Thăm khám bệnh mạch máu ngoại vi

(Kỳ 3)

1.2.2. Đo biến đổi thể tích (plethy smography):

Lưu lượng và tốc độ của dòng máu đến và đi khỏi một vùng tổ chức của chi

sẽ trực tiếp làm biến đổi thể tích của vùng này. Bằng cách đo chính xác những

biến đổi thể tích đó trong những điều kiện hoạt động chức năng nhất định của các

mạch máu cần theo dõi, người ta có thể xác định được tình trạng hoạt động chức

năng của các mạch máu đó.

Các máy đo biến đổi thể tích dùng trong lâm sàng có thể hoạt động theo

nguyên lý khác nhau (đo biến đổi thể tích vùng chi nghiên cứu thông qua những

biến đổi áp lực, lực căng hoặc điện trở tổ chức). Các máy này đều được thiết kế để

có thể đo được ở bất cứ phần nào của chân, kể cả các ngón, nhờ đó thăm khám

được toàn bộ các phần của chân.

Phương pháp đo thay đổi thể tích giúp xác định được một số chỉ số quan

trọng như: huyết áp tâm thu ở từng phần khác nhau của chi, dung tích mỗi nhịp

đập của mạch, lưu lượng và tốc độ thay đổi của dòng máu tại những vùng nhất

định của chi trong trạng thái nghỉ và vận động. Trên cơ sở các số liệu thu được có

thể xác định được tình trạng hoạt động chức năng của mạch máu ở các vùng chi

đó, đặc biệt là để đánh giá tình trạng tắc, nghẽn động mạch và tĩnh mạch, suy chức

năng các tĩnh mạch...

1.2.3. Siêu âm mạch máu:

1.2.3.1. Siêu âm doppler liên tục (CW doppler: contimous wavedoppler) :

Ghi siêu âm doppler liên tục sử dụng hai đầu dò, một đầu phát liên tục và

đầu kia nhận và ghi lại liên tục các sóng siêu âm phản hồi rồi chuyển nó thành các

tín hiệu có thể nghe thấy hoặc ghi lại được dưới dạng biểu đồ hình sóng. Nó ghi

nhận được các tín hiệu dòng máu có tốc độ cao (dựa vào tốc độ di chuyển của

hồng cầu) nhưng không xác định được chính xác vị trí không gian của các tín hiệu

này. Khác với siêu âm doppler ngắt quãng chỉ có một đầu dò vừa phát vừa thu tín

hiệu siêu âm thay đổi nhau.

Ưu điểm của siêu âm doppler liên tục là máy có cấu trúc gọn nhẹ nên có thể

thăm khám được ngay tại giường bệnh. Có thể đánh giá được tình trạng dòng máu

trong các mạch máu và qua đó xác định được các mạch máu này có bị hẹp hoặc

tắc hay không.

1.2.3.2. Chụp siêu âm kép (duplex ultrasonography):

Là phương pháp kết hợp chụp siêu âm real-time kiểu B và siêu âm doppler

ngắt quãng thành một hệ thống đồng bộ. Nó phát huy được ưu điểm của chụp siêu

âm kiểu B trong định vị và tạo hình ảnh và ưu điểm của siêu âm doppler ngắt

quãng trong đánh giá các đặc tích của dòng máu ở các mạch máu cần thăm khám.

Với kỹ thuật ghi hình ảnh động (real-time) và doppler màu, phương pháp

chụp siêu âm kép cho phép đánh giá chính xác hình ảnh tổn thương của mạch máu

theo các lớp cắt ngang hay dọc mạch máu, đồng thời xác định được cả các tính

chất của dòng máu trong các mạch máu đó như: kiểu dòng chảy, hướng, tốc độ,

áp lực… Trên cơ sở đó có thể phân tích để xác định được các chỉ số quan trọng

Hình 4.17: Sơ đồ đo biến đổi thể tích ở cẳng chân.

1.2.4. Chụp mạch máu cộng hưởng từ:

Dùng phương pháp chụp cộng hưởng từ hạt nhân để chụp mạch máu chi

thể. Phương pháp này đang được nghiên cứu và phát triển vì nó có thể khắc phục

được những nhược điểm của phương pháp chụp mạch máu cản quang như: gây tổn

hại nhiều thậm chí gây nguy hiểm cho bệnh nhân, giá thành đắt... Trong tương lai

gần, phương pháp chụp mạch máu cộng hưởng từ có thể có giá trị chẩn đoán chính

xác không kém phương pháp chụp mạch máu cản quang.

1.3. Chụp mạch máu cản quang:

1.3.1. Chụp động mạch cản quang:

Hiện nay chụp động mạch cản quang vẫn được coi là một phương pháp

thăm khám đem lại những thông tin quan trọng bậc nhất trong chẩn đoán các bệnh

động mạch.

Máy dùng để chụp động mạch cản quang là máy chuyên dụng: có khả năng

chụp nhanh, chụp hàng loạt hoặc ghi hình ảnh động. Các máy hiện đại có khả năng

chụp cắt lớp, có màn hình tăng sáng và phóng đại hình ảnh, có thể khử hình ảnh

của các bộ phận khác (như xương, cơ...) để có hình ảnh của động mạch rõ ràng

hơn.

Hiện nay biện pháp đưa thuốc cản quang vào động mạch theo kỹ thuật

Seldinger để chụp động mạch là phương pháp chụp động mạch được dùng phổ

biến nhất trong lâm sàng. Các bước chính của kỹ thuật này là:

+ Chọc kim vào lòng động mạch, thường ở động mạch đùi chung bên trái.

+ Luồn một dây dẫn đường qua nòng của kim vào trong lòng động mạch.

Sau đó rút bỏ kim nhưng vẫn giữ nguyên dây dẫn đường có một phần đã nằm

trong động mạch.

+ Tiếp đó lồng catheter theo dây dẫn đường vào lòng động mạch rồi rút bỏ

dây dẫn đường, giữ lại catheter đã nằm trong lòng động mạch.

+ Cuối cùng luồn catheter đến vị trí động mạch cần chụp (thường luồn dưới

quan sát bằng màn hình tăng sáng) để bơm thuốc cản quang và chụp.