TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======
TẠ THỊ HỒNG THANH
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
HÀ NỘI - 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======
TẠ THỊ HỒNG THANH
ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Th.S Nguyễn Thị Giang
HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, em đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới Th.S Nguyễn Thị Giang - ngƣời cô đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Chính trị cùng các thầy cô giáo trong trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy, chỉ bảo em trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng nhƣ bạn bè đã góp ý,
ủng hộ em hoàn thành khóa luận này.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
nhƣ kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự góp ý, chỉ bảo của quý thầy cô cũng nhƣ các bạn sinh viên. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện
Tạ Thị Hồng Thanh
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này đƣợc hoàn thành dƣới sự hƣớng dẫn của
Th.s Nguyễn Thị Giang.
Tôi xin cam đoan rằng: Đây là kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Ngƣời thực hiện Tạ Thị Hồng Thanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 6 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:................................................................ 6 5. Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 7 6. Ý nghĩa của khóa luận ................................................................................... 7 7. Kết cấu của khóa luận ................................................................................... 7 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ......................................................................................... 8 1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo ................................................................ 8 1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo ..................................................... 8 1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam .............................. 9 1.2. Nhân sinh quan Phật giáo ......................................................................... 13 1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tƣ tƣởng triết học Phật giáo ............... 13 1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo .......................... 15 1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo ...................................................... 17 1.3. Đạo đức và kết cấu của đạo đức ............................................................... 23 1.3.1. Khái niệm đạo đức trong lịch sử triết học ............................................. 23 1.3.2. Khái niệm đạo đức theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin ................. 24 1.3.3. Kết cấu của đạo đức .............................................................................. 26 CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY .................. 28 2.1. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con ngƣời Việt Nam ................................................................................................................. 35 2.1.1. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến ý thức đạo đức ................... 35 2.1.2. Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến hành vi đạo đức ........... 40 2.1.3. Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến quan hệ đạo đức .......... 47 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TIÊU CỰC CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO ĐỨC CON NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY ............ 50
3.1. Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo và đạo đức tôn giáo ......................................................................................... 50 3.1.1. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ...................... 50 3.1.2. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo ................... 54 3.1.3. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo ....................................... 56 3.2. Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay................................. 58 3.2.1.Việc phát triển kinh tế thị trƣờng gắn với đạo đức của ngƣời Việt Nam ......................................................................................................................... 58 3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống xã hội .................................................................................................................... 59 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 64 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 66
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới đƣợc du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên. Trong một thời gian dài từ khi du nhập cho đến nay, Phật giáo đã sớm khẳng định đƣợc mình và tìm đƣợc một chỗ đứng vững chắc trong đời sống văn hóa xã hội của con ngƣời Việt Nam”.
“Phật giáo có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh việc lựa chọn đúng đƣợc con đƣờng, cách thức truyền bá phù hợp với tâm lý, truyền thống văn hóa thì nội dung giáo lý của nhà Phật gần gũi với đời sống tinh thần của ngƣời Việt. Với tinh thần từ, bi, hỉ, xả của mình trong nhân sinh quan, Phật giáo đã có sự khác biệt với những hệ tƣ tƣởng cùng thời đƣợc du nhập truyền bá vào Việt Nam và đƣợc con ngƣời Việt Nam đón nhận một cách rất tự nhiên nhƣ “nƣớc ngấm vào lòng đất” và đã len lỏi vào trong đời sống của từng cá nhân, từng cộng đồng ngƣời Việt sinh sống. Nếu nhƣ Nho giáo phải mất một thời gian khá dài khi mà xã hội Việt Nam đã tƣơng đối phát triển mới đƣợc nhân dân trọng dụng, bên cạnh đó Phật giáo ngay từ buổi đầu du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng đƣợc hòa mình vào cùng với nền văn hóa của ngƣời bản địa bằng chính những câu chuyện thần thoại mang đến cho con ngƣời sự thoải mái trong tâm lý và đầy tính nhân văn cao cả (Hình ảnh ông Bụt hiện lên giúp đỡ con ngƣời khi gặp khó khăn, hoạn nạn,…). Điều này, đã đƣợc minh chứng trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc Việt Nam. Ngƣời Việt tiếp thu Phật giáo và đã có những vận dụng những giáo lý này phù hợp với đời sống xã hội và hoàn cảnh lịch sử của dân tộc mình. Phật giáo ở Việt Nam mang một nét rất riêng, khác hẳn với Phật giáo ở các quốc gia khác nhƣ: Trung Quốc, Thái Lan, Lào.. Ngƣời Việt đã biết rằng Phật giáo không đơn thuần là một tôn giáo với hệ thống thần linh và những nghi lễ thờ cúng của mình, mà nó còn là một học thuyết triết học tƣơng đối thâm sâu. Trong những tƣ tƣởng triết học đó, ngoài sự lí giải về quan niệm sống của con ngƣời thì Phật giáo đã dành nhiều những
1
nội dung cho những vấn đề liên quan đến con ngƣời và cuộc đời của con ngƣời, đó chính là nội dung nhân sinh quan của Phật giáo”.
“Có thể khẳng định rằng, những tƣ tƣởng của Phật giáo có ảnh hƣởng rất sâu đậm trong xã hội và con ngƣời Việt Nam, đa phần và chủ yếu là những quan niệm xoay quanh vấn đề về con ngƣời và cuộc đời con ngƣời. Tất cả những quan niệm đã cùng với thời gian không ngừng ngấm sâu vào từng hành vi, lời nói, việc làm trong sinh hoạt hàng ngày của ngƣời Việt (Những quan niệm về thiện ác, nhân quả và báo ứng, khuyên con ngƣời sống làm việc thiện, tránh việc ác,…)”.
“Trong bối cảnh đất nƣớc hội nhập nền kinh tế thị trƣờng và giao lƣu hội nhập quốc tế trên rất nhiều lĩnh vực và đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Kinh tế thì trƣờng đã đem lại cho đất nƣớc sự phát triển mới với sức bật rất tốt nhƣng bên cạnh đó những mặt trái của nó cũng làm đã nảy sinh rất nhiều các vấn đề liên quan đến con ngƣời và xã hội, đặc biệt là vấn đề suy thoái về đạo đức con ngƣời. Sự xuống cấp và băng hoại về đạo đức trong lối sống của con ngƣời và có bộ phận ngƣời lợi dụng những triết lý nhân sinh của Phật giáo để làm những việc sai trái với quy phạm đạo đức con ngƣời và ảnh hƣởng xấu đến xã hội”. Trong Hội nghị Trung ƣơng 9 khóa XI về “ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đã khẳng định: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách. Xây dựng và phát huy lối sống mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người; kết hợp hài hòa tính tích cực cá nhân và tính tích cực xã hội; đề cao trách nhiệm cá nhân đối với bản thân, gia đình và xã hội. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn”.
“Trong giai đoạn hiện nay, với xu thế biến đổi không ngừng của thời đại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại và đặc biệt là sự lớn mạnh của thông tin truyền thông đại chúng thì việc giáo dục đạo đức con ngƣời là vô cùng cần thiết. Chúng ta phải có những chuẩn mực đạo đức riêng biệt cho dân tộc thì sẽ không bị hòa tan với các nƣớc trong khu vực và trên thế giới. Vì
2
vậy với chức năng truyền đạo của mình với nội dung triết lí nhân sinh quan của Phật giáo đã có những đóng góp không nhỏ trong công cuộc xây dựng đất nƣớc ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay”. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, tôi chọn đề tài “Ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhân sinh quan Phật giáo là một trong những đề tài đã đƣợc rất nhiều nhà khoa học, Phật tử nghiên cứu, đặc biệt trong thời gian gần đây khi nền kinh tế ngày càng phát triển và rất nhiều vấn đề đặt ra cần đƣợc giải quyết, cụ thể là:
“Tác giả Peter D.Santina (1984), viết cuốn sách“Fundamentals of Buddhism" ( Nền tảng của đạo Phật). Cuốn sách này đƣợc Thích Tâm Quang dịch sang tiếng Việt năm 1996. Trong cuốn sách này tác gỉa đã trình bày mƣời hai bài giảng về lịch sử ra đời của đạo Phật và những giáo lý của đạo Phật nhƣ: Tứ diệu đế, triết lý nhân duyên, nghiệp,… Tác giả đã xuất phát từ quan điểm của một Phật tử phƣơng Tây, có hiểu biết sâu sắc phần giáo lý nên khi trình bày đã làm rõ nội dung trong quan niệm nhân sinh của đạo Phật. Qua cuốn sách này đã giúp cho em có hiểu biết thêm về cách nhìn của ngƣời phƣơng Tây đối với nhân sinh quan Phật giáo, từ đó có thể thấy đƣợc sự khác biệt giữa nhân sinh quan Phật giáo ở Việt Nam với nhân sinh quan Phật giáo nguyên thuỷ và nhân sinh quan Phật giáo đƣợc truyền bá và vận dụng trong đời sống tinh thần của một số quốc gia khác”.
“Năm 1984, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện triết học xuất bản cuốn “Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” tập hợp 25 bài tham luận của các nhà nghiên cứu có tên tuổi của giới khoa học nƣớc ta nhƣ các Giáo sƣ Trần Văn Giầu, Nguyễn Tài Thƣ, Phan Đại Doãn, Trần Đình Hƣợu,… trong cuộc hội thảo về “Mối quan hệ giữa Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam”; Cuốn sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” của Viện Triết học do PGS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên (1988), do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản”.
3
“Các tác giả đã phân tích và làm sáng tỏ mối quan hệ tác động qua lại giữa Phật giáo và lịch sử tƣ tƣởng của Việt Nam, tính chất chung của Phật giáo và đặc điểm Phật giáo Việt Nam và đề cập tới một số tông phái Phật giáo Việt Nam, ảnh hƣởng của Phật giáo tinh thần truyền thống yêu nƣớc, tới các nét văn hóa của Việt Nam,…Những bài nghiên cứu này đã khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khi du nhập vào Việt Nam đến năm 1980. Những bài nghiên cứu phần nào phản ảnh đƣợc ảnh hƣởng của Phật giáo đến đời sống của ngƣời Việt từ văn hoá, tinh thần, lễ hội và quan trọng nhất đã chỉ ra đƣợc ảnh hƣởng của nó đến chủ nghĩa yêu nƣớc Việt Nam từ khi du nhập đến năm 1980. Mặc dù vậy, với sự phát triển không ngừng của xã hội, những nghiên cứu này cần phải đƣợc tiếp tục trong thời đại ngày nay và đề tài khoá luận giải đáp vấn đề này”.
“Tác giả Thích Tâm Thiện (1994), viết cuốn “Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo” do Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản và cuốn:“Chữ nghiệp trong đạo Phật”, do tác giả Thích Thiện Siêu viết (2002), Nxb Tôn giáo, Hà Nội. Theo các tác giả, quan niệm về “định mệnh” và “định nghiệp” thƣờng đƣợc nêu ra cùng với nhau và có liên quan đến thuyết nhân quả của nhà Phật tác giả đã trình bày về Duyên sinh - Vô ngã qua các thời kỳ. Trong tác phẩm này, các tác giả đã trình bày nhân sinh quan Phật giáo dƣới góc độ là một Phật tử. Khi tiếp cận với những tài liệu này, giúp cho em trong quá trình làm khoá luận có một cách nhìn toàn diện và phong phú trong quá trình nghiên cứu về ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức con ngƣời. Thấy đƣợc những ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực từ những ảnh hƣởng trên”.
“Nhà tu hành Thích Chân Quang với tác phẩm “Luận về nhân quả” (2005), Nxb Tôn giáo. Trong cuốn sách này, tác giả Thích Chân Quang cho rằng đối với đạo Phật, chúng sinh có ba mục đích cần nhắm đến: “Một là, sống trong luân hồi bớt đau khổ, có phƣớc bão cõi trời cõi ngƣời; Hai là, thoát khỏi luân hồi, chấm dứt sinh tử, có đƣợc niết bàn an vui”;
Ba là giáo hóa cho chúng sinh cùng đƣợc thành tựu trí tuệ giải thoát,
gọi là hạnh đạo Bồ tát”.
4
“Đây cũng là cách nhìn của những ngƣời tu hành về nhân sinh quan Phật giáo, khi nghiên cứu cũng giúp cho em có sự so sánh giữa những nhà nghiên cứu về Phật giáo không phải là nhà tu hành và những nhà nghiên cứu Phật giáo là nhà tu hành để thấy rõ sự ảnh hƣởng của Phật giáo trong đời sống tinh thần của ngƣời Việt hiện nay”.
“Ngoài những tác phẩm trên còn có ra còn một số công trình khác (sách tham khảo, bài đăng trên các tạp chí khoa học,…) cũng có ít nhiều đề cập đến nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo nhƣ: Lê Hữu Tuấn “Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam” (1988), Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên),“Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Đăng Duy (1999), “Phật giáo với văn hóa Việt Nam”, Nxb Hà Nội; Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam”, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Thị Bảy (1997), “Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội; Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam của Đặng Thị Lan, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội..v.v…”
“Có thể nhận xét một cách khái quát rằng những công trình nghiên cứu
ở trên đều thống nhất với nhau rằng:
Phật giáo có những ảnh hƣởng lớn trong đời sống xã hội Việt Nam. Những triết lý nhân sinh của Phật giáo kết hợp với nét văn hóa truyền thống của Việt Nam đã tạo nên sự phong phú trong đời sống văn hóa xã hội của con ngƣời Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu nói trên, đã trực tiếp hoặc gián tiếp ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tƣ tƣởng triết học thâm sâu của Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đến đạo đức của ngƣời Việt Nam.
Do đó,trong giai đoạn hiện nay việc đánh giá những ảnh hƣởng tích cực và tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo để có thể đƣa ra đƣợc một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng
5
tiêu cực của tƣ tƣởng triết học này trong đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay là một việc làm hết sức có ý nghĩa. Tuy nhiên, việc làm rõ sự ảnh hƣởng của Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay thì còn chƣa nhiều. Vì vậy, khóa luận có nhiệm vụ là trên cơ sở tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu đi trƣớc để đánh giá đƣợc sự ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận làm rõ ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay; từ đó đƣa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
“Để đạt đƣợc mục đích trên khóa luận có nhiệm vụ:
- Khái quát một số vấn đề lý luận chung về Phật giáo và nhân sinh quan
Phật giáo.
- Nghiên cứu ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đối với đạo đức của ngƣời Việt trên các lĩnh vực: Ý thức đạo đức; hành vi đạo đức; quan hệ đạo đức.
- Đƣa ra một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con ngƣời Việt Nam hiện nay”.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đối với đạo đức trong
xã hội Việt Nam hiện nay.
6
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nhân sinh quan Phật giáo từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay..
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận: Khóa luận sử dụng phƣơng pháp luận chung của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin. Đồng thời, khoá luận còn sử dụng các phƣơng pháp: logic - lịch sử, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trừu tƣợng hóa, so sánh,…
6. Ý nghĩa của khóa luận
- Khoá luận có thể làm tài liệu cho các bạn sinh viên và nhà nghiên cứu
khi nghiên cứu về Phật giáo ở Việt Nam hiện nay.
- Khoá luận cũng có thể sử dụng trong nghiên cứu giảng dạy về Phật
giáo.
- Khoá luận cũng góp phần làm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch
định chính sách về tôn giáo, văn hoá, xã hội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khoá luận bao gồm 3 chƣơng, với 7 tiết.
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận chung về nhân sinh quan Phật giáo
- Chƣơng 2: Những ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo
đức của ngƣời Việt Nam hiện nay
- Chƣơng 3: Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực và hạn chế những tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay
7
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO
1.1. Khái quát về sự ra đời Phật giáo
1.1.1. Sự hình thành và phát triển Phật giáo
Đạo Phật “đƣợc hình thành vào khoảng thế kỷ thứ VI (TCN) ở Ấn Độ, ngƣời sáng lập là thái tử Sidharta, ngƣời đời sau gọi là đức Phật. Chúng ta ngày nay thƣờng gọi Ngài là Đức Phật, hoặc Đức Phật Cồ-đàm”.
“Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trƣớc tại vùng Bắc Ấn độ. Ngài sinh ra là một vị hoàng tử của vƣơng quốc Thích-ca (Sakya) tại vùng chân núi Hy mã lạp sơn, nay thuộc nƣớc Nepal. Ngài sống cuộc sống trong nhung lụa, có một thời niên thiếu cao sang và đã kết hôn với công chúa Da-du-đà- la (Yasodhara), và có một ngƣời con trai tên là La-hầu-la (Rahula). Nhƣng, bản thân Đức Phật lại không hề muốn sống cuộc sống cuộc sống nhung lụa kế vị vua cha mà ngƣợc lại, ngài rời bỏ hoàng cung theo các nhà tƣ tƣởng học tập, cuối cùng Thích Ca tự mình sáng lập học thuyết và đã đƣợc truyền bá khắp nơi sau đó đƣợc phát triển thành một tôn giáo lớn trên thế giới”.
“Một ngày nọ Ngài đánh xe ngựa dạo chơi trên đƣờng phố, Ngài đã nhìn thấy những cảnh vật làm thay đổi cách suy nghĩ của Ngài. Ngài thấy một cụ già run rẩy, một ngƣời bệnh rên siết và một tử thi sình thối. Những cảnh tƣợng này đã khiến chô Đức Phật phải suy nghĩ rất nhiều và quyết tâm tìm ra đƣợc cách để giúp cho toàn nhân loại thoát khỏi những khổ đau của đời sống đem lại, để con ngƣời thoát khỏi hoạn khổ đau”.
“Lúc 29 tuổi, Sĩ-đạt-đa rời hoàng cung, rời xa gia đình và vợ con, bỏ lại cả vƣơng quốc của mình để gia nhập sống đời sống của một đạo sĩ khất thực trong 6 năm, để đi tìm con đƣờng diệt khổ cho cuộc đời con ngƣời. Vào đêm trăng rằm tháng Tƣ, khi ngồi thiền dƣới cội cây Bồ đề ở Gaya, Ngài tìm đƣợc lời giải đáp và giác ngộ. Lúc đó, Ngài đƣợc 35 tuổi. Đấng Giác Ngộ giờ đây đƣợc gọi là Đức Phật”.
“Trong cả cuộc đời hoằng hóa, dù phải đối phó với bao nhiêu trở ngại, Đức Phật lúc nào cũng giữ một phong thái an nhiên tự tại, và ngay cả trong giờ phút lâm chung, Ngài vẫn bình thản cho dù thân xác đã suy kiệt. Ngay trong giờ phút cuối cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các
8
đệ tử để họ tiếp tục tu tập theo giáo pháp của Ngài: “Nầy các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm”. Đó là những lời cuối cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trƣớc Công Nguyên”.
“Sự ra đời của Phật giáo cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm là một cuộc cách mạng trong xã hội Ấn Độ cổ đại bởi vì đạo Phật đã xóa bỏ đi những thể chế giai cấp truyền thống, những tín ngƣỡng lỗi thời và những quan điểm triết học thịnh hành để hình thành nên một tín ngƣỡng có thể đƣợc gọi là tinh thần khoa học và lý trí. Kể từ đó trở đi Phật giáo đã lan truyền khắp các nƣớc Á Châu và có ảnh hƣởng rất lớn đến những nét truyền thống, văn hóa, phong tục của ngƣời dân bản địa các khu vực mà nó đến”.
1.1.2. Quá trình du nhập, phát triển Phật giáo ở Việt Nam
Đến ngày nay, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam chƣa thống nhất đƣợc với nhau về thời điểm Phật giáo du nhập vào Việt Nam. Có ý kiến cho rằng từ những thế kỷ trƣớc công nguyên, nhiều thuyền buôn Ấn Độ đã cập bến nƣớc ta, các thƣơng nhân của Ấn Độ đã mang theo nền văn hóa Ấn Độ đến Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, Phật giáo đƣợc du nhập vào nƣớc ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo từ Ấn Độ, Trung Hoa và một số ít từ Campuchia.
Từ khoảng thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V đã có rất nhiều nhà sƣ Ấn Độ và Trung Quốc cùng vào Việt Nam để truyền đạo nhƣ Mahakyvuc, Khƣudala, Mâu Bác Cƣ sĩ. Ở thế kỷ thứ III có Khƣơng Tăng Hội và Chi Lƣơng Cƣơng ngƣời Ấn Độ, thế kỷ thứ IV có Du Pháp Lan, Du Đạo Toái ngƣời Trung Quốc, thế kỷ thứ V có Đàm Hoằng. Ở thời kỳ này cũng có một số nhà sƣ Việt Nam danh tiếng nhƣ Huệ Thắng, Thích Đạo Thiền. Quá trình truyền đạo này đã hình thành nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến thế kỷ X vẫn đƣợc xem đây là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên trong giai đoạn này, ảnh hƣởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ đã giảm và các nhà truyền giáo Trung Quốc tăng lên và đặc biệt hơn là còn du nhập các phái thiền của Trung Quốc vào Việt Nam. Trong mƣời thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam, mặc dù trong hoàn cảnh đất nƣớc bị xâm lăng đô hộ nhƣng Phật giáo vẫn tạo ra sức ảnh hƣởng và phát triển trong nhân dân và có
9
những chuẩn bị cho sự phát triển mới trong giai đoạn đất nƣớc độc lập, tự chủ.
Đến thế kỷ X, khi nƣớc ta đã giành đƣợc quyền tự chủ, trong thời kỳ này Phật giáo bắt đầu phát triển hƣng thịnh và có những đóng góp tích cực cho sự phát triển đất nƣớc. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng định ra phẩm trật tăng già và ban chức cho tăng sĩ. Vua Đại Hành sau khi hòa với nhà Tống đã sai sứ sang triều cống Trung Hoa và xin thỉnh kinh Phật đem về truyền bá. Nhiều thiền sƣ nhƣ Thiền sƣ Pháp Thuận, Thiền sƣ Vạn Hạnh đã đƣợc vua Lê Đại Hành mời tham gia vào chính sự, góp phần to lớn vào sự hƣng thịnh của đất nƣớc.
Triều Lý, triều đại đƣợc xem là triều đại Phật giáo đầu tiên trong các triều đại phong kiến Việt Nam. Lý Thái Tổ vị vua đầu tiên sáng lập nên nhà Lý là ngƣời xuất thân từ cửa Phật, đƣợc nuôi dƣỡng và trƣởng thành ở chốn thiền môn. Mọi công việc lớn nhỏ của nhà nƣớc trong giai đoạn này đều có sự đóng gớp ý tƣởng của các vị thiền sƣ. Triều đình lúc này đã cử sứ thần sang Trung Quốc thỉnh kinh và khuyến khích việc xuất gia tu hành . Phật giáo đƣợc trọng dụng nên phát triển rất nhanh, chùa Phật đƣợc xây dựng ở hầu khắp các làng xã và trở thành trung tâm tôn giáo lớn nhất ở nông thôn miền Bắc lúc bấy giờ. Có thể nói, hơn 200 năm dƣới triều đại nhà Lý Phật giáo đã chiếm vị trí độc tôn và có những ảnh hƣởng mạnh mẽ đến mọi phƣơng diện của đời sống xã hội Đại Việt.
Sang đến thời nhà Trần, bộ máy hành chính nhà nƣớc đã dần đƣợc xây dựng và hoàn chỉnh hơn. Nho giáo lúc này dần chiếm vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần và tổ chức xã hội. Nhƣng Phật giáo thời Trần đến giữa thế kỷ XIV vẫn giữ đƣợc sự hƣng thịnh của nó. Các vua đời nhà Trần ý thức đƣợc rõ vai trò của Nho giáo và Phật giáo đối với xã hội. Trải qua quá trình du nhập và phát triển đến thời Trần, Phật giáo ở Việt Nam đã có sự góp mặt của ba thiền phái từ Ấn Độ và Trung Quốc là Tỳ Ni Đa Lƣu chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đƣờng. Các tăng sĩ đời Trần đã không còn trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị nhƣ trƣớc nữa, nhƣng Phật giáo vẫn là một yếu tố quan trọng để liên kết nhân tâm và cố kết cộng đồng. Ở thời kỳ này rất nhiều chùa pháp quy mô to lớn hoặc kiến trúc độc đáo đã đƣợc xây dựng, Phật giáo thời Trần đã có sự phát triển đến cực thịnh.
10
Từ giữa thế kỷ XIV, cùng với sự suy vi của triều đại nhà Trần, Phật giáo cũng dần mất đi tính nhập thế tích cực và ngày càng suy vong. Bảy năm dƣới triều đại nhà Hồ, Phật giáo suy vi một cách nhanh chóng. Quân Minh sang xâm lƣợc nƣớc ta mƣợn cớ là muốn khôi phục nhà Trần và đặt chế độ cai trị hà khắc, với âm mƣu Hán hóa văn hóa Đại Việt, quân Minh đã tịch thu và đốt hết sách vở trong đó có kinh sách nhà Phật, chùa chiền bị đốt phá, sƣ tăng bị giết hại.
Đến thời hậu Lê, ở nƣớc ta xuất hiện thêm hai phái thiền là Thiền Tào
Động ở Đàng Ngoài và Thiền Lâm Tế ở Đàng Trong.
Thời Minh Mạng và Thiều Thị bắt đầu có sự khởi sắc trùng tu những ngôi chùa và Tổ đình quan trọng, nhƣng trong nhân dân thì ảnh hƣởng của Phật giáo không còn sâu đậm nhƣ trƣớc nữa. Thời vua Tự Đức nƣớc ta rơi vào vòng đô hộ của Pháp, Phật giáo lúc này lại càng suy vy hơn. Dƣới sự cai trị của nhà Nguyễn cả trƣớc và sau khi Pháp xâm lƣợc, Phật giáo tiếp tục suy tàn.
Những năm 30 của thế kỷ XX, một sô nhà tu hành và một số nhân sĩ, trí thức Phật giáo đã đứng ra vận động phong trào “Chấn hƣng Phật giáo”, kể từ đó Phật giáo đã có sự khởi sắc hơn. Một bộ phận Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức, một số cơ sở đào tạo tăng tài lần lƣợt ra đời nhƣ An Nam Phật học hội, Hội Phật học Bắc Kỳ,…
Thời kỳ Mỹ - Diệm, Phật giáo ở hai miền có sự khác biệt nhất định. Ở miền Bắc, Phật giáo đƣợc quy tụ trong một tổ chức duy nhất là “Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam” sinh hoạt tín ngƣỡng gắn với các hoạt động yêu nƣớc, gắn bó với dân tộc. Ở miền Nam, do tình hình chính trị phức tạp, Phật giáo bị phân rã theo nhiều xu hƣớng chính trị khác nhau và hình thành nên 14 hệ phái.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, đất nƣớc hòa bình, hai miền Bắc Nam thu về một mối đã tạo điều kiện cho các hệ phái Phật giáo thống nhất. Tháng 11/1981, Đại hội đại biểu thống nhất Phật giáo đã đƣợc tổ chức tại Hà Nội. Đại hội đã lập ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam thông qua hiến chƣơng, chƣơng trình hành động và bầu ra cơ quan lãnh đạo. Đến nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã trải qua sáu kỳ Đại hội và không ngừng trƣởng thành và phát triển.
11
Đánh giá khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt
Nam chúng ta có thể rút ra đƣợc một số nhận xét sau:
Thứ nhất, Phật giáo vào Việt Nam bằng con đƣờng dân dã và mang tính tự phát thông qua các thƣơng nhân Ấn Độ và các nhà truyền giáo Trung Quốc. Khác với đạo Công giáo, Phật giáo vào Việt Nam hoàn toàn mang tính tự phát. Công lao đầu tiên của việc Phật giáo du nhập vào Việt Nam phải kể đến vai trò của các thƣơng nhân Ấn Độ. Từ những năm đầu công nguyên ngƣời Ấn Độ đã đi buôn bán với nhiều nƣớc trong vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, Đế quốc La Mã. Họ đi nhiều nơi để tìm nguồn nguyên liệu và hàng hóa, chính trong quá trình đó họ đã tới Đông Nam Á trong đó có Việt Nam. Họ đến Việt Nam mang theo: y thuật, phong tục tập quán và sinh hoạt tôn giáo của ngƣời Ấn Độ. Những đặc điểm văn hóa này đã có những ảnh hƣởng đến đời sống của ngƣời dân bản địa Việt Nam. Họ đã đem Phật giáo đến Việt Nam một cách tự phát và không có chủ đích.
Thứ hai, Phật giáo vào Việt Nam chủ yếu bằng con đƣờng hòa bình và ít gây ra xung đột với văn hóa bản địa. Phật giáo xâm nhập vào cuộc sống tinh thần ngƣời Việt Nam một cách rất tự nhiên. Ngay từ buổi đầu mới du nhập, Phật giáo đã nhanh chóng đƣợc ngƣời Việt Nam đón nhận mà hầu nhƣ không gặp phải bất kỳ một trở ngại nào. Nó còn đƣợc tiếp nhận một cách nhanh chóng vì bản thân nó có rất nhiều điểm phù hợp với hệ thống tín ngƣỡng dân gian của ngƣời Việt. Ngƣời Việt thời kỳ này tin tƣởng có ông trời trên cao nhìn thấu mọi việc ở trần thế, trừng phạt kẻ ác và giúp đỡ ngƣời thiện. Bên cạnh đó họ còn có tin tƣởng vào các thế lực siêu nhiên có ảnh hƣởng lớn đến con ngƣời, đó là các vị thần tự nhiên và các Mẫu trong tự nhiên chi phối đến đời sống của con ngƣời và cũng với những mong muốn ngƣời tốt đƣợc báo đáp, kẻ ác phải đền tội… Trong bối cảnh xã hội, văn hoá, tín ngƣỡng đó, Phật giáo với thuyết Nhân quả nghiệp báo, luân hồi, với những quan niệm công đức,… những lý thuyết này rất phù hợp với tín ngƣỡng của ngƣời Việt nên đã đƣợc tiếp nhận nhanh chóng. Đồng thời, trong hoàn cảnh đất nƣớc bị đô hộ bởi thế lực ngoại bang, ngƣời Việt đã tìm thấy ở Phật giáo một nền tảng tƣ tƣởng để củng cố bản sắc dân tộc, khi phản kháng không tiếp thu tƣ tƣởng của kẻ thống trị đƣa vào trong quá trình đô hộ.
12
Với thái độ khoan dung, mềm dẻo, linh hoạt nên quá trình truyền bá Phật giáo vào Việt Nam nhìn chung không gây ra những xung đột về văn hóa và tôn giáo. Phật giáo còn chấp nhận chung sống và hòa đồng một cách tích cực với hệ thống tôn giáo và tín ngƣỡng dân gian bản địa. Vào Việt Nam, Phật giáo không những không loại trừ hệ thống tín ngƣỡng dân gian bản địa mà còn dung nạp nó, làm phong phú thêm giá trị của bản thân. Với phƣơng châm “hoằng hóa tùy duyên phƣơng tiện”, Phật giáo là một tôn giáo khá linh hoạt và thích ứng nhanh với các điều kiện nơi mà nó dừng chân đến. Chính vì vậy, vào Việt Nam Phật giáo đã không gây nên những xáo trộn về mặt văn hóa. Nó đã nhanh chóng hòa đồng, bén rễ trong lòng dân tộc và chiếm tình cảm của ngƣời Việt Nam.
Thứ ba, trong quá trình du nhập và phát triển, Phật giáo luôn gắn bó, đồng hành cùng dân tộc và góp phần quan trọng vào việc xây dựng và bảo vệ nền độc lập dân tộc, góp phần to lớn vào việc hình thành bản sắc văn hóa của Việt Nam. Đây cũng là điểm riêng biệt ở Phật giáo Việt Nam, khi những giáo lý của Phật giáo đƣợc hiện thực hoá trong đời sống, đƣợc nhân dân vận dụng vào công cuộc dựng nƣớc và giữ nƣớc. Điển hình nhất của quan điểm này phải kể đến Phật giáo thời Lý, Trần trong lịch sử Việt Nam.
1.2. Nhân sinh quan Phật giáo
1.2.1. Nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: “Nhưng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ảnh hư ảo - vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lương ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”[17, tr 176]. Đây có nghĩa là, tôn giáo do con ngƣời sáng tạo ra và tôn giáo không sáng tạo ra con ngƣời song bên cạnh đó nó lại có những ảnh hƣởng rất lớn đến rất nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống con ngƣời.
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên thế giới, đã đƣợc truyền bá và ảnh hƣởng tới rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới nhƣ: Xiry, Ai Cập, Thái Lan, Việt nam, Trung Quốc, Mianma và một phần các quốc gia Anh, Đức, Pháp,…và nó đã nhanh chóng trở thành tôn giáo có tính ảnh hƣởng lớn trên thế giới.
13
“Đức Phật đã đƣợc chứng kiến những nỗi khổ cực của cuộc sống con ngƣời trong xã hội. Qua thời gian học đạo, Đức Phật đã nhìn thấy những con đƣờng sai lầm của cuộc sống vật chất con ngƣời. Đức Phật cho rằng, cuộc sống dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thƣờng, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh thì tăm tối, mà chỉ có con đƣờng trung đạo thì mới là con đƣờng đúng đắn cho con ngƣời. Từ đó, với những suy tƣ sâu thẳm, Đức Phật đã giác ngộ đƣợc chân lý. Ngƣời đã chỉ ra đƣợc nguồn gốc sinh ra nỗi khổ của con ngƣời và những để giúp con ngƣời giải thoát khỏi nỗi đau khổ đó. Với tƣ cách là một tôn giáo, Phật giáo đã xoa dịu đi những nỗi khổ đau của con ngƣời phải gánh chịu trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp vô cùng khắc nghiệt nhƣ ở Ấn Độ cổ đại và cả các quốc gia khác trên thế giới. Bao trùm lên đó, là nhân sinh quan từ bi của đạo Phật”.
“Giáo lý của đạo Phật là hệ thống các quan niệm về nhận thức luận, thế giới quan và nhân sinh quan có hệ thống kết cấu rất chặt chẽ. Mục đích chủ yếu của Phật giáo đó là thoát khổ, là giải phóng con ngƣời, mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Nhân sinh quan Phật giáo cũng đƣợc đƣợc bắt nguồn từ thế giới quan. Phật Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ đƣợc những nỗi khổ đau của con ngƣời và có những triết lí để giải thoát con ngƣời khỏi những nỗi khổ đau của cuộc đời. Những tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông thiên về nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con ngƣời hơn là việc tìm hiểu giới tự nhiên. Triết học phƣơng Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con ngƣời, vạch ra nguyên tắc ứng xử, giải quyết các mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời, chú ý đến đời sống tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của con ngƣời. Mục đích nhận thức thế giới của triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con ngƣời và xã hội. Còn triết học phƣơng Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết, các phạm trù v.v... Cũng nhƣ nhiều trào lƣu tƣ tƣởng triết học phƣơng Đông, Phật giáo đề cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác biệt của triết học phƣơng Đông so với phƣơng Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì sao mặt vũ trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội”.
14
“Mục đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con ngƣời khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con đƣờng tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu nhƣ không đề cập và không có chủ trƣơng giải quyết nhữngvấn đề có tính chất siêu hình. Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tƣợng nhƣ vũ trụ có vĩnh hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Nhƣ Lai sau khi chết có tồn tại hay không?... thì ngƣời im lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ cho con ngƣời”.
“Nhƣ vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của Phật giáo là con ngƣời, là giá trị nhân sinh. Qua việc phải chứng kiến nỗi khổ của con ngƣời ở đời sống trần thế mà Thích Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát, cứu khổ cho con ngƣời khỏi khổ nạn. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, với sự thống trị của tƣ tƣởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tƣ tƣởng và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của ngƣời dân Ấn Độ. Đây là sự thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đƣơng thời. Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp trong giọt nƣớc mắt cùng mặn, con ngƣời sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội. Nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu đƣợc khổ hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con ngƣời”.
1.2.2. Khái niệm nhân sinh quan, nhân sinh quan Phật giáo
Từ lâu trong triêt học, khái niệm “nhân sinh quan” thƣờng đƣợc các học giả bàn đến và đƣợc sử dụng trong sự tƣơng quan so sánh trong mối quan hệ với thế giới quan. Vì vậy, khi nhắc đến nhân sinh quan, trƣớc hết chúng ta xem xét đến khái niệm “thế giới quan”.
Khái niệm thế giới quan: Có rất nhiều những nhận định của các tác giả, các nhà triết học về khái niệm thế giới quan khác nhau. Trong cuốn giáo trình Những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đƣa ra khái niệm về thế giới quan:“Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của
15
con người về thế giới, về bản thân con người, về bản thân con người , về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó”[17, tr33]. Theo ý nghĩa trên, ta thấy đƣợc thế giới quan đóng vai trò định hƣớng giúp con ngƣời xác định đƣợc mục tiêu phƣơng hƣớng hoạt động của bản thân, từ thực tiễn thực tiễn đến hoạt động nhận thức thế giới cũng nhƣ sự tự nhận thức bản thân để từ đó xác định lí tƣởng, hệ giá trị, lối sống, nếp sống, ƣớc mơ, hoài bão của mình. Nhƣ vậy, thế giới quan đúng đắn, khoa học là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.
Khái niệm nhân sinh quan: “Nhân sinh quan” có rất nhiều cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau, theo “Đại từ điển Tiếng Việt” là cuộc sống của con ngƣời. Theo “Từ điển Tiếng Việt thông dụng” thì nhân sinh quan là: “quan niệm về cuộc đời, thành một hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối sống,…Sống ở mỗi một thời đại khác nhau thì con người lại có một nhân sinh quan khác nhau gắn liền với cuộc đời và thời đại mà mình đang sống”. Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội, nhân sinh quan đƣợc thể hiện khác nhau dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội nhất định. Bởi theo quy luật triết học của chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin thì khi tồn tại xã hội thay đổi thì những hình thái ý thức xã hội cũng thay đổi theo cho phù hợp. Trong khi đó, nhân sinh quan là quan niệm sống của con ngƣời nên nhân sinh quan sẽ thay đổi khi tồn tại xã hội thay đổi.
“Nhƣ vậy chúng ta có thể thống nhất nhân sinh quan là: Toàn bộ những quan niệm về cuộc sống con ngƣời, nhân sinh quan đã đề ra và giải đáp những vấn đề có liên quan đến cuộc sống của con ngƣời. Đây là vấn đề rất quan trọng đối với cuộc sống của con ngƣời. Trong chính cuộc sống của mình con ngƣời luôn suy nghĩ về cuộc sống của mình và không ngừng hoạt động để phục vụ cho cuộc sống đó, nhân sinh quan nói lên quan niệm đƣợc chính quan niệm của con ngƣời về bản chất,về mục đích của cuộc sống và chính những thái độ sống của con ngƣời đối với con ngƣời trong xã hội và con ngƣời đối với tự nhiên - xã hội. Có nhân sinh quan đúng đắn thì con ngƣời mới có đƣợc những bƣớc đi đúng đắn và vững chắc hơn trong cuộc sống”.
Nhƣ vậy, qua những tìm hiểu nhƣ trên, tôi thấy rằng: “Nhân sinh quan Phật giáo là quan niệm của Phật giáo về con người, cuộc sống con người,
16
bản chất con người, thái độ và hành vi tu tập của con người nhằm mục đích giải thoát”.
1.2.3. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Những triết lý nhân sinh của đạo Phật đƣợc bắt nguồn chính từ thế giới
quan, do thế giới quan của Phật giáo chi phối.
Vì khuôn khổ của khóa luận có hạn, nên em chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam hiện nay trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo. Đây là một hệ thống gồm các quan niệm về con ngƣời và cuộc đời của con ngƣời.
1.2.3.1. Học thuyết về cấu tạo con người
“Phật giáo tập trung vào nghiên cứu về sự xuất hiện và tái sinh của con ngƣời và những học thuyết về cấu tạo con ngƣời. Đạo Phật cho rằng bản thân con ngƣời đƣợc cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh sắc và thuyết Lục đại”.
“Thuyết Danh sắc: Học thuyết này cho rằng con ngƣời đƣợc cấu tạo từ
hai yếu tố chính là vật chất và tinh thần”.
“Thuyết Lục đại: Học thuyết này cho rằng con ngƣời đƣợc cấu tạo từ sáu yếu tố là: Địa; Thủy; Hỏa; Phong; Không và Thức. Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có một yếu tố cuối cùng là thuộc về tinh thần”.
“Thuyết Ngũ uẩn: Nhìn nhận con ngƣời đƣợc cấu tạo từ năm yếu tố
gồm: Sắc; Thụ; Tƣởng; Hành; Thức”.
“Các học thuyết về cấu tạo con ngƣời của Phật giáo, chúng ta thấy rằng thuyết Ngũ uẩn là phổ biến hơn cả. Nhƣ vậy, Phật giáo cho rằng, con ngƣời không có thực thể là "không", gọi là "nhân vô ngã" (nhân không). Con ngƣời đƣợc tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có chủ thể hằng thƣờng tự tại. Theo Phật giáo, có hai loại vô thƣờng, đó là: sát na vô thƣờng và tƣơng tục vô thƣờng. Trong đó, sát na vô thƣờng chỉ sự biến hóa trong khoảng thời gian cực ngắn. Còn tƣơng tục vô thƣờng chỉ trong một chu kỳ nối tiếp nhau đều có sinh - trụ - dị - diệt (đối với sinh vật), hay thành trụ - hoại - không (đối với sự vật), đối với con ngƣời là sinh - lão - bệnh - tử”.
“Quan niệm của nhà Phật cho rằng, con ngƣời là sự kết hợp động của những yếu tố động, cho nên là giả tạm, suy cho cùng là vô ngã. Với cách nhìn
17
nhƣ thế, Phật giáo cho rằng, mọi sự vật hiện tƣợng là giả danh không có thực, con ngƣời chỉ là giả hợp của Ngũ uẩn tùy duyên giả hợp mà thành, cho nên là hƣ vọng huyễn hóa. Đủ nhân duyên hợp lại thì gọi là sống, hết nhân duyên tan ra gọi là chết. Sống, chết là giả hợp tan của Ngũ uẩn. Do mê lầm, mà vô thƣờng con ngƣời tƣởng là thƣờng, vô ngã mà tƣởng có ngã. Thân xác con ngƣời là nguồn gốc của mọi khổ đau. Mọi đau khổ nhƣ đói khát, sinh, lão, bệnh, tử, nóng, giận, dâm dục v.v... đều có gốc từ con ngƣời mà ra. Điều này cho thấy, Phật giáo nhìn nhận cuộc đời con ngƣời là khổ”.
“Nếu quan niệm chết là hết là chƣa hiểu đúng Phật giáo, mà theo Phật giáo, chết là điều kiện để có cái sinh mới sắp tới. Phật giáo giải thích sự chết của con ngƣời bằng thuyết luân hồi nghiệp báo... Cuộc đời con ngƣời là một mắt xích trong chuỗi dài vô tận, chỉ là một gợn sóng trên mặt biển bao la. Cuộc sống của con ngƣời trên trần thế không thay đổi đƣợc, nó do nghiệp cũ quy định theo luật nhân quả; mọi việc làm của con ngƣời đều là nhân của sự kết hợp Ngũ uẩn tiếp theo. Học thuyết nhân quả của Phật giáo cho rằng, con ngƣời gieo nhân nào hƣởng quả ấy, ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão. Đời này ra sức học tập thì đời sau thông minh sáng suốt; đời này lƣời biếng thì đời sau ngu đần dốt nát; đời này sát sinh thì đời sau chết yểu; đời này phóng sinh thì đời sau sống lâu; đời này làm khổ chúng sinh thì đời sau đau khổ; đời này có tâm vỗ về an ủi ngƣời khác thì đời sau hạnh phúc; đời này giận dữ cáu kỉnh thì đời sau tƣớng mạo xấu xí...”
1.2.3.2. Học thuyết về cuộc đời con người
Toàn bộ quan niệm về cuộc đời con ngƣời để đi tới giải thoát đã đƣợc Đức Phật trình bày trong thuyết “Tứ diệu đế” của nhân sinh quan Phật giáo. Gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Theo lời Đức Phật bàn về cuộc đời con ngƣời đã xuất phát từ: Khổ đế, “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay. Ta chỉ nói lên khổ và sự diệt khổ”. Phật giáo quan niệm cuộc đời của con ngƣời là khổ đau, khổ đau là điều tất yếu và là chân lý. Đức Phật đã hết sức rung động trƣớc những khổ đau của loài ngƣời và cho rằng: “Đời là bể khổ, đời là cả những chuỗi bi kịch liên tiếp, bốn phƣơng đều là bể khổ, nƣớc mắt chúng sinh nhiều hơn nƣớc biển, vị mặn của máu và nƣớc mắt chúng sinh mặn hơn nƣớc biển”.
18
*Khổ đế: là “nói lên bản chất của nhân sinh. Quan niệm nhân sinh trong triết học Phật giáo mang tính tiêu cực yếu thế, coi đời chỉ là ảo hóa tạm bợ. Do vô minh, con ngƣời không nhận thức đƣợc điều đó, do đó cứ lặn lội mãi trong biển sinh tử, luân hồi. Cuộc đời con ngƣời đầy rẫy những nỗi khổ, nhƣng không ai nhìn thấy tƣờng tận và rõ ràng”.
Nỗi khổ của thế gian là khốn cùng mà con ngƣời phải chịu trong cuộc đời của mình: “Sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi là khổ, ƣu não là khổ, oán gặp nhau là khổ, ái biệt ly khổ, cầu không đƣợc là khổ. Trong kinh Phật nói về khổ nạn có thể nói đến theo hai tiêu chí: Về mặt thể chất và về mặt tinh thần”. Về thể chất gồm có: Sinh khổ: “Đã có sinh là có khổ, vì đã sinh ra thì nhất định có diệt, bị quy luật vô thƣờng chi phối, nên có khổ. Khi sinh ra con ngƣời có một cơ thể có hình, có tƣớng nên phải chịu đựng và chống lại quy luật tự nhiên nóng lạnh, tìm cách duy trì cái thân tứ đại, phải đối phó với mọi tai nạn do thiên nhiên hay do chính con ngƣời gây ra, nên suốt cuộc đời phiền não khổ đau”.
Lão khổ: “Con ngƣời luôn luôn mong muốn bản thân đƣợc trẻ và khỏe mãi nhƣng cái già thì cứ ập đến, cái già đến đâu thì sự suy yếu đấy cũng làm cho ngƣời ta phiền não”.
Bệnh khổ: Khi con ngƣời bị bệnh tật hành hạ, con ngƣời sẽ khổ đau. Tử khổ: “Là cái khổ khi mà ngƣời ta chết đi. Tất cả mọi ngƣời đều phải chết, dù là sớm hay muộn. Ngƣời sắp chết mà biết đƣợc mình sắp chết thì tâm lí cũng đầy dao động, bi thƣơng. Cuộc đời con ngƣời càng muốn sống, ham sống mãnh liệt thì lại càng sợ cái chết. Cái chết nó có thể xảy đến bất cứ lúc nào trong cuộc đời con ngƣời với bất lỳ một lý do nào, do đó ma lực của cái chết và sự sống nó lại càng lớn hơn và kéo dài đến suốt cả cuộc đời của con ngƣời”. Đó là nỗi khổ đau về cái chết.
“Trên đây là bốn cái khổ sinh lý, cái khổ về thể chất mà bất cứ ai cũng phải gặp trong cuộc đời. Những nỗi khổ hạn này là không thể tránh khỏi trong cuộc đời của mỗi con ngƣời cho dù cuộc sống có sung sƣớng hay nghèo nàn vất vả và kể cả là có sảy ra sự tranh đấu nhƣ thế nào đi nữa thì khổ nạn do sinh nở, tuổi già, bệnh tật và cái chết là hoàn toàn không thể tránh khỏi trong cuộc đời của mỗi con ngƣời”.
19
Về tinh thần: con ngƣời còn gánh chịu những khổ nạn về tinh thần: Thụ biệt ly: “nỗi khổ khi phải xa cách chia ly ngƣời mình mến thƣơng nhƣ vợ chồng, cha mẹ, anh em... Nỗi khổ này bao gồm cả nỗi khổ sinh tử biệt ly: Sống phải xa nhau đã khổ, nhƣng ngƣời ở lại ngƣời đi vào thế giới khác thì đó là nỗi khổ tình thƣơng, tuyệt vọng biết nhƣờng nào”.
Oán tăng hội: “nỗi khổ vì phải sống cùng với ngƣời mà mình không hề yêu thích; ở chung với những ngƣời nhƣ vậy giống nhƣ gai đâm vào mắt mà không làm gì đƣợc”.
Sở cầu bất đắc : “là những nỗi khổ do con ngƣời mong muốn, ƣớc ao mà không đƣợc, con ngƣời phải lao tâm khổ tứ biết bao, mong có đƣợc ngày thành đạt; nếu điều đó không thành thì nỗi khổ ấy thật khủng khiếp dày vò con ngƣời, khiến con ngƣời tuyệt vọng”.
Thủ ngũ uẩn: “khổ gây ra bởi sắc, thọ, tƣởng, hành, thức làm cho thân tâm phải chịu hết thảy những nỗi khổ. Thích Ca nói với chúng sinh: già là khổ, bệnh khổ, chết khổ, cái gì của ta mà phải xa rời là khổ, cái gì không ƣa thích mà phải hợp là khổ, cái gì muốn mà không đƣợc là khổ. Tóm lại là triền miên trong ngũ trọc giả hợp”.
“Học thuyết khổ đế đã chỉ ra cho con ngƣời thấy đƣợc những nỗi khổ lớn nhất trong cuộc đời của mình. Đức Phật muốn chúng sinh biết hết mọi nỗi khổ có ở đời để khi gặp phải không làm cho tinh thần hoảng loạn, mà phải biết bình tĩnh suy xét tìm cách giải thoát đƣợc khỏi nỗi khổ đó vàlàm chủ đƣợc bản thân mình, tự mình vƣợt lên số phận hƣớng đến điều tốt đẹp. Qua đây ta thấy một điều rằng Phật giáo không hề đƣa con ngƣời trốn tránh khỏi cuộc sống thực của trần tục và cũng không tô màu hồng cho cuộc sống này, mà đã dũng cảm nhìn vào hiện thực của cuộc đời con ngƣời”.
*Tập đế: “là sự tập hợp, tích chứa những nguyên nhân đƣa tới cái khổ. Đức Phật cho rằng, mọi cái khổ đều có nguyên nhân của nó, từ đó đƣa ra thuyết (Thập nhị nhân duyên)”. Trong 12 nguyên nhân đức Phật đƣa ra cho con ngƣời thì vô minh và ái dục chính là hai nguyên nhân chủ yếu đƣa đến những nỗi khổ đau trong cuộc đời con ngƣời. Sự kết hợp giữa ái dục và vô minh xuất phát từ nguồn gốc của ba thứ mà Phật gọi là tam độc: tham, sân, si. Tham: “Biểu hiện sự tham lam của con ngƣời làm xúi dục con ngƣời hành động để thỏa mãn lòng tham của mình. Lòng tham của con ngƣời không
20
có giới hạn, đây là nguyên nhân gây bao nỗi thống khổ cho con ngƣời nhƣ chém giết, xâm hại lẫn nhau”.
Sân: “Sự cáu gắt, bực tức, nóng giận khi con ngƣời không hài lòng về điều gì đó, làm cho con ngƣời không kiểm soát hết hành động của mình (giận quá mất khôn); nhƣ thế cũng đem lại những điều khổ đau, không hay cho con ngƣời. Sách Phật ghi rằng, một đốm lửa giận có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức và một niệm sân hận nổi lên, thì trăm ngàn, cửa nghiệp chƣớng mở”.
Si: “Sự si mê, lú lẫn, làm cho con ngƣời không phân biệt điều hay dở; điều đó gây bao tội lỗi, đau khổ cho mọi ngƣời. Nếu tham sân nổi lên mà có trí sáng suốt sẽ ngăn chặn đƣợc tham, sân”.
Tiếp đến Đức Phật trình bày những nguyên nhân của 12 nỗi khổ (Thập nhị nhân duyên). Mƣời hai nhân duyên nối tiếp nhau nhƣ dòng sông không bao giờ ngừng chảy. Mƣời hai nguyên nhân dẫn đến đau khổ, mà đứng đầu là: Vô minh: “tức là không sáng suốt, không nhận thức đƣợc thế giới,
không thấy mọi sự vật đều là ảo giả, mà cứ cho là thực”.
Duyên hành: “là hành động có ý thức; ở đây đã có sự dao động của
tâm, có mầm mống của nghiệp”.
Duyên thức: “Tâm thức từ chỗ cân bằng trong sáng đến dần dần mất cân bằng, tùy theo nghiệp mà tâm thức tìm đến các nhân duyên để hình thành cuộc đời khác”.
Duyên danh sắc: “là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất tinh thần ;với các loài hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, trầm sức, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp”.
Duyên lục nhập: “Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn
tiếp xúc với lục trần sắc, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp”.
Duyên xúc: “Là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc,
là quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ”.
Duyên thụ: “Là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà
sinh ra yêu, ghét, buồn, vui,…”
Duyên ái: “Là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn”. Duyên thủ: “Có ái thì có thủ, đã yêu thì muốn chiếm lấy, giữ lấy cho
mình”
21
Duyên hữu: “Tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng
tỏ có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân”.
Duyên sinh: “Đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện
hữu là tu sinh ra ở thế giới để làm ngƣời, hay súc sinh”.
Duyên lão tử: “Đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh -lão -bệnh-tử là kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu một vòng luân hồi mới. Cứ nhƣ thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử”.
*Diệt đế: “Đức Phật khẳng định, cái khổ có thể tiêu diệt đƣợc, chấm dứt đƣợc luân hồi”. Đức Phật đã giảng cho môn đệ về vấn đề này ở thành Ba Nại Na: "Này các Thầy xa môn đến đạo diệt khổ, diệt lòng tham sinh hợp với thích thú và nhục dục tìm thích thú ở chỗ này chỗ khác nhất là tham dục, tham sinh, tham vô minh, diệt hết những dục vọng ấy sẽ khỏi khổ". Vì vậy, mỗi chúng sinh phải tu dƣỡng thân tâm, đoạn trừ "vô minh", để dẫn dắt chúng sinh đến gần hơn với cõi Niết bàn. Diệt đế chính là: “nói lên thế giới của sự giải thoát, thế giới không còn khổ đau, khát vọng chân chính của con ngƣời là hƣớng tới giá trị Chân – Thiện – Mỹ”.
*Đạo đế: Khi đã chỉ ra các nỗi khổ đau ở cuộc đời con ngƣời cũng nhƣ các nguyên nhân gây ra nỗi khổ ấy. Đức Phật đã khẳng định: “nỗi khổ có thể tiêu diệt đƣợc, diệt nỗi khổ nhân sinh bằng con đƣờng trải qua tu luyện để thoát khổ đạt đến cõi Niết bàn sung sƣớng, an lạc”. Đó là con đƣờng “tu đạo”, con đƣờng hoàn thiện đạo đức cá nhân, con đƣờng tiêu diệt vô minh gồm 8 con đƣờng chính là:
Chính kiến: “Là sự hiểu biết đúng đắn, nhận thức rõ về Tứ diệu đế, hiểu rõ về sự vật khách quan. Ngƣời có chính kiến sẽ biết phân biệt đúng sai, chi phối mọi hành động, tâm trí sáng suốt”.
Chính tư duy: “Sự phán xét, suy nghĩ đúng đắn với lẽ phải”. Chính ngữ: “Lời nói ngay thẳng, chân chính là đƣa chính tƣ duy vào trong lời nói cụ thể: không nói dối, không tạo ra sự bất hòa giữa mọi ngƣời, không nói lời ác giữ, không thừa lời vô ích”.
Chính nghiệp: Đức Phật đã dạy chúng sinh rằng: “Nếu là tà tà nghiệp nhƣ sát sinh, trộm cắp, tà dâm thì phải cải tạo, cải tà quy chính làm điều thiện
22
tránh làm điều ác. Còn nếu là chính ngiệp việc làm hợp với lẽ phải, có ích cho mọi ngƣời thì phải giữ gìn”.
Trong chính nghiệp lại có thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp: Thân nghiệp: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm. Khẩu nghiệp: Không nói dối, không nói ác, không thêu dệt. Ý nghiệp: Không tham dục, không nóng giận, không tà kiến. Chính mệnh: “Lối sống trong sạch, lƣơng thiện, ngay thẳng của con ngƣời; Không tham lam gian ác, ăn bám ngƣời khác, không gian dối bất chính; sống chân chính bằng nghề nghiệp chính đáng”.
Chính tịnh tiến: Đức Phật dạy: “con ngƣời phải luôn cố gắng làm những điều thiện, tránh những điều ác, không quên lý tƣởng tu đạo, luôn cảnh giác tỉnh táo trong từng việc làm; phải hăng hái, chủ động tích cực trong việc tìm kiếm và truyền bá chân lý nhà Phật”.
Chính niệm: “Trong đầu óc con ngƣời phải luôn có ý niệm trong sạch, ngay thẳng, ghi nhớ những đạo lý chân chính, những điều hay lẽ phải ở đời, chăm lo thƣờng xuyên niệm Phật”.
Chính định: “Sự tập trung tƣ tƣởng vào một việc chính đáng, đúng chân lý, tĩnh lặng suy tƣ về Tứ diệu đế, về vô ngã, vô thƣờng về nỗi khổ đau của con ngƣời là cơ sở cho chính kiến, chính tƣ duy ở trình độ cao”.
1.3. Đạo đức và kết cấu của đạo đức
1.3.1. Khái niệm đạo đức trong lịch sử triết học
“Đạo đức với tƣ cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tƣ tƣởng đạo đức học đã xuất hiện rất là sớm từ trong các tƣ tƣởng triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Ta thấy “luân lí” thƣờng đƣợc xem nhƣ đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề thói; tập tục. Điều đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là chúng ta đang nói đến những lề thói tập tục và những mối quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong xã hội với nhau”.
“Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về đạo và đức của họ. “Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đƣờng, đƣờng đi, về sau khái niệm đạo đƣợc vận dụng trong triết học để chỉ
23
con đƣờng của tự nhiên. Đạo còn có nghĩa là con đƣờng sống của con ngƣời trong xã hội”.
Khái niệm đạo đức đầu tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó đƣợc ngƣời Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều: “Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý”. Nhƣ vậy có thể nói đạo đức của ngƣời Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi ngƣời phải tuân theo trong đời sống xã hội.
“Ở phương Tây, vấn đề đạo đức từ lâu đã thu hút đƣợc sự quan tâm của rất nhiều nhà tƣ tƣởng. Cho đến ngày nay, ngƣời ta vẫn coi Xôcrát (469 – 399 TCN) là ngƣời đầu tiên đặt nền móng cho khoa học Đạo đức học. Còn Arixtốt (384 – 322 TCN) đã viết bộ sách Đạo đức học với 10 cuốn, trong đó ông đã đặc biệt quan tâm đến phẩm hạnh con ngƣời, nội dung của phẩm hạnh chính là chỗ biết định hƣớng đúng và biết làm việc thiện của con ngƣời”. Ông nói: “Chúng ta bàn về đạo đức không phải để biết đức hạnh là gì mà là để trở thành con ngƣời có đức hạnh”.
Trong lịch sử Đạo đức học, Êpiquya (341 – 217 TCN) là ngƣời đầu tiên đƣa phạm trù lẽ sống vào Đạo đức học và là một trong những ngƣời có công luận giải về sự tự do của con ngƣời. Những nhà triết học duy tâm khách quan từ Platôn đến Hêghen nghiên cứu đạo đức gắn liền ý niệm với gia đình, nhà nƣớc, công dân; gắn đạo đức với pháp luật, với trật tự thiên định của các tầng lớp xã hội.
Quan niệm đạo đức của các nhà thần học đã gắn chặt đạo đức với ý
niệm về chúa.
Những nhà triết học duy vật từ cổ đại đến L. Phoiơbắc (1804 – 1872) coi việc nghiên cứu đạo đức là các quan hệ của con ngƣời với con ngƣời trong cách ứng xử xã hội , đó là các quan hệ về gia đình, làng xóm, vua tôi, cha con, bạn bè, tình yêu, hôn nhân, gia đình. Đạo đức học mà L. Phoiơbắc nghiên cứu tình yêu vĩnh cửu, coi nó nhƣ một tôn giáo, tuy vậy nó không có tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại.
1.3.2. Khái niệm đạo đức theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin
* Quan niệm của Hồ Chí Minh về đạo đức
24
“Vấn đề đạo đức cũng đƣợc Hồ Chí Minh đặt ra và xem xét một cách toàn diện trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của con ngƣời. Hồ Chí Minh đã bàn đến đạo đức ở mọi phạm vi từ gia đình tới xã hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ quốc gia đến quốc tế. Việc Hồ Chí Minh xem xét vấn đề đạo đức một cách toàn diện là một cách nhìn mang tính khách quan, phù hợp với hoạt động phong phú đa dạng của đời sống xã hội và của mỗi con ngƣời”. Nội dung và phạm vi của đạo đức Việt Nam là lối sống có tình nghĩa theo phƣơng châm “thấu tình” sẽ “đạt lý”. Đạo đức xét đến cùng đó chính là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế - xã hội. Giá trị đạo đức đƣợc xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã hội vì hạnh phúc của con ngƣời. “Đạo đức giúp cho xã hội loài ngƣời tiến lên trình độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động”. Hồ Chí Minh không đƣa ra định nghĩa đạo đức là gì, nhƣng trong sử dụng, thuật ngữ đạo đức đƣợc dùng với 3 nghĩa: Rộng, hẹp và rất hẹp.
Nghĩa rộng: “Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, nhờ đó con ngƣời tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc và làm giàu tính ngƣời trong các quan hệ xã hội, kể cả trong các quan hệ chính trị, tƣ tƣởng”.
Nghĩa hẹp: “Đạo đức là các qui tắc, chuẩn mực dùng điều chỉnh hành
vi con ngƣời trong quan hệ giữa ngƣời với ngƣời trong hoạt động sống”.
Nghĩa rất hẹp: “Đó là hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là hành động cá nhân thể hiện quan niệm của cá nhân về nghĩa vụ đối với xã hội và đối với ngƣời khác, thể hiện lƣơng tâm hoặc bổn phận cá nhân trong những hoàn cảnh đặc thù không lặp lại”.
*Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đạo đức Trong cuốn Giáo trình Đạo đức học do Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (đồng chủ biên) đã nói về khái niệm đạo đức, theo đó: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.”[15, tr.6]
Qua các quan niệm về đạo đức em nhận thấy rằng đạo đức chính là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện sớm và nó có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội trong quá khứ và cả trong hiện tại và tƣơng lai. Đạo đức còn đƣợc hiểu là “hệ thống các quy tắc, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con
25
ngƣời tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của xã hội”. Từ xa xƣa đến nay có rất nhiều những quan điểm khác nhau về đạo đức nhƣng quan điểm về đạo đức của các nhà tƣ tƣởng từng thời kì có sự khác nhau. Theo tôi quan niệm về đạo đức là đạo đức gắn với các phƣơng thức sản xuất, khi các phƣơng thức sản xuất có sự thay đổi thì các quan niệm về đạo đức của con ngƣời cũng có sự thay đổi theo sự phát triển của xã hội loài ngƣời và nó phụ thuộc vào tốc độ thay đổi nhanh hay chậm của xã hội loài ngƣời. Đạo đức là một ý thức xã hội, nó thể hiện trình độ phát triển cao của các tƣ tƣởng đạo đức, nó là một bộ phận của thế giới quan con ngƣời.
1.3.3. Kết cấu của đạo đức
“Đạo đức là một hiện tƣợng xã hội có kết cấu phức tạp, khi phân tích kết cấu của đạo đức ngƣời ta thƣờng xem xét nó dƣới nhiều góc độ, mỗi góc độ sẽ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp cấu trúc của đạo đức xác định. Chẳng hạn: xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét nó trong mối quan hệ giữa ngƣời và ngƣời thì ngƣời ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến cái đặc thù với cái đơn chất thì đạo đức đƣợc tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Chẳng hạn: xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn đạo đức. Nếu xét nó trong mối quan hệ giữa ngƣời và ngƣời thì ngƣời ta nhìn ra quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến cái đặc thù với cái đơn chất thì đạo đức đƣợc tạo nên từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Trong phạm vi của khóa luận tôi xin đƣợc nghiên cứu đến ba góc độ của kết cấu đạo đức là ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức trong bài nghiên cứu của mình.”
*Ý thức đạo đức Ý thức đạo đức: “Là ý thức về hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đã và đang tồn tại. Mặt khác, nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người”[16, tr.10].
26
“Trong mối quan hệ giữa con ngƣời với con ngƣời đều có sự tồn tại ranh giới của các hành vi đạo đức và giá trị đạo đức. Đƣợc xem là một hình thái ý thức xã hội, ý thức đạo đức chính là sự thể hiện thái độ nhận thức của con ngƣời trƣớc hành vi của mình trong sự đối chiếu với hệ thống những chuẩn mực hành vi đạo đức và những quy tắc đạo đức do xã hội đặt ra.”
Từ đó mà bản thân con ngƣời có thể tự mình điều chỉnh đƣợc hành vi đạo đức của cá nhân . Về mặt cấu trúc, ý thức đạo đức bao gồm: tình cảm đạo đức; tri thức đạo đức; lý tƣởng đạo đức và ý chí đạo đức.
*Hành vi đạo đức Hành vi đạo đức: “Là một hành động tự giác đƣợc thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Cụ thể hơn, hành vi đạo đức là những cử chỉ, những việc làm của con ngƣời trong các mối quan hệ xã hội phù hợp với ý thức đạo đức, với các chuẩn mực và các giá trị đạo đức”.
Con ngƣời chúng ta có thể phân biệt đƣợc một hành vi là hành vi đạo đức hay phi đạo đức, cần căn cứ vào kết quả của hành vi và căn cứ vào động cơ của hành vi.
*Quan hệ đạo đức Quan hệ đạo đức: “Là hệ thống những quan hệ xã hội, tác động qua lại giữa ngƣời với ngƣời, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức vận động, biến đổi theo quá trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển. Quan hệ đạo đức có các đặc tính là tính tự giác và tính tự nguyện. Tính tự giác thể hiện ở sự nhận thức trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân mỗi ngƣời trong những tình huống cụ thể khi tham gia vào quan hệ đạo đức. Tính tự nguyện thể hiện ở nhu cầu và ham muốn của bản thân mỗi ngƣời trong quan tâm, tƣơng trợ, giúp đỡ ngƣời khác...”
“Chúng ta có thể thấy rằng ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố cấu tạo nên kết cấu của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà luôn có quan hệ biện chứng với nhau.”
27
CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
“Việt Nam là một quốc gia nằm ở ngã tƣ của lƣu lộ quốc tế thuộc Ðông Nam Châu Á, và là nơi dừng chân của các thƣơng buôn của vùng Ðịa Trung Hải. Từ một vị trí địa lý thuận lợi nhƣ thế, do đó các quốc gia trong vùng này đã thiết lập các mối quan hệ kinh tế, thƣơng mại, văn hóa , tôn giáo... qua hai con đƣờng Hồ Tiêu, tức là đƣờng biển qua ngã Sri lanka, Indonesia, Trung Hoa, Việt và đƣờng Ðồng Cỏ, là đƣờng bộ, xuất phát từ vùng Ðông Bắc Á rồi băng qua miền Trung Á, Mông Cổ, Tây Tạng, Việt Nam, Trung Hoa. Vì vậy các tôn giáo lớn, trong đó có Phật giáo có rất nhiều thuận lợi du nhập vào nƣớc ta. Ngày nay, căn cứ các tài liệu và các lập luận khoa học của nhiều học giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Ðạo Phật đã đƣợc truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đƣờng Hồ Tiêu và Ðồng Cỏ”.
2.1. Quá trình ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam 2.1.1. Con đường Phật giáo du nhập vào Việt Nam
“Con đƣờng Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đƣờng biển, xuất phát từ các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam... lợi dụng đƣợc luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai mùa mƣa nắng ở khu vực Ðông Nam Á, những thƣơng nhân Ấn đã tới các vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn dƣơng này, các thƣơng nhân thƣờng cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá Ðạo Phật vào các dân tộc ở Ðông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lƣu của các thƣơng thuyền. „Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trƣớc Tây lịch, Mahinda - con vua A dục (Asoka) đã đƣa Ðạo Phật vào Việt Nam‟‟. Tƣ liệu trong Lĩnh Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Ðạo Phật vào đời Hùng Vƣơng thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trƣớc công nguyên 2879-258). Ðó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vƣơng thứ 3 lấy Ðồng Tử. Chuyện kể rằng Ðồng Tử và Tiên Dung lập phố xá buôn bán giao
28
thiệp với ngƣời nƣớc ngoài. Một hôm Ðồng Tử theo một khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Ðồng Tử đã gặp một nhà sƣ Ấn Ðộ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Ðồng Tử và Tiên Dung đã biết đến Ðạo Phật. Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Ðộ truyền vào Việt Nam khá lâu trƣớc Tây lịch.”
“Một bài nghiên cứu của Ngô Ðăng Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Ðồ Sơn mà có nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Ðạo Phật đã được trực tiếp truyền vào nước ta". “Và Thiền Uyển Tập Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sƣ Thông Biện và Thái Hậu Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Ðạo Phật Việt Nam vào dịp các cao tăng trong nƣớc tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn chứng lời pháp sƣ Ðàm Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Ðế” (?-604 TL): "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Ðông (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Ðà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó"[21,tr.98]. “Ma Ha Kỳ vực, Khâu Ðà La (188 TL) ngƣời Ấn Ðộ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170 TL) ngƣời Trung Hoa; Khƣơng Tăng Hội (200-247 TL) ngƣời Ấn Ðộ; Chi Cƣơng Lƣơng (?-264 TL) ngƣời xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sƣ có mặt sớm nhất ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ II đến thế kỷ III. Có lẽ đây chỉ là những vị đƣợc sử ghi lại tên tuổi, kỳ thực đây không phải là phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam, vì từ thế kỷ thứ ba trƣớc Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sƣ Ðàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác.”
“Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa vào địa lý, thiên nhiên, cƣ dân, lịch sử có thể cho chúng ta một kết luận chắn chắc rằng Ðạo Phật đã đƣợc truyền trực tiếp vào Việt Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đƣờng Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Ðạo Phật đồng thời đƣợc truyền vào Việt Nam qua con đƣờng Ðồng Cỏ.”
29
“Con đƣờng Ðồng Cỏ (Chemin des Steppes) tức là đƣờng bộ còn gọi là con đƣờng tơ lụa. Con đƣờng này nối liền Ðông Tây, xuất phát từ vùng Ðông Bắc Ấn Ðộ, Assam hoặc phía Trung Á, một nhánh của đƣờng tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dƣơng bằng phƣơng tiện lạc đà. Cũng có thể các thƣơng nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Ðà mà vào Việt Nam.” Cuốn Lịch sử Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông Mênam (...) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những di dân Ấn Ðộ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn Ðộ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
“Những dữ kiện về con đƣờng Hồ Tiêu và con đƣờng Ðồng Cỏ đã cho chúng ta thấy đƣợc có sự giao lƣu của đạo Phật vào Việt Nam, tuy chƣa có nhiều minh chứng để lại dù là lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo Việt Nam thì vào thế kỷ thứ II trƣớc Tây lịch, vua Ấn Ðộ Asoka sau cuộc đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trƣởng lão Tissa Moggaliputta đã gởi nhiều phái đoàn Nhƣ Lai sứ giả lên đƣờng truyền bá chánh pháp cho các nƣớc thuộc vùng viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị cao tăng là Uttara và Sona đƣợc phái đến Suvana-Bhumi, xứ Kim Ðịa. “Tuy có nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Ðịa nhƣng ý kiến trong quyển lịch sử Phật Giáo Thế Giới” [5] thì cho rằng vùng Kim Ðịa này là bán đảo Ðông Dƣơng từ Miến Ðiện kéo dài đến Việt Nam.” Vấn đề này đƣợc sách Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Ðiện chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Ðiện truyền giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Ðồ Sơn hiện nay (cách Hải Phòng khoảng 12km)".
30
“Nói chung căn cứ theo các tƣ liệu trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật Giáo truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phƣơng tiện hòa bình và vì thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào rơi vì sự truyền bá Ðạo Phật vào Việt Nam.”
“Ngay khi đƣợc truyền vào, từ thế kỷ đầu, với cách truyền đạo và sự cần mẫn, chịu khó, nhẫn nhịn của các nhà sƣ đã làm cho ngƣời Việt cảm thấy gần gũi với đời sống của mình và dễ tiếp thu, chính vì vậy đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của ngƣời dân Việt và trong quá trình hình thành và phát triển trên đất nƣớc Việt, đạo Phật đã không gặp một trở ngại nào trong việc hòa nhập vào mọi giai tầng của xã hội Việt Nam. Ðạo Phật đã thấm vào nền văn minh Việt Nam tự nhiên và dễ dàng nhƣ nƣớc thấm vào đất. Ðạo Phật đã lan tỏa khắp hang cùng ngỏ hẻm trên lãnh thổ Việt Nam và đã có một chỗ đứng nhất định từ cung đình cho đến làng xã Việt Nam. Ðạo lý của Phật giáo Việt Nam cũng đã ảnh hƣởng và ăn sâu vào nếp sống, nếp nghĩ của ngƣời dân Việt và đã trở thành những giá trị tinh thần vô giá cho ngƣời dân trên xứ sở này. Trong suốt chiều dài lịch sử đã đi qua, đạo Phật đã chứng minh sự hiện hữu của mình trong hầu hết các lãnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… qua các triều đại của lịch sử dân tộc ta.”
2.1.2. Phật giáo với lịch sử dân tộc
Phật giáo vào Việt Nam từ thời Đinh, Tiền Lê, dƣới chính sách đô hộ hà khắc của nhà Đƣờng, việc học hành của quần chúng bị hạn chế, kẻ sĩ ngoài đời thì vốn đã không nhiều lại còn bị dòm ngó, răn đe. Vì thế, do vốn đã thâm nhập sâu trong đời sống dân gian, một cách tự nhiên, trách nhiệm xã hội đƣợc đặt lên vai giới tăng sĩ Phật giáo. Họ, ngoài việc hƣớng dẫn tinh thần, đạo đức, còn trực tiếp lo toan những công việc thuộc nhu cầu thực tế của dân chúng. Họ mở lớp dạy chữ ở chùa cho mọi con em, nhƣ trƣờng hợp của Lý Công Uẩn đã từng nhận đƣợc sự giáo dục nơi cửa chùa. Chính tại đây họ đã nuôi dƣỡng ý thức dân tộc, lòng yêu nƣớc cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên, không để nó bị mai một, bị “mất gốc” sau hàng trăm năm Bắc thuộc. Họ không phải là những thầy lang nhƣng lại có kiến thức y dƣợc, trực tiếp chuẩn trị, hốt thuốc cho mọi ngƣời. Họ đứng ra làm các công việc cầu an, ma chay, chọn đất, chọn ngày cho việc xây cất, khai trƣơng làm ăn… Giới tăng sĩ vốn là thành phần có học thức, lại không thuộc thành phần thống trị, gần gũi với
31
dân chúng, nên có đƣợc sự cảm thông, chia sẻ nỗi khổ của ngƣời dân trong cảnh đô hộ. Và từ đó nhà chùa đã thực sự trở thành nơi hun đúc lòng yêu nƣớc, một trung tâm của ý thức và niềm tin vào độc lập dân tộc, có sức ảnh hƣởng rộng khắp trong dân gian. Ngay trong thời kỳ tiền độc lập, Phật giáo đã đóng một vai trò rất lớn về mặt tinh thần, ý chí trên bƣớc đƣờng đấu tranh của dân tộc.”
“Sau Ngô Quyền, các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý đã nỗ lực xây dựng một quốc gia độc lập về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự, và đóng góp của Phật giáo trong buổi đầu này rất quan trọng.”
“Vào thời Đinh, Lê, thiền phái Tỳ Ni Đa Lƣu Chi đã truyền đến đời thứ 11, 12, và ảnh hƣởng của họ trong dân gian vẫn rất mạnh. Những thiên chức xã hội mà nhà Phật đã gánh vác trong những thế kỷ vừa qua, nay vẫn tiếp tục. Mặt khác triều đình cũng biết trọng dụng họ, xem những cao tăng uyên bác nhƣ những cố vấn, có thể bàn luận, giải quyết những vấn đề chính sự.”
“Vào thời đại nhà Lý, Phật giáo vẫn tiếp tục giữ một vai trò rất lớn về mặt chính trị. Ngay điểm khởi đầu, tức là việc lập nên triều đại này, Phật giáo đã đóng vai trò quyết định.”
“Tuy đã giúp nhà Tiền Lê, nhƣng trƣớc tình trạng tệ lậu của quốc gia dƣới sự cai trị của Lê Long Đĩnh, sƣ Vạn Hạnh đã không ngần ngại ủng hộ Lý Công Uẩn lên ngôi, chấm dứt chế độ dã man của Lê Ngọa Triều, bằng một cuộc vận động quần chúng qua sấm truyền về vận mệnh dân tộc gắn với chữ Lý, vốn đã đƣợc nhà sƣ Định Không (? - 808) nói đến từ hai thế kỷ trƣớc. Với việc Lý Công Uẩn xuất thân là một môn sinh của nhà chùa và vai trò của sƣ Vạn Hạnh, sẽ không ngoa khi nói rằng bƣớc đầu dựng lên nhà Lý công đầu thuộc về Phật giáo. Sƣ Vạn Hạnh cũng là ngƣời đƣợc tin rằng đã thuyết phục Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lƣ về Thăng Long với ý nguyện bảo vệ lâu dài nền độc lập dân tộc.”
“Các tăng sƣ Phật giáo cũng trực tiếp tham dự chính sự qua việc trực tiếp thiết lập các kế hoạch, thảo văn thƣ, tiếp sứ thần, bàn luận cả những vấn đề về quân sự. Tuy can dự vào chính sự nhƣng tăng sƣ Phật giáo không hề chủ trƣơng tham gia chính quyền, nên sau đó, khi triều đình đã vững mạnh hơn, có thể tự mình gánh vác tất cả, thì họ lại tự nhiên lui về với chức năng vốn có của mình, là hƣớng dẫn tinh thần và đạo đức, lui về với việc tu đạo của
32
mình khi nhiệm vụ đối với quốc gia, với quảng đại quần chúng đã hoàn thành. Phật giáo thời Lý cũng có ảnh hƣởng rất lớn lên văn hóa - nghệ thuật.”
“Về phƣơng diện học thuật, Phật giáo Việt Nam giai đoạn này, mà chủ thể là các tăng sĩ, thiền sƣ, đã có công đào tạo một lớp trí thức có trình độ uyên thâm cả Phật, Nho, Lão, nhƣng lại không cố chấp và biết dung hợp những dị biệt giữa ba hệ thức triết lý này. Nhiều thiền sƣ am tƣờng cả tam giáo (Khuông Việt, Vạn Hạnh, Đạo Hạnh, Viên giác, Mẫn Giác…), và sẵn sàng truyền thụ cho các môn đệ những tinh túy của các quan niệm chính trị - xã hội của Nho giáo. Khi nghị bàn chính sự họ cũng sẵn sàng sử dụng lý luận Nho học. Dƣới sự tác động, hƣớng dẫn tinh thần của các thiền sƣ, Phật giáo dƣới thời Lý đã tạo dựng một bản sắc văn hóa chính trị đầy tính nhân bản. Nhà Lý đã đƣợc xem nhƣ một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Các vị vua của triều đại này có cuộc sống đạo đức và tâm linh. Đã không có cảnh tranh đoạt, bạo loạn, cực hình, mà thay vào đó bằng một đƣờng lối chính trị khoan dung, độ lƣợng, từ bi với thần dân và với cả kẻ thù (vua Lý Thái Tông tha tội cho Nùng Trí Cao, vua Lý Thánh Tông không giết Chế Củ, vua Chiêm Thành). Xã hội vì đó mà bình an, phú cƣờng, đoàn kết, tạo nên những chiến tích trƣớc Chiêm Thành phía Nam và cả Tống quốc hùng mạnh phƣơng Bắc.”
“Phật giáo giai đoạn này cũng có những đóng góp to lớn đối với sinh hoạt văn học. Văn học Phật giáo đã trở thành dòng văn học chủ đạo của thời này.
Những công trình kiến trúc và điêu khắc Phật giáo cũng đóng góp những giá trị mỹ thuật cho triều đại nhà Lý. Những công trình này giờ đây không còn lƣu lại bao nhiêu, nhƣng sử sách ghi lại là vào các triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, Lý Thần Tông đã xây dựng, lập ra rất nhiều chùa, điện, tháp, tiến hành đúc, vẽ nhiều tƣợng, tranh Phật. Những công việc này không phải chỉ nhằm cho hoàng tộc, mà ở khắp nơi trong dân chúng. Một công trình nhà Lý mà nay vẫn là một trong những biểu tƣợng của dân tộc Việt, chính là Chùa Một Cột, đƣợc xây từ năm 1049, khi đó gọi là Chùa Diên Hựu.”
“Tuy nhiên, sức ảnh hƣởng của Phật giáo lên đời sống chính trị, văn hóa, tinh thần vào thời nhà Lý đƣợc cho là có quá nhiều màu sắc mê tín. Có lẽ
33
nhận định nhƣ vậy có phần hơi khắt khe. Cho dù có những yếu tố Mật giáo, sấm vĩ, phong thủy, nhƣng đây lại là những cái đã góp phần không nhỏ cho vị trí của dân tộc Việt kể từ thời nhà Đinh đến lúc đó, và tính mê tín của nó thật ra cũng không bằng ở giai đoạn suy đồi của Phật giáo nhƣ vào thời Lê Sơ hay thời Pháp thuộc.”
“Trong buổi đầu nhà Lý, các thiền sƣ còn can dự trực tiếp vào công việc chính sự. Triều đình cần đến sức học, tài ngoại giao, khả năng giáo dục, sự liên kết nhân tâm của họ. Nhƣng đến đời Trần, tình hình đã khác đi. Các vua Trần là những ngƣời có tri thức, lại uyên bác Phật học. Nhƣng dù vị trí trực tiếp trong công việc chính sự của các tăng sĩ không còn nữa, Phật giáo lại vẫn phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, ảnh hƣởng trực tiếp lên chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội đời Trần, trở thành một tinh thần dân tộc thời bấy giờ.”
“Đến thời nhà Trần với sự việc vua Trần Thái Tông chuyên tâm học Phật, vua Trần Nhân Tông xuất gia, xây dựng thiền phái Trúc Lâm, anh vợ của vua Trần Thánh Tông thì trở thành Tuệ Trung Thƣợng Sĩ, vua Trần Anh Tông cũng có chủ đích tu đạo sau khi nhƣờng ngôi (nhƣng chƣa kịp thì băng hà), Phật giáo thật sự trở thành một thế lực tinh thần ủng hộ cho chính trị, và ngƣợc lại, triều đình là một quyền lực củng cố cho Phật giáo. Có thể giai đoạn Nhân Tông là giai đoạn Phật giáo hƣng thịnh cực độ ở nƣớc ta.”
“Phật giáo đời Trần mang một tinh thần khoan dung và tự do. Chính đều này gây dựng nên những nét văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc vào thời kỳ này. Phật giáo không chỉ trích đạo Nho, đạo Lão, mà để cho các giáo lý này tự do phát triển. Trong không khí học tập tự do và cởi mở, triều đình đãi ngộ hiền sĩ một cách kính cẩn, đã phát triển sự học lên rất nhiều, và cũng nhiều ngƣời tài giỏi xuất hiện. Chính từ tinh thần dung hợp và khai phóng này của Phật giáo mà nền học vấn thời Trần không bị ràng buộc bởi khoa cử, thực hiện chính sách tự do tôn giáo, không phân biệt sĩ phu đƣợc đào tạo từ truyền thống giáo lý nào. Điều đó đã xây dựng nên một nền văn học rạng rỡ và đầy ý thức tự tin. Thi ca thời Trần vì thế mà mang ảnh hƣởng sâu đậm của thiền học, thi sĩ nhìn sự việc bằng con mắt của ngƣời biết tĩnh tâm thiền quán.”
Chúng ta thấy rằng Phật giáo vào Việt Nam từ thời Đinh, Lê và trải qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc đến thời Lý, Trần Phật giáo lớn mạnh và trở thành quốc giáo, một tôn giáo có ảnh hƣởng lớn trong xã hội ngƣời Việt
34
lúc bấy giờ. Phật Giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam. Trong bài xã luận của tạp chí Phật Giáo Việt Nam đã viết : "Trong tâm hồn dân tộc Việt Nam thật đã sẵn có mầm móng tinh thần Phật giáo. Hèn gì mà Ðạo Phật với dân tộc Việt Nam trong gần hai ngàn năm nay, bao giờ cũng theo nhau nhƣ bóng với hình trong cuộc sinh hoạt toàn cầu. Ðã là viên đá nền tảng cho văn hóa dân tộc, cố nhiên Phật giáo Việt Nam vĩnh viễn phải là một yếu tố bất ly của cuộc sống toàn diện. Ngày nay những hào nhoáng của một nền văn minh vật chất đã làm mờ mắt một số đông ngƣời, nhƣng cơ bản của nền văn hóa dân tộc đang còn bền chặt, khiến cho ngƣời Việt Nam dù có bị lôi cuốn phần nào trong một thời gian, rồi cũng hồi đầu trở lại với cội nguồn yêu dấu ngàn xƣa..."[1].
2.2. Ảnh hƣởng nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con ngƣời Việt Nam
2.2.1. Ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến ý thức đạo đức
* Ảnh hưởng tích cực: Phật giáo “đến với Việt Nam và đi sâu vào đạo đức dân tộc cùng hòa mình với đạo đức truyền thống của dân tộc là truyền thống vì nghĩa, vì nƣớc, của dân tộc Việt Nam. Phật giáo ở Việt Nam còn có sự kết hợp chặt chẽ gắn liền việc đạo với việc đời. Tuy là một tôn giáo xuất thế, nhƣng khi đến với Việt Nam, Phật giáo lại mang trong mình một tinh thần rất nhập thế: các cao tăng đƣợc nhà Nƣớc mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng trong quân sự xây dựng đât nƣớc. Sự gắn bó việc đạo với đời còn đƣợc thể hiện qua các thời kì lịch sử của dân tộc, những giáo lí nhân sinh của đạo Phật đã không chỉ hƣớng các nhà sƣ tham gia vào chính sự mà còn có các vị vua quan quý tộc vừa tham gia xây dựng đất nƣớc vừa đi tu nhƣ ở thời Lý – Trần đã sáng lập ra thiền phái Thảo Đƣờng và thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.”
“Những triết lí nhân sinh của đạo Phật đã có những ảnh hƣởng nhất định và thấm nhuần trong tâm hồn con ngƣời Việt Nam qua những nhận thức về đạo lí từ bi nhân nghĩa, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh. Ðiều này chúng ta thấy rất rõ qua minh chứng lịch sử là Nguyễn Trãi (1380-1442), ông là nhà 1 Tạp chí Phật giáoViệt Nam, quan điểm của Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, số ra ngày 15/8/1956.
35
văn, nhà chính trị, nhà tƣ tƣởng kiệt xuất của Việt Nam, ông đã khéo léo vận dụng đạo lý Từ Bi nhân nghĩa và biến nó thành đƣờng lối chính trị nhân bản. Cho nên khi đại thắng quân xâm lƣợc, đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không những không giết hại mà còn cấp cho thuyền bè, lƣơng thực để họ về nƣớc.”
“Thần vũ chẳng giết hại Thuận lòng trời ta mở đất hiếu sinh” “Tinh thần thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân này đã biến thành ca dao tục ngữ đƣợc nhân dân sử dụng rất phổ biến trong quần chúng Việt Nam” nhƣ "lá lành đùm lá rách", hay
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng” “Ðó chính là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ ngƣời Việt Nam nào cũng thuộc nằm lòng từ ngày còn mẫu giáo, nó đã nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.”
“Ngoài đạo lý Từ Bi nhân nghĩa, ngƣời Việt còn chịu ảnh hƣởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là đạo lý Tứ Ân gồm có: ân mẹ cha; ân sƣ trƣởng; ân quốc gia và ân chúng sinh. Giáo lý này đƣợc xây dựng dựa trên sự phát triển tâm lí, tình cảm rất phù hợp theo một trình tự của sự phát triển con ngƣời Việt Nam.” Đó chính là tình thƣơng yêu của con ngƣời luôn đƣợc bắt nguồn từ gần cho đến xa: “từ tình thƣơng cha mẹ, họ hàng lan dần đến tình thƣơng trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hƣơng đất nƣớc và mở rộng đến quê hƣơng cao cả đối với cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này”. Ðặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là đƣợc nổi lên trƣớc tiên vì nó phù hợp với thuần phong mỹ tục và đặc điểm tâm lí, tình cảm của con ngƣời Việt Nam từ xa xƣa.
“Với những triết lí đầy tính nhân sinh của mình thì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và đƣợc Ðức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau” nhƣ: “Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Ðại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan...”. Khi nhắc đến công lao dƣỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất
36
hiếu". “Bởi trong chính tƣ tƣởng của Phật giáo luôn đặc biệt chú trọng mang trong mình chữ hiếu nên khi đến với xã hội và tiếp xúc với con ngƣời Việt Nam thì những triết lí nhân sinh của nhà Phật rất thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.”
“Nhìn một cách tổng quan lại chúng ta thấy đƣợc, đạo lý hiếu ân của đạo Phật mang ý nghĩa mở rộng và có cùng một đối tƣợng là nhắm vào những ngƣời thân, cha mẹ, đất nƣớc, nhân dân, chúng sinh, vũ trụ, đó là môi trƣờng sống rất gần gũi của chúng sinh. Ðạo lý Tứ Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xả khiến cho ta sống hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực. Từ cơ sở tƣ tƣởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam và đã biến Phật giáo ở Việt Nam có đƣợc một bản sắc đặc thù rất riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm cho nền văn hóa tinh thần của dân tộc thêm phong phú và đa dạng.” Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nƣớc, dân tộc Việt Nam tự hào đã xây dựng cho riêng mình một thiền phái tôn giáo mang đặc trƣng riêng có của con ngƣời Việt Nam. Đó chính là Thiền phái Trúc Lâm Yên tử, một thiền phái nhân văn và gần gũi với cuộc sống của ngƣời dân, do một vị vua Triều Trần khai mở và phát triển, Ông là vị vua thứ ba triều đại Nhà Trần, Trần Nhân Tông: “Các Thiền sƣ - Hoàng đế thời Trần đã lập nên Thiền phái Trúc Lâm, là một Thiền phái mang hệ tƣ tƣởng triết học và bản sắc hoàn toàn Việt Nam. Các vị vua nhƣ Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Trần Anh Tông đều rất uyên thâm về triết lý Phật giáo và đã ứng dụng Phật giáo trong mối liên kết nhân tâm để xây dựng và bảo vệ đất nƣớc. Tinh thần của Hội nghị Diên Hồng là tiếng nói của ý thức tự chủ và tinh thần tự lực, tự cƣờng của ngƣời dân Việt Nam, là đỉnh cao của sự đoàn kết dân tộc, mà chính sự liên kết nhân tâm, tinh thần hòa hợp của đạo Phật đã thấm nhuần sâu sắc trong vua – tôi thời Trần”. Những tinh thần Phật giáo mang đến đã góp phần quan trọng làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong 2 lần đánh đuổi quân Nguyên – Mông của quân dân nhà Trần trong lịch sử dân tộc.
Những triết lí nhân sinh của đạo Phật đã ăn sâu vào trong tƣ tƣởng, len lỏi vào trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội ngƣời Việt tinh thần “Từ bi – hỷ xả – vô ngã – vị tha”, trong hoàn cảnh đất nƣớc thƣờng xuyên bị xâm lƣợc, bị thống trị bởi những cái ác, cái bất nhân, bất nghĩa, trái với đạo lý dân
37
tộc thì những giáo lí của nhà Phật đƣợc cụ thể hóa nhƣ Bát chính đạo đã đƣợc con ngƣời Việt Nam tiếp thu để làm thăng hoa thêm tình yêu đất nƣớc mình. Vì thế, khi mà Phật giáo từ một nơi xa xôi đến với Việt Nam đã trở thành Phật giáo Việt Nam mang trong mình một tƣ tƣởng chủ đạo là tinh thần yêu nƣớc, thƣơng ngƣời. Những tƣ tƣởng này đã đƣợc minh chứng qua suốt cả chiều dài dòng lịch sử tranh đấu giữ gìn nƣớc và dựng xây đất nƣớc của cả dân tộc ta, phù hợp với tƣ tƣởng “Chƣ ác mạc tác” và nghĩa vụ “Chúng thiện phụng hành” của giáo lý nhân sinh nhà Phật.
Chẳng những chúng ta thấy có các vị vua, các bậc anh hùng dân tộc là Phật tử đã thấm nhuần tƣ tƣởng yêu nƣớc, ngay cả các Thiền sƣ Việt Nam cũng luôn mang trong mình tinh thần yêu nƣớc và nêu cao tinh thần đó, không bao giờ đi ngƣợc lại nguyện vọng độc lập tự do của dân tộc, không tiếp tay cho các thế lực xâm lăng để chống phá cách mạng, đất nƣớc. Ta thấy rằng: “Phật giáo Việt Nam đã là một học thuyết giải thoát về thuật sống lƣơng thiện tốt đẹp đối với từng con ngƣời Việt Nam; với tinh thần Tứ Ân, Phật giáo Việt Nam còn là một học thuyết coi trọng ơn Tổ quốc; thực sự góp phần quan trọng trong việc hình thành nền tƣ tƣởng Việt Nam, văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó tinh thần yêu nƣớc là chủ yếu”.
Nhìn lại chiều dài lịch sử, văn hóa dân tộc chúng ta thấy đƣợc rằng: “ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên Phật giáo đã truyền vào Việt Nam và tƣ tƣởng, triết học Phật giáo có nhiều điểm phù hợp với tâm tƣ, tình cảm, đạo lý dân tộc nên đã đƣợc ngƣời Việt Nam nhanh chóng tiếp nhận và dung hóa. Ngƣời Việt vốn hiền lành, hiếu hòa, hiếu sinh, chân thật, yêu thƣơng đồng loại. Ðạo Phật thì dạy con ngƣời biết ăn ở hiền lành, thấy rõ lẽ phải trái, bỏ ác làm lành, cải tà quy chánh trau dồi đức hạnh và thăng hoa trí tuệ, cho nên đƣợc quảng đại quần chúng chấp nhận”.
“Phật giáo Đem đến cho con ngƣời cái nhìn duy vật về vũ trụ và phép biện chứng sơ khai từ những ngày đầu (khái niệm bản thể, vô thƣờng…) giải thích đƣợc phần lớn những hiểu biết về con ngƣời, vũ trụ và mối quan hệ giữa chúng. Góp phần quan trọng trong việc hình thành nhân cách con ngƣời. Dạy bảo, khuyên răng con ngƣời hƣớng đến điều thiện, từ bỏ gian tà, góp phần làm trong sạch xã hội, mang tình ngƣời đến với nhau. Đây là giá trị nhân văn rất sâu sắc của Phật giáo. Tinh thần hiếu đạo, sự tƣơng thân tƣơng trợ, lá lành
38
đùm lá rách… đƣợc đề cao trong xã hội. Nhất là trong thời đại ngày nay, khi mà các giá trị đạo đức ngày càng mai một thì những tƣ tƣởng của Phật giáo càng trở nên quan trọng và cấp thiết.”
“Triết lí nhân sinh của đạo Phật luôn hƣớng con ngƣời đến những giá trị nhân bản nhất, góp phần tích cực vào việc hoàn thiện đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội. Nhƣ chúng ta biết bất kỳ một tôn giáo nào cũng đề cập đến tình yêu; Tinh thần “từ bi” trong Phật giáo không chỉ hƣớng sự từ bi, nhân nghĩa đến con ngƣời, mà còn dành sự từ bi đến cả muôn vật, đến cỏ cây hoa lá Phật giáo luôn kêu gọi lòng nhân đạo, yêu thƣơng và bảo vệ sự sống.”
* Ảnh hưởng tiêu cực:
Thế giới quan của đạo Phật “đã dẫn dắt các tín đồ đến một nơi đƣợc gọi là cõi Niết bàn, nơi đƣợc coi là sự giải thoát khỏi cuộc sống tục trần, để gải thoát đƣợc con ngƣời đạo Phật đã hƣớng chúng sinh đến một triết lý sống không hành động, không đấu tranh trong thực tại, lấy tu dƣỡng tâm tính làm điều cốt yếu của bản thân. Với cách nhìn nhận cuộc đời con ngƣời của nhà Phật, cuộc đời con ngƣời đang sống” chính là một nơi chứa đầy: “những cám dỗ, lành ít, dữ nhiều, đầy những cạm bẫy, những cái ác, những sự ô uế, vẩn đục làm vấy bẩn linh hồn. Muốn chứng đƣợc Niết bàn (đạt đến giải thoát), các tín đồ phật tử phải từ bỏ mọi ham muốn dục vọng, diệt trừ tham, sân, si”.
Phật giáo hình thành từ sự chiêm nghiệm, nghiền ngẫm cá nhân, tách rời với cuộc sống thực tại do đó tƣ tƣởng Phật giáo không tránh khỏi triết lý giáo điều, kinh viện, xa rời thực tế.
“Với tƣ cách là một hình thái ý thức xã hội và đạo đức cũng phản ánh những tồn tại xã hội thực tại, cũng có quá trình phát sinh, phát triển và biến đổi cùng với điều kiện sinh sống của con ngƣời. Cùng hòa mình vào với đạo đức cá nhân những quan điểm nhân sinh của nhà Phật đã có những cái nhìn chú trọng hơn đến việc hoàn thiện đạo đức cá nhân và quên lãng đi các mối quan hệ xã hội xung quanh của con ngƣời đang rất cần đƣợc xây dựng, vun đắp. Do vậy, để hoàn thiện đƣợc đạo đức cá nhân, thì không thể tách nó khỏi những điều kiện sinh họat vật chất cùng các quan hệ xã hội khác của con ngƣời.”
39
2.2.2. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến hành vi đạo đức
* Ảnh hưởng tích cực
Trải qua hơn 20 thế kỷ qua Phật giáo đã cùng với dân tộc ta chung sống rất hòa thuận. Triết lí nhân sinh của đạo Phật đã thẩm thấu và len lỏi vào tinh thần dân tộc và có ảnh hƣởng sâu sắc đến nhân sinh quan của con ngƣời Việt Nam, đã góp phần tạo nên hành vi đạo đức phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam.
“Dân tộc Việt Nam đã từng trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, song, dù ở giai đoạn nào thì hình ảnh của các vị Thiền sƣ, Pháp sƣ, Quốc sƣ, Phật tử đứng ra hộ trì đất nƣớc đã trở nên rất gần gũi, thân quen đối với ngƣời dân nhƣ:” “Trong hai cuộc kháng chiến trƣờng kỳ của dân tộc chống Pháp và chống Mỹ, cứu nƣớc, thống nhất đất nƣớc, Phật giáo đã có những đóng góp đáng ghi nhận vào chiến thắng hào hùng của nhân dân ta. Nhiều cơ sở thờ tự của Phật giáo trên khắp mọi miền đất nƣớc đã trở thành những căn cứ che chở, nuôi giấu cán bộ cách mạng; nhiều nhà sƣ đã nêu cao tinh thần đại sĩ chính nghĩa tham gia phong trào “cởi áo Cà - Sa khoác áo chiến bào” lên đƣờng nhập ngũ, trực tiếp cầm súng chiến đấu ngoài mặt trận; nhiều tăng ni, phật tử trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng nhƣ cố Hòa thƣợng Thích Thiện Chiếu, cố Hòa thƣợng Thích Minh Nguyệt, cố Hòa thƣợng Thích Thiện Hào... Tiêu biểu nhƣ chùa Tam Bảo, trụ sở Hội Phật học kiêm tế của Thiền sƣ Thích Thiện Chiếu trở thành nơi cất giấu vũ khí, nuôi giấu cán bộ kháng chiến. Bản thân Thiền sƣ thì bị đày ra nhà tù Côn Đảo và bị tra tấn dã man, nhƣng vẫn một lòng trung kiên với cách mạng. Trong lao động sản xuất, thực hiện nếp sống đạo đức, văn hóa, nhiều vị tăng ni, phật tử trở thành những ngƣời tiêu biểu, gƣơng mẫu, là chỗ dựa đáng tin cậy của Phật giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.
“Đây chính là những minh chứng cho tinh thần yêu nƣớc chân chính của Phật giáo Việt Nam đã kết hợp cùng với các hành động để đƣợc cùng hòa mình trong dòng chảy lịch sử dân tộc.” Rõ nét hơn đƣợc thể hiện là: “Phật tử Việt Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động của xã hội nhƣ cuộc vận động đòi ân xá cho cụ Phan Bội Châu và đám tang cụ Phan Châu Trinh. Thời Ngô
40
Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đƣờng đấu tranh chống lại nền độc tài chuyên chế của gia đình họ Ngô năm 1963. Đặc biệt là sự kiện hòa thƣợng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối chế độ độc tài đó. Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, một bộ phận không nhỏ các tăng ni Phật tử đã tạm lột bỏ lớp áo cà sa để cùng nhân dân cả nƣớc cầm súng đánh giặc cứu nƣớc” .
“Chính những hành vi việc làm thể hiện tinh thần yêu nƣớc đó đã ảnh hƣởng rất lớn đến hành vi đạo đức của ngƣời Việt Nam qua các thời kì lịch sử xây dựng và giữ gìn bảo vệ tổ quốc.
Phật giáo đã đề cập rất nhiều đến thuyết nhân quả, báo ứng, thuyết nhân duyên, nhìn nhận tất cả các sự vật hiện tƣợng trong các mối liên hệ khác nhau. Luật nhân quả của đạo Phật đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành và điều chỉnh hành vi đạo đức của con ngƣời Việt Nam.”
Nho giáo mang trong mình tƣ tƣởng mệnh trời: “con ngƣời sinh ra là để phục tùng theo một quy luật mà tự nhiên mang đến nhƣ một định mệnh của cuộc đời, chịu sự chi phối của các lực lƣợng siêu nhiên là mệnh trời”. “Những tƣ tƣởng của Nho giáo đã ảnh hƣởng mạnh đến nhân sinh quan của con ngƣời Việt Nam, hệ tƣ tƣởng Nho giáo đã làm cho con ngƣời tin tƣởng tuyệt đối vào số mệnh của mình và không có thôi thúc con ngƣời vƣơn lên trong cuộc sống mà lại sống trông chờ, ỷ lại vào số phận… thì trong luật nhân quả của đạo Phật cho con ngƣời thấy đƣợc bản thân phải tự tu tập. Tƣ tƣởng của Nho giáo về mệnh trời đã có kết hợp hài hòa với triết lý nhân quả của đạo Phật, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết:”
“Cho hay muôn sự tại trời
Phụ ngƣời chẳng bõ khi ngƣời phụ ta
Những ngƣời bạc ác tinh ma
Mình làm mình chịu kêu mà ai thƣơng”.
“Những câu thơ của Nguyễn Du cho thấy triết lý ác giả ác báo của đạo Phật đƣợc đề cập xoay vần và từ xƣa nay luôn ảnh hƣởng sâu sắc đến nhân
41
sinh quan của con ngƣời Việt Nam. Tác phẩm này của Nguyễn Du cũng đã gián tiếp để thể hiện triết lý nhân sinh mang đậm màu sắc Phật giáo. Phật giáo luôn nêu cao đức tính thiện tâm, lối sống bình đẳng cho tất cả mọi ngƣời nhƣ là tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của đời sống xã hội.”
Những quan niệm về cuộc sống nhƣ: “ở hiền gặp lành, gieo gió phải gặt bão, nhân nào quả đấy, cha mẹ hiền lành để phúc đức cho con”, bản chất từ bi hỉ xả trong triết lý nhân sinh của đạo Phật đã thấm sâu vào đời sống của con ngƣời Việt Nam và hƣớng mọi tầng lớp nhân dân và để hƣớng chúng sinh vào con đƣờng thiện nghiệp tu dƣỡng đạo đức vì dân vì nƣớc. Có tác giả đã nhận xét: “Cái sống đời đời trong đạo đức Phật giáo là từ bi và cứu khổ cứu nạn. Những triết lý đó nó vƣợt thời gian, không gian bởi vì nó nhằm bảo vệ, phát huy tính nhân bản làm điều lành, hƣớng về điều lành của con ngƣời hoặc ít nhất cũng để con ngƣời không làm điều ác và không hƣớng về cái ác. Luật nhân quả của đạo Phật còn khẳng định khi chúng ta gieo nhân tắc là đã gây nghiệp, khi gieo nghiệp lành thì chúng ta sẽ thu đƣợc quả lành, gây nghiệp dữ thì gặp quả dữ”. Vì vậy dạo Phật luôn hƣớng con ngƣời vào làm những việc thiện , xa lánh điều ác trong cuộc sống.
Những tƣ tƣởng hành vi đạo đức mà Phật giáo mang đến phù hợp với truyền thống nhân đạo, thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân của đạo lý làm ngƣời của con ngƣời Việt Nam.
“Bầu ơi thƣơng lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhƣng chung một giàn”.
Ảnh hƣởng của đạo đức Phật giáo đã trở thành một bộ phận hợp thành đạo đức của xã hội Việt Nam từ thuở xa xƣa qua việc xây dựng những đình chùa, tháp để thờ cúng.
“Đạo Phật đã hòa nhập vào xã hội Việt Nam và cùng tồn tại với tín ngƣỡng bản địa. Bên cạnh việc nhiều chùa chiền đƣợc chính các triều đại quân chủ tạo lập,” nhƣ “chùa Khai Quốc (nay là chùa Trấn Quốc ở quận Tây Hồ, Hà Nội) đƣợc vua Lý Nam Đế cho xây dựng ngay sau khi thành lập nƣớc Vạn Xuân (544-548) và hàng loạt những ngôi già-lam quy mô hình thành dƣới các thời Lý-Trần, đã có nhiều ngôi chùa đƣợc dân chúng tự động xin
42
phép nhà nƣớc xây cất, thể hiện qua câu tục ngữ Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”.
“Những ngôi chùa làng đƣợc xây dựng không chỉ là nơi thể hiện tín ngƣỡng của ngƣời dân Việt mà có lúc nó còn mang trong mình một trọng trách là các ngôi trƣờng dạy chữ cho con dân.” Đạo Phật có lúc đã trở thành quốc giáo nhƣ dƣới thời nhà Lý, nhàTrần: “Ở triều đại này đã có những vị vua sau khi hoàn tất nhiệm vụ của ngƣời lãnh đạo đất nƣớc đã rời bỏ cuộc sống trần tục để đi tu, nhƣ trƣờng hợp vua Trần Nhân Tông, chẳng những chỉ tu tập không thôi, mà còn sáng lập cả một dòng Thiền Việt Nam, dòng Trúc Lâm Yên Tử”.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã có những quan hệ chặt chẽ với tín ngƣỡng truyền thống của dân tộc ta đƣợc thể hiện qua: “Hệ thống chùa “Tứ pháp” kết hợp việc thờ Phật với thờ các vị thần tự nhiên nhƣ Mây-Mƣa-Sấm- Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt Nam là “tiền Phật hậu Thần” với việc đua vào chùa các thần, thánh, các thành hoàng thổ địa và các anh hùng dân tộc. Có chùa thờ cả Bác Hồ ở Hậu tổ và hầu nhƣ không một chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn, vong hồn đã mất”. Bên cạnh đó, Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau nên không có tông phái Phật giáo nào ở Việt Nam là thuần khiết. Tuy Thiền tông chủ trƣơng bất lập ngôn, song ở Việt Nam, chính các thiền sƣ đã để lại khá nhiều trƣớc tác giá trị. Phật giáo Việt Nam cũng dung hợp chặc chẽ con đƣờng giải thoát bằng tha lực, phối hợp Thiền tông với tịnh độ tông (niệm Phật A di đà và cầu Bồ tát) Chùa miền Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng chục pho tƣợng Phật, Bồ- tát, La- hán của các tông phái khác nhau. Còn ở phía Nam, Đại Thừa và Tiểu Thừa kết hợp mật thiết với nhau trong đó: “nhiều chùa mang hình thức Tiểu Thừa (thờ Phật Thích-ca. việc mặt áo vàng) nhƣng lại theo giáo lý Đại Thừa; bên cạnh tƣợng Phật Thích-ca lớn vẫn có nhiều tƣợng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng vẫn sử dụng đồ nâu và đồ lam. Các vị thần Ấn Độ vốn xuất thân là những vị đàn ông, sang Việt Nam biến thành Phật ông Phật Bà. Phật Bà Quan Âm( biến thể của từ Quán Thế Âm Bồ Tát) trở thành vị thần hộ mệnh của cƣ dân khắp vùng sông nƣớc vốn là địa bàn của cƣ dân Nam Á”. Đặc biệt, ngƣời Việt Nam còn có những Phật Bà riêng của mình, do mình tạo ra nhƣ: “đứa con gái của nàng Man, tƣơng
43
truyền sinh ngày 8-4, đƣợc xem là Phật tổ Việt Nam, bản thân nàng Man trở thành Phật mẫu ở nƣớc ta có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà nhƣ: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh…” và đại bộ phận Phật tử tại gia cũng là các bà.
“Trong gia đình, việc thờ cúng tổ tiên là truyền thống của con ngƣời Việt Nam, truyền thống đó đƣợc cộng hƣởng bởi đạo đức Phật giáo, trƣớc hết là quan niệm của Phật giáo về cái chết, về kiếp luân hồi và nghiệp báo,… Phật giáo đề cập rất nhiều đến thờ cúng tổ tiên theo cả hai nghĩa rộng và hẹp.” Thờ cúng tổ tiên trong Phật giáo theo nghĩa rộng chính là thờ Phật. Phật thƣờng đƣợc dân gian hiểu một cách nôm na là ngƣời sáng lập ra Phật giáo, là Buddha, mọi ngƣời gọi là ông Bụt, ông Phật hay đôi khi là “Phật tổ”. Hay những ngƣời đứng đầu, ngƣời sáng lập ra các tông phái Phật giáo và ngƣời kế thừa, những vị sƣ sáng lập chùa đƣợc các hậu duệ của họ gọi là “Sƣ tổ”. Các tự viện nơi họ đƣợc khai sáng thì gọi là “Tổ đình”. “Theo nghĩa hẹp, cũng có nghĩa là thờ cúng ông bà, cha mẹ, những ngƣời có cùng huyết thống với mình. Chính vì vậy, chúng ta thấy rằng giữa Phật giáo và tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên có những điểm tƣơng đồng trong ý tƣởng giáo dục, trong văn hóa tín ngƣỡng và trong nghi lễ thờ cúng. Đây chính là cơ sở cho sự hội nhập giữa đạo Phật với tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt Nam.”
“Những tiết lí nhân sinh cơ bản của Phật giáo đã có ảnh hƣởng lớn lao đến sự phát triển của tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt từ xa xƣa, nhƣng không vì thế mà nó là sự sao chép y nguyên tƣ tƣởng của Phật giáo mà là cùng hòa quyện tạo nên nét văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng.” Ngƣời Việt Nam có quan niệm rằng: “cha mẹ và tổ tiên luôn lo lắng và quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Ngƣời sống chăm lo đến linh hồn ngƣời chết, vong hồn ngƣời chết cũng quan tâm đến cuộc sống của ngƣời đang sống”.
Tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên tại gia đình trong xã hội Việt Nam thƣờng đƣợc tiến hành quanh năm, xuất phát từ quan niệm dù đã khuất nhƣng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Việc cúng lễ đƣợc tiến hành: “Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng nhƣ tang ma, giỗ chạp, cƣới xin…, không chỉ trong những ngày lễ tiết nhƣ Tết Nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…, các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các vị tổ tiên còn đƣợc con cháu kính cáo mọi chuyện vui
44
buồn: sinh nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị về hƣởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc”.
“Có thể nói rằng trong tâm thức của những ngƣời đang sống thì tổ tiên là bất tử và luôn luôn hiện hữu đồng hành trong cuộc sống của con ngƣời. Ngƣời Việt dâng hƣơng, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công,” điều này thể hiện: “Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của ngƣời Việt là từ niềm tin ngƣời sống cũng nhƣ ngƣời chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lƣu giữa cõi dƣơng và cõi âm”.
Từ những triết lí nhân sinh của Phật giáo là vị tha, hiều hòa mà đã có những ảnh hƣởng đến sinh hoạt của con ngƣời Việt nhƣ những tập tục nhƣ ăn chay, phóng sinh, bố thí.
Về ăn chay: “hầu nhƣ tất cả ngƣời Việt Nam đều chịu ảnh hƣởng của nếp sống văn hóa này. Nó xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn sát sinh mà trái lại phải thƣơng yêu mọi loài. Số ngày ăn chay tuy có khác nhau trong từng tháng, nhƣng cùng giống nhau ở quan điểm từ bi hỷ xả của Phật giáo. Do hiệu quả của việc ăn chay trong việc tăng cƣờng sức khỏe, chống bệnh tật, nên ngƣời Việt Nam dù là Phật tử hay không đều thích ăn chay. Ăn chay và thờ Phật là hai việc đi đôi với nhau của ngƣời Việt Nam. Dù không phải là Phật Tử cũng dùng tƣợng Phật hay tranh ảnh về Phật giáo để trang trí cho đẹp và nghiêm trang. Cùng với tục thờ Phật, tục thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt Nam có từ lâu đời. Tục này xuất phát từ lòng kính yêu đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên và đƣợc xem là một dạng tín ngƣỡng quan trọng của ngƣời Việt Nam. Vào những ngày rằm, mùng 1 những gia đình không theo đạo Phật cũng mua hoa quả thắp nhang trên bàn thờ tổ tiên”.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí và phóng sinh đã ăn sâu vào đời sống tinh thần, đƣợc thể hiện rất rõ nét: “Đến ngày rằm và mùng 1, ngƣời Việt thƣờng mua chim, cá… để đem về chùa cầu nguyện rồi đi phóng sinh. Ngƣời dân cũng thích làm phƣớc bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn”. “Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên đang ngày càng bị thu hẹp. Thay vào đó để bứt
45
kịp với nhịp sống hiện đại mọi ngƣời chịn cho mình việc tham gia vào những đợt cứu trợ đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, giúp đỡ những cảnh đời còn gặp những khó khăn, vất vả trong cuộc sống, hoàn cảnh sống khó khăn đúng với truyền thống” đạo lí của dân tộc: “lá lành đùm lá rách”.
Ảnh hƣởng qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa: “Tập tục đến chùa để tìm sự bình an cho tâm hồn đã trở thành một nét phong tục lâu dời “ đi chùa lễ Phật” của tổ tiên. Những ngày lễ hội lớn trong năm bắt đầu từ Phật giáo nhƣ: lễ Phật Đản, lễ Vu Lan, lể tắm Phật…thực sự đã trở thành ngày hội văn hóa của ngƣời dân.Những ngày lễ lớn nhƣ trên của Phật giáo đã là chất keo gắn ngƣời dân với nhau và ảnh hƣởng ngày càng sâu đậm trong nhân dân”.
Có thể nói phong tục tập quán ở Việt Nam qua quá trình giữ gìn và phát triển đất nƣớc đã chịu rất nhiều những tác động của trào lƣu văn hóa khác nhau, nhất là từ Trung Quốc, trong đó Phật giáo đã dự một phần quan trọng vào việc định hình và duy trì không ít các tập tục dân gian vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
* Ảnh hưởng tiêu cực: Tín ngƣỡng tôn giáo là một nét đẹp văn hóa truyền thống của ngƣời Việt Nam, hầu nhƣ gia đình nào cũng có bàn thờ tổ tiên của gia đình và dòng họ mình, bên cạnh đó cứ mỗi dịp Tết Nguyên Đán, ngƣời dân lại rủ nhau lên chùa thắp hƣơng, hái lộc, cầu an cho quốc thái, dân an, gia đình mạnh khỏe. Tuy nhiên hiện nay hiện nay nét đẹp này đang dần bị biến tƣớng thành các hiện tƣợng mê tín dị doan và đang khá phổ biến trong đời sống xã hội hiện nay.
Ngày nay trong đời sống xã hội những hoạt động thờ cúng, lập đàn cầu siêu, cầu an, dâng sao giải hạn đang mang một tính chất duy tâm và ngƣời dân đang bị những thành phần xấu lợi dụng vào việc mê tín của bản thân để chuộc lợi làm cho ngƣời dân tốn kém về kinh tế và thêm phần lo lắng trong cuộc sống.
Họ thực hiện cúng trong chùa, cúng cả trên những đƣờng phố, cửa chùa là nơi thanh tịnh biến thành những nơi mua bán ồn ào. Điển hình nhƣ hình ảnh cúng sao đƣợc ngƣời dân tốn kém tiền của để lên chùa cúng nhƣng hầu
46
nhƣ họ đã hiểu nhầm về nguồn gốc của việc cúng này để cho những ngƣời có lòng tham lợi dụng việc này để chuộc lợi cho bản thân. Chính những con ngƣời ỷ lại, lƣời lao động và mù quáng tin vào số mệnh của mình đã tin tƣởng và cầu xin những điều vô lí. Những hậu quả của mê tín dị đoan đem lại đã góp phần vào việc cổ vũ lối sống thụ động, cam chịu, khép kín, dễ ngả nghiêng và dễ bị những cám dỗ. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại.
2.2.3. Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo đến quan hệ đạo đức
* Ảnh hưởng tích cực Phật giáo luôn luôn đề cập đến “tình thƣơng yêu đối với tất cả mọi ngƣời, phải giúp đỡ san sẻ, đùm bọc, không vụ lợi, không đợi chờ sự đền đáp và hoàn toàn mang tính tự nguyện”. Lối sống của con ngƣời Việt Nam luôn nghiêng về nội tâm, hƣớng nội. Sau khi chúng ta đã phải trải qua biết bao những mất mát, hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngƣời dân Việt Nam rất nhạy cảm trƣớc mọi niềm vui nỗi buồn của mọi ngƣời, sẵn sàng chia sẻ, đồng cam cộng khổ với những ngƣời xung quanh. Dân gian ta có câu "hàng xóm láng giềng những khi tắt lửa tối đèn có nhau" có ý muốn nói tới sự đùm bọc, quan tâm chu đáo, chia sẻ lẫn nhau khi gặp khó khăn.
Đây là một nghĩa cử cao đẹp của con ngƣời Việt Nam, “nghĩa cử ấy, ngoài yếu tố truyền thống, phải chăng cũng có ảnh hƣởng từ giáo lý nhân sinh quan Phật giáo? Bởi vậy, trong việc giải quyết các mối quan hệ xã hội, ngƣời Việt Nam đề cao và lấy cái tâm làm gốc, thiên về tình cảm. Cho đến hiện nay, đối với nhiều gia đình ngƣời Việt Nam thì mƣời điều tâm niệm và mƣời bốn điều răn của Phật đƣợc xem là những giá trị đạo đức và đƣợc họ treo ở những nơi trang trọng nhất với ý muốn luôn nhắc nhở những thành viên trong gia đình phải sống theo những điều Đức Phật đã dạy”. Điều răn thứ sáu trong mƣời bốn điều Phật dạy có ghi: "Tội lỗi lớn nhất của đời ngƣời là bất hiếu". Phật đã dạy các đệ tử rằng: “cùng tột các điều thiện không gì bằng hiếu, cùng tột các điều ác không gì bằng bất hiếu”. Ngay trong gia đình, Phật dạy: “mọi tín đồ phải có hiếu với ông bà cha mẹ: Phụng dƣỡng cha mẹ khi cha mẹ già yếu; thay mặt cha mẹ thực hiện những việc cần thiết thuộc bổn phận của cha
47
mẹ; duy trì bảo vệ làm vẻ vang cho truyền thống gia đình, giữ gìn tài sản của gia đình do cha mẹ tích lũy đƣợc; sau khi cha mẹ mất làm lễ thành phục theo đúng lễ, tổ chức an táng trọng thể. Vợ chồng phải thủy chung, kính trọng và thông cảm lẫn nhau. Cha mẹ phải thƣơng yêu con cái, phải tránh cho con rơi vào ác đạo; dạy con cái làm những công việc hữu ích; đem lại cho con cái một sự giáo dục tốt đẹp; cƣới vợ gả chồng cho con cái thành hôn với con em những gia đình lƣơng hảo, đến một lúc thích hợp thì phân chia tài sản cho các con một cách công bằng. Hàng xóm, bạn bè phải ân cần khoản đãi, rộng lƣợng vui vẻ giúp đỡ lẫn nhau...” [14, tr.175].
Đây cũng là “những điều hết sức cần thiết đối với bản thân mỗi thành viên trong gia đình hiện đại. Những điều Phật dạy đã đƣợc thẩm thấu và đƣợc phát huy trong mỗi gia đình Việt Nam qua bao thế hệ. Điều đó đã nói lên triết lý nhân sinh của Phật giáo đã có ảnh hƣởng sâu rộng trong lối sống của con ngƣời Việt Nam, nó góp phần hình thành và duy trì nguyên tắc sống và hoạt động của ngƣời Việt. Còn trong quan hệ cộng đồng, con ngƣời Việt Nam lấy tâm làm gốc, đây là sự tự tâm, là thứ tình cảm trong sáng. Trong mƣời điều tâm niệm Phật đã dạy và đƣợc con ngƣời Việt Nam lĩnh hội: "Thi ân đừng cầu đền đáp vì cầu đền đáp là thi ân có mƣu tính". Tình cảm này đƣợc con ngƣời Việt Nam coi trọng, là sự thể hiện của tấm lòng và đem bày tỏ với mọi ngƣời, đặt tình cảm lên trên hết, đây vốn là truyền thống trọng nghĩa của dân tộc ta.”
* Ảnh hưởng tiêu cực Phật giáo chú trọng cá nhân con ngƣời mà chƣa đế cập đến xã hội con ngƣời, chƣa nhìn thấy sự đối kháng trong giai cấp và không thừa nhận sự đấu tranh giai cấp trong xã hội. “Phật giáo chƣa nhìn thấy đƣợc sự cần thiết phải thực hiện chống áp bức, quan niệm từ bi trong một khía cạnh nào đó ngăn cản, làm khó khăn cho sự đấu tranh và giải phóng giai cấp, xã hội. Phật giáo không bàn tới lĩnh vực chính trị, vì thế mỗi khi nhà sƣ bƣớc sang lĩnh vực chính trị - xã hội, họ phải sử dụng các tƣ tƣởng của nhà Nho hay Lão - trang.” Nhà sƣ Viên Thông cho rằng: "Lòng dân là gốc trị loạn", trong đó "lòng dân" là khái niệm và tƣ trƣởng của nhà nho; hoặc nhà sƣ Đỗ Pháp Thuận nói: "Vô vi cƣ diện các, xứ xứ tức đao binh" (nếu đƣờng lối vô vi ngự trị trong triều đình, thì nơi nơi sẽ tắt chiến tranh) trong đó " vô vi" là khái niệm của Lão - Trang, mặc dù khái niệm đó đã đƣợc giải thích theo quan niệm nhà Phật. Hạn
48
chế lớn nhất của Phật giáo đối với phƣơng pháp tƣ duy của ngƣời Việt Nam là “quan điểm duy tâm thần bí”.
“Quan điểm này đã làm cho con ngƣời ta không hƣớng vào hiện thực, mà hƣớng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong đƣợc phù hộ và độ trì. Với một khi tƣ duy nhƣ vậy thì không cần gì đến sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và vô tình đã là chậm tiến độ phát triển của con ngƣời. Các chƣơng trình xã hội của Phật giáo không phải để cải tạo điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, bác ái, nhẫn nhục…Coi nhu cầu thể xác là trần tục, kém đạo đức, điều này đã không còn phù hợp trong một xã hội phát triển nhƣ ngày nay khi yếu tố con ngƣời đƣợc đề cao hàng đầu, cả mặt thể xác lẫn tinh thần. Tƣ tƣởng này đã làm cho Phật giáo xa rời thế hệ trẻ.”
K. Marx đã khẳng định rằng, “bản chất con ngƣời là tổng hoà những quan hệ xã hội” và nhân cách con ngƣời cũng chỉ có thể đƣợc hoàn thiện trong các mối quan hệ xã hội mà thôi.
Nhƣ vậy, từ đánh giá sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Phật giáo đến giá trị đạo đức truyền thống của ngƣời Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, cần phải có quan điểm duy vật biện chứng cũng nhƣ nhận thức và vận dụng đúng quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính hai mặt của nhân sinh quan Phật giáo.
“Khi nghiên cứu ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của con ngƣời Việt Nam hiện nay, chúng ta cần phải nhìn nhận thấy đƣợc cả mặt tích cực và mặt tiêu cực. Những mặt tích cực góp phần hình thành nhân cách và giáo dục con ngƣời, làm cho con ngƣời có cuộc sống lành mạnh, trong sạch, giản dị, có tâm lòng khoan dung độ lƣợng và yêu thƣơng đồng loại, biết cảm thông quan tâm, sẻ chia với ngƣời khác, biết giúp đỡ đồng loại khi gặp khó khăn hoạn nạn, v.v… mọi hành động và việc làm nhƣ vậy dều bắt nguồn từ cái tâm của con ngƣời và tính tự giác của mỗi ngƣời. Những tƣ tƣởng về đạo đức của đạo Phật đã góp phần làm phong phú hơn những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.”
49
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG TIÊU CỰC CỦA NHÂN SINH QUAN PHẬT GIÁO TRONG ĐẠO ĐỨC CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo và đạo đức tôn giáo
Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề tôn giáo, đến mối quan hệ với các tổ chức tôn giáo, công tác tôn giáo đƣợc xem là một công tác quan trọng hàng đầu, đƣợc coi là “là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị” của nhà nƣớc. Trong văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, từ khi thành lập đến nay, Đảng ta đều đƣa ra những quan điểm, chủ trƣơng, chính sách về vấn đề tín ngƣỡng, tôn giáo. Cụ thể đƣợc thể hiện:
3.1.1. Tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo
Trƣớc hết, chúng ta cần phải khẳng định, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là “một chính sách nhất quán của Đảng ta kể từ khi thành lập đến nay”. Trong các giai đoạn cách mạng, những quan điểm và nhận thức của Đảng về tín ngƣỡng, tôn giáo luôn có: “sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, thực tiễn cách mạng Việt Nam, cũng nhƣ thực tiễn xây dựng và phát triển đất nƣớc”. Nhƣng quan điểm, chủ trƣơng tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo thì luôn “bất biến”, luôn đƣợc khẳng định, là một nội dung cốt lõi trong quan điểm, chính sách của Đảng về tín ngƣỡng, tôn giáo.
Hiện nay, có sự thay đổi đáng kể trong nhận thức của Đảng về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. Trong các văn bản quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc trƣớc đây: “quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo đƣợc xem là quyền của công dân”. Nhƣng từ Hiến pháp 2013, quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là “quyền cơ bản của mọi ngƣời”. Điều 24 Hiến pháp 2013 ghi rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”[11, tr.20].
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta chỉ ra rằng: “chúng ta thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, theo hoặc
50
không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thƣờng theo pháp luật”.
Văn kiện Đại hội XI khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật. Đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo và lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân” [10,tr.81]. Sự khác biệt giữa từ “công dân” trong Văn kiện Đại hội X và từ “nhân dân” trong Văn kiện Đại hội XI cho thấy sự thay đổi lớn trong nhận thức của Đảng về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. Chính vì vậy, sau Đại hội XI, trong các văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nƣớc đã nhất quán diễn đạt từ “nhân dân” là chủ thể sở hữu quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo chứ không phải là công dân. Và nhƣ chúng ta đã biết, đến Hiến pháp năm 2013, quyền “tôn trọng tự do tín ngƣỡng, tôn giáo” đƣợc xem là quyền của mọi ngƣời. Nhƣ chúng ta đã biết, đến Hiến pháp năm 2013, quyền “tôn trọng tự do tín ngƣỡng, tôn giáo” đƣợc xem là quyền của mọi ngƣời. Qua đây chúng ta thấy đƣợc: “quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo đƣợc nhìn nhận là quyền tự nhiên của con ngƣời - tức đã là con ngƣời, ai cũng đƣợc thụ hƣởng, đó là quyền bẩm sinh của con ngƣời, con ngƣời sinh ra đã có quyền đó”.
Có thể nói, trong thời gian qua, việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng, vƣợt bậc so với những giai đoạn trƣớc.
Trƣớc hết, từ quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc đối với tín ngƣỡng, tôn giáo, việc thể chế hóa bằng các chính sách, quy định cụ thể đã đƣợc thực hiện tốt. Hiện nay, chúng ta đang xây dựng Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo. Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo đƣợc xây dựng nhằm mục đích thể chế hóa một cách đầy đủ nhất quan điểm, chính sách của Đảng về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. Nói cách khác, việc xây dựng luật là nhằm đảm bảo một cách tốt nhất quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của mọi ngƣời. Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo cũng đƣợc kỳ vọng sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo hiện nay. Những
51
hạn chế và bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay là một trong những nguyên nhân gây khó khăn trong quản lý nhà nƣớc đối với các hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo.
Xây dựng Luật Tín ngƣỡng, tôn giáo có thể xem là một kết quả quan trọng trong thời gian qua. Bên cạnh việc thể chế hóa quan điểm, chính sách của Đảng về tôn giáo, trên thực tế, Đảng, Nhà nƣớc, toàn bộ hệ thống chính trị đã rất quan tâm, chú trọng việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của mọi ngƣời. Việc Nhà nƣớc cho phép thành lập Học viện Công giáo, xây dựng Học viện Phật giáo Nam tông Khmer, bảo đảm cho các sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo ở trong và ngoài cơ sở thờ tự; việc công nhận các tổ chức tôn giáo vẫn đƣợc quan tâm chú trọng. Năm 2015, Nhà nƣớc đã công nhận “Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Jesu Kito” là tôn giáo thứ 14 ở Việt Nam hiện nay; đồng thời, Nhà nƣớc cũng đã công nhận các tổ chức tôn giáo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu theo quy định của pháp luật.
Một điểm nữa để khẳng định rõ hơn chính sách tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo là việc có nhiều hơn những ngƣời theo tôn giáo đƣợc kết nạp Đảng. Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Số đảng viên mới kết nạp là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, nữ, trí thức, học sinh, sinh viên, dân tộc thiểu số, người theo tôn giáo, người lao động trong các thành phần kinh tế và chủ doanh nghiệp tư nhân tăng hơn so với khóa trước”[9, tr.188]. Đây là một điểm mới so với các văn kiện đại hội Đảng trƣớc đây khi chúng ta khẳng định chính sách kết nạp Đảng đối với những ngƣời theo tôn giáo.
Bên cạnh những quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo thì Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có những tƣ tƣởng về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo. Là một ngƣời cộng sản theo chủ nghĩa ngƣời không bao giờ bài xích, phản đối các tôn giáo: Ngƣời không bao giờ có sự phân biệt đối xử giữa các tôn giáo này với các tôn giáo khác, giữa những ngƣời có đạo và những ngƣời không có đạo. Ngƣời không chỉ nói lý thuyết mà còn có cách ứng xử với các nhà tu hành, giáo dân, phật tử theo đạo với một tấm lòng thành kính, trân trọng và đầy tính thuyết phục. Ngƣời luôn tỏ thái độ tôn trọng và đề cao vai trò của những vị đã sáng lập ra tôn giáo.
52
Ngƣời nói: "Mục đích cao cả của Phật Thích Ca và chúa Giê-su đều giống nhau. Thích Ca và Giê- su đều muốn mọi người có cơm ăn, áo mặc, bình đẳng, tự do và thế giới đại đồng".
Một trong những câu chuyện cảm động nhất là giữa Bác với linh mục Phạm Bá Trực, ngƣời theo đạo Thiên chúa, yêu nƣớc, thƣơng dân, có uy tín trong xã hội. Vì vậy, Bác và Đảng ta đã tín nhiệm, bố trí linh mục Phạm Bá Trực là Phó Chủ tịch Quốc hội. Trong một phiên họp bàn về chiến sự của đất nƣớc, họp xong đã rất khuya, đƣờng về xa nên Bác gặp linh mục Phạm Bá Trực và nói: Thƣa cha, bây giờ khuya quá rồi, xin cha nghỉ lại đây đêm nay, ngày mai có ngƣời đƣa cha về sớm cho an toàn. Linh mục Phạm Bá Trực xúc động đến mức không thể đứng nổi, không tin một lãnh tụ nhƣ Bác lại đối xử tôn trọng, tình cảm và chân thành nhƣ vậy. Đêm đó, linh mục không ngủ, nhìn sang phòng Bác vẫn sáng đèn, nghe tiếng lách cách của máy chữ, ông biết Bác vẫn còn làm việc. Tiến gần cửa phòng Bác, linh mục Phạm Bá Trực nói to: Ngài quả là một vị thánh. Nghe tiếng linh mục, Bác dừng bút làm việc và trả lời: Ở đây, cả tôi và ngài không ai là thánh thần cả, chúng ta là những con ngƣời, vì việc lớn mà chúng ta phải hy sinh. Ngài chăm sóc phần hồn các con chiên, còn chúng tôi làm cách mạng lo cơm ăn, áo mặc, độc lập, tự do cho đồng bào. Khi ấy, phần xác no đủ, phần hồn mới thong dong đƣợc… Bác của chúng ta là nhƣ vậy, kính Chúa, yêu nƣớc; đẹp đời, tốt đạo; đạo pháp dân tộc đồng hành cùng chủ nghĩa xã hội là những tƣ tƣởng lớn của Hồ Chí Minh, nó phản ánh nhân văn, cách mạng của Bác trong ứng xử với tôn giáo.
Một ngƣời đứng đầu Đảng, Nhà nƣớc nhƣ Bác không bao giờ quên gửi thƣ chúc mừng các giáo dân theo đạo Thiên chúa trong ngày Noel. Mỗi lần gửi thƣ chúc mừng giáo dân, Bác đều kết thúc bằng một câu “Cầu chúa ban phúc lành cho chúng ta, ủng hộ chúng ta kháng chiến cứu quốc đến ngày thắng lợi”. Ngƣợc lịch sử, chúng ta cũng đều biết đích thân Bác đã vẽ tƣợng phật trên núi ở Pắc Pó (Cao Bằng); ở Thái Lan, Bác đã từng mặc áo cà sa đi khất thực, Bác ngủ trong nhà chùa với phật tử… Đó là cách làm dân vận của Bác để đoàn kết lƣơng và giáo, giữa tự do tín ngƣỡng và tự do không tín ngƣỡng. Bác còn chỉ đạo Chính phủ, Quốc hội đƣa việc “Tôn trọng tự do tín ngƣỡng, tôn giáo” vào Hiến pháp.
53
Những quan điểm, câu chuyện của Bác nêu trên cho chúng ta thấy đƣợc Bác là ngƣời Cộng sản hiện đại, thể hiện rất tinh tế và sâu sắc, những tình cảm, tƣ tƣởng về tôn giáo đều hƣớng tới mục đích cao cả là phục vụ cách mạng, phục vụ lợi ích của nhân dân.
3.1.2. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo
“Quan điểm về phát huy các giá trị tôn giáo đã từng đƣợc đề cập đến rất nhiều trong các văn kiện Đảng các kỳ đại hội trƣớc đây, xuất phát từ luận điểm quan trọng trong Nghị quyết 24- NQ/TW của Bộ Chính trị ban hành ngày 16/10/1990 về tăng cƣờng công tác tôn giáo” trong tình hình mới: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với xã hội mới”. Để kế thừa, phát triển Nghị quyết 24-NQ/TW, Chỉ thị số 37-CT/TW ngày 2/7/1998 lần đầu tiên đƣa ra quan điểm “Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và khuyến khích phát huy”. Quan điểm này đƣợc các đại hội sau kế thừa và phát triển. Chẳng hạn, Văn kiện Đại hội XI chỉ ra rằng, “ tôn trọng những giá trị đạo đức, văn hoá tốt đẹp của các tôn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [10, tr.51]. “Đồng thời, quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chƣơng, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã đƣợc Nhà nƣớc công nhận, đúng quy định của Pháp luật. Bên cạnh đó, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngƣỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc” [9,tr.245].
Trong khi đó, Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”[10,tr.165]. Không chỉ yêu cầu phát huy giá trị tôn giáo, Văn kiện Đại hội XII còn nêu ra yêu cầu phát huy văn hóa tôn giáo: “ Phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số, văn hóa tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hóa...” [9,tr.29].
Khi nói đến việc “phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là ngƣời luôn luôn đi tìm những giá trị
54
nhân văn tốt đẹp nơi các tôn giáo để cổ vũ, khích lệ đồng bào các tôn giáo phát huy đƣợc những giá trị đó.” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Chúa Giêsu dạy: Đạo đức là bác ái Phật Thích Ca dạy: Đạo đức là từ bi Khổng Tử dạy: Đạo đức là nhân nghĩa” Nhƣ vậy chúng ta thấy đƣợc, ngay từ rất lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng đạo đức tôn giáo có giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc là phù hợpvới đạo đức của xã hội. Hơn thế nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nhìn thấy đƣợc sự tƣơng đồng, gắn bó giữa những triết lí của các học thuyết tôn giáo và cách mạng nƣớc ta, đƣợc thể hiện trong một đoạn văn rất nổi tiếng:
“ Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức
cá nhân.
Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng.
Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó phù hợp
với điều kiện nước ta .
Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho mọi người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết.
Tôi cố gắng làm học trò nhỏ của các vị ấy”. Đánh giá đƣợc giá trị của các tôn giáo nhƣ vậy, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn tin tƣởng vào đồng bào các tôn giáo cho dù trong kháng chiến đã xảy ra một số vụ xô xát giữa tín đồ và chính quyền của nhà nƣớc Ngƣời đã khẳng định rằng: “Phần lớn đồng bào các tôn giáo, nhất là các tầng lớp lao động đều yêu nƣớc kháng chiến, nhƣ Công giáo ở nhiều nơi, nhƣ Cao đài kháng chiến…Một phần bị địch lợi dụng nhƣ ngụy quân Cao đài, Hòa Hảo, Công giáo Nam bộ, một số đồng bào Công giáo tuy bản chất thì tốt, nhƣng bị bọn cầm đầu phản động lung lạc, nên họ hoài nghi chính sách của Đảng và Chính Phủ”.
55
“Chính vì có niềm tin này và nhìn nhận đƣợc thấy những giá trị của các tôn giáo mà ngƣời đã tập hợp đƣợc rất nhiều ngƣời có đạo và giữ các chức vụ cao cấp trong Chính phủ, Quốc hội nhƣ Giám mục Lê Hữu Từ, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn là cố vấn tối cao trong Chính phủ,…”
Thực tiễn cuộc sống đặt ra đòi hỏi chúng ta trƣớc hết cần có sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn về các giá trị tôn giáo, trong đó nổi bật là các giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo, những hiệu quả mà hoạt động tôn giáo mang lại trong các lĩnh vực nhƣ giáo dục, y tế, từ thiện xã hội, v.v... để từ đó phát huy trong quá trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.
3.1.3. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn khẳng định “chủ trương, chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của đồng bào các dân tộc”. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã khẳng định: “Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân theo quy định của pháp luật” [10,tr.81].
Hiến pháp nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam (năm 2013), Điều 24 quy
định:
“1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào…
2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Đây “là một trong những cơ sở pháp lý rất quan trọng để nhân dân ta thực hiện quyền bình đẳng trong chính sách tự do tôn giáo theo” nguyên tắc: “bình đẳng về tín ngƣỡng, bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ (nghĩa vụ tôn giáo, nghĩa vụ công dân) và bình đẳng về pháp luật”.
Thực tế chúng ta thấy đƣợc rằng: “mọi tôn giáo ở Việt Nam đều bình đẳng trƣớc pháp luật, đƣợc pháp luật bảo vệ, đƣợc tự do hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Tuyệt nhiên không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị chính quyền ngăn cấm”. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo luôn gắn bó với quốc gia, dân tộc theo phƣơng châm “Đạo pháp dân tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội”, thực hiện “sống phúc âm trong lòng dân tộc”, “nƣớc
56
vinh đạo sáng”, vừa làm tròn bổn phận của tín đồ đối với tôn giáo, vừa hăng hái lao động sản xuất, góp phần cùng toàn dân đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Trong những năm vừa qua, với sự nỗ lực của Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã thực hiện một cách toàn diện từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật đến việc triển khai thực hiện việc bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo cho nhân dân đƣợc thể hiện rất rõ” nhƣ: “Các bản Hiến pháp của nƣớc Việt Nam đều có các điều, khoản về quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của công dân; Quốc hội Khóa XI đã ban hành Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo; Chính phủ đã ban hành Nghị định 22/2005/NĐ-CP về hƣớng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngƣỡng, tôn giáo”. Điều đáng chú ý là, cùng với các quy định về tín ngƣỡng, tôn giáo của Nhà nƣớc, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng còn nhấn mạnh: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [8,tr.245]. “Quan điểm về tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tôn giáo không phải là một quan điểm mới của Đảng và Nhà nƣớc ta, mà đã đƣợc nhắc nhiều trong các kỳ đại hội trƣớc.” Tuy nhiên, đây là quan điểm đƣợc Đảng nhấn mạnh qua các kì đại hội và tại Đại hội XII. Văn kiện ghi rõ: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,... Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, theo quy định của pháp luật, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” [8,tr.165].
“Nhƣ vậy, quan điểm nhất quán của Đảng ta là luôn tôn trọng quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào mà còn đánh giá cao vai trò, vị trí của các tôn giáo đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Điều này đã phản bác các luận điệu xuyên tạc cho rằng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam là diệt trừ tôn giáo. Không chỉ dừng lại ở việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, Đảng và Nhà nƣớc ta đã cụ thể hóa những chính sách,” quy định đó vào trong thực tiễn cuộc sống của nhân dân để cho tôn giáo chung sống hòa thuận với nhân dân.
57
3.2. Một số khuyến nghị để phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo
3.2.1.Việc phát triển kinh tế thị trường gắn với đạo đức của người Việt Nam hiện nay
Nƣớc ta hiện nay đang phát triển nền kinh tế thị trƣờng theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích để phát triển xã hội và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, là điều kiện để phát triển con ngƣời về các mặt Đức – Trí – Thể - Mỹ. Đức Phật cũng đã dạy rằng: “Tình trạng nghèo khổ là một trong những nguyên nhân gây nên bạo hành trong xã hội”. Vì vậy một yêu cầu tất yếu đặt ra cho đất nƣớc ta là để phát huy đƣợc hết những ảnh hƣởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo đối với con ngƣời Việt Nam hiện nay thì vấn đề phát triển nền kinh tế là một vấn đề rất quan trọng. Chúng ta đang xây dựng chủ nghĩa xã hội do nhân dân làm chủ, nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân đƣợc cải thiện, đất nƣớc có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc,… Có thể nói là:
“ Xây dựng nƣớc Việt Nam dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”
Vậy với những hoạt động và trình độ hiểu biết của nhân dân ở thực tại, chúng ta đang hy vọng sẽ khắc phục dần đƣợc những biểu hiện tiêu cực của Phật giáo đang hiện hữu chi phối tâm lí, suy nghĩ và nếp sống của một bộ phận không nhỏ trong quần chúng nhân dân. Đất nƣớc ta đang trong quá trình đổi mới và hội nhập phát triển, vậy để phát huy đƣợc tốt những ảnh hƣởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo thì chúng ta cần quan tâm đến sự phát triển kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng môi trƣờng văn hóa lành mạnh. Chúng ta có thể thấy đƣợc rằng phát triển kinh tế để nhằm mục đích phát triển sản xuất, làm giàu cho xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân và muốn thay đổi đƣợc đời sống tinh thần của nhân dân thì chúng ta phải thay đổi đƣợc điều kiện kinh tế - xã hội. Một thực tế chúng ta thấy đƣợc rằng chỉ khi nào cuộc sống của con ngƣời chúng ta không còn nghèo khổ và cuộc sống không còn bất công, áp bức thì khi đó cõi niết bàn cũng giảm đi sự hấp
58
dẫn đối với con ngƣời. Việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc sẽ làm cho mất dần đi sự ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo, bên cạnh niềm tin tôn giáo thì nhân dân có niềm tin vào những đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc.
Việc “phát huy những ảnh hƣởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đạo đức của ngƣời Việt Nam sẽ có những tác động tích cực trở lại góp phần để thực hiện tốt đƣờng lối phát triển kinh tế thị” trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta, bởi theo lý luận của chủ nghĩa Mác là “ý thức xã hội có tính độc lập tƣơng đối tác động trở lại đối với tồn tại xã hội”. Vì vậy cần có cơ chế, chính sách để phát huy đƣợc nội lực của nhân dân, phát triển đạo đức văn hóa, lối sống của nhân dân để bảo vệ nền văn hóa dân tộc cũng nhƣ bồi đắp ý thức đạo đức con ngƣời Việt Nam.
3.2.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống xã hội
Chúng ta cùng nhìn vào thực tế cuộc sống và nhận thấy hiện nay đã xuất hiện rất nhiều những giáo phái mới, những hoạt động mê tín dị đoan đƣợc diễn ra ở khắp mọi nơi trên mọi miền đất nƣớc, thƣc trạng này đòi hỏi Đảng phải có công tác quản lí tôn giáo đƣợc tăng cƣờng hơn nữa. Trong đó một việc làm bức thiết cần đƣợc thực hiện là tăng cƣờng đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng và phát huy những vai trò tích cực của các tổ chức tôn giáo.
Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo góp phần đƣa hoạt động của các giáo hội Phật giáo đi đúng hƣớng không trái với mục tiêu của Đảng và Nhà nƣớc đề ra góp phần ổn định trật tự xã hội, đoàn kết tôn giáo và đoàn kết dân tộc để xây dựng đất nƣớc trong thời kì đổi mới, hội nhập.
“Hiện nay việc truyền bá các hoạt động Phật pháp diễn ra rất phổ biến thì việc đào tạo các tăng ni, phật tử là một vấn đề rất quan trọng. Điều này đã tạo điều kiện để cho các tín đồ nâng cao đƣợc trình độ hiểu biết của mình về kiến thức Phật giáo. Làm tốt đƣợc điều này sẽ hạn chế đƣợc việc các tín đồ bị lôi cuốn vào các hiện tƣợng mê tín, dị đoan đang đƣợc coi là bức xúc trong xã hội hiện nay.”
59
Chúng ta cần phải phê phán mạnh mẽ các hủ tục mê tín dị đoán, cần vạch mặt những kẻ buôn thần bán thánh, những việc làm trái với thuần phong mĩ tục của đất nƣớc đây cũng là một trong những giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực của hoạt động Phật giáo trong đời sống xã hội.
Thứ nhất, tập trung nâng cao nhận thức, thống nhất quan điểm và
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề tôn giáo.
“Nhà nƣớc đã ban hành các pháp lệnh tín ngƣỡng tôn giáo, những pháp lệnh này đƣợc coi là làm cơ sở cho cả hệ thống chính trị và toàn dân trong vấn đề nhận thức đúng đắn quan điểm về chính sách tôn giáo của nƣớc ta; từ đó để có những chính sách tuyên truyền vận động đồng bào tôn giáo nói riêng, đồng bào các giới nhận thức đúng đắn chính sách tôn giáo của nhà nƣớc để tự giác thực hiện đúng quy định của pháp luật. Những chính sách thì không mới, nhƣng nhận thức về chính sách là vấn đề mới so với thực tiễn của quá trình nhận thức thực hiện chính sách tôn giáo của nƣớc ta từ trƣớc đến nay vì đó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, còn tồn tại lâu dài cùng công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” Để cho các pháp lệnh đƣợc đi vào cuộc sống thì rất cần sự tập trung nâng cao trình độ hiểu biết của con ngƣời, nguồn tri thức của nhân loại.
Thứ hai, công tác vận động quần chúng, xây dựng lực lượng chính trị ở
cơ sở cần được củng cố và tăng cường.
Muốn phát huy đƣợc tốt các vai trò của các tổ chức Phật giáo thì cần phải: “trƣớc tiên là thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện nhất quán đồng bộ, bình đẳng mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa ở địa phƣơng và cơ sở. Đổi mới phƣơng thức hoạt động, đa dạng hoá các hình thức tập hợp đồng bào theo các tôn giáo vào các hoạt động xã hội - chính trị ở địa phƣơng, làm cho đồng bào giữa các tôn giáo và các giới đoàn kết tƣơng trợ lẫn nhau, xây dựng cơ sở chính trị vững mạnh”. Tuyên truyền và thực hiện nhất quán chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ tôn giáo.
60
Thứ ba, tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo
Nhà nƣớc đã hình thành đƣợc các cơ quan quản lý nhà nƣớc về tôn giáo ở Trung ƣơng và địa phƣơng, để giúp Chính phủ cụ thể hoá các chính sách đối với đồng bào tôn giáo nhất là các chính sách ƣu tiên phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, các chính sách khuyến khích các tôn giáo tham gia hoạt động xã hội, các việc làm từ thiện nhân đạo; tạo điều kiện để các tôn giáo xây dựng cơ sở thờ tự, mở các trƣờng đào tạo chức sắc của tôn giáo.Chủ động đấu tranh ngăn chặn âm mƣu, thủ đoạn lợi dụng tôn giáo vào mục đích chính trị của các thế lực thù địch.
Thứ tư, công tác tổ chức cán bộ làm công tác tôn giáo cần được củng
cố và tăng cường.
“Nhà nƣớc ta có luật pháp nhƣng còn chƣa đủ, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đào tạo, tổ chức cán bộ và nhắc nhở những ngƣời làm công tác tôn giáo vận, phải thật sự tôn trọng tín ngƣỡng nhân dân. Ngƣời cũng chỉ ra cả những khuyết điểm mà nhiều những cán bộ làm công tác tôn giáo hay mắc là thái độ định kiến, hẹp hòi với với đồng bào có đạo. Ngƣời coi đó là một kẻ thù rất đáng sợ vì nhƣ vậy là phá hoại đất nƣớc từ trong phá ra. Ngƣời luôn quan tâm nhắc nhở cán bộ từ những việc làm nhỏ nhất khi vào nhà đồng bào có đạonhƣ không đƣợc nằm trƣớc bàn thờ, khi nói chuyện, tuyên truyền chính sách cũng phải thận trọng và ý tứ.” Chính vì thế, mà đi đến đâu Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn sâu sát, tìm ra những cán bộ điển hình mà biểu dƣơng: “Về Thanh Hóa, ngƣời khen ngợi đồng chí Lý An không chỉ biết giúp nhà dân mà còn biết giúp nhà thờ trang hoàng bàn thờ ngày lễ Giáng sinh. Khi nói chuyện với cán bộ tỉnh Nam Định, Ngƣời biểu dƣơng đồng chí Nguyễn Thị Kim đã đi sát với quần chúng, hiểu rõ tâm trạng của quần chúng, giúp đỡ quần chúng giải quyết những thắc mắc và những khó khăn trong đời sống hàng ngày. Còn khi tập huấn các cán bộ làm công tác Mặt trận, Ngƣời lại nhắc nhở cán bộ cần quan tâm, chú ý đến việc nâng cao đời sống của đồng bào các tôn giáo”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Làm công tác tôn giáo là phải vận động đồng bào các tôn giáo tham gia các phong trào kháng chiến, kiến quốc.
61
Nhƣng phát động phong trào gì cần phù hợp theo giáo lý, giáo luật của các tôn giáo thì phong trào đó mới có sức lôi cuốn mạnh”. Những phong trào cứu đói, Mùa đông binh sĩ, cầu hồn cho các liệt sĩ bỏ mình cho Tổ quốc…là đúng tinh thần “thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” của đạo Công giáo, “lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha” của Phật giáo…nên đƣợc các tín đồ các tôn giáo nhiệt liệt hƣởng ứng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh: “luôn khích lệ những tấm gƣơng của các cá nhân, tập thể tôn giáo có thành tích trong các phong trào trên. Ngƣời viết thƣ biểu dƣơng linh mục Lê Văn Yên ở Bắc Ninh luôn chăm sóc thƣơng binh, khen giáo dân xứ Văn Giáo (Nghĩa Hƣng, Nam Định) đã tiết kiệm chi tiêu để quyên góp tiền ủng hộ quỹ (Mùa đông binh sĩ)”.
Ngƣời cũng căn dặn các cán bộ làm công tác tôn giáo rằng: “Cán bộ làm công tác tôn giáo phải là ngƣời am hiểu giáo lý, giáo luật của các tôn giáo để khi giao tiếp, nói đƣợc ngôn ngữ tôn giáo với đồng bào có đạo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn tôn trọng và có thái độ thành kính với tôn giáo: “Ngƣời không chỉ viết thƣ thăm hỏi, chúc mừng khi lễ Giáng sinh, lễ Phật đản mà còn chia sẻ với các tín đồ bằng tâm tình tôn giáo. Với Công giáo, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi họ “Phụng sự Thiên Chúa và Tổ quốc”, “Kính chúa, yêu nƣớc”. Với đồng bào Phật giáo, Ngƣời động viên các tín đồ hãy hành động theo lời Đức Phật: “Lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha”. Còn với đồng bào Cao đài, Hòa Hảo, Ngƣời thúc đẩy lòng “ái quốc”…Hiểu rõ các tôn giáo, Ngƣời biết chắt lọc những tinh hoa của các tôn giáo”. Nói về Khổng Tử, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Tuy khổng tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn kịp thời phê phán gay gắt nhƣ việc lợi dụng tôn giáo để làm chính trị hay bóc lột dân chúng, nhƣng Ngƣời lại không có những hành vi xúc phạm đến giáo lý của các tôn giáo hay niềm tin của các tín đồ.
“Đến nay hệ thống tổ chức và cán bộ làm công tác tôn giáo đã đƣợc hình thành từ Trung ƣơng đến địa phƣơng. Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đã nghiên cứu quán triệt đƣờng lối quan điểm của Đảng và pháp luật về tôn giáo. Tham mƣu cho Chính phủ, chính quyền địa phƣơng trong công tác quản lý nhà nƣớc về tôn giáo. Tuy nhiên, công tác tôn giáo là một vấn đề lớn và cực kỳ khó khăn bởi vì mỗi tôn giáo có hệ thống tổ chức, giáo lý, tín đồ và
62
phƣơng thức sinh hoạt khác nhau. Giá trị tinh thần, đức tin của mỗi tôn giáo khác nhau, do vậy cán bộ làm công tác tôn giáo cần phải đƣợc đào tạo cơ bản về trình độ chuyên môn, chuyên sâu về lĩnh vực, mặt khác phải có tấm lòng thực sự tôn trọng, hoà đồng, hoà mục, gắn bó với đồng bào tôn giáo, chức sắc, chức việc và phải có năng lực vận động quần chúng, am hiểu sâu văn hóa đông, tây, truyền thống dân tộc...” Thì mới thực sự góp phần giúp Đảng và Nhà nƣớc ta thực hiện tốt công tác tôn giáo. Trong thực tiễn ở cơ sở, nhận thức mới về tôn giáo theo pháp lệnh tôn giáo chuyển biến chậm, nhiều nơi vẫn "nói một đƣờng, làm một nẻo"; nói đến tôn giáo thì luôn có tƣ tƣởng thiếu thiện chí, gây khó khăn, cản trở ít tạo điều kiện cho bà con trong việc thực hiện quyền tự do tín ngƣỡng tôn giáo. Việc vận dụng chính sách tôn giáo trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể ở cơ sở xung quanh thủ tục hành chính còn quá nhiều khó khăn trở ngại, gây tâm lý không vui trong một bộ phận nhân dân có đạo. Mặt khác cũng có nơi buông lỏng sự quản lý, không sát thực tiễn, tạo điều kiện cho việc lợi dụng tôn giáo để xây dựng cơ sở thờ tự trái pháp luật hoặc cho truyền đạo sai quy định, lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lƣợng chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Vì vậy, cần tiếp tục đƣợc quan tâm đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo.
Trên đây là một số những giải pháp cơ bản để phát huy “những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay.”
63
KẾT LUẬN
Phật giáo đã đến với dân tộc ta và đƣợc nhân dân ta đón nhận một cách rất tự nhiên, tốt đẹp hơn 2500 năm nay, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đã trải qua rất nhiều những biến đổi cùng với sự hƣng thịnh, thăng trầm của lịch sử đất nƣớc. “Phật giáo đã đạt tới đỉnh cao hƣng thịnh dƣới thời các triều đại Lý, Trần cũng đã từng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân, còn đƣợc xem là quốc giáo của thời kì này. Phật giáo đã ảnh hƣởng rất sâu đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân trên rất nhiều những lĩnh vực nhƣ đạo đức, lối sống, văn hóa,… Kể từ những ngày đầu du nhập Phật giáo đã có những nét rất tƣơng đồng gần gũi với đạo đức, văn hóa, phong tục tập quán của ngƣời Việt Nam. Phật giáo đã kết hợp rất hài hòa với văn minh bản địa để tạo nên tƣ tƣởng từ - bi – hỷ - xả vừa kết hợp với những truyền thống văn hóa của dân tộc, để tạo nên những phẩm chất đạo đức của con ngƣời Việt Nam.” Những triết lí nhân sinh của Phật giáo đã gắn bó với tâm lí của truyền thống dân tộc, đi vào trong đời sống của nhân dân và góp phần tạo nên đƣợc những bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.
“Hiện nay Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở nƣớc ta, Phật giáo có sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta qua bao đời. Nhân sinh quan của nhà Phật có giá trị nhân sinh sâu sắc nhƣ giàu lòng vị tha, yêu thƣơng và yêu chuộng hòa bình,…” Những triết lí của đạo Phật là muốn mang lại cho chúng sinh một cuộc sống an vui, thoát khỏi bể khổ của cuộc đời. Những quan niệm nhân sinh của đạo Phật là những yếu tố thể hiện sự cảm thông, thƣơng xót vô hạn của Đức Phật đối với chúng sinh, đậm thắm tình ngƣời và khơi dậy sức mạnh tiềm lực trong bản thân mỗi ngƣời, những triết lí nhân sinh đó đã góp phần bồi dƣỡng nên những giá trị đạo đức của con ngƣời Việt Nam.
“Hiện nay với xu hƣớng biến đổi của xã hội ảnh hƣởng của nhân sinh quan Phật giáo đang diễn ra ở cả hai chiều trái ngƣợc nhau. Một mặt là sự biến đổi đó ảnh hƣởng theo chiều hƣớng tích cực: Đó là việc gắn đạo với đời, việc tu tập của ngƣời tín đồ không xa lánh trần tục, không thoát li khỏi sự nghiệp đổi mới đất nƣớc, ngoài việc lo hành đạo còn thực hiện tốt những
64
trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân,… Những triết lí nhân sinh còn giúp con con ngƣời điều chỉnh đƣợc ý thức đạo đức, hành vi đạo đức, các quan hệ đạo đức của bản thân để xã hội trở nên tốt đẹp hơn tránh xa đƣợc các tệ nạn xã hội. Mặt khác, trong xu thế hiện nay cũng có không ít những hiện tƣợng lợi dụng vào tôn giáo để tạo nên những hiện tƣợng tha hóa về đạo đức, lối sống nhƣ lối sống không đấu tranh, bằng lòng với thực tại không có sự vƣơn lên trong cuộc sống,… Những điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra đƣợc các giải pháp để phát huy đƣợc những ảnh hƣởng tích cực và hạn chế những ảnh hƣởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo đến đạo đức của ngƣời Việt Nam hiện nay.”
65
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài "Phải chăng Ðồ Sơn là nơi đầu tiên nước ta tiếp xúc với Ðạo
Phật" trong sách "Phật giáo, văn hóa và dân tộc" (1990), Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Bảy (1997), “Văn hóa Phật giáo và lối sống của người
Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ”, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Đăng Duy (1999), “Phật giáo với văn hóa Việt Nam”, Nxb
Hà Nội.
4. C. Mác và Ph. Ăng – Ghen (1994), Toàn tập, Tập 20, Nxb. Chính trị
5. Tịnh Hải (1992), Lịch sử Phật giáo thế giới, tập II, Nxb Đại Học và
Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
6. Nguyễn Hùng Hậu (2002), “Đại cương triết học Phật giáo Việt
Nam”, tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt
Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Nguyễn Lang (2014), Việt Nam Phật giáo sử luận, Toàn tập, Nxb.
Công ty sách Thời đại và Nhà xuất bản văn học, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam, Sđd. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,.
11. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Nxb
Lao động, Hà Nội.
12. Tạp chí Phật giáoViệt Nam, quan điểm của Tổng Hội Phật giáo
Việt Nam, số ra ngày 15/8/1956.
13. Thích Chân Quang (2005), “Luận về nhân quả”, Nxb Tôn giáo, Hà
Nội.
14. Walpola Rahula (1999), Lời giáo huấn của Phật đà, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội.
15.Trần Đăng Sinh – Nguyễn Thị Thọ( Đồng chủ biên) (2008), Giáo
trình đạo đức học, Nxb Đại học Sƣ phạm.
66
16. Trần Đăng Sinh, Nguyễn Thị Thọ (Đồng chủ biên) (2011), Giáo
trình Đạo đức học, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
17. Thích Thiện Siêu (2002), “Chữ nghiệp trong đạo Phật”, NxbTôn
giáo, Hà Nội.
18. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016), Giáo trình Những nguyên lí cơ bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
19. Lê Hữu Tuấn (1988), “Ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
20. Phan Lạc Tuyên (1993), Lịch sử Bang giao Việt Nam và Ðông Nam Á, Nxb. Viện đào tạo mở rộng khoa Ðông Nam Á Học, Thành Phố Hồ Chí Minh.
21. HT.Thích Thanh Từ, Thiền tông và kinh điển không hai, Vô Ƣu, tập 7. 22. Lê Mạnh Thát (1976), Thiền Uyển Tập Anh, 23. Lê Mạnh Thát (1988), Lịch sử Phật Giáo Việt Nam , Hà Nội 24. Thích Tâm Thiện (1994), “Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo”
Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh xuất bản.
25. Nguyễn Tài Thƣ (chủ biên) (1997),“Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67