Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong

văn xuôi đương đại Việt Nam

1. Vấn đề về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đã được đề cập

đến từ lâu. Nếu ví cuộc sống là "chất liệu" còn văn học là "sản phẩm" thì

thực tiễn văn học từ sau 1986 đến nay là một trong những minh chứng

sống động. Sự chuyển tiếp từ thời chiến sang thời bình với những quy luật

bình thường của nó, ảnh hưởng của công cuộc đổi mới tư duy mà Đảng

khởi xướng, những vấn đề bức thiết cộm lên trong lịch sử dân tộc thời hậu

chiến, thời xây dựng và một độ lùi thời gian tương đối thích hợp... là những

nguyên nhân cơ bản dẫn đến những thay đổi quan trọng của văn học.

Khách quan mà nói, một trong những vai trò có tính chất "bà đỡ" của

đổi mới đối với văn học là đã góp phần củng cố mối dây liên hệ giữa nhà

văn và bạn đọc nhờ sự ra đời đúng lúc của những sáng tác mang đầy hơi

thở của cuộc sống và con người hiện đại. Về phía người viết, để làm được

điều đó, trước hết họ phải tự làm mới chính mình; cùng với một quan niệm

mới mẻ về hiện thực là một văn phong táo bạo, đầy "ma lực" mà "những

trang viết lạ" gắn với yếu tố kì ảo xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống

văn học hôm nay là một biểu hiện của nỗ lực giàu tính nhân văn ấy. Hành

trình từ âm thầm lặng lẽ đến sôi nổi, ồn ào có phần thái quá để rồi trở lại

trạng thái bình thường vốn có của dòng chảy kì ảo cũng góp phần phản ánh

sự phức tạp và không kém phần sinh động của thực tiễn văn học gần hai

mươi năm qua.

2. Sự chuyển biến của một giai đoạn, thời kì văn học, theo Bakhtin,

được đặc trưng bởi sự thay đổi của đời sống thể loại. Thế nhưng, thể loại

đang sống trong hiện tại bao giờ cũng nhớ đến quá khứ của nó bởi "đằng

sau mỗi một loại văn học đều có một truyền thống lớn lao tuy ẩn mà hiện:

truyền thống này bằng cách gánh vác chung để cùng hưởng chung một nền

văn hóa”(1). Nghệ thuật biểu hiện của dòng truyện hiện đại có yếu tố kì ảo

không đơn giản chỉ là những kì hoa dị thảo đột ngột xuất hiện như một sự

"thất cước với giống nòi" mà vẫn là một bước tiếp nối và sáng tạo, bổ sung.

Sẽ là đoản mệnh đối với bộ phận văn học này nếu tất cả các cây bút hiện

nay chỉ kế thừa truyền thống một cách máy móc - nghĩa là chỉ dựa vào tình

tiết li kì để thu hút bạn đọc, bởi vì lạ mãi sẽ đến lúc bão hòa - đó là quy luật

trong tâm lí tiếp nhận. Sở dĩ cái kì ảo trong văn xuôi hôm nay đủ sức làm

rung động trái tim người đọc nhất định phải có những nguyên nhân thuộc

về xã hội - lịch sử bên cạnh kĩ xảo nghệ thuật và nội dung tư tưởng đặc thù

nào đó tồn tại.

Những đổi thay trong giao lưu văn học

Nếu như ở giai đoạn trước, giao lưu văn học nhìn chung mang tính

chất khu vực (phương Đông và các nước thuộc hệ thống Xã hội chủ nghĩa

(cũ)) thì bây giờ nó đã mang tính chất toàn cầu. Mỗi biến động của văn học

phương Tây và văn học thế giới lúc này đều nhanh chóng ảnh hưởng đến

văn học Việt Nam. Giờ đây văn học mở rộng cửa đón nhiều luồng gió lạ

của văn học nhân loại, nhất là của các nước tư bản phương Tây. Những

sáng tác văn học ngoại nhập ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, có

sức hấp dẫn đặc biệt và là nguồn bổ sung không thể thiếu được của đời

sống văn hoá dân tộc. Thành tựu của văn học thế giới, đặc biệt là của văn

học hiện đại và đương đại, đã mở ra những vùng hiểu biết mới, những cảm

nhận mới và đã góp phần thúc đẩy sự sáng tạo, mang lại sự sinh động, mới

mẻ cho văn học trong nước.

Một thời gian dài, đến non một nửa thế kỉ, văn học thiên về tính chất

"nệ thực", "vụ thực", tài liệu và sự việc có thực là cơ sở của hầu hết các

sáng tác tự sự, loại truyện mang màu sắc kì ảo, quái dị vắng bóng trên văn

đàn. Ngay cả đến giới nghiên cứu, phê bình văn học cũng công khai bày tỏ

thái độ kì thị, "bất hợp tác" đối với loại truyện này - không loại trừ đây là

những sản phẩm thuần tuý dân tộc - vì e ngại chúng sẽ "làm sống lại trong

đầu óc người đọc bình thường những quan điểm phản khoa học lỗi thời"(2).

Sự thay đổi trong cơ chế quản lí văn hoá văn nghệ khiến người ta mạnh

dạn truyền bá loại sáng tác văn học kỳ ảo, nhất là đối với các tác phẩm có

giá trị nghệ thuật cao của các nhà văn thế giới. Tâm nguyện của những

người bắc nhịp cầu văn học ở đây không gì khác hơn ngoài việc góp phần

thay đổi diện mạo văn học nước nhà như Lời giới thiệu trong Truyện ngắn

Edgar Poe sau đây: "Xuất bản tập sách nhỏ của Edgar Poe không chỉ đơn

thuần giới thiệu khuôn mặt văn học - cho dù đó là gương mặt của một nhà

văn lớn - mà xa hơn nữa, trong quá trình đổi mới tư duy, phải chăng cần

tránh lối suy nghĩ đơn giản, một chiều, cần tiếp cận với những gì phức tạp

hơn, đa dạng hơn"(3). Việc tiếp thu các nền văn nghệ đi trước để phát triển

văn nghệ dân tộc, theo Phương Lựu, là "quy luật phổ biến vô cùng quan

trọng", bởi "sự tiếp thu đích thực không bao giờ là sự sao chép nô lệ, mà là

một sáng tạo"(4). Riêng đối với đội ngũ sáng tác, việc xuất hiện rầm rộ kèm

theo sự chào đón nồng nhiệt và thái độ trân trọng của độc giả dành cho bộ

phận văn học độc đáo này chắc chắn sẽ gợi lên ở họ những suy nghĩ, nhận

thức và tìm tòi, khám phá mới.

Sự mở rộng trong quan niệm về hiện thực và đối tượng phản

ánh của văn học

Nguyên nhân chủ yếu của sự chuyển biến trong quan niệm về hiện

thực, tính hiện thực... của văn học hôm nay xuất phát từ phía đội ngũ nhà

văn. Với họ, hiện thực lúc này không đồng nghĩa với tính có thật, giống như

thật, mà cao hơn thế, nó là "vẻ đẹp huyền thoại của sự tái hiện tự nhiên

theo cách nhìn độc đáo của nhà văn về sự vật"(5). Phản ánh hiện thực

không phải là sự sao chép hiện thực mà là sự sáng tạo của người nghệ sĩ

nhằm tạo ra hiện thực. Cho nên, tính hiện thực của tác phẩm lúc này nằm ở

chỗ nó đã đề cập và giải quyết được những vấn đề gì của thực tế. Quan

niệm này đã phần nào khắc phục được cách hiểu có phần ngây thơ về hiện

thực trước đây. Từ sau 1986 đến nay, trong cao trào đổi mới tư duy, đội

ngũ những người làm công tác văn học, trong đó có nhà văn, có dịp thuận

lợi để nhìn lại chặng đường đã qua của văn học. Họ sớm nhận ra rằng:

Không thể khuôn đối tượng nhận thức, phản ánh của văn học vào những

lĩnh vực hạn hẹp, cứng nhắc nhằm phục vụ cho những mục tiêu, nhiệm vụ

không thực sự phù hợp với bản chất của nó, mà chính là phải mở rộng

phạm vi khám phá của văn học để loại hình nghệ thuật này ngày càng đáp

ứng được những đòi hỏi mới của người đọc, với tư duy của người thời nay,

phù hợp với tốc độ phát triển của xã hội hiện đại, và quan trọng hơn là khắc

phục tình trạng phản ánh sơ lược, một chiều về cuộc sống. Biên độ của

hiện thực trong quan niệm của người cầm bút hôm nay đã được mở rộng

hơn, được soi chiếu từ nhiều góc độ tạo điều kiện để họ có thể thâm nhập

vào những địa hạt mới mẻ phù hợp với cá tính sáng tạo của mình. Quan

niệm hiện thực - nói như Hồ Anh Thái - gồm "những gì ta thấy, ta nghe, ta

trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là cái ta cảm nữa (...) Cả một đời

sống tâm linh cũng là hiện thực (B.T.T. nhấn mạnh)"(6). Tương tự Hồ Anh

Thái, Ngô Tự Lập cũng cho rằng: Ngay cả hiện thực cũng chỉ là một giấc

mơ, một giấc mơ hỗn loạn, vô tận, giấc mơ với những đường bay của mê

lộ(7). Bên cạnh những hiện tượng cuộc sống có quy luật thì cái ngẫu nhiên,

bất ngờ, kì quái cũng hiện diện làm nên bộ mặt hấp dẫn của văn xuôi hôm

nay: "Kì quặc và lẩn thẩn, hoàn toàn khó tin, tuy vậy giờ đây kì quặc nhất

hay bình thường nhất cũng thế cả thôi" (Bảo Ninh - Nỗi buồn chiến tranh). Ý

tưởng này cũng bắt gặp qua lời tâm sự của tác giả tiểu thuyết Chó Bi đời

lưu lạc: "Khốn nạn, nhiều khi cái dị dạng, không phải quy luật lại chi phối

cuộc sống mới trớ trêu chứ". Bức tranh cuộc sống không phải lúc nào cũng

ánh sắc hồng, và chân dung con người chưa hẳn mọi lúc, mọi nơi đều "vui

vẻ trẻ trung" mà đôi khi "trầm hóa" bởi sự phức hợp nhiều sắc độ. Nói như

Ma Văn Kháng thì đó là "một kết cấu của cả cái tốt lẫn cái xấu, cái thiện và

cái ác" (Bồ nông ở biển), cũng như "trên cơ sở những điều dự tính được lẫn

những yếu tố bất ngờ kì quái" (Người đánh trống trường). "Bên cạnh Chúa

có Quỷ, bên cạnh Phật có Ma. Ma quỷ cũng dự phần bất tử để làm mặt đối

lập, để thế giới này tiếp tục vận động và tồn tại" (Nguyễn Khải - Thời gian

của người). Từ hiện thực kháng chiến hào hùng, tràn ngập âm hưởng sử

thi, con người bước vào một mặt trận mới vắng xa tiếng súng nhưng cũng

không kém phần dằng dai, khốc liệt: Cuộc chiến đấu chống tiêu cực xã hội,

và một cuộc chiến khác cũng hết sức cam go để chống lại chính "ma quỷ

trong lòng ta" với những nỗ lực, quyết tâm mới: "phê phán cái sai", "lên án

cái xấu", "tích cực cổ vũ cho cái mới thắng lợi"... Điều đó đặt nhà văn trước

những trách nhiệm, thử thách mới, với sự ý thức mới về thiên chức của

người nghệ sĩ: "Nghệ thuật cũng sẽ không là gì nếu không ôm hết cái dữ

dằn, đanh đá của cuộc sống, cả cuộc chết nữa! Sẽ chẳng đi đến đâu một

thứ nghệ thuật không thấy hết, không nói hết cái bờ bên kia của hiện thực"

(Trương Vũ Thiên An - Nước mắt Chí Phèo).

Việc thay đổi trong quan niệm về hiện thực đã dẫn đến sự bùng phát

về đề tài trong văn học, phá vỡ cái gọi là "chủ nghĩa đề tài" của văn xuôi

giai đoạn trước như nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra. Sự bùng nổ đề tài

như vậy giúp nhà văn có điều kiện khám phá mọi phương diện của cuộc

sống, đi sâu vào những góc khuất của hiện thực khách quan và hiện thực

tâm hồn với bao chiêm nghiệm và dự cảm về nhân thế, mở ra một chân trời

thoáng rộng cho sự liên tưởng và suy ngẫm của người đọc.

Sự mở rộng trong quan niệm về phương pháp sáng tác và tiếp

cận hiện thực

Trước sự chuyển mình của thời đại, văn học đã thực sự bắt gặp một

môi trường thuận lợi cho sự nảy nở các dạng thức khái quát, các thủ pháp

nghệ thuật tiếp cận và tái hiện cuộc sống, sự đa dạng trong phong cách của

nhà văn. Một cách tự nhiên, đời sống văn học xuất hiện thái độ cởi mở, dân

chủ đối với những cách thức tiếp cận cuộc sống không đi theo con đường

của chủ nghĩa hiện thực. Đã đến lúc người ta nhận thấy "không nhất thiết

chỉ có phương pháp hiện thực chủ nghĩa. Chúng ta chấp nhận cả lãng mạn,

tượng trưng, huyền thoại, viễn tưởng, miễn là ở một trường hợp cụ thể nào

đấy, các phương pháp đó có thể nói lên một cách tốt nhất chân lí cuộc

sống, miễn là cái tâm của người viết luôn luôn ngời sáng, luôn luôn hướng

về nhân dân và cách mạng"(8). Điều đó cắt nghĩa vì sao trong đời sống văn

học hôm nay, ngoài dạng thức khái quát theo khuôn hình bản thân cuộc

sống thường thấy trong văn học giai đoạn trước, còn có những hình thức

"phi hiện thực" khác như viễn tưởng, giả tưởng, tượng trưng, trinh thám,

kiếm hiệp, kì quái hoang đường... Nghĩa là, việc sử dụng các môtíp huyền

thoại, các thủ pháp nghịch dị, các biện pháp lạ hoá khác nhằm mở rộng, đổi

mới ước lệ đang được xem là bình thường. Với tư cách là những nhân tố

mới hoặc tái xuất hiện, chúng chưa thể tự định hình thành một phương

pháp sáng tác đúng nghĩa; vả lại, tự bản thân của mỗi nhà văn cũng chưa

có ai "thuỷ chung duy nhất" với một cách thức tiếp cận, khám phá hiện

thực. Dẫu sao, sự hiện diện của chúng với tư cách là những thủ pháp nghệ

thuật đắc lực cũng đã làm mới lạ, phong phú đời sống văn học, giúp người

viết tự do tung bút, mở rộng biên độ khám phá, tiềm nhập cuộc sống, và là

sự hô ứng nhịp nhàng với không khí tự do, dân chủ trong văn hoá văn nghệ

bởi "đổi mới văn học đích thực là quá trình đa dạng hoá về văn học". Đây

cũng là dấu hiệu trưởng thành của văn học như nhận xét của D. Likhasốp:

"Sự phát triển của văn học... là cuộc đấu tranh cho văn học có được cái

quyền nói "cái bịa" nghệ thuật".

Riêng trong đội ngũ những người viết truyện ngắn và tiểu thuyết hôm

nay, sự chuyển biến này thể hiện rất rõ, đặc biệt đối với những thế hệ

trưởng thành từ sau thời bao cấp và đổi mới - một lực lượng hùng hậu

đang chiếm lĩnh văn đàn. Ít hoặc không bị "đóng gông" trong những

phương pháp sáng tác đã trở thành điển phạm, lại nhạy bén với cái mới,

thích thử nghiệm và phiêu lưu mạo hiểm, đội ngũ này đã mang lại cho văn

xuôi những cách nhìn mới mẻ, đầy cá tính trong phản ánh hiện thực bộc lộ

cụ thể trên trang viết cũng như những phát ngôn khi đàm đạo về văn

chương. Hoà Vang, cây bút từng gây được sự chú ý của độc giả với những

truyện ngắn và tiểu thuyết có cách viết và những ý tưởng mới lạ, độc đáo

như Nhân Sứ, Sự tích những ngày đẹp trời, Hiện tượng HVEYA... thì quan

niệm: "Tôi cho rằng phản ánh cái cõi đời, cõi người này mà chỉ dùng cái

công cụ hiện thực thôi thì không đủ". Quan niệm này gián tiếp cắt nghĩa

nguyên nhân của việc xuất hiện với tần số cao những yếu tố kì ảo, huyền

thoại trong nhiều tác phẩm gây tiếng vang trong dư luận của anh. Với Ngô

Tự Lập, người say mê sáng tác và sưu tầm, nghiên cứu những chuyện có

tính chất thần kì, linh dị thì sôi nổi đến mức thái quá khi cho rằng: "Ngày

nay có lẽ chẳng có người cầm bút nào không cảm thấy trong mình ít nhiều

phẩm chất có tên là kì ảo". Còn Đoàn Lê, lí giải cho cách viết nửa thực nửa

hư trong Nghĩa địa xóm Chùa, Lên ruồi, Nhân bản... ngoài cái "gu" riêng

của mình còn là bởi nhờ nó mà "có lẽ cuộc sống hiện ra ở một góc nhìn hơi

bất ngờ". Nói cách khác, chính những yếu tố huyền hoặc này đã đảm nhiệm

chức năng nghệ thuật quan trọng là "lạ hoá" cuộc sống, tạo ra ấn tượng

thẩm mĩ mạnh mẽ ở người đọc.

Trong số những nhà văn chiếm được nhiều cảm tình của công chúng

hiện nay, Hồ Anh Thái nổi lên như một "hiện tượng" độc đáo. Ngoài sự

sung sức trong sáng tạo, tác phẩm của anh còn tạo ấn tượng đối với độc

giả bởi luôn luôn tìm tòi để không ngừng đổi mới về phong cách. Với liên

tiếp những sáng tác gây tiếng vang trong dư luận như Trong sương hồng

hiện ra, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Tự sự 265 ngày, Cõi người rung

chuông tận thế... nhà văn này đã dần dần khẳng định vị thế của mình trên

văn đàn, phả vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới của một cách

viết chứa đựng nhiều yếu tố hư ảo, đôi khi ma quái. Chiều sâu trong cái

nhìn nghệ thuật của Hồ Anh Thái trước hết thể hiện ở chỗ anh biết vượt

qua những lối mòn tư duy coi văn học như là tấm gương phản ánh hiện

thực một cách đơn giản - điều mà nhà văn gọi là hiện thực thô sơ - để nhìn

cuộc đời như nó vốn có. Để có sức hấp dẫn người đọc, theo tác giả, cái

hiện thực ngoài đời kia phải thông qua sự cảm thấy của nhà văn, được

nhào nặn lại bằng những suy tưởng và tưởng tượng của chủ thể sáng tạo.

Giống như Hoà Vang, Hồ Anh Thái cũng không thừa nhận sự độc tôn của

phương pháp thuần tuý hiện thực: "Tôi quan niệm tiểu thuyết như một giấc

mơ dài, gấp sách lại người ta vừa mừng rơn như vừa thoát khỏi một cơn ác

mộng, lại vừa tiếc nuối vì phải chia tay với những điều mà đời thực không

có. Nếu tôi chỉ dùng phương pháp hiện thực thuần tuý thì sẽ không có được

giấc mơ ấy đâu"; vì như thế là "tự làm nghèo trang viết của mình"(9). Nhìn lại

"cái quan niệm một thời về chủ nghĩa hiện thực thô sơ", Hồ Anh Thái cho

rằng: "Thật quá mà đâu phải đã đến gần hiện thực"; đồng thời cũng không

che giấu mong muốn được đọc và viết "những tác phẩm của sức tưởng

tượng phi thường, tạo dựng được những tình huống khác lạ, những cảm

xúc mê đắm, những nhân vật không chịu mặc đồng phục"(10). Chính cái

quan niệm táo bạo, cái mơ ước chẳng giống ai này đã đưa dắt nhà văn đến

với cái kì ảo, tận dụng nó như một thủ pháp đắc địa để tạo ra sự quyến rũ

thực sự cho những trang viết của mình.

Một trường hợp khá thú vị khác là Thái Bá Tân. Trước đây người ta

biết nhiều đến anh với tư cách là một dịch giả (50 tập cả thơ lẫn văn xuôi).

Vậy mà gần đây tác giả này lại liên tiếp "trình làng" hai tập truyện ngắn, với

34 (trên tổng số 47 truyện) được anh trân trọng "khai sinh" là Truyện kì ảo.

Công khai ý định "theo gót họ Bồ", tự nhận là "người viết truyện ma", nhưng

với phương châm "trung thành với sự thật", "đơn thuần chỉ thuật lại một

cách trung thực" những kì sự, kì tích, kì nhân, các sáng tác của Thái Bá

Tân đã cuốn hút người đọc bằng một lối dẫn truyện dung dị, đầy lôi cuốn,

khiến chúng ta thật sự xúc động trước tình quê thiết tha, sự đồng cảm, trân

trọng của nhà văn đối với lịch sử dân tộc, với những thân phận bất hạnh

trong đời thực và cả trong quá khứ. Hiện tượng Thái Bá Tân cũng là ví dụ

tiêu biểu cho sự hòa hợp giữa kì ảo và chủ nghĩa hiện thực, giữa cái bình

thường và cái kì diệu trong văn học: Tưởng tượng kì ảo là đôi cánh nâng

tính hiện thực thăng hoa tới những tầng cao mới.

Trong cảm quan của đội ngũ nhà văn thiên về lối viết theo sự gợi ý

của trực giác, linh cảm, cảm nhận đời sống theo "mệnh lệnh trái tim" này,

người ta chẳng khó khăn gì cũng có thể đọc thấy quan niệm cho rằng càng

trung thành với nguyên mẫu ngoài đời bao nhiêu, đôi cánh tưởng tượng

càng bị vặt trụi lông bấy nhiêu. Dường như ở đây có sự gặp gỡ trong tư

duy nghệ thuật của họ với quan niệm của triết gia Ấn Độ - Vivekananda:

"Thế giới này nhỏ bé lắm, người ta phải thêm vào đó một chút tưởng

tượng"; hoặc của Aimatốp, nhà văn Nga từng nổi tiếng với những sáng tác

huyền thoại như Con tàu trắng, Và một ngày dài hơn thế kỉ: "Chúng ta chỉ

nhận thấy hiện thực tuyệt vời của chúng ta, sự nghiệp của chúng ta, lịch sử

của chúng ta, cuộc sống của chúng ta. Nhưng theo tôi, cách nhìn nhận hời

hợt trong văn học lỗi thời rồi, cần phải có một cách nhìn bổ sung, cách nhìn

"từ phía bên", cách nhìn sâu thẳm, cách nhìn của quá khứ. Tất cả những

cái đó gộp lại làm cho sức mạnh của hình tượng nghệ thuật thêm cô đọng.

Truyền thuyết, huyền thoại, bài ca, toàn bộ kết cấu của chúng đã giúp tôi

trong việc tìm kiếm tính nhiều bình diện và tính nhiều chiều như vậy"(11).

Không ồn ào, sôi nổi như lớp đàn em, sự thay đổi trong quan niệm

sáng tác ở các bậc đàn anh trong văn giới diễn ra thâm trầm hơn, nhưng

không phải vì thế mà kém phần mạnh mẽ, quyết liệt. Một chút hoài cổ, Trần

Huy Quang một mặt không che giấu khát vọng khơi lại dòng chảy kì ảo

truyền thống trong văn học hôm nay: "Việc sử dụng yếu tố ảo hoặc ma quái

trong văn học đã có từ thời xưa, hình như trong văn học hiện đại được ít

dùng"; mặt khác - như là hệ quả tất yếu của nó - chính tác giả này cũng

đã tích cực biến ước mơ thành hiện thực: Nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết

của ông như Ám ảnh có thật, Mối tình hoang dã... gợi sự chú ý của người

đọc bởi những tình tiết hoang đường, phi lí, ngỡ kì quái, khó tin nhưng lại

luôn luôn hiện diện và tác động trực tiếp đến cuộc sống con người. Còn

Châu Diên, nhà văn từng đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn báo Văn

nghệ năm 1958-1959 với truyện ngắn Cái lô cốt, sau gần bốn mươi năm im

lặng, lại tái xuất văn đàn trên cả hai lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết,

trong đó có Người sông Mê - cuốn tiểu thuyết gây được tiếng vang trong dư

luận bạn đọc. Với lối viết hiện thực - huyền ảo, sử dụng nhiều độc thoại nội

tâm, dòng ý thức, sự đan cài, lắp ghép các mảng hiện thực cách xa nhau

trong không gian, thời gian lại cạnh nhau, đánh đồng cõi thực và chốn sông

Mê bến Lú thành một phức thể lung linh, để cuộc sống đời thường và lịch

sử dân tộc với trăm ngàn khuất lấp của nó hiện ra trần trụi trong cái nhìn

thấu thị của những người bước ra từ thế giới bên kia..., người viết dường

như đã nhập đồng cái ngôn ngữ tiểu thuyết phi không gian và thời gian, để

tiếng nói nghệ thuật đầy biến ảo của ông tăng thêm ma lực quyến rũ, mê

hoặc người đọc.

Những nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải... tuy

không trực tiếp bày tỏ quan niệm nhưng thái độ cổ xuý và trân trọng của họ

đối với sáng tác của các thế hệ đàn em (Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ

Duy Anh, Hồ Anh Thái, v.v...) cũng là một sự ngầm thoả thuận, sự mặc

nhiên thừa nhận tính tích cực của các thủ pháp huyền thoại, kì ảo trong việc

khám phá cuộc sống và tạo ra những bước đột phá của văn học giai đoạn

này. Nhận định của Ma Văn Kháng, nhà văn từng thừa nhận mình "tựu

trung vẫn là một người thích và viết truyện ngắn theo lối cổ điển, vẫn thuỷ

chung một cách rất khó hiểu với những câu chuyện được viết theo cách

truyền thống xưa cũ" - về tình hình văn học hôm nay đã bộc lộ khá rõ tinh

thần ấy: "Cùng với việc sáng tạo ra một quan niệm mới để miêu tả một hiện

thực đã quen nhàm khiến nó trở nên lạ lẫm khác thường, thì việc miêu

thuật một lĩnh vực chưa mấy người, chưa ai đụng bút tới cũng là một việc

cần thiết để tạo nên một lực hút mới chứ sao; nhất là trong tình hình sáng

tác truyện ngắn hiện nay, nhiều lúc có cảm giác tác giả cứ luẩn quẩn ở các

cốt truyện na ná giống nhau, nói đi nói lại những điều người trước đã nói rồi

mà lại nói không hay bằng người ta"(12).

Phương pháp mới bao giờ cũng mang lại những kết quả mới. Riêng

trong lĩnh vực văn học, một quan điểm nghệ thuật bao giờ cũng dẫn đến

một phong cách nghệ thuật riêng của nó. Những trăn trở, tìm tòi của người

viết nhằm phát hiện những phương thức phù hợp để tiếp cận cái hiện thực

"cùng thời" đầy đa tạp và biến ảo hôm nay, trong đó có thái độ trân trọng

đối với những thủ pháp nghệ thuật sử dụng những yếu tố có tính chất kì lạ,

khó tin cũng không nằm ngoài quy luật đó. Có thể xem sự chuyển biến này

là những tiếng sấm đầu tiên báo hiệu cho sự tái sinh rầm rộ của văn xuôi có

yếu tố kì ảo; và sự xuất hiện của bộ phận văn học ngỡ như quen mà lạ này,

đến lượt nó, sẽ góp phần không nhỏ để làm phong phú đời sống văn học

đương đại.

Từ truyền thống văn hoá, văn học dân tộc

Sự thực là yếu tố kì ảo không hề xa lạ với độc giả Việt Nam. Ngay từ

lúc mới chào đời, văn học Việt Nam đã gắn liền với kì ảo: "Kì ảo là một

trong những đặc trưng của truyện dân gian, không có kì ảo thì không thể có

truyện dân gian vậy"(13). Khả năng tiềm tàng của thần thoại, cổ tích, nói như

Aimatốp, là dưỡng chất nuôi dưỡng nền văn hóa hiện đại. Với tư cách là

"văn hoá gốc", "văn hoá mẹ", nguồn mạch dân gian bất tận chảy trôi,

nguyên sơ và tươi mới, bàng bạc những sắc điệu thần kì, lung linh ảo mộng

vỗ không ngừng không nghỉ suốt bao đời đã lắng thành "vô thức tập thể",

góp phần đặt nền móng, hình thành nên các phương pháp và phương tiện

nguyên thuỷ của việc chiếm lĩnh hiện thực bằng hình tượng đồng thời đóng

vai trò quan trọng trong việc tạo nên tâm thức cộng đồng dân tộc: Gần gũi

và có xu hướng thiên về những cái kì lạ, khác thường, biểu hiện thế giới

quan thần linh, tư duy huyền thoại trong quan điểm của người sáng tác văn

học mọi thời đại. Vì lẽ, vô thức, theo như lí giải của Jung, không chỉ là nơi

tích tụ những kinh nghiệm sống đã chìm lắng và bị dồn nén xuống tầng bên

dưới mà nó còn là nguồn cội của những khả năng sống mới cho tương lai,

là trầm tích nuôi dưỡng các sáng tạo vật chất lẫn tinh thần của nhân loại.

Ngoài văn học dân gian - cái nôi của văn hoá, văn học dân tộc, cái kì

trong truyền thống văn học phương Đông còn gắn bó chặt chẽ với triết học

Phật giáo và phần nào triết học Lão Trang, hai học thuyết đối trọng với Nho

giáo nhưng lại khá dung hoà với tín ngưỡng gốc dân gian để góp phần tạo

ra bản sắc dân tộc Việt Nam(14). Nếu như văn hoá Nho giáo không khuyến

khích hư cấu, tưởng tượng, chủ trương không nói chuyện “quái, lực, loạn,

thần”, “kính quỷ thần nhi viễn chi” thì chính học thuyết đề cao vai trò của

Tâm, “vạn pháp duy tâm tạo” (toàn bộ thế giới là hình ảnh do tâm tạo ra) đã

đề cao vai trò của trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, giúp người viết

vượt lên trên tình trạng sao chép đơn giản hiện thực để hư cấu, tưởng

tượng. Cũng chính học thuyết về kiếp, về cuộc sống sau cái chết và vấn đề

lai sinh hay tái sinh của Phật đã mở ra cho văn học truyền kì phương Đông

một nguồn mạch tư duy hết sức phong phú. Triết học Lão Trang, triết học

biện chứng tự nhiên, lại đặc biệt nhấn mạnh sự biến hoá qua lại giữa hai

mặt đối lập, những hiện tượng pháp thuật phù phép để cứu cánh cho cuộc

sống. Theo đó, âm và dương, hoạ và phúc, thực và hư, nhược và cường,

chân và ảo, v.v... là một loạt những cặp phạm trù có thể được nhìn dưới

quan điểm biến dịch. Chính là nhờ hai học thuyết này, cộng với văn hoá

dân gian mà đời sống văn học của phương Đông thời trung đại giữ được

thế quân bình cần thiết giữa một bên là cách nhìn hiện thực - thực dụng,

khô khan của nhà nho và một bên là trí tưởng tượng bay bổng qua các

truyện truyền kì, các truyện ngụ ngôn kì ảo. Điều đó lí giải vì sao trong

không ít sáng tác của các đệ tử Khổng - Mạnh vẫn ngang nhiên tồn tại yếu

tố kì ảo như là một sự thách thức lại những tín điều của Nho gia. Trong

thực tế, văn học chính thống chủ yếu nhấn mạnh tác dụng giáo hoá, còn

những tác phẩm văn học loại này lại gia tăng về phương diện thẩm mĩ,

nghệ thuật. Nó biểu hiện ý thức "trước thư lập ngôn" của tác giả. Bằng cách

khai thác tối đa thế mạnh từ đặc trưng của yếu tố kì ảo, những sáng tác

ngôn từ của họ xứng đáng được gọi là những "kì văn". Với đặc trưng nhận

thức và phản ánh cuộc sống bằng những yếu tố thần kì, linh dị, kì ảo dễ

dàng giúp tầng lớp nho sĩ - vốn chịu không ít sự kìm toả đến bức bối của

"tam cương, ngũ thường" - tìm được con đường để giải thoát những ẩn ức

dồn nén đồng thời thông qua đó bộc lộ những suy tư, chiêm nghiệm về

cuộc đời. Đằng sau những câu chuyện có phần hoang đường, kì quái, mục

tiêu của họ không phải chỉ là để mua vui, giải trí đơn thuần, mà như sự hé

lộ của tác giả Lĩnh Nam chích quái: "Chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác,

bỏ giả theo thật để khuyến khích phong tục mà thôi"(15). Quá trình đi tìm sự

thăng bằng, quân bình như thế đã lặp lại trong văn học Việt Nam những

năm gần đây; khi mà quan niệm thô sơ, giản đơn về chủ nghĩa hiện thực đã

bộc lộ những hạn chế nhất định của nó thì lập tức xuất hiện bộ phận văn

học có yếu tố kì ảo, sáng tác theo thi pháp huyền thoại dần trở nên phổ

biến. Hiện tượng có tính quy luật của văn học đương đại này đã có được

sự hậu thuẫn đắc lực của những nhân tố chính trị, văn hoá, xã hội... mà

chúng tôi đã phần nào đề cập ở trên.

Bên cạnh đó, chính cơ tầng địa văn hoá, địa lịch sử của một xã hội

nông nghiệp phương Đông mà dưới cái nhìn của người phương Tây là một

nơi tự ngàn xưa đến giờ luôn "tràn đầy những màu sắc lãng mạn thần kì,

những tình điệu dị bang, những kinh lịch đặc biệt, bao trùm lên tầm mắt và

kí ức của mọi người" cũng là sự khích lệ, là môi trường thuận lợi để yếu tố

kì ảo nảy sinh, trường tồn. Theo thời gian, những trầm tích văn hóa này trở

thành một dưỡng chất tinh thần không thể thiếu, ngấm vào con người như

một niềm ám thị. “Chính là trong không khí hư hư thực thực, đầy những

cách nói phúng dụ, ngoa truyền, trong một thế giới khép kín của xã hội

phương Đông (...), con người không có một sự ngăn cách tuyệt đối giữa

“cõi sống” và “cõi chết”, và chỉ có một chiều hướng duy nhất để tự nhận ra

mình là quay nhìn lại quá khứ, hoá thân vào quá khứ, mà nảy sinh ra nhu

cầu sáng tác, thưởng thức, truyền bá không bao giờ cạn những câu chuyện

li kì ma quái, làm phương thức giao tiếp tinh thần, tình cảm, và cũng để

thêm màu thêm vẻ cho cuộc sống vốn rất đơn điệu, ngày này như ngày nọ

của mình”(16).

Những truyện kì lạ, hoang đường này còn được nâng cánh bởi cái

nhìn thế giới phi nhị nguyên của vũ trụ luận phương Đông với một niềm tin

hồn nhiên là có sự tương thông, tương giao giữa người sống và người

chết, giữa thế giới thực tồn và thế giới siêu nhiên. Dù đó là một thứ vũ trụ

"hai bên" đi nữa thì sự giao lưu giữa hai bên vẫn còn thân thiết và bền chặt.

Và như một hệ quả tất yếu, người ta xem những chuyện quái dị, hoang

đường là có thật, chẳng qua là người trần mắt thịt không thấy đó thôi, và

dành cho những người không cùng quan điểm, niềm tin với mình cái nhìn

đầy vẻ xem thường, cho đó là "kiến thức của bọn người ngồi đáy giếng,

không đủ bàn đến những sự vật trong bầu trời rộng lớn"(17). Niềm tin mang

tính chất tâm linh vào những lực lượng thần bí, siêu nhiên này đã góp phần

tạo thành dòng tín ngưỡng "bàng thống" tồn tại lâu bền bên cạnh "chính

thống", ghi dấu ấn đậm sâu vào mọi hoạt động của con người, đặc biệt là

hoạt động sáng tạo nghệ thuật.

Nghĩa là, trong mỗi con người Việt Nam hiện đại vẫn còn tươi nguyên

một tâm hồn phương Đông cổ xưa; và theo như quan niệm của lí luận văn

học hiện đại, đây chính là cơ sở tạo ra "tầm đón đợi" thuận lợi đối với bộ

phận văn học tiếp cận cuộc sống bằng những yếu tố kì lạ, siêu nhiên nói

trên. Đó cũng là nhân tố quan trọng khiến cho văn xuôi có yếu tố kì ảo

đương đại - cũng giống như bất cứ tác phẩm kì ảo khác trong lịch sử văn

học dân tộc, dẫu chịu sự hấp dẫn và tác động mạnh mẽ của văn học hiện

đại phương Tây với những bộ y phục bắt mắt, vẫn không ngừng bám chặt

để hút dưỡng chất từ truyền thống. Đặc trưng này khiến cho chúng một mặt

không bị xem là những "quái thai của thời đại", mặt khác lại không quá

nhàm chán, lỗi thời với thị hiếu, nhu cầu của công chúng văn học đương

đại. Đông đảo độc giả vẫn có thể "tiêu thụ" và chuộng kì ảo. Bộ phận văn

học này đã tỏ ra phù hợp với xã hội tiêu thụ hiện nay. Đến lượt mình, sự

mới lạ, hấp dẫn của truyện kì ảo thế giới đã tác động tích cực đến đời sống

văn hoá, văn học dân tộc. Trong giao lưu văn hoá, "sự tiếp thu được những

"gien" văn hoá mới, thích đáng, "có ưu thế lai" có tác động tích cực tới bản

sắc dân tộc, nó càng phát triển mạnh mẽ hơn, càng bền vững và ổn định

hơn"(18). Khách quan mà nói, yếu tố kì ảo trong truyền thống văn học dân

tộc như một dòng chảy mạnh mẽ ở bề sâu và cơn gió của thời đại, của văn

học kì ảo hiện đại phương Tây như là ngoại lực từ bên trên tạo ra những

ngọn sóng lừng có khả năng vỗ vách thời gian. Sự tiếp nhận ở đây chủ yếu

được lựa chọn theo tiêu chuẩn của truyền thống, khiến cho cái hiện đại

ngoại nhập tự thay đổi để thích nghi với phong thổ, khí chất Việt Nam. Nói

khác đi, những nhân tố truyền thống giữ vai trò "điểm tựa và là yếu tố thuộc

nội lực của cá tính sáng tạo", còn hiện đại góp phần tạo ra những "bước

nhảy" về chất của văn xuôi có yếu tố kì ảo sau đổi mới.

3. Trở lên là cố gắng của người viết trên hành trình đi tìm những

nguyên nhân cơ bản cho sự hồi sinh của bộ phận văn xuôi có yếu tố kì ảo

trong đời sống văn học Việt Nam kể từ sau 1986 đến nay. Dẫu còn mang

bóng dáng truyền thống, nhưng nhìn chung về mặt hình thức, đây là những

sáng tác in đậm dấu ấn hiện đại từ đề tài, nhân vật đến cốt truyện, ngôn

ngữ, kết cấu... Phần lớn những truyện này đều hướng vào thực tại sôi

động, ở đó yếu tố kì ảo là nhân tố quan trọng mang lại những giá trị thẩm

mĩ thực sự cho tác phẩm chứ không nhằm mục đích kích thích nhu cầu

chuộng lạ đơn thuần của người đọc. Việc sử dụng yếu tố kì ảo với tư cách

là "thủ pháp nghệ thuật mới ra đời" đã giúp người viết tạo được sự đa dạng

trong văn phong và những đặc trưng về phong cách nghệ thuật. Bên cạnh

bút pháp tả thực của chủ nghĩa hiện thực cổ điển, việc xuất hiện bút pháp kì

ảo, phi thực đa dạng, nhiều biến ảo này đã khiến văn học trở nên phong

phú, sinh động hơn và người viết bước đầu cũng đã có được gương mặt

riêng, sức cuốn hút riêng của mình. Đây chính là những tín hiệu lạc quan

của sự phát triển theo chiều hướng tích cực của văn học, bởi "không gì

đáng buồn hơn là tất cả đều viết giống nhau". Vì vậy không ít người nghiên

cứu tin tưởng rằng sự trở về của yếu tố kì ảo là dấu hiệu đáng mừng cho

thấy bước phát triển theo hướng đa dạng hóa của văn học Việt Nam. Thoạt

nhìn cứ ngỡ kì ảo là thủ pháp chật hẹp, thiếu tính khái quát vì chỉ quan tâm

đến một bộ phận văn học riêng biệt; nhưng không, nó chính là "con đường

nhỏ" (tiểu đạo) dẫn vào "đại dương bao la của thứ ánh sáng không thể tả

được" (E. Poe). Vì vậy, sẽ không võ đoán khi cho rằng, kì ảo chính là một

trong những nhân tố đổi mới diện mạo văn học những năm gần đây "trên

những nét lớn", là nhu cầu phát triển tự thân, tất yếu của đời sống văn học

và cũng là "biểu hiện của một nền văn học dân chủ, đa dạng và nhân bản".

Thiết nghĩ, trong khi đề cao chức năng phản ánh hiện thực của văn học, đã

đến lúc cần có những công trình nghiên cứu về kì ảo ở tầm khái quát của

nó nhằm tìm ra những góc độ thích hợp để tiếp cận đặc thù của văn xuôi

thời kỳ đổi mới.