Hạnh và Trần Thị Minh Hạnh (2018). Thực trạng thừa cân, béo

phì và một số yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học thị trấn Củ Chi, thành phố

Hồ Chí Minh năm 2016. Tạp chí Y học Tp. Hồ Chí Minh, 22 (1), 355-359.

100. Nguyễn Thùy Linh, Lê Thị Hương và Dương Thị Phượng (2018). Thực

trạng thừa cân béo phì và bữa ăn học đường của học sinh một trường tiểu học tại

Hà Nội năm 2017 và 2018. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 14 (2), 35-42.

101. Ngô Ngọc Diệu và Nguyễn Thị Thanh Tâm (2018). Tình trạng dinh dưỡng

và bữa ăn trưa của học sinh tại trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân thành phố

Thái Nguyên. Tạp chí Y học Việt Nam, 472 (Số đặc biệt), 914-921.

102. Nguyễn Thị Khánh Huyền, Nguyễn Trọng Hưng và Nguyễn Thị Hương

Lan (2020). Tình trạng dinh dưỡng của trẻ 6 - 36 tháng tuổi khám tư vấn dinh

dưỡng tại viện dinh dưỡng năm 2018. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 129 (5).

103. Chu Thị Phương Mai, Nguyễn Thị Thúy Hồng và Nguyễn Thị Hằng

(2022). Thực trạng thiếu vi chất ở trẻ từ 6 tháng đến dưới 5 tuổi. Tạp chí Y học

Việt Nam, 515 (2).

104. Nguyễn Song Tú, Trần Thúy Nga và Phạm Vĩnh An (2021). Thực trạng

thiếu vitamin D và một số yếu tố liên quan ở trẻ suy dinh dưỡng ở các trường

mầm non, tiểu học tại hai huyện Lục Yên và Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2017.

Tạp chí y học Dự phòng, 30 (5), 73-81.

105. Lưu Thị Mỹ Thục, Nguyễn Thái Hà và Bùi Thị Ngọc Ánh (2019). Thiếu

hụt vitamin d ở trẻ 6 - 11 tuổi tại bệnh viện Nhi trung ương và một số yếu tố

liên quan. Tạp chí Nhi khoa, 12 (3), 58-64.

106. Doan H.C., Vu T.T.H., Le T.N., et al. (2017). A cross-sectional survey on

status of nutrition and vitamin d dificinecy among nine years old children at

primary schools in Hai Duong city. Journal of military pharma-medicine, 6,

163-168.

107. Đoàn Huy Cường (2018). Thực trạng dinh dưỡng, canxi, vitamin D và

hiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn giàu canxi, bổ sung vitamin D cho trẻ em 9

tuổi tại thành phố Hải Dương, Luận án Tiến sĩ y học, Học viện Quân Y 103.

108. Schundeln M.M., Bader L., Kiewert C., et al. (2017). Plasma

concentrations of osteocalcin are associated with the timing of pubertal

progress in boys. J Pediatr Endocrinol Metab, 30 (2), 141-147.

109. Ambroszkiewicz J., Gajewska J. and Laskowska-Klita T. (2002). Serum

osteocalcin and bone alkaline phosphatase in healthy children in relation to age

and gender. Med Wieku Rozwoj, 6 (3), 257-265.

110. Lo S.F., Huang J.L., Chen L.C., et al. (1997). Serum osteocalcin levels of

normal children in Taiwan. Zhonghua Min Guo Xiao Er Ke Yi Xue Hui Za Zhi,

38 (6), 443-447.

111. Sen A.T., Derman O. and Kinik E. (2000). The relationship between

osteocalcin levels and sexual stages of puberty in male children. Turk J Pediatr,

42 (4), 281-285.

112. Abrams S.A., Mushi A., Hilmers D.C., et al. (2003). A Multinutrient-

Fortified Beverage Enhances the Nutritional Status of Children in Botswana. J

Nutr, 133 (6), 1834-1840.

113. Latham M.C., Ash D.M., Makola D., et al. (2003). Efficacy trials of a

micronutrient dietary supplement in schoolchildren and pregnant women in

Tanzania. Food Nutr Bull, 24 (4 Suppl), S120-128.

114. Hyder S.M., Haseen F., Khan M., et al. (2007). A multiple-micronutrient-

fortified beverage affects hemoglobin, iron, and vitamin A status and growth in

adolescent girls in rural Bangladesh. J Nutr, 137 (9), 2147-2153.

115. Sarma K.V., Udaykumar P., Balakrishna N., et al. (2006). Effect of

micronutrient supplementation on health and nutritional status of

schoolchildren: growth and morbidity. Nutrition, 22 (1 Suppl), S8-14.

116. Sivakumar B., Vijayaraghavan K., Vazir S., et al. (2006). Effect of

micronutrient supplement on health and nutritional status of schoolchildren:

study design. Nutrition, 22 (1 Suppl), S1-7.

117. Shatrugna V., Balakrishna N. and Krishnaswamy K. (2006). Effect of

micronutrient supplement on health and nutritional status of schoolchildren:

bone health and body composition. Nutrition, 22 (1 Suppl), S33-39.

118. Vazir S., Nagalla B., Thangiah V., et al. (2006). Effect of micronutrient

supplement on health and nutritional status of schoolchildren: mental function.

Nutrition, 22 (1 Suppl), S26-32.

119. Manger M.S., McKenzie J.E., Winichagoon P., et al. (2008). A

micronutrient-fortified seasoning powder reduces morbidity and improves

short-term cognitive function, but has no effect on anthropometric measures in

primary school children in northeast Thailand: a randomized controlled trial.

Am J Clin Nutr, 87 (6), 1715-1722.

120. Winichagoon P., McKenzie J.E., Chavasit V., et al. (2006). A

multimicronutrient-fortified seasoning powder enhances the hemoglobin, zinc,

and iodine status of primary school children in North East Thailand: a

randomized controlled trial of efficacy. J Nutr, 136 (6), 1617-1623.

121. Osendarp S.J., Baghurst K.I., Bryan J., et al. (2007). Effect of a 12-mo

micronutrient intervention on learning and memory in well-nourished and

marginally nourished school-aged children: 2 parallel, randomized, placebo-

controlled studies in Australia and Indonesia. Am J Clin Nutr, 86 (4), 1082-1093.

122. Solon F.S., Sarol J.N., Jr., Bernardo A.B., et al. (2003). Effect of a

multiple-micronutrient-fortified fruit powder beverage on the nutrition status,

physical fitness, and cognitive performance of schoolchildren in the

Philippines. Food Nutr Bull, 24 (4 Suppl), S129-140.

123. Zimmermann M.B., Connolly K., Bozo M., et al. (2006). Iodine

supplementation improves cognition in iodine-deficient schoolchildren in

Albania: a randomized, controlled, double-blind study. Am J Clin Nutr, 83 (1),

108-114.

124. Best C., Neufingerl N., Del Rosso J.M., et al. (2011). Can multi-

micronutrient food fortification improve the micronutrient status, growth,

health, and cognition of schoolchildren? A systematic review. Nutr Rev, 69 (4),

186-204.

125. Nga T.T., Winichagoon P., Dijkhuizen M.A., et al. (2009). Multi-

micronutrient-fortified biscuits decreased prevalence of anemia and improved

micronutrient status and effectiveness of deworming in rural Vietnamese

school children. J Nutr, 139 (5), 1013-1021.

126. Mugunthan S.R., Rao Y.K., Midha T., et al. (2017). Effect of vitamin D

supplementation on growth parameters of children with vitamin D deficiency:

a community based randomized controlled trial. International Journal of

contemporary pediatrics, 4 (6).

127. Sazawal S., Habib A., Dhingra U., et al. (2013). Impact of micronutrient

fortification of yoghurt on micronutrient status markers and growth - a

randomized double blind controlled trial among school children in Bangladesh.

BMC Public Health, 13, 514.

128. Khadilkar A., Kadam N., Chiplonkar S., et al. (2012). School-based

calcium-vitamin D with micronutrient supplementation enhances bone mass in

underprivileged Indian premenarchal girls. Bone, 51 (1), 1-7.

129. Yang Y.X., Han J.H., Shao X.P., et al. (2002). Effect of micronutrient

supplementation on the growth of preschool children in China. Biomed Environ

Sci, 15 (3), 196-202.

130. Hoàng Khải Lập và Hà Xuân Sơn (2006). Hiệu quả phục hồi dinh dưỡng

trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng cộng đồng người mẹ. Tạp chí y học Dự phòng,

XVI (85).

131. Thủ tướng chính phủ (2022). Phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng

giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

132. Panis B., Vermeer C., van Kroonenburgh M., et al. (2006). Effect of

calcium, vitamins K1 and D3 on bone in galactosemia. Bone, 39 (5), 1123-1129.

133. Panis B., van Kroonenburgh M.J. and Rubio-Gozalbo M.E. (2007).

Proposal for the prevention of osteoporosis in paediatric patients with classical

galactosaemia. J Inherit Metab Dis, 30 (6), 982.

134. Kalkwarf H.J., Khoury J.C., Bean J., et al. (2004). Vitamin K, bone

turnover, and bone mass in girls. Am J Clin Nutr, 80 (4), 1075-1080.

135. Inoue T., Sugiyama T., Matsubara T., et al. (2001). Inverse correlation

between the changes of lumbar bone mineral density and serum

undercarboxylated osteocalcin after vitamin K2 (menatetrenone) treatment in

children treated with glucocorticoid and alfacalcidol. Endocr J, 48 (1), 11-18.

136. Ozdemir M.A., Yilmaz K., Abdulrezzak U., et al. (2013). The efficacy of

vitamin K2 and calcitriol combination on thalassemic osteopathy. J Pediatr

Hematol Oncol, 35 (8), 623-627.

137. Rianthavorn P., Pisutikul K., Deekajorndech T., et al. (2012). Prevention

of bone loss in children receiving long-term glucocorticoids with calcium and

alfacalcidol or menatetrenone. J Pediatr Endocrinol Metab, 25 (3-4), 307-312.

138. Newberry S.J., Chung M., Shekelle P.G., et al. (2014). Vitamin D and

Calcium: A Systematic Review of Health Outcomes (Update), Rockville (MD):

Agency for Healthcare Research and Quality (US).

139. Cosenza L., Pezzella V., Nocerino R., et al. (2013). Calcium and vitamin

D intakes in children: a randomized controlled trial. BMC Pediatr, 13, 86.

140. Thacher T.D., Fischer P.R. and Pettifor J.M. (2014). Vitamin D treatment

in calcium-deficiency rickets: a randomised controlled trial. Archives of disease

in childhood, 99 (9), 807-811.

141. Kuang X., Liu C., Guo X., et al. (2020). The combination effect of vitamin

K and vitamin D on human bone quality: a meta-analysis of randomized

controlled trials. Food Funct, 11 (4), 3280-3297.

142. Solmaz I., Ozdemir M.A., Unal E., et al. (2021). Effect of vitamin K2 and

vitamin D3 on bone mineral density in children with acute lymphoblastic leukemia:

a prospective cohort study. J Pediatr Endocrinol Metab, 34 (4), 441-447.

143. Hu L., Ji J., Li D., et al. (2021). The combined effect of vitamin K and

calcium on bone mineral density in humans: a meta-analysis of randomized

controlled trials. J Orthop Surg Res, 16 (1), 592.

144. Sato T., Inaba N. and Yamashita T. (2020). MK-7 and Its Effects on Bone

Quality and Strength. Nutrients, 12 (4).

145. Du C.X. and Li N. (2022). Serum vitamin K(2) level and its association

with bone metabolism markers in 1 732 children. Zhongguo Dang Dai Er Ke

Za Zhi, 24 (10), 1130-1135.

146. Li W., Zhang S., Liu J., et al. (2019). Vitamin K2 stimulates MC3T3‑E1

osteoblast differentiation and mineralization through autophagy induction. Mol

Med Rep, 19 (5), 3676-3684.

147. Hamilton W. and Lin B.-H. (2004). Effects Of Food Assistance And

Nutrition Programs On Nutrition And Health: Volume 3, Literature Review.

United States Department of Agriculture, Economic Research Service, Food

Assistance and Nutrition Research Reports.

148. Kohri T., Kaba N., Itoh T., et al. (2016). Effects of the National School

Lunch Program on Bone Growth in Japanese Elementary School Children.

Journal of Nutritional Science and Vitaminology, 62 (5), 303-309.

149. Lee J.H., Kim W.K. and Kim S.H. (2019). Participation in the School Milk

Program Contributes to Increased Milk Consumption and Dietary Nutrient

Intake by Middle School Students in South Korea. Nutrients, 11 (10).

150. Rana R.K., Nag A.R., Soren S., et al. (2022). Impact of milk on

malnutrition and cognitive skills among school children: Evidence from gift

milk initiative from a tribal state of India. J Family Med Prim Care, 11 (6),

2945-2951.

151. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1340/QĐ-TTg phê duyệt

Chương trình Sữa học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng góp phần

nâng cao tầm vóc trẻ em mẫu giáo và tiểu học đến năm 2020.

152. Viện Dinh Dưỡng (2014). Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi

chất dinh dưỡng của sử dụng sữa tươi TH True milk bổ sung vi chất “ Sữa tươi

tiệt trùng sữa học đường - có đường” của học sinh mẫu giáo và tiểu học của

huyện Nghĩa Đàn, Viện Dinh Dưỡng, Hà Nội.

153. Bùi Thị Thanh Hoa, Lê Thị Hợp, Nguyễn Cảnh Phú và cộng sự (2020).

hiệu quả của chương trình sữa học đường và một số yếu tố liên quan đối với

tình trạng dinh dưỡng, một số vi chất dinh dưỡng (vitamin a, kẽm) và tình trạng

thiếu máu của học sinh tiểu học tại 2 huyện và thành phố Vinh tỉnh Nghệ An

năm 2019. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 16 (3+4), 12-22.

154. Chibuzor M.T., Graham-Kalio D., Osaji J.O., et al. (2020). Vitamin D,

calcium or a combination of vitamin D and calcium for the treatment of

nutritional rickets in children. Cochrane Database Syst Rev, 4 (4), CD012581.

155. Capozzi A., Scambia G., Migliaccio S., et al. (2020). Role of vitamin K(2)

in bone metabolism: a point of view and a short reappraisal of the literature.

Gynecol Endocrinol, 36 (4), 285-288.

156. Karpinski M., Popko J., Maresz K., et al. (2017). Roles of Vitamins D and

K, Nutrition, and Lifestyle in Low-Energy Bone Fractures in Children and

Young Adults. J Am Coll Nutr, 36 (5), 399-412.

157. Dudley D.A., Cotton W.G. and Peralta L.R. (2015). Teaching approaches

and strategies that promote healthy eating in primary school children: a

systematic review and meta-analysis. Int J Behav Nutr Phys Act, 12, 28.

158. Partida S., Marshall A., Henry R., et al. (2018). Attitudes toward Nutrition

and Dietary Habits and Effectiveness of Nutrition Education in Active

Adolescents in a Private School Setting: A Pilot Study. Nutrients, 10 (9),

159. Doustmohammadian A., Omidvar N. and Shakibazadeh E. (2020).

School-based interventions for promoting food and nutrition literacy (FNLIT)

in elementary school children: a systematic review protocol. Syst Rev, 9 (1), 87.

160. Alves J.G.B. and Alves G.V. (2019). Effects of physical activity on

children's growth. J Pediatr (Rio J), 95 Suppl 1, 72-78.

161. Dimitri P., Joshi K., Jones N., et al. (2020). Moving more: physical activity

and its positive effects on long term conditions in children and young people.

Archives of disease in childhood, 105 (11), 1035-1040.

162. Karlsson M.K. and Rosengren B.E. (2020). Exercise and Peak Bone Mass.

Curr Osteoporos Rep, 18 (3), 285-290.

163. Proia P., Amato A., Drid P., et al. (2021). The Impact of Diet and Physical

Activity on Bone Health in Children and Adolescents. Front Endocrinol

(Lausanne), 12, 704647.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 1

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

A1. Họ và tên trẻ: ..........................................................

A2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ

A3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

A4. Lớp: ...............

A5. Cân nặng: |__||__|.|__| kg

A6. Chiều cao: |__||__|.|__| cm

Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ...............................

Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ...............................

PHỤ LỤC 2.1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 2

PHIẾU SÀNG LỌC ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

Họ tên trẻ: ………………………….… Giới tính: |__| Nam |__| Nữ

Ngày sinh: |__||__|/|__||__|/20|__||__| Lớp: ……………………………………

CÁC TIÊU CHUẨN CHỌN LỰA

Không

Trẻ 7-10 tuổi (lớp 2 - lớp 5)

Trẻ đã đánh giá tình trạng dinh dưỡng

Trẻ chậm tặng trưởng chiều cao

Bố mẹ/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu

Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “không”

CÁC TIÊU CHUẨN LOẠI TRỪ

Không

Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu

Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia lấy mẫu xét

nghiệm

Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “có”

Trẻ được lựa chọn

KẾT

LUẬN

Trẻ không được lựa chọn

Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ...............................

Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ...............................

PHỤ LỤC 2.2 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU CUNG CẤP THÔNG TIN NGHIÊN CỨU

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

PHẦN I: THÔNG TIN NGHIÊN CỨU

BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NGHIÊN CỨU

Bạn và con bạn được mời tham gia nghiên cứu đánh giá tình trạng sức khỏe xương

của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao thuộc giai đoạn 2 của đề tài “Hiệu quả bổ sung

vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng, sức

khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình”. Bạn được

mời tham gia nghiên cứu này do cán bộ y tế của đề tài nghiên cứu cho rằng con bạn

có các điều kiện phù hợp với nghiên cứu.

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Công ty cổ phần sữa quốc tế IDP, dưới sự chỉ đạo của

chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ninh Thị Nhung, đồng chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn

Xuân Ninh, nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự và đội ngũ nghiên cứu

của Trường Đại Học Y Dược Thái Bình. Nghiên cứu này được phê duyệt bởi Hội Đồng

Đạo Đức Trong Nghiên Cứu Y sinh của Đại Học Y Dược Thái Bình và Hội Đồng Đạo

Đức trong nghiên cứu Y sinh học của Viện Y học ứng dụng Việt Nam.

Nghiên cứu này sẽ thực hiện trên khoảng hơn 200 trẻ em trong độ tuổi từ 7-10 tuổi.

Khi tham gia vào nghiên cứu, con bạn được đánh giá tình trạng sức khỏe xương.

Tài liệu này sẽ ghi rõ các quyền lợi và yêu cầu đối với bạn và con bạn (nếu bạn quyết

định tham gia), các thủ tục tiến hành trong nghiên cứu và các thuận lợi cũng như rủi

ro sẽ có thể xảy ra khi tham gia nghiên cứu.

Nếu bạn không chắc mình hiểu rõ tất cả các giải thích này, bạn có thể trao đổi với

Thạc sỹ, Bác sĩ Nguyễn Hữu Ngự, hay một nhân viên y tế khác trong chương trình

nghiên cứu. Các câu hỏi của bạn sẽ được giải đáp thỏa đáng.

QUYỀN LỢI CỦA BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU

Khi tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn có các quyền lợi như sau:

• Được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu và cách thức nghiên cứu viên lên

kế hoạch thực hiện nghiên cứu;

• Được xét nghiệm 3 chỉ số (vitamin D, Canxi, Osteocalcin), đo mật độ xương

và khối lượng xương nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe xương miễn phí (với

kinh phí ước tính khoảng 1.000.000 VND).

• Được tư vấn miễn phí về điều trị và phòng bệnh khác khi cần thiết.

• Được tự do trong quyết định có tham gia nghiên cứu hay không mà không bị

bất kỳ đe dọa, gây ảnh hưởng hay dụ dỗ gì từ nhóm nghiên cứu, nhân viên

phòng khám, hoặc các nghiên cứu viên liên quan đến nghiên cứu.

• Được quyết định dừng tham gia nghiên cứu vào bất cứ thời gian nào

• Được truy cập các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu được công bố

công khai sau khi kết thúc nghiên cứu.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU

Dưới đây là những yêu cầu đối với bạn và con bạn nếu bạn quyết định tham gia

nghiên cứu:

• Báo với cán bộ nghiên cứu về bất kỳ vấn đề liên quan đến sức khỏe nào xuất

hiện với con của bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu, bao gồm hiện tượng,

triệu chứng, nơi khám/nằm viện và phương thức điều trị nếu có.

• Trong quá trình tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn KHÔNG NÊN tham gia

bất kỳ nghiên cứu nào khác mà không có sự chấp thuận của cán bộ nghiên cứu.

• Báo với cán bộ nghiên cứu nếu bạn muốn dừng tiếp tục tham gia nghiên cứu.

• Trả lời các câu hỏi liên quan đến vấn đề sức khỏe của con bạn trong thời gian

tham gia nghiên cứu.

• Nếu quyết định tham gia nghiên cứu, bạn cần ký vào bản chấp nhận tham gia

nghiên cứu.

RỦI RO VÀ CÁC PHẢN ỨNG BẤT LỢI

Nghiên cứu không có rủi ro nào cả, trừ việc con bạn được lấy máu tĩnh mạch 3ml để

làm các xét nghiệm theo yêu cầu của nghiên cứu, có thể gây đau và khó chịu một

chút cho con bạn. Tuy nhiên bác sỹ và kỹ thuật viên sẽ tuân thủ các quy định về vô

trùng, phòng tránh lây nhiễm, giảm đau trong quá trình lấy máu.

Nếu bạn có câu hỏi gì liên quan đến các nguy cơ có liên quan đến việc tham gia vào

nghiên cứu, xin vui lòng hỏi nhóm nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào.

ĐIỀU TRỊ VÀ BỒI THƯỜNG CHO TÁC DỤNG PHỤ, THƯƠNG TÍCH,

TÀN TẬT

Nếu con bạn bị thương tích hoặc gặp phải vấn đề y tế do tham gia vào nghiên cứu,

con bạn sẽ được điều trị và chăm sóc các vấn đề y tế này tại địa phương đến khi tình

trạng bệnh ổn định, bạn không phải trả chi phí cho chăm sóc điều trị này.

BẢO MẬT THÔNG TIN

Tất cả các thông tin cá nhân của bạn được giữ kín, không tiết lộ cho bên thứ 3, chỉ

được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu viên sẽ sử dụng các thông tin về

tình trạng sức khỏe của trẻ bao gồm cả những thông tin về tên, địa chỉ, số điện thoại,

tiền sử bệnh và hiện nay cũng như các thông tin từ các lần thăm khám.

Các thông tin này chỉ trình bày dưới dạng số liệu và sẽ không chỉ ra một cách cụ thể

thông tin về bạn và con bạn. Và nếu như con bạn gặp những tác dụng không mong

muốn do nghiên cứu, cán bộ nghiên cứu sẽ chia sẻ những thông tin này với nhà tài

trợ để có thể giúp giải quyết các vấn đề này. Các thông tin của bạn và con bạn trong

quá trình nghiên cứu được dùng để đánh giá hiệu quả/hiệu lực và các vấn đề liên quan

tới sản phẩm nghiên cứu và công bố công khai.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi gì trong suốt quá trình nghiên cứu, bạn có thể liên hệ với

Nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự.

Địa chỉ: Đại học Y Dược Thái Bình. Điện thoại: 0988347506

PHẦN II: BẢN CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Họ và tên học sinh:_________________________________________________

Ngày sinh: ________________________________________________________

Lớp: ___________________________ Trường: _______________________

• Tôi đã được đọc/nghe về mục đích và mục tiêu của giai đoạn 2 của nghiên cứu

“Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng

dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái

Bình”, được cung cấp cơ hội đặt câu hỏi và có thời gian hợp lý để suy xét vấn đề.

• Tôi hiểu được quyền lợi của bản thân và của con tôi khi tham gia vào nghiên

cứu bao gồm việc được lấy mẫu xét nghiệm đánh giá tình trạng sức khỏe xương bởi

những chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên nghiệp không gây nguy hiểm đến sức khỏe.

• Tôi hiểu rằng việc tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện và có

thể dừng việc tham gia nghiên cứu khi tôi muốn.

• Tôi hiểu rằng tất cả các nội dung nghiên cứu này được thông qua và chấp thuận

của Hội đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức của Đại học Y Dược Thái Bình, Hội

đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức Viện Y học ứng dụng Việt Nam, và sự đồng ý

của ban giám hiệu trường tiểu học………………………………………...

• Tôi đồng ý cho con tôi tham gia nghiên cứu này.

Số điện thoại: ____________________

Họ và tên: _________________________

CMND: _________________________

Quan hệ với trẻ:_____________________ Chữ ký: _________________________

Cam kết của Nghiên cứu viên

Tôi đã cung cấp thông tin trao đổi bằng lời và trên giấy tờ liên quan đến nghiên cứu này.

Tôi đồng ý trả lời bất kỳ câu hỏi nào trong tương lai liên quan đến nghiên cứu này

trong khả năng có thể.

Tôi sẽ tuân thủ các quy trình nghiên cứu đã được phê duyệt.

Tên của Nghiên cứu viên

Chữ ký của Nghiên cứu viên

______________________________

_______________________________

Thái Bình, giờ: …….. ngày/tháng/năm:……………

PHỤ LỤC 2.3 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 2

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE XƯƠNG

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

B1. Họ và tên trẻ: ..........................................................

B2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ

B3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

B4. Lớp: ...............

Kết quả xét nghiệm

B5. Mật độ xương: |__|.|__||__| g/cm2

B6. Khối lượng xương: |__||__|.|__||__| g

B7. Nồng độ Canxi ion: |__|.|__||__| mmol/l

B8. Nồng độ Vitamin D: |__||__|.|__||__| ng/mL

B9. Nồng độ Osteocalcin: |__||__||__|.|__||__| ng/mL

Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ...............................

Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ...............................

PHỤ LỤC 3.1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 3

PHIẾU SÀNG LỌC ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

Họ tên trẻ: ………………………….… Giới tính: |__| Nam |__| Nữ

Ngày sinh: |__||__|/|__||__|/20|__||__| Lớp: ……………………………………

Phần I: Khám sàng lọc 1. Khám lâm sàng

Hô hấp

|__| Viêm phế quản

|__| Viêm phổi

|__| Khác:...................

Tiêu hóa

|__| Tiêu chảy

|__| Viêm gan

|__| Khác:...................

Tim mạch

|__| Suy tim

|__| Tim bẩm sinh

|__| Khác:...................

Tiết niệu

|__| HC thận hư

|__| Khác:...................

|__| Viêm cầu thận cấp

Nội tiết

|__| Cường cận giáp

|__| Khác:...................

|__| Cường giáp trạng

Cơ xương khớp

|__| Viêm khớp mạn

|__| Đa u tủy xương

|__| Khác:...................

|__| Down

|__| Khác:...................

Tâm thần kinh

|__| Tự kỷ

|__| Không

Dị tật bẩm sinh

|__| Có (ghi rõ) .................................................

Lồng ngực

|__| Khác..........

2. Khám các biểu hiện của tiền dạy thì, dạy thì |__| Biến dạng

|__| Ngực gà

|__| Bình thường

Trứng cá ở mặt

|__| Không

Lông mu

|__| Không

|__| Chưa phát triển

Tiếng nói

|__| Chưa vỡ tiếng

Ria mép (Bé trai)

|__| Chưa

|__| Chưa

|__| Có |__| Có |__| Phát triển |__| Vỡ tiếng |__| Có |__| Có

Kinh nguyệt (Bé gái)

Các đặc tính sinh dục khác (ghi rõ) : ...................................................................................

Kết luận: Trẻ có dấu hiệu dậy thì và/hoặc đã/đang có các bệnh lý, tiền sử

và tình trạng cần được loại trừ:

|__| Có

|__| Không

Phần II: Lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu

Không

CÁC TIÊU CHUẨN CHỌN LỰA Trẻ 7-10 tuổi (lớp 2 - lớp 5) Trẻ đã đánh giá tình trạng sức khỏe xương Trẻ chậm tặng trưởng chiều cao Bố mẹ/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu Trẻ có thời gian học tập và sinh sống tại địa bàn từ 3 tháng trở lên Cam kết không sử dụng bất kỳ một sản phẩm bổ sung hoặc thực phẩm bảo vệ sức khỏe trong toàn bộ khoảng thời gian nghiên cứu Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “không”

Không

CÁC TIÊU CHUẨN LOẠI TRỪ Trẻ thừa cân/béo phì Khám sàng lọc: Trẻ có dấu hiệu dậy thì và/hoặc đã/đang có các bệnh lý, tiền sử và tình trạng cần được loại trừ Trẻ có tiền sử kém dung nạp lactose Trẻ có bố mẹ là người gốc nước ngoài Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “có”

Trẻ được lựa chọn

KẾT

LUẬN

Trẻ không được lựa chọn

Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

Điều tra viên: Kiểm soát viên: ............................... ............................... Chữ ký: ............................... Chữ ký: ...............................

PHỤ LỤC 3.2 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU CUNG CẤP THÔNG TIN NGHIÊN CỨU

Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải

thiện tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện

Tiền Hải, tỉnh Thái Bình

PHẦN I: THÔNG TIN NGHIÊN CỨU

BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NGHIÊN CỨU

Bạn và con bạn được mời tham gia nghiên cứu can thiệp sản phẩm thực phẩm bổ sung

dinh dưỡng giúp phát triển tối ưu chiều cao, cân nặng. Bạn được mời tham gia nghiên

cứu này do cán bộ y tế của đề tài nghiên cứu cho rằng con bạn có các điều kiện phù

hợp với nghiên cứu.

Sản phẩm bổ sung này đã được sản xuất dành riêng cho nghiên cứu theo các tiêu

chuẩn an toàn thực phẩm. Sản phẩm sẽ được cung cấp miễn phí cho con bạn trong

suốt quá trình bạn tham gia nghiên cứu này.

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Công ty cổ phần sữa quốc tế IDP, dưới sự chỉ đạo

của chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ninh Thị Nhung, đồng chủ nhiệm đề tài: PGS.TS

Nguyễn Xuân Ninh, nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự và đội ngũ

nghiên cứu của Trường Đại Học Y Dược Thái Bình. Nghiên cứu này được phê duyệt

bởi Hội Đồng Đạo Đức Trong Nghiên Cứu Y sinh của Đại Học Y Dược Thái Bình

và Hội Đồng Đạo Đức trong nghiên cứu Y sinh học của Viện Y học ứng dụng Việt

Nam.

Nghiên cứu này sẽ thực hiện trên khoảng hơn 200 trẻ em trong độ tuổi từ 7-10 tuổi.

Khi tham gia vào nghiên cứu, con bạn được uống sản phẩm và theo dõi sự phát triển

chiều cao, cân nặng, tình trạng sức khỏe xương trong thời gian 180 ngày. Con bạn sẽ

được khám và xét nghiệm thêm 2 lần vào ngày thứ 90 và ngày thứ 180 của nghiên cứu.

Tài liệu này sẽ ghi rõ các quyền lợi và yêu cầu đối với bạn và con bạn (nếu bạn quyết

định tham gia), các thủ tục tiến hành trong nghiên cứu và các thuận lợi cũng như rủi

ro sẽ có thể xảy ra khi tham gia nghiên cứu.

Nếu bạn không chắc mình hiểu rõ tất cả các giải thích này, bạn có thể trao đổi với

Thạc sỹ, Bác sĩ Nguyễn Hữu Ngự, hay một nhân viên y tế khác trong chương trình

nghiên cứu. Các câu hỏi của bạn sẽ được giải đáp thỏa đáng.

QUYỀN LỢI CỦA BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU

Khi tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn có các quyền lợi như sau:

• Được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu và cách thức nghiên cứu viên lên

kế hoạch thực hiện nghiên cứu;

• Được uống sữa hàng ngày trong vòng 180 ngày, mỗi ngày 1 hộp, kể cả 2 ngày

nghỉ cuối tuần.

• Được xét nghiệm 3 chỉ số (vitamin D, Canxi, Osteocalcin), đo mật độ xương

và khối lượng xương nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe xương miễn phí (với

kinh phí ước tính mỗi lần khoảng 1.000.000 VND).

• Được tư vấn miễn phí về điều trị và phòng bệnh khác khi cần thiết.

• Được tự do trong quyết định có tham gia nghiên cứu hay không mà không bị

bất kỳ đe dọa, gây ảnh hưởng hay dụ dỗ gì từ nhóm nghiên cứu, nhân viên

phòng khám, hoặc các nghiên cứu viên liên quan đến nghiên cứu.

• Được hưởng những lợi ích sức khỏe từ sản phẩm và được bác sỹ tư vấn các

vấn đề khác liên quan đến chế độ ăn uống lành mạnh và lối sống tích cực để

giảm thiểu nguy cơ.

• Được quyết định dừng tham gia nghiên cứu vào bất cứ thời gian nào

• Được truy cập các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu được công bố

công khai sau khi kết thúc nghiên cứu.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU

Dưới đây là những yêu cầu đối với bạn và con bạn nếu bạn quyết định tham gia

nghiên cứu:

• Tham gia sử dụng sản phẩm sữa bổ sung tại trường và tại nhà trong thời gian

ít nhất là 180 ngày tùy theo tình trạng dinh dưỡng của con bạn. Trong thời gian

này bác sỹ cũng sẽ chỉ định một số xét nghiệm ở ngày đầu tiên, ngày thứ 90

và ngày cuối cùng của nghiên cứu để đánh giá tình trạng của con bạn.

• Tuân thủ hướng dẫn sử dụng sản phẩm của bác sỹ và cán bộ nghiên cứu.

• Báo với cán bộ nghiên cứu về bất kỳ vấn đề liên quan đến sức khỏe nào xuất

hiện với con của bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu, bao gồm hiện tượng,

triệu chứng, nơi khám/nằm viện và phương thức điều trị nếu có.

• Trong quá trình tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn KHÔNG NÊN tham gia

bất kỳ nghiên cứu nào khác mà không có sự chấp thuận của cán bộ nghiên cứu.

• Báo với cán bộ nghiên cứu nếu bạn muốn dừng tiếp tục tham gia nghiên cứu.

• Trả lời các câu hỏi liên quan đến sử dụng sản phẩm và vấn đề sức khỏe của

con bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu.

• Nếu quyết định tham gia nghiên cứu, bạn cần ký vào bản chấp nhận tham gia

nghiên cứu.

RỦI RO VÀ CÁC PHẢN ỨNG BẤT LỢI

Nghiên cứu không có rủi ro nào cả, trừ việc con bạn được lấy máu tĩnh mạch 2 lần

vào ngày thứ 90 và ngày thứ 180, mỗi lần 3ml để làm các xét nghiệm cần thiết, có

thể gây đau và khó chịu một chút cho con bạn. Tuy nhiên bác sỹ và kỹ thuật viên sẽ

tuân thủ các quy định về vô trùng, phòng tránh lây nhiễm, giảm đau trong quá trình

lấy máu.

Có thể gặp trường hợp bị rối loạn tiêu hóa, hoặc đau bụng sau khi uống sữa, bạn cần

thông báo ngay cho chủ nhiệm đề tài hoặc cán bộ y tế biết để kịp thời xử lý.

Sản phẩm dinh dưỡng đường uống được sử dụng trong nghiên cứu được sản xuất đảm

bảo các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Các thông tin về sản phẩm theo nhà

sản xuất là an toàn và không có tác dụng phụ nào. Tuy nhiên điều đó không đảm bảo

con bạn sẽ không gặp bất kỳ cảm giác khó chịu nào khi tham gia nghiên cứu.

Bạn không phải trả tiền cho việc điều trị các tác dụng phụ này. Nếu bạn có câu hỏi gì

liên quan đến các nguy cơ có liên quan đến việc tham gia vào nghiên cứu, xin vui

lòng hỏi nhóm nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào.

ĐIỀU TRỊ VÀ BỒI THƯỜNG CHO TÁC DỤNG PHỤ, THƯƠNG TÍCH,

TÀN TẬT

Nếu con bạn bị thương tích hoặc gặp phải vấn đề y tế do tham gia vào nghiên cứu,

con bạn sẽ được điều trị và chăm sóc các vấn đề y tế này tại địa phương đến khi tình

trạng bệnh ổn định, bạn không phải trả chi phí cho chăm sóc điều trị này.

BẢO MẬT THÔNG TIN

Tất cả các thông tin cá nhân của bạn được giữ kín, không tiết lộ cho bên thứ 3, chỉ

được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu viên sẽ sử dụng các thông tin về

tình trạng sức khỏe của trẻ bao gồm cả những thông tin về tên, địa chỉ, số điện thoại,

tiền sử bệnh và hiện nay cũng như các thông tin từ các lần thăm khám.

Các thông tin này chỉ trình bày dưới dạng số liệu và sẽ không chỉ ra một cách cụ thể

thông tin về bạn và con bạn. Và nếu như con bạn gặp những tác dụng không mong

muốn do nghiên cứu, cán bộ nghiên cứu sẽ chia sẻ những thông tin này với nhà tài

trợ để có thể giúp giải quyết các vấn đề này. Các thông tin của bạn và con bạn trong

quá trình nghiên cứu được dùng để đánh giá hiệu quả/hiệu lực và các vấn đề liên quan

tới sản phẩm nghiên cứu và công bố công khai.

BẠN PHẢI TRẢ NHỮNG CHI PHÍ GÌ CHO VIỆC THAM GIA NGHIÊN CỨU

Bạn không phải trả bất kỳ chi phí cho việc tham gia nghiên cứu bao gồm chi phí dùng

sản phẩm nghiên cứu cũng như chi phí cho việc đánh giá tình trạng sức khỏe xương.

Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi gì trong suốt quá trình nghiên cứu, bạn có thể liên hệ với

Nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự.

Địa chỉ: Đại học Y Dược Thái Bình. Điện thoại: 0988347506

PHẦN II: BẢN CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU

Họ và tên học sinh:_________________________________________________

Ngày sinh: ________________________________________________________

Lớp: ___________________________ Trường: _______________________

• Tôi đã được đọc/nghe về mục đích và mục tiêu của giai đoạn 3 của nghiên cứu

“Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng

dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái

Bình”, được cung cấp cơ hội đặt câu hỏi và có thời gian hợp lý để suy xét vấn đề.

• Tôi hiểu được quyền lợi của bản thân và của con tôi khi tham gia vào nghiên

cứu bao gồm việc được uống sữa trong vòng 180 ngày, được đánh giá tình trạng dinh

dưỡng và đánh giá tình trạng sức khỏe xương bởi những chuyên gia, kỹ thuật viên

chuyên nghiệp không gây nguy hiểm đến sức khỏe.

• Tôi hiểu rằng việc tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện và có

thể dừng việc tham gia nghiên cứu khi tôi muốn.

• Tôi hiểu rằng tất cả các nội dung nghiên cứu này được thông qua và chấp thuận

của Hội đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức của Đại học Y Dược Thái Bình, Hội

đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức Viện Y học ứng dụng Việt Nam, và sự đồng ý

của ban giám hiệu trường tiểu học………………………………………...

• Tôi đồng ý cho con tôi tham gia nghiên cứu này.

Số điện thoại: ____________________

Họ và tên: _________________________

CMND: _________________________

Quan hệ với trẻ:_____________________ Chữ ký: _________________________

Cam kết của Nghiên cứu viên

Tôi đã cung cấp thông tin trao đổi bằng lời và trên giấy tờ liên quan đến nghiên cứu này.

Tôi đồng ý trả lời bất kỳ câu hỏi nào trong tương lai liên quan đến nghiên cứu này

trong khả năng có thể.

Tôi sẽ tuân thủ các quy trình nghiên cứu đã được phê duyệt.

Tên của Nghiên cứu viên

Chữ ký của Nghiên cứu viên

______________________________

_______________________________

Thái Bình, giờ: …….., ngày/tháng/năm:……………

PHỤ LỤC 3.3 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__|

PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 3

ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE XƯƠNG

Đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

C1. Họ và tên trẻ: ..........................................................

C2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ

C3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

C4. Lớp: ...............

Kết quả đo nhân trắc

C5. Cân nặng: |__||__|.|__| kg

C6. Chiều cao: |__||__||__|.|__| cm

Kết quả xét nghiệm

C7. Mật độ xương: |__|.|__||__| g/cm2

C8. Khối lượng xương: |__||__|.|__||__| g

C9. Nồng độ Canxi ion: |__|.|__||__| mmol/l

C10. Nồng độ Vitamin D: |__||__|.|__||__| ng/mL

C11. Nồng độ Osteocalcin: |__||__||__|.|__||__| ng/mL

Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__|

Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ...............................

Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ...............................

PHỤ LỤC 3.4

SỔ THEO DÕI UỐNG SỮA VÀ BIẾN CỐ BẤT LỢI

Đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện

tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,

tỉnh Thái Bình

Thời gian: tháng…… năm……

Trường: ……………………………………………………………………

Xã: ………………………………… Huyện Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình.

Số lớp tham gia nghiên cứu: ……… lớp.

Số trẻ tham gia nghiên cứu: ………trẻ

Họ và tên cộng tác viên: ……………………………………………………

Hướng dẫn sử dụng sổ

Sổ này do cộng tác viên giữ, ghi chép hàng ngày về tình hình sử dụng sản phẩm can

thiệp của đối tượng nghiên cứu. Mỗi trang tương ứng với một ngày theo dõi/20 đối

tượng. Sổ theo dõi uống sữa và biến cố bất lợi được sử dụng theo từng tháng và được

cấu trúc bao gồm các trang bảng kiểm uống sữa và ghi chép các thông tin trong quá

trình uống sữa.

Những thông tin cộng tác viên cần điền trong bảng kiểm:

Cột số 5 và 6: nếu trẻ có uống trên ½ lượng sản phẩm đánh dấu X vào ô ở cột số 5,

không uống hoặc uống dưới ½ lượng sản phẩm đánh X vào cột số 6.

Cột số 7: viết số tương ứng với vấn đề sức khỏe trẻ gặp phải vào ngày theo dõi. Danh

sách các vấn đề sức khỏe nằm ở cuối mỗi bảng. Nếu vấn đề sức khỏe không nằm

trong danh sách, cộng tác viên ghi rõ vào cột.

Công tác viên tổng kết số lượng trẻ uống và gặp vấn đề sức khỏe tại cuối mỗi bảng.

Đối với trường hợp trẻ không uống sữa (do nghỉ học hoặc các lý do khác) cộng tác

viên cần báo cho nghiên cứu viên chính sau khi phát sữa cho toàn bộ đối tượng nghiên

cứu tại trường để có phương án phát sữa bù, hoặc ghi nhận nguyên nhân trẻ không

uống sữahoặc trường hợptrẻ ngừng tham gia nghiên cứu.

Đối với các trường hợp trẻ ngừng tham gia nghiên cứu, tên trẻ và mã số trẻ vẫn được

in trong danh sách bảng theo dõi uống sữa. Tuy nhiên sữa sẽ không được phát bù cho

bất cứ trẻ nào khác và cộng tác viên cần kẻ một đường ngangtrên dòng dành cho trẻ đó

trong tất cả các bảng theo dõi uống sữa kể từ ngày trẻ ngừng tham gia vào nghiên cứu.

Ghi chú: nếu có bất cứ vẫn đề thắc mắc gì về sử dụng sổ và phương thức theo dõi,

phát sữa cho trẻ, công tác viên nên liên lạc với nghiên cứu viên chính: ThS.BS.

Nguyễn Hữu Ngự, số điện thoại: 0988347506

Hướng dẫn phát sữa

Hàng ngày cộng tác viên cùng với giáo viên chủ nhiệm sẽ chịu trách nhiệm phân phát

sản phẩm đến đối tượng nghiên cứu, 1 hộp mỗi ngày, vào đầu giờ sáng hoặc giờ ra

chơi, tại một phòng riêng (phòng giám hiệu hoặc y tế), ghi sổ theo dõi trẻ có hoặc

vắng mặt, vào các ô tương ứng. Cộng tác viên ghi sổ theo dõi hàng ngày, không để

ghi dồn nhiều ngày.

Khi trẻ nghỉ học thì sữa sẽ được:

• Ngày cuối tuần /nghỉ lễ/nghỉ theo lịch của nhà trường: Sữa sẽ được giáo viên

chủ nhiệm phát cho trẻ vào chiều ngày trước ngày nghỉ/những ngày nghỉ. Số

hộp sữa được phát cho mỗi đối tượng nghiên cứu. Ví dụ 01 hộp/ngày x 2 hộp

( thứ 7 và chủ nhật)

• Đối với các trường hợp nghỉ khác (nghỉ ốm, nghỉ việc gia đình…): số ngày

không nhận sữa tối đa là 7 ngày liên tiếp bao gồm 5 ngày đi học và 2 ngày

cuối tuần. Sữa được cộng tác viên nghiên cứu bàn giao cho bố/mẹ/người giám

hộ đối tượng nghiên cứu tối đa 3 ngày liên tiếp.

Ngày……tháng……năm 20…

Uống sữa

Vấn đề

sức

TT

Tên trẻ

Lớp

khỏe

Không

(1)

(2)

(3)

(4)

(7)

(5)

(6)

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

Số trẻ uống sữa

……/20

Số trẻ có vấn đề sức khỏe ……/20

Danh sách các vấn đề sức khỏe (Ghi số vào cột vấn đề sức khỏe tương ứng với triệu

chứng dưới dây, nếu triệu chứng khác, ghi rõ vào cột)

3. Nổi mề đay

1. Không có

2. Buồn nôn/nôn Đau bụng

6. Táo bón

4. Tiêu chảy

5. Sống phân

PHỤ LỤC 3.5

CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG VÀ SINH HOẠT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

Việc xây dựng thực đơn chuẩn cho học sinh tiểu học là việc làm rất quan trọng nhằm

phát triển đầy đủ về trí tuệ và thể chất cho trẻ. Từ 6 tuổi trẻ bắt đầu đi học, các chất

dinh dưỡng thiết yếu không chỉ giúp trẻ phát triển về thể chất, mà còn cung cấp năng

lượng để trẻ học tập. Vì vậy, việc áp dụng một chế độ dinh dưỡng khoa học trong

từng bữa ăn hàng ngày đặc biệt quan trọng, là nền tảng cho sự phát triển toàn diện

của trẻ trong tương lai.

1. Chế độ dinh dưỡng cho học sinh tiểu học

Mỗi bữa ăn của trẻ ở độ tuổi này cần phải đảm bảo đầy đủ các nhóm chất sau:

Chất bột đường (Gluxit)

Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trước hết phải đảm bảo trẻ có đủ năng lượng, nghĩa là

trẻ cần được ăn no. Năng lượng được cung cấp chủ yếu qua cơm và các sản phẩm chế

biến từ gạo như bún, bánh, phở… Thỉnh thoảng nên cho trẻ ăn thêm ngô, khoai, sắn

là những thực phẩm trong nhóm ngũ cốc vừa cung cấp chất bột (cho năng lượng) vừa

là nguồn chất xơ tốt. Gluxit có trong thực phẩm có nguồn gốc động vật chỉ có nhiều

trong sữa.

Chất Đạm (Protein)

Protein là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể; có vai trò quan trọng trong việc

xây dựng và tái tạo tất cả các mô cơ thể; tham gia vào các hoạt động điều hòa chuyển

hóa và tiêu hóa, sản xuất kháng thể và tạo cảm giác ngon miệng.

Lượng chất đạm trong khẩu phần của trẻ cần nhiều hơn người lớn, nhu cầu đạm ở lứa

tuổi này cần 3-3,5g/kg thể trọng (trung bình khoảng 30-50g/ngày/trẻ). Nên cho trẻ ăn

đa dạng các thức ăn giàu đạm, cả thức ăn có nguồn gốc động vật như thịt (lợn, bò, gà,

vịt, ngan…), cá, cá biển, trứng, sữa (sữa bột, sữa chua, sữa đậu nành), tôm, cua; và

thức ăn có nguồn gốc thực vật như đậu, đỗ, lạc, vừng.

Tuy nhiên cũng không nên cho trẻ ăn quá nhiều đạm vì có thể gây gánh nặng cho trẻ

nhất là khi trẻ uống thiếu nước. Các sản phẩm chuyển hóa trung gian của lượng đạm

dư thừa sẽ gây độc hại cho cơ thể.

Chất béo (Lipid)

Dầu mỡ không chỉ tạo cảm giác ngon miệng mà còn cung cấp năng lượng cao và giúp

hấp thu các vitamin A, D, E, K – những vitamin cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

Nên cho trẻ ăn cả dầu và mỡ, như thịt mỡ, mỡ cá, bơ, sữa, váng sữa, lòng đỏ trứng…

hay dầu thực vật, lạc, vừng…

Vitamin và Chất khoáng

Vitamin là một nhóm chất hữu cơ có hàm lượng trong cơ thể không cao nhưng tác

dụng mạnh và đặc hiệu. Thiếu vitamin sẽ gây ra nhiều rối loạn chuyển hóa quan trọng.

Mọi vitamin đều cần cho trẻ, đặc biệt về nhu cầu vitamin A và vitamin C. Nhu cầu

vitamin A của trẻ lứa tuổi nhi đồng như người lớn từ 400-500 mg/ngày. Vitamin A

có trong thức ăn động vật (thịt, trứng, cá, tôm, gan, tim…); tiền vitamin A (caroten)

có nhiều trong rau, củ, quả có màu vàng, đỏ, da cam. Khi vào cơ thể caroten có thể

được chuyển thành Vitamin A, nhưng trẻ em có nhược điểm là hấp thu caroten rất

thấp nhất là khi bữa ăn có quá ít dầu mỡ.

Vitamin C cần thiết cho sự tạo máu, tăng cường hệ miễn dịch. Nhu cầu vitamin C ở

độ tuổi này cần từ 55-60mg/ngày và phải được cung cấp đủ hàng ngày. Cần cho trẻ

thường xuyên ăn nhiều loại rau, quả theo mùa.

Chất khoáng cần cho sự tạo xương, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh lý của

các bộ phận trong cơ thể. Hàng ngày trẻ 6-10 tuổi cần 400-500 mg canxi, nguồn cung

cấp canxi không thiếu nhưng cần tỉ lệ thích hợp giữa canxi và photpho mới giúp canxi

được hấp thu tốt, tỉ lệ Ca/P tốt nhất là 1,5-2. Để đạt được tỉ lệ canxi/P thích hợp, bữa

ăn của trẻ cần có sữa, tôm, cua, cá thường xuyên.

Ưu tiên cho trẻ nguồn thức ăn động vật (thịt, cá, tôm, trứng…) nhằm đảm bảo cung cấp

đủ lượng sắt cho cơ thể. Sắt trong nguồn thức ăn này có hàm lượng cao và dễ hấp thu.

2. Chế độ ăn cho trẻ lứa tuổi tiểu học

Ở lứa tuổi này, nếu cho trẻ ăn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì, tình

trạng này đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, nhất là ở các thành

phố lớn. Ngược lại nếu ăn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc, hay ốm đau, bị thiếu máu hay

buồn ngủ, ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học.

Vậy ở lứa tuổi này trẻ nên ăn bao nhiêu là đủ?

Nhu cầu về năng lượng và chất đạm ở lứa tuổi này như sau:

- 6 tuổi: Năng lượng 1600 kcal/ ngày; Chất đạm 36g

- 7 – 9 tuổi: Năng lượng 1800 kcal/ ngày; Chất đạm 40g

- 10 – 12 tuổi: Năng lượng 2100– 2200 kcal/ngày; Chất đạm 50g

Chú ý: Nếu không có điều kiện chế biến nhiều loại món ăn trong một ngày thì có thể

tính lượng đạm của trẻ như sau: Cứ 100g thịt nạc tương đương với 150g cá hoặc tôm,

200g đậu phụ, 2 quả trứng vịt hoặc 3 quả trứng gà. Nếu ăn các loại bún, miến, phở,

khoai, ngô, sắn thì phải giảm bớt lượng gạo.

3. Chế biến thức ăn cho trẻ như thế nào?

Lứa tuổi này trẻ đã hoàn toàn ăn cùng với gia đình, tuy nhiên các bà mẹ cần lưu ý

một số điểm sau:

- Cho trẻ ăn no và nhiều vào bữa sáng (để tránh ăn quà vặt ở đường phố, hoặc một số

trẻ ăn quá ít, nhịn sáng sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập, thậm chí hạ đường huyết

trong giờ học).

- Nên cho trẻ ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, tránh ăn một vài loại nhất định.

- Khuyến khích trẻ ăn nhiều rau, để tránh táo bón, đồng thời cung cấp nhiều vi chất

dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

- Ăn đúng bữa, không ăn vặt, không ăn bánh, kẹo, nước ngọt trước bữa ăn

- Không nên nấu thức ăn quá mặn, tập thói quen ăn nhạt.

- Không nên ăn quá nhiều bánh kẹo, nước ngọt vì dễ bị sâu răng. Ðến bữa ăn nên chia

suất ăn riêng cho trẻ, để tránh ăn quá ít hoặc quá nhiều.

- Tập thói quen uống nước kể cả khi không khát, lượng nước nên uống một ngày 1 lít.

- Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh ăn uống: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện.

- Số bữa ăn: nên chia 4 bữa 1 ngày, 3 bữa chính một bữa phụ.

4. Tầm quan trọng của sữa cho học sinh tiểu học

- Cung cấp chất dinh dưỡng: Sữa là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng như

canxi, protein, vitamin D, vitamin B12 và nhiều loại khoáng chất khác. Những chất

dinh dưỡng này cần thiết cho sự phát triển xương, răng, hệ thần kinh và hệ miễn dịch

của trẻ.

- Xương và răng khỏe mạnh: Canxi và vitamin D trong sữa giúp xương và răng của

trẻ phát triển và giữ cho chúng khỏe mạnh. Điều này rất quan trọng trong giai đoạn

phát triển nhanh chóng của trẻ tiểu học.

- Tăng cường hệ miễn dịch: Sữa cung cấp các chất dinh dưỡng giúp tăng cường hệ

miễn dịch của trẻ, giúp chống lại các bệnh tật và nhiễm trùng.

- Hỗ trợ sự phát triển não bộ: Protein và các axit béo trong sữa có vai trò quan trọng

trong sự phát triển và hoạt động của não bộ. Điều này có thể ảnh hưởng tích cực đến

sự tập trung, trí tuệ và hiệu suất học tập của học sinh tiểu học.

- Cung cấp năng lượng: Sữa chứa carbohydrate và chất béo cung cấp năng lượng cho

cơ thể, giúp trẻ tỉnh táo và tập trung trong quá trình học tập.

Tăng cường phục hồi sau hoạt động thể chất: Đối với các học sinh tham gia các hoạt

động thể chất hoặc thể thao, sữa có thể giúp phục hồi cơ bắp và tái tạo năng lượng

sau một khoảng thời gian hoạt động mạnh.

5. Tháp dinh dưỡng cho học sinh tiểu học

MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU

Nhóm nghiên cứu họp triển khai các nội dung nghiên cứu với Ban giám hiệu trường

tiểu học và cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu

Tiến hành thu thập thông tin về nhân trắc của học sinh

Giám sát việc phát sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ em tại địa bàn nghiên cứu

Hướng dẫn tập luyện thể dục cho trẻ em tại địa bàn nghiên cứu

Đo mật độ xương cho trẻ em tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình

CHỨNG NHẬN CHẤP THUẬN CỦA HỘI ĐỒNG ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC