Imatinib - Thuốc nhắm trúng đích
Trước đây trong việc điều trị ung thư, người ta thưng áp dụng phương pháp
"ném bom rải thảm" nhưng sau này với tiến bộ khoa học, các nhà dược
phẩm đã đưa ra liệu pháp nhằm trúng đích để đạt hiệu quả cao và đỡ gây hại
cho người bnh.
Liệu pháp này có tên "liệu pháp nhắm trúng phân tử" với việc dùng các loại thuốc
tác động vào các phân tử đặc biệt trong cơ chế sinh ung và sự tăng trưởng của khối
u do đó làm dừng sự tăng trưởng và phân đôi của tế bào ung thư. Liệu pháp này
thể dùng riêng lhoặc kếp hợp với nhau hoặc kèm thêm liệu pháp hoá trị. Hiện
nay có hàng trăm sản phẩm: loại này đang được thử nghiệm lâm sàng trong đó có
một số đã được cấp phép lưu hành, c thể là với biệt dược glivec (glivec), hoạt
chất chính là imatinib.
Imatinib là chất ức chế protein-tyrosinekinase, nó ức chế đặc hiệu Ber-Abltyrosine
kinase (phân tử bất thường gây bệnh bạch cầu tuỷ mạn) bằng cách ngăn không cho
Ber-Abl gắn kết với A.T.P. Nó tác động chính xác lên phân tử gây bệnh, tỷ lệ đáp
ứng về mặt huyết học và di truyền học tế bào rất cao đưa bệnh nhân có khả năng
trở lại cuộc sống bình thường. Thuốc được dùng qua đường uống. Sinh khả dụng
tuyệt đối trung bình của imatinib là 98%, tlệ hấp thu có thể thay đổi tuỳ theo loại
thực phẩm ăn vào. Thuốc được đào thải qua phân 68% và trong nước tiểu 13%
trong vòng 7 ngày, riêng lượng imatinib không đổi chiếm 25% còn lại là các sản
phẩm đã chuyển hoá thời gian bán huỷ (t 1/2) xấp xỉ 18 giờ nên liều uống
1lần/ngày là phù hợp.
Thuốc được chỉ định: - Bệnh nhân ung thư bạch cầu tuỷ mạn (CML).
- Bệnh nhân dương tính có u dạ dày đường tiêu hoá ác tính di căn hoặc/và không
thể cắt bỏ.
Chống chỉ định: mẫn cảm với hoạt chất chính hoặc với bất cứ thành phần nào của
thuốc.
Thận trọng: - Người suy gan nặng, cân nhắc kỹ với lợi ích và nguy cơ trước khi
chỉ định, cần kiểm tra công thức máu ngoại vi và men gan.
- Nên uống thuốc kèm với cốc nước lớn để hạn chế tối đa những kích thích đường
tiêu hoá.
- Do thuốc có khả năng gây biến chứng ứ dịch nặng (tràn dịch màng phổi, phù
phổi, cổ trướng). Khoảng từ 1-2% trường hợp dùng thuốc nên cân thtrọng
thường xuyên, nhất là với người già, người suy tim nếu tăng cân nhanh bất thường
cần được thầy thuốc theo dõi và xử lý kịp thời.
- Cần lưu tâm và quản lý tình trạng xuất huyết có thể xảy ra.
- Do bệnh nhân ung thư bạch cầu trung tính và tiểu cầu nên công thức máu cần
được kiểm tra thường xuyên, nếu có bất thường có thể ngừng hoặc giảm liều dùng.
- Không nên dùng thuốc này khi có thai do chưa có đầy đủ số liệu vảnh hưởng
của thuốc trên thai nhi. Phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ cần áp dụng các biện pháp tránh
thai khi dùng thuốc.
- Có lời khuyên các bà mẹ đang dùng thuốc không nên cho con bú.
Tương tác:
- Một số thuốc có thể làm tăng nồng độ imatinib trong huyết tương: ketoconazole,
itraconazole, erythromycin, clarithromycin...
- Các thuốc có thể làm giảm nồng độ imatinib trong huyết tương: dexamethasone,
phenytoin, carbamazepicine, rifampicine, phenobarbital.
- Những thuốc có thể bị thay đổi nồng độ trong huyết tương do imatinib
simvastatin, ceclosporin, paracetamol; (đã có trường hợp dùng thuốc này đồng
thời với imatinib gây suy gan cấp, tử vong dù nguyên nhân chưa xác định rõ).
Tác dụng phụ:
- Rất hay gặp (trên 1/10): giảm bạch cầu trung tính, giảm tiểu cầu, thiếu máu, đau
đầu, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, phù quanh hốc mắt, viêm da, chàm, phát ban.
- Thường gặp: (ít hơn hoặc bằng 1/10): gim bạch cầu trung tính có sốt, giảm toàn
thể huyết cầu, chán ăn, choáng váng, rối loạn vị giác, dị cảm, mất ngủ, viêm kết
mạc, tăng tiết nước mắt, tràn dịch màng phổi, chảy máu cam, phù mặt, phù mi
mắt, ngứa, ban đỏ, da khô, vã mồ hôi về đêm, sốt, rét run, mệt nhọc, tăng cân.
Liều dùng: nên được chỉ định bởi một bác sĩ có kinh nghiệm trong việc điều trị
bệnh nhân ung thư bạch cầu tuỷ mạn hoặc u dạ dày đường tiêu hoá có di căn. Liều
dùng tuỳ theo bệnh và tuỳ tình trng cấp hay mạn. Thường từ 400-600-
800mg/ngày. Thuốc có thể uống 1 lần hoặc chia 2 lần/ngày vào buổi sáng và buổi
tối. Thời gian điều trị cho tới khi bệnh ổn định: thường trung bình kéo dài từ 7
ngày đến 13 tháng, thường là 7 tháng.
Tại Hội nghị ung thư được tổ chức vào giữa
tháng 5/2001, 26.000 nhà khoa học của nhiều
nước đã được nghe báo cáo những kết quả
mang tính chất đột phá của glivec trong điều
trị ung thư. Kết quả các điều trị và th
nghiệm cho thấy glivec có công hiệu đối với
85% bệnh nhân mắc bệnh máu trắng (một
dạng ung thư máu). Phần lớn các tế bào ung
thư trong 59% bệnh nhân bị tiêu diệt và có
tới 26% bệnh nhân thậm chí tế bào b tiêu
diệt hoàn toàn. Rất nhiều bệnh nhân đã được glivec cứu sống, sau khi đã từng
dùng interferon (một dược chất tăng cường hệ miễn dịch) nhưng không hiệu quả
đồng thời lại chịu nhiều tác dụng phụ nguy hiểm, thời gian sống chỉ còn hạn hẹp.
Geong Karst, 63 tuổi, người Đức vào tháng 12/1999 là một trong những bệnh nhân
đầu tiên trên thế giới dùng thử thuốc glivec và sau đó vài tuần lễ trong máu ông
không còn các tế bào ung thư nữa. Bà Victoria Reiter, 63 tuổi, một nhà văn Mỹ, cả
năm 1999 phải nằm liệt giường do nhiễm bệnh trên nhưng đầu năm 2000 dùng
thuốc thử nghiệm, đến tháng 8/2000, xét nghiệm cho thấy tuỷ xương không còn
các tế bào ung thư và đến tháng 12/2000, bà đã có thể nhảy điệu tanggo mà không
hề bị choáng váng.
Nhiều nhà khoa học hàng đầu trong lĩnh vực ung thư đã coi glivec là một bước
nhảy vọt trong trận chiến chống ung thư của loài người.
Nhưng vì ung thư là một căn bệnh quái ác, có thể phát tác lại sau một thời gian dài
nên chưa dám khẳng định là thuốc chữa khỏi mà chhi vọng biến nó thành căn
bệnh có thể kiểm soát được. Và glivec cũng có nhược điểm, có nhiều tác dụng
phụ, dùng thuốc lâu dài, giá đắt và hoạt động quá hẹp chỉ biết khống chế quá trình
phân chia của tế bào và không có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư do đó đòi hỏi
phải phối hợp với các thuốc khác mới hy vọng ngăn ngừa được sự tái phát các
bệnh.
Ung thư bạch cầu.
Phạm Tiếp