HOÀNG HẠC LÂU

Tác giả và dịch giả

1. Thôi Hiệu (704-752) đỗ tiến sĩ, nổi tiếng là tài hoa, để lại khoảng 40 bài

thơ, hay nhất vẫn là những bài thơ vịnh cảnh. "Hoàng Hạc lâu" là bài thơ

kiệt tác của Thôi Hiệu. Tương truyền, thi tiên Lý Bạch đến vãn cảnh Hoàng

Hạc lâu, thấy thơ Thôi Hiệu đề lên vách, ông tấm tắc khen và viết:

"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu"

(Trước mắt có cảnh đẹp, nhưng nói không được

Vì đã có thơ của Thôi Hiệu đề ở trên đầu)

2. Tản Đà (1889-1939) là nhà thơ nổi tiếng nhất những năm hai mươi của

thế kỷ này, với vốn Hán học uyên thâm, với hồn thơ lãng mạn bay bổng, về

phương diện dịch thơ Đường, ông vẫn là cây bút vô địch. Những bài thơ

Đường do Tản Đà dịch đều đăng tải trên tạp chí Ngày nay và Tiểu thuyết thứ

bảy. Tất cả có 84 bài, phần lớn dịch thành thơ lục bát 70/84 bài. Ông đã

dịch: 38 bài của bạch Cư Dị, 14 bài của Lí Bạch: 4 bài của Đỗ Phủ, 28 bài

của các nhà thơ khác. Bài "Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hiệu qua bản dịch thơ

lục bát của Tản Đà, là bản dịch thơ hay nhất, thể hiện đẹp nhất cái hồn

Đường, điệu Đường kì diệu.

1. Đề

Câu 1, 2 đối nhau xưa và nay, mất và còn, Hạc vàng đi đâu mất cùng tiên,

nay chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc trơ trọi. Cảm hứng huyền thọai dâng đầy, nỗi

lòng thi nhân nhiều xúc động bâng khuâng:

"Hạc vàng ai cưỡi đi đâu

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ"

Nhà thơ vừa ngắm lầu Hạc Vàng, vừa tự hỏi mình. Có gì đó cứ xao

xuyến, ngơ ngác bồi hồi khi nhớ đến "tích nhân", nhớ đến Phí Văn Vi trong

huyền thoại.

2. Thực

Câu 3, 4 đối nhau giữa quá khứ và hiện tại, giữa cái mất đi và cái đang

còn hiển hiện, giữa màu sắc của "Hoàng Hạc", "bạch vân" giữa cái hữu hạn

và cái vô hạn:

"Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản

Bạch Vân thiên tải không du du"

Về bằng trắc, thanh điệu có một sự phá cách độc đáo. Câu 3 có 6 thanh

trắc như thắt lại, nén lại, câu 4 có 3 tiếng "không du du" - phù bình thanh,

gợi tả âm điệu chơi vơi, tiếc nuối, ngẩn ngơ. Câu thứ 4, Khương Hữu Dụng

dịch rất hay:

"Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi"

3. Luận

Cảnh đẹp được tả ở một điểm nhìn xa và rộng. Có dòng sông và bãi sông.

Có Hán Dương và Anh Vũ. Có hàng cây và bãi cỏ. Có màu ánh sáng trên

dòng sông, có màu xanh và hương thơm của bãi cỏ. Nhà thơ say mê đứng

lặng trên lầu cao ngắm nhìn:

"Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non"

Hai câu trong phần "luận" cho ta biết Thôi Hiệu đến chơi lầu Hoàng Hạc

vào một chiều xuân đẹp, thanh bình. Cảm hứng huyền thoại chan hoà với

cảnh hứng thiên nhiên trữ tình tạo nên những vần thơ đẹp, phản ánh một hồn

thơ đẹp. Thi nhân như đang dẫn hồn mình vào cõi mộng. Cảnh đẹp và vô

cùng vắng lặng, mênh mang.

4. Kết

Bóng hoàng hôn phủ mờ dần cảnh vật. Nhà thơ tự hỏi đâu là quê hương?

Chỉ nhìn thấy khói sóng trên dòng sông xa, nỗi buồn nhớ dâng lên man mác

trong lòng khách li hương:

"Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?"

Thi liệu đẹp, mang màu sắc cổ điển thi vị: "Mộ", "hương quan", "yên ba

giang thượng", "sử nhân sầu". Đây là những vần thơ tả nỗi buồn nhớ quê qua

trên một ngàn năm rồi vẫn làm cho chúng ta rơi lệ:

"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?

Yên ba giang thượng sử nhân sầu?"

"Hương quan" là cái cổng làng; chỉ quê nhà. giấc hương quan : giấc mơ

về nhà; Nguyễn du đã viết trong Truyện Kiều:

Mối tình đòi đoạn vò tơ,

Giấc hương quan luống lần mơ cảnh dài.

Song sa vò võ phường trời,

Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng"

(1265-1268)