BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
NGUYỄN HỮU NGỰ
HIỆU QUẢ BỔ SUNG VITAMIN K2 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, SỨC KHỎE XƯƠNG
Ở TRẺ EM 7-10 TUỔI TẠI HUYỆN TIỀN HẢI, THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Thái Bình - 2023
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI BÌNH
NGUYỄN HỮU NGỰ
HIỆU QUẢ BỔ SUNG VITAMIN K2 VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CAN THIỆP
CẢI THIỆN TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG, SỨC KHỎE XƯƠNG
Ở TRẺ EM 7-10 TUỔI TẠI HUYỆN TIỀN HẢI, THÁI BÌNH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
Chuyên ngành: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức y tế
MÃ SỐ: 62 72 01 64
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Hoàng Năng Trọng
2. TS. Trương Hồng Sơn
Thái Bình - 2023
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện thành công đề tài nghiên cứu và luận án này, tôi đã nhận
được sự giúp đỡ của nhiều tập thể và cá nhân. Nhân dịp này tôi xin được gửi
lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Phòng Quản lý Đào tạo sau đại học,
Khoa Y tế công cộng Trường Đại học Y Dược Thái Bình cùng các thầy, cô giáo
đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Nhà giáo nhân dân,
PGS.TS. Hoàng Năng Trọng và TS.BS. Trương Hồng Sơn – những người thầy
đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Viện Y học ứng dụng Việt Nam, Ban Giám
đốc bệnh viện và Khoa Sinh hóa Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình, Ban Giám
đốc bệnh viện và Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đại học Y Thái Bình,
Bệnh viện huyện Tiền Hải, Ban Giám hiệu cùng các cộng tác viên, phụ huynh
và học sinh các trường tiểu học Tây Lương, Tây Tiến và Tây Giang huyện Tiền
Hải tỉnh Thái Bình đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện đề
tài, thu thập, xử lý số liệu và hoàn thành luận án.
Xin được cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên, chia
sẻ và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Thái Bình, tháng năm 2023
Nguyễn Hữu Ngự
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học do bản thân tôi
trực tiếp tiến hành. Những kết quả nghiên cứu trong luận án này là trung thực,
chính xác, chấp hành đầy đủ các quy định về y đức trong nghiên cứu Y sinh
học và chưa được công bố tại các công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận án
Nguyễn Hữu Ngự
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................... 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU.............................................................................. 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................... 4
1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao và các yếu tố ảnh hưởng........................ 4
1.1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao trẻ em .............................................. 4
1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chiều cao ......................... 5
1.2. Tình trạng dinh dưỡng và phát triển chiều cao .................................... 14
1.2.1. Trên thế giới .................................................................................. 14
1.2.2. Tại Việt Nam ................................................................................. 17
1.3. Biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương .... 22
1.3.1. Các biện pháp can thiệp ................................................................ 22
1.3.2. Một số nghiên cứu về cải thiện tình trạng dinh dưỡng và mật độ xương
................................................................................................................. 26
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .............. 32
2.1. Đối tượng, địa bàn, thời gian nghiên cứu ............................................ 32
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 33
2.1.2. Địa bàn nghiên cứu ....................................................................... 36
2.1.3. Thời gian nghiên cứu .................................................................... 37
2.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 37
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 37
2.2.2. Cỡ mẫu cho nghiên cứu ................................................................ 38
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu ................................................................. 40
2.2.4. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu: .............................................. 41
2.2.5. Phương pháp thu thập số liệu và kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
................................................................................................................. 42
2.2.6. Quá trình tổ chức nghiên cứu ........................................................ 47
2.2.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu ........................................ 56
2.2.8. Đạo đức trong nghiên cứu ............................................................. 59
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................... 61
3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học
huyện Tiền Hải, Thái Bình .......................................................................... 61
3.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng
chiều cao tại địa bàn nghiên cứu ................................................................. 75
3.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và
sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại
địa bàn nghiên cứu ...................................................................................... 81
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN .............................................................................. 94
4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học
huyện Tiền Hải, Thái Bình ........................................................................ 94
4.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng
chiều cao tại địa bàn nghiên cứu ................................................................. 99
4.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và
sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại
địa bàn nghiên cứu .................................................................................... 104
4.4. Những đóng góp và tính mới của đề tài ............................................. 124
4.5. Những hạn chế của đề tài ................................................................... 124
KẾT LUẬN ................................................................................................... 126
KHUYẾN NGHỊ ........................................................................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bone Mineral Content (khối lượng xương) BMC
Bone Mineral Density (mật độ xương) BMD
Body Mass Index (chỉ số khối cơ thể) BMI
BMIZ Body Mass Index Z-score (Z-score theo chỉ số khối cơ thể)
cOC Carboxylated osteocalcin (Osteocalcin đã được carboxyl hóa)
CSHQ Chỉ số hiệu quả
IGF-1
Insulin-like Growth Factor - 1 (Yếu tố tăng trưởng giống Insulin-1)
Growth Hormone (Hormone tăng trưởng) GH
Height for Age Z-score (chỉ số Z-score chiều cao theo tuổi) HAZ
Menaquinone (vitamin K2) MK
25th percentile (bách phân vị 25%) p25
75th percentile (bách phân vị 75%) p75
Parathyroid hormone (Hormone tuyến cận giáp) PTH
Suy dinh dưỡng SDD
(Osteocalcin chưa được ucOC
Uncarboxylated osteocalcin carboxyl hóa)
UCR
Uncarboxylated osteocalcin - carboxylated osteocalcin rate (Tỷ lệ giữa osteocalcin chưa được carboxyl hóa và osteocalcin đã được carboxyl hóa)
UNICEF United Nations International Children's Emergency Fund
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
World Heath Organization (Tổ chức y tế thế giới) WHO
Weight for Age Z-score (Chỉ số Z-score cân nặng theo tuổi) WAZ
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tuổi và giới tại địa bàn nghiên cứu ...................... 61
Bảng 3.2. Phân bố theo tuổi và giới của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa
bàn nghiên cứu ................................................................................................ 75
Bảng 3.3. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng
độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn
nghiên cứu theo tuổi ........................................................................................ 76
Bảng 3.4. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng
độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn
nghiên cứu theo giới tính ................................................................................ 77
Bảng 3.5. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng
độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn
nghiên cứu theo tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ....................................... 77
Bảng 3.6. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại
địa bàn nghiên cứu theo tuổi ........................................................................... 78
Bảng 3.7. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa
bàn nghiên cứu theo giới ................................................................................. 78
Bảng 3.8. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn
nghiên cứu theo phân loại SDD thấp còi ............................................................ 79
Bảng 3.9. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng trưởng
chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi ........................................................... 79
Bảng 3.10. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng
trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới .............................................. 80
Bảng 3.11. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng trưởng
chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại SDD ............................................. 80
Bảng 3.12. Thay đổi cân nặng của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp ........ 81
Bảng 3.13. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng của đối tượng nghiên cứu ......... 82
Bảng 3.14. Thay đổi chiều cao của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp ........ 82
Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao của đối tượng nghiên cứu ........ 83
Bảng 3.16. Thay đổi HAZ trung bình của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp
......................................................................................................................... 83
Bảng 3.17. Phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh sưỡng thấp còi trước và
sau can thiệp .................................................................................................... 84
Bảng 3.18. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ có suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy
dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu............................................... 85
Bảng 3.19. Thay đổi mật độ xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp 85
Bảng 3.20. Hiệu quả can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu .... 86
Bảng 3.21. Thay đổi khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp
......................................................................................................................... 86
Bảng 3.22. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu
......................................................................................................................... 87
Bảng 3.23. Thay đổi canxi ion của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp .......... 88
Bảng 3.24. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ canxi ion trước và sau
can thiệp .......................................................................................................... 89
Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp lên canxi ion của đối tượng nghiên cứu ........ 89
Bảng 3.26. Thay đổi vitamin D của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp 90
Bảng 3.27. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ vitamin D trước và sau
can thiệp .......................................................................................................... 91
Bảng 3.28. Hiệu quả can thiệp lên vitamin D của đối tượng nghiên cứu ....... 91
Bảng 3.29. Thay đổi osteocalcin của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp .......... 92
Bảng 3.30. Hiệu quả can thiệp lên osteocalcin của đối tượng nghiên cứu ..... 93
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi lại địa bàn nghiên cứu 62
Biểu đồ 3.2. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo tuổi tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 63
Biểu đồ 3.3. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo giới tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 64
Biểu đồ 3.4. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo xã tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 65
Biểu đồ 3.5. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân lại địa bàn nghiên
cứu ................................................................................................................... 66
Biểu đồ 3.6. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo tuổi tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 67
Biểu đồ 3.7. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo giới tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 68
Biểu đồ 3.8. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo xã tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 69
Biểu đồ 3.9. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu
......................................................................................................................... 70
Biểu đồ 3.10. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo tuổi tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 71
Biểu đồ 3.11. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo giới tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 72
Biểu đồ 3.12. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo xã tại địa bàn
nghiên cứu ....................................................................................................... 73
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong quá trình phát triển xã hội, yếu tố con người luôn đóng một vai trò
rất quan trọng, đặc biệt là trẻ em. Trẻ em là chủ nhân tương lai của mọi quốc
gia trên thế giới. Chính vì vậy, sự phát triển về thể lực trí tuệ của trẻ luôn được
quan tâm hàng đầu. Tăng trưởng ở trẻ em bị chi phối bởi nhiều yếu tố: yếu tố
di truyền và môi trường bên ngoài trong đó có dinh dưỡng, bệnh tật và môi
trường sống. Yếu tố di truyền: Bao gồm các yếu tố về giới, chủng tộc; các yếu
tố gen; các bất thường bẩm sinh. Yếu tố môi trường: Bao gồm điều kiện kinh
tế- xã hội, điều kiện địa lý, các yếu tố về bà mẹ, yếu tố dinh dưỡng, hoạt động
thể lực, yếu tố tâm lý…[1],[2].
Ở trẻ nhỏ, giai đoạn tiểu học từ 7 đến 10 tuổi là lứa tuổi chuyển tiếp từ
trẻ em thành trẻ vị thành niên. Trong giai đoạn này, trẻ thường có những chuyển
biến về mức tăng trưởng thể chất cũng như tinh thần và là một giai đoạn phát
triển quan trọng làm nền tảng cho những thời điểm tiếp theo trong cuộc đời trẻ.
Việc cải thiện dinh dưỡng không chỉ quan trọng ở những năm đầu đời mà còn
là một quá trình liên tục suốt những năm học đường đặc biệt là giai đoạn vị
thành niên [3].
Lứa tuổi dậy thì đặc trưng bởi sự tăng trưởng vượt bậc về cơ bắp, khung
xương cũng như các chức năng sinh dục mới. Ở giai đoạn 10 tuổi, cứ mỗi năm
lại tăng thêm 6 cm ở bé gái và tăng dần đến khi đạt được 9 cm một năm ở đội
tuổi 12. Đỉnh tốc độ tăng trưởng của trẻ nam là 12 tuổi (5 cm/ năm) và đạt tối
đa ở 14 tuổi (10 cm/ năm). Tốc độ tăng trưởng sẽ giảm dần và tiệm cận 0 ở độ
tuổi 15 ở nữ và 17 ở nam giới. Thời gian phát triển chiều cao mạnh nhất ở nữ
giới là 8-17 tuổi, quyết định đến 23% chiều cao trung bình ở người trưởng
thành. Kích thước xương, khối lượng xương và mật độ chất khoáng ở mỗi
xương tăng lên khoảng 4% mỗi năm tính từ giai đoạn trẻ 8 tuổi cho đến qua
2
giai đoạn vị thành niên [4]. Trong giai đoạn này, cơ thể có nhiều cơ hội để khắc
phục các tình trạng chậm tăng trưởng do thiếu dinh dưỡng ở các giai đoạn trước.
Vai trò của một số loại vi chất dinh dưỡng như canxi, sắt, kẽm, vitamin
A, vitamin D...đối với tăng trưởng ở trẻ em nói chung đã được đề cập từ lâu.
Tuy nhiên, vitamin K2 gần đây mới được các nghiên cứu chứng minh có hiệu
quả trong việc giúp xương chắc khỏe hơn. Vitamin K2 có tác dụng hoạt hóa
protein osteocalcin giúp gắn canxi vào xương, do vậy có tác dụng làm tăng mật
độ xương, giảm tốc độ loãng xương [5],[6].
Trường học cung cấp môi trường thể chất, xã hội và giáo dục cho trẻ em,
có khả năng định hình hoạt động thể chất và hành vi ăn uống của trẻ. Do đó,
việc tổ chức tại trường học những hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về
dinh dưỡng và tổ chức/khuyến khích các hoạt động thể dục thể thao ở trẻ em
tiểu học là vô cùng cần thiết để chuẩn bị điều kiện tốt nhất cho trẻ có thể phát
huy được tối đa tiềm năng phát triển khi bước vào tuổi dậy thì [7].
Thái Bình là một tỉnh nông nghiệp thuộc Đồng Bằng sông Hồng, kinh tế
xã hội tuy đã có nhiều thay đổi tích cực nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, tỷ lệ
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi vẫn
còn là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Bên cạnh đó cho đến nay chưa có nhiều
thông tin về tình trạng dinh dưỡng của nhóm trẻ từ 7-10 tuổi là giai đoạn rất
quan trọng trong phát triển thể chất của trẻ vì là nền tảng cho giai đoạn tăng tốc
về tăng trưởng ở giai đoạn dậy thì. Hiện nay, trên cả nước nói chung và tại tỉnh
Thái Bình nói riêng, chưa có nghiên cứu nào toàn diện về việc bổ sung vitamin
K2 cũng như các biện pháp can thiệp để cải thiện mật độ xương và tình trạng
dinh dưỡng của trẻ em. Nhằm góp phần đề xuất biện pháp can thiệp để cải thiện
tầm vóc người Việt Nam, chúng tôi thực hiện đề tài: “Hiệu quả bổ sung vitamin
K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe
xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, Thái Bình” nhằm mục tiêu:
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường
tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình.
2. Xác định tình trạng sức khỏe xương (mật độ xương, khối lượng xương,
nồng độ vitamin D, canxi ion và osteocalcin) ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm
tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu.
3. Đánh giá hiệu quả bổ sung Vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp
cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi
chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao và các yếu tố ảnh hưởng
1.1.1. Đặc điểm phát triển chiều cao trẻ em
Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển vì vậy tăng trưởng là một đặc
điểm sinh học cơ bản. Có năm nhóm yếu tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ
em: di truyền, môi trường, nội tiết, bệnh tật và khuynh hướng thời gian. Mô hình
tăng trưởng thể chất của trẻ em không phải đứng yên mà thay đổi theo thời gian.
Sự tăng trưởng của xương ở trẻ em sẽ quyết định đến chiều cao của một
người sau này. Ở lứa tuổi tiểu học tốc độ tăng trưởng chiều cao khoảng 5,5cm
mỗi năm, mật độ xương cũng tăng lên khoảng 1% một năm ở cả bé trai và bé
gái. Giai đoạn tiền dậy thì là giai đoạn mà khẩu phần ăn (năng lượng và các
chất dinh dưỡng) rất cần thiết cho phát triển cơ thể trẻ em trước khi dậy thì. Đối
với lứa tuổi này, khẩu phần ăn (protein nguồn gốc động vật) và chiều cao của
cha mẹ có mối liên quan dương tính với mức tăng chiều cao trẻ em [4]. Đặc
điểm phát triển ở giai đoạn này là có sự tác động của hormone tăng trưởng GH
có khả năng kích thích chiều dài của xương. Hàm lượng hormone này ở tuổi
tiền dậy thì tăng lên và bên cạnh việc kích thích tăng trưởng, nó còn có chức
năng điều chỉnh chuyển hóa protein, lipid và glucid [8].
Tuổi tiểu học là giai đoạn quyết định sự phát triển tối đa các tiềm năng di
truyền liên quan đến tầm vóc, thể lực và trí tuệ. Đây là giai đoạn trẻ tích lũy chất
dinh dưỡng cần thiết chuẩn bị cho giai đoạn dậy thì tiếp theo, là giai đoạn có sự
biến đổi nhanh cả về thể chất và tâm lý, nhưng cũng là giai đoạn rất dễ bị tổn
thương khi bị thiếu hụt về dinh dưỡng. Đặc biệt trong giai đoạn những năm đầu
tiên của cuộc đời, sự phát triển về trí tuệ và khả năng học tập của một con người
được hình thành và phát triển hơn 50%, khoảng 30% tiếp theo được phát triển cho
đến khi trẻ được 8 tuổi, từ đó trí tuệ con người sẽ tiếp tục phát triển trong quá trình
5
học tập và làm việc trong những năm tiếp theo. Điều này cho thấy, việc cải thiện
dinh dưỡng không chỉ quan trọng ở những năm đầu đời, mà là một quá trình liên
tục cả những năm tuổi học đường đặc biệt là giai đoạn vị thành niên [9].
Lứa tuổi dậy thì đặc trưng bởi sự tăng trưởng vượt bậc về cả cơ bắp,
khung xương cũng như các chức năng sinh dục mới. Ở giai đoạn 10 tuổi, cứ
mỗi năm lại tăng 6cm ở bé gái và tăng dần đến khi đạt được 9cm một năm ở độ
tuổi 12. Đỉnh tốc độ tăng trưởng của trẻ nam là 12 tuổi (5cm/năm) và đạt tối đa
đến 14 tuổi (10cm/năm). Tốc độ tăng trưởng sẽ giảm dần và tiệm cận 0 ở độ
tuổi 15 ở nữ giới và 17 ở nam giới. Thời gian phát triển chiều cao mạnh nhất ở
nữ giới là từ 8-17 tuổi, quyết định đến 23% chiều cao trung bình ở người trưởng
thành. Kích thước xương, khối lượng xương và mật độ chất khoáng ở mỗi
xương tăng lên khoảng 4% mỗi năm tính từ giai đoạn trẻ 8 tuổi cho đến qua giai
đoạn vị thành niên [8]. Sự tích lũy nhanh chóng về khối lượng xương có liên
quan đến sự tăng trưởng và phát triển chiều cao và có thể cả sự hoạt động của
các hormone tăng trưởng như hormone tăng trưởng giống insulin 1 (IGF-1),
steroid sinh dục và các receptor của các hormone. Tích lũy IGF-1 tương quan
với sự phát triển giới tính và sự tương tác với các steroid sinh dục. Cụ thể là, sự
tăng tiết các hormone sinh dục sẽ làm tăng tiết IGF-1 [10] .
1.1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến phát triển chiều cao
1.1.2.1. Yếu tố di truyền
Chiều cao là một đặc điểm nhân trắc học quan trọng của con người, có
thể đo lường và ước tính được sự phân bố chiều cao trung bình trong quần thể.
Những nghiên cứu trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 trên những
cặp song sinh được nhận nuôi hoặc được chính sự chăm sóc trong gia đình cho
thấy chiều cao là một đặc điểm mang tính di truyền [11],[12].
Yếu tố di truyền quyết định tiềm lực tối đa có thể đạt được (chiều cao,
cân nặng) của một cá thể. Nhiều quan sát trên các chủng tộc người khác nhau
6
cho thấy có sự ảnh hưởng của yếu tố di truyền đến chiều cao, cân nặng, vóc
dáng của người trưởng thành. Tuy nhiên, số liệu điều tra và kết quả một số
nghiên cứu cho thấy rằng sự khác nhau về tiềm năng tăng trưởng giữa các chủng
tộc có thể do dinh dưỡng và môi trường hơn là do di truyền. Qua so sánh số liệu
từ một số nước phát triển và kém phát triển nhận thấy ở các vùng đô thị với quần
thể dân cư được nuôi dưỡng tốt thì chỉ 3% sự khác nhau về chiều cao và 6% về
cân nặng là có thể quy cho chủng tộc; ngược lại, sự khác nhau về điều kiện kinh
tế xã hội và tình trạng dinh dưỡng giữa nông thôn và thành thị có thể lên đến
12% về chiều cao và 30% về cân nặng trong cùng một nhóm chủng tộc [1].
Chiều cao con người được kiểm soát bởi nhiều gen và cả yếu tố môi
trường. Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy yếu tố gen có thể chiếm khoảng
60-80%, sự khác biệt về chiều cao giữa các cá thể và yếu tố môi trường chỉ
khoảng 20-40% [13].
1.1.2.2. Yếu tố môi trường
❖ Yếu tố dinh dưỡng
Các nhà nghiên cứu cho rằng, tăng trưởng là tấm gương phản chiếu các
điều kiện sống. Tăng trưởng kém là biểu hiện của nghèo đói, thiếu dinh dưỡng
và khi điều kiện sống khá hơn thì tăng trưởng được cải thiện. Nhiều yếu tố kinh
tế xã hội có ảnh hưởng đến tăng trưởng đã được biết đến như tầng lớp xã hội,
vùng đô thị và nông thôn, vùng địa lý, điều kiện nhà ở... Tại các nước đang phát
triển như Việt Nam, các nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến phát triển trẻ em
là khẩu phần ăn kém, bệnh nhiễm trùng cao và kích thước khi sinh nhỏ [9].
Mức tiêu thụ lương thực thực phẩm đặc biệt là sữa mẹ và sữa bò trong
thời thơ ấu của trẻ cũng được cho là có liên quan đến việc tăng chiều cao, được
coi là thước đo quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển của trẻ. Một nghiên
cứu cắt ngang được thực hiện trên 653 trẻ em ở độ tuổi 2-18 tuổi ở Jeddah, Ả
Rập Saudi năm 2015 bởi AbdulmoeinEidAl-Agha và cộng sự. Nghiên cứu này
7
nhằm xác định mối liên quan giữa chế độ ăn uống (hàng ngày, hàng tuần và
hiếm khi) với chiều cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy đối với chiều cao, việc
tiêu thụ protein, rau, sữa và chế phẩm từ sữa, chất béo, thức ăn nhanh và đồ
ngọt với những tần suất khác nhau như hàng ngày, hàng tuần và hiếm khi có
những tác dụng khác nhau đối với sự tăng trưởng chiều cao ở trẻ. Những trẻ ăn
đủ và phù hợp các nhóm thực phẩm cũng như cung cấp đầy đủ năng lượng hàng
ngày có xu hướng chiều cao tốt hơn so với những trẻ khác [14].
Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy mối tương quan giữa yếu tố dinh
dưỡng với sự tăng trưởng và phát triển chiều cao của trẻ. Việc cải thiện tình
trạng dinh dưỡng, chế độ ăn và vi chất hợp lý không chỉ có thể giúp trẻ bình
thường có được chiều cao tốt hơn mà còn có thể giúp những trẻ bị suy dinh
dưỡng có thể phục hồi và phát triển bình thường.
*Vitamin D
Vitamin D là yếu tố thiết yếu để duy trì mức độ bình thường của canxi
và phosphat trong máu, từ đó cần thiết đối với quá trình khoáng hóa bình thường
ở xương, co cơ, dẫn truyền thần kinh và các chức năng chung ở tất cả tế bào
trong cơ thể. Vitamin D sẽ phát huy những tác dụng đó sau khi chuyển hóa
thành dạng hoạt động, 1,25-dihydroxyvitamin D [1,25(OH)2D], hoặc calcitriol.
Chất này sẽ điều hòa quá trình phiên mã của một số gen phụ thuộc vào vitamin
D mã hóa các protein vận chuyển canxi và protein chất nền xương.
Vitamin D đóng vai trò rất quan trọng với sức khỏe, đặc biệt là sức khỏe
xương. Vitamin D có vai trò: tăng cường quá trình cốt hóa xương, thông qua
cơ chế phân phối phosphocanxi; làm tăng sự thấp thu canxi ở thành ruột dưới
dạng liên kết (vitamin D - Ca ++); kích thích sự tái hấp thu các muối phosphat
ở ống thận, giúp cơ thể tiết kiệm được nguồn dự trữ phosphat; Vitamin D làm
tăng hoạt lực enzymphosphatase của xương, làm giảm sự bài tiết canxi qua
thành ruột già; Ngoài ra, vitamin D còn tham gia điều hòa chức năng của một
8
số gen, tham gia một số chức năng bài tiết insulin, hormone cận giáp, hệ miễn
dịch, phát triển hệ sinh sản ở nữ giới [15].
Thiếu vitamin D, xương sẽ mất canxi, phospho, trở nên mềm xốp, dễ
gãy. Đó là chứng còi xương ở trẻ em hoặc xốp xương ở người trưởng thành.
Ngoài ra, thiếu vitamin D cũng gây rối loạn hấp thu canxi và phospho, có thể
gây ra những biểu hiện cấp tính như cơn co giật tetani. Thiếu vitamin D ở trẻ
nhỏ có thể gây chậm tăng trưởng ở trẻ nhỏ và gây ra những dấu hiệu và triệu
chứng điển hình của bệnh còi xương [16].
*Vitamin K
Vitamin K là tên gọi dành cho một nhóm các chất có cấu trúc liên quan
đến nhau, bao gồm: vitamin K1 (phylloquinone) có trong thực phẩm, vitamin
K2 (menaquinone- viết tắt là MK) được sản xuất bởi các vi khuẩn ở ruột già và
vitamin K3 (menadione) là một loại thuốc tổng hợp. Vitamin K2 là một nhóm
các loại vitamin thường được gọi là menaquinones (viết tắt là MK), được tổng
hợp và sản xuất ra bởi vi khuẩn đường ruột của các loại động vật có xương
sống. Trong cấu trúc phân tử, sự lặp lại của các chuỗi isoprenoid thường từ 4-
13 lần, do đó, tạo ra các phân tử vitamin K2 có chiều dài khác nhau, được gọi
tên từ MK-4 đến MK-13. Các sản phẩm từ động vật, ví dụ như thịt, trứng, sữa,
và các sản phẩm lên men, ví dụ như như pho mát, sữa chua là những nguồn
cung cấp chủ yếu vitamin K2. Dạng vitamin K2 phổ biến nhất trong các sản
phẩm từ động vật là MK-4 nhưng MK-7 lại là dạng vitamin K2 được nhiều
nghiên cứu sử dụng hơn cả [17].
Quá trình tạo cốt bào sản xuất ra osteocalcin, giúp lấy canxi từ tuần hoàn
máu và gắn vào ma trận xương. Osteocalcin là một protein không phải collagen
điển hình khá đặc hiệu cho quá trình tạo xương. Osteocalcin do tạo cốt bào tổng
hợp phụ thuộc ba vitamin: vitamin D, vitamin K, vitamin C và bị ức chế bởi
PTH, glucocorticoid, coumarin. Ở người trẻ, nồng độ osteocalcin huyết thanh
9
dao động 2-12 ng/mL. Nồng độ osteocalcin tăng lên theo tuổi và ở nữ cao hơn
nam đặc biệt là phụ nữ sau 50 tuổi trong 15 năm đầu mãn kinh. Osteocalcin có
ảnh hưởng đến quá trình khoáng hóa xương vì osteocalcin có thể gắn với các
chất khoáng có trong xương, do đó có thể giúp xương chắc khỏe và giảm nguy
cơ gãy xương. Tuy nhiên, các tế bào osteocalcin mới hình thành lại ở dạng chưa
hoạt động và cần có vitamin K2 để được hoạt hóa hoàn toàn (thông qua quá
trình carboxyl hóa) và có thể gắn với canxi [18],[19]. Số lượng osteocalcin
được carboxyl hóa (cOC) là một phương pháp tốt để đánh giá tình trạng vitamin
K của cơ thể [20],[21],[22]: nếu tỷ lệ osteocalcin chưa được carboxyl hóa (ucOC)
cao chứng tỏ cơ thể đang bị thiếu vitamin K và ngược lại. Một chỉ số khác để
đánh giá tình trạng vitamin K của cơ thể là sử dụng chỉ số UCR. Chỉ số UCR
chính là tỷ lệ ucOc:cOC. Nếu chỉ số UCR cao chứng tỏ cơ thể đang bị thiếu
vitamin K và ngược lại. Vitamin K2 còn giúp canxi không bị lắng đọng ở các
thành mạch máu. Protein điều chỉnh quá trình canxi hóa là protein MGP là một
loại protein phụ thuộc vitamin K, được các tế bào cơ trơn sản xuất ra và có chức
năng điều chỉnh lượng canxi trong cơ thể [23]. Các nghiên cứu trên đối tượng
người cao tuổi đã gợi ý rằng, nồng độ osteocalcin chưa được carboxyl hóa
(ucOC) trong huyết thanh và chỉ số UCR là những chỉ số đáng tin cậy và ổn định
để đánh giá tình trạng vitamin K của xương. Ngoài ra, việc bổ sung vitamin K
có thể giúp cải thiện lượng khoáng chất trong xương, giúp xương chắc khỏe và
giảm nguy cơ gãy xương ở trẻ em [5].
Trên đối tượng trẻ em, cũng đã có rất nhiều nghiên cứu về mối liên quan
giữa hàm lượng ucOC huyết thanh, tình trạng vitamin K trong cơ thể và sức
khỏe xương. Nghiên cứu của Summeren và cộng sự vào năm 2001 trên 86 trẻ
em khỏe mạnh từ 3- 18 tuổi cho thấy, nồng độ ucOC và cOC ở trẻ em cao hơn
ở người lớn (31,3 so với 3,6 và 15,4 so với 4,7; p<0,001). Thêm vào đó, chỉ số
UCR ở trẻ em cao hơn đáng kể so với ở người trưởng thành (2,3 so với 0,8,
10
p<0,001), điều này gợi ý rằng, khi xương đang trong phát triển (trẻ em và tuổi
dậy thì), tình trạng vitamin K của xương sẽ kém hơn, cũng tức là, trẻ em thường
sẽ bị thiếu vitamin K trong giai đoạn này [24]. Cũng trong nghiên cứu này, khi
phân tích sâu hơn, các nhà nghiên cứu thấy rằng, chỉ số ucOC cao nhất trong
giai đoạn dậy thì và sẽ giảm đi sau khi trẻ dậy thì xong. Chỉ số UCR luôn cao
trong cả 3 giai đoạn: tiền dậy thì, đang dậy thì và cuối dậy thì [24]. Chỉ số ucOC
là một chỉ số đáng tin cậy để đánh giá tình trạng thiếu vitamin K, ucOC càng
cao, tình trạng thiếu vitamin K càng trầm trọng. Kết quả của nghiên cứu này gợi
ý rằng, trong giai đoạn xương phát triển mạnh, cơ thể thường sẽ rơi vào tình trạng
thiếu vitamin K và chế độ ăn uống thường không đủ để đáp ứng nhu cầu vitamin
K của cơ thể trong giai đoạn này. Trẻ em ở độ tuổi dậy thì thường có tốc độ tái
tạo xương nhanh hơn ở người trưởng thành, điều này có thể giải thích cho việc
trẻ em ở mọi độ tuổi thường sẽ có nguy cơ thiếu vitamin K cao hơn [24].
Từ những thực trạng trên, nghiên cứu can thiệp đã được tiến hành để kiểm
tra hiệu quả thực sự của việc bổ sung vitamin K2 lên sức khỏe xương của trẻ.
Năm 2009, một nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên, có đối chứng đã được tiến hành
trên 55 trẻ em. Những trẻ này được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm: nhóm 1 (28 trẻ)
được bổ sung 45mcg MK-7 (trong vòng 8 tuần và nhóm 2 được bổ sung giả
dược. Nồng độ ucOC, cOC và MK-7 trong huyết thanh sẽ được đo lường vào
trước khi can thiệp và sau 8 tuần. Sau 8 tuần được bổ sung vitamin K2 dưới dạng
MK-7, lượng ucOC trong máu giảm đi, chỉ số UCR được cải thiện trong khi hàm
lượng MK-7 tăng cao. Các chỉ số này ở nhóm nhận giả dược không thay đổi sau
8 tuần. Kết quả này chứng minh rằng, ở trẻ em khỏe mạnh, bổ sung liều vừa phải
vitamin K2 sẽ cải thiện tình trạng vitamin K của cơ thể và tăng số lượng
osteocalcin được carboxyl hóa [6]. Osteocalcin có chứa dư lượng của acid
glutamic (Gla), do vậy, có ái lực rất lớn với các canxi ion. Tăng được lượng
11
osteocalcin của xương cũng tức là sẽ tăng được lượng canxi ion gắn vào xương,
giúp xương chắc khỏe hơn.
*Canxi
Canxi là một dưỡng chất cần thiết đóng vai trò quan trọng trong quá trình
điều hòa các enzyme thần kinh cơ, quá trình hình thành cục máu đông và tạo
nên độ cứng cho bộ xương cùng với các muối phosphat. Các vai trò phi cấu
trúc của canxi đòi hỏi sự cân bằng nghiêm ngặt canxi ion nội mô. Thiếu canxi
trong khẩu phần, hấp thu canxi kém và/hoặc mất quá nhiều canxi dẫn đến rối
loạn khoáng hóa tại xương. Thiếu canxi mạn tính (do hấp thu kém ở ruột non,
do khẩu phần ăn không đủ canxi…) là một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến giảm mật độ xương, gây bệnh loãng xương ở người lớn và còi xương
ở trẻ em. Canxi trong máu giảm thì cơ thể sẽ huy động canxi từ trong xương
vào máu để tham gia quá trình chuyển hóa, gây triệu chứng đau nhức các xương
đặc biệt các xương dài ở trẻ em đang tuổi phát triển, ngoài ra có thể gây tình
trạng mất ngủ, tính tình nóng nảy. Khi lượng canxi ăn vào dư thừa, canxi được
bài tiết ra khỏi cơ thể, vì thế hiếm gặp các trường hợp thừa canxi trong máu hay
tích tụ canxi trong mô. Khi dùng thuốc canxi liều cao có thể dẫn đến sỏi thận,
thận làm việc kém hiệu quả, giảm hấp thu các chất khoáng cần thiết khác (sắt,
kẽm, magie và phospho…) [15].
❖ Yếu tố vận động
Hormone tăng trưởng (GH) được giải phóng từ tuyến yên một cách
không liên tục và bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, giới tính, dinh dưỡng, giấc ngủ,
cấu tạo cơ thể, mức độ vận động thể dục và hormone steroid giới tính. Tập thể
dục và chơi thể thao là một cách kích thích sinh lý mạnh mẽ giúp giải phóng
GH. Cường độ và thời gian tập thể dục, kết quả của quá trình tập thể dục, khối
lượng cơ bắp được sử dụng trong khi tập thể dục và trạng thái tập luyện ảnh
hưởng đến phản ứng của GH với tập thể dục. Cường độ tập thể dục có thể đóng
12
một vai trò quan trọng, mỗi người cần đạt được cường độ tập thể dục cần thiết
trước khi cơ thể tiết ra thêm hormone GH. Nồng độ GH trong huyết tương tăng
trong vòng 10 phút đến 20 phút tập thể dục, đạt cực đại trong trong khi tập thể
dục hoặc ngay sau khi tập thể dục, và duy trì ở mức cao hơn mức cơ bản trong
khoảng 2 giờ sau khi tập thể dục [25].
Tóm lại, vận động là một yếu tố vô cùng quan trọng trong việc kích thích
cơ thể tăng trưởng và phát triển chiều cao nhờ vào việc là tác nhân thúc đẩy sự
sản sinh hormone GH giúp cơ thể tăng trưởng. Thường xuyên luyện tập thể
thao sẽ có ích cho việc phát triển chiều cao của trẻ em. Luyện tập thể thao sẽ
giúp cơ và xương chắc khỏe, giúp duy trì cân nặng hợp lý và kích thích sản xuất
hormone tăng trưởng GH.
❖ Yếu tố giấc ngủ
Có một vài nghiên cứu đã chỉ ra mối liên quan giữa việc tăng trưởng chiều
cao và giấc ngủ. Giấc ngủ được cho là giúp giải phóng hormone tăng trưởng và
phục hồi cơ thể lúc ngủ. Khi ngủ cơ thể tiết ra lượng hormone tăng trưởng nhiều
gấp 4 lần khi thức. Khi con người đi vào giấc ngủ, hormone tăng trưởng mới sản
sinh ra, sau 1 tiếng lượng hormone sẽ đạt đỉnh, thường là từ 22 giờ cho tới 1 giờ.
Do vậy, nếu trẻ không ngủ đúng giờ sẽ bỏ lỡ quãng thời gian hormone tăng
trưởng tiết ra nhiều nhất và gây ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ. Trẻ 1-3
tuổi cần ngủ từ 12-14 giờ mỗi ngày, trẻ 3-6 tuổi sẽ cần phải ngủ đủ từ 10-12 giờ
mỗi ngày và trẻ 6-12 tuổi cần ngủ 10-11 giờ mỗi ngày. Do đó, thiếu ngủ là
nguyên nhân của chậm tăng trưởng chiều cao [26].
❖ Yếu tố bệnh tật
Dinh dưỡng và bệnh tật là hai đồng yếu tố ảnh hưởng đến chiều cao.
Thiếu dinh dưỡng cũng gây ra nhiều bệnh tật trong đó có nhiễm trùng. Ngược
lại, bệnh tật có thể làm giảm quá trình hấp thu các chất dinh dưỡng, vận chuyển
các chất dinh dưỡng đến các mô cơ thể, là nguyên nhân trực tiếp gây ra thất
13
thoát chất dinh dưỡng, tăng nhu cầu chuyển hóa hoặc ảnh hưởng đến sự phát
triển và mật độ xương. Thật đúng như vậy, kém dinh dưỡng, tiêu chảy là những
lý do chính gây ra chậm tăng trưởng ở giai đoạn thơ ấu. Nhiễm trùng mà chủ
yếu là tiêu chảy, giun móc, và ký sinh trùng đường tiêu hóa có thể ảnh hưởng
đến sự phát triển chiều cao. Trong khi đó sốt và nhiễm trùng đường hô hấp cũng
làm mất chất dinh dưỡng và các bệnh gây viêm nhiễm có thể làm chậm sự tăng
trưởng của xương dài. Cùng với đó, viêm xoang cũng có liên quan đến sự suy
giảm tăng trưởng ở những nước thu nhập cao cũng như làm tăng tỷ lệ mắc bất
cứ bệnh nào ở giai đoạn thơ ấu. Không chỉ vậy, quá trình điều trị một số bệnh
cũng làm chậm sự phát triển thể chất của trẻ [27].
❖ Yếu tố khác.
Tầng lớp xã hội của cha mẹ, điều kiện kinh tế nghèo nàn và trình độ học
vấn của mẹ là những yếu tố vô cùng quan trọng với sự phát triển chiều cao của
trẻ. Những yếu tố này ảnh hưởng đến sự tiếp cận các nguồn lực đời sống, tiếp
xúc với các yếu tố nguy cơ và hành vi sức khỏe của bà mẹ. Những yếu tố này
ảnh hưởng chật chẽ với dinh dưỡng và bệnh tật trong suốt hai giai đoạn vàng
phát triển của con người. Những thách thức trong sự phát triển của con người
như điều kiện sống nghèo nàn, nơi ở chật chội, khó tiếp cận đến dịch vụ y tế,
thực hành kém trong nuôi dưỡng trẻ, thực phẩm có sẵn nghèo nàn và thức ăn đồ
uống kém an toàn đều có ảnh hưởng đến mạng lưới dinh dưỡng.
Tuy nhiên sự phụ thuộc của chiều cao đối với tình trạng kinh tế xã hội sẽ
được cải thiện khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển hơn. Tuy vậy mối liên
quan giữa chiều cao trung bình và thu nhập không phải là đường tuyến tính và
chiều cao trung bình của quần thể có thể phụ thuộc vào sự phân bố tình trạng
kinh tế xã hội. Sự thay đổi điều kiện kinh tế sẽ giúp trẻ em gia tăng chiều cao,
trong khi ở những gia đình giàu có chiều cao có thể không thay đổi vì họ vốn
dĩ đã được tích lũy dinh dưỡng và phát triển tốt [28]. Một nghiên cứu về những
14
yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng phát triển chiều cao ở các nước châu Âu cho
thấy có mội liên quan thuận chiều giữa thu nhập bình quân đầu ngưới đến xu
hướng phát triển chiều cao, giữa chỉ số bình đẳng xã hội, mức độ chi trả cho y
tế, đô thị hóa với xu hướng phát triển chiều cao [29].
1.2. Tình trạng dinh dưỡng và phát triển chiều cao
1.2.1. Trên thế giới
1.2.1.1. Thực trạng về tình trạng cân nặng theo tuổi
Tiểu học là một giai đoạn đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp dinh
dưỡng cho học sinh bởi đó là thời gian xây dựng cơ thể để chuẩn bị cho sự tăng
trưởng nhanh chóng của tuổi vị thành niên. Hơn 30% dân số thế giới đang phát
triển bị ảnh hưởng từ sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng vẫn là vấn
đề sức khỏe nghiêm trọng chiếm tỷ lệ cao trong tỷ lệ tử vong của trẻ em với gần
1/3 số trẻ em trên thế giới đang bị SDD thể nhẹ cân và thấp còi. Dữ liệu trên toàn
thế giới từ 2416 nghiên cứu đã được các nhà nghiên cứu đánh giá và tổng hợp
để tạo ra một mô hình hoàn chỉnh nhất về tỷ lệ SDD nhẹ cân của 31,5 triệu trẻ từ
5 đến 19 tuổi đã thay đổi như thế nào trong những năm 1975 đến năm 2016. Kết
quả cho thấy, 192 triệu trẻ em hiện đang mắc phải tình trạng SDD nhẹ cân ở mức
độ vừa và nặng trong năm 2016 [30].
Theo số liệu của điều tra dinh dưỡng ở khu vực Đông Nam Á
(SEANUTS) gồm 16744 trẻ em từ 6 tháng đến 12 tuổi tại 4 nước Indonesia,
Malaysia, Việt Nam, Thái Lan từ năm 2010-2012, SDD nhẹ cân vẫn là một vấn
đề cần quan tâm tại các khu vực nông thôn ở Việt Nam và Indonesia. Sự khác
biệt ở hai khu vực nông thôn và thành thị ở hai quốc gia còn lại không quá lớn.
Tại Indonesia, nhìn chung tỷ lệ SDD nhẹ cân giảm trong khi tỷ lệ thừa cân đang
dần tăng. Theo số liệu của điều quốc gia về sức khỏe, tỷ lệ SDD nhẹ cân của
học sinh tại quốc gia này đang là 12,1% vào năm 2007. Tỷ lệ này sau đó giảm
nhẹ còn 11,2% vào năm 2013 [31].
15
1.2.1.2. Thực trạng về tình trạng chiều cao theo tuổi
Vào năm 2016, 87 triệu trẻ SDD thấp còi sống tại Châu Á, 59 triệu tại
Châu Phi và 6 triệu tại khu vực Mỹ Latinh và Caribe. Trong đó, 5 khu vực có tỷ
lệ này cao trên 30% là Tây Phi (31,4%), Trung Phi (32,5%), Đông Phi (36,7%),
Nam Á (34,1%) và Châu Đại Dương (38,3%). Đặc biệt ở Châu Á và Châu Đại
Dương tỷ lệ này được cho có quá trình giảm tỷ lệ SDD thấp còi ở mức thấp [32].
Một nghiên cứu tổng quan hệ thống thực hiện trong giai đoạn 2006-2016
tại khu vực Châu Phi hạ Saraha. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD cao nhất
tại các khu vực phía Đông và phía Tây Châu Phi so với mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ của WHO năm 2015. Tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ em cao nhất tại Burundi
(57,7%) và Malawi (47,1%) ở phía Đông Phi; Niger (43,9%), Mali (38,3%), Sierra
Leone (37,9%) và Nigeria (36,8%) tại các nước ở khu vực Tây Phi [33].
Trên thế giới, Châu Á được đánh giá là khu vực có tỷ lệ phần trăm trẻ
dưới 5 tuổi bị SDD nhẹ cân, thấp còi và gầy còm rất cao với 103,5 triệu trẻ thấp
còi, 39,2 triệu trẻ gầy còm và 76,6 trẻ nhẹ cân theo số liệu năm 2011. Trong số
năm khu vực ở Châu Á, Đông Nam Á là khu vực được xếp thứ hai có tỷ lệ SDD
thấp còi là 29,4% với 15,6 triệu trẻ; tỷ lệ SDD gầy còm là 9,4% với 5 triệu trẻ
và tỷ lệ SDD nhẹ cân là 18,3% với 9,7 triệu trẻ [34].
1.2.1.3. Thực trạng về tình trạng thừa cân béo phì
Trên thế giới, thừa cân và béo phì là yếu tố nguy cơ thứ 5 gây tử vong
với 2,8 triệu người trưởng thành tử vong hàng năm. Bên cạnh đó, 44% bị béo
phì, 23% thiếu máu cục bộ ở tim và từ 7% đến 41% mắc một số bệnh ung thư
có nguyên nhân từ thừa cân và béo phì. Trong 3 thập kỷ qua (1980-2010) số ca
béo phì đã tăng gấp đôi trên toàn thế giới. Tỷ lệ thừa cân béo phì đang trở thành
mối đe dọa hàng đầu đối với sức khỏe trẻ em hiện nay trên thế giới, đặc biệt là
đối với những nước đang phát triển chứ không còn ở những quốc gia công
nghiệp hóa. Theo kết luận của một điều tra đa quốc gia về tỷ lệ béo phì, sự thay
16
đổi lối sống ảnh hưởng không hề nhỏ đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ, đặc
biệt là lối sống phương Đông. Gần 80% người Thái Lan hiện nay đang sở hữu
điện thoại di động, trẻ em chơi game, xem tivi nhiều hơn các hoạt động ngoài
trời như trước đây. Và bởi vậy, chúng ta nhìn thấy sự tăng nhanh một cách đáng
kể tỷ lệ béo phì tại quốc gia này [35].
1.2.1.4. Thực trạng về tăng trưởng chiều cao của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi
Trên thế giới, vấn đề về nghiên cứu hình thái sinh lý ở người mà cụ thể
là cân nặng và chiều cao đã được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm và ngày
nay càng trở nên đa dạng, phong phú để dựa vào đó có thể đưa ra các chỉ số
chuẩn cho con người hiện đại, làm cơ sở cho các chương trình giáo dục, chăm
sóc hay hoạch định các chiến lược phát triển xã hội trong tương lai.
Một nghiên cứu được thực hiện trên 141 quốc gia bao gồm cả thu nhập
thấp và thu nhập trung bình trong giai đoạn từ 1985 đến 2011 để đánh giá xu
hướng chiều cao theo tuổi và cân nặng theo tuổi của trẻ em đã được tiến hành.
Kết quả cho thấy trẻ em ở thành thị có cân nặng và chiều cao cao hơn trẻ em ở
các khu vực nông thôn. Điều này đúng ở hầu hết các quốc gia tham gia vào
nghiên cứu [36].
Một nghiên cứu đánh giá tại Nhật Bản và Hàn Quốc trong giai đoạn 50
năm, từ năm 1965-2005 ở Hàn Quốc và 1950-2010 ở Nhật Bản đã được thực
hiện nhằm đánh giá và ước tính các dữ liệu về chiều cao và cân nặng trung bình
theo giới tính ở các nhóm tuổi từ 1 đến 20. Kết quả cho thấy mô hình tăng
trưởng ở cả hai nước đã có sự thay đổi đáng kể trong suốt thời gian nghiên cứu,
ảnh hưởng không chỉ đến chiều cao cân nặng mà còn cả tuổi phát triển của trẻ.
Ở Hàn Quốc xu hướng dậy thì sớm hơn Nhật Bản và thời điểm dậy thì ở Nhật
ổn định vào những năm 1970. Hầu hết sự gia tăng chiều cao nhận thấy ở người
trưởng thành đã được tích lũy từ 1,5 tuổi; trong khi sự gia tăng cân nặng ở người
trưởng thành tích lũy trong suốt thời thơ ấu [37].
17
Indonesia là một quốc gia với rất nhiều lục địa, bao gồm nhiều biển đảo vây
quanh với sự đa dạng về sắc tộc. Một nghiên cứu được thực hiện trên 300000 trẻ
em và thanh thiếu niên nhằm đánh giá cân nặng và chiều cao đã được thực hiện
tại quốc gia này vào năm 2018. Kết quả cho thấy có sự khác biệt giữa chiều cao
tiêu chuẩn quần thể theo đánh giá của WHO và chiều cao của đa phần thanh thiếu
niên tại Indonesia. Ở cả hai giới, chiều cao của trẻ thấp hơn một chút và thời gian
trưởng thành sớm hơn so với tiêu chuẩn của WHO [38].
Ở trẻ em và thanh thiếu niên, 23,4% đạt được mức hoạt động thể chất so
với khuyến nghị. Mức hoạt động thể chất thường giảm theo tuổi, mắc dù mức
độ quan sát được trong nhóm 10-13 tuổi cao hơn một chút so với các nhóm
khác [39].
1.2.2. Tại Việt Nam
1.2.2.1. Thực trạng về tình trạng cân nặng theo tuổi
Tại Việt Nam, tỷ lệ SDD nhẹ cân của trẻ dưới 5 tuổi có xu hướng giảm
dần trong khoảng 5 năm 2010-2015 từ 17,5% còn 14,1%, thành công trong việc
đạt được mục tiêu đặt ra cho năm 2015 (dưới 15%) và đặt ra hi vọng sẽ tiếp tục
giảm thiểu trong những năm tiếp theo [40].
Tại huyện Từ Liêm, Hà Nội năm 2014, một nghiên cứu đánh giá tình
trạng dinh dưỡng của trẻ từ 6 đến 10 tuổi cho kết quả tỷ lệ gầy còm là 5,8%
theo chuẩn WHO 2007 [41]. Một nghiên cứu khác cũng thực hiện trên địa bàn
Hà Nội, huyện Thường Tín với 217 học sinh lớp 2,3,4 tham gia đã đánh giá với
8,3% trẻ SDD thể nhẹ cân. Tác giả tìm thấy có mối liên quan giữa các chỉ số
cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi, tuổi của trẻ, canxi, vitamin A, chất bột
đường khẩu phần với điểm số trong thang điểm đánh giá [42].
Nghiên cứu về tình trạng nhân trắc của trẻ từ 6-9 tuổi được thực hiện tại
các vùng nông thôn, thành phố Hải Phòng chỉ ra một số kết quả với tỷ lệ trẻ
SDD nhẹ cân, thấp còi và gầy còm lần lượt là 8,0%, 5,1% và 5,3%. Theo nghiên
18
cứu, trình độ học vấn của người mẹ thấp có mối liên quan đến việc tăng cao tỷ
lệ SDD gầy còm và những thất bại trong nhân trắc học ở trẻ [43].
Một nghiên cứu về thực trạng SDD ở trẻ tiểu học tại tỉnh Hưng Yên sau
điều tra cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 6,8%. Trẻ của những gia đình có 3 con
trở lên có nguy cơ SDD nhẹ cân cao hơn so với những gia đình có 1-2 con. Bên
cạnh đó, trẻ có mẹ bị thiếu năng lượng trường diễn có nguy cơ SDD nhẹ cân
cao hơn so với những trẻ có mẹ không thiếu năng lượng trường diễn [3].
Tác giả Trương Quang Đạt và các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu mô
tả cắt ngang nhằm xác định một số chỉ số nhân trắc và dinh dưỡng của học sinh
tiểu học tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định năm 2016 và đã tìm ra một số
kết quả. Trong tất cả 2.139 học sinh từ 6-10 tuổi được tham gia vào nghiên cứu,
tỷ lệ học sinh nhẹ cân là 8,51% [44]. Tác giả cũng thực hiện một nghiên cứu
khác trên số lượng đối tượng lớn hơn với 6514 học sinh tham gia, kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD nhẹ cân là 10,79% [40].
1.2.2.2. Thực trạng về tình trạng chiều cao theo tuổi
Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em vẫn đang là một thách thức đối với công
tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Trong những năm qua, mặc dù Việt Nam được
đánh giá là quốc gia thành công trong việc giảm nhanh tỷ lệ SDD trẻ em nói
chung và SDD thấp còi nói riêng, nhưng theo Tổ chức Y tế thế giới, hiện vẫn
còn ở mức cao. Theo Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng 2011-2020 và tầm nhìn
2030 sẽ giảm tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi là 26% xuống còn 23% vào
năm 2020. Đến năm 2020, chiều cao của trẻ 5 tuổi tăng từ 1,5-2cm cho cả trẻ
trai/gái; chiều cao thanh niên tăng từ 1-1,5cm so với năm 2010 [45]. Tuy nhiên,
theo số liệu của WHO, so với một số nước lân cận và một số nước có cùng mức
thu nhập, tỷ lệ mắc SDD thấp còi của trẻ dưới 5 tuổi ở Việt Nam vẫn ở mức cao:
19
Một nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 750 trẻ từ 6 đến 10 tuổi được tiến
hành tại 3 xã, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên cho thấy tỷ lệ SDD thấp còi là
5,9% và SDD gầy còm là 11,3% [3].
Theo Nguyễn Minh Phương, năm 2017, nghiên cứu trên đối tượng trẻ từ
6-14 tuổi cho thấy trẻ thấp còi chiếm tỷ lệ 26,1%. Trẻ gái thấp còi chiếm tỷ lệ
31,4% cao hơn trẻ trai 20,6% [46].
Nghiên cứu vào năm 2017 về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em lứa tuổi
tiểu học được tiến hành trên 2008 học sinh tiểu học tại huyện Phú Bình, Thái
Nguyên. Kết quả cân nặng và chiều cao trung bình là 22,7 kg ±4,1; 123,3 cm
±6,7. Chỉ số BMI trung bình là 14,8 kg/m2±1,5. Có sự khác biệt về cân nặng,
chiều cao, chỉ số BMI giữa học sinh nam và nữ. Z-score trung bình cân
nặng/tuổi là -1,31±0,97; chiều cao/tuổi là -1,21 ± 0,85 và BMI/ tuổi là -
0,83±0,92. Tỷ lệ SDD thể thấp còi là 17,2% và thể gầy còm là 7,9% [47].
Việt Nam là quốc gia có sự giảm mạnh tỷ lệ trẻ em SDD thấp còi so với
nhiều quốc gia khác trong khu vực. Điều này góp phần không nhỏ bởi những
cố gắng trong công tác đảm bảo nguồn nước, vệ sinh, sự phát triển nông nghiệp
và tăng cường hệ thống y tế. Từ năm 2000 đến 2011, nguồn nước sạch có thể
đáp ứng cho người dân đã tăng từ 79% lên 99%. Cùng với đó, hệ thống y tế
được nâng cấp với 92,4% phụ nữ mang thai được sinh đẻ tại các cơ sở y tế vào
năm 2011 so với tỷ lệ này chỉ 63,8% năm 2006. Sự thành công này tại Việt
Nam đã chỉ ra được ảnh hưởng của các can thiệp nhạy cảm về dinh dưỡng, ví
dụ như tăng cường cung cấp nước sạch, vệ sinh, khả năng tiếp cận nguồn thức
ăn, khả năng tiếp cận y tế đến việc giảm thiểu tỷ lệ SDD thấp còi. Và bởi vậy,
những can thiệp về đời sống xã hội vẫn cần được tiếp tục song song với dinh
dưỡng trong những bước định hướng lâu dài cho tương lai [48].
1.2.2.3. Thực trạng về tình trạng thừa cân béo phì
20
Ở Việt Nam, thừa cân béo phì đang tăng nhanh và trở thành vấn đề sức
khỏe cần được quan tâm của cả cộng đồng ở thế kỷ XXI.
Nghiên cứu cắt ngang trên 1.236 học sinh (646 nam và 590 nữ) tại 6
trường tiểu học tại quận Thanh Xuân, Hà Nội với mục tiêu mô tả tình trạng
dinh dưỡng và xác định các yếu tố liên quan đến tình trạng thừa cân, béo phì ở
trẻ từ 6-20 tuổi đã đưa ra kết quả: tỷ lệ thừa cân và béo phì lần lượt là 23,8%
và 18,6%. Tỷ lệ này cao gấp nhiều lần tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm và thấp
còi tại khu vực nghiên cứu [49].
Một nghiên cứu các chỉ số thể lực của 1127 học sinh từ 6-10 tuổi ở thành
phố Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương cho thấy: các chỉ số thể lực của học sinh
tăng liên tục từ 6 đến 10 tuổi nhưng tốc độ tăng không đều giữa các độ tuổi và
giới tính. Chiều cao, cân nặng và vòng ngực của học sinh tăng nhanh nhất ở
giai đoạn 9-10 tuổi. Trong nhóm nghiên cứu, chỉ số BMI ở mức béo phì chiếm
tỷ lệ khá cao với 25,22% ở nam và 18,91% ở nữ [50].
1.2.2.4. Thực trạng về tăng trưởng chiều cao của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về nhân trắc học cũng bắt đầu từ rất sớm.
Các chỉ số về thể lực không phải là hằng định mà có thể thay đổi phụ thuộc vào
môi trường tự nhiên và điều kiện xã hội, đáng kể nhất là chế độ sinh hoạt và
dinh dưỡng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với giai đoạn tiểu học, giai đoạn
đặt nền móng cho sự phát triển trong tương lai của trẻ.
Chiều cao là một trong những chỉ tiêu quan trọng thường được dùng
trong các cuộc điều tra thể lực ở người. Chiều cao chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố như di truyền, dinh dưỡng, vận động thể lực… Theo WHO, chiều cao
đạt lúc 3 tuổi sẽ quyết định chiều cao khi trưởng thành, giai đoạn từ 3 đến 10
tuổi đóng vai trò quyết định đến 60% tiềm năng tăng trưởng chiều cao. Điều
này có nghĩa là trẻ càng được chăm sóc tốt ở những giai đoạn đầu tiên của cuộc
đời thì sự phát triển trong những giai đoạn tiếp theo càng thuận lợi hơn, hứa
21
hẹn chắc chắn chiều cao thanh thiếu niên Việt Nam ở các thế hệ sau sẽ có sự
tăng trưởng ở tốc độ nhanh. Hiện nay, sự phân chia các giai đoạn sinh trưởng
và phát triển ở trẻ em vẫn chưa thống nhất, tuy nhiên giai đoạn từ 7-10 tuổi có
những đặc điểm hình thái, sinh lý cơ bản, đây là nhóm tuổi nằm giữa hai mức
tăng trưởng là tuổi mẫu giáo và lứa tuổi dậy thì.
Sự khác biệt giữa khu vực thành thị và nông thôn có thể được coi là một
ví dụ rất quan trọng về khoảng cách trong sự phát triển dân số. Một nghiên cứu
có sự tham gia của 1455 trẻ em tại khu vực Trung tâm Hà Nội và ngoại thành
thuộc Ba Vì, Hà Nội đã cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa quá
trình tăng trưởng với trình độ học vấn của người mẹ cũng như các nguồn lực
của gia đình, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn [51].
Nghiên cứu thực hiện tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định năm 2016
trên 2139 học sinh từ 6-10 tuổi với 1094 nam và 1045 nữ cho kết quả chiều cao
học sinh tăng trung bình 4,9cm ở nam và 5,63cm ở nữ/năm, cân nặng trung
bình tăng 2,71kg ở nam và 3kg ở nữ/năm [44].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về đặc
điểm hình thái, thể lực con người nói chung và lứa tuổi học đường nói riêng
ngày càng phong phú. Tuy kết quả của các nghiên cứu có khác nhau nhưng đều
cho thấy được xu hướng thay đổi của các chỉ số theo hướng tích cực. Một trong
những nguyên nhân giúp chiều cao trẻ em Việt Nam tăng trưởng nhanh trong
thời gian qua là nhờ thành quả chương trình giảm SDD thấp còi. WHO và
UNICEF đánh giá Việt Nam là nước có mức giảm SDD rất ấn tượng, Theo
WHO, có hai thời kỳ chiều cao người Việt Nam thua kém chiều cao của các nước
là từ 6-12 tháng và lúc 6-11 tuổi. Do đó, để nâng cao tầm vóc người Việt cần có
những tác động phù hợp vào các giai đoạn tăng trưởng quan trọng này [45].
22
1.3. Biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương
1.3.1. Các biện pháp can thiệp
1.3.1.1. Các biện pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng
❖ Cải thiện chất lượng khẩu phần ăn
Đây là một trong những nội dung quan trọng trong nhiều năm liền của
Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng. Khẩu phần ăn của người Việt Nam nói chung
và trẻ em Việt Nam nói riêng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khuyến nghị dinh
dưỡng, đặc biệt là sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng trong khẩu phần ăn [45].
Phát triển trong thời kỳ bào thai, phát triển thể lực trong giai đoạn trước
tuổi đi học rất quan trọng và là cơ sở cho phát triển trong giai đoạn vị thành
niên sau này. Vì vậy để phòng ngừa suy dinh dưỡng trẻ em, người ta đã chú
trọng vào can thiệp vào thời kỳ mang thai của người mẹ, bằng cách tăng cường
năng lượng ăn vào và cho thấy hiệu quả tốt trong việc giảm nguy cơ đẻ nhẹ cân
và chiều dài không đạt chuẩn.
Protein cần được chú ý đúng mức trong khẩu phần ăn của trẻ, vì protein
có vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và tình trạng miễn dịch của
trẻ. Thiếu protein thường dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng đi kèm với mắc
bệnh nhiễm trùng. Nếu protein trong khẩu phần giảm thấp tới 3%, chiều cao
ngừng phát triển và xuống cân. Vì vậy việc tăng cường năng lượng và các chất
dinh dưỡng thông qua thức ăn bổ sung cho trẻ cũng cần được chú ý đúng mức
trong vấn đề cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ [1].
❖ Bổ sung vi chất dinh dưỡng
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và UNICEF đã khuyến cáo bổ sung vi chất
dinh dưỡng nên là một giải pháp cần thiết trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ
em. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh bổ sung vi chất dinh dưỡng có tác dụng
làm tăng tốc độ phát triển cân nặng và chiều cao của cơ thể, đặc biệt ở những trẻ
suy dinh dưỡng thể thấp còi. Các thống kê chung trên thế giới cũng cho kết luận
23
tương tự về hiệu quả của bổ sung vi chất dinh dưỡng đến phát triển chiều cao,
cân nặng của trẻ. Bổ sung vi chất dinh dưỡng đã và đang là một giải pháp trung
hạn, hiệu quả, bền vững nhằm thanh toán thiếu hụt các vi chất dinh dưỡng, góp
phần vào công cuộc giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em ở nước ta cũng như
trên thế giới. Các giải pháp này được thực hiện thông qua các chiến dịch bổ
sung vi chất, hoặc bằng các sản phẩm đã bổ sung vi chất và khoáng (muối iốt,
nước mắm bổ sung kẽm, nấu bằng nồi sắt). Nhóm biện pháp này được nhiều
nước nhìn nhận như là giải pháp lâu dài để phòng chống thiếu vi chất dinh
dưỡng và suy dinh dưỡng trẻ em. Các vi chất dinh dưỡng thường được bổ sung
bao gồm: vitamin A được bổ sung vào đường (Trung Mỹ), dầu ăn (Philippine,
Indonesia), mỳ ăn liền, thức ăn nhanh (Thái Lan) và cho kết quả khả quan trong
việc cải thiện chiều cao [32].
❖ Cải thiện dịch vụ y tế
Các nghiên cứu kinh điển đã chỉ ra vòng luẩn quẩn giữa suy dinh dưỡng
và nhiễm khuẩn, và khẳng định rằng nhiễm khuẩn, mà trong đó nhiễm khuẩn
hô hấp và tiêu chảy thường gặp nhất, là nguyên nhân trực tiếp của suy dinh
dưỡng ở trẻ em. Chính vì vậy phòng chống bệnh tật cũng như chăm sóc trẻ ốm
đúng cách sẽ góp phần không nhỏ trong việc hạn chế nguy cơ suy dinh dưỡng
ở trẻ em. Tuyên truyền vệ sinh (đảm bảo vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường,
vệ sinh trong ăn uống, chế biến thực phẩm) có tác dụng hữu hiệu đến việc giảm
thiểu nguy cơ mắc bệnh; Phổ biến kiến thức nuôi trẻ khoa học trong khi mắc
bệnh (cung cấp bữa ăn đủ dinh dưỡng, phù hợp với thể trạng trẻ, không kiêng
khem bất hợp lý) để giúp cho trẻ có một thể lực tốt để chống đỡ với bệnh tật,
không bị suy dinh dưỡng là các nội dung được cho là rất cần thiết trong việc
phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
1.3.1.2. Các biện pháp cải thiện sức khỏe xương
24
Trong suốt giai đoạn thơ ấu và vị thành niên, bộ xương của con người đã
trải qua những biến đổi mạnh mẽ trong đó có quá trình phá hủy xương và tái
tạo lại xương giúp hình thành nên bộ xương của người trưởng thành và giúp
con người đạt đỉnh khối lượng xương. Tối ưu hóa quá trình đạt đỉnh khối lượng
xương đòi hỏi sự phối hợp tương tác thích hợp giữa các yếu tố môi trường, chế
độ dinh dưỡng, hormone và sự ảnh hưởng của bộ gen. Rất nhiều tình trạng bệnh
tật cấp và mạn tính cũng như tính đa hình của bộ gen có liên quan đến sự suy
giảm mật độ xương, làm gia tăng nguy cơ gẫy xương cả ở giai đoạn thơ ấu và
trưởng thành sau này [52].
Khối lượng xương được xác định bởi sự tương tác phức tạp giữa yếu tố
môi trường, hành vi và yếu tố gen chi phối. Yếu tố gen đóng góp khoảng 60-
80% vào việc hình thành đỉnh khối lượng xương mặc dù việc nhận diện các gen
tham gia vào quá trình này vẫn chưa được xác định rõ [53].
Yếu tố môi trường và hành vi chiếm 20-40% còn lại ảnh hưởng đến khối
lượng xương. Trong đó yếu tố dinh dưỡng đặc biệt là canxi và vitamin D cũng
như hoạt động thể lực vô cùng quan trọng. Ngoài ra những dưỡng chất khác
như vitamin K, đồng, protein, phospho, magie, mangan, kẽm sắt và năng lượng
cũng có ảnh hưởng đến sự khỏe mạnh của xương. Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ
ra mối liên quan giữa vận động và mật độ xương ở vận động viên (thể dục dụng
cụ, tenis), trong đó việc tăng cường hoạt động này giúp tăng mật độ xương,
kích thước và độ chắc khỏe của xương trong giai đoạn phát triển.
❖ Bổ sung Canxi
Quá trình tăng trưởng của trẻ em luôn cần lượng canxi tính trên trọng
lượng cơ thể cao gấp hai đến bốn lần so với người trưởng thành. Lượng canxi
nạp vào mỗi ngày khoảng 1600mg/ ngày sẽ tạo ra sự cân bằng canxi lên đến
300mg/ngày. Nghiên cứu theo dõi 160 trẻ từ 8-12 tuổi ở Gambia sau khi được
bổ sung canxi carbonate trong vòng 12 tháng (1000mg canxi, 5 ngày/tuần)
25
trong vòng 12 năm. Kết quả cho thấy, ở trẻ trai, sự phát triển chiều cao ở lứa
tuổi dậy thì tốt hơn khi được bổ sung canxi. Bổ sung canxi giúp các bé trai có
tầm vóc tốt hơn khi 15,5 tuổi (tăng 2,0 ± 0,8cm, p=0,01) và sẽ đạt được chiều
cao tối đa sớm hơn 7,4±2,9 tháng. Điều này sẽ đi kèm với việc nhóm được bổ
sung canxi sẽ ngừng phát triển sớm hơn (p=0,02) và sẽ thấp hơn 3,5±1,1cm khi
ở độ tuổi 23,5. Cân nặng và chu vi vòng cánh tay cũng tăng tương ứng với chiều
cao. Không có tác dụng đáng kế nào theo dõi được ở các bé gái [54].
❖ Bổ sung Canxi kết hợp Vitamin D
Vitamin D được biết đến bởi khả năng kích thích việc hấp thụ canxi. Tuy
nhiên, thực tế có nhiều dạng vitamin D, mỗi dạng có ảnh hưởng khác nhau
trong hoạt động chuyển hóa canxi. Có hai dạng vitamin D chính: Vitamin D2
(ergocalciferol) và vitamin D3 (cholecalciferol). Trong đó, vitamin D3 được
tổng hợp dưới da nhờ tia cực tím. Ánh sáng mặt trời chuyển tiền vitamin D (7-
dehydrocholesterol) thành vitamin D3 (cholecalciferol). Sau đó vitamin D3
được vận chuyển đến gan và được chuyển đổi bởi enzyme thành 25-
hydroxycholecalciferol, chất này có hoạt tính gấp 5 lần cholecalciferol. Một
enzyme trong thận tiếp tục chuyển đổi 25-hydrocholecalciferol thành 1,25-
dihydroxycholecalciferol, chất này có hoạt tính gấp 10 lần cholecalciferol và là
dạng có hoạt tính nhất của vitamin D3 [55].
❖ Bổ sung Canxi kết hợp Vitamin D và Vitamin K2
Vitamin K là một nhóm vitamin tan trong dầu, bao gồm nhiều loại
vitamin có cấu trúc giống nhau, bao gồm phylloquinone (vitamin K1),
menaquinones (vitamin K2) và menadion (vitamin K3). Vitamin K2 là một
nhóm các loại vitamin thường được gọi là menaquinones (viết tắt là MK), được
tổng hợp và sản xuất ra bởi vi khuẩn đường ruột của các loại động vật có xương
sống. Một chức năng quan trọng khác của vitamin K mới được phát hiện đó là
tham gia vào quá trình chuyển hóa xương. Xương là một cấu trúc cứng ở bên
26
ngoài và bao gồm một ma trận xốp của các mô bên trong. Xương được coi là
một cấu trúc sống. Toàn bộ xương sẽ được thay thế từ 7-10 năm một lần. Trong
quá trình tái tạo xương, cơ thể sẽ giải phóng canxi từ xương vào máu để đáp
ứng nhu cầu chuyển hóa của cơ thể, giúp xương thay đổi kích thước, hình dạng
khi xương phát triển hơn hoặc hồi phục sau chấn thương. Quá trình tái tạo
xương được điều chỉnh bởi quá trình tạo cốt bào (osteoblasts) hay còn gọi là
quá trình hình thành xương và quá trình hủy cốt bào (osteoclasts) còn gọi là quá
trình phá hủy xương. Miễn là quá trình hình thành xương xảy ra nhiều hơn quá
trình phá hủy xương, thì cấu trúc khỏe mạnh của xương sẽ được duy trì [56].
❖ Tập luyện
Các kết quả nghiên cứu và nhiều hướng dẫn ủng hộ việc hoạt động thể
lực giúp tối ưu hóa sự phát triển xương của nam giới.
1.3.2. Một số nghiên cứu về cải thiện tình trạng dinh dưỡng và mật độ xương
Tại Việt Nam, nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em mẫu giáo
và học sinh tiểu học, Chương trình Sữa học đường đã ra đời giúp trẻ được uống
sữa hàng ngày, nhằm làm giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao tầm vóc, thể lực
của trẻ em Việt Nam, góp phần phát triển nguồn nhân lực trong tương lai.
Chương trình này đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong việc cải thiện chiều
cao, tầm vóc của trẻ em Việt Nam. Nghiên cứu tại 6 trường mẫu giáo được triển
khai Chương trình Sữa học đường tại Nghệ An cho thấy: đối với học sinh mẫu
giáo: tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm 2,8% (p<0,05), tỷ lệ suy dinh dưỡng
thấp còi giảm 1,4%, tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm giảm 1%. Z-score cân
nặng/tuổi, cân nặng/chiều cao được cải thiện có ý nghĩa thống kê khi so sánh
giữa thời điểm trước và sau can thiệp. Đối với học sinh tiểu học, tỷ lệ suy dinh
dưỡng nhẹ cân giảm 3,1% (p<0,05), suy dinh dưỡng thể thấp còi giảm 1,5% và
suy dinh dưỡng thể gầy còm giảm 1% ở nhóm can thiệp sử dụng sữa tươi bổ
sung vi chất. Chiều cao của nhóm can thiệp được cải thiện, tăng 0,4cm cao hơn
27
so với nhóm chứng. Ngoài những thay đổi về tăng trưởng, chương trình Sữa
học đường còn giúp cải thiện khẩu phần canxi, tăng 219mg/ngày, khẩu phần
vitamin D tăng 2,13mcg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ Ca/P được cải
thiện rõ rệt (0,46 lên 0,9), giúp hỗ trợ sự hấp thu canxi được tốt hơn [57].
Vitamin D có vai trò nhất định đối với sự phát triển ở trẻ. Thiếu vitamin
D ở trẻ nhỏ có thể gây chậm tăng trưởng ở trẻ nhỏ và gây ra những dấu hiệu và
triệu chứng điển hình của bệnh còi xương [58].
Bổ sung vitamin D cho trẻ sơ sinh hoặc trẻ ở độ tuổi đến trường có thể
giúp trẻ tăng trưởng và phát triển tốt hơn. Sau thử nghiệm bổ sung Vitamin D
cho trẻ sơ sinh ở Delhi (DIVIDS), trẻ em tiếp tục được theo dõi ở thời điểm 3-
6 tuổi để khảo sát tác dụng lâu dài của can thiệp. 446 trẻ ở nhóm bổ sung vitamin
D và 466 trẻ ở nhóm giả dược đã tham gia nghiên cứu. Kết quả cho thấy, chỉ
số khối cơ thể Z-score (BMIZ) thấp hơn (p hiệu chỉnh =0,003) ở nhóm được
bổ sung vitamin D (-1,18± 0,92) khi so sánh với nhóm chứng (-1,02 ± 0,91).
Điều này cho thấy nhóm bổ sung vitamin D có cân nặng ít hơn một chút và cao
hơn một chút so với nhóm chứng. Nhóm bổ sung vitamin D cũng có chu vi
vòng đùi thấp hơn, vùng cơ cánh tay và chu vi vòng cánh tay trên thấp hơn.
Không có sự khác biệt về lượng mỡ trong cơ thể, huyết áp và chỉ có một vài
khác biệt về các chỉ số phát triển vận động ở 2 nhóm. Nghiên cứu này đi đến
kết luận rằng, bổ sung vitamin D cho trẻ sơ sinh có cân nặng sơ sinh thấp có
thể khiến trẻ gầy hơn khi 3-6 tuổi nhưng không gây ra sự khác biệt gì về các
hoạt động chức năng [59].
Một nghiên cứu trên 105 trẻ trong độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi đang điều trị
hormone GH ở bệnh viện được bổ sung thêm vitamin D 500 IU, 2 lần một ngày
trong vòng 12 tháng sau khi điều trị hormone, thấy mức độ tăng trưởng tăng
thêm trong vòng 2 năm vừa điều trị bằng GH vừa bổ sung vitamin D, cụ thể là
mức độ tăng chiều cao trung bình từ 5,5 cm mỗi năm tăng lên thành 8,5 cm mỗi
28
năm. Nghiên cứu cũng kết luận rằng vitamin D góp phần thúc đẩy quá trình
tăng trưởng ở trẻ em [60].
Nghiên cứu tại Phần Lan cho thấy, 71% số trẻ từ 7-19 tuổi bị thiếu
vitamin D (25(OH)D huyết thanh dưới 50nmol). Hàm lượng 25(OH)D trung
bình cho trẻ nữ là 41nmol/L và với trẻ nam là 45 nmol/L. Mức độ bổ sung
vitamin D ở trẻ nữ là 9,1mcg/ngày và ở trẻ nam là 10mcg/ngày. Phân tích hồi
quy sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng cho thấy, mức độ tập trung
25(OH)D có thể giải thích được cho 5,6% sự khác biệt trong mật độ khoáng
chất ở xương đùi, 25(OH)D và mức độ luyện tập thể thao có thể giải thích được
7,6% sự khác biệt về mật độ khoáng chất tại xương hông và 17% sự khác biệt
về tổng mật độ khoáng chất trong xương trên toàn cơ thể. Nghiên cứu này đi
đến kết luận rằng, mặc dù trẻ được bổ sung vitamin D nhiều hơn lượng khuyến
nghị một ngày, nhưng tình trạng thiếu vitamin D vẫn có thể xảy ra. Tình trạng
vitamin D của cơ thể là một yếu tố quan trọng để đánh giá hàm lượng khoáng
chất trong xương. Từ đó nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết cần bổ sung vitamin D
cho trẻ nhỏ để tối đa hóa sức khỏe xương cho trẻ [61].
Thiếu vitamin D có ảnh hưởng nhiều mặt đến chức năng và sức mạnh
cơ. Một nghiên cứu đã tìm hiểu ảnh hưởng của thiếu vitamin D trầm trọng đến
mức chuyển hóa năng lượng cao ở cơ xương trong trạng thái nghỉ, thông qua
đó giám sát đáp ứng của việc bổ sung vitamin D bằng phổ cộng hưởng từ
(MRS). Nhiên cứu được thực hiện trên 19 người có sức khỏe bình thường
nhưng mức 25(OH)D (sản phẩm sau khi chuyển hóa vitamin D) trong huyết
thanh thấp (<5 ng/ml). Đối tượng được cung cấp vitamin D3 theo liều
60.000 IU/tuần trong vòng 12 tuần. Kết quả phổ cộng hưởng từ cho chỉ số về
phosphat vô cơ (Pi), phosphocreatine (PCr), phosphodiester (PDE) và ATP của
bắp chân được lấy từ trước vào sau khi bổ sung vitamin D. Tỉ lệ PCr/Pi (dấu
hiệu xác nhận chức năng ty thể trong cơ) tăng đáng kể trong khi [Pi] và
29
PDE/ATP giảm đi và (OH)D trong huyết thanh tăng lên sau 12 tuần dùng thuốc.
Nghiên cứu cho thấy lượng 25(OH)D đóng một vai trò quan trọng trong cải
thiện chuyển hóa năng lượng cơ xương. Thiếu vitamin D có thể là một trong
những lý do chính đối với tỉ lệ PCr/Pi thấp và PDE cao [62].
Kanellakis và cộng sự nghiên cứu hiệu quả của các sản phẩm sữa được
bổ sung canxi, vitamin D3 và vitamin K1 hoặc vitamin K2 lên quá trình chuyển
hóa xương ở phụ nữ sau mãn kinh trong thời gian 12 tháng can thiệp. 173 phụ
nữ tuổi từ 55-65 được chia ngẫu nghiên vào 4 nhóm: nhóm đối chứng, cả 3
nhóm can thiệp đều được bổ sung 800mg canxi và 10mcg vitamin D3 (CaD),
ngoài ra, một nhóm sẽ được bổ sung thêm 100mcg vitamin K1 (nhóm CaDK1)
và một nhóm sẽ được bổ sung 100mcg vitamin K2 (nhóm CaDK2). Sau can
thiệp, nồng độ 25 (OH)D huyết thanh đều tăng ở cả 3 nhóm can thiệp. Ngoài
ra, nhóm CaDK1 và CaDK2 có chỉ số UCR (ucOC:cOC) giảm đáng kể so với
nhóm CaD và nhóm chứng. Tất cả các nhóm can thiệp đều tăng khối lượng
xương trên toàn cơ thể so với nhóm chứng (p<0,05), trong khi tăng khối lượng
xương vùng cột sống thắt lưng chỉ quan sát thấy ở nhóm CaDK1 và CaDK2 so
với nhóm chứng (p<0,05). Do vậy, có thể kết luận rằng, quá trình chuyển hóa
xương và khối xương thay đổi một cách tích cực ở nhóm sử dụng các sản phẩm
sữa có bổ sung vitamin K1 và K2 [63].
Tại Việt Nam, các can thiệp về dinh dưỡng thường ít khi được tiến hành
trên trẻ em độ tuổi đến trường, mặc dù đây là nhóm đối tượng có tỷ lệ thiếu vi
chất dinh dưỡng cao [64]. Nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Liên và cộng sự đăng
trên tạp chí Dinh dưỡng Châu Á Thái Bình Dương tiến hành trên 454 trẻ từ 7-
8 tuổi cho thấy, sau 6 tháng can thiệp với sữa được bổ sung 156mg canxi, 4,4
IU vitamin A và 0,7 IU vitamin D3, cả cân nặng theo tuổi và chiều cao theo
tuổi của trẻ đều được cải thiện. Tỷ lệ nhẹ cân vào thấp còi giảm 10% ở nhóm
được can thiệp sữa. Trẻ ở nhóm được can thiệp sữa cũng có trí nhớ ngắn hạn
30
tốt hơn so với trẻ ở nhóm chứng. Cha mẹ của trẻ trong nhóm này cũng báo cáo
lại rằng, chất lượng cuộc sống của trẻ được cải thiện đáng kể sau khi được can
thiệp sữa. Nghiên cứu này cho thấy rằng, sữa được bổ sung vi chất dinh dưỡng
sẽ đem lại lợi ích cho trẻ em ở vùng nông thôn Việt Nam, bao gồm làm giảm
tỷ lệ nhẹ cân, thấp còi, cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng, có các chỉ số về
học tập tốt hơn cũng như cải thiện được chất lượng cuộc sống của trẻ
[65].Nghiên cứu tương tự của Nguyễn Trung Hiếu và cộng sự đã nhận thấy sự
cải thiện về chiều cao theo cân nặng Z-score của trẻ lứa tuổi đi học tại Quảng
Nam được cải thiện sau khi được bổ sung bánh quy có chứa 50% nhu cầu
khuyến nghị vitamin A của trẻ 9 tuổi, 20% nhu cầu khuyến nghị canxi và
vitamin D, và 7% nhu cầu vitamin K [64].
Vi chất dinh dưỡng cũng rất cần thiết để thực hiện các hoạt động thể chất
và nâng cao thành tích thể thao. Hiệu quả của thức uống dinh dưỡng bổ sung đa
vi chất dinh dưỡng lên kết quả tập luyện thể thao ở trẻ em độ tuổi đi học đã được
tiến hành trong nghiên cứu của Vaz và cộng sự. 300 trẻ em 7-10 tuổi được chia
ngẫu nhiên vào 3 nhóm: nhóm được uống bột cacao bổ sung vi 19 loại chất dinh
dưỡng (nhóm F), nhóm được uống một loại đồ uống khác, cung cấp lượng năng
lượng tương đương (nhóm U) và nhóm chứng (nhóm C). Can thiệp được tiến hành
trong 120 ngày. Các chỉ số đầu ra đo lường bao gồm sức bền, khả năng tập aerobic,
sức bền cánh tay, tốc độ chạy nước rút 40m, tốc độ phản ứng, lực bóp của bàn tay.
Ở nhóm F, có sự tăng đáng kể khả năng luyện tập aerobic và sức bền toàn cơ thể
(p<0,05), cùng lúc đó cải thiện tình trạng dinh dưỡng của cơ thể, so với sự thay
đổi ở nhóm U và nhóm C. Nghiên cứu này gợi ý rằng bổ sung đa vi chất dinh
dưỡng cho trẻ lứa tuổi đi học có thể có lợi cho việc cải thiện tình trạng vi chất dinh
dưỡng và tăng cường sức bền, khả năng luyện tập aerobic của trẻ [66].
Nghiên cứu tại Hàn Quốc với đối tượng là phụ nữ trên 60 tuổi về tác
dụng của việc bổ sung phối hợp vitamin K+vitamin D+canxi lên sức khỏe
31
xương. Trong nghiên cứu này, 38 phụ nữ sẽ được bổ sung 15mg vitamin K2 3
lần/ngày + 400 IU vitamin D 1 lần/ngày và 315mg canxi 2 lần/ngày trong vòng
6 tháng. 40 phụ nữ trong nhóm đối chứng sẽ chỉ được bổ sung vitamin D và
canxi. Các đặc điểm về xương của tất cả các phụ nữ trước khi được bổ sung vi
chất dinh dưỡng đều như nhau. Sau 6 tháng can thiệp, mật độ khoáng chất trong
cột sống thắt lưng thứ 3 của phụ nữ nhóm được bổ sung vitamin K cao hơn
đáng kế so với nhóm đối chứng (0,01±0,03g/cm2 so với -0,008±0,04g/cm2,
p<0,05). Mức độ tập trung của ucOC cũng giảm đi đáng kể ở nhóm được bổ
sung vitamin K (giảm 1,6±1,6ng/dL so với giảm 0,4±1,1ng/dL, p=0,008). Tác
giả nghiên cứu đưa ra kết luận, bổ sung vitamin K kết hợp với vitamin D và
canxi ở phụ nữ Hàn Quốc sau mãn kinh sẽ làm tăng mật độ khoáng trong xương
sống vùng thắt lực và giảm mức độ tập trung của ucOC trong xương [67].
Martin N. và cộng sự tiến hành một nghiên cứu theo dõi trong vòng 5
năm trên 833 nam giới với độ tuổi trung bình là 24,1 +- 0,6, sử dụng bộ câu hỏi
tự trả lời để thu thập thông tin về mô hình hoạt động thể lực hàng ngày của
những nam giới tham gia nghiên cứu. Đồng thời những đối tượng này cũng
được đo mật độ xương (BMD) và khối lượng xương (BMC) bằng phương pháp
DEXA. Tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu có 529 đối tượng có vận động thể
thao hàng ngày và 304 đối tượng không có bất cứ một hoạt động nào liên quan
đến thể thao. Kết quả của nghiên cứu cho thấy càng tăng vận động thì khối
lượng xương của toàn cơ thể, tăng mật độ xương ở cột sống và toàn bộ vùng
xương chậu với p < 0,001. Từ đó các tác giả kết luận tăng vận động có liên
quan đến sự phát triển tích cực của mật độ xương và tập thể dục có tác dụng tối
ưu hóa việc đạt đỉnh khối lượng xương ở nam thanh niên [68].
32
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tiêu chuẩn và khái niệm sử dụng trong nghiên cứu
2.1.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ
Theo Hướng dẫn đánh giá và quản lý trẻ em tại các cơ sở chăm sóc sức
khỏe ban đầu nhằm ngăn ngừa thừa cân và béo phì trong bối cảnh gánh nặng
kép về suy dinh dưỡng của WHO năm 2017 [69]: Sử dụng các số đo tháng tuổi,
cân nặng, chiều cao của trẻ tính toán: cân nặng theo tuổi (WAZ), chiều cao theo
tuổi (HAZ) và cân nặng theo chiều cao (WHZ) và so sánh với phân loại theo
WHO 2005 [70].
Tình trạng dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi
Chỉ số và điểm ngưỡng so sánh với giá trị trung vị của chuẩn tăng trưởng trẻ em của WHO
Béo phì WHZ > 3 độ lệch chuẩn của trung vị (SD)
Thừa cân 2SD < WHZ ≤ 3SD
SDD nhẹ cân mức độ vừa -3SD ≤ WAZ < -2SD
SDD nhẹ cân mức độ nặng WAZ < -3SD
SDD thấp còi mức độ vừa -3SD ≤ HAZ ≤ -2SD
SDD thấp còi mức độ nặng HAZ < -3SD
SDD gầy còm mức độ vừa -3SD ≤ WHZ ≤ -2SD
SDD gầy còm mức độ nặng WHZ < -3SD
2.1.2. Quy ước trẻ chậm tăng trưởng chiều cao
Trong nghiên cứu này, trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao được quy ước
là những đối tượng có chỉ số Z-score chiều cao theo tuổi (HAZ) nằm trong
khoảng từ trên -3SD đến -1SD theo tiêu chuẩn WHO 2005 [70]. Trong đó, những
trẻ có chỉ số HAZ nằm trong khoảng -3SD 33 còi, còn những trẻ có chỉ số HAZ nằm trong khoảng -2SD≤HAZ≤-1SD được quy ước là nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi (còn được gọi là SDD thấp còi mức độ nhẹ [71],[72]). 2.1.3. Sức khỏe xương Sức khỏe xương được đánh giá qua các chỉ số chính liên quan đến xương bao gồm: mật độ xương (BMD), khối lượng xương (BMC), vitamin D, canxi ion và osteocalcin [73],[74]. 2.1.4. Quy ước về các mốc thời gian sử dụng trong nghiên cứu Đối với mục tiêu 3 của nghiên cứu về đánh giá hiệu quả bổ sung Vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứ, các thời điểm đánh giá trong thời gian tiến hành can thiệp được quy ước như sau: - Thời điểm đánh giá trước can thiệp: T0 - Thời điểm đánh giá sau khi can thiệp được 3 tháng: T3 - Thời điểm đánh giá sau khi can thiệp được 6 tháng: T6 2.2. Đối tượng, địa bàn, thời gian nghiên cứu 2.2.1. Đối tượng nghiên cứu Đề tài được thực hiện theo ba giai đoạn nghiên cứu liên tiếp nhau tương ứng 3 mục tiêu được đề ra với đối tượng nghiên cứu lần lượt như sau: 2.2.1.1. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1 là tất cả trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại 3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải bao gồm: Trường tiểu học Tây Lương, Trường tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang. a. Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau: 34 - Trẻ từ 7 đến 10 tuổi (học lớp 2 đến lớp 5) đang theo học tại 3 trường tại thời điểm tiến hành nghiên cứu. b. Tiêu chuẩn loại trừ: Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu: - Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu - Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia thu thập các chỉ số nhân trắc. 2.2.1.2. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2 là tất cả trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao sau khi được đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở mục tiêu 1 tại 3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải bao gồm: Trường tiểu học Tây Lương, Trường tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang. a. Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau: - Trẻ trong độ tuổi: 7 đến 10 tuổi (học từ lớp 2 đến lớp 5) - Trẻ đã tham gia đánh giá tình trạng dinh dưỡng tại mục tiêu 1 và có kết quả chậm tăng trưởng chiều cao - Trẻ được bố mẹ/ người giám hộ đồng ý cho tham gia nghiên cứu b. Tiêu chuẩn loại trừ: Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu: - Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu - Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia lấy mẫu xét nghiệm. 2.2.1.3. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu 35 Đối tượng nghiên cứu là trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại 3 trường tiểu học thuộc huyện Tiền Hải. a. Tiêu chuẩn lựa chọn: Đối tượng phải đạt tất cả các tiêu chuẩn sau: - Trẻ em trong độ tuổi: 7 đến 10 tuổi (học từ lớp 2 đến lớp 5) - Trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đã tham gia đánh giá tình trạng sức khỏe xương tại mục tiêu 2. - Trẻ có thời gian học tập và sinh sống tại địa bàn từ 3 tháng trở lên - Trẻ được bố mẹ/ người giám hộ đồng ý cho tham gia nghiên cứu - Gia đình cam kết không sử dụng bất kỳ một sản phẩm bổ sung hoặc thực phẩm bảo vệ sức khỏe trong toàn bộ khoảng thời gian nghiên cứu. b. Tiêu chuẩn loại trừ: Đối tượng có một trong các điều kiện dưới đây sẽ được loại khỏi nghiên cứu: -Trẻ thừa cân/béo phì (Zscore cân nặng theo tuổi ≥2SD) theo tiêu chuẩn WHO 2005 - Trẻ đã và đang mắc các bệnh lý mạn tính có thể gây giảm mật độ xương như: viêm khớp mạn, cường giáp, cường cận giáp tiên phát, hội chứng Cushing, bệnh gan thận mạn tính, hội chứng kém hấp thu, đau tủy xương, bất động kéo dài, trẻ có sử dụng thuốc Glucocorticoid…. - Trẻ mắc các bệnh nan y (Ung thư, bệnh về máu...) - Trẻ có dị tật bẩm sinh, trẻ khuyết tật về tâm thần hoặc vận động (ví dụ: trẻ bị Down, bị tự kỷ...) - Trẻ được nhận can thiệp từ các nghiên cứu khác (ví dụ: trẻ đã hoặc đang nhận can thiệp từ một nghiên cứu khác về dinh dưỡng…) - Trẻ có dấu hiệu dậy thì - Trẻ có tiền sử kém dung nạp lactose - Trẻ có bố mẹ là người gốc nước ngoài 36 2.2.2. Địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu được thực hiện tại 3 trường tiểu học cơ sở thuộc 3 xã của huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, bao gồm: Trường tiểu học Tây Lương, Trường tiểu học Tây Tiến và Trường tiểu học Tây Giang. Tiền Hải là một huyện ven biển của tỉnh Thái Bình. Huyện Tiền Hải giáp huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình về phía tây, phía đông giáp vịnh Bắc Bộ (biển Đông Việt Nam), phía bắc giáp huyện Thái Thụy Thái Bình với ranh giới là sông Trà Lý, phía nam giáp tỉnh Nam Định với ranh giới là sông Hồng. Huyện Tiền Hải gồm 1 thị trấn Tiền Hải và 34 xã. Tây Tiến là một xã có 4.454 nhân khẩu chia thành 4 thôn. Tổng diện tích tự nhiên của Tây Tiến là 5,3km2. Trường tiểu học Tây Tiến có tổng số 10 lớp học với tổng số 261 học sinh, trong đó khối 1 có 46 học sinh, khối 2 có 57 học sinh, khối 3 có 60 học sinh, khối 4 có 54 học sinh và khối 5 có 44 học sinh. Tây Lương là một xã nằm về phía Tây bắc huyện Tiền Hải. Xã Tây Lương có tổng diện tích đất tự nhiên là 634,54 ha, trong đó diện tích đất canh tác có 365,684 ha. Dân số xã hiện có 7043 người. Trường tiểu học Tây Lương có tổng số 13 lớp học với tổng số 340 học sinh, trong đó khối 1 có 65 học sinh, khối 2 có 68 học sinh, khối 3 có 71 học sinh, khối 4 có 68 học sinh và khối 5 có 68 học sinh. Tây Giang là một xã có 6834 người, diện tích theo địa giới hành chính là 477,72 ha. Trường tiểu học Tây Giang có tổng số 15 lớp học với tổng số 443 học sinh, trong đó khối 1 có 85 học sinh, khối 2 có 81 học sinh, khối 3 có 94 học sinh, khối 4 có 99 học sinh và khối 5 có 84 học sinh. Cả ba xã thuộc địa bàn nghiên cứu đều là xã nông nghiệp, kinh tế phát triển bằng nghề nông, chủ yếu là trồng trọt và canh tác. Cả ba xã đều có đường tỉnh lộ đi qua, đều có khả năng tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và thực phẩm tương đồng với nhau. Các trường tiểu học trên địa bàn nghiên cứu 37 thường không tổ chức ăn bán trú cho trẻ. Tại thời điểm triển khai nghiên cứu, trên địa bàn nghiên cứu không có các chương trình triển khai liên quan đến dinh dưỡng học đường. Bản đồ hành chính huyện Tiền Hải 2.2.3. Thời gian nghiên cứu - Thời gian thu thập số liệu từ tháng 10 năm 2017 đến tháng 5 năm 2018. - Thời gian xử lý số liệu, viết báo cáo từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 8 năm 2019. 2.3. Phương pháp nghiên cứu 2.3.1. Thiết kế nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu cho mục tiêu 1 và mục tiêu 2 là nghiên cứu mô tả cắt ngang. - Thiết kế nghiên cứu cho mục tiêu 3 là nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng. 38 2.3.2. Cỡ mẫu cho nghiên cứu 2.3.2.1. Cỡ mẫu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Cỡ mẫu cho mục tiêu 1 – nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang được tính theo công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ [75]: Trong đó: n: cỡ mẫu cần điều tra Z: hệ số tin cậy tính theo α, chọn α = 0,05 với khoảng tin cậy 95% thì giá trị của Z là 1,96. d: khoảng sai lệch mong muốn giữa kết quả thu được từ mẫu với kết quả thực của quần thể (chọn d = 0,03). p: tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo kết quả điều tra thử trước khi tiến hành nghiên cứu (p = 0,255). Cỡ mẫu sau khi tính toán được n = 811. Trên thực tế tổng số trẻ em học lớp 2 đến lớp 5 đủ điều kiện tham gia vào nghiên cứu tại 3 trường là 848, do vậy chúng tôi điều tra toàn bộ 848 trẻ em học từ lớp 2 đến lớp 5 tại 3 trường điều tra. 2.3.2.2. Cỡ mẫu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước lượng một giá trị trung bình [75]: Trong đó: n: Cỡ mẫu cần thiết. 39 S: Độ lệch chuẩn. ∆: Sai số chấp nhận giữa kết quả thu được từ mẫu với kết quả thực tế của quần thể. Với S = 5,5 (qua điều tra thử xác định chiều cao trung bình của 1 lớp học sinh), sai số chấp nhận là 2,5%, tính được cỡ mẫu là 186. Số đối tượng thực tế tham gia vào nghiên cứu là 216 đối tượng. 2.3.2.3. Cỡ mẫu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Cỡ mẫu cho mục tiêu 3 – nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng được tính theo công thức [76]: Trong đó: - n: Cỡ mẫu cần thiết - S: Độ lệch chuẩn (ước tính từ nghiên cứu trước đó). Trong trường hợp này, độ lệch chuẩn của hai nhóm được coi là như nhau. - : Mức ý nghĩa thống kê, là xác suất của việc phạm phải sai lầm loại I. Với = 0,05 (độ tin cậy 95%), tra bảng có Z = 1,96. - : Xác suất của việc phạm phải sai lầm loại II. Với = 0,1; tra bảng có Z = 1,28 - Tra bảng có giá trị của Z 2(,β) = 10,5 - 1 - 2: là sự khác biệt theo mong muốn về mật độ xương giữa hai nhóm (nhóm can thiệp và nhóm chứng) vào cuối thời gian nghiên cứu. Với α= 0,05; β=0,10 và dựa vào các nghiên cứu đã tiến hành trước đây để xác định µ1- µ2= 0,02g/cm2, S = 0,042g/cm2 [77]. Từ công thức trên 40 tính được n=93 cho mỗi nhóm. Cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho nghiên cứu là 196 đối tượng. Dự kiến tỷ lệ bỏ cuộc trong toàn bộ thời gian triển khai nghiên cứu là 10%, số đối tượng cần thiết cho mỗi nhóm chứng và nhóm can thiệp là 103 đối tượng. Do đó, tổng số đối tượng cần cho mục tiêu 3 là 206. 2.3.3. Phương pháp chọn mẫu 2.3.3.1. Chọn mẫu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 1 là chọn mẫu toàn bộ. Toàn bộ trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu đảm bảo tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn loại trừ nào được lựa chọn mời tham gia vào nghiên cứu. 2.3.3.2. Chọn mẫu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 2 là chọn mẫu toàn bộ. Toàn bộ trẻ từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu đảm bảo tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn loại trừ nào được lựa chọn mời tham gia vào nghiên cứu. 2.3.3.3. Chọn mẫu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Phương pháp chọn mẫu được sử dụng cho mục tiêu 3 là chọn mẫu có chủ đích. Điều kiện kinh tế, xã hội, tập quán văn hóa và lối sống của người dân ở 3 xã Tây Giang, Tây Lương và Tây Tiến là tương đương nhau. Số trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại trường Tây Giang gần tương đương với tổng số trẻ từ 7 đến 10 tuổi của hai trường Tây Lương và Tây Tiến. Do đó, nhằm đảm bảo được số đối tượng cần thiết cho mỗi nhóm chứng và can thiệp là 103 đối tượng/nhóm, chọn chủ 41 đích 103 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại hai trường tiểu học Tây Lương và Tây Tiến vào nhóm can thiệp và chọn chủ đích 103 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại trường tiểu học Tây Giang vào nhóm chứng. Toàn bộ 206 đối tượng đều đảm bảo tất cả các tiêu chuẩn lựa chọn và không có bất cứ một tiêu chuẩn loại trừ nào được lựa chọn mời tham gia vào nghiên cứu can thiệp. 2.3.4. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu: 2.3.4.1. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình - Giới tính, tuổi, chiều cao và cân nặng của trẻ - Phân bố tình trạng dinh dưỡng theo các thể suy dinh dưỡng 2.3.4.2. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu - Giới tính, tuổi của trẻ, tình trạng chậm tăng trưởng chiều cao - Các kết quả xét nghiệm liên quan đến sức khỏe xương: + Mật độ xương (BMD) + Khối lượng xương (BMC) + Nồng độ Vitamin D huyết thanh + Tỷ lệ thiếu Vitamin D huyết thanh + Nồng độ canxi ion huyết thanh + Tỷ lệ thiếu canxi ion huyết thanh + Nồng độ osteocalin huyết thanh 2.3.4.3. Nội dung và các chỉ số nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu - Giới tính, tuổi của trẻ 42 - Chiều cao, cân nặng, tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi/chậm tăng trưởng chiều cao của trẻ trước và sau can thiệp cùng hiệu quả can thiệp - Các kết quả xét nghiệm liên quan đến sức khỏe xương trước và sau can thiệp cùng hiệu quả can thiệp bao gồm: + Mật độ xương (BMD) + Khối lượng xương (BMC) + Nồng độ Vitamin D huyết thanh + Tỷ lệ thiếu Vitamin D huyết thanh + Nồng độ canxi ion huyết thanh + Tỷ lệ thiếu canxi ion huyết thanh + Nồng độ osteocalin huyết thanh 2.3.5. Phương pháp thu thập số liệu và kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu 2.3.5.1. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu nhân trắc: a. Tính tuổi Dựa vào ngày, tháng, năm sinh và ngày, tháng, năm điều tra cùng với quy ước tính tuổi để tính ra tuổi cho trẻ. Cách tính tuổi hiện nay đang được dùng trong các tài liệu của WHO và áp dụng ở Việt Nam như sau [70]: Từ 1 năm đến 1 năm 11 tháng 29 ngày là 1 tuổi. Do đó: - Từ 7 năm đến 7 năm 11 tháng 29 ngày là 7 tuổi. - Từ 8 năm đến 8 năm 11 tháng 29 ngày là 8 tuổi. - Từ 9 năm đến 9 năm 11 tháng 29 ngày là 9 tuổi. - Từ 10 năm đến 10 năm 11 tháng 29 ngày là 10 tuổi. b. Số đo nhân trắc và xác định tình trạng dinh dưỡng - Thu thập các số đo nhân trắc 43 Cân nặng Chiều cao Dụng cụ Cân Tanita có độ Thước đo 3 mảnh của UNICEF có độ chính xác đến 0,1kg chính xác đến 0,1cm Vị trí đặt Nơi bằng phẳng và Đặt thước đo trên mặt phẳng cứng, bằng dụng cụ thuận tiện để cân phẳng, tựa vào tường. Yêu cầu Trẻ bỏ mũ, nón, giày Trẻ tháo bỏ giày dép, cặp tóc hay thứ gì trước khi dép và tất cả các vật trên đầu làm ảnh hưởng đến kết quả đo. nặng mang theo. đo Kỹ thuật Trẻ đứng giữa bàn Trẻ đứng dựa lưng vào thước, bàn chân ở đo cân, không cử động, giữa thước, gót chân, bắp chân, mông, vai mắt nhìn thẳng, trọng và đầu theo một đường thẳng áp sát vào lượng phân bố đều ở thước, mắt nhìn thẳng về phía trước theo hai chân. đường nằm ngang, hai tay buông thõng hai bên mình. Người đo chính: tay trái giữ cằm sao cho đầu thẳng và áp sát vào mặt thước. Tay phải ép mặt thanh trượt vào sát đầu. Khi vị trí của trẻ đã chính xác, đọc số đo chính xác đến 0,1cm. Số đo được ghi với đơn vị cm và với 1 số lẻ. Bỏ thanh trượt trên đầu trẻ ra và bỏ tay trái ra khỏi cằm trẻ, giúp trẻ ra khỏi thước đo. Người trợ giúp: ghi ngay kết quả và đọc to cho người đo chính để kiểm tra tính chính xác. Yêu cầu Cân nặng được ghi với Chiều cao được ghi với đơn vị là cm và 1 kết quả đơn vị kg và 1 số lẻ. số lẻ. 44 2.3.5.2. Đo mật độ xương và khối lượng xương Mật độ xương và khối lượng xương của trẻ được đo bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép DEXA (Dualenergy X-ray absorptiometry), sử dụng máy đo DEXXUM T tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh, Bệnh viện Đại học Y Thái Bình. - Nguyên tắc đo: Dùng nguồn tia X phát ra hai chùm tia có mức năng lượng khác nhau quét lên vùng định đo, dựa vào mức độ hấp thụ tia X của xương và mô mềm để đánh giá mật độ xương và khối lượng xương của vùng định khảo sát. Máy đo DEXXUM T tự động lựa chọn các thông số như liều lượng tia, thời gian quét, tốc độ quét… tất cả thể hiện trên màn điều khiển để kỹ thuật viên theo dõi phép đo. Sự hằng định về liều lượng tia, tốc độ, thời gian chuẩn của máy được định cỡ hằng ngày theo một Phantom mẫu để đảm bảo độ chính xác của các phép đo. - Vị trí đo và quy trình tiến hành: Đo tại vùng cột sống thắt lưng từ L1 - L4. Tư thế đo: Trẻ em được đặt ở tư thế nằm ngửa, hai tay xuôi theo thân người, chân gác lên một gối cao (có kích thước chuẩn đi kèm theo máy) để giảm độ ưỡn thắt lưng tới mức thấp nhất. Thông tin nhập lưu trữ trên máy DEXA gồm: họ và tên, mã số code hồ sơ, ngày tháng năm sinh, giới tính, chiều cao, cân nặng của trẻ. Mức độ tiếp xúc bức xạ ở khoảng cách 1 mét từ máy: ít hơn 1millirem (1mR), nên không cần phương tiện che chắn hay bảo vệ. Thời gian đo tối đa 5 phút, tính cả thời gian nhập các dữ liệu, thông tin cá nhân. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng giá trị khối lượng xương (đơn vị: gram) và giá trị mật độ xương (đơn vị: gram/cm2) của toàn bộ cột sống thắt lưng (L1-L4). 45 2.3.5.3. Các xét nghiệm Trẻ được lấy máu tĩnh mạch vào buổi sáng để làm xét nghiệm định lượng Vitamin D, ioncanxi và Osteocalcin. Trẻ nhịn ăn sáng và không uống bất kỳ một loại thực phẩm nào trước khi xét nghiệm. Sau khi lấy máu xét nghiệm, trẻ em được tổ chức ăn sáng tại chỗ bằng bánh mỳ và sữa tươi. Mỗi trẻ em được lấy 3ml mẫu máu tĩnh mạch vào buổi sáng (7h00 đến 8h00) tại trường học, sau đó được bảo quản lạnh và vận chuyển về Khoa sinh hóa Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình để phân tích. Các đối tượng được lấy 3ml máu tĩnh mạch trong khoảng thời gian từ 7 đến 8 giờ sáng, được chuyển vào ống nghiệm và được bảo quản trong phích lạnh, tránh ánh sáng. Sau đó, các mẫu máu được vận chuyển đến Khoa sinh hóa – Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình trong vòng 1 giờ và được ly tâm ở tốc độ 3000 vòng/phút để tách huyết thanh. Các mẫu huyết thanh được giữ ở nhiệt độ -20ºC cho đến khi mẫu được phân tích. * Định lượng Vitamin D Theo phương pháp miễn dịch kiểu cạnh tranh, sử dụng công nghệ điện hóa phát quang (ECLIA). Tổng thời gian phân tích một mẫu 18 phút. - Giai đoạn ủ thứ nhất: 25-OH vitamin D3 trong mẫu bệnh phẩm cạnh tranh với biotin có gắn vitamin D trong phức hợp trong thuốc thử R2 (gồm biotin-vitamin D/ polyclonal 25-OH vitamin D3- Kháng thể đặc hiệu có gắn ruthenium). Phần còn lại của phức hợp phụ thuộc vào nồng độ chất phân tích trong mẫu. - Giai đoạn ủ thứ hai: Sau khi cho thêm các vi hạt được bao phủ bởi Streptavidin. Phức hợp được gắn kết vào pha rắn do sự tương tác giữa biotin và streptavidin. - Phức hợp phản ứng được đưa vào buồng đo. Tại đây các vi hạt được giữ lại bằng từ tính trên bề mặt điện cực. Những chất thừa được rửa đi bằng 46 procell. Dùng một dòng điện một chiều tác động vào điện cực nhằm kích thích phát quang và cường độ tín hiệu ánh sáng phát ra có thể đo được bằng bộ phận nhận quang. - Kết quả được tính toán dựa vào đường cong chuẩn thu được bằng cách chuẩn 2 điểm và đường cong gốc được cung cấp từ nhà sản xuất. Nồng độ chất cần định lượng tỷ lệ thuận với cường độ ánh sáng thu được. - Mức tối thiểu 30 ng/ml vitamin D được coi là đủ, dưới mức này được coi là vitamin D thấp, cụ thể giá trị từ 29 đến 20 ng/ml là nguy cơ thiếu, mức dưới 20 ng/ml là thiếu và mức dưới 7 ng/ml là thiếu trầm trọng [78]. * Định lượng Canxi ion Canxi ion hóa được định lượng theo nguyên lý điện cực chọn lọc. Tại điện cực Ca++ có một màng bán thấm chỉ cho ion Ca++ đi qua. Căn cứ vào lượng Ca++ thấm qua màng (thông qua sự thay đổi điện thế ở màng) để xác định nồng độ. Bình thường, nồng độ Canxi ion trong máu từ 1,15 – 1,3 mmol/l [79],[80]. * Định lượng Osteocalcin Nguyên lý của kỹ thuật hóa phát quang miễn dịch: dựa trên nguyên lý sandwich pha rắn, các hạt nhựa được phủ các kháng thể kháng osteocalcin được ủ với huyết thanh của mẫu cần định lượng osteocalcinhình thành phức hợp kháng thể kháng osteocalcin - osteocalcin. Phức hợp này sẽ được gắn với kháng thể thứ hai có gắn alkalinephosphatase tạo phức hợp kháng thể - osteocalcin - kháng thể gắn alkalinephosphatase. Sau khi loại bỏ các phần không được gắn vào phức hợp bởi các chu trình rửa, phức hợp này được phát hiện bằng cơ chất dioxetane. Khi cơ chất dioxetane phản ứng với alkalinephosphatase sẽ tạo ra ánh sáng. Lượng ánh sáng tỷ lệ thuận với nồng độ osteocalcin cần định lượng. Các tia sáng sẽ được thu và khuếch đại vào các ống nhận quang. Sau khi đối chiếu với đường cong chuẩn sẽ tính ra nồng độ osteocalcin cần định lượng [81],[82],[83]. 47 2.3.5.4. Khám sàng lọc Khám sàng lọc để phát hiện và loại trừ những trường hợp không đủ tiêu chuẩn lựa chọn cho nghiên cứu can thiệp theo mục tiêu 3 như trẻ bị dị tật bẩm sinh, trẻ mắc một số bệnh mạn tính gây ảnh hưởng đến mật độ xương. Đồng thời khám phát hiện các biểu hiện tiền dậy thì hoặc biểu hiện dậy thì ở trẻ (Phụ lục 3.1). 2.3.6. Quá trình tổ chức nghiên cứu 2.3.6.1. Lựa chọn và tập huấn cho các cán bộ tham gia nghiên cứu - Chọn và tập huấn cho cán bộ tham gia nghiên cứu: Các điều tra viên được chọn là các cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y Dược Thái Bình, Viện Y học ứng dụng Việt Nam và Bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải. Các nghiên cứu viên được tập huấn về mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, cách lựa chọn trẻ tham gia nghiên cứu, cách tiến hành điều tra ban đầu, các hoạt động can thiệp và điều tra sau can thiệp. - Chọn và tập huấn cho cộng tác viên: Cộng tác viên được chọn từ các cô giáo của 3 trường tiểu học tiến hành nghiên cứu. Mỗi trường chọn một cán bộ phụ trách là Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng để tham gia công tác tổ chức tiếp nhận, quản lý sản phẩm dinh dưỡng đường uống hàng tháng cũng như các bữa ăn bổ sung bằng sản phẩm dinh dưỡng đường uống buổi sáng hàng ngày của trẻ. - Các giám sát viên được chọn là các cán bộ có kinh nghiệm trong nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Y Dược Thái Bình, Viện Y học ứng dụng Việt Nam và Bệnh viện đa khoa huyện Tiền Hải: Giám sát việc cung cấp và sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống hàng ngày của trẻ em tại các trường tiểu học. Mỗi một trường tiểu học có một quyển sổ theo dõi số lượng sản phẩm dinh dưỡng đường uống cung cấp và sử dụng hàng ngày của trẻ. 48 Giám sát việc tổ chức truyền thông cho trẻ em về các biện pháp tăng cường mật độ xương, tư vấn cho các bà mẹ về các thực phẩm giàu can xi và vitamin D để các bà mẹ lựa chọn trong bữa ăn gia đình. Khuyến cáo để các bà mẹ tự thực hiện trong các bữa ăn của trẻ. 2.3.6.2. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 1: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Lập danh sách thông tin toàn bộ trẻ trong độ tuổi từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu để lựa chọn trẻ đủ tiêu chuẩn. Nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên phối hợp với nhà trường thông báo tới các phụ huynh của trẻ về hoạt động đánh giá tình trạng dinh dưỡng thông qua cân đo cân nặng và chiều cao của trẻ diễn ra tại trường học. Tổng số có 848 đối tượng đảm bảo đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn và không có tiêu chuẩn loại trừ nào. Các đối tượng được tiến hành cân đo và thu thập các chỉ số nhân trắc dựa trên kỹ thuật thu thập số đo nhân trắc và đánh giá tình trạng dinh dưỡng đã được trình bày trong mục 2.2.5 và được ghi chép vào phiếu thu thập thông tin cho mục tiêu 1 (Phụ lục 1). Số liệu từ các phiếu này được nhập liệu vào máy tính và tính toán các chỉ số đánh giá tình trạng dinh dưỡng bao gồm HAZ, WAZ và BMIZ từ đó đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ tại địa bàn nghiên cứu. 2.3.6.3. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 2: Xác định tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Dựa trên kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu ở mục tiêu 1, lập danh sách trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu có kết quả đánh giá tình trạng dinh dưỡng là chậm tăng trưởng chiều cao theo quy ước đã được trình bày tại mục 2.1.1.2 để lựa chọn trẻ đủ tiêu chuẩn và mời tham gia vào nghiên cứu cho mục tiêu 2 (sử dụng phiếu 49 sàng lọc – phụ lục 2.1). Tổng số có 216 đối tượng đảm bảo đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn, không có tiêu chuẩn loại trừ nào và phụ huynh/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia vào nghiên cứu (sử dụng bản cung cấp thông tin cho đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu – phụ lục 2.2). Toàn bộ 216 đối tượng sau khi được đồng ý tham gia vào nghiên cứu được tiến hành lấy mẫu xét nghiệm tại địa bàn nghiên cứu nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe xương bao gồm: mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ vitamin D huyết thanh, nồng độ canxi ion huyết thanh và nồng độ osteocalcin huyết thanh các chỉ số nhân trắc dựa trên kỹ thuật thu thập số đo nhân trắc và đánh giá tình trạng dinh dưỡng đã được trình bày trong mục 2.2.5. Kết quả đánh giá tình trạng sức khỏe xương được ghi vào phiếu thu thập thông tin cho mục tiêu 2 (phụ lục 2.3). 2.3.6.4. Tổ chức nghiên cứu cho mục tiêu 3: Đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Sau khi tiến hành đánh giá tình trạng sức khỏe xương ở mục tiêu 2, lập danh sách trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đã đánh giá tình trạng sức khỏe xương để lựa chọn trẻ đủ tiêu chuẩn và mời tham gia vào nghiên cứu can thiệp cho mục tiêu 3 (sử dụng phiếu sàng lọc – phụ lục 3.1). Chọn chủ đích 206 đối tượng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn lựa chọn, không có tiêu chuẩn loại trừ nào và phụ huynh/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia vào nghiên cứu (sử dụng bản cung cấp thông tin cho đối tượng tham gia nghiên cứu bao gồm phiếu chấp thuận tham gia nghiên cứu – phụ lục 3.2) chia đều vào hai nhóm can thiệp và nhóm chứng để tiến hành can thiệp trong 06 tháng. 50 Đánh giá trước can thiệp: các kết quả nhân trắc và đánh giá tình trạng dinh dưỡng cũng như đánh giá tình trạng sức khỏe xương từ mục tiêu 1 và 2 của 206 đối tượng được sử dụng để đánh giá trước can thiệp. Đánh giá sau can thiệp: Tại thời điểm cuối tháng thứ 3 từ khi can thiệp (giữa kỳ) và cuối tháng thứ 6 từ khi can thiệp (cuối kỳ), đối tượng được đánh giá lại các chỉ số nhân trắc, tình trạng dinh dưỡng và tình trạng sức khỏe xương theo quy trình tương tự như tại thời điểm đánh giá trước can thiệp (sử dụng phiếu thu thập thông tin cho mục tiêu 3 – Phụ lục 3.3). Nội dung can thiệp: Nhóm chứng Nội dung
Bổ sung dinh dưỡng đường uống Có Nhóm can thiệp
Có
(Sản phẩm can thiệp)
Có (Sản phẩm chứng)
Không Không Có Phối hợp tập luyện thể dục và
tắm nắng
Truyền thông giáo dục sức khỏe
về dinh dưỡng học sinh tiểu học
a. Bổ sung dinh dưỡng đường uống: Đối tượng ở cả hai nhóm được bổ sung 180ml sản phẩm dinh dưỡng đường uống mỗi ngày. Cả hai loại sản phẩm dinh dưỡng đường uống sử dụng cho cả hai nhóm chứng và can thiệp được sản xuất theo yêu cầu của nghiên cứu đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, được tiệt trùng bằng công nghệ UHT và được đóng trong hộp giấy tiệt trùng theo công nghệ của Tetra Pak. Sản phẩm, được chuyển thẳng từ nhà máy đến và lưu trữ tại địa bàn nghiên cứu trong phòng kín, khô và đảm bảo vệ sinh mỗi hai tuần từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc nghiên cứu. Thành phần của sản phẩm dinh dưỡng đường uống sử dụng cho nhóm can thiệp được bổ sung Vitamin K2 và có thành phần còn lại tương đương với sản phẩm sử dụng cho nhóm chứng. 51 Thành phần Hàm lượng trong 180ml
sản phẩm chứng Hàm lượng trong 180ml
sản phẩm can thiệp 147,4
5,6
6,30
17,1
396,0
99,0
0
230,4 Năng lượng (Kcal)
Protein (g)
Lipid (g)
Carbohydrate (g)
Vitamin A (IU)
Vitamin D3 (IU)
Vitamin K2 (mcg)
Canxi (mg) 147,4
5,6
6,30
17,1
396,0
99,0
10,26
230,4 Nhu cầu khuyến nghị vitamin K trung bình cho nhóm tuổi 2-12 tuổi là 97,5mcg/ngày [15]. Do đó, trong 180ml sản phẩm can thiệp được bổ sung 10,26 mcg vitamin K2 để đảm bảo tạo ra hiệu quả tương đương khoảng 10,5% nhu cầu khuyến nghị hằng ngày nhằm đạt hiệu quả cải thiện sức khỏe xương tối ưu cũng như đảm bảo ngưỡng an toàn khi bổ sung vitamin K [84],[85]. Vitamin K2 có liên quan đến sức khỏe xương và các tác dụng khác với sức khỏe nhiều hơn so với vitamin K1. Do vậy, việc lựa chọn bổ sung vitamin K2, thay vì K1 trong sản phẩm dinh dưỡng đường uống sẽ có khả năng tăng hấp thu vitamin K ở trẻ [86],[87]. Các ngày trong tuần, từ thứ 2 đến thứ 6, đối tượng sử dụng sản phẩm tại địa bàn nghiên cứu (trường tiểu học). Vào thời điểm nghỉ giữa giờ ca học buổi sáng (lúc 8h50), các đối tượng được mời sang một phòng riêng biệt (phòng hội trường), sử dụng sản phẩm trong vòng 05 phút. Đối tượng được theo dõi lượng sản phẩm uống hết và được ghi chép vào sổ cấp phát và theo dõi sử dụng sản phẩm (phụ lục 3.4). Đối với ngày thứ 7, chủ nhật và ngày nghỉ khác, đối tượng được phát sản phẩm ứng với số ngày nghỉ, giám sát viên phối hợp cùng cộng tác viên cung cấp, giám sát và nhắc nhở việc sử dụng sản phẩm tại nhà. Cộng tác viên phối 52 hợp với nhà trường và gia đình theo dõi đối tượng sử dụng sản phẩm và ghi chép vào sổ cấp phát và theo dõi sử dụng sản phẩm. Những trường hợp không đến trường vì lý do sức khỏe hoặc các lý do khác, cộng tác viên tìm hiểu lý do, liên hệ và phối hợp với phụ huynh phát sản phẩm đến đối tượng và báo cáo lại với giám sát viên/nghiên cứu viên. Đối tượng nghiên cứu được bổ sung dinh dưỡng đường uống liên tục trong vòng 06 tháng từ tháng 11/2017 đến tháng 04/2018. Trong suốt quá trình bổ sung dinh dưỡng đường uống, bên cạnh theo dõi sử dụng sản phẩm, đối tượng cũng được theo dõi tình trạng sức khỏe có thể gặp phải trong quá trình bổ sung dinh dưỡng đường uống và được ghi vào sổ cấp phát và theo dõi sử dụng sản phẩm bao gồm: buồn nôn, nôn, đau bụng, nổi mề đay, tiêu chảy, sống phân, táo bón… (phụ lục 3.4). b. Hoạt động phối hợp tập luyện thể dục và tắm nắng Can thiệp được tiến hành từ tháng 11 đến tháng 4, là khoảng thời gian mặt trời lên đỉnh muộn hơn, do đó, thời gian phối hợp tắm nắng và tập thể dục được thực hiện vào hai buổi sáng và chiều trong những ngày đi học. Thời gian tập luyện được sắp xếp vào thời điểm giải lao giữa giờ. Hoạt động tập thể dục của nghiên cứu là độc lập so với môn thể dục mà đối tượng đang được học theo chương trình của nhà trường. Đối tượng được tổ chức bài tập thể dục với mục tiêu kéo dãn cơ thể và phát triển chiều cao, tập trong 10 phút. Trong những ngày trời mưa hoặc lạnh kèm theo gió mùa đông bắc, đối tượng được tổ chức tập luyện dưới hành lang có mái che hoặc trong phòng họp có cửa sổ kính lớn và được nhà trường và cộng tác viên báo cáo tới nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên. Hoạt động phối hợp tập luyện thể dục và tắm nắng được thực hiện dưới sự giám sát của nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên. Trong quá trình tập 53 luyện, các cộng tác viên theo dõi tình trạng sức khỏe của đối tượng nghiên cứu bao gồm nhịp thở và mồ hôi để kiểm soát tình hình sức khỏe của đối tượng nghiên cứu trong lúc tập luyện. Bất cứ bất thường nào được phát hiện trong quá trình tập luyện đều được báo cáo với nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên. Nội dung tập luyện: STT Bài tập Nội dung 1 Khởi động Di chuyển tại chỗ, nâng cao đầu gối. (2 phút) Đung đưa cánh tay về phía trước và phía sau. Tăng tốc độ và cường độ dần dần. 2 Nhảy phối Đứng thẳng với hai bàn chân chạm nhau và cánh tay hợp buông thẳng. (2 phút) Nhảy lên, dang rộng hai chân rộng hơn hông và vươn cao cánh tay qua đầu. Quay trở lại vị trí bắt đầu bằng cách nhảy một lần nữa và đưa hai chân chạm nhau khi tiếp đất trong khi hạ cánh tay xuống. Lặp lại bài tập này trong hai phút. 3 Nâng cao Đứng thẳng với hai chân rộng bằng hông. đầu gối Nâng đầu gối phải càng cao càng tốt về phía ngực (2 phút) trong khi vẫn giữ cho bàn chân trái đặt trên mặt đất. Hạ chân phải xuống và lặp lại động tác tương tự với đầu gối trái. Tiếp tục luân phiên nâng cao đầu gối trong hai phút. 4 Cúi giãn Đứng hai chân rộng bằng vai. (2 phút) Từ từ gập người về phía trước ở thắt lưng, giữ cho hai chân thẳng. Cố gắng dùng ngón tay chạm vào ngón chân. 54 STT Bài tập Nội dung Nếu trẻ chưa thể với tới các ngón chân, trẻ cần nhắm tới cẳng chân hoặc xa nhất có thể. Giữ căng trong vài giây rồi trở về vị trí bắt đầu. Lặp lại bài tập này trong hai phút. 5 Chống đẩy Đứng quay mặt vào tường và cách tường khoảng một tường cánh tay. (2 phút) Đưa cánh tay lên phía trước và đặt lòng bàn tay lên tường ở độ cao ngang vai. Nghiêng người về phía trước, giữ hai bàn chân đặt trên mặt đất cho đến khi cảm thấy ngực và vai căng nhẹ. Giữ tư thế này trong 20-30 giây đồng thời hít thở chậm và sâu. Dần dần đẩy cơ thể khỏi bức tường, duy trì sự căng ở ngực và vai. Lặp lại bài tập này trong hai phút. Đối với nhóm chứng: Khi nghỉ giữa giờ học sinh thường nghỉ tại chỗ, nói chuyện hoặc tham gia các hoạt động nghỉ giải lao tự do giữa giờ. c. Truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cho trẻ em - Tổ chức truyền thông trực tiếp cho nhà trường và giáo viên về dinh dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học: Sau khi lựa chọn địa bàn nghiên cứu can thiệp, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên đã tổ chức buổi truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cho trẻ ở độ tuổi tiểu học. Nội dung buổi truyền thông bao gồm: các thông tin về dinh dưỡng cần thiết cho học sinh tiểu học (phụ lục 3.5) và hướng dẫn giáo viên lồng ghép các nội dung liên quan đến dinh dưỡng và lối sống lành mạnh vào các hoạt động trên lớp. Tại thời điểm 55 triển khai nghiên cứu, địa bàn nghiên cứu chưa có chương trình Sữa Học Đường, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên giúp nhà trường làm rõ về tầm quan trọng của sữa đối với học sinh tiểu học và gợi ý những cách để nhà trường chủ động tìm kiếm, cũng như có thể tiếp tục triển khai hoạt động cho học sinh uống sữa sau khi nghiên cứu kết thúc. - Tổ chức truyền thông/giáo dục sức khỏe/tư vấn cho phụ huynh về dinh dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học: tại buổi phổ biến nội dung nghiên cứu và ký xác nhận tham gia nghiên cứu, phụ huynh được mời đến trường và được truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng học sinh tiểu học (nội dung dựa trên phụ lục 3.5). Phụ huynh được nhấn mạnh về tầm quan trọng của dinh dưỡng đầy đủ, đặc biệt là sữa, cùng với các hoạt động vận động thể chất và sinh hoạt cần thiết đối với sự phát triển tầm vóc của trẻ. Sau ba tháng can thiệp, phụ huynh tiếp tục được mời tới tham dự buổi truyền thông/giáo dục sức khỏe/tư vấn về dinh dưỡng và sinh hoạt ở học sinh tiểu học lần thứ hai. Tại buổi truyền thông lần thứ hai, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên tập trung vào nội dung tìm hiểu sự thay đổi trong sinh hoạt của trẻ kể từ khi can thiệp và giải đáp các thắc mắc/câu hỏi của phụ huynh liên quan đến dinh dưỡng và sự phát triển toàn diện của trẻ. - Tổ chức truyền thông/giáo dục sức khỏe cho trẻ thông qua áp phích tháp dinh dưỡng và tập luyện được dán ở bảng tin của trường, bên cạnh cửa lớp học và cạnh bảng xanh trong lớp học. d. Giám sát can thiệp Để đảm bảo đối tượng nghiên cứu tuân thủ trong quá trình can thiệp cũng như nhanh chóng phát hiện kịp thời và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai nghiên cứu, nghiên cứu sinh và các nghiên cứu viên của đề tài kết hợp với các cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu thực hiện giám sát việc triển khai biện pháp can thiệp tại các trường tiểu học. 56 SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU 57 2.3.7. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu Trước khi nhập số liệu trên các phần mềm để xử lý, nghiên cứu viên đã xử lý thô các thông tin trên các sổ ghi chép và phiếu hỏi. Những trường hợp thông tin giữa nghiên cứu viên, điều tra viên và cộng tác viên không trùng nhau sẽ có sự gặp mặt giữa nghiên cứu viên, cộng tác viên và đối tượng nghiên cứu để kiểm tra lại thông tin. Những đối tượng đảm bảo các tiêu chí sau sẽ được đưa vào phân tích: - Đối tượng tham gia trong suốt thời gian can thiệp - Đối tượng uống đủ ít nhất 80% số lượng sản phẩm can thiệp, và có đầy đủ ghi chép về sử dụng sản phẩm trong sổ theo dõi. - Đối tượng không nghỉ học quá 1 tuần trong thời gian can thiệp. - Đối tượng không gặp phải tình trạng bệnh hoặc có vấn đề về sức khỏe nghiêm trọng hoặc kéo dài trong thời gian can thiệp. - Đối tượng không gặp phải các chấn thương gây hạn chế vận động trong thời gian can thiệp. Số liệu được nhập bằng phần mềm EPIDATA 3.1. Số liệu về nhân trắc học được xử lý bằng phần mềm ENA Smart với quần thể chuẩn của WHO (2005) để đánh giá chiều cao, cân nặng của trẻ theo tuổi và xác định tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Phân tích số liệu bằng phần mềm Statistical Package for Social Sciences (SPSS 20.0). Trước khi sử dụng phép các phép thống kê, số liệu (các biến số) được kiểm định về phân bố chuẩn. Các test thống kê tham số được sử dụng cho số liệu định lượng phân bố chuẩn gồm: T-test độc lập được sử dụng để so sánh giá trị trung bình giữa hai nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. T-test ghép cặp được sử dụng để so sánh giá trị trung bình trước và sau can thiệp của các biến số. ANOVA test (phương 58 sai đồng nhất) được sử để so sánh giá trị trung bình giữa nhiều hơn hai nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. Các test thống kê phi tham số được sử dụng cho số liệu định lượng phân bố không chuẩn gồm: Mann-Whitney test được sử dụng để so sánh giá trị trung bình giữa hai nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. Wilcoxonsigned-rank test được sử dụng để so sánh giá trị trung bình trước và sau can thiệp của các biến số. Kruskal-Wallis test được sử để so sánh giá trị trung bình giữa nhiều hơn hai nhóm độc lập tại cùng một thời điểm. Test 2 và Fisher’s exact test được sử dụng để so sánh, tìm sự khác biệt giữa giá trị trung bình của các số liệu định tính. - Tính chỉ số hiệu quả để đánh giá hiệu quả can thiệp thực sự. Chỉ số hiệu quả (CSHQ) được tính theo các bước sau: *Bước: đánh giá hiệu quả can thiệp (%) của nhóm can thiệp–HQ(CT): │P1 – P2 │ HQ(CT) = x 100 P1
P1: chỉ số đánh giá trước thời điểm can thiệp. Trong đó: P2: chỉ số đánh giá sau thời điểm can thiệp. * Bước 2: đánh giá hiệu quả can thiệp (%) của nhóm đối chứng–HQ(ĐC): │P’1 – P’2 │ HQ(ĐC) = x 100 P’1
P1’: chỉ số đánh giá trước thời điểm can thiệp. Trong đó: P2’: chỉ số đánh giá sau thời điểm can thiệp. * Bước 3: đánh giá hiệu quả can thiệp thực sự (%) của nghiên cứu bằng chỉ số hiệu quả (CSHQ): 59 CSHQ=HQ(CT)–HQ(ĐC) 2.3.8. Đạo đức trong nghiên cứu Đề cương nghiên cứu đã được chấp thuận bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học của trường Đại học Y Dược Thái Bình theo chứng nhận số 8621/HĐĐĐ ngày 20 tháng 10 năm 2017. Nghiên cứu tiến hành đảm bảo tuân thủ theo các nguyên tắc về đạo đức trong nghiên cứu y học: - Các đối tượng và gia đình, nhà trường được giải thích cụ thể, rõ ràng mục đích, quy trình nghiên cứu. - Các thông tin riêng tư của đối tượng được đảm bảo bí mật. - Các trẻ tham gia nghiên cứu can thiệp đều được sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống miễn phí trong thời gian can thiệp, được đo mật độ xương và làm xét nghiệm máu miễn phí. Sản phẩm dinh dưỡng đường uống cung cấp cho đối tượng đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và đảm bảo về chất lượng. Việc lấy máu xét nghiệm được thực hiện bởi các cán bộ y tế có kỹ thuật tốt và đảm bảo an toàn. Ngoài ra trong quá trình thực hiện nghiên cứu còn tổ chức khám tổng quát cho đối tượng. - Đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA hiện nay được sử dụng rộng rãi trên thế giới và trong nước. Phương pháp này không gây đau đớn cho bệnh nhân và là phương pháp được đánh giá có độ an toàn cao, có giá trị chẩn đoán sớm loãng xương và định hướng cho điều trị. - Tất cả phụ huynh và trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao đều được mời tham gia nghiên cứu, được cung cấp thông tin và cam kết nhận sản phẩm dinh dưỡng đường uống cùng các biện pháp can thiệp miễn phí cho trẻ trong thời gian 6 tháng. Phụ huynh đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu sau khi nghiên cứu trang thông tin trong bản thỏa thuận tham gia nghiên cứu. 60 - Sau khi kết thúc nghiên cứu, các trẻ em trong nhóm đối chứng cũng được sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống có vitamin K2 tương tự như nhóm can thiệp. Các hoạt động liên quan đến tổ chức tắm nắng/vận động và truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng trẻ em cũng được thực hiện tại địa bàn nghiên cứu của nhóm chứng tương tự như nhóm can thiệp. 61 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Bảng 3.1. Phân bố trẻ theo tuổi và giới tại địa bàn nghiên cứu Nam Nữ Chung 7 tuổi
8 tuổi
9 tuổi
10 tuổi
Chung n
95
120
130
114
459 %
11,2
14,2
15,3
13,4
54,1 n
112
105
91
81
389 %
13,2
12,4
10,7
9,6
45,9 n
207
225
221
195
848 %
24,4
26,5
26,1
23,0
100 Bảng 3.1 cho thấy trong số 848 đối tượng đủ điều kiện tham gia vào nghiên cứu, tỷ lệ số trẻ nam lớn hơn tỷ lệ số trẻ nữ là 8,5% với tỷ lệ lần lượt là 54,1% và 45,9%. Tỷ lệ số lượng theo độ tuổi là gần như tương đồng với nhau, cao nhất là 8 tuổi với tỷ lệ 26,5%, 9 tuổi xếp thứ hai với tỷ lệ 26,1%, tiếp sau là 7 tuổi với 24,4% và cuối cùng là 10 tuổi với 23%. Đối với phân bố giới tính theo tuổi, ở ba nhóm tuổi 8, 9 và 10 tuổi, tỷ lệ trẻ nam đều cao hơn tỷ lệ trẻ nữ, trong khi ở nhóm 7 tuổi, tỷ lệ nam và nữ có xu hướng ngược lại. Đối với phân bố độ tuổi theo giới tính, ở trẻ nam, độ tuổi chiếm đa số là 9 tuổi (15,3%) và độ tuổi có tỷ lệ thấp nhất là 7 tuổi với 11,2%. Trong khi đó, phân bố độ tuổi theo giới tính ở trẻ nữ cho thấy xu hướng khác biệt so với ở trẻ nam. Ở trẻ nữ, tỷ lệ trẻ trong nhóm 7 tuổi là cao nhất với 13,2% còn tỷ lệ trẻ ở độ tuổi 10 là thấp nhất với 9,6%. Với số mẫu nghiên cứu của mục tiêu 1 (848 trẻ), kết quả của cân nặng và chiều cao trung bình của trẻ nam là 28,4 ± 7,3 kg, 128,4 ± 8,8cm và trẻ nữ lần lượt là: 25,8 ± 6,1kg và 129,6 ± 8,2cm. Cân nặng và chiều cao của chung 2 giới là 27,2 ± 6,9 kg và 129,0 ± 8,5cm. n=848 3,4% 25,6% Bình thường
(Không SDD thấp còi) Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi 71% 62 Biểu đồ 3.1. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi lại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.1 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa bàn nghiên cứu. Trong số 848 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 71%, tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 29%, trong đó tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 25,6% và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi là 3,4%. 2,3% 5,8% 1,5% 3,9% 100% 24,4% 26,2% 25,6% 26,2% 80% 60% ệ
l
ỷ
T 40% 73,3% 72,3% 70,5% 68,0% 20% 0% 7 Tuổi
(n=207) 8 Tuổi
(n=225) 9 Tuổi
(n=221) 10 Tuổi
(n=195) p<0,05 (2) Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Bình thường
(Không SDD thấp còi) 63 Biểu đồ 3.2. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo tuổi tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.2 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi đều chiếm tỷ lệ khoảng 70%, lần lượt là 70,5% ở nhóm 7 tuổi, 68% ở nhóm 8 tuổi, 73,3% ở nhóm 9 tuổi và 72,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi ở cả bốn nhóm tuổi đều nằm trong khoảng 25%, cao nhất là hai nhóm 8 và 10 tuổi với tỷ lệ đều là 26,2%, xếp sau 64 đó là nhóm 7 tuổi với 25,6% và thấp nhất là nhóm 9 tuổi với 24,4%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, cao nhất là ở nhóm 8 tuổi với 5,8%, theo sau là nhóm 7 và 9 tuổi với tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi lần lượt là 3,9% và 2,3%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp nhất là ở nhóm 3,9% 2,8% 100% 25,0% 26,2% 80% 60% ệ
l
ỷ
T 40% 72,2% 69,9% 20% 0% Nam
(n=459) Nữ
(n=389) p>0,05 (2) Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Bình thường
(Không SDD thấp còi) trẻ 10 tuổi với 1,5%. Biểu đồ 3.3. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo giới tại địa bàn nghiên cứu 65 Biểu đồ 3.3 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh dưỡng thấp còi đều chiếm gần 70% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng 30%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ bình thường không suy dinh dưỡng thấp còi là 72,2% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ nam là 69,9%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ nữ đều thấp hơn các tỷ lệ này ở trẻ nam, lần lượt là 3,1% 5,6% 2,2% 100% 26,9% 26,5% 22,3% 80% 60% ệ
l
ỷ
T 40% 72,1% 70,9% 70,4% 20% 0% Tây Giang
(n=358) Tây Lương
(n=275) Tây Tiến
(n=215) p>0,05 (2) Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Bình thường
(Không SDD thấp còi) 2,8% và 24,9% ở trẻ nữ và 3,9% và 26,1% ở trẻ nam. Biểu đồ 3.4. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi theo xã tại địa bàn nghiên cứu 66 Biểu đồ 3.4 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi tại địa bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh dưỡng thấp còi đều chiếm gần hơn 70% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng gần 30%. Sự khác biệt về phân bố tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi ở ba xã không có ý nghĩa thống kê n=724 4,4% 8,7% Thừa cân béo phì Bình thường SDD nhẹ cân 86,9% (p>0,05). Biểu đồ 3.5. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân lại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.5 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại địa bàn nghiên cứu. Trong số 724 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ bình thường chiếm 86,9% và tỷ lệ trẻ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 8,7%. Tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì chiếm 4,4%. 100% 5,4% 7,3% 8,9% 11,1% 80% 60% 87,7% 85,3% ệ
l
ỷ
T 93,3% 85,5% 40% 20% 5,8% 5% 1,3% 3,4% 0% 7 Tuổi
(n=207) 8 Tuổi
(n=224) 9 Tuổi
(n=219) 10 Tuổi
(n=74) p<0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD nhẹ cân 67 Biểu đồ 3.6. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo tuổi tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.6 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ khoảng hơn 80%, lần lượt là 85,5% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,7% ở nhóm 9 tuổi và 93,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân cao nhất là ở nhóm 7 tuổi với 11,1%, theo sau là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân lần lượt là 8,9% và 7,3%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng 68 nhẹ cân thấp nhất là ở nhóm trẻ 10 tuổi với 5,4%. Tỷ lệ thừa cân béo phì ở cả bốn nhóm tuổi đều dưới 6%, cao nhất là ở nhóm 8 tuổi với 5,8%, theo sau là nhóm 9 và 7 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì lần lượt là 5% và 3,4% và thấp nhất 100% 8,3% 9,0% 90% 80% 70% 60% 50% 83,7% ệ
l
ỷ
T 90,5% 40% 30% 20% 10% 7,2% 1,2% 0% Nam
(n=387) Nữ
(n=337) p<0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD nhẹ cân là nhóm 10 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì là 1,3%. Biểu đồ 3.7. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo giới tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.7 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh dưỡng 69 nhẹ cân đều chiếm khoảng trên 80% trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân chiếm khoảng hơn 8% và tỷ lệ thừa cân béo phì đều dưới 10%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ bình thường là 90,5% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ nam là 83,7%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân và thừa cân béo phì ở trẻ nữ đều thấp hơn các tỷ lệ này ở 100% 6,9% 8,6% 9,9% 90% 80% 70% 60% 50% 87,2% ệ
l
ỷ
T 86,7% 86,8% 40% 30% 20% 10% 5,9% 4,7% 3,3% 0% Tây Giang
(n=303) Tây Lương
(n=233) Tây Tiến
(n=188) p>0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD nhẹ cân trẻ nam, lần lượt là 8,3% và 1,2% ở trẻ nữ và 9% và 7,2% ở trẻ nam. Biểu đồ 3.8. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân theo xã tại địa bàn nghiên cứu 70 Biểu đồ 3.8 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân tại địa bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ hơn 80%, theo sau đó là tỷ lệ trẻ SDD nhẹ cân từ 6,9-9,9% và cuối cùng là tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì (3,3-5,9%). Sự khác biệt giữa các xã về tỷ lệ trẻ theo các tình trạng n=848 6,5% 7,1% Thừa cân béo phì Bình thường SDD gầy còm 86,4% SDD nhẹ cân không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Biểu đồ 3.9. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.9 cho thấy sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu. Trong số 848 trẻ tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ bình thường chiếm 86,4%, trong khi đó, tỷ lệ trẻ trẻ suy dinh dưỡng gầy còm là 7,1%. Tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì chiếm 6,5%. 100% 5,9% 7,1% 7,2% 8,2% 80% 60% 87,3% 85,3% 84,1% ệ
l
ỷ
T 88,9% 40% 20% 7,7% 7,6% 6,8% 3,9% 0% 7 Tuổi
(n=207) 8 Tuổi
(n=225) 9 Tuổi
(n=221) 10 Tuổi
(n=195) p>0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD gầy còm 71 Biểu đồ 3.10. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo tuổi tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.10 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo từng độ tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Ở cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ khoảng hơn 80%, lần lượt là 88,9% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,3% ở nhóm 9 tuổi và ở nhóm 10 tuổi là 84,1%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm cao nhất là ở nhóm 10 tuổi với 8,2%, theo sau là nhóm 7 và 8 tuổi với tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm lần lượt là 7,2% và 7,1%. Tỷ lệ suy dinh 72 dưỡng gầy còm thấp nhất là ở nhóm trẻ 8 tuổi với 5,9%. Tỷ lệ thừa cân béo phì ở cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, cao nhất là ở nhóm 10 tuổi với 7,7%, theo sau là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì lần lượt là 7,6% và 6,8% và 100% 6,8% 7,5% 90% 80% 70% 60% 82,1% 50% ệ
l
ỷ
T 91,5% 40% 30% 20% 10% 11,1% 1,0% 0% Nam
(n=459) Nữ
(n=389) p<0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD gầy còm thấp nhất là nhóm 7 tuổi với tỷ lệ thừa cân béo phì là 3,9%. Biểu đồ 3.11. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo giới tại địa bàn nghiên cứu Biểu đồ 3.11 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Ở cả hai giới, tỷ lệ trẻ bình thường không suy dinh 73 dưỡng gầy còm đều chiếm khoảng trên 80%. Cụ thể tỷ lệ trẻ nữ bình thường là 91,5% cao hơn tỷ lệ này ở trẻ nam là 82,1%. Tương tự, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng gầy còm ở trẻ nữ cao hơn các tỷ lệ này ở trẻ nam, lần lượt là 7,5% và 6,8%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì ở trẻ nữ là 1%, thấp hơn tỷ lệ này ở trẻ 100% 3,7% 7,6% 8,7% 90% 80% 70% 60% 88,4% 50% 85,8% ệ
l
ỷ
T 85,7% 40% 30% 20% 10% 7,9% 6,6% 5,6% 0% Tây Giang
(n=358) Tây Lương
(n=275) Tây Tiến
(n=215) p>0,05 (2) Thừa cân béo phì Bình thường SDD gầy còm nam là 11,1%. Biểu đồ 3.12. Phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm theo xã tại địa bàn nghiên cứu 74 Biểu đồ 3.12 mô tả sự phân bố tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu theo xã. Ở cả ba xã, trẻ bình thường đều chiếm tỷ lệ cao nhất, trên 80%, tỷ lệ trẻ SDD gầy còm từ 3,7-8,7% và cuối cùng là tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì (5,6-6,6%). Sự khác biệt giữa các xã về tỷ lệ trẻ theo các tình trạng SDD gầy còm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 75 3.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Trong tổng số 246 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, có 216 trẻ đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Bảng 3.2. Phân bố theo tuổi và giới của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu tham gia vào nghiên cứu, tỷ lệ số trẻ nam cao hơn tỷ lệ số trẻ nữ là 11,2% với tỷ lệ lần lượt là 55,6% và 44,4%. Tỷ lệ số lượng trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đồng ý tham gia vào nghiên cứu theo độ tuổi cao nhất là 8 tuổi với tỷ lệ 29,2%, 9 tuổi xếp thứ hai với tỷ lệ 25,5%, tiếp sau là 7 tuổi với 24,5% và cuối cùng là 10 tuổi với 20,8%. Đối với phân bố giới tính theo tuổi, ở ba nhóm tuổi 8, 9 và 10 tuổi, tỷ lệ trẻ nam đều cao hơn tỷ lệ trẻ nữ, trong khi ở nhóm 7 tuổi, tỷ lệ nam và nữ có xu hướng ngược lại. Đối với phân bố độ tuổi theo giới tính, ở trẻ nữ, độ tuổi chiếm đa số là 7 tuổi (13,4%) và độ tuổi có tỷ lệ thấp nhất là 10 tuổi với 6,9%. Trong khi đó, phân bố độ tuổi theo giới tính ở trẻ nam cho thấy xu hướng khác biệt so với ở trẻ nữ, tỷ lệ trẻ trong nhóm 8 tuổi là cao nhất với 17,1% còn tỷ lệ trẻ ở độ tuổi 7 là thấp nhất với 11,1%. 76 Bảng 3.3. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa 9 tuổi 7 tuổi 8 tuổi Tổng 10 tuổi p (n=55)
0,64 BMD (n=53)
0,56 (n=63)
0,60 (n=216)
0,61 (n=45)
0,66 <0,05* (g/cm2)1 (0,51; 0,6) (0,55; 0,63) (0,59; 0,68) (0,61; 0,69) (0,56; 0,66) 16,09 19,19 22,88 21,48 20 BMC (g)1 (14,33; (17,26; (21,32; <0,05* (19,7; 23,36) (17,2; 22,18) 18,02) 20,83) 24,56) Canxi 1,09±0,05 1,06±0,05 1,1±0,07 1,07±0,05 1,08±0,06 >0,05** (mmol/l)2 Vitamin D 29,5±5,62 30,66±7,22 30,21±7,05 32,86±6,86 30,72±6,8 <0,05** (ng/mL)2 103,6 103,9 109,25 102,6 Osteocalcin 97,08 (82,59; (85,99; (92,43; (86,63; >0,05* (ng/mL)1 (82,5; 110) 120,5) 121,1) 123,9) 118,71) 1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Kruskal-Wallis test
2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:ANOVA test bàn nghiên cứu theo tuổi Bảng 3.3 trình bày đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và nồng độ osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo tuổi. BMD, BMC và nồng độ vitamin D ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao cho thấy xu hướng tăng theo tuổi (p<0,05), với giá trị trung bình của từng chỉ số lần lượt là 0,61 (0,56; 0,66)g/cm2, 20 (17,2; 22,18)g và 30,72±6,8ng/mL. Nồng độ Canxi ion và osteocalin trung bình lần lượt là 1,08±0,06mmol/l và 102,6 (86,63; 118,71)ng/mL và không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa các nhóm tuổi (p>0,05). 77 Bảng 3.4. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa Nam Nữ Tổng p >0,05* BMD (g/cm2)1
BMC (g)1 >0,05* (n=120)
0,61 (0,56; 0,65)
19,8
(17,65; 22,34)
1,08±0,06 (n=96)
0,62 (0,55; 0,67)
20,11
(16,21; 21,89)
1,08±0,06 (n=216)
0,61 (0,56; 0,66)
20
(17,2; 22,18)
1,08±0,06 >0,05** 29,37±6,41 31,8±6,93 30,72±6,8 <0,05** >0,05* 103,3
(87,36; 119,8) 102,6
(86,63; 118,71) Canxi (mmol/l)2
Vitamin D
(ng/mL)2
99,18
Osteocalcin
(ng/mL)1
(85,8; 116,81)
1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Mann-Whitney test
2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:T-test độc lập bàn nghiên cứu theo giới tính Bảng 3.4 mô tả đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo giới tính. Các chỉ số BMD, BMC, nồng độ Canxi ion và nồng độ osteocalcin không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới (p>0,05). Nồng độ vitamin D ở nam giới cao hơn so với nữ giới có ý nghĩa thống kê (p<0,05) với các giá trị lần lượt là 31,8±6,93 và 29,37±6,41ng/mL. Bảng 3.5. Đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Tổng p BMD (g/cm2)1 <0,05* BMC (g)1 <0,05* Canxi (mmol/l)2 (n=188)
0,61 (0,56; 0,67)
20,61
(17,72; 22,41)
1,08±0,06 (n=28)
0,56 (0,5; 0,61)
17,06
(16,66; 18,76)
1,08±0,05 (n=216)
0,61 (0,56; 0,66)
20
(17,2; 22,18)
1,08±0,06 >0,05** Vitamin D 30,76±6,91 30,43±6,05 30,72±6,8 >0,05** (ng/mL)2 Osteocalcin 103,5 (87,48; 120,05) >0,05* 96,16 (82,82;
109,83) 102,6 (86,63;
118,71) (ng/mL)1 1: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Vị (p25; p75) | *:Mann-Whitney test
2: Số liệu được trình bày dưới dạng: Trung Bình ± Độ lệch chuẩn | **:T-test độc lập bàn nghiên cứu theo tình trạng suy dinh dưỡng thấp còi 78 Bảng 3.5 mô tả đặc điểm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ canxi ion, nồng độ vitamin D và osteocalcin của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp theo tình trạng SDD thấp còi. Các chỉ số nồng độ Canxi ion, nồng độ vitamin D và nồng độ osteocalcin không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa trẻ có nguy cơ SDD thấp còi và trẻ SDD thấp còi (p>0,05). Chỉ số BMD và BMC ở trẻ SDD thấp còi thấp hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với trẻ có nguy cơ SDD thấp còi, các giá trị lần lượt là 0,56 (0,5; 0,61) và 0,61 (0,56; 0,67)g/cm2 với BMD và 17,06 (16,66; 18,76) và 20 (17,2; 22,18)g với BMC. Bảng 3.6. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao 7 tuổi 8 tuổi 9 tuổi p n % n % n % 10 tuổi
%
n Chung
n % 1 1,9 0 0 2 3,6 1 2,2 4 1,9 >0,05* Canxi ion bình
thường
Canxi ion thấp
Tổng 52
53 98,1
100 63
63 100
100 53
55 96,4
100 44
45 97,8
100 212
216 98,1
100 *:Fisher's exact test tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi Bảng 3.6 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo độ tuổi. Tỷ lệ trẻ có canxi ion thấp trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 98,1%. Trong đó, ở nhóm 8 tuổi, tất cả trẻ đều có nồng độ canxi ion thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bảng 3.7. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại Nam Nữ Chung p >0,05* n
2
118
120 %
1,7
98,3
100 n
2
94
96 %
2,1
97,9
100 n
4
212
216 %
1,9
98,1
100 Canxi ion bình thường
Canxi ion thấp
Tổng *:Fisher's exact test địa bàn nghiên cứu theo giới Bảng 3.7 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion 79 thấp ở cả trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 98,3% và 97,9%. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa hai giới không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bảng 3.8. Phân bố tình trạng canxi ion ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa p Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Chung >0,05* n
4
184
188 %
2,1
97,9
100 n
0
28,0
28 %
0
100
100 n
4
212
216 %
1,9
98,1
100 Canxi ion bình thường
Canxi ion thấp
Tổng *:Fisher's exact test bàn nghiên cứu theo phân loại SDD thấp còi Bảng 3.8 trình bày phân bố tình trạng canxi ion của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại suy dinh dưỡng thấp còi. Tỷ lệ trẻ có canxi ion thấp trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới 97,9%. Trong khi đó, 100% trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ canxi ion thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa trẻ có nguy cơ SDD thấp còi và trẻ SDD thấp còi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Bảng 3.9. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng p * 7 tuổi
(n=53)
n
21
32
53 %
39,6
60,4
100 8 tuổi
(n=63)
n
34
29
63 %
54,0
46,0
100 9 tuổi
(n=55)
n
31
24
55 %
56,4
43,6
100 10 tuổi
(n=45)
n
30
15
45 %
66,7
33,3
100 Chung
(n=216)
%
n
53,7 >0,05
116
46,3
100
100
216 Vitamin D bình thường
Vitamin D thấp
Tổng
*:2test trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo tuổi Bảng 3.9 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo độ tuổi. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 46,3%. Đối với phân bố tình trạng nồng độ vitamin D theo độ tuổi, tỷ lệ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ 7 tuổi là cao nhất với 60,4% trẻ 7 tuổi và thấp nhất là tỷ lệ trẻ 10 tuổi với 33,3% trẻ 10 tuổi có nồng độ vitamin D thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng vitamin D giữa các nhóm tuổi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 80 Bảng 3.10. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng Nam Nữ Chung p <0,05* n
72
48
120 %
60,0
40,0
100 n
44
52
96 %
45,8
54,2
100 n
116
100
216 %
53,7
46,3
100 Vitamin D bình thường
Vitamin D thấp
Tổng
*:2test trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới Bảng 3.10 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo giới. Tỷ lệ trẻ có nồng độ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ nam thấp hơn trẻ nữ, lần lượt là 40% và 54,2%. Sự khác biệt về phân bố tình trạng nồng độ vitamin D giữa hai giới có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Bảng 3.11. Phân bố tình trạng nồng độ Vitamin D huyết thanh ở trẻ chậm tăng Nguy cơ SDD thấp còi SDD thấp còi Chung p (n=188) (n=28) (n=216) >0,05* n
102
86
188 %
54,3
45,7
100 n
14
14
28 %
50
50
100 n
116
100
216 %
53,7
46,3
100 Vitamin D bình thường
Vitamin D thấp
Tổng
*:2test trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại SDD Bảng 3.11 trình bày phân bố tình trạng nồng độ vitamin D của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu theo phân loại suy dinh dưỡng thấp còi. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới 45,7%. Trong khi đó, một nửa số trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ nồng độ vitamin D thấp. Sự khác biệt về phân bố tình trạng canxi ion giữa trẻ có nguy cơ SDD thấp còi và trẻ SDD thấp còi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). 81 3.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Trong số 216 trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao đã tham gia đánh giá một số chỉ số sức khỏe xương, có 206 trẻ em được lựa chọn vào nghiên cứu can thiệp. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tuổi và giới giữa hai nhóm. Sau can thiệp, toàn bộ 206 trẻ đều đảm bảo điều kiện để được đưa vào phân tích. Bảng 3.12. Thay đổi cân nặng của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Cân nặng
(kg) T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
22,79
23,651
24,461, 2
0,90
0,81
1,70 SD
4,30
4,39
4,58
0,70
0,90
1,13 X̅
22,92
23,931
24,961, 2
1,01
1,03
2,04 SD
4,73
4,69
4,68
0,53
0,51
0,78 >0,05*
>0,05*
>0,05*
>0,05*
<0,05*
<0,05** Thay đổi
cân nặng
(kg)
*: Mann-Whitney test
**: T-test độc lập
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.12, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về cân nặng giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về cân nặng giữa hai nhóm. Cân nặng trung bình của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng cân nặng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,01±0,53kg và 0,9±0,7kg (p>0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng cân nặng của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,03±0,51kg và 0,81±0,9kg, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng cân nặng 82 là 2,04±0,78kg, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng cân nặng là 1,7±1,13kg. Bảng 3.13. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng của đối tượng nghiên cứu 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả
nhóm chứng
3,8%
3,4%
7,3% Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp
4,4%
4,3%
8,9% Hiệu quả can
thiệp
0,6%
0,9%
1,6% Bảng 3.13 trình bày hiệu quả của can thiệp lên cân nặng của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 0,6%, 0,9% và 1,6%. Bảng 3.14. Thay đổi chiều cao của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) X̅
122,14
122,871
123,811, 2
0,73
0,94
1,68 T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 SD
5,89
6,03
6,18
0,64
0,62
0,88 X̅
121,76
123,101
124,401, 2
1,34
1,29
2,63 SD
6,20
6,30
6,31
0,71
0,45
0,74 >0,05*
>0,05*
>0,05*
<0,05*
<0,05**
<0,05** Chiều
cao
(cm)
Thay đổi
chiều cao
(cm)
*: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.14, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về chiều cao giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về chiều cao giữa hai nhóm. Chiều cao trung bình của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng chiều cao của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,34±0,71cm và 0,73±0,64cm (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng chiều cao của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,29±0,45cm và 0,94±0,62cm, mức tăng 83 của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng chiều cao là 2,63±0,74cm, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng chiều cao là 1,68±0,88cm. Bảng 3.15. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao của đối tượng nghiên cứu 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả
nhóm chứng
0,6%
0,8%
1,4% Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp
1,1%
1,1%
2,2% Hiệu quả can thiệp
(%)
0,5%
0,3%
0,8% Bảng 3.15 trình bày hiệu quả của can thiệp lên chiều cao của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 0,5%, 0,3% và 0,8%. Bảng 3.16. Thay đổi HAZ trung bình của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) HAZ Thay đổi
HAZ *: Mann-Whitney test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
-1,45
-1,541
-1,591, 2
-0,09
-0,08
-0,14 SD
0,42
0,43
0,45
0,12
0,56
0,16 X̅
-1,50
-1,43
-1,48
0,01
0,02
0,02 SD
0,44
0,60
0,43
0,12
0,13
0,13 >0,05*
>0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05* Theo bảng 3.16, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về HAZ giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về HAZ giữa hai nhóm. HAZ trung bình của nhóm chứng thấp hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi HAZ của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều không có sự khác biệt khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can 84 thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng HAZ của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,01±0,12 và -0,09±0,12 (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng HAZ của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,02±0,13 và -0,08±0,56, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng HAZ là 0,02±0,13, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng HAZ là -0,14±0,16. Bảng 3.17. Phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh sưỡng thấp còi trước và sau can thiệp Thời
điểm Nhóm chứng
(n=103)
Nguy cơ SDD thấp Nhóm can thiệp
(n=103)
Nguy cơ SDD thấp T0
T3
T6 Bình
còi
thường
n %
n %
n %
0
0
90 87,4 13 12,6
3,9 82 79,6 17 16,5
4
2,9 80 77,7 20 19,4
3 Bình
còi
thường
n %
n %
n %
0
0
89 86,4 14 13,6
4,8 86 83,5 12 11,7
5
7,8 83 80,5 12 11,7
8
Bảng 3.17 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại suy dinh dưỡng thấp còi trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, mặc dù tỷ lệ trẻ bình thường tăng từ 0% tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu lên thành 3,9% sau 3 tháng đầu can thiệp, tuy nhiên lại giảm còn 2,9% khi kết thúc can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm chứng lần lượt tăng từ 12,6% trước can thiệp lên thành 16,5% sau 3 tháng can thiệp và lên 19,4% sau khi kết thúc can thiệp. Ở nhóm can thiệp, tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi tăng từ 0% lên 4,8% và 7,8% sau 3 tháng và 6 tháng can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở nhóm can thiệp cũng giảm từ 13,6% tại thời điểm bắt đầu can thiệp xuống còn 11,7% sau 3 tháng can thiệp và duy trì cho đến hết nghiên cứu. 85 Bảng 3.18. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ có suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu Chỉ số hiệu quả Chỉ số hiệu quả Hiệu quả can nhóm chứng nhóm can thiệp thiệp 3 tháng đầu 3,9% 4,8% 0,9% 3 tháng cuối 1% 3,1% 2,1% 6 tháng can thiệp 2,9% 7,8% 4,9% Bảng 3.18 trình bày hiệu quả của can thiệp lên tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 0,9%, 2,1% và 4,9%. Bảng 3.19. Thay đổi mật độ xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) X̅
0,60
0,60
0,641, 2
0,00
0,04
0,04 T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 SD
0,08
0,08
0,08
0,05
0,06
0,07 X̅
0,62
0,661
0,741, 2
0,04
0,08
0,12 SD
0,08
0,10
0,11
0,04
0,07
0,07 <0,05**
<0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05* BMD
(g/cm2)
Thay đổi
BMD
(g/cm2)
*: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.19, tại thời điểm T0, mật độ xương trung bình của nhóm chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi mật độ xương của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng mật độ xương của 86 nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,04±0,04g/cm2 và 0±0,05g/cm2 (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng mật độ xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,08±0,07g/cm2 và 0,04±0,06g/cm2, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng mật độ xương là 0,12±0,07g/cm2, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng mật độ xương là 0,04±0,07g/cm2. Bảng 3.20. Hiệu quả can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả
nhóm chứng
0,0%
6,7%
6,7% Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp
6,5%
12,1%
19,4% Hiệu quả can
thiệp
6,5%
5,5%
12,7% Bảng 3.20 trình bày hiệu quả của can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 6,5%, 5,5% và 12,7%. Bảng 3.21. Thay đổi khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) BMC (g) Thay đổi
BMC (g) *: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
19,78
20,611
23,481, 2
0,83
2,86
3,69 SD
3,63
3,60
3,66
0,93
2,47
2,90 X̅
19,99
22,581
27,991, 2
2,59
5,41
8,00 SD
4,00
4,51
6,76
2,00
3,97
5,02 >0,05**
<0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05* Theo bảng 3.21, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về khối lượng xương giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về khối 87 lượng xương giữa hai nhóm. Khối lượng xương của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng khối lượng xương của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 2,59±2g và 0,83±0,93g (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng khối lượng xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 5,41±3,97g và 2,86±2,47g, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng khối lượng xương là 8,00±5,02g, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng khối lượng xương là 3,96±2,9g. Bảng 3.22. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của đối tượng nghiên cứu 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả
nhóm chứng
4,2%
13,9%
18,7% Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp
13,0%
24,0%
40,0% Hiệu quả can
thiệp
8,8%
10,0%
21,3% Bảng 3.22 trình bày hiệu quả của can thiệp lên mật độ xương của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,8%, 10,0% và 21,3%. 88 Bảng 3.23. Thay đổi canxi ion của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Canxi ion
(mmol/l) SD
0,06
0,09
0,18
0,10
0,16
0,18 T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
1,08
1,191
1,821, 2
0,11
0,63
0,75 X̅
1,09
1,231
1,851, 2
0,14
0,63
0,77 SD
0,06
0,06
0,12
0,06
0,11
0,12 >0,05*
<0,05*
<0,05*
<0,05*
>0,05*
>0,05* Thay đổi
canxi ion
(mmol/l)
*: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.23, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ canxi ion giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về nồng độ canxi ion giữa hai nhóm. Nồng độ canxi ion của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng nồng độ canxi ion của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,14±0,06mmol/l và 0,11±0,1mmol/l (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng nồng độ canxi ion của nhóm can thiệp tương tự nhóm chứng, lần lượt là 0,63±0,11mmol/l và 0,63±0,16mmol/l. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ canxi ion là 0,77±0,12mmol/l trong khi nhóm chứng có mức tăng nồng độ canxi ion là 0,75±0,18mmol/l. 89 Bảng 3.24. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ canxi ion trước và sau can thiệp Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Bình thường Canxi ion thấp Bình thường Canxi ion thấp T0
T3
T6 n
2
46
103 %
1,9
44,7
100 n
101
57
0 %
98,1
55,3
0 n
1
86
103 %
1,0
83,5
100 n
102
17
0 %
99,0
16,5
0 Bảng 3.24 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại canxi ion trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ canxi ion thấp giảm từ 98,1% xuống còn 55,3% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm xuống còn 0% sau 3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tý lệ trẻ canxi ion thấp sau 3 tháng đầu can thiệp cũng được quan sát thấy ở nhóm can thiệp. Tuy nhiên, sau 3 tháng đầu can thiệp, tỷ lệ canxi ion thấp ở nhóm can thiệp giảm từ 99% xuống chỉ còn 16,5% và tiếp tục giảm còn 0% sau 3 tháng tiếp theo tương tự nhóm chứng. Bảng 3.25. Hiệu quả can thiệp lên canxi ion của đối tượng nghiên cứu Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp Canxi ion Chỉ số hiệu
quả nhóm
chứng
10,2%
52,9%
68,5% 12,8%
50,4%
69,7% Hiệu quả
can thiệp
(%)
2,7%
-2,5%
1,2% Tỷ lệ canxi
ion huyết
thanh thấp 43,6%
100,0%
100,0% 83,3%
100,0%
100,0% 39,7%
0,0%
0,0% 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can
thiệp
3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can
thiệp Bảng 3.25 trình bày hiệu quả của can thiệp lên canxi ion và tỷ lệ canxi ion huyết thanh thấp của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp lên canxi ion của giai đoạn 3 tháng đầu và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 2,7% và 90 1,2%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ canxi ion huyết thanh thấp là 39,7% trong 3 tháng đầu can thiệp. Bảng 3.26. Thay đổi vitamin D của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp p Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Vitamin D
(ng/mL) T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
31,07
31,14
37,851, 2
0,07
6,71
6,79 SD
6,26
5,86
6,75
3,82
4,27
4,93 X̅
30,44
31,541
40,221, 2
1,10
8,68
9,78 SD
7,59
6,61
7,21
3,64
4,47
5,68 >0,05*
>0,05**
<0,05*
<0,05**
<0,05*
<0,05** Thay đổi
vitamin D
(ng/mL)
*: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.26, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ vitamin D giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về nồng độ vitamin D giữa hai nhóm. Nồng độ vitamin D trung bình của nhóm chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,1±3,64ng/mL và 0,07±3,82ng/mL (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, lần lượt là 8,68±4,47ng/mL và 6,71±4,27ng/mL. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ vitamin D là 9,78±5,68ng/mL có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng có mức tăng nồng độ vitamin D là 6,79±4,93ng/mL. 91 Bảng 3.27. Phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ vitamin D trước và sau can thiệp Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Bình thường Bình thường Vitamin D
thấp Vitamin D
thấp T0
T3
T6 n
61
60
89 %
59,2
58,3
86,4 n
42
43
14 %
40,8
41,8
13,6 n
49
55
95 %
47,6
53,4
92,2 n
54
48
8 %
52,4
46,6
7,8 Bảng 3.27 mô tả sự thay đổi phân bố đối tượng theo phân loại nồng độ vitamin D trước và sau can thiệp. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ nồng độ vitamin D thấp tăng từ 40,8% lên 41,8% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm xuống còn 13,6% sau 3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tý lệ trẻ nồng độ vitamin D thấp được quan sát thấy ở nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can thiệp, tỷ lệ nồng độ vitamin D thấp ở nhóm can thiệp giảm từ 52,4% xuống còn 46,6% và tiếp tục giảm chỉ còn 7,8% sau 3 tháng tiếp theo tương tự nhóm chứng. Bảng 3.28. Hiệu quả can thiệp lên vitamin D của đối tượng nghiên cứu Hiệu quả
can thiệp Chỉ số hiệu
quả
nhóm chứng 0,2%
21,5%
21,8% Chỉ số hiệu
quả
nhóm can
thiệp
3,6%
27,5%
32,1% 3,4%
6,0%
10,3% 2,5%
67,5% 11,1%
83,3% 8,6%
15,8% 66,7% 85,1% 18,4% Tỷ lệ
vitamin D
huyết
thanh thấp Vitamin D 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can
thiệp
3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can
thiệp Bảng 3.28 trình bày hiệu quả của can thiệp lên nồng độ vitamin D và tỷ lệ nồng độ vitamin D huyết thanh thấp của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp lên nồng độ vitamin D của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn 92 bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 3,4%, 6% và 10,3%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ nồng độ vitamin D huyết thanh thấp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,6%, 15,8% và 18,4%. Bảng 3.29. Thay đổi osteocalcin của đối tượng nghiên cứu sau can thiệp P Nhóm chứng
(n=103) Nhóm can thiệp
(n=103) Osteocalcin
(ng/mL) T0
T3
T6
T3-T0
T6-T3
T6-T0 X̅
105,76
105,56
110,441, 2
-0,20
4,87
4,67 SD
26,01
26,41
23,73
11,53
8,44
12,04 X̅
101,01
102,19
108,361, 2
1,18
6,17
7,35 SD
25,54
29,06
19,22
18,50
15,56
16,14 >0,05**
>0,05**
>0,05*
>0,05**
<0,05*
>0,05** Thay
đổi
osteocalcin
(ng/mL)
*: Mann-Whitney test
**: T-test
1: So sánh với thời điểm T0. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05
2: So sánh với thời điểm T3. Wilcoxon signed-rank test. p<0,05 Theo bảng 3.29, tại thời điểm T0, không có sự khác biệt về nồng độ osteocalcin giữa nhóm chứng và nhóm can thiệp, cho thấy sự tương đồng về nồng độ osteocalcin giữa hai nhóm. Nồng độ osteocalcin trung bình ở mỗi nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng nồng độ osteocalcin của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,18±18,5ng/mL và -0,2±11,53ng/mL. Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng nồng độ osteocalcin của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so nhóm chứng, lần lượt là 6,17±15,56ng/mL và 4,87±8,44ng/mL. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng nồng độ osteocalcin là 7,35±16,14ng/mL cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng có mức tăng nồng độ osteocalcin là 4,67±12,04ng/mL. 93 Bảng 3.30. Hiệu quả can thiệp lên osteocalcin của đối tượng nghiên cứu 3 tháng đầu
3 tháng cuối
6 tháng can thiệp Chỉ số hiệu quả
nhóm chứng
-0,2%
4,6%
4,4% Chỉ số hiệu quả
nhóm can thiệp
1,2%
6,0%
7,3% Hiệu quả can
thiệp
1,4%
1,4%
2,9% Bảng 3.30 trình bày hiệu quả của can thiệp lên osteocalcin của đối tượng nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 1,4%, 1,4% và 2,9%. 94 CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN 4.1. Tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi ở 3 trường tiểu học huyện Tiền Hải, Thái Bình Nghiên cứu của chúng tôi là một trong số ít các nghiên cứu đã đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại tỉnh Thái Bình cho tới nay. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã đánh giá tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ các thể suy dinh dưỡng này đều dưới 10%, cụ thể là 3,4% cho suy dinh dưỡng thấp còi, 8,7% cho suy dinh dưỡng nhẹ cân và 7,1% cho suy dinh dưỡng gầy còm. Đối với suy dinh dưỡng thấp còi, trong mẫu gồm 848 trẻ, tỷ lệ trẻ không bị suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 71%, trong khi tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là 25,6% và tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi là 3,4%. Nếu xem xét các nhóm tuổi riêng lẻ, chúng tôi nhận thấy tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi chiếm khoảng 70% trong mỗi nhóm tuổi, với tỷ lệ cụ thể là 70,5% ở nhóm 7 tuổi, 68% ở nhóm 8 tuổi, 73,3% ở nhóm 9 tuổi và 72,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi trong cả bốn nhóm tuổi đều dao động trong khoảng 25%, với tỷ lệ cao nhất là 26,2% ở nhóm tuổi 8 và 10, tiếp theo là 25,6% ở nhóm tuổi 7 và thấp nhất là 24,4% ở nhóm tuổi 9. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi trong cả bốn nhóm tuổi đều dưới 10%, với tỷ lệ cao nhất là 5,8% ở nhóm tuổi 8, tiếp theo là 3,9% ở nhóm tuổi 7 và 2,3% ở nhóm tuổi 9. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi thấp nhất được ghi nhận ở nhóm trẻ 10 tuổi, chỉ 1,5%. Khi xem xét theo giới tính, chúng tôi thấy tỷ lệ trẻ không bị suy dinh dưỡng thấp còi đạt gần 70% trong cả hai giới. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi đều chiếm khoảng 30%. Cụ thể, tỷ lệ trẻ nữ không bị suy dinh dưỡng thấp còi là 72,2%, cao hơn so với tỷ lệ này ở trẻ nam là 69,9%. Ngược lại, tỷ lệ trẻ nữ bị suy dinh dưỡng thấp còi và 95 có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi đều thấp hơn so với trẻ nam, lần lượt là 2,8% và 24,9% đối với trẻ nữ, và 3,9% và 26,1% đối với trẻ nam. Đối với tình trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân, chúng tôi đã quan sát trên 724 trẻ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 86,9%, trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 8,7% và tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì là 4,4%. Đối với cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường đều vượt qua mức 80%. Cụ thể, tỷ lệ là 85,5% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,7% ở nhóm 9 tuổi và 93,3% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân cao nhất được ghi nhận ở nhóm 7 tuổi với 11,1%, tiếp theo là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 8,9% và 7,3%. Nhóm trẻ 10 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân thấp nhất là 5,4%. Tất cả bốn nhóm tuổi đều có tỷ lệ thừa cân béo phì dưới 6%. Nhóm 8 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì cao nhất là 5,8%, tiếp theo là nhóm 9 và 7 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 5% và 3,4%. Nhóm 10 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất là 1,4%. Xem xét theo giới tính, tỷ lệ trẻ nam có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 83,7%, thấp hơn so với tỷ lệ này ở trẻ nữ, là 90,5%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ nữ suy dinh dưỡng nhẹ cân và thừa cân béo phì đều thấp hơn so với trẻ nam. Cụ thể, tỷ lệ suy dinh dưỡng nhẹ cân là 8,3% và tỷ lệ thừa cân béo phì là 1,2% ở trẻ nữ, trong khi tỷ lệ tương ứng ở trẻ nam là 9% và 7,2%. Đối với tình trạng suy dinh dưỡng gầy còm, chúng tôi đã quan sát 848 trẻ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 86,4%. Trong khi đó, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng gầy còm là 7,1% và tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì là 6,5%. Đối với cả bốn nhóm tuổi, tỷ lệ trẻ có tình trạng dinh dưỡng bình thường đều vượt qua mức 80%. Cụ thể, tỷ lệ là 88,9% ở nhóm 7 tuổi, 85,3% ở nhóm 8 tuổi, 87,3% ở nhóm 9 tuổi và 84,1% ở nhóm 10 tuổi. Tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm cao nhất được ghi nhận ở nhóm 10 tuổi với 8,2%, tiếp theo là nhóm 7 và 8 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 7,2% và 7,1%. Nhóm 96 trẻ 8 tuổi có tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm thấp nhất là 5,9%. Tất cả bốn nhóm tuổi đều có tỷ lệ thừa cân béo phì dưới 10%. Nhóm 10 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì cao nhất là 7,7%, tiếp theo là nhóm 8 và 9 tuổi với tỷ lệ lần lượt là 7,6% và 6,8%. Nhóm 7 tuổi có tỷ lệ thừa cân béo phì thấp nhất là 3,9%. Xem xét theo giới tính, tỷ lệ trẻ nữ có tình trạng dinh dưỡng bình thường là 91,5%, cao hơn so với tỷ lệ này ở trẻ nam, là 82,1%. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ nữ suy dinh dưỡng gầy còm cũng cao hơn so với trẻ nam, lần lượt là 7,5% và 6,8%. Trái lại, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì ở trẻ nữ chỉ chiếm 1%, trong khi tỷ lệ này ở trẻ nam là 11,1%. Theo kết quả cuộc tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000 của Viện dinh dưỡng thì tỉ lệ trẻ em 6 – 10 tuổi bị SDD là 26,6%, nông thôn nhiều hơn thành thị (28,2% so với 19,6%) [88]. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2009 – 2010 của Viện dinh dưỡng thì tỉ lệ trẻ em 5 – 10 tuổi bị SDD thấp còi là 23,4% (Nam 27,5% và Nữ 19,5%) [89]. Theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng, ở nhóm trẻ 5-19 tuổi, tỷ lệ SDD thể thấp còi trên toàn quốc là 14,8%, tỷ lệ SDD nhẹ cân là 12,2%, và tỷ lệ thừa cân béo phì là 19%. Cũng theo tổng điều tra dinh dưỡng năm 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng, tỉnh Thái Bình có tỷ lệ SDD thấp còi nằm trong khoảng từ 10-20% trẻ dưới 5 tuổi [90]. Một nghiên cứu cắt ngang được thực hiện tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ năm 2018-2019 bởi tác giả Trần Tú Nguyệt và cộng sự trên 894 đối tượng là học sinh tại các trường tiểu học cho kết quả tỷ lệ học sinh có tình trạng suy dinh dưỡng chiếm tỉ lệ 6,1% ở nam và 9,3% ở nữ; thừa cân, béo phì chiếm tỉ lệ khá cao với 38% ở nam và 32,5% ở nữ [91]. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nguyên nhân có thể đến từ địa bàn nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu khác nhau, cũng như điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng khác nhau. Khi so sánh với báo cáo tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020 của Viện dinh dưỡng, kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy kết quả không tương tự như với số liệu toàn quốc và số liệu của tỉnh Cần Thơ [90]. 97 Tác giả Nguyễn Thị Mai Anh đã báo cáo tỉ lệ thấp còi ở học sinh 6 – 8 tuổi tại trường tiểu học Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội năm 2006 là 14,1% [92]. Theo Hồ Thu Mai và cộng sự năm 2007, tỉ lệ thấp còi của học sinh từ 6- 8 tuổi tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội là 28% [93]. Tác giả Lê Thị Hợp và Lê Nguyễn Bảo Khanh năm 2012 đã báo cáo tỉ lệ thấp còi của học sinh phổ thông khu vực thành thị, nông thôn và miền núi tại ba tỉnh thành phía Bắc là 6,1%, 20,7% và 23,9% [94]. Nguyễn Song Tú và cộng sự cũng đã báo cáo năm 2017 rằng tỉ lệ thấp còi học sinh tiểu học 7- 10 tuổi tại 5 xã của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên là 17,2%, tỉ lệ nhẹ cân là 24,5% và gầy còm là 7,9% [47]. Có thể thấy rằng kết quả về tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nghiên cứu này thấp hơn các số liệu từ các nghiên cứu toàn quốc và 1 số nghiên cứu khác (tỷ lệ trẻ từ 7 đến 10 tuổi suy dinh dưỡng thấp còi, suy dinh dưỡng nhẹ cân và suy dinh dưỡng gầy còm tại địa bàn nghiên cứu đều dưới 10% lần lượt là 3,4%, 8,7% và 7,1%). Nguyên nhân có thể đến từ việc nghiên cứu này được nghiên cứu tại địa bàn có khu vực địa lý không quá xa khu vực thành phố, khả năng tiếp cận với dịch vụ y tế và chăm sóc trẻ em tốt, hơn nữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ 7-10 tuổi trên địa bàn nghiên cứu cũng đang trên xu hướng được cải thiện do được hưởng lợi từ các hoạt động chăm sóc cho trẻ dưới 5 tuổi đã được triển khai trong nhiều năm, kiến thức và hành vi dinh dưỡng của các bà mẹ của vùng nghiên cứu cũng có nhiều thay đổi tích cực do đó có sự chênh lệch giữa tỷ lệ suy dinh dưỡng các thể trong nghiên cứu của chúng tôi so với các báo cáo tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020 của Viện dinh dưỡng. Bên cạnh đó, nghiên cứu của chúng tôi chỉ tiến hành trên cỡ mẫu ở mức độ hạn chế, không đại diện cho toàn bộ tỉnh Thái Bình, do đó, kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ mô tả thực trạng dinh dưỡng của trẻ em 7-10 tuổi tại các trường được đưa vào nghiên cứu. Kết quả này cũng gợi ý về việc có thể đã có những tăng trưởng giúp trẻ vượt ngưỡng suy dinh dưỡng (-2SD) tại địa bàn nghiên cứu vì vậy đã có sự giảm tỷ 98 lệ suy dinh dưỡng đáng kể, tuy nhiên chúng tôi cũng lưu ý là cân nặng và chiều cao trung bình của trẻ ở nhóm tuổi này vẫn thấp hơn so với chuẩn tăng trưởng và vì vậy còn cần các giải pháp can thiệp nhằm đạt được chuẩn tăng trưởng trong thời gian tới. Tương tự, một nghiên cứu xuất bản vào năm 2022 được thực hiện bởi tác giả Lê Thị Hợp và cộng sự nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng của 487 học sinh lứa tuổi tiểu học tại ba tỉnh Điện Biên, Thái Nguyên và Hà Nam cũng cho thấy kết quả khác với nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ trẻ bị SDD thể gầy còm và thấp còi chung cho cả 2 giới lần lượt là 5,5% và 15,6%. Tỷ lệ thừa cân – béo phì chung ở cả 2 giới là 24,2%; với tỷ lệ cao hơn có ý nghĩa ở học sinh nam (30,1%) so với học sinh nữ (18,3%). Tỷ lệ thừa cân – béo phì ở học sinh tại Hà Nam chiếm tỉ lệ cao nhất (37%), tiếp đến là Thái Nguyên (30,5%). Tại Điện Biên tỷ lệ này tương đối thấp là 4,4%. Tỷ lệ thấp còi ở Điện Biên chiếm tỷ lệ cao nhất là 32,9%, tỷ lệ này ở Thái Nguyên và Hà Nam tương đương nhau là 7,3%. Khác với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, những kết quả nghiên cứu này cho thấy tình trạng gánh nặng kép do sự gia tăng tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học thừa dinh dưỡng bên cạnh các tình trạng suy/thiếu dinh dưỡng [95]. Đối với tình trạng thừa cân béo phì, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết quả nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng của học sinh lứa tuổi tiểu học tại thành phố Lạng Sơn được xuất bản năm 2018 bởi Lê Thị Kiều Oanh và cộng sự. Trong nghiên cứu của tác giả này, tỷ lệ học sinh tiểu học bị thừa cân béo phì là 11,9% , cao gấp hơn hai lần so với tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì được báo cáo trong nghiên cứu của chúng tôi [96]. Một nghiên cứu khác tại Bình Định năm 2016 cũng cho tỷ lệ thừa cân béo phì cao hơn nhiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu này, tác giả Trương Quang Đạt và tác giả Nguyễn Thị Tường Loan đã báo cáo tỷ lệ học sinh nam thừa cân và béo phì chiếm 21,39% và nữ chiếm 15,31% (p < 0,05). Cùng với 99 đó, tỷ lệ học sinh gầy còm, thấp còi, nhẹ cân và thừa cân - béo phì lần lượt là 10,99%; 4,11%; 8,51% và 18,42% [44]. Một nghiên cứu về tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh năm 2019 được thực hiện bởi tác giả Phạm Công Danh và tác giả Phạm Văn Phú, cho kết quả cũng khác biệt so với nghiên cứu của chúng tôi. Trong nghiên cứu này, tỉ lệ suy dinh dưỡng gầy còm ở học sinh tiểu học là 3,5%. Tỉ lệ thừa cân béo phì ở học sinh là 48,1% trong đó 25,9% là béo phì [97]. Các nghiên cứu nêu trên cùng với hàng loạt nghiên cứu khác cho kết quả tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh tiểu học thường ở mức hai con số và gánh nặng kép từ suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì như các nghiên cứu tại Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ năm 2022, Củ Chi – thành phố Hồ Chí Minh năm 2018, Hà Nội năm 2018 và tại thành phố Thái Nguyên năm 2018 [98],[99],[100],[101]. Trong khi đó, nghiên cứu của chúng tôi chỉ cho thấy kết quả đáng quan ngại ở nhóm trẻ suy dinh dưỡng và có nguy cơ suy dinh dưỡng. Từ đây có thể thấy rằng, tại địa bàn nghiên cứu, suy dinh dưỡng vẫn là một tình trạng và gánh nặng nổi trội đối với sức khỏe và sự phát triển của trẻ tiểu học – độ tuổi đặc biệt quan trọng ngay trước khi bước vào giai đoạn dậy thì. Do đó, cần nhiều hơn các biện pháp can thiệp để cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình trong tương lai. 4.2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào đánh giá mật độ xương, nồng độ vitamin D và markers chu chuyển xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước can thiệp. Trong số 246 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, có 216 trẻ đồng ý tham gia vào nghiên cứu. 100 Chúng tôi đã tiến hành đánh giá mật độ xương (BMD) của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao trước khi thực hiện can thiệp tại địa bàn nghiên cứu. Nhìn chung, giá trị trung vị của mật độ xương cho 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 0,61 (0,56; 0,66) g/cm². Giá trị trung vị mật độ xương tăng dần theo độ tuổi, bắt đầu từ 0,56 g/cm² ở nhóm 7 tuổi, 0,6 g/cm² ở nhóm 8 tuổi, 0,64 g/cm² ở nhóm 9 tuổi và đạt đến 0,66 g/cm² ở nhóm 10 tuổi. Giá trị trung vị của mật độ xương ở trẻ nam tương tự như ở trẻ nữ và tương đương với giá trị trung vị của mật độ xương cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 0,61 (0,56; 0,65) g/cm², 0,62 (0,55; 0,67) g/cm², và 0,61 (0,56; 0,66) g/cm². Giá trị trung vị của mật độ xương cho trẻ thuộc nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là 0,61 (0,56; 0,67) g/cm², cao hơn đáng kể và có ý nghĩa thống kê so với giá trị trung vị của mật độ xương cho trẻ thuộc nhóm suy dinh dưỡng thấp còi, là 0,56 (0,5; 0,61) g/cm². Sau đó, chúng tôi tiếp tục đánh giá khối lượng xương của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu trước khi thực hiện can thiệp. Nhìn chung, giá trị trung vị của khối lượng xương cho 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 20 (17,2; 22,18)g. Giá trị trung vị của khối lượng xương tăng dần theo độ tuổi, bắt đầu từ 16,09g ở nhóm 7 tuổi, 19,19g ở nhóm 8 tuổi, 21,48g ở nhóm 9 tuổi và đạt đến 22,88g ở nhóm 10 tuổi. Giá trị trung vị của khối lượng xương trung bình ở trẻ nam thấp hơn so với trẻ nữ và thấp hơn giá trị trung vị của khối lượng xương cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 19,8 (17,65; 22,34)g, 20,11 (16,21; 21,89)g và 20 (17,2; 22,18)g. Giá trị trung vị của khối lượng xương cho trẻ chậm tăng trưởng chiều cao có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn có ý nghĩa thống kê so với trẻ suy dinh dưỡng thấp còi, lần lượt là 20,26 ± 3,69g và 16,97 ± 3,04g. Kết quả đánh giá nồng độ canxi ion trong huyết thanh của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu cho thấy, giá trị nồng độ canxi ion trung bình cho 216 trẻ là 1,08 ± 0,06 mmol/l. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình 101 của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo độ tuổi lần lượt là 1,09 mmol/l ở nhóm 7 tuổi, 1,06 mmol/l ở nhóm 8 tuổi, 1,1 mmol/l ở nhóm 9 tuổi và 1,07 mmol/l ở nhóm 10 tuổi. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình của trẻ nam tương tự như của trẻ nữ và tương tự giá trị nồng độ canxi ion trung bình cho toàn bộ 216 trẻ, là 1,08 ± 0,06 mmol/l. Giá trị nồng độ canxi ion trung bình của trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi tương tự như của trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương tự giá trị nồng độ canxi ion trung bình cho toàn bộ 216 trẻ, lần lượt là 1,08 ± 0,06 mmol/l, 1,08 ± 0,05 mmol/l và 1,08 ± 0,06 mmol/l. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp trong toàn bộ 216 trẻ là 98,1%. Trong nhóm 8 tuổi, tất cả các trẻ đều có nồng độ canxi ion thấp. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp trong cả trẻ nam và trẻ nữ lần lượt là 98,3% và 97,9%. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi là 97,9%. Đáng chú ý là 100% trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ canxi ion thấp. Mặc dù chưa có nhiều dữ liệu về tình trạng thiếu canxi ở trẻ trong độ tuổi tiểu học ở Việt Nam, một vài nghiên cứu về tình trạng canxi ở trẻ trong các độ tuổi khác cũng cho thấy sự hiện hữu của tình trạng thiếu canxi ở trẻ em cũng khá phổ biến. Một nghiên cứu được thực hiện tại phòng khám Viện Dinh Dưỡng năm 2018 cho kết quả rằng, trong số 144 trẻ 6-36 tháng được đưa đến khám dinh dưỡng tại đây, 46,5% số trẻ bị thiếu canxi. Cụ thể, trong đó, 53,3% số trẻ SDD bị thiếu canxi, và 41,2% số trẻ đe dọa SDD bị thiếu canxi [102]. Tuy nhiên, một nghiên cứu khác được thực hiện tại Phòng khám Dinh dưỡng, Bệnh viện Nhi Trung ương lại chỉ cho kết quả tỷ lệ trẻ thiếu canxi là 3% [103]. Sự khác biệt về đối tượng, phương pháp, địa điểm và thời gian nghiên cứu, cũng như là sự không sẵn có của các dữ liệu về tình trạng thiếu canxi ở trẻ từ nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu kể trên không có sự tương đồng rõ rệt. Kết quả đánh giá nồng độ Vitamin D huyết thanh của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu cho thấy giá trị nồng độ vitamin D 102 trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao là 30,72±6,8ng/mL. Giá trị nồng độ vitamin D trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao theo độ tuổi lần lượt là 29,5ng/mL ở nhóm 7 tuổi, 30,66ng/mL ở nhóm 8 tuổi, 30,21ng/mL ở nhóm 9 tuổi và tăng lên đến 32,86ng/mL ở nhóm 10 tuổi. Giá trị nồng độ vitamin D trung bình của trẻ nam cao hơn trẻ nữ và giá trị nồng độ vitamin D trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là 31,8±6,93ng/mL, 29,37±6,41ng/mL và 30,72±6,8ng/mL. Giá trị nồng độ vitamin D trung bình của trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi tương tự như ở trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương tự với giá trị nồng độ vitamin D trung bình của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là là 30,76±6,91ng/mL, 30,43±6,05ng/mL và 30,72±6,8ng/mL. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong toàn bộ 216 trẻ lên tới 46,3%. Đối với phân bố tình trạng nồng độ vitamin D theo độ tuổi, tỷ lệ nồng độ vitamin D thấp ở trẻ 7 tuổi là cao nhất với 60,4% trẻ 7 tuổi và thấp nhất là tỷ lệ trẻ 10 tuổi với 33,3% trẻ 10 tuổi có nồng độ vitamin D thấp. Tỷ lệ trẻ có nồng độ nồng độ vitamin D thấp ở cả trẻ nam thấp hơn trẻ nữ, lần lượt là 40% và 54,2%. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi lên tới 45,7%. Trong khi đó, một nửa số trẻ suy dinh dưỡng thấp còi đều có nồng độ nồng độ vitamin D thấp. Một nghiên cứu đánh giá thực trạng thiếu vitamin D ở trẻ suy dinh dưỡng ở các trường mầm non, tiểu học tại hai huyện Lục Yên và Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2017 cho kết quả nồng độ vitamin D trung bình và tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp ở mức cao hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Cụ thể, tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp là 58,3%. Hàm lượng vitamin D trung bình là 57,85 nmol/l ở trẻ mầm non và 60,0 nmol/l ở trẻ tiểu học [104]. Tác giả Lưu Thị Mỹ Thục và cộng sự đã đánh giá sự thiếu hụt Vitamin D ở trẻ 6-11 tuổi tại bệnh viện Nhi trung ương. Kết quả nghiên cứu của tác giả này cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D chung là 23,9%, ở thành thị cao hơn nông 103 thôn rõ rệt (36,4% so với 17,0%), với p<0,05. Kết quả này thấp hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tập trung vào những trẻ có phụ huynh nhận thấy trẻ có vấn đề về dinh dưỡng và đưa đi khám [105]. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện bởi tác giả Đoàn Huy Cường và cộng sự trên trẻ 9 tuổi tại trường tiểu học thành phố Hải Dương năm 2017 cho thấy tỷ lệ thiếu vitamin D là 10,6%, trong đó trẻ gái là 12,7% và trẻ trai là 8,7%. Tỷ lệ nguy cơ thiếu vitamin D là 70,5%, ở nữ là 75,7% cao hơn ở nam là 65,8%, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,05 [106],[107]. Mặc dù các nghiên cứu trên đều cho thấy các kết quả không tương tự so với nghiên cứu của chúng tôi, tuy nhiên, từ kết các kết quả nghiên cứu đã được trình bày, có thể thấy được rằng nhìn chung, trẻ suy dinh dưỡng hoặc có nguy cơ suy dinh dưỡng thường sẽ có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp. Chúng tôi cũng tiến hành đánh giá nồng độ Osteocalcin trong huyết thanh của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu. Nhìn chung, giá trị nồng độ osteocalcin trung vị cho 216 trẻ là 102,6 (86,63; 118,71) ng/mL. Giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao tăng theo độ tuổi lần lượt là 97,08 ng/mL ở nhóm 7 tuổi, 103,6 ng/mL ở nhóm 8 tuổi, 103,9 ng/mL ở nhóm 9 tuổi và tăng lên đến 109,25 ng/mL ở nhóm 10 tuổi. Giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của trẻ nam cao hơn trẻ nữ và giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là 103,3 (87,36; 119,8) ng/mL, 99,18 (85,8; 116,81) ng/mL và 102,6 (86,63; 118,71) ng/mL. Giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi cao hơn trẻ suy dinh dưỡng thấp còi và tương tự với giá trị nồng độ osteocalcin trung vị của 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, lần lượt là 103,5 (87,48; 120,05) ng/mL, 96,16 (58,21; 170) ng/mL và 102,6 (86,63; 118,71) ng/mL. Kết quả này của chúng tôi tương đồng với kết quả của trẻ dậy thì muộn (102,20±37,13 ng/mL) trong nghiên cứu của Michael năm 2016 trên 104 244 trẻ (dậy thì sớm và dậy thì muộn, với độ tuổi trung bình 11,87±3,77) [108]. Kết quả trong nghiên cứu này thấp hơn nghiên cứu của Ambroszkiewicz với nồng độ osteocalcin của trẻ nữ ở Phần Lan là 115,6±21,3 ng/ml [109]. Điều này có thể lý giải là do nghiên cứu trên đo trên trẻ bước vào giai đoạn dậy thì - giai đoạn mà nồng độ osteocalcin bắt đầu đạt đỉnh. Trong khi đó kết quả của chúng tôi lại cao hơn rất nhiều nghiên cứu trên trẻ em khỏe mạnh của Đài Loan với khoảng nồng độ osteocalcin từ 30,2 đến 41 ng/mL và nghiên cứu của Sen A.T. trên trẻ em tiền dậy thì là 17,2±6,3 ng/mL [110],[111]. Nguyên nhân của sự khác nhau có thể do đối tượng trong nghiên cứu của chúng tôi là những trẻ suy dinh dưỡng thấp còi hoặc có chiều cao thấp hơn so với chuẩn của tuổi; hơn nữa việc loại trừ các đối tượng dậy thì sớm chưa được chặt chẽ, ảnh hưởng đến kết quả nồng độ osteocalcin. 4.3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Nhằm đánh giá hiệu quả của một số biện pháp can thiệp cải thiện mật độ xương và tình trạng dinh dưỡng cho trẻ từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện một nghiên cứu can thiệp trên hai nhóm can thiệp và chứng, với số trẻ trong mỗi nhóm được đưa vào phân tích cuối cùng là 103 trẻ. Can thiệp gồm hai hoạt động là can thiệp dinh dưỡng và truyền thông giáo dục sức khỏe. * Hiệu quả can thiệp lên tình trạng dinh dưỡng Kết quả đánh giá sự tăng cân sau can thiệp của chúng tôi cho thấy cân nặng trung bình của từng nhóm đều tăng đáng kể so với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu, nhóm can thiệp có mức tăng cân trung bình cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị là 1,01±0,53kg và 0,9±0,7kg (p>0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức 105 tăng cân trung bình của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,03±0,51kg và 0,81±0,9kg, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp kéo dài 6 tháng, nhóm can thiệp có mức tăng cân nặng là 2,04±0,78kg, đây là mức tăng có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng cân nặng là 1,7±1,13kg. Hiệu quả can thiệp lên cân nặng trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt đạt 0,6%, 0,9% và 1,6%. Kết quả đánh giá sự gia tăng chiều cao sau can thiệp của chúng tôi cho thấy chiều cao trung bình của cả hai nhóm đều tăng đáng kể so với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu, nhóm can thiệp có mức tăng chiều cao trung bình cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị là 1,34±0,71cm và 0,73±0,64cm (p<0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức tăng chiều cao trung bình của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,29±0,45cm và 0,94±0,62cm, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chun/g, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp kéo dài 6 tháng, nhóm can thiệp có mức tăng chiều cao là 2,63±0,74cm, đây là mức tăng cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng chiều cao là 1,68±0,88cm. Hiệu quả can thiệp lên chiều cao trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt đạt 0,5%, 0,3% và 0,8%. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi đã nhận thấy rằng HAZ trung bình của nhóm chứng thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm trước can thiệp và sau 3 tháng đầu can thiệp. Tuy nhiên, không có sự thay đổi đáng kể trong HAZ của nhóm can thiệp so với thời điểm trước can thiệp và sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình HAZ cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị là 0,01±0,12 và -0,09±0,12 (p<0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức tăng trung bình HAZ của 106 nhóm can thiệp vẫn cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,02±0,13 và -0,08±0,56, và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Tổng cộng, sau 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình HAZ là 0,02±0,13, mức tăng này cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng trung bình HAZ là -0,14±0,16. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ bình thường tăng từ 0% trước can thiệp lên 3,9% sau 3 tháng đầu can thiệp, nhưng lại giảm xuống 2,9% khi kết thúc can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm chứng tăng từ 12,6% trước can thiệp lên thành 16,5% sau 3 tháng can thiệp và tiếp tục tăng lên 19,4% khi kết thúc can thiệp. Trong nhóm can thiệp, tỷ lệ trẻ không suy dinh dưỡng thấp còi tăng từ 0% lên 4,8% sau 3 tháng và 7,8% sau 6 tháng can thiệp. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm can thiệp cũng giảm từ 13,6% trước can thiệp xuống còn 11,7% sau 3 tháng can thiệp và duy trì cho đến cuối nghiên cứu. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ suy dinh dưỡng trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt đạt 0,9%, 2,1% và 4,9%. Tổng kết lại, sau 6 tháng can thiệp, cả nhóm can thiệp và nhóm chứng đều đã có sự cải thiện về cân nặng, chiều cao và HAZ. Tuy nhiên, nhóm can thiệp đã đạt được mức tăng cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Ở nhóm can thiệp, khi so với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 6 tháng can thiệp, đã có sự tăng đáng kể về chiều cao, HAZ và BMIZ. Đáng chú ý là mức tăng chiều cao và HAZ trong 3 tháng cuối cũng cao hơn so với 3 tháng đầu của can thiệp. Trong khi so sánh giữa hai đối tượng suy dinh dưỡng thấp còi và nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi trong nhóm can thiệp, sau 6 tháng can thiệp, nhóm suy dinh dưỡng đã có mức độ tăng chiều cao cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm nguy cơ suy dinh dưỡng. Những kết quả trên cho phép rút ra kết luận bao gồm: Sử dụng sản phẩm có chứa đa vi chất giúp trẻ có nguy cơ hoặc đang mắc suy dinh dưỡng thấp còi 107 cải thiện được cân nặng và chiều cao. Sử dụng sản phẩm có chứa vitamin A, vitamin D, canxi và vitamin K2 giúp trẻ có nguy cơ hoặc đang mắc suy dinh dưỡng thấp còi tăng trưởng chiều cao tốt hơn và thời gian sử dụng càng lâu thì việc cải thiện chiều cao càng thấy rõ rệt hơn. Trong khi ở cân nặng lại không thấy điều này. Bổ sung sản phẩm sữa có chứa vitamin A, vitamin D, canxi và vitamin K2 có thể giúp nhóm trẻ suy dinh dưỡng thấp còi tăng tốc độ phát triển nhanh hơn. Tác dụng tăng cân có lẽ đến phần nhiều từ việc tăng thêm năng lượng hàng ngày cho đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, cả hai nhóm đều được sử dụng hai loại sữa có giá trị năng lượng tương đương nhau chỉ khác nhau về thành phần vitamin K2, do vậy mà việc tăng cân này có thể đến từ cả việc được bổ sung vitamin K2 kết hợp với công tác truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng. Bổ sung đa vi chất từ lâu không chỉ là một giải pháp khắc phục cho tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở trẻ em mà còn có tác dụng đến tăng tưởng ở trẻ. Nghiên cứu của Abram và cộng sự năm 2003 cho thấy việc bổ sung đa vi chất dinh dưỡng có tác dụng đến việc thay đổi cân nặng, chỉ số BMI và chu vi vòng cánh tay và cân nặng theo tuổi tính theo Z-score với p<0,01, nhưng lại không có tác dụng có ý nghĩa thống kê với chiều cao. Nghiên cứu của Abram được tiến hành trên 311 trẻ em từ 6-11 tuổi ở vùng nông thôn, tiêu thụ 240ml nước giải khát có vị hoa quả mỗi ngày liên tục trong 8 tuần. Nước uống này có năng lượng 100kcal, bổ sung đa vi chất như sắt, vitamin A (beta-carotene), kẽm, iod, acidfolic…. không giống với sản phẩm sử dụng trong nghiên cứu này [112]. Trong khi đó nghiên cứu của Ash và cộng sự năm 2003 cũng cho thấy bổ sung đa vi chất có tác động tích cực đến sự thay đổi cân nặng chiều cao và BMI của nhóm can thiệp so với nhóm chứng với p=0,001. Nhóm trẻ bổ sung đa vi chất tăng trung bình nhiều hơn 0,05kg cân nặng và 0,57cm chiều cao, BMI cũng tăng 0,35kg/m2 [113]. Nghiên cứu của Ash cũng tương đối giống 108 với nghiên cứu của Abram khi cung cấp 250ml nước giải khát với năng lượng 90kcal mỗi ngày trong vòng 6 tháng, và các vi chất bổ sung không giống với nghiên cứu này. Nghiên cứu của Hyder và cộng sự năm 2007 cho thấy bổ sung đa vi chất thay đổi cân nặng, chu vi vòng cánh tay và BMI ở nhóm can thiệp. Tuy nhiên lại không nhận thấy sự biến đổi khác biệt có ý nghĩa thống kê về chiều cao ở hai nhóm [114]. Nghiên cứu Sarma năm 2006, Sivakumar năm 2006, nghiên cứu Shatrugna năm 2006 và Vazir năm 2006 đều cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống kê ở cân nặng, chiều cao, BMI, HAZ, WAZ và tốc độ tăng cân nặng so với nhóm chứng p<0,05 [115],[116],[117],[118]. Nghiên cứu Manger năm 2008 và nghiên cứu của Winichagoon năm 2006 đều cho thấy bổ sung đa vi chất không hề làm tăng các chỉ số nhân trắc có ý nghĩa thống kê [119],[120]. Tương tự nghiên cứu của Osendarp năm 2007 tại Úc và Indonesia, nghiên cứu của Solon năm 2003 và nghiên cứu Zimmermann năm 2004 đều không có sự khác biệt về chỉ số nhân trắc giữa hai nhóm [121],[122],[123],[124]. Nghiên cứu của nước ngoài có thể cho thấy các kết quả khác nhau về tăng cân ở nhóm bổ sung đa vi chất, còn tại Việt Nam, hai nghiên cứu của Đỗ Liên và Trần Thị Thúy Nga năm 2009 bổ sung đa vi chất vào sữa và bánh bích quy cho trẻ em ở vùng nông thôn đều không có tác dụng tích cực đến việc thay đổi các chỉ số nhân trắc [65],[125]. Nghiên cứu của Đỗ Liên được tiến hành trên 454 trẻ trong độ tuổi trung bình từ 5,5-13,4 tuổi, ở Yên Phong- Bắc Ninh, bổ sung 250ml sữa có chứa 380kcal có 15.5g protein, 45mcg vitamin A, 2.9 IU vitamin D và 225mg canxi, hàm lượng vitamin K quá nhỏ không được định lượng và nhiều vi chất khác liên tục trong 6 tháng [65]. Nghiên cứu của Trần Thị Thúy Nga được thực hiện trên 510 trẻ 6-8 tuổi ở Hưng Yên, sử dụng 30g bánh bích quy trong 5 ngày/tuần liên tục trong 4 tháng, cung cấp 133kcal, 300mcg vitamin A, 74mcg (2960IU) vitamin D, 10mcg vitamin K và cùng 109 nhiều vi chất khác [125]. Cả hai nghiên cứu này đều sử dụng sản phẩm có năng lượng không cao bằng sản phẩm nghiên cứu của chúng tôi và hàm lượng các vi chất nêu trên cũng không cao bằng. Đó có thể là nguyên nhân mà những nghiên cứu này không quan sát được sự thay đổi các chỉ số nhân trắc trên đối tượng nghiên cứu. Theo chuẩn tăng trưởng của WHO, trong độ tuổi tiểu học, trung bình sau 3 tháng, trẻ sẽ tăng khoảng 0,8 cm và 6 tháng là khoảng 1,6 cm. Như vậy, có thể thấy, trong can thiệp của chúng tôi, cả 2 loại sữa dùng cho nhóm can thiệp và nhóm chứng có tác dụng làm tăng chiều cao của trẻ nhiều hơn so với chuẩn tăng trưởng. Nguyên nhân là do cả 2 loại sữa là nguồn cung cấp canxi và vitamin D cho cơ thể. Canxi đã được nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh là tham gia vào quá trình tạo xương, vitamin D giúp hỗ trợ hấp thu canxi, từ đó giúp hỗ trợ tăng trưởng chiều cao cho trẻ. Nghiên cứu của Mugunthan cho thấy bổ sung canxi và vitamin D cho trẻ có thể giúp trẻ tăng tới 9,1cm/năm [126]. Tuy nhiên, sự khác biệt về mức tăng chiều cao giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng còn có thể được lý giải bởi sự khác nhau giữa thành phần của 2 loại sữa sử dụng cho nhóm chứng và nhóm can thiệp. Về cân nặng, trẻ trong nhóm can thiệp của chúng tôi tăng 2,04 kg sau 6 tháng. Kết quả này cao hơn một chút so với kết quả của Đỗ Thị Kim Liên, sau 6 tháng, cân nặng của trẻ nhóm dùng sữa can thiệp tăng 1,6kg; nhóm chứng tăng 1,5kg và kết quả của Sazawal [65],[127]. Trong nghiên cứu của Sazawal, sau 1 năm can thiệp, trẻ ở nhóm được bổ sung sữa tăng 3,04kg. Kết quả này tương đương với nghiên cứu của Anuradha, sau 12 tháng can thiệp, cả nhóm chứng và nhóm can thiệp đều tăng 4,2kg [128]. Nhưng mức tăng cân nặng này lại thấp hơn so với nghiên cứu bổ sung Canxi+vitamin A của Yang và cộng sự (trẻ được bổ sung Canxi+vitamin A tăng 1,08kg sau 3 tháng) [129]. Cùng trong nghiên cứu của chúng tôi, sau 6 tháng can thiệp cân nặng của nhóm chứng và 110 nhóm can thiệp đều tăng có ý nghĩa thống kê; tương tự như nghiên cứu của Anuradha và cộng sự [128]. Theo chuẩn tăng trưởng của WHO, sau 3 tháng, trẻ 8-11 tuổi tăng trung bình 0,5kg và sau 6 tháng có thể tăng tới khoảng 1kg. Như vậy, có thể thấy, cả 2 sản phẩm sử dụng cho nhóm can thiệp và nhóm chứng đều có tác dụng giúp tăng trưởng cân nặng, ngoài cân nặng tăng tự nhiên theo tuổi. Nguyên nhân có thể là do sản phẩm can thiệp là một sản phẩm bổ sung với hàm lượng năng lượng tương đối cao (81,9Kcal/100ml), cao hơn công thức F75 (75Kcal/100ml sữa) là công thức cơ bản mà Tổ chức Y tế thế giới khuyến nghị dành cho trẻ suy dinh dưỡng thấp còi. Truyền thông giáo dục sức khỏe từ lâu đã được coi như một trong các phương pháp can thiệp nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ em bên cạnh các can thiệp dinh dưỡng khác. Ngay từ những năm 2006, tác giả Hoàng Khải Lập và Hà Xuân Sơn báo cáo rằng các phương pháp giáo dục dinh dưỡng cộng đồng được sử dụng cho các mẹ ở xã Nga My, Phú Bình, Thái Nguyên vào thời điểm đó đã giúp cải thiện rõ rệt về tinh trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân và thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi với hiệu quả can thiệp lên tới trên 20% [130]. Không chỉ với kết quả từ những nghiên cứu, các văn bản của Chính phủ cũng rất chú trọng trong các hoạt động truyền thông, giáo dục dinh dưỡng. Bên cạnh việc truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng và cộng đồng, Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng 2021-2030 cũng tập trung vào việc thực hiện các hoạt động xây dựng và củng cố các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe tại trường học bên cạnh việc đẩy mạnh bữa ăn học đường [131]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cùng với việc bổ sung sản phẩm dinh dưỡng đường uống như một phần của bữa ăn học đường, chúng tôi đã cộng tác với nhà trường, với sự cộng tác của các thầy/cô giáo thực hiện các hoạt động truyền thông giáo dục dinh dưỡng cho phụ huynh và các học sinh là đối tượng 111 nghiên cứu bao gồm: dinh dưỡng hợp lý, thực phẩm có lợi và an toàn cho sức khỏe phòng, tăng cường hoạt động thể lực học sinh tiểu học, sinh hoạt hợp lý, ngủ đủ giấc, giữ gìn vệ sinh... cùng với việc tăng cường các hoạt động thể dục ngoài trời trong khoảng thời gian đi học. Do đó, kết quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở nhóm can thiệp tốt hơn so với nhóm chứng trong nghiên cứu của chúng tôi là đến từ việc phối hợp cả can thiệp dinh dưỡng bằng sản phẩm sản phẩm dinh dưỡng đường uống vào bữa ăn học đường và truyền thông giáo dục sức khỏe. Kết quả này là phù hợp với các phương pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng đã được hướng dẫn và khuyến nghị bởi nhà nước cũng như các tổ chức Y tế và các tác giải nghiên cứu tại Việt Nam cũng như trên toàn thế giới. Khi xét đến tác dụng của vitamin K đối với các chỉ số nhân trắc, nghiên cứu của chúng tôi là nghiên cứu đầu tiên bổ sung vitamin K có tác dụng làm tăng các chỉ số này. Như giải thích trước đó, tác dụng tăng chỉ số nhân trắc có lẽ đến nhiều từ việc bổ sung thêm năng lượng từ sản phẩm can thiệp hơn là tác dụng riêng rẽ của vitamin K. Trong các nghiên cứu bổ sung riêng rẽ vitamin K trên thế giới, các tác giả chỉ coi chỉ số nhân trắc như là một kết quả phụ hoặc là một yếu tố để điều chỉnh tác dụng của vitamin K với mật độ khoáng của xương. Duy nhất nghiên cứu của Van summeren 2008 có thấy sự khác biệt về chiều cao của trẻ khỏe mạnh trong độ tuổi 8-14 khi được khuyến khích sử dụng nhiều thực phẩm có vitamin K và sự khác biệt này có liên quan đến tỷ số UCR [5]. Còn lại đa phần cân nặng đều không được đề cập đến. Đây cũng là một trong những điểm cần quan tâm khi mở rộng hướng nghiên cứu trong tương lai khi đánh giá tác dụng của vitamin K với chỉ số nhân trắc của trẻ em đặc biệt là chiều cao. Canxi và vitamin D được biết đến là hai vi chất quan trọng trong việc phát triển chiều cao. Tuy nhiên trong một nghiên cứu tổng quan hệ thống về tác dụng của vitamin D và canxi thì người ta lại thấy không sự khác biệt nào 112 đáng kể giữa nhóm được bổ sung và nhóm không được bổ sung dựa trên kết quả của hàng loạt nghiên cứu đã tiến hành. Trong khi đó, các giả thuyết mới được hình thành về việc cần có vitamin K đặc biệt là vitamin K2 để hoạt hóa các ma trận Gla giúp vận chuyển canxi vào xương, và vitamin D giúp tăng cường hấp thu canxi vào cơ thể. Bộ ba vitamin K, canxi và vitamin D có thể là một bộ vi chất mới giúp cải thiện chiều cao ở trẻ chậm tăng trưởng chiều cao. Về chỉ số HAZ, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng tương tự như nghiên cứu của Panis và cộng sự vào năm 2006, khi bổ sung canxi, vitamin D3 và vitamin K cho trẻ. Trong nghiên cứu này, sau 1 năm can thiệp, HAZ của trẻ nhóm can thiệp tăng 0,1±0,5, còn HAZ của nhóm chứng giảm 0,1±0,3[132]. Nghiên cứu của chúng tôi, với thời gian can thiệp là 6 tháng, HAZ của trẻ nhóm can thiệp tăng 0,02±0,13 và HAZ của trẻ nhóm chứng giảm 0,14±0,32 cũng có thể coi là con số tương đương. Kết quả can thiệp của chúng tôi tốt hơn rất nhiều so với nghiên cứu của Sazawal, sau 1 năm can thiệp bằng sữa chua bổ sung vi chất, HAZ của trẻ nhóm can thiệp tăng từ -1,01 lên -1,00 (chỉ tăng 0,01) [127]. Nguyên nhân của sự khác biệt này có thể là do thành phần của sản phẩm can thiệp. Đó có thể là nguyên nhân khiến chỉ số HAZ trong nghiên cứu của chúng tôi tăng gần gấp 3 lần so với nghiên cứu của Sazawal. Tuy nhiên, nghiên cứu này có kết quả thấp hơn nghiên cứu của Đỗ Thị Kim Liên và cộng sự, sau 6 tháng, HAZ nhóm can thiệp tăng 0,16 [65]. Việc tăng HAZ là một điểm tích cực trong nghiên cứu vì việc thay đổi chiều cao theo tuổi sẽ khó hơn rất nhiều so với việc chỉ cải thiện chiều cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi đã cho thấy rằng, can thiệp dinh dưỡng ở nhóm can thiệp cho thấy tiềm năng cải thiện HAZ, từ đó cải thiện tình trạng thấp còi ở trẻ. * Hiệu quả can thiệp lên tình trạng mật độ xương và khối lượng xương Mật độ xương và khối lượng xương là hai yếu tố tiếp theo được phân tích nhằm đánh giá hiệu quả can thiệp. Mật độ xương trung bình của nhóm chứng 113 cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi mật độ xương của nhóm can thiệp tại từng thời điểm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng mật độ xương của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,04±0,04g/cm2 và 0±0,05g/cm2 (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng mật độ xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 0,08±0,07g/cm2 và 0,04±0,06g/cm2, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng mật độ xương là 0,12±0,07g/cm2, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng mật độ xương là 0,04±0,07g/cm2. Hiệu quả can thiệp lên mật độ xương của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 6,5%, 5,5% và 12,7%. Khối lượng xương trong nghiên cứu của chúng tôi của từng nhóm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, mức trung bình tăng khối lượng xương của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 2,59±2g và 0,83±0,93g (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, mức trung bình tăng khối lượng xương của nhóm can thiệp vẫn tiếp tục cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 5,41±3,97g và 2,86±2,47g, mức tăng của nhóm can thiệp cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhìn chung, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng khối lượng xương là 8,00±5,02g, cao hơn có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nhóm chứng với mức tăng khối lượng xương là 3,96±2,9g. Hiệu quả can thiệp lên khối lượng xương của giai 114 đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,8%, 10,0% và 21,3%. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy sự cải thiện mật độ xương và khối lượng xương đo tại cột sống đều tăng cao ở nhóm can thiệp so với nhóm chứng. Nghiên cứu của Panis năm 2006 cho thấy sự thay đổi có ý nghĩa thống kê với p<0,0001 ở khối lượng xương liên quan đến lượng vitamin K nạp vào, trong khi đó không hề có sự thay đổi BMD liên quan đến vitamin K sau 2 năm can thiệp trên trẻ em 3-17 tuổi bị bệnh galactosemia với hàm lượng vitamin K1 là 0,5mg/ngày [133]. Nghiên cứu của Van summeren năm 2008 cũng chỉ ra mối liên quan giữa sự thay đổi khối lượng xương ở xương hông và cổ xương đùi và cột sống và khối lượng xương toàn cơ thể liên quan đến UCR và ucOC [5]. Trong nghiên cứu này 24 trẻ khỏe mạnh từ 8-14 tuổi được khuyến khích sử dụng nhiều sản phẩm có chứa vitamin K theo dõi trong vòng 2 năm. Nghiên cứu của Kalkwarf năm 2004 cũng cho thấy mối liên quan giữa sự thay đổi khối lượng xương ở cổ xương đùi, cột sống và toàn cơ thể với hàm lượng phyloquinone nạp vào và lượng phylloquinone có trong huyết tương và %ucOC [134]. Nghiên cứu trên được tiến hành ở trẻ khỏe mạnh trong độ tuổi 3-16 bổ sung 45mcg vitamin K/ngày. Nghiên cứu của Inoue năm 2001 và nghiên cứu của Ozdemir năm 2013 đều chỉ ra sự thay đổi mật độ xương trên các đối tượng trẻ em bị bệnh đều có ý nghĩa thống kê [135],[136]. Nghiên cứu Inoue tiến hành trên trẻ đang điều trị glucocorticoid trong độ tuổi 4-14 tuổi trong vòng 6 tháng với lượng vitamin K2 được bổ sung 2mg/kg/ngày [135]. Nghiên cứu của Ozdemir tiến hành trên trẻ bị thalassemia 3-18 tuổi trong vòng 12 được bổ sung 50mg/ngày vitamin K2 [136]. Nghiên cứu của Rianthavor năm 2012 là nghiên cứu duy nhất chỉ ra vitamin K giúp làm thay đổi cả khối lượng xương và mật độ xương ở nhóm chứng so với nhóm can thiệp có ý nghĩa thống kê ở trẻ dưới 18 tuổi đang điều trị liều corticoid ổn định trong 12 tháng [137]. 115 Như vậy đối với tình trạng bệnh lý ảnh hưởng tới chất lượng của xương như các bệnh phải điều trị corticoid hoặc suy dinh dưỡng thấp còi, việc bổ sung vitamin K có thể làm cải thiện được chất lượng xương. Mới chỉ có một số nghiên cứu chứng minh được việc tăng mật độ khoáng hóa xương có liên quan đến việc nạp vitamin K hoặc các parameter của vitamin K (UCR, nồng độ vitamin K trong máu, ucOC), nhưng các mối liên quan ở mức yếu khi r gần 0 và cũng cũng chỉ phát hiện được ở những nghiên cứu dài hạn từ 12 tháng cho đến 36 tháng [5],[6],[132],[134]. Vitamin K2 có lẽ chưa phải là yếu tố duy nhất tạo nên sự khác biệt về mật độ khoáng hóa xương. Nghiên cứu tổng quan hệ thống về tác dụng của vitamin D và canxi đối với sức khỏe đã được tiến hành. Có 7 nghiên cứu tính đến năm 2014 nghiên cứu về sự kết hợp giữa vitamin D và canxi tác động đến mật độ xương hoặc khối lượng xương. Tuy nhiên chỉ có 3 nghiên cứu can thiệp trên đối tượng trẻ dưới 18 tuổi. Kết quả của những nghiên cứu này cũng khá đa dạng. Có nghiên cứu cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi bổ sung và có nghiên cứu thì không [138]. * Hiệu quả can thiệp lên tình trạng canxi ion, vitamin D và osteocalcin Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng nồng độ canxi ion trong cả hai nhóm đều tăng lên một mức cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với thời điểm ban đầu và so với thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình của nồng độ canxi ion cao hơn so với nhóm chứng, với giá trị lần lượt là 0,14±0,06mmol và 0,11±0,1mmol (p<0,05). Trong giai đoạn 3 tháng tiếp theo, mức tăng trung bình của nồng độ canxi ion trong nhóm can thiệp và nhóm chứng tương tự nhau, đạt giá trị lần lượt là 0,63±0,11mmol và 0,63±0,16mmol. Tổng cộng, sau toàn bộ 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp có mức tăng trung bình của nồng độ canxi ion là 0,77±0,12mmol, trong khi nhóm chứng có mức tăng trung bình là 116 0,75±0,18mmol. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp đã giảm từ 98,1% xuống còn 55,3% sau 3 tháng đầu can thiệp, và giảm xuống 0% sau 3 tháng tiếp theo. Một xu hướng giảm tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp cũng được quan sát trong nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can thiệp, tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp trong nhóm can thiệp đã giảm từ 99% xuống chỉ còn 16,5%, và tiếp tục giảm xuống 0% sau 3 tháng tiếp theo, tương tự như nhóm chứng. Hiệu quả của can thiệp lên nồng độ canxi ion trong giai đoạn 3 tháng đầu và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 2,7% và 1,2%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion huyết thanh thấp đạt 39,7% trong giai đoạn 3 tháng đầu can thiệp. Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ trung bình của vitamin D trong nhóm chứng cao hơn có ý nghĩa thống kê khi so sánh thời điểm kết thúc can thiệp với thời điểm trước can thiệp và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong khi đó, sự thay đổi nồng độ vitamin D của nhóm can thiệp tại mỗi thời điểm xét nghiệm đều cao hơn có ý nghĩa thống kê so với thời điểm trước can thiệp và sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong giai đoạn 3 tháng đầu can thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,1±3,64ng/mL và 0,07±3,82ng/mL (p<0,05). Trong 3 tháng tiếp theo, nhóm can thiệp cũng có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, lần lượt là 8,68±4,47ng/mL và 6,71±4,27ng/mL. Tổng cộng, sau toàn bộ khoảng thời gian can thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D là 9,78±5,68ng/mL, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng có mức tăng trung bình nồng độ vitamin D là 6,79±4,93ng/mL. Đối với nhóm chứng, tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp đã tăng từ 40,8% lên 41,8% sau 3 tháng đầu can thiệp và giảm xuống còn 13,6% sau 3 tháng tiếp theo. Xu hướng giảm tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp cũng được quan sát trong nhóm can thiệp. Sau 3 tháng đầu can 117 thiệp, tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp trong nhóm can thiệp đã giảm từ 52,4% xuống còn 46,6%, và tiếp tục giảm chỉ còn 7,8% sau 3 tháng tiếp theo, tương tự như nhóm chứng. Hiệu quả can thiệp lên nồng độ vitamin D trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 3,4%, 6% và 10,3%. Hiệu quả can thiệp lên tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D huyết thanh thấp trong giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 8,6%, 15,8% và 18,4%. Sau khi can thiệp kết thúc, chúng tôi đã quan sát thấy rằng nồng độ osteocalcin trung bình ở cả hai nhóm đều cao hơn và có ý nghĩa thống kê so với thời điểm ban đầu và thời điểm sau 3 tháng đầu can thiệp. Trong 3 tháng đầu can thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ osteocalcin cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 1,18±18,5ng/mL và -0,2±11,53ng/mL. Trong 3 tháng tiếp theo, nhóm can thiệp cũng có mức tăng trung bình nồng độ osteocalcin cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, lần lượt là 6,17±15,56ng/mL và 4,87±8,44ng/mL. Tổng cộng, sau toàn bộ thời gian can thiệp, nhóm can thiệp đã có mức tăng trung bình nồng độ osteocalcin là 7,35±16,14ng/mL, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng với mức tăng nồng độ osteocalcin là 4,67±12,04ng/mL. Hiệu quả can thiệp lên osteocalcin của giai đoạn 3 tháng đầu, 3 tháng tiếp theo và toàn bộ 6 tháng can thiệp lần lượt là 1,4%, 1,4% và 2,9%. Trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ số canxi ion của hai nhóm sau 6 tháng can thiệp đều tăng lên so với thời điểm ban đầu có ý nghĩa thống kê. Tương tự với kết quả của nghiên cứu bổ sung canxi đơn chất của Anuradha và cộng sự [68], chỉ số canxi ion tăng có ý nghĩa thống kê sau 12 tháng can thiệp. Về chỉ số vitamin D huyết thanh, sau 6 tháng can thiệp, chỉ số vitamin D huyết thanh ở cả 2 nhóm đều tăng có ý nghĩa thống kê. Và mặc dù có giảm, nhưng ngưỡng vitamin D huyết thanh ở nhóm can thiệp vẫn ở trên ngưỡng bình thường 118 (>30ng/mL), trong khi nhóm chứng có ngưỡng vitamin D ở dưới mức bình thường (<30ng/mL). Kết quả sau khi can thiệp của chúng tôi cũng tương tự như kết quả của Cosenza tiến hành can thiệp trên trẻ 10 tuổi sau 4 tháng, mức vitamin D trong huyết thanh của trẻ nhóm can thiệp là 33,8ng/mL và của nhóm chứng là 24,5ng/mL [139]. Tuy nhiên, kết quả của chúng tôi lại thấp hơn rất nhiều so với kết quả của Thacher và cộng sự [140]. Sau 6 tháng can thiệp, hàm lượng vitamin D huyết thanh của trẻ nhóm can thiệp Canxi+vitamin D là 55,4ng/mL, nhóm chỉ can thiệp Canxi là 37,9ng/mL. Nguyên nhân của sự khác biệt này đến từ hàm lượng của sản phẩm bổ sung. Nghiên cứu của Thacher , trẻ được bổ sung canxi và vitamin D trực tiếp với liều cao (Canxi 938mg, Vitamin D 50.000IU), trong khi trong thử nghiệm này, canxi và vitamin D chỉ được bổ sung gián tiếp thông qua chế phẩm từ sữa và với hàm lượng thấp hơn rất nhiều [140]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sự thay đổi nồng độ osteocalcin sau 6 tháng của nhóm chứng và nhóm can thiệp lần lượt là 4,67±12,04ng/mL và 7,35±16,14ng/mL. Kết quả sự khác biệt ở hai nhóm cũng có ý nghĩa thống kê; và sự khác biệt ở 3 tháng cuối cao hơn ba tháng đầu có ý nghĩa thống kê. Điều này chứng tỏ việc sử dụng dài hạn cũng đem lại kết quả tốt hơn [135]. Các nghiên cứu can thiệp vitamin K2 trên thế giới chủ yếu đo lường lượng osteocalcin chưa được carboxyl hóa và được carboxyl hóa - là hai chỉ số đặc hiệu để đo lường nồng độ vitamin K2 [141],[142],[143],[144],[145],[146]. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay chỉ đo được nồng độ osteocalcin, nên khó có thể so sánh hiệu quả thay đổi nồng độ osteocalcin trong nghiên cứu này với các nghiên cứu khác trên thế giới. 119 * Giải pháp can thiệp toàn diện tại học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao Sữa từ lâu đã được sử dụng để can thiệp như một phần của các chương trình dinh dưỡng học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ trên thế giới. Một trong những chương trình sữa học đường nổi tiếng và lâu đời nhất được biết đến là Chương trình Sữa đặc biệt tại Mỹ hay còn được gọi là Chương trình Thực phẩm Chiến thắng. Chương trình này được triển khai vào năm 1942 nhằm giảm tình trạng suy dinh dưỡng ở trẻ em và hỗ trợ nông dân chăn nuôi bò sữa trong Thế chiến thứ hai. Cho tới nay, mặc dù có rất ít nghiên cứu đã được thực hiện về chương trình này, tuy nhiên, chương trình Sữa đặc biệt đã được chứng minh là làm tăng mức tiêu thụ sữa ở trẻ em tại các trường tham gia, tăng lượng năng lượng và một số chất dinh dưỡng được nạp vào ở trẻ em [147]. Một chương trình sữa học đường lâu đời khác cũng được biết đến rộng rãi là chương trình sữa học đường tại Nhật Bản. Loại sữa học đường đầu tiên được sử dụng ở các trường học Nhật Bản là sữa bột tách béo do các cơ quan viện trợ phi chính phủ của Hoa Kỳ cung cấp quanh khu vực Tokyo vào năm 1946. Bữa trưa ở trường cùng với sữa được đưa ra như một biện pháp hướng tới tương lai không chỉ nhằm chống lại tình trạng suy dinh dưỡng phổ biến trong những năm sau chiến tranh mà còn cung cấp nền tảng dinh dưỡng chung cho tất cả học sinh. Ngày nay, chương trình ăn trưa với sữa ở trường học Nhật Bản được xây dựng để cung cấp 33-50% chất dinh dưỡng cần thiết mỗi ngày và 50% lượng canxi được khuyến nghị trong chế độ ăn uống, điều mà rất khó có được từ các bữa ăn của người Nhật. Một nghiên cứu được xuất bản năm 2016 cho thấy tỷ lệ diện tích xương (%) (mật độ xương của xương gót chân phải đo bằng phương pháp Benus α) ở nhóm ăn trưa với bữa ăn học đường có sữa cao hơn đáng kể so với nhóm ăn chứng (nam 31,0±0,3 so với 30,3±0,2; nữ 30,6±0,2 so với 29,7±0,2). Xu hướng này không thay đổi ngay cả sau khi điều 120 chỉnh các yếu tố gây nhiễu liên quan đến sự phát triển của xương. Kết quả cho thấy chương trình ăn trưa và sữa ở trường học Nhật Bản đã góp phần tăng cường sự phát triển xương ở trẻ tiểu học [148]. Vào những năm 1970, chính phủ Hàn Quốc đã khởi xướng chương trình sữa học đường ở các trường tiểu học, sau đó mở rộng sang các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông và cuối cùng trở thành một chương trình toàn quốc. Chương trình sữa học đường được bắt đầu để cung cấp các chất dinh dưỡng cân bằng và thiết yếu với sữa để tăng trưởng và tăng cường sức khỏe ở trẻ em và thanh thiếu niên Hàn Quốc. Một nghiên cứu trước đây cho thấy lượng canxi trong chế độ ăn uống trung bình hàng ngày của những học sinh tham gia chương trình sữa học đường cao gấp 1,5 lần so với những học sinh không tham gia. Điều này cho thấy rằng tham gia chương trình sữa học đường có thể là một trong những cách để tăng lượng canxi ở thanh thiếu niên [149]. Tại Ấn Độ, một nghiên cứu được thực hiện như một phần của chương trình Món quà Sữa tại 36 trường học và 15000 học sinh với sữa can thiệp được tăng cường vitamin A và D. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm rõ ràng hơn ở nhóm can thiệp sau, với 95% CI là (7,37; 7,42) và (10,63; 10,58) về sự khác biệt về tỷ lệ giữa nhóm can thiệp và nhóm đối chứng đối với tương ứng là còi cọc và gầy gò. Điều này có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [150]. Nhìn chung, Chương trình sữa học đường hiện đã trở thành hoạt động mang tính toàn cầu do Liên Hợp Quốc kêu gọi trong 1 thế kỷ qua và đã có 60 quốc gia hưởng ứng. Trong đó, hầu hết các nước (trong đó có những nước không có truyền thống sản xuất sữa tại châu Á như Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc…) đều ưu tiên chọn sữa tươi sạch - loại sữa giữ nguyên vẹn giá trị dinh dưỡng và bổ sung các vi chất cần thiết cho trẻ. Tại Việt Nam, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1340/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Sữa học đường nhằm cải thiện tình 121 trạng dinh dưỡng góp phần nâng cao tầm vóc trẻ em mẫu giáo và tiểu học đến năm 2020 [151]. Chương trình Sữa học đường đặc biệt quan tâm tới trẻ em ở các huyện nghèo và trẻ em nghèo, cận nghèo ở các vùng còn lại. Trong bối cảnh ngân sách còn khó khăn, Chương trình đưa ra chủ trương xã hội hóa, kêu gọi nhiều nguồn lực tham gia. Là một phần của hoạt Chương trình Sữa học đường, vào năm 2014, nghiên cứu về hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của học sinh mẫu giáo và tiểu học bằng can thiệp sữa học đường đã được thực hiện tại huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi sử dụng sữa can thiệp có bổ sung đa vi chất, tỷ lệ SDD cả 3 thể của nhóm can thiệp đều giảm nhiều hơn so với nhóm chứng. Đặc biệt, tỷ lệ SDD thấp còi ở nhóm chứng không những không giảm mà còn bị tăng 0,9% [152]. Mặc dù có sự khác biệt về thời gian nghiên cứu, đối tượng và sản phẩm can thiệp, nhưng nhìn chung, xu hướng kết quả của nghiên cứu này cũng tương tự như ở nghiên cứu của chúng tôi khi tại thời điểm tháng thứ 6 can thiệp so với thời điểm tháng thứ 3, tỷ lệ trẻ chậm phát triển chiều cao ở nhóm can thiệp giảm, trong khi đó, ở nhóm chứng, tỷ lệ này lại không giảm đi. Các kết quả này cho thấy rằng, việc chỉ bổ sung sữa học đường là chưa đủ. Cần lựa chọn loại sữa được bổ sung đầy đủ vi chất dinh dưỡng cần thiết để chiều cao của trẻ được phát triển tối ưu. Nghiên cứu trên cũng như các nghiên cứu tương tự về đánh giá hiệu quả chương trình Sữa học đường tại Việt Nam đều cho thấy rằng, các can thiệp sữa học đường trong các nghiên cứu này đều tập trung vào bổ sung đa vi chất nhằm cải thiện đa dạng chỉ số liên quan đến sức khỏe của trẻ như tình trạng dinh dưỡng, tình trạng thiếu máu, và thiếu các vi chất thiết yếu khác. Mặc dù các kết quả đều cho thấy kết quả giảm tỷ lệ SDD thấp còi, nhưng sự cải thiện về chiều cao của trẻ còn chưa được thể hiện rõ ràng, khi trẻ tiểu học ở nhóm can thiệp chỉ cao hơn nhóm chứng 0,4cm sau 5 tháng can thiệp [152],[153]. 122 Với các giải thích rằng thiếu vitamin D dẫn đến sự thất bại của quá trình khoáng hóa xương đang phát triển, gây nên các đặc điểm được thể hiện trên lâm sàng và X quang của bệnh còi xương và thiếu canxi (do chế độ ăn uống không đầy đủ hoặc kém hấp thu) làm tăng quá trình dị hóa vitamin D và cuối cùng dẫn đến thiếu vitamin D và còi xương, các can thiệp dinh dưỡng, đặc biệt là về sữa ở trẻ em, thường chỉ tập trung vào hai vi chất này nhằm đạt được mục đích cải thiện tình trạng thấp còi của trẻ [154]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, vitamin K2 đã được bổ sung thêm vào cùng với vitamin D và canxi nhằm mục đích hỗ trợ sức khỏe và sự phát triển của xương ở trẻ, bao gồm cả phát triển chiều cao. Vitamin D3 kiểm soát sự hấp thu canxi vào máu, đảm bảo canxi có thể đến được khối xương. Vitamin K2 xác định nơi canxi được hấp thụ, đảm bảo canxi được sử dụng trong xương và ngăn ngừa vôi hóa động mạch. Vitamin K2 cũng kích hoạt protein được gọi là Osteocalcin, liên kết với canxi để tạo xương. Sự tương tác giữa Vitamin D3 và Vitamin K2 đảm bảo canxi không chỉ được hấp thụ mà còn được vận chuyển đến nơi cần thiết nhất - xương. Điều này giúp hình thành và củng cố xương, góp phần phát triển chiều cao ở trẻ em, từ đó cho kết quả cải thiện chiều cao ở trẻ rõ rệt hơn so với chỉ bổ sung sữa có canxi và vitamin D [142],[155],[156]. Cho đến nay, các giải pháp bổ sung sữa học đường nói riêng và bổ sung các vi chất dinh dưỡng nói chung trên thế giới và Việt Nam, có những nghiên cứu cho thấy hiệu quả đối với sự tăng trưởng ở trẻ em [115],[116],[117],[118], có những nghiên cứu thì không thấy rõ hiệu quả lên sự tăng trưởng đó [66],[119],[120],[121],[122],[123],[124]. Các lý giải được đưa ra có liên quan đến vấn đề phối hợp vitamin D, canxi và vitamin K2 như đã trình bày ở trên. Việc bổ sung canxi kết hợp với vitamin D và vitamin K2 được coi là một trong các giải pháp đem lại hiệu quả cao hơn cho cải thiện chiều cao cũng như sức khỏe xương ở trẻ em[156]. 123 Tuy nhiên, giải pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và chiều cao của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao của chúng tôi không chỉ tập trung vào giải pháp dinh dưỡng mà còn tập trung vào truyền thông giáo dục sức khỏe cũng như tạo điều kiện cho trẻ có thể tập luyện phối hợp với tắm nắng trong khoảng thời gian phù hợp. Những giải pháp này đã được chứng minh và luôn được khuyến nghị thực hiện phối hợp cùng các giải pháp dinh dưỡng nhằm cải thiện chiều cao cũng như tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Truyền thông giáo dục sức khỏe đã được chỉ ra rằng có thể cung cấp cho trẻ kiến thức và ý thức về dinh dưỡng cần thiết, và trẻ cũng có thể chia sẻ với phụ huynh để hiểu rõ về tầm quan trọng của dinh dưỡng đúng và đủ như tiêu thụ nhiều thực phẩm giàu protein, canxi, vitamin và khoáng chất cần thiết để phát triển chiều cao và sức khỏe tốt cũng như cách tránh thực phẩm không lành mạnh, có thể gây tác động không tốt đến sự phát triển và tình trạng dinh dưỡng của trẻ [157],[158],[159]. Tương tự, phối hợp luyện tập/chơi thể thao với tắm nắng cũng đã được khuyến nghị để giúp cho quá trình hấp thụ canxi và sự phát triển của xương - đặc biệt quan trọng trong giai đoạn phát triển của trẻ em, từ đó tạo ra môi trường thúc đẩy trẻ tham gia vào các hoạt động vận động, vui chơi ngoài trời và hoạt động thể lực giúp trẻ phát triển cơ bắp và chiều cao [160],[161],[162],[163]. Nghiên cứu của chúng tôi phối hợp cả 3 giải pháp can thiệp, bao gồm giải pháp về dinh dưỡng – bổ sung sản phẩm dinh dưỡng đường uống có bổ sung vitamin K2, giải pháp truyền thông giáo dục sức khỏe và giải pháp tổ chức tập luyện phối hợp với tắm nắng nhằm hướng tới giải pháp can thiệp đầy đủ nhất có thể tổ chức được tại cộng đồng nhằm cải thiện tình trạng trẻ chậm phát triển chiều cao tại cộng đồng. Không giống với chương trình các giải pháp can thiệp khác chỉ tập trung vào can thiệp dinh dưỡng hoặc có mục đích cải thiện nhiều chỉ tiêu, giải pháp tổng hợp của chúng tôi tập trung vào đối tượng là trẻ chậm tăng trưởng chiều cao, cần được cải thiện tình trạng dinh dưỡng và tăng 124 chiều cao rõ rệt. Với các kết quả được trình bày trong nghiên cứu này, giải pháp can thiệp của chúng tôi cho thấy kết quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao với hiệu quả rõ rệt. 4.4. Những đóng góp và tính mới của đề tài Luận án đã đóng góp thêm những dữ liệu về tình trạng dinh dưỡng của trẻ em lứa tuổi tiểu học ở tỉnh Thái Bình. Nghiên cứu của chúng tôi là một trong số ít nghiên cứu đánh giá các chỉ số liên quan đến sức khỏe xương của trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao bao gồm mật độ xương, khối lượng xương, nồng độ vitamin D, canxi ion và osteocalcin. Nghiên cứu là bằng chứng khoa học về giải pháp có thể áp dụng cho những trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao nhằm hạ thấp tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi và tỷ lệ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ tiểu học. Nghiên cứu cho thấy sau 6 tháng can thiệp đã có cải thiện các chỉ số nhân trắc, mật độ xương, khối lượng xương, vitamin D, canxi ion và osteocalcin ở trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao từ 7 đến 10 tuổi tại một số trường tiểu học huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. 4.5. Những hạn chế của đề tài Nghiên cứu chưa đánh giá được khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu nên chưa tìm hiểu được ảnh hưởng của khẩu phần ăn đến tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương của trẻ em. Nghiên cứu chưa đánh giá chi tiết và cụ thể về kiến thức, thái độ và thực hành của nhà trường và phụ huynh sau khi được tiếp nhận các hoạt động giáo dục sức khỏe thuộc can thiệp. Nghiên cứu cũng chưa đánh giá được các chỉ số nhân trắc, mật độ xương, khối lượng xương, vitamin D, canxi ion và osteocalcin ở trẻ em ở giai đoạn sau khi kết thúc can thiệp để có thể theo dõi hiệu quả của can thiệp được duy trì 125 trong bao lâu… cho nên cần có thêm những nghiên cứu dọc dài hơn, trên nhiều nhóm trẻ hơn (bao gồm cả trẻ bình thường và suy dinh dưỡng) và tìm hiểu cả khẩu phần ăn của trẻ em để có sự đánh giá thuyết phục hơn. 126 KẾT LUẬN 1. Tình trạng dinh dưỡng của em từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu Trong tổng số 848 trẻ em từ 7 đến 10 tuổi tại địa bàn nghiên cứu, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ thấp, cụ thể là suy dinh dưỡng thấp còi chiếm 3,4%, suy dinh dưỡng nhẹ cân chiếm 8,7%, suy dinh dưỡng gầy còm chiếm 7,1% và thừa cân béo phì chiếm 6,5%. Tỷ lệ trẻ em chậm tăng trưởng chiều cao là 29%. 2. Tình trạng sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Mật độ xương và khối lượng xương của những trẻ suy dinh dưỡng thấp còi thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với những trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi với các giá trị trung vị lần lượt là 0,56 và 0,61g/cm2 với mật độ xương; 17,06 và 20,0g với khối lượng xương. Tỷ lệ trẻ có nồng độ canxi ion thấp chiếm 98,1%. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp chiếm 46,3%. 3. Hiệu quả một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương ở trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao tại địa bàn nghiên cứu Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng đường uống bổ sung vitamin K2 kết hợp với truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng và tập luyện giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe xương cho trẻ em từ 7 đến 10 tuổi chậm tăng trưởng chiều cao sau 6 tháng can thiệp, cụ thể như sau: Nhóm can thiệp tăng 2,04±0,78kg cân nặng và 2,63±0,74cm chiều cao, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng 1,7±1,13kg cân nặng và 1,68±0,88cm chiều cao ở nhóm chứng (p<0,05) với hiệu quả can thiệp lần lượt là 1,6% và 0,8%. 127 Hiệu quả can thiệp đối với việc giảm tỷ lệ trẻ chậm tăng trưởng chiều cao giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng là 4,9%. Nhóm can thiệp tăng 0,12±0,07g/cm2 mật độ xương và 8,00±5,02g khối lượng xương, cao hơn có ý nghĩa thống kê so với mức tăng 0,04±0,07g/cm2 mật độ xương và 3,96±2,9g khối lượng xương ở nhóm chứng (p<0,05) với hiệu quả can thiệp lần lượt là 12,7% và 21,3%. Sau can thiệp, toàn bộ 100% số trẻ ở cả hai nhóm đều có nồng độ canxi ion ở mức bình thường. Tỷ lệ trẻ có nồng độ vitamin D thấp ở nhóm can thiệp giảm còn 7,8% và nhóm chứng giảm còn 13,6% với hiệu quả can thiệp là 18,4%. 128 KHUYẾN NGHỊ 1. Hoạt động đánh giá tình trạng dinh dưỡng cho trẻ em tiểu học cần được thực hiện định kỳ, ít nhất là 2 lần mỗi năm học để phát hiện sớm những trường hợp trẻ bị suy dinh dưỡng, nhất là những trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng thấp còi, từ đó đưa ra các biện pháp can thiệp sớm giúp cải thiện tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học. 2. Cần bổ sung vitamin K2 vào các sản phẩm dinh dưỡng sử dụng cho trẻ em lứa tuổi tiểu học bên cạnh các vi chất cần thiết khác như canxi và vitamin D, vitamin A. 3. Cần tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng cho nhà trường và gia đình kết hợp với việc tổ chức các hoạt động thể dục thể thao, đồng thời khuyến khích trẻ vận động thể lực hàng ngày nhằm giúp cho việc tăng trưởng của trẻ em được tối ưu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Thị Thanh Hương (2009). Đặc điểm tăng trưởng và hiệu quả bổ sung sản phẩm giàu dinh dưỡng trên trẻ từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi tại huyện Sóc Sơn- Hà Nội, Luận án tiến sỹ dinh dưỡng, Viện dinh dưỡng. 2. Bozzoli C., Deaton A. and Quintana-Domeque C. (2009). Adult height and childhood disease. Demography, 46 (4), 647-669. 3. Nguyễn Quang Dũng và Nguyễn Thị Hiền (2017). Suy dinh dưỡng ở trẻ tiểu học và các yếu tố liên quan tại một số xã của huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yến. Tạp chí y học Dự phòng, 27 (7), 59. 4. Lê Thị Hợp và Hà Huy Khôi (2010). Dinh dưỡng và gia tăng tăng trưởng của người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 5. Van Summeren M.J., Van Coeverden S.C., Schurgers L.J., et al. (2008). Vitamin K status is associated with childhood bone mineral content. Br J Nutr, 100 (4), 852-858. 6. Van Summeren M.J., Braam L.A., Lilien M.R., et al. (2009). The effect of menaquinone-7 (vitamin K2) supplementation on osteocalcin carboxylation in healthy prepubertal children. Br J Nutr, 102 (8), 1171-1178. 7. Garden E.M., Pallan M., Clarke J., et al. (2020). Relationship between primary school healthy eating and physical activity promoting environments and children's dietary intake, physical activity and weight status: a longitudinal study in the West Midlands, UK. BMJ Open, 10 (12), e040833. 8. Matkovic V., Jelic T., Wardlaw G.M., et al. (1994). Timing of peak bone mass in Caucasian females and its implication for the prevention of osteoporosis. Inference from a cross-sectional model. J Clin Invest, 93 (2), 799-808. 9. Lê Thị Hợp, Lê Bạch Mai và Bùi Thị Nhung (2016). Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh chương trình dinh dưỡng học đường nhằm cải thiện thể lực và trí lực của trẻ em Việt Nam. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 12 (1). 10. Moll G.W., Jr., Rosenfield R.L. and Fang V.S. (1986). Administration of low-dose estrogen rapidly and directly stimulates growth hormone production. Am J Dis Child, 140 (2), 124-127. 11. Silventoinen K., Jelenkovic A., Sund R., et al. (2015). The CODATwins Project: The Cohort Description of Collaborative Project of Development of Anthropometrical Measures in Twins to Study Macro-Environmental Variation in Genetic and Environmental Effects on Anthropometric Traits. Twin Res Hum Genet, 18 (4), 348-360. 12. Jelenkovic A., Hur Y.M., Sund R., et al. (2016). Genetic and environmental influences on adult human height across birth cohorts from 1886 to 1994. Elife, 5. 13. Batty G.D., Shipley M.J., Gunnell D., et al. (2009). Height, wealth, and health: an overview with new data from three longitudinal studies. Econ Hum Biol, 7 (2), 137-152. 14. Al-Agha A.E., Al-Barad W.R., Al-Rahman D.A., et al. (2016). Associations between Various Nutritional Elements and Weight, Height and BMI in Children and Adolescents. 15. Bộ Y Tế và Viện Dinh Dưỡng (2016). Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 16. Edwards M.H., Gregson C.L., Patel H.P., et al. (2013). Muscle size, strength, and physical performance and their associations with bone structure in the Hertfordshire Cohort Study. J Bone Miner Res, 28 (11), 2295-2304. 17. Weber P. (2001). Vitamin K and bone health. Nutrition, 17 (10), 880-887. 18. Hoang Q.Q., Sicheri F., Howard A.J., et al. (2003). Bone recognition mechanism of porcine osteocalcin from crystal structure. Nature, 425 (6961), 977-980. 19. Hauschka P.V. (1986). Osteocalcin: the vitamin K-dependent Ca2+- binding protein of bone matrix. Haemostasis, 16 (3-4), 258-272. 20. Binkley N.C., Krueger D.C., Engelke J.A., et al. (2000). Vitamin K supplementation reduces serum concentrations of under-gamma-carboxylated osteocalcin in healthy young and elderly adults. Am J Clin Nutr, 72 (6), 1523-1528. 21. Shearer M.J. (1995). Vitamin K. Lancet, 345 (8944), 229-234. 22. Ferland G., Sadowski J.A. and O'Brien M.E. (1993). Dietary induced subclinical vitamin K deficiency in normal human subjects. J Clin Invest, 91 (4), 1761-1768. 23. Theuwissen E., Smit E. and Vermeer C. (2012). The role of vitamin K in soft-tissue calcification. Adv Nutr, 3 (2), 166-173. 24. Van Summeren M., Braam L., Noirt F., et al. (2007). Pronounced elevation of undercarboxylated osteocalcin in healthy children. Pediatr Res, 61 (3), 366-370. 25. Thompson D.L., Weltman J.Y., Rogol A.D., et al. (1993). Cholinergic and opioid involvement in release of growth hormone during exercise and recovery. J Appl Physiol (1985), 75 (2), 870-878. 26. Grandner M.A., Schopfer E.A., Sands-Lincoln M., et al. (2015). Relationship between sleep duration and body mass index depends on age. Obesity (Silver Spring), 23 (12), 2491-2498. 27. Herzog D., Fournier N., Buehr P., et al. (2014). Early-onset Crohn's disease is a risk factor for smaller final height. Eur J Gastroenterol Hepatol, 26 (11), 1234-1239. 28. Perkins J.M., Subramanian S.V., Davey Smith G., et al. (2016). Adult height, nutrition, and population health. Nutr Rev, 74 (3), 149-165. 29. Grasgruber P., Cacek J., Kalina T., et al. (2014). The role of nutrition and genetics as key determinants of the positive height trend. Econ Hum Biol, 15, 81-100. 30. Collaboration N.C.D.R.F. (2017). Worldwide trends in body-mass index, underweight, overweight, and obesity from 1975 to 2016: a pooled analysis of 2416 population-based measurement studies in 128.9 million children, adolescents, and adults. Lancet, 390 (10113), 2627-2642. 31. Syahrul S., Kimura R., Tsuda A., et al. (2016). Prevalence of underweight and overweight among school-aged children and it's association with children's sociodemographic and lifestyle in Indonesia. International Journal of Nursing sciences, 3, 169-1771. 32. WHO (2018). Reducing stunting in children - Equity considerations for achieving the Global Nutrition Targets 2025. 33. Akombi B.J., Agho K.E. and Hall J.J. (2017). Child malnutrition in sub- Saharan Africa: A meta-analysis of demographic and health surveys (2006- 2016). PLoS ONE 12 (5), 1-11. 34. Black R.E., Victora C.G., Walker S.P., et al. (2013). Maternal and child undernutrition and overweight in low-income and middle-income countries. The Lancet, 382 (9890), 427-451. 35. Friesland Campina Institute (FCI), the Nutrition Society of Malaysia (NSM) and the University Kebangsaan Malaysia (UKM) (2012). Nutrition and health status of children in South East Asia, South East Asian Nutrition Surveys. 36. Paciorek C.J., Stevens G.A., Finucane M.M., et al. (2013). Children’s height and weight in rural and urban populations in low-income and middle- income countries: a systematic analysis of population-representative data. Lancet Global Health, 1, 300-309. 37. Cole T.J. and Mori H. (2018). Fifty years of child height and weight in Japan and South Korea: Contrasting secular trend patterns analyzed by SITAR. Am J Hum Biol, 30 (1). 38. Pulungan A.B., Julia M., Batubara J.R.L., et al. (2018). Indonesian National Synthetic Growth Charts. Acta Scientific Paediatrics, 1 (1), 20-34. 39. Amornsriwatanakul A., Lester L., Bull F.C., et al. (2017). Are Thai children and youth sufficiently active? prevalence and correlates of physical activity from a nationally representative cross-sectional study. Int J Behav Nutr Phys Act, 14 (1), 72. 40. Truong Q.D., Le N.H.G., Nguyen T.T.L., et al. (2018). The prevalence of malnutrition based on anthropometry among primary schoolchildren in Binh Dinh province, Vietnam in 2016. AIMS Public Health, 5 (3), 203-216. 41. Bùi Thị Nhung và Trần Quang Bình (2014). Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ 6-10 tuổi tại huyện Từ Liên theo các tiêu chuẩn Quốc tế. Tạp chí y học Dự phòng, (160), 76. 42. Nguyễn Thu Vân và Bùi Thị Nhung (2017). Tình trạng trí lực và dinh dưỡng của học sinh lớp 2, 3 và 4 tại trường tiểu học Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội năm 2016. Tạp chí Y học Dự phòng, 27 (7), 234. 43. Hoang N.T.D., Orellana L., Le T.D., et al. (2018). Anthropometric Status among 6–9-Year-Old School Children in Rural Areas in Hai Phong City, Vietnam. Nutrients, 10 (1431), 1-14. 44. Trương Quang Đạt và Nguyễn Thị Tường Loan (2017). Một số chỉ số nhân trắc và dinh dưỡng ở học sinh tiểu học tại các huyện đồng bằng tỉnh Bình Định năm 2016. Tạp chí y học Dự phòng, 27 (8), 322. 45. Bộ Y Tế và Viện Dinh Dưỡng (2015). Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng 2011-2020 và tầm nhìn 2030, Nhà xuất bản Y học. 46. Nguyễn Minh Phương (2017). Nghiên cứu mật độ xương, tình trạng vitamin D và một số markers chu chuyển xương ở trẻ em từ 6 đến 14 tuổi tại thành phố Cần Thơ, Luận án tiến sỹ y học, Trường Đại học Y Hà Nội. 47. Nguyễn Song Tú, Trần Thúy Nga, Hoàng Văn Phương, et al. (2017). Thực trạng dinh dưỡng học sinh tiểu học 7-10 tuổi tại 5 xã của huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên, năm 2017. Tạp chí y học Dự phòng, 27 (6), 172. 48. Chaparro C., Oot L. and Sethuraman K. (2014). Overview of the Nutrition Situation in Seven Countries in Southeast Asia, USAID. 49. Bùi Thị Nhung, Lê Danh Tuyên, Cao Thị Thu Hương và cộng sự (2017). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến thừa cân và béo phì ở trẻ 6-10 tuổi tại quận Thanh Xuân, Hà Nội năm 2011. Tạp chí Y học Dự phòng, 27 (3), 122. 50. Nguyễn Thị Thu Hiền và Nguyễn Thị Thúy Hiệp (2015). Nghiên cứu thể lực của học sinh tiểu học ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 5 (24), 43-50. 51. Nguyen H.T., Eriksson B., Petzold M., et al. (2013). Factors associated with physical growth of children during the first two years of life in rural and urban areas of Vietnam. BMC Pediatr, 13, 149. 52. Levine M.A. (2012). Assessing bone health in children and adolescents. Indian J Endocrinol Metab, 16 (Suppl 2), S205-212. 53. Liu C.T., Karasik D., Zhou Y., et al. (2012). Heritability of prevalent vertebral fracture and volumetric bone mineral density and geometry at the lumbar spine in three generations of the Framingham study. J Bone Miner Res, 27 (4), 954-958. 54. Prentice A., Dibba B., Sawo Y., et al. (2012). The effect of prepubertal calcium carbonate supplementation on the age of peak height velocity in Gambian adolescents. Am J Clin Nutr, 96 (5), 1042-1050. 55. Fleet J.C. (2022). Vitamin D-Mediated Regulation of Intestinal Calcium Absorption. Nutrients, 14 (16). 56. Maresz K. (2015). Proper Calcium Use: Vitamin K2 as a Promoter of Bone and Cardiovascular Health. Integr Med (Encinitas), 14 (1), 34-39. 57. Bùi Thị Nhung và Lê Thị Hợp (2014). Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của sử dụng "Sữa tươi tiệt trùng sữa học đường-có đường"của học sinh mẫu giáo và tiểu học của huyện Nghĩa Đàn, Viện Dinh dưỡng. 58. Holick M.F. and Nieves J.W. (2015). Nutrition and Bone Health 2nd edition. 59. Trilok-Kumar G., Kaur M., Rehman A.M., et al. (2015). Effects of vitamin D supplementation in infancy on growth, bone parameters, body composition and gross motor development at age 3-6 years: follow-up of a randomized controlled trial. Int J Epidemiol, 44 (3), 894-905. 60. Galesanu C., Grozavu I. and Alexandru F.A. (2015). Vitamin D supplementation can improve velocity of growth in children with vitamin D deficiency which are in treatment with RHGH for growth hormone deficiency. Bone Abstracts. 61. Pekkinen M., Viljakainen H., Saarnio E., et al. (2012). Vitamin D is a major determinant of bone mineral density at school age. PLoS ONE, 7 (7), e40090. 62. Rana P., Marwaha R.K., Kumar P., et al. (2014). Effect of vitamin D supplementation on muscle energy phospho-metabolites: a (3)(1)P magnetic resonance spectroscopy-based pilot study. Endocr Res, 39 (4), 152-156. 63. Kanellakis S., Moschonis G., Tenta R., et al. (2012). Changes in parameters of bone metabolism in postmenopausal women following a 12-month intervention period using dairy products enriched with calcium, vitamin D, and phylloquinone (vitamin K(1)) or menaquinone-7 (vitamin K (2)): the Postmenopausal Health Study II. Calcif Tissue Int, 90 (4), 251-262. 64. Nguyen T.H., Sandalinas F., de Sesmaisons A., et al. (2012). Multi- micronutrient-fortified biscuits decreased the prevalence of anaemia and improved iron status, whereas weekly iron supplementation only improved iron status in Vietnamese school children. Br J Nutr, 108 (8), 1419-1427. 65. Do T.K.L., Bui T.N., Nguyen C.K., et al. (2009). Impact of milk consumption on performance and health of primary school children in rural Vietnam. Asia Pac J Clin Nutr, 18 (3), 326-334. 66. Vaz M., Pauline M., Unni U.S., et al. (2011). Micronutrient supplementation improves physical performance measures in Asian Indian school-age children. J Nutr, 141 (11), 2017-2023. 67. Ferland G. (2012). The discovery of vitamin K and its clinical applications. Ann Nutr Metab, 61 (3), 213-218. 68. Nilsson M., Ohlsson C., Oden A., et al. (2012). Increased physical activity is associated with enhanced development of peak bone mass in men: a five- year longitudinal study. J Bone Miner Res, 27 (5), 1206-1214. 69. World Health Organization (2017). Guideline: Assessing and Managing Children at Primary Health-Care Facilities to Prevent Overweight and Obesity in the Context of the Double Burden of Malnutrition: Updates for the Integrated Management of Childhood Illness (IMCI), World Health Organization, Geneva. 70. World Health Organization (2006). WHO child growth standards : length/height-for-age, weight-for-age, weight-for-length, weight-for-height and body mass index-for-age : methods and development / World Health Organization, Department of Nutrition for Health and Development, World Health Organization, Geneva. 71. Becker P.J., Nieman Carney L., Corkins M.R., et al. (2014). Consensus statement of the Academy of Nutrition and Dietetics/American Society for Parenteral and Enteral Nutrition: indicators recommended for the identification and documentation of pediatric malnutrition (undernutrition). J Acad Nutr Diet, 114 (12), 1988-2000. 72. Aydin K., Dalgic B., Kansu A., et al. (2023). The significance of MUAC z- scores in diagnosing pediatric malnutrition: A scoping review with special emphasis on neurologically disabled children. Front Pediatr, 11, 1081139. 73. (2004). Bone Health and Osteoporosis: A Report of the Surgeon General, Rockville (MD). 74. Kuo T.R. and Chen C.H. (2017). Bone biomarker for the clinical assessment of osteoporosis: recent developments and future perspectives. Biomark Res, 5, 18. 75. Hoàng Văn Minh (2018). Khái niệm và thuật ngữ cơ bản sử dụng trong các nghiên cứu khoa học sức khỏe định lượng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 76. Hoàng Văn Minh (2019). Phương pháp nghiên cứu can thiệp: thiết kế và phân tích thống kê, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 77. Ali G.Y., Abdelbary E.E., Albuali W.H., et al. (2017). Bone mineral density & bone mineral content in Saudi children, risk factors and early detection of their affection using dual-emission X-ray absorptiometry (DEXA) scan. Egyptian Pediatric Association Gazette, 65 (3), 65-71. 78. Ringe J.D. and Kipshoven C. (2012). Vitamin D-insufficiency: An estimate of the situation in Germany. Dermatoendocrinol, 4 (1), 72-80. 79. Dixon J. and Miller S. (2018). Successful pregnancies and reduced treatment requirement while breast feeding in a patient with congenital hypoparathyroidism due to homozygous c.68C>A null parathyroid hormone gene mutation. BMJ Case Rep, 2018. 80. de Jonge E., van der Vooren M., Gillis J., et al. (2023). Negative calcium balance despite normal plasma ionized calcium concentrations during citrate anticoagulated continuous venovenous hemofiltration (CVVH) in ICU patients. J Nephrol, 36 (4), 1019-1026. 81. Hamdi R.A. (2013). Evaluation of Serum Osteocalcin Level in Iraqi Postmenopausal Women with Primary Osteoporosis. Journal of the Faculty of Medicine Baghdad, 55 (2), 166-169. 82. Singh S., Kumar D. and Lal A.K. (2015). Serum Osteocalcin as a Diagnostic Biomarker for Primary Osteoporosis in Women. J Clin Diagn Res, 9 (8), RC04-07. 83. Lacombe J., Al Rifai O., Loter L., et al. (2020). Measurement of bioactive osteocalcin in humans using a novel immunoassay reveals association with glucose metabolism and beta-cell function. Am J Physiol Endocrinol Metab, 318 (3), E381-E391. 84. EFSA NDA Panel (2007). Dietary Reference Values for vitamin K. EFSA Journal. 85. Golden M.H. (2009). Proposed recommended nutrient densities for moderately malnourished children. Food Nutr Bull, 30 (3 Suppl), S267-342. 86. Beulens J.W., Booth S.L., van den Heuvel E.G., et al. (2013). The role of menaquinones (vitamin K(2)) in human health. Br J Nutr, 110 (8), 1357-1368. 87. Grober U., Reichrath J., Holick M.F., et al. (2014). Vitamin K: an old vitamin in a new perspective. Dermatoendocrinol, 6 (1), e968490. 88. Bộ Y tế và Viện Dinh Dưỡng (2003). Tổng điều tra dinh dưỡng năm 2000, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 89. Viện Dinh Dưỡng và UNICEF (2011). Tình hình dinh dưỡng Việt Nam 2009 - 2010. Nhà xuất Bản Y học, Hà Nội, 90. Viện Dinh Dưỡng (2020). Tổng điều tra dinh dưỡng 2019-2020. 91. Trần Tú Nguyệt, Phạm Thị Tâm, Lâm Nhựt Anh và cộng sự (2021). Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ năm 2018-2019. Tạp chí y dược học Cần Thơ, 34. 92. Nguyễn Thị Mai Anh (2006). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của học sinh 6 - 8 tuổi Trường tiểu học Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, Trường Đại học Y tế công cộng. 93. Hồ Thu Mai, Phạm Văn Hoan và Nguyễn Hữu Bắc (2010). Tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần và một số yếu tố liên quan của học sinh 6-14 tuổi tại huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 6 (2), 23-30. 94. Lê Thị Hợp và Lê Nguyễn Bảo Khanh (2012). Tình trạng dinh dưỡng và phát triển thể lực của học sinh phổ thông khu vực thành thị, nông thôn và miền núi tại 3 tỉnh thành phía Bắc. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 8 (2), 1-8. 95. Lê Thị Hiệp, Lê Danh Tuyên, Trần Thúy Nga, et al. (2022). tình trạng dinh dưỡng của học sinh tiểu học ở ba tỉnh miền Bắc năm 2020. Tạp chí Y học Việt Nam, 516 (1). 96. Lê Thị Kiều Oanh, Nguyễn Thị Phương Lan và Phạm Trung Kiên (2018). Thực trạng dinh dưỡng của học sinh lứa tuổi tiểu học tại thành phố Lạng Sơn. Tạp chí Y học Việt Nam, 472 (Số đặc biệt). 97. Phạm Công Danh và Phạm Văn Phú (2020). Tình trạng dinh dưỡng ở học sinh tiểu học tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019. Y học cộng đồng, 58 (5), 142-148. 98. Lê Thị Thanh Hoa, Trương Thị Thuỳ Dương, Trần Thị Huyền Trang, et al. (2022). thực trạng thừa cân, béo phì ở học sinh hai trường tiểu học huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Tạp chí Y học Việt Nam, 515 (1). 99. Đỗ Thị Mỹ Hạnh và Trần Thị Minh Hạnh (2018). Thực trạng thừa cân, béo phì và một số yếu tố liên quan ở học sinh tiểu học thị trấn Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh năm 2016. Tạp chí Y học Tp. Hồ Chí Minh, 22 (1), 355-359. 100. Nguyễn Thùy Linh, Lê Thị Hương và Dương Thị Phượng (2018). Thực trạng thừa cân béo phì và bữa ăn học đường của học sinh một trường tiểu học tại Hà Nội năm 2017 và 2018. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 14 (2), 35-42. 101. Ngô Ngọc Diệu và Nguyễn Thị Thanh Tâm (2018). Tình trạng dinh dưỡng và bữa ăn trưa của học sinh tại trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân thành phố Thái Nguyên. Tạp chí Y học Việt Nam, 472 (Số đặc biệt), 914-921. 102. Nguyễn Thị Khánh Huyền, Nguyễn Trọng Hưng và Nguyễn Thị Hương Lan (2020). Tình trạng dinh dưỡng của trẻ 6 - 36 tháng tuổi khám tư vấn dinh dưỡng tại viện dinh dưỡng năm 2018. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 129 (5). 103. Chu Thị Phương Mai, Nguyễn Thị Thúy Hồng và Nguyễn Thị Hằng (2022). Thực trạng thiếu vi chất ở trẻ từ 6 tháng đến dưới 5 tuổi. Tạp chí Y học Việt Nam, 515 (2). 104. Nguyễn Song Tú, Trần Thúy Nga và Phạm Vĩnh An (2021). Thực trạng thiếu vitamin D và một số yếu tố liên quan ở trẻ suy dinh dưỡng ở các trường mầm non, tiểu học tại hai huyện Lục Yên và Yên Bình, tỉnh Yên Bái, năm 2017. Tạp chí y học Dự phòng, 30 (5), 73-81. 105. Lưu Thị Mỹ Thục, Nguyễn Thái Hà và Bùi Thị Ngọc Ánh (2019). Thiếu hụt vitamin d ở trẻ 6 - 11 tuổi tại bệnh viện Nhi trung ương và một số yếu tố liên quan. Tạp chí Nhi khoa, 12 (3), 58-64. 106. Doan H.C., Vu T.T.H., Le T.N., et al. (2017). A cross-sectional survey on status of nutrition and vitamin d dificinecy among nine years old children at primary schools in Hai Duong city. Journal of military pharma-medicine, 6, 163-168. 107. Đoàn Huy Cường (2018). Thực trạng dinh dưỡng, canxi, vitamin D và hiệu quả can thiệp bằng chế độ ăn giàu canxi, bổ sung vitamin D cho trẻ em 9 tuổi tại thành phố Hải Dương, Luận án Tiến sĩ y học, Học viện Quân Y 103. 108. Schundeln M.M., Bader L., Kiewert C., et al. (2017). Plasma concentrations of osteocalcin are associated with the timing of pubertal progress in boys. J Pediatr Endocrinol Metab, 30 (2), 141-147. 109. Ambroszkiewicz J., Gajewska J. and Laskowska-Klita T. (2002). Serum osteocalcin and bone alkaline phosphatase in healthy children in relation to age and gender. Med Wieku Rozwoj, 6 (3), 257-265. 110. Lo S.F., Huang J.L., Chen L.C., et al. (1997). Serum osteocalcin levels of normal children in Taiwan. Zhonghua Min Guo Xiao Er Ke Yi Xue Hui Za Zhi, 38 (6), 443-447. 111. Sen A.T., Derman O. and Kinik E. (2000). The relationship between osteocalcin levels and sexual stages of puberty in male children. Turk J Pediatr, 42 (4), 281-285. 112. Abrams S.A., Mushi A., Hilmers D.C., et al. (2003). A Multinutrient- Fortified Beverage Enhances the Nutritional Status of Children in Botswana. J Nutr, 133 (6), 1834-1840. 113. Latham M.C., Ash D.M., Makola D., et al. (2003). Efficacy trials of a micronutrient dietary supplement in schoolchildren and pregnant women in Tanzania. Food Nutr Bull, 24 (4 Suppl), S120-128. 114. Hyder S.M., Haseen F., Khan M., et al. (2007). A multiple-micronutrient- fortified beverage affects hemoglobin, iron, and vitamin A status and growth in adolescent girls in rural Bangladesh. J Nutr, 137 (9), 2147-2153. 115. Sarma K.V., Udaykumar P., Balakrishna N., et al. (2006). Effect of micronutrient supplementation on health and nutritional status of schoolchildren: growth and morbidity. Nutrition, 22 (1 Suppl), S8-14. 116. Sivakumar B., Vijayaraghavan K., Vazir S., et al. (2006). Effect of micronutrient supplement on health and nutritional status of schoolchildren: study design. Nutrition, 22 (1 Suppl), S1-7. 117. Shatrugna V., Balakrishna N. and Krishnaswamy K. (2006). Effect of micronutrient supplement on health and nutritional status of schoolchildren: bone health and body composition. Nutrition, 22 (1 Suppl), S33-39. 118. Vazir S., Nagalla B., Thangiah V., et al. (2006). Effect of micronutrient supplement on health and nutritional status of schoolchildren: mental function. Nutrition, 22 (1 Suppl), S26-32. 119. Manger M.S., McKenzie J.E., Winichagoon P., et al. (2008). A micronutrient-fortified seasoning powder reduces morbidity and improves short-term cognitive function, but has no effect on anthropometric measures in primary school children in northeast Thailand: a randomized controlled trial. Am J Clin Nutr, 87 (6), 1715-1722. 120. Winichagoon P., McKenzie J.E., Chavasit V., et al. (2006). A multimicronutrient-fortified seasoning powder enhances the hemoglobin, zinc, and iodine status of primary school children in North East Thailand: a randomized controlled trial of efficacy. J Nutr, 136 (6), 1617-1623. 121. Osendarp S.J., Baghurst K.I., Bryan J., et al. (2007). Effect of a 12-mo micronutrient intervention on learning and memory in well-nourished and marginally nourished school-aged children: 2 parallel, randomized, placebo- controlled studies in Australia and Indonesia. Am J Clin Nutr, 86 (4), 1082-1093. 122. Solon F.S., Sarol J.N., Jr., Bernardo A.B., et al. (2003). Effect of a multiple-micronutrient-fortified fruit powder beverage on the nutrition status, physical fitness, and cognitive performance of schoolchildren in the Philippines. Food Nutr Bull, 24 (4 Suppl), S129-140. 123. Zimmermann M.B., Connolly K., Bozo M., et al. (2006). Iodine supplementation improves cognition in iodine-deficient schoolchildren in Albania: a randomized, controlled, double-blind study. Am J Clin Nutr, 83 (1), 108-114. 124. Best C., Neufingerl N., Del Rosso J.M., et al. (2011). Can multi- micronutrient food fortification improve the micronutrient status, growth, health, and cognition of schoolchildren? A systematic review. Nutr Rev, 69 (4), 186-204. 125. Nga T.T., Winichagoon P., Dijkhuizen M.A., et al. (2009). Multi- micronutrient-fortified biscuits decreased prevalence of anemia and improved micronutrient status and effectiveness of deworming in rural Vietnamese school children. J Nutr, 139 (5), 1013-1021. 126. Mugunthan S.R., Rao Y.K., Midha T., et al. (2017). Effect of vitamin D supplementation on growth parameters of children with vitamin D deficiency: a community based randomized controlled trial. International Journal of contemporary pediatrics, 4 (6). 127. Sazawal S., Habib A., Dhingra U., et al. (2013). Impact of micronutrient fortification of yoghurt on micronutrient status markers and growth - a randomized double blind controlled trial among school children in Bangladesh. BMC Public Health, 13, 514. 128. Khadilkar A., Kadam N., Chiplonkar S., et al. (2012). School-based calcium-vitamin D with micronutrient supplementation enhances bone mass in underprivileged Indian premenarchal girls. Bone, 51 (1), 1-7. 129. Yang Y.X., Han J.H., Shao X.P., et al. (2002). Effect of micronutrient supplementation on the growth of preschool children in China. Biomed Environ Sci, 15 (3), 196-202. 130. Hoàng Khải Lập và Hà Xuân Sơn (2006). Hiệu quả phục hồi dinh dưỡng trẻ em bằng giáo dục dinh dưỡng cộng đồng người mẹ. Tạp chí y học Dự phòng, XVI (85). 131. Thủ tướng chính phủ (2022). Phê duyệt chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến năm 2045. 132. Panis B., Vermeer C., van Kroonenburgh M., et al. (2006). Effect of calcium, vitamins K1 and D3 on bone in galactosemia. Bone, 39 (5), 1123-1129. 133. Panis B., van Kroonenburgh M.J. and Rubio-Gozalbo M.E. (2007). Proposal for the prevention of osteoporosis in paediatric patients with classical galactosaemia. J Inherit Metab Dis, 30 (6), 982. 134. Kalkwarf H.J., Khoury J.C., Bean J., et al. (2004). Vitamin K, bone turnover, and bone mass in girls. Am J Clin Nutr, 80 (4), 1075-1080. 135. Inoue T., Sugiyama T., Matsubara T., et al. (2001). Inverse correlation between the changes of lumbar bone mineral density and serum undercarboxylated osteocalcin after vitamin K2 (menatetrenone) treatment in children treated with glucocorticoid and alfacalcidol. Endocr J, 48 (1), 11-18. 136. Ozdemir M.A., Yilmaz K., Abdulrezzak U., et al. (2013). The efficacy of vitamin K2 and calcitriol combination on thalassemic osteopathy. J Pediatr Hematol Oncol, 35 (8), 623-627. 137. Rianthavorn P., Pisutikul K., Deekajorndech T., et al. (2012). Prevention of bone loss in children receiving long-term glucocorticoids with calcium and alfacalcidol or menatetrenone. J Pediatr Endocrinol Metab, 25 (3-4), 307-312. 138. Newberry S.J., Chung M., Shekelle P.G., et al. (2014). Vitamin D and Calcium: A Systematic Review of Health Outcomes (Update), Rockville (MD): Agency for Healthcare Research and Quality (US). 139. Cosenza L., Pezzella V., Nocerino R., et al. (2013). Calcium and vitamin D intakes in children: a randomized controlled trial. BMC Pediatr, 13, 86. 140. Thacher T.D., Fischer P.R. and Pettifor J.M. (2014). Vitamin D treatment in calcium-deficiency rickets: a randomised controlled trial. Archives of disease in childhood, 99 (9), 807-811. 141. Kuang X., Liu C., Guo X., et al. (2020). The combination effect of vitamin K and vitamin D on human bone quality: a meta-analysis of randomized controlled trials. Food Funct, 11 (4), 3280-3297. 142. Solmaz I., Ozdemir M.A., Unal E., et al. (2021). Effect of vitamin K2 and vitamin D3 on bone mineral density in children with acute lymphoblastic leukemia: a prospective cohort study. J Pediatr Endocrinol Metab, 34 (4), 441-447. 143. Hu L., Ji J., Li D., et al. (2021). The combined effect of vitamin K and calcium on bone mineral density in humans: a meta-analysis of randomized controlled trials. J Orthop Surg Res, 16 (1), 592. 144. Sato T., Inaba N. and Yamashita T. (2020). MK-7 and Its Effects on Bone Quality and Strength. Nutrients, 12 (4). 145. Du C.X. and Li N. (2022). Serum vitamin K(2) level and its association with bone metabolism markers in 1 732 children. Zhongguo Dang Dai Er Ke Za Zhi, 24 (10), 1130-1135. 146. Li W., Zhang S., Liu J., et al. (2019). Vitamin K2 stimulates MC3T3‑E1 osteoblast differentiation and mineralization through autophagy induction. Mol Med Rep, 19 (5), 3676-3684. 147. Hamilton W. and Lin B.-H. (2004). Effects Of Food Assistance And Nutrition Programs On Nutrition And Health: Volume 3, Literature Review. United States Department of Agriculture, Economic Research Service, Food Assistance and Nutrition Research Reports. 148. Kohri T., Kaba N., Itoh T., et al. (2016). Effects of the National School Lunch Program on Bone Growth in Japanese Elementary School Children. Journal of Nutritional Science and Vitaminology, 62 (5), 303-309. 149. Lee J.H., Kim W.K. and Kim S.H. (2019). Participation in the School Milk Program Contributes to Increased Milk Consumption and Dietary Nutrient Intake by Middle School Students in South Korea. Nutrients, 11 (10). 150. Rana R.K., Nag A.R., Soren S., et al. (2022). Impact of milk on malnutrition and cognitive skills among school children: Evidence from gift milk initiative from a tribal state of India. J Family Med Prim Care, 11 (6), 2945-2951. 151. Thủ tướng Chính phủ (2016). Quyết định số 1340/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Sữa học đường nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng góp phần nâng cao tầm vóc trẻ em mẫu giáo và tiểu học đến năm 2020. 152. Viện Dinh Dưỡng (2014). Hiệu quả cải thiện tình trạng dinh dưỡng và vi chất dinh dưỡng của sử dụng sữa tươi TH True milk bổ sung vi chất “ Sữa tươi tiệt trùng sữa học đường - có đường” của học sinh mẫu giáo và tiểu học của huyện Nghĩa Đàn, Viện Dinh Dưỡng, Hà Nội. 153. Bùi Thị Thanh Hoa, Lê Thị Hợp, Nguyễn Cảnh Phú và cộng sự (2020). hiệu quả của chương trình sữa học đường và một số yếu tố liên quan đối với tình trạng dinh dưỡng, một số vi chất dinh dưỡng (vitamin a, kẽm) và tình trạng thiếu máu của học sinh tiểu học tại 2 huyện và thành phố Vinh tỉnh Nghệ An năm 2019. Tạp chí Dinh dưỡng và Thực phẩm, 16 (3+4), 12-22. 154. Chibuzor M.T., Graham-Kalio D., Osaji J.O., et al. (2020). Vitamin D, calcium or a combination of vitamin D and calcium for the treatment of nutritional rickets in children. Cochrane Database Syst Rev, 4 (4), CD012581. 155. Capozzi A., Scambia G., Migliaccio S., et al. (2020). Role of vitamin K(2) in bone metabolism: a point of view and a short reappraisal of the literature. Gynecol Endocrinol, 36 (4), 285-288. 156. Karpinski M., Popko J., Maresz K., et al. (2017). Roles of Vitamins D and K, Nutrition, and Lifestyle in Low-Energy Bone Fractures in Children and Young Adults. J Am Coll Nutr, 36 (5), 399-412. 157. Dudley D.A., Cotton W.G. and Peralta L.R. (2015). Teaching approaches and strategies that promote healthy eating in primary school children: a systematic review and meta-analysis. Int J Behav Nutr Phys Act, 12, 28. 158. Partida S., Marshall A., Henry R., et al. (2018). Attitudes toward Nutrition and Dietary Habits and Effectiveness of Nutrition Education in Active Adolescents in a Private School Setting: A Pilot Study. Nutrients, 10 (9), 159. Doustmohammadian A., Omidvar N. and Shakibazadeh E. (2020). School-based interventions for promoting food and nutrition literacy (FNLIT) in elementary school children: a systematic review protocol. Syst Rev, 9 (1), 87. 160. Alves J.G.B. and Alves G.V. (2019). Effects of physical activity on children's growth. J Pediatr (Rio J), 95 Suppl 1, 72-78. 161. Dimitri P., Joshi K., Jones N., et al. (2020). Moving more: physical activity and its positive effects on long term conditions in children and young people. Archives of disease in childhood, 105 (11), 1035-1040. 162. Karlsson M.K. and Rosengren B.E. (2020). Exercise and Peak Bone Mass. Curr Osteoporos Rep, 18 (3), 285-290. 163. Proia P., Amato A., Drid P., et al. (2021). The Impact of Diet and Physical Activity on Bone Health in Children and Adolescents. Front Endocrinol (Lausanne), 12, 704647. PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 1 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG A1. Họ và tên trẻ: .......................................................... A2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ A3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| A4. Lớp: ............... A5. Cân nặng: |__||__|.|__| kg A6. Chiều cao: |__||__|.|__| cm Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ............................... Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ............................... PHỤ LỤC 2.1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 2 PHIẾU SÀNG LỌC ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ............................... Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ............................... PHỤ LỤC 2.2 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU CUNG CẤP THÔNG TIN NGHIÊN CỨU PHỤ LỤC 2.3 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 2 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE XƯƠNG B1. Họ và tên trẻ: .......................................................... B2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ B3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| B4. Lớp: ............... Kết quả xét nghiệm B5. Mật độ xương: |__|.|__||__| g/cm2 B6. Khối lượng xương: |__||__|.|__||__| g B7. Nồng độ Canxi ion: |__|.|__||__| mmol/l B8. Nồng độ Vitamin D: |__||__|.|__||__| ng/mL B9. Nồng độ Osteocalcin: |__||__||__|.|__||__| ng/mL Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ............................... Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ............................... PHỤ LỤC 3.1 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 3 PHIẾU SÀNG LỌC ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU Kết luận: Trẻ có dấu hiệu dậy thì và/hoặc đã/đang có các bệnh lý, tiền sử và tình trạng cần được loại trừ: Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| Điều tra viên:
Kiểm soát viên: ...............................
............................... Chữ ký: ...............................
Chữ ký: ............................... PHỤ LỤC 3.2 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHỤ LỤC 3.3 Mã số: |__|.|__|.|__||__||__| PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN MỤC TIÊU 3 ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG SỨC KHỎE XƯƠNG C1. Họ và tên trẻ: .......................................................... C2. Giới: |__|. Nam |__|. Nữ C3. Ngày sinh: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| C4. Lớp: ............... Kết quả đo nhân trắc C5. Cân nặng: |__||__|.|__| kg C6. Chiều cao: |__||__||__|.|__| cm Kết quả xét nghiệm C7. Mật độ xương: |__|.|__||__| g/cm2 C8. Khối lượng xương: |__||__|.|__||__| g C9. Nồng độ Canxi ion: |__|.|__||__| mmol/l C10. Nồng độ Vitamin D: |__||__|.|__||__| ng/mL C11. Nồng độ Osteocalcin: |__||__||__|.|__||__| ng/mL Ngày thu thập: Ngày |__||__| tháng |__||__| năm 20|__||__| Điều tra viên: ............................... Chữ ký: ............................... Kiểm soát viên: ............................... Chữ ký: ...............................Tuổi
Nam
Nữ
Chung
p
>0,05
(2 test)
7 tuổi
8 tuổi
9 tuổi
10 tuổi
Chung
n
24
37
29
30
120
%
24,5
29,2
25,5
20,8
100
%
11,1
17,1
13,4
13,9
55,6
n
53
63
55
45
216
n
29
26
26
15
96
%
13,4
12,0
12,0
6,9
44,4
Bảng 3.2 cho thấy trong số 216 trẻ chậm tăng trưởng chiều cao đồng ý
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
Họ tên trẻ: ………………………….… Giới tính: |__| Nam |__| Nữ
Ngày sinh: |__||__|/|__||__|/20|__||__| Lớp: ……………………………………
CÁC TIÊU CHUẨN CHỌN LỰA
Có
Không
Trẻ 7-10 tuổi (lớp 2 - lớp 5)
Trẻ đã đánh giá tình trạng dinh dưỡng
Trẻ chậm tặng trưởng chiều cao
Bố mẹ/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu
Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “không”
CÁC TIÊU CHUẨN LOẠI TRỪ
Có
Không
Trẻ nghỉ ốm/ vắng mặt tại thời điểm tiến hành nghiên cứu
Trẻ có tình trạng sức khỏe không thể tham gia lấy mẫu xét
nghiệm
Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “có”
Trẻ được lựa chọn
KẾT
LUẬN
Trẻ không được lựa chọn
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
PHẦN I: THÔNG TIN NGHIÊN CỨU
BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NGHIÊN CỨU
Bạn và con bạn được mời tham gia nghiên cứu đánh giá tình trạng sức khỏe xương
của trẻ chậm tăng trưởng chiều cao thuộc giai đoạn 2 của đề tài “Hiệu quả bổ sung
vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng dinh dưỡng, sức
khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình”. Bạn được
mời tham gia nghiên cứu này do cán bộ y tế của đề tài nghiên cứu cho rằng con bạn
có các điều kiện phù hợp với nghiên cứu.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Công ty cổ phần sữa quốc tế IDP, dưới sự chỉ đạo của
chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ninh Thị Nhung, đồng chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Nguyễn
Xuân Ninh, nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự và đội ngũ nghiên cứu
của Trường Đại Học Y Dược Thái Bình. Nghiên cứu này được phê duyệt bởi Hội Đồng
Đạo Đức Trong Nghiên Cứu Y sinh của Đại Học Y Dược Thái Bình và Hội Đồng Đạo
Đức trong nghiên cứu Y sinh học của Viện Y học ứng dụng Việt Nam.
Nghiên cứu này sẽ thực hiện trên khoảng hơn 200 trẻ em trong độ tuổi từ 7-10 tuổi.
Khi tham gia vào nghiên cứu, con bạn được đánh giá tình trạng sức khỏe xương.
Tài liệu này sẽ ghi rõ các quyền lợi và yêu cầu đối với bạn và con bạn (nếu bạn quyết
định tham gia), các thủ tục tiến hành trong nghiên cứu và các thuận lợi cũng như rủi
ro sẽ có thể xảy ra khi tham gia nghiên cứu.
Nếu bạn không chắc mình hiểu rõ tất cả các giải thích này, bạn có thể trao đổi với
Thạc sỹ, Bác sĩ Nguyễn Hữu Ngự, hay một nhân viên y tế khác trong chương trình
nghiên cứu. Các câu hỏi của bạn sẽ được giải đáp thỏa đáng.
QUYỀN LỢI CỦA BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU
Khi tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn có các quyền lợi như sau:
• Được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu và cách thức nghiên cứu viên lên
kế hoạch thực hiện nghiên cứu;
• Được xét nghiệm 3 chỉ số (vitamin D, Canxi, Osteocalcin), đo mật độ xương
và khối lượng xương nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe xương miễn phí (với
kinh phí ước tính khoảng 1.000.000 VND).
• Được tư vấn miễn phí về điều trị và phòng bệnh khác khi cần thiết.
• Được tự do trong quyết định có tham gia nghiên cứu hay không mà không bị
bất kỳ đe dọa, gây ảnh hưởng hay dụ dỗ gì từ nhóm nghiên cứu, nhân viên
phòng khám, hoặc các nghiên cứu viên liên quan đến nghiên cứu.
• Được quyết định dừng tham gia nghiên cứu vào bất cứ thời gian nào
• Được truy cập các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu được công bố
công khai sau khi kết thúc nghiên cứu.
YÊU CẦU ĐỐI VỚI BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU
Dưới đây là những yêu cầu đối với bạn và con bạn nếu bạn quyết định tham gia
nghiên cứu:
• Báo với cán bộ nghiên cứu về bất kỳ vấn đề liên quan đến sức khỏe nào xuất
hiện với con của bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu, bao gồm hiện tượng,
triệu chứng, nơi khám/nằm viện và phương thức điều trị nếu có.
• Trong quá trình tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn KHÔNG NÊN tham gia
bất kỳ nghiên cứu nào khác mà không có sự chấp thuận của cán bộ nghiên cứu.
• Báo với cán bộ nghiên cứu nếu bạn muốn dừng tiếp tục tham gia nghiên cứu.
• Trả lời các câu hỏi liên quan đến vấn đề sức khỏe của con bạn trong thời gian
tham gia nghiên cứu.
• Nếu quyết định tham gia nghiên cứu, bạn cần ký vào bản chấp nhận tham gia
nghiên cứu.
RỦI RO VÀ CÁC PHẢN ỨNG BẤT LỢI
Nghiên cứu không có rủi ro nào cả, trừ việc con bạn được lấy máu tĩnh mạch 3ml để
làm các xét nghiệm theo yêu cầu của nghiên cứu, có thể gây đau và khó chịu một
chút cho con bạn. Tuy nhiên bác sỹ và kỹ thuật viên sẽ tuân thủ các quy định về vô
trùng, phòng tránh lây nhiễm, giảm đau trong quá trình lấy máu.
Nếu bạn có câu hỏi gì liên quan đến các nguy cơ có liên quan đến việc tham gia vào
nghiên cứu, xin vui lòng hỏi nhóm nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào.
ĐIỀU TRỊ VÀ BỒI THƯỜNG CHO TÁC DỤNG PHỤ, THƯƠNG TÍCH,
TÀN TẬT
Nếu con bạn bị thương tích hoặc gặp phải vấn đề y tế do tham gia vào nghiên cứu,
con bạn sẽ được điều trị và chăm sóc các vấn đề y tế này tại địa phương đến khi tình
trạng bệnh ổn định, bạn không phải trả chi phí cho chăm sóc điều trị này.
BẢO MẬT THÔNG TIN
Tất cả các thông tin cá nhân của bạn được giữ kín, không tiết lộ cho bên thứ 3, chỉ
được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu viên sẽ sử dụng các thông tin về
tình trạng sức khỏe của trẻ bao gồm cả những thông tin về tên, địa chỉ, số điện thoại,
tiền sử bệnh và hiện nay cũng như các thông tin từ các lần thăm khám.
Các thông tin này chỉ trình bày dưới dạng số liệu và sẽ không chỉ ra một cách cụ thể
thông tin về bạn và con bạn. Và nếu như con bạn gặp những tác dụng không mong
muốn do nghiên cứu, cán bộ nghiên cứu sẽ chia sẻ những thông tin này với nhà tài
trợ để có thể giúp giải quyết các vấn đề này. Các thông tin của bạn và con bạn trong
quá trình nghiên cứu được dùng để đánh giá hiệu quả/hiệu lực và các vấn đề liên quan
tới sản phẩm nghiên cứu và công bố công khai.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi gì trong suốt quá trình nghiên cứu, bạn có thể liên hệ với
Nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự.
Địa chỉ: Đại học Y Dược Thái Bình. Điện thoại: 0988347506
PHẦN II: BẢN CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Họ và tên học sinh:_________________________________________________
Ngày sinh: ________________________________________________________
Lớp: ___________________________ Trường: _______________________
• Tôi đã được đọc/nghe về mục đích và mục tiêu của giai đoạn 2 của nghiên cứu
“Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng
dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái
Bình”, được cung cấp cơ hội đặt câu hỏi và có thời gian hợp lý để suy xét vấn đề.
• Tôi hiểu được quyền lợi của bản thân và của con tôi khi tham gia vào nghiên
cứu bao gồm việc được lấy mẫu xét nghiệm đánh giá tình trạng sức khỏe xương bởi
những chuyên gia, kỹ thuật viên chuyên nghiệp không gây nguy hiểm đến sức khỏe.
• Tôi hiểu rằng việc tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện và có
thể dừng việc tham gia nghiên cứu khi tôi muốn.
• Tôi hiểu rằng tất cả các nội dung nghiên cứu này được thông qua và chấp thuận
của Hội đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức của Đại học Y Dược Thái Bình, Hội
đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức Viện Y học ứng dụng Việt Nam, và sự đồng ý
của ban giám hiệu trường tiểu học………………………………………...
• Tôi đồng ý cho con tôi tham gia nghiên cứu này.
Số điện thoại: ____________________
Họ và tên: _________________________
CMND: _________________________
Quan hệ với trẻ:_____________________ Chữ ký: _________________________
Cam kết của Nghiên cứu viên
Tôi đã cung cấp thông tin trao đổi bằng lời và trên giấy tờ liên quan đến nghiên cứu này.
Tôi đồng ý trả lời bất kỳ câu hỏi nào trong tương lai liên quan đến nghiên cứu này
trong khả năng có thể.
Tôi sẽ tuân thủ các quy trình nghiên cứu đã được phê duyệt.
Tên của Nghiên cứu viên
Chữ ký của Nghiên cứu viên
______________________________
_______________________________
Thái Bình, giờ: …….. ngày/tháng/năm:……………
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
Họ tên trẻ: ………………………….… Giới tính: |__| Nam |__| Nữ
Ngày sinh: |__||__|/|__||__|/20|__||__| Lớp: ……………………………………
Phần I: Khám sàng lọc
1. Khám lâm sàng
Hô hấp
|__| Viêm phế quản
|__| Viêm phổi
|__| Khác:...................
Tiêu hóa
|__| Tiêu chảy
|__| Viêm gan
|__| Khác:...................
Tim mạch
|__| Suy tim
|__| Tim bẩm sinh
|__| Khác:...................
Tiết niệu
|__| HC thận hư
|__| Khác:...................
|__| Viêm cầu thận
cấp
Nội tiết
|__| Cường cận giáp
|__| Khác:...................
|__| Cường giáp
trạng
Cơ xương khớp
|__| Viêm khớp mạn
|__| Đa u tủy xương
|__| Khác:...................
|__| Down
|__| Khác:...................
Tâm thần kinh
|__| Tự kỷ
|__| Không
Dị tật bẩm sinh
|__| Có (ghi rõ)
.................................................
Lồng ngực
|__| Khác..........
2. Khám các biểu hiện của tiền dạy thì, dạy thì
|__| Biến dạng
|__| Ngực gà
|__| Bình
thường
Trứng cá ở mặt
|__| Không
Lông mu
|__| Không
Vú
|__| Chưa phát triển
Tiếng nói
|__| Chưa vỡ tiếng
Ria mép (Bé trai)
|__| Chưa
|__| Chưa
|__| Có
|__| Có
|__| Phát triển
|__| Vỡ tiếng
|__| Có
|__| Có
Kinh nguyệt (Bé
gái)
Các đặc tính sinh dục khác (ghi rõ) :
...................................................................................
|__| Có
|__| Không
Phần II: Lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu
Không
Có
CÁC TIÊU CHUẨN CHỌN LỰA
Trẻ 7-10 tuổi (lớp 2 - lớp 5)
Trẻ đã đánh giá tình trạng sức khỏe xương
Trẻ chậm tặng trưởng chiều cao
Bố mẹ/người giám hộ đồng ý cho trẻ tham gia nghiên cứu
Trẻ có thời gian học tập và sinh sống tại địa bàn từ 3 tháng trở
lên
Cam kết không sử dụng bất kỳ một sản phẩm bổ sung hoặc thực
phẩm bảo vệ sức khỏe trong toàn bộ khoảng thời gian nghiên cứu
Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “không”
Có
Không
CÁC TIÊU CHUẨN LOẠI TRỪ
Trẻ thừa cân/béo phì
Khám sàng lọc: Trẻ có dấu hiệu dậy thì và/hoặc đã/đang có các
bệnh lý, tiền sử và tình trạng cần được loại trừ
Trẻ có tiền sử kém dung nạp lactose
Trẻ có bố mẹ là người gốc nước ngoài
Trẻ sẽ không được chọn nếu có bất cứ tiêu chuẩn bên trên nào chọn “có”
Trẻ được lựa chọn
KẾT
LUẬN
Trẻ không được lựa chọn
PHIẾU CUNG CẤP THÔNG TIN NGHIÊN CỨU
Tên đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải
thiện tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện
Tiền Hải, tỉnh Thái Bình
PHẦN I: THÔNG TIN NGHIÊN CỨU
BẢN CHẤT VÀ MỤC ĐÍCH CỦA NGHIÊN CỨU
Bạn và con bạn được mời tham gia nghiên cứu can thiệp sản phẩm thực phẩm bổ sung
dinh dưỡng giúp phát triển tối ưu chiều cao, cân nặng. Bạn được mời tham gia nghiên
cứu này do cán bộ y tế của đề tài nghiên cứu cho rằng con bạn có các điều kiện phù
hợp với nghiên cứu.
Sản phẩm bổ sung này đã được sản xuất dành riêng cho nghiên cứu theo các tiêu
chuẩn an toàn thực phẩm. Sản phẩm sẽ được cung cấp miễn phí cho con bạn trong
suốt quá trình bạn tham gia nghiên cứu này.
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Công ty cổ phần sữa quốc tế IDP, dưới sự chỉ đạo
của chủ nhiệm đề tài: PGS.TS Ninh Thị Nhung, đồng chủ nhiệm đề tài: PGS.TS
Nguyễn Xuân Ninh, nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự và đội ngũ
nghiên cứu của Trường Đại Học Y Dược Thái Bình. Nghiên cứu này được phê duyệt
bởi Hội Đồng Đạo Đức Trong Nghiên Cứu Y sinh của Đại Học Y Dược Thái Bình
và Hội Đồng Đạo Đức trong nghiên cứu Y sinh học của Viện Y học ứng dụng Việt
Nam.
Nghiên cứu này sẽ thực hiện trên khoảng hơn 200 trẻ em trong độ tuổi từ 7-10 tuổi.
Khi tham gia vào nghiên cứu, con bạn được uống sản phẩm và theo dõi sự phát triển
chiều cao, cân nặng, tình trạng sức khỏe xương trong thời gian 180 ngày. Con bạn sẽ
được khám và xét nghiệm thêm 2 lần vào ngày thứ 90 và ngày thứ 180 của nghiên cứu.
Tài liệu này sẽ ghi rõ các quyền lợi và yêu cầu đối với bạn và con bạn (nếu bạn quyết
định tham gia), các thủ tục tiến hành trong nghiên cứu và các thuận lợi cũng như rủi
ro sẽ có thể xảy ra khi tham gia nghiên cứu.
Nếu bạn không chắc mình hiểu rõ tất cả các giải thích này, bạn có thể trao đổi với
Thạc sỹ, Bác sĩ Nguyễn Hữu Ngự, hay một nhân viên y tế khác trong chương trình
nghiên cứu. Các câu hỏi của bạn sẽ được giải đáp thỏa đáng.
QUYỀN LỢI CỦA BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU
Khi tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn có các quyền lợi như sau:
• Được thông báo về mục tiêu của nghiên cứu và cách thức nghiên cứu viên lên
kế hoạch thực hiện nghiên cứu;
• Được uống sữa hàng ngày trong vòng 180 ngày, mỗi ngày 1 hộp, kể cả 2 ngày
nghỉ cuối tuần.
• Được xét nghiệm 3 chỉ số (vitamin D, Canxi, Osteocalcin), đo mật độ xương
và khối lượng xương nhằm đánh giá tình trạng sức khỏe xương miễn phí (với
kinh phí ước tính mỗi lần khoảng 1.000.000 VND).
• Được tư vấn miễn phí về điều trị và phòng bệnh khác khi cần thiết.
• Được tự do trong quyết định có tham gia nghiên cứu hay không mà không bị
bất kỳ đe dọa, gây ảnh hưởng hay dụ dỗ gì từ nhóm nghiên cứu, nhân viên
phòng khám, hoặc các nghiên cứu viên liên quan đến nghiên cứu.
• Được hưởng những lợi ích sức khỏe từ sản phẩm và được bác sỹ tư vấn các
vấn đề khác liên quan đến chế độ ăn uống lành mạnh và lối sống tích cực để
giảm thiểu nguy cơ.
• Được quyết định dừng tham gia nghiên cứu vào bất cứ thời gian nào
• Được truy cập các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu được công bố
công khai sau khi kết thúc nghiên cứu.
YÊU CẦU ĐỐI VỚI BẠN VÀ CON BẠN KHI THAM GIA NGHIÊN CỨU
Dưới đây là những yêu cầu đối với bạn và con bạn nếu bạn quyết định tham gia
nghiên cứu:
• Tham gia sử dụng sản phẩm sữa bổ sung tại trường và tại nhà trong thời gian
ít nhất là 180 ngày tùy theo tình trạng dinh dưỡng của con bạn. Trong thời gian
này bác sỹ cũng sẽ chỉ định một số xét nghiệm ở ngày đầu tiên, ngày thứ 90
và ngày cuối cùng của nghiên cứu để đánh giá tình trạng của con bạn.
• Tuân thủ hướng dẫn sử dụng sản phẩm của bác sỹ và cán bộ nghiên cứu.
• Báo với cán bộ nghiên cứu về bất kỳ vấn đề liên quan đến sức khỏe nào xuất
hiện với con của bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu, bao gồm hiện tượng,
triệu chứng, nơi khám/nằm viện và phương thức điều trị nếu có.
• Trong quá trình tham gia nghiên cứu, bạn và con bạn KHÔNG NÊN tham gia
bất kỳ nghiên cứu nào khác mà không có sự chấp thuận của cán bộ nghiên cứu.
• Báo với cán bộ nghiên cứu nếu bạn muốn dừng tiếp tục tham gia nghiên cứu.
• Trả lời các câu hỏi liên quan đến sử dụng sản phẩm và vấn đề sức khỏe của
con bạn trong thời gian tham gia nghiên cứu.
• Nếu quyết định tham gia nghiên cứu, bạn cần ký vào bản chấp nhận tham gia
nghiên cứu.
RỦI RO VÀ CÁC PHẢN ỨNG BẤT LỢI
Nghiên cứu không có rủi ro nào cả, trừ việc con bạn được lấy máu tĩnh mạch 2 lần
vào ngày thứ 90 và ngày thứ 180, mỗi lần 3ml để làm các xét nghiệm cần thiết, có
thể gây đau và khó chịu một chút cho con bạn. Tuy nhiên bác sỹ và kỹ thuật viên sẽ
tuân thủ các quy định về vô trùng, phòng tránh lây nhiễm, giảm đau trong quá trình
lấy máu.
Có thể gặp trường hợp bị rối loạn tiêu hóa, hoặc đau bụng sau khi uống sữa, bạn cần
thông báo ngay cho chủ nhiệm đề tài hoặc cán bộ y tế biết để kịp thời xử lý.
Sản phẩm dinh dưỡng đường uống được sử dụng trong nghiên cứu được sản xuất đảm
bảo các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Các thông tin về sản phẩm theo nhà
sản xuất là an toàn và không có tác dụng phụ nào. Tuy nhiên điều đó không đảm bảo
con bạn sẽ không gặp bất kỳ cảm giác khó chịu nào khi tham gia nghiên cứu.
Bạn không phải trả tiền cho việc điều trị các tác dụng phụ này. Nếu bạn có câu hỏi gì
liên quan đến các nguy cơ có liên quan đến việc tham gia vào nghiên cứu, xin vui
lòng hỏi nhóm nghiên cứu vào bất kỳ lúc nào.
ĐIỀU TRỊ VÀ BỒI THƯỜNG CHO TÁC DỤNG PHỤ, THƯƠNG TÍCH,
TÀN TẬT
Nếu con bạn bị thương tích hoặc gặp phải vấn đề y tế do tham gia vào nghiên cứu,
con bạn sẽ được điều trị và chăm sóc các vấn đề y tế này tại địa phương đến khi tình
trạng bệnh ổn định, bạn không phải trả chi phí cho chăm sóc điều trị này.
BẢO MẬT THÔNG TIN
Tất cả các thông tin cá nhân của bạn được giữ kín, không tiết lộ cho bên thứ 3, chỉ
được sử dụng cho mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu viên sẽ sử dụng các thông tin về
tình trạng sức khỏe của trẻ bao gồm cả những thông tin về tên, địa chỉ, số điện thoại,
tiền sử bệnh và hiện nay cũng như các thông tin từ các lần thăm khám.
Các thông tin này chỉ trình bày dưới dạng số liệu và sẽ không chỉ ra một cách cụ thể
thông tin về bạn và con bạn. Và nếu như con bạn gặp những tác dụng không mong
muốn do nghiên cứu, cán bộ nghiên cứu sẽ chia sẻ những thông tin này với nhà tài
trợ để có thể giúp giải quyết các vấn đề này. Các thông tin của bạn và con bạn trong
quá trình nghiên cứu được dùng để đánh giá hiệu quả/hiệu lực và các vấn đề liên quan
tới sản phẩm nghiên cứu và công bố công khai.
BẠN PHẢI TRẢ NHỮNG CHI PHÍ GÌ CHO VIỆC THAM GIA NGHIÊN CỨU
Bạn không phải trả bất kỳ chi phí cho việc tham gia nghiên cứu bao gồm chi phí dùng
sản phẩm nghiên cứu cũng như chi phí cho việc đánh giá tình trạng sức khỏe xương.
Nếu bạn có bất kỳ câu hỏi gì trong suốt quá trình nghiên cứu, bạn có thể liên hệ với
Nghiên cứu viên chính: ThS.BS. Nguyễn Hữu Ngự.
Địa chỉ: Đại học Y Dược Thái Bình. Điện thoại: 0988347506
PHẦN II: BẢN CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Họ và tên học sinh:_________________________________________________
Ngày sinh: ________________________________________________________
Lớp: ___________________________ Trường: _______________________
• Tôi đã được đọc/nghe về mục đích và mục tiêu của giai đoạn 3 của nghiên cứu
“Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện tình trạng
dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái
Bình”, được cung cấp cơ hội đặt câu hỏi và có thời gian hợp lý để suy xét vấn đề.
• Tôi hiểu được quyền lợi của bản thân và của con tôi khi tham gia vào nghiên
cứu bao gồm việc được uống sữa trong vòng 180 ngày, được đánh giá tình trạng dinh
dưỡng và đánh giá tình trạng sức khỏe xương bởi những chuyên gia, kỹ thuật viên
chuyên nghiệp không gây nguy hiểm đến sức khỏe.
• Tôi hiểu rằng việc tham gia vào nghiên cứu này là hoàn toàn tự nguyện và có
thể dừng việc tham gia nghiên cứu khi tôi muốn.
• Tôi hiểu rằng tất cả các nội dung nghiên cứu này được thông qua và chấp thuận
của Hội đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức của Đại học Y Dược Thái Bình, Hội
đồng Khoa học và Hội đồng Đạo đức Viện Y học ứng dụng Việt Nam, và sự đồng ý
của ban giám hiệu trường tiểu học………………………………………...
• Tôi đồng ý cho con tôi tham gia nghiên cứu này.
Số điện thoại: ____________________
Họ và tên: _________________________
CMND: _________________________
Quan hệ với trẻ:_____________________ Chữ ký: _________________________
Cam kết của Nghiên cứu viên
Tôi đã cung cấp thông tin trao đổi bằng lời và trên giấy tờ liên quan đến nghiên cứu này.
Tôi đồng ý trả lời bất kỳ câu hỏi nào trong tương lai liên quan đến nghiên cứu này
trong khả năng có thể.
Tôi sẽ tuân thủ các quy trình nghiên cứu đã được phê duyệt.
Tên của Nghiên cứu viên
Chữ ký của Nghiên cứu viên
______________________________
_______________________________
Thái Bình, giờ: …….., ngày/tháng/năm:……………
Đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
PHỤ LỤC 3.4
SỔ THEO DÕI UỐNG SỮA VÀ BIẾN CỐ BẤT LỢI
Đề tài: Hiệu quả bổ sung vitamin K2 và một số biện pháp can thiệp cải thiện
tình trạng dinh dưỡng, sức khỏe xương ở trẻ em 7-10 tuổi tại huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình
Thời gian: tháng…… năm……
Trường: ……………………………………………………………………
Xã: ………………………………… Huyện Tiền Hải, Tỉnh Thái Bình.
Số lớp tham gia nghiên cứu: ……… lớp.
Số trẻ tham gia nghiên cứu: ………trẻ
Họ và tên cộng tác viên: ……………………………………………………
Hướng dẫn sử dụng sổ
Sổ này do cộng tác viên giữ, ghi chép hàng ngày về tình hình sử dụng sản phẩm can
thiệp của đối tượng nghiên cứu. Mỗi trang tương ứng với một ngày theo dõi/20 đối
tượng. Sổ theo dõi uống sữa và biến cố bất lợi được sử dụng theo từng tháng và được
cấu trúc bao gồm các trang bảng kiểm uống sữa và ghi chép các thông tin trong quá
trình uống sữa.
Những thông tin cộng tác viên cần điền trong bảng kiểm:
Cột số 5 và 6: nếu trẻ có uống trên ½ lượng sản phẩm đánh dấu X vào ô ở cột số 5,
không uống hoặc uống dưới ½ lượng sản phẩm đánh X vào cột số 6.
Cột số 7: viết số tương ứng với vấn đề sức khỏe trẻ gặp phải vào ngày theo dõi. Danh
sách các vấn đề sức khỏe nằm ở cuối mỗi bảng. Nếu vấn đề sức khỏe không nằm
trong danh sách, cộng tác viên ghi rõ vào cột.
Công tác viên tổng kết số lượng trẻ uống và gặp vấn đề sức khỏe tại cuối mỗi bảng.
Đối với trường hợp trẻ không uống sữa (do nghỉ học hoặc các lý do khác) cộng tác
viên cần báo cho nghiên cứu viên chính sau khi phát sữa cho toàn bộ đối tượng nghiên
cứu tại trường để có phương án phát sữa bù, hoặc ghi nhận nguyên nhân trẻ không
uống sữahoặc trường hợptrẻ ngừng tham gia nghiên cứu.
Đối với các trường hợp trẻ ngừng tham gia nghiên cứu, tên trẻ và mã số trẻ vẫn được
in trong danh sách bảng theo dõi uống sữa. Tuy nhiên sữa sẽ không được phát bù cho
bất cứ trẻ nào khác và cộng tác viên cần kẻ một đường ngangtrên dòng dành cho trẻ đó
trong tất cả các bảng theo dõi uống sữa kể từ ngày trẻ ngừng tham gia vào nghiên cứu.
Ghi chú: nếu có bất cứ vẫn đề thắc mắc gì về sử dụng sổ và phương thức theo dõi,
phát sữa cho trẻ, công tác viên nên liên lạc với nghiên cứu viên chính: ThS.BS.
Nguyễn Hữu Ngự, số điện thoại: 0988347506
Hướng dẫn phát sữa
Hàng ngày cộng tác viên cùng với giáo viên chủ nhiệm sẽ chịu trách nhiệm phân phát
sản phẩm đến đối tượng nghiên cứu, 1 hộp mỗi ngày, vào đầu giờ sáng hoặc giờ ra
chơi, tại một phòng riêng (phòng giám hiệu hoặc y tế), ghi sổ theo dõi trẻ có hoặc
vắng mặt, vào các ô tương ứng. Cộng tác viên ghi sổ theo dõi hàng ngày, không để
ghi dồn nhiều ngày.
Khi trẻ nghỉ học thì sữa sẽ được:
• Ngày cuối tuần /nghỉ lễ/nghỉ theo lịch của nhà trường: Sữa sẽ được giáo viên
chủ nhiệm phát cho trẻ vào chiều ngày trước ngày nghỉ/những ngày nghỉ. Số
hộp sữa được phát cho mỗi đối tượng nghiên cứu. Ví dụ 01 hộp/ngày x 2 hộp
( thứ 7 và chủ nhật)
• Đối với các trường hợp nghỉ khác (nghỉ ốm, nghỉ việc gia đình…): số ngày
không nhận sữa tối đa là 7 ngày liên tiếp bao gồm 5 ngày đi học và 2 ngày
cuối tuần. Sữa được cộng tác viên nghiên cứu bàn giao cho bố/mẹ/người giám
hộ đối tượng nghiên cứu tối đa 3 ngày liên tiếp.
Ngày……tháng……năm 20…
Uống sữa
Vấn đề
sức
TT
Mã
Tên trẻ
Lớp
khỏe
Có
Không
(1)
(2)
(3)
(4)
(7)
(5)
(6)
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
Số trẻ uống sữa
……/20
Số trẻ có vấn đề sức khỏe ……/20
Danh sách các vấn đề sức khỏe (Ghi số vào cột vấn đề sức khỏe tương ứng với triệu
chứng dưới dây, nếu triệu chứng khác, ghi rõ vào cột)
3. Nổi mề đay
1. Không có
2. Buồn nôn/nôn Đau bụng
6. Táo bón
4. Tiêu chảy
5. Sống phân
PHỤ LỤC 3.5
CHẾ ĐỘ DINH DƯỠNG VÀ SINH HOẠT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
Việc xây dựng thực đơn chuẩn cho học sinh tiểu học là việc làm rất quan trọng nhằm
phát triển đầy đủ về trí tuệ và thể chất cho trẻ. Từ 6 tuổi trẻ bắt đầu đi học, các chất
dinh dưỡng thiết yếu không chỉ giúp trẻ phát triển về thể chất, mà còn cung cấp năng
lượng để trẻ học tập. Vì vậy, việc áp dụng một chế độ dinh dưỡng khoa học trong
từng bữa ăn hàng ngày đặc biệt quan trọng, là nền tảng cho sự phát triển toàn diện
của trẻ trong tương lai.
1. Chế độ dinh dưỡng cho học sinh tiểu học
Mỗi bữa ăn của trẻ ở độ tuổi này cần phải đảm bảo đầy đủ các nhóm chất sau:
Chất bột đường (Gluxit)
Một chế độ dinh dưỡng hợp lý trước hết phải đảm bảo trẻ có đủ năng lượng, nghĩa là
trẻ cần được ăn no. Năng lượng được cung cấp chủ yếu qua cơm và các sản phẩm chế
biến từ gạo như bún, bánh, phở… Thỉnh thoảng nên cho trẻ ăn thêm ngô, khoai, sắn
là những thực phẩm trong nhóm ngũ cốc vừa cung cấp chất bột (cho năng lượng) vừa
là nguồn chất xơ tốt. Gluxit có trong thực phẩm có nguồn gốc động vật chỉ có nhiều
trong sữa.
Chất Đạm (Protein)
Protein là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể; có vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và tái tạo tất cả các mô cơ thể; tham gia vào các hoạt động điều hòa chuyển
hóa và tiêu hóa, sản xuất kháng thể và tạo cảm giác ngon miệng.
Lượng chất đạm trong khẩu phần của trẻ cần nhiều hơn người lớn, nhu cầu đạm ở lứa
tuổi này cần 3-3,5g/kg thể trọng (trung bình khoảng 30-50g/ngày/trẻ). Nên cho trẻ ăn
đa dạng các thức ăn giàu đạm, cả thức ăn có nguồn gốc động vật như thịt (lợn, bò, gà,
vịt, ngan…), cá, cá biển, trứng, sữa (sữa bột, sữa chua, sữa đậu nành), tôm, cua; và
thức ăn có nguồn gốc thực vật như đậu, đỗ, lạc, vừng.
Tuy nhiên cũng không nên cho trẻ ăn quá nhiều đạm vì có thể gây gánh nặng cho trẻ
nhất là khi trẻ uống thiếu nước. Các sản phẩm chuyển hóa trung gian của lượng đạm
dư thừa sẽ gây độc hại cho cơ thể.
Chất béo (Lipid)
Dầu mỡ không chỉ tạo cảm giác ngon miệng mà còn cung cấp năng lượng cao và giúp
hấp thu các vitamin A, D, E, K – những vitamin cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
Nên cho trẻ ăn cả dầu và mỡ, như thịt mỡ, mỡ cá, bơ, sữa, váng sữa, lòng đỏ trứng…
hay dầu thực vật, lạc, vừng…
Vitamin và Chất khoáng
Vitamin là một nhóm chất hữu cơ có hàm lượng trong cơ thể không cao nhưng tác
dụng mạnh và đặc hiệu. Thiếu vitamin sẽ gây ra nhiều rối loạn chuyển hóa quan trọng.
Mọi vitamin đều cần cho trẻ, đặc biệt về nhu cầu vitamin A và vitamin C. Nhu cầu
vitamin A của trẻ lứa tuổi nhi đồng như người lớn từ 400-500 mg/ngày. Vitamin A
có trong thức ăn động vật (thịt, trứng, cá, tôm, gan, tim…); tiền vitamin A (caroten)
có nhiều trong rau, củ, quả có màu vàng, đỏ, da cam. Khi vào cơ thể caroten có thể
được chuyển thành Vitamin A, nhưng trẻ em có nhược điểm là hấp thu caroten rất
thấp nhất là khi bữa ăn có quá ít dầu mỡ.
Vitamin C cần thiết cho sự tạo máu, tăng cường hệ miễn dịch. Nhu cầu vitamin C ở
độ tuổi này cần từ 55-60mg/ngày và phải được cung cấp đủ hàng ngày. Cần cho trẻ
thường xuyên ăn nhiều loại rau, quả theo mùa.
Chất khoáng cần cho sự tạo xương, tạo máu và các hoạt động chức năng sinh lý của
các bộ phận trong cơ thể. Hàng ngày trẻ 6-10 tuổi cần 400-500 mg canxi, nguồn cung
cấp canxi không thiếu nhưng cần tỉ lệ thích hợp giữa canxi và photpho mới giúp canxi
được hấp thu tốt, tỉ lệ Ca/P tốt nhất là 1,5-2. Để đạt được tỉ lệ canxi/P thích hợp, bữa
ăn của trẻ cần có sữa, tôm, cua, cá thường xuyên.
Ưu tiên cho trẻ nguồn thức ăn động vật (thịt, cá, tôm, trứng…) nhằm đảm bảo cung cấp
đủ lượng sắt cho cơ thể. Sắt trong nguồn thức ăn này có hàm lượng cao và dễ hấp thu.
2. Chế độ ăn cho trẻ lứa tuổi tiểu học
Ở lứa tuổi này, nếu cho trẻ ăn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì, tình
trạng này đang có xu hướng gia tăng trong những năm gần đây, nhất là ở các thành
phố lớn. Ngược lại nếu ăn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc, hay ốm đau, bị thiếu máu hay
buồn ngủ, ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học.
Vậy ở lứa tuổi này trẻ nên ăn bao nhiêu là đủ?
Nhu cầu về năng lượng và chất đạm ở lứa tuổi này như sau:
- 6 tuổi: Năng lượng 1600 kcal/ ngày; Chất đạm 36g
- 7 – 9 tuổi: Năng lượng 1800 kcal/ ngày; Chất đạm 40g
- 10 – 12 tuổi: Năng lượng 2100– 2200 kcal/ngày; Chất đạm 50g
Chú ý: Nếu không có điều kiện chế biến nhiều loại món ăn trong một ngày thì có thể
tính lượng đạm của trẻ như sau: Cứ 100g thịt nạc tương đương với 150g cá hoặc tôm,
200g đậu phụ, 2 quả trứng vịt hoặc 3 quả trứng gà. Nếu ăn các loại bún, miến, phở,
khoai, ngô, sắn thì phải giảm bớt lượng gạo.
3. Chế biến thức ăn cho trẻ như thế nào?
Lứa tuổi này trẻ đã hoàn toàn ăn cùng với gia đình, tuy nhiên các bà mẹ cần lưu ý
một số điểm sau:
- Cho trẻ ăn no và nhiều vào bữa sáng (để tránh ăn quà vặt ở đường phố, hoặc một số
trẻ ăn quá ít, nhịn sáng sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập, thậm chí hạ đường huyết
trong giờ học).
- Nên cho trẻ ăn nhiều loại thực phẩm khác nhau, tránh ăn một vài loại nhất định.
- Khuyến khích trẻ ăn nhiều rau, để tránh táo bón, đồng thời cung cấp nhiều vi chất
dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.
- Ăn đúng bữa, không ăn vặt, không ăn bánh, kẹo, nước ngọt trước bữa ăn
- Không nên nấu thức ăn quá mặn, tập thói quen ăn nhạt.
- Không nên ăn quá nhiều bánh kẹo, nước ngọt vì dễ bị sâu răng. Ðến bữa ăn nên chia
suất ăn riêng cho trẻ, để tránh ăn quá ít hoặc quá nhiều.
- Tập thói quen uống nước kể cả khi không khát, lượng nước nên uống một ngày 1 lít.
- Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh ăn uống: rửa tay trước khi ăn và sau khi đi đại tiện.
- Số bữa ăn: nên chia 4 bữa 1 ngày, 3 bữa chính một bữa phụ.
4. Tầm quan trọng của sữa cho học sinh tiểu học
- Cung cấp chất dinh dưỡng: Sữa là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng quan trọng như
canxi, protein, vitamin D, vitamin B12 và nhiều loại khoáng chất khác. Những chất
dinh dưỡng này cần thiết cho sự phát triển xương, răng, hệ thần kinh và hệ miễn dịch
của trẻ.
- Xương và răng khỏe mạnh: Canxi và vitamin D trong sữa giúp xương và răng của
trẻ phát triển và giữ cho chúng khỏe mạnh. Điều này rất quan trọng trong giai đoạn
phát triển nhanh chóng của trẻ tiểu học.
- Tăng cường hệ miễn dịch: Sữa cung cấp các chất dinh dưỡng giúp tăng cường hệ
miễn dịch của trẻ, giúp chống lại các bệnh tật và nhiễm trùng.
- Hỗ trợ sự phát triển não bộ: Protein và các axit béo trong sữa có vai trò quan trọng
trong sự phát triển và hoạt động của não bộ. Điều này có thể ảnh hưởng tích cực đến
sự tập trung, trí tuệ và hiệu suất học tập của học sinh tiểu học.
- Cung cấp năng lượng: Sữa chứa carbohydrate và chất béo cung cấp năng lượng cho
cơ thể, giúp trẻ tỉnh táo và tập trung trong quá trình học tập.
Tăng cường phục hồi sau hoạt động thể chất: Đối với các học sinh tham gia các hoạt
động thể chất hoặc thể thao, sữa có thể giúp phục hồi cơ bắp và tái tạo năng lượng
sau một khoảng thời gian hoạt động mạnh.
5. Tháp dinh dưỡng cho học sinh tiểu học
MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRIỂN KHAI NGHIÊN CỨU
Nhóm nghiên cứu họp triển khai các nội dung nghiên cứu với Ban giám hiệu trường
tiểu học và cộng tác viên tại địa bàn nghiên cứu
Tiến hành thu thập thông tin về nhân trắc của học sinh
Giám sát việc phát sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ em tại địa bàn nghiên cứu
Hướng dẫn tập luyện thể dục cho trẻ em tại địa bàn nghiên cứu
Đo mật độ xương cho trẻ em tại Bệnh viện Đại học Y Thái Bình
CHỨNG NHẬN CHẤP THUẬN CỦA HỘI ĐỒNG ĐẠO ĐỨC TRONG
NGHIÊN CỨU Y SINH HỌC