ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN VĂN QUÂN
Tên đề tài:
“THEO DÕI MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở GÀ CÁY CỦM CHĂN THẢ
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG, TRỊ TẠI CHI NHÁNH NC VÀ PT ĐỘNG THỰC
VẬT BẢN ĐỊA – CÔNG TY KHAI KHOÁNG MIỀN NÚI THÁI NGUYÊN”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2015 - 2019
Thái Nguyên - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TRẦN VĂN QUÂN
Tên đề tài:
“THEO DÕI MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP Ở GÀ CÁY CỦM CHĂN THẢ
VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG, TRỊ TẠI CHI NHÁNH NC VÀ PT ĐỘNG THỰC
VẬT BẢN ĐỊA – CÔNG TY KHAI KHOÁNG MIỀN NÚI THÁI NGUYÊN”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Chuyên ngành: Thú y
Lớp: K47 - TY - N02
Khoa: Chăn nuôi Thú y
Khóa học: 2015 - 2019
Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Thị Thơm
Thái Nguyên - 2019
i
LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp và nghiên cứu khoa học là rất cần thiết với mỗi sinh
viên. Đây là khoảng thời gian để cho tất cả sinh viên có cơ hội đem những kiến thức
đã tiếp thu được trên ghế nhà trường ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, nâng cao tay
nghề cho mỗi sinh viên theo phương châm “học đi đối với hành”. Sau thời gian tiến
hành nghiên cứu khoa học, để hoàn thành được bản báo cáo này ngoài sự nỗ lực của
bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ quý báu, sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô
trong khoa cũng như các thầy cô trong Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện
giúp đỡ trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Trước tiên, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ
nhiệm khoa Chăn nuôi Thú y, tập thể các thầy cô giáo trong khoa cùng các bác, anh,
chị công nhân viên trong trại chăn nuôi thuộc Chi nhánh nghiên cứu và phát triển
động thực vật bản địa – Công ty cổ phần khai khoáng miền núi tại xã Tức Tranh –
huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian thực hiện đề tài. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới cô giáo hướng dẫn
TS. Bùi Thị Thơm đã tận dậy và chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập
và hoàn thành báo cáo đề tài.
Cuối cùng tôi xin chúc các thầy giáo, cô giáo luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và
đạt được nhiều thành tích trong công tác, có nhiều thành công trong nghiên cứu
khoa học và giảng dạy.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày … tháng … năm 2019
Sinh viên
Trần Văn Quân
ii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm (TN) .......................................................... 26
Bảng 4.1. Mô tả quy trình sử dụng vac-xin phòng bệnh cho gà Cáy Củm ..... 30
Bảng 4.2. Kết quả công tác phục vụ sản xuất . Error! Bookmark not defined.
Bảng 4.3. Kết quả theo dõi tình hình bệnh thường gặp gà Cáy Củm ............. 32
Bảng 4.4. Kết quả điều tra tỷ lệ mắc một số bệnh của đàn gà Cáy Củm tại cơ sở ... 32
Bảng 4.5. Kết quả mắc bệnh theo lứa tuổi thường gặp ở gà Cáy Củm lô 1 ... 34
Bảng 4.6. Kết quả mắc bệnh theo lứa tuổi thường gặp ở gà Cáy Củm lô 2 ... 34
Bảng 4.7. Triệu chứng lâm sàng, bệnh tích bệnh cầu trùng trên gà Cáy Củm ... 35
Bảng 4.8. Triệu chứng lâm sàng, bệnh tích bệnh Newcastle ở gà Cáy Củm ...... 37
Bảng 4.9. Kết quả điều trị cầu trùng gà .......................................................... 38
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
% : Tỷ lệ phần trăm
≤ : Nhỏ hơn hoặc bằng
≥ : Lớn hơn hoặc bằng
Cm : Centimet
Cs : Cộng sự
Kg : Kilogram
NC&PT : Nghiên cứu và phát triển
Nxb : Nhà xuất bản
TT : Thể trọng
iv
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... 2
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................ ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iv
Phần 1. MỞ ĐẦU ............................................................................................ 1
1.1. Đặt vấn đề................................................................................................... 1
1.2. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 2
1.3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 2
Phần 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................. 3
2.1. Cơ sở khoa học ........................................................................................... 3
2.1.1. Đại cương về gia cầm .............................................................................. 3
2.1.2. Hiểu biết về một số bệnh thường gặp ở gà ............................................. 4
2.1.3. Thành phần hóa học và cơ chế tác dụng của hai loại thuốc RTD-
Coccistop và Avicoc ....................................................................................... 18
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước .............................................. 19
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước ......................................................... 19
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước .......................................................... 20
2.3. Một số thông tin về địa điểm nghiên cứu - Chi nhánh công ty nghiên cứu
và phát triển động thực vật bản địa ................................................................. 22
2.3.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình hoạt động của Chi nhánh công ty
nghiên cứu và phát triển động thực vật bản địa .............................................. 22
2.3.2. Tình hình sản xuất của Chi nhánh NC&PT động thực vật bản địa thuộc
Công ty nghiên cứu & Phát triển động thực vật bản địa ................................. 22
Phần 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ... 25
3.1. Đối tượng ................................................................................................. 25
v
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành ............................................................... 25
3.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 25
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi ................................... 25
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm .............................................................. 25
Phần 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ............................. 27
4.1. Công tác phục vụ sản xuất ....................................................................... 27
4.1.1 Công tác chăn nuôi ................................................................................. 27
4.1.2. Công tác thú y ....................................................................................... 29
4.1.3. Kết quả công tác phục vụ sản xuất ........ Error! Bookmark not defined.
4.1.4. Công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn gà ................................... 31
4.1.5. Công tác khác ........................................................................................ 31
4.2. Kết quả thực hiện chuyên đề nghiên cứu ................................................. 32
4.2.1. Tình hình mắc bệnh một số bệnh gà Cáy Củm bị mắc ......................... 32
4.2.2. Tình hình mắc bệnh đàn gà Cáy Củm bị tại cơ sở ................................ 32
Phần 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ............................................................. 40
5.1. Kết luận .................................................................................................... 40
5.2. Đề nghị ..................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CỦA ĐỀ TÀI
1
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi gia cầm là một nghề truyền thống lâu đời của người dân Việt
Nam. Hiện nay chăn nuôi đang là ngành giữ vai trò quan trọng trong nền nông
nghiệp ở nước ta, song song với việc chăn nuôi gia súc là để lấy thịt, sữa, da, lông…
thì chăn nuôi gia cầm cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc cung cấp
những thực phẩm giàu dinh dưỡng, làm phong phú thêm thực đơn trong mỗi bữa ăn.
Ngoài ra phát triển chăn nuôi gia cầm còn mang lại hiệu quả kinh tế khá cao cho các
trang trại, hộ gia đình, đồng thời giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở vùng
nông thôn và tận dụng được nguồn nguyên liệu sẵn có từ các ngành công nghiệp
chế biến…tại địa phương. Chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng
còn tạo nguồn phân bón hữu cơ, góp phần nâng cao năng suất cây trồng.
Tuy nhiên, những năm gần đây tình hình dịch bệnh xảy ra nhiều và diễn biến
phức tạp. Dù chăn nuôi theo phương thức nào thì dịch bệnh cũng là một trong
những yếu tố gây thiệt hại đáng kể cho ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gia
cầm nói riêng. Chăn nuôi gia cầm được nuôi phổ biến, rộng rãi ở các nông hộ, đến
quy mô tập trung vừa, nhỏ… trong nhiều vùng sinh thái khác nhau. Trong đó một
số bệnh thường gặp như tụ huyết trùng, Newcastle, bệnh đầu đen, đậu và một số các
bệnh khác nữa ở gà là một trong những bệnh thường xuyên xảy ra và gây thiệt hại
đáng kể đến chăn nuôi gà. Đây là bệnh do ký sinh trùng và các nguyên nhân do
virut gây ra.
Gà Cáy Củm là một giống gà địa phương nuôi theo phương thức bán chăn
thả và chăn thả tự nhiên, hiện nay đang được nuôi dưỡng, chăm sóc tại điều kiện
tỉnh Thái Nguyên.
Để đánh giá khả năng thích nghi phòng chống dịch bệnh của gà Cáy Củm
với điều kiện tại Thái Nguyên, nhằm phát triển nhân rộng việc chăn nuôi gà Cáy
Củm, cung cấp thực phẩm có giá trị và bảo tồn nguồn gen quý này, chúng tôi tiến
2
hành nghiên cứu đề tài: "Theo dõi một số bệnh thường gặp ở gà Cáy Củm và biện
pháp phòng, trị tại Chi nhánh nghiên cứu và phát triển động thực vật bản địa - Công
ty khai khoáng miền núi Thái Nguyên".
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tình hình mắc các bệnh thường gặp như Newcastle, bệnh cầu trùng,
bệnh tụ huyết trùng và một số bệnh có thể gặp trên gà Cáy Củm chăn thả tại Thái Nguyên.
- Đưa ra các biện pháp phòng trị các bệnh như Newcastle, bệnh cầu trùng,
bệnh tụ huyết trùngvà một số bệnh có thể gặp, đạt hiệu quả cao cho gà Cáy Củm.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Phát hiện, chẩn đoán được các bệnh Newcattle, bệnh cầu trùng và một số bệnh
có thể gặp ở gà Cáy Củm và đưa ra phương pháp điều trị tại trại chăn nuôi của chi
nhánh nghiên cứu và phát triển động thực vật bản địa – Công ty CP khai khoáng
miền núi tỉnh Thái Nguyên.
3
Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Đại cương về gia cầm
Gia cầm là tên gọi chỉ chung cho các loài động vật có hai chân, có lông vũ,
thuộc nhóm động vật có cánh được con người nuôi giữ, nhân giống nhằm mục đích
sản xuất trứng, lấy thịt hay lông vũ. Gia cầm có nguồn gốc từ loài chim hoang dã đã
được con người thuần hóa cách đây hàng nghìn năm. Gia cầm có đặc điềm là có bộ
xương nhẹ, thân phủ lông vũ, chi trước phát triển thành cánh để bay, và đẻ trứng sau
khi trứng được ấp nở thành gia cầm non. Gia cầm sinh trưởng nhanh, là vì quá trình
trao đổi chất lớn và có nhiệt độ cơ thể cao (gà 40 – 41oC, vịt 41-42oC, …).
Gia cầm có đầy đủ các cơ quan bộ phân như: hệ tiêu hóa, hệ tuần hoàn, hệ hô
hấp, hệ bài tiết, cơ quan sinh dục. Nhưng hệ hô hấp, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh
dục,..có cấu tạo giải phẫu sinh lý khác nhiều điểm so với gia súc. Cụ thể là:
+ Hệ hô hấp gia cầm được cấu tạo gồm: Xoang mũi, khí quản, phế quản phổi
và 9 túi khí chính nhờ đó mà cơ thể gia cầm nhẹ có thể bay được, bơi được, hơn nữa
dịch hoàn của gia cầm nằm trong mà quá trình sinh sản vẫn diễn ra bình thường.
+ Hệ tiêu hóa gia cầm gồm: khoang miệng, hầu, thực quản, diều, dạ dày
tuyến, dạ dày cơ, ruột non, ruột già, manh tràng, lỗ huyệt, tuyến tụy, gan và mật.
trong đó thì khoang miệng gia cầm không có má, không có môi, không có răng và
chỉ có mỏ để lấy thức ăn. Thức ăn vào miệng được thấm nước bọt, được đưa xuống
diều thông qua thực quản (tại đây thức ăn được diều thấm ướt, làm mềm một phần
hydrat cacbon được phân hủy dưới tác dụng của men amylase tạo ra quá trình vi
sinh vật diều. Sau đó chuyển qua dạ dày tuyến ( do dạ dày tuyến có HCl, men
pepsin tham gia phân giải protein thành pepton) thức ăn được nghiền nhỏ thấm đều
dịch vị ở dạ dày cơ HCl và men pepsin protein tiếp tục được phân hủy, hydrat
cacbon cũng được phân giải nhờ tác dụng của vi sinh vật trong thức ăn. Thức ăn từ
dạ dày cơ được chuyển xuống ruột non dưới tác dụng của dịch ruột, dịch vị và dịch
mật các chất dinh dưỡng cơ bản trong thức ăn được chuyển hóa tạo thành những
chất dễ hấp thu.
4
Quá trình phân giải các chất trên ở manh tràng tiếp tục nhờ men của đường
ruột và vi sinh vật nhưng rất ít. Do thức ăn qua đường tiêu hóa tiêu hóa rất nhanh
nên khi gà nuốt phải thức ăn nước uống có chứa noãn hoàng Cầu trùng sẽ xuống
ruột non, manh tràng trực tràng nên bệnh cầu trùng xảy ra nhanh vòng đời của cầu
trùng ngắn (5 – 7 ngày).
2.1.2. Hiểu biết về một số bệnh thường gặp ở gà
2.1.2.1. Bệnh cầu trùng
* Đặc điểm về bệnh cầu trùng ở gà.
- Mỗi loại cầu trùng thường chỉ gây tác hại cho gà ở một lứa tuổi nhất định như:
+ E.tenella chủ yếu gây bệnh cho gà con dưới 45 ngày tuổi.
+ E.brunetti chủ yếu ở gà lớn.
- Gà bị nhiễm Cầu trùng ở lứa tuổi khác nhau thì mức độ nhiễm khác nhau
(gà con bị nhiễm Cầu trùng thường thì sẽ chết nhiều hơn gà lớn và gà lớn chủ yếu
chỉ là vật mang trùng). Gà bị nhiễm Cầu trùng chủ yếu qua đường tiêu hóa.
* Đặc điểm của mầm bệnh ở gà.
- Cầu trùng thuộc ngành Srotozoa, lớp Spotozoa, bộ Coccidian, họ Eimeridae
họ này thuộc nhiều giống nhưng có hai giống có quan hệ y học và thú y là:
Eimridiae và Isospora.
- Khi cầu trùng mới theo phân ra ngoài là một kén hay một noãn nang,
Oocyst là những tế bào tử hình bầu dục, hình trứng, hình cầu có ba lớp vỏ. Lớp vỏ
ngoài cùng rất mỏng, bên trong có chứa nguyên sinh chất lổn nhổn thành hạt, giữa
nguyên sinh chất có chứa một nhân tương đối to. Cầu trùng thuộc giống Eimeria thì
nhân và nguyên sinh chất sẽ hình thành bốn bào tửcon và cũng xâm nhập vào niêm
mạc ruột. Giống Isospora ít gặp hơn và thường gặp ở chó và mèo.
* Vòng đời cầu trùng ở gà.
Vòng đời hay chu kỳ sinh học của cầu trùng gồm ba giai đoạn: sinh sản vô
tính (Schizogony) và sinh sản hữu tính (Gametogony) được thực hiện trong tế bào
biểu mô ruột (Endogenic), giai đoạn sinh sản bào tử (Sporogony) diễn ra ở bên
ngoài cơ thể gà (Exogenic).
5
Noãn nang cầu trùng được gà nuốt vào đường tiêu hóa qua thức ăn, nước uống.
Dưới tác dụng của men tiêu hoá trong dạ dày và ruột non, đặc biệt là men Trypsin, vỏ
của noãn nang bị vỡ, giải phóng ra các bào tử con (Sporocyst). Sporozoit có hình thoi,
dài 10 - 15µ, có một hạt nhân chui vào đỉnh các nhung mao ruột non, qua biểu mô,
vào tuyến ruột.
- Sinh sản vô tính (Schyzogonie). Sau khi xâm nhập vào tế bào biểu
mô, Sporozoit sinh trưởng rất nhanh và trưởng thành với tên gọi Trophozoit chỉ sau
vài giờ, nhân của Trophozoit phân chia và trở thành Schizont thế hệ I (thể phân
liệt). Schizont thế hệ I trưởng thành cũng rất nhanh, hình thành và chứa 8 - 120
nghìn Merozoit thế hệ I (kích thước 5 x 15µ) làm cho tế bào bị ký sinh trương to và
vỡ Merozoit thoát ra khỏi Schizont, một số xâm nhập trở lại tế bào biểu mô để tiếp
tục sinh sản vô tính và phá hủy tế bào biểu mô, một số sinh sản hữu
tính.Các Schizont thế hệ II tiếp tục phát triển, giải phóng ra Merozoit lại lại xâm
nhập phá hủy tế bào biểu mô lành.Quá trình sinh sản vô tính lặp đi lặp lại để để sinh
ra các Schizont thế hệ III, IV... các tế bào biểu mổ bị phá hủy ngày càng nhiều.
- Sinh sản hữu tính (Gametogonie). Ở giai đoạn sinh sản, các Schizont thế hệ
II, III, IV… tạo ra thể Gamet có hình dạng giống Schizont. Từ Gamet hình thành
các Gametocyte đực và Gametocyte cái. Gametocyte đực phát triển, qua nhiều lần
phân chia, tạo thành giao tử đực (hay tiểu phối tử) Macrogamet
lMicrogametocyte hình thoi, có 2 lông roi, kích thước nhỏ, có khả năng di
chuyển. Gametocyte cái phát triển thành giao tử cái (đại phối tử) Macrogamet
lMacrogametocyte có kích thước lớn, một nhân, dự trữ nhiều chất dinh dưỡng,
không di động.Nhờ 2 lông roi, giao tử đực di chuyển đến gặp và chui vào giao tử
cái.Trong giao tử cái diễn ra quá trình đồng hoá nhân và nguyên sinh chất để tạo
thành hợp tử. Hợp tử phân tiết một màng bao bọc bên ngoài và được gọi là noãn
nang (Oocys). Thời gian sinh sản vô tính kéo dài 3 - 22 ngày tuỳ loài cầu trùng, các
Oocyst theo phân gà ra ngoài cơ thể ngoại cảnh.
- Sinh sản bào tử (Sporogonie). Ở ngoài môi trường, gặp điều kiện thuận lợi,
sau vài giờ, trong nguyên sinh chất của noãn nang đã xuất hiện khoảng sáng và
6
phân chia. Sau 13 - 48 giờ, nguyên sinh chất hình thành 4 túi bào tử (Sporocyst).
Nguyên sinh chất của các túi bào tử lại phân chia tạo thành 2 bào tử con (Sporozoit).
Như vậy, trong Oocyst có chứa 8 bào tử con, khi gà ăn vào trở thành Oocyst có sức
gây bệnh cho gà.
* Sức đề kháng của mầm bệnh.
Định nghĩa: Sức đề kháng của mầm bệnh là khả năng chống lại các tác nhân
của môitrường như ẩm độ, nhiệt độ, ánh sáng, môi trường nhân tạo, các dung dịch
hóachất tác động đến sự sinh trưởng và phát triển bình thường của chúng.
- Cầu trùng có sức đề kháng cao với các chất sát trùng thông thường và điều
kiện ngoại cảnh. Người ta thường sử dụng nhiệt độ cao để tiêu diệt cầu trùng.
+ Đối với nhiệt độ.
Theo Lê Văn Năm (2003) nhiệt độ thích hợp cho quá trình pháttriển bào tử
nang ở ngoài cơ thể là 150oC–350oC, lạnh là -150oC và nóng trên 400oC bào tử
nang sẽ chết.
Còn Ellis C. C (1986) cho rằng: Khi điều kiện thấp ocyst đã sinhbào tử tồn
tại được 14 ngày ở 120oC-200oC những Oocyst chưa sinh bào tử chỉ chịu đựng được
không quá 56 giờ.
+ Đối với các hóa chất
Cầu trùng có chất đề kháng với chất sát trùng nhưng cũng có nhiều công
trình nghiên cứu để làm giảm noãn nang bằng hợp chất có thể xâm nhập được vào
tế bào Cầu trùng.Horton Smith (1996) cho biết dung dịch Greolin 5% sẽ giết chết
noãn nang non và thành thục sau 20- 30 ngày.
+ Đối với oxy
Muốn phát triển được cần có oxy để nang trứng phát triển. Trong môi trường
thối nát thiếu khí nang trứng không phát triển được, phân bào ngừng lại.
* Tác nhân gây bệnh cầu trùng: Mỗi loại ký sinh ở một khu vực nhất định
trong đường ruột của gà; có hình thái, kích thước khác nhau.
* Đường lây nhiễm cầu trùng ở gà: Bệnh cầu trùng gà lây qua đường tiêu hóa.
Những gà bị bệnh cầu trùng hoặc đã khỏi bênh nhưng vẫn còn mang trùng (bài thải
7
trứng cầu trùng theo phân ra ngoài cơ thể ra nền chuồng gây lây lan bệnh trong trại).
Trứng trên nền chuồng nhiễm vào thức ăn, nước uống. Gà nhặt thức ăn có trứng Cầu
trùng, trứng sẽ đi vào ruột già và gây bệnh. Eimeria tenella và Eimeria necatrix xâm
nhập vào các tế bào ruột, phá vỡ mạch máu gây xuất huyết nặng làm cho gà đi phân
sáp hoặc phân có máu.
* Thời gian nhiễm và phát bệnh cầu trùng: Định nghĩa: Thời gian nhiễm
bệnh là thời gian lúc gia cầm ăn phải bào tử nang đến khi noãn nang được thải trở
lại môi trường bên ngoài cơ thể và trở thành bào tử.
Thời gian nhiễm bệnh chia làm hai thời kỳ:
- Thời kỳ tiền phát là thời gian: từ lúc gà ăn, uống dính phải bào tử nang đến
lúc chúng vào cơ thể và ký sinh tại một vùng nào đó. Nghĩa là ta thấy xuất hiện
nang trứng trong phân.
- Thời kỳ phát bệnh: là khoảng thời gian mà ta thấy nang trứng xuất hiện trong
phân đến lúc con vật xuất hiện triệu chứng lâm sàng, bệnh tích điển hình của bệnh.
* Đặc điểm dịch tễ bệnh cầu trùng ở gà: Bệnh Cầu trùng là bệnh xảy ra phổ
biến ở gia cầm cũng như gia súc. Gây thiệt hại đến kinh tế vì bệnh sinh sản nhanh dễ
lây bệnh, bệnh có sức đề kháng cao nên khó bị tác động bởi môi trường cũng như một
số tác nhân hóa học. Để hiểu rõ về yếu tố dịch tễ học ta đề cập tới các yếu tố:
+Tuổi: Ở gà, bệnh xảy ra chủ yếu ở gà còn non, gà dò, gà mới trưởng thành,
gà ốm phải bệnh nhưng mang trùng là nguồn bệnh tiềm tàng lâu dài, phức tạp.
+ Mùa vụ: Theo nghien cứu thì ở Việt Nam xảy ra quanh năm, tỷ lệ mắc
bệnh cao đặc biệt những tháng mưa ẩm gà thải phân ra ngoài rồi trứng ngấm vào
nước đất nên gà dễ mắc.
+ Chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh phòng bệnh
Nếu ta chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh phòng bệnh tốt cùng với phòng bệnh
tốt đúng thuốc gà sẽ có khả năng chống chọi với mầm bệnh.Nhưng ngược lai nếu
chăm sóc, nuôi dưỡng, vệ sinh phòng bệnh kém gà dễ mắc bệnh bệnh sẽ xảy ra
nhanh và mạnh mẽ.
8
* Sự đáp ứng miễn dịch của gà với bệnh Cầu trùng: Gà từ 20 ngày tuổi tới 2
tháng tuổi bị bệnh nặng nhất. Sau khi khỏi bệnh gà sẽ có miễn dịch với loài Cầu
trùng chúng đã nhiễm phải.Song vấn đề miễn dịch trong bệnh Cầu trùng cho tới nay
vẫn chưa được công nhận đầy đủ.Vì vậy, vấn đề này cần được nghiên cứu rộng rãi
hơn. Miễn dịch đối với bệnh cầu trùng là miễn dịch có trùng và do sự tự tái nhiễm
thường xuyên đã đảm bảo cho sự ổn định mầmbệnh trong cơ thể gà có miễn dịch.
* Đặc điểm bệnh lý, lâm sàng, phòng và trị bệnh Cầu trùng ở gà
- Triệu chứng: Thể cấp tính (manh tràng): Gà bệnh ỉa ra máu (phân gà sáp)
vào khoảng 4-5 ngày sau khi nhiễm bệnh, ủ rũ, xù lông, giảm ăn, thiếu máu và chết.
Thể cấp tính (ở ruột non): Biểu hiện giống như ở thể manh tràng nhưng tỷ lệ
chết cao.
Thể mãn tính: Gà bệnh đầy bụng, tiêu chảy phân sống hoặc phân sền sệt,
thiếu máu. Giảm ăn, giảm trọng lượng và giảm tỷ lệ trứng.
=> Khi bị Cầu trùng gà dễ bội nhiễm do E.coli, bạch lỵ nên triệu chứng lâm
sàng còn phức tạp hơn nhiều.
- Bệnh tích: Xác chết gầy xơ xác, niêm mạc và mào nhợt nhạt, phân tích
xung quanh lỗ huyệt, phân lỏng thường trong phân có lẫn máu.Bệnh tích cơ bản là ở
ruột, các cơ quan khác không có thấy bệnh tích rõ.Mức độ biến đổi ở ruột phụ thuộc
vào loài Cầu trùng và lượng Cầu trùng xâm nhập.
Màng niêm mạc đường tiêu hóa xanh tím, phủ chất nhầy màu vàng xám.Diều
và dạ dày tuyến trống rỗng, màng niêm mạc phủ niêm dịch.Trong dạ dày cơ có một
ít thức ăn, tá tràng viêm chứa đầy chất niêm dịch hơi vàng.
Vách ruột dày lên rõ, màng niêm mạc trương lên, lớp nhung mao nằm bẹp,
một số nơi thấy rõ những điểm xuất huyết.
- Chẩn đoán: Chẩn đoán bệnh Cầu trùng cần kết hợp nhiều phương diện mới
có kết luận chính xac được và ta cần quan tâm đến các yếu tố là dịch tế, triệu chứng
lâm sàng, mổ khám bệnh tích và xét nghiệm phân, đệm lót.
Mổ khám bệnh tích: gà đã chết ta tiến hành mổ khám, tùy vào chủng căn
nguyên, vị trí ký sinh của chúng mà khi mổ khám ta thấy rõ những biến đỏi ở thành
9
ruột, những vùng đường ruột khác nhau, niêm mạc ruột,…như mô tả ở phần bệnh tích.
- Phòng và trị bệnh cầu trùng: Theo Lê Văn Năm (2003): Nguyên tắc điều trị
bệnh Cầu trùng phải đảm bảo:Thời gian điều trị bệnh Cầu trùng phải kéo dài ít nhất
3-4 ngày cho dù thực tế khi mới dùng thuốc đặc hiệu 1-2 ngày đã thấy nhiều đàn gia
súc-giacầm khỏi bệnh về mặt lâm sàng.
Liều dùng thuốc phải đủ để tiêu diệt căn nguyên theo chỉ dẫn sử dụngcủa mỗi
loại thuốc riêng biệt mà các nhà sản xuất đã khuyến cáo.
Do chu trình phát triển sinh học của Cầu trùng cần 3-5 ngày, sau khiđiều trị
khỏi bệnh 3-5 ngày, phải duy trì liều phòng liên tục 3 ngày để kìmhãm sự phát triển
của chúng sau đó nghỉ 3-5 ngày và lặp lại cho đến khi giasúc - gia cầm đạt đến độ
tuổi miễn dịch tự nhiên, đối với gia cầm duy trì liềuphòng đến 90 ngày tuổi.
* Biện pháp ngăn ngừa, quản lý bệnh Cầu trùng ở gà
Để có thể xảy ra được bệnh cần có 3 yếu tố là vật chủ, môi trường và mầm
bệnh.Thiếu 1 trong 3 yếu tố bệnh sẽ không xảy ra.Vì vậy để ngăn ngừa bệnh Cầu
trùng ta cần triệt một trong 3 yếu tố.
Ta nên thực hiện theo các nguyên tắc sau:
+ Trước khi đưa gà vào nuôi phải vệ sinh chuồng trại bằng cách quét dọn và
cọ rửa. Sau đó tiến hành tiêu độc, khử trùng bằng các hóa chất: Formon 1,5%,
NaOH 2%... Sau đó 2 ngày quét vôi đặc.Các dụng cụ liên quan sau khi rửa sạch
được ngâm trong Crezin 5% 2 giờ - 5 giờ và phơi thật khô.
+ Chất độn chuồng phải được phơi khô, phun formon 1,5% mới đưa gà
vào chuồng.
+ Dứt khoát không nuôi chung gia cầm với nhiều lứa tuổi khác nhau trong
cùng 1 khu vực.
+ Chất đệm lót sau mỗi lứa phải được thu gom, ủ kỹ đúng nơi qui định, phải
thường xuyên diệt vật môi giới truyền bệnh: côn trùng, chuột, động vật hoang dã….
+ Để tăng cường khả năng kháng bệnh cho gà bằng cách chăm sóc, nuôi
dưỡng tốt đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật chăn nuôi và quy trình phòng bệnh thú ý
đối với mỗi bệnh.
10
2.1.2.2 Bệnh đậu gà
Bệnh đậu gà hay còn gọi là bệnh trái gà, thường phát vào mùa khô, từ tháng
11 - 5 âm lịch. Bệnh phát nhanh, lây lan rộng, làm gà ăn uống kém hoặc không ăn,
kiệt sức dần và là nguyên nhân kế phát các bệnh khác như E.coli, bạch lỵ... làm gà
bị chết. Để giúp bà con chăn nuôi phòng chống tốt bệnh đậu gà, xin nêu lên một số
vấn đề sau:
- Tác nhân gây bệnh: Bệnh do một loại virus thuộc nhóm pox viruses gây
nên. Virus này có khả năng tồn tài dài trong điều kiện thời tiết môi trường khác
nhau, chịu được khô hanh, ẩm ướt và ánh sáng cả trong mùa rét. Ruồi, muỗi và các
côn trùng khác là những vật trung gian truyền bệnh. Virus có thể sống 56 ngày
trong cơ thể muỗi và được truyền cho gà qua vết muỗi cắn. Bên cạnh đó, khi gà
khoẻ có vết xước ở da tiếp xúc với gà bệnh có nguy cơ mắc cao. Virus diệt dễ dàng
khi phun hơi nóng ẩm; formol 3% ở 20 °C và dung dịch Iodin 1% làm chết virus,
phenol 5% chỉ 30 phút để làm chết virus. Bệnh đậu gà ủ bệnh từ 4 - 10 ngày.
- Đường truyền lây:
Sự lây truyền do vật mang mầm bệnh truyền cho gà khỏe, lây trực tiếp qua
vết thương hoặc gián tiếp qua ruồi, muỗi.
- Triệu chứng lâm sàng: Mụn đậu thường xuất hiện bên trong hoặc bên
ngoài khóe miệng, trên mào, mũi, mí mắt, da cánh, da mặt, lưỡi, yết hầu nổi lên
những hạt như hạt đậu làm gà mù mắt không ăn, uống được, kiệt sức dần rồi chết.
Virus thường tấn công vào các niêm mạc, lúc đầu là những nốt sần nhỏ, có màu nâu
xám hay xám đỏ, sau đó to dần như hạt đậu, da sần sùi. Nốt đậu từ từ chuyển sang
màu vàng, mềm, vỡ ra có chất mủ giống như kem. Mụn đậu khô đóng vảy màu nâu
sẫm, dần dần tróc đi để lại vết sẹo. Gà có thể bị sốt cao, bỏ ăn, tiêu chảy, thể trọng
giảm nghiêm trọng. ở gà con mắc bệnh nặng hơn gà lớn.
Bệnh đậu gà có ba dạng:
Dạng khô: đậu mọc ở da, tại những chỗ không có lông, bao gồm cả ở hậu
môn, da trong cánh, mào, mép, quanh mắt, chân,... Mụn lúc đầu sưng tây màu hồng
nhạt hoặc trắng, sau chuyển tím sẫm dần, mụn khô đóng thành vẩy dễ bong. Khi gà
11
mắc bệnh vẫn có thể ăn uống nhưng kém hơn bình thường, gà hay lắc đầu, vẩy mỏ
do các mụn vẩy, khi chữa khỏi gà phát triển bình thường, có thể chết nhưng rất ít.
Dạng ướt (difteria): đậu mọc ở niêm mạc, bắt đầu viêm ca ta ở miệng, họng,
thanh quản, gà ho, vẩy mỏ. Vết viêm loang dần thành các nốt phồng, niêm mạc màu
hồng chuyển sang đỏ sẫm, dày dần lên và sau cùng tạo thành các lớp màng giả dính
chặt vào niêm mạc, gà ăn uổng và thở rất khó khăn. Bên ngoài, gà có biểu hiện sưng
mặt, sưng tích, phù thũng, mắt gà viêm có ghèn, nhớt, dần dần mắt bị lồi do tích tụ
các chất đó trong hốc mắt. Mũi gà bị viêm, chảy nước mũi rồi đặc quánh lại, mặt gà
sưng to. Gà mắc bệnh không ăn uống được, gầy và bị chết tỷ lệ cao. Một số trường
hợp gà bị đậu cả hai dạng kết hợp (dạng khô và dạng ướt)
Phòng trị: Bệnh do virus gây ra nên rất khó điều trị, việc chủ động phòng
ngừa là biện pháp tốt nhất. Nên vệ sinh sạch sẽ nơi gà ngủ, cho uống nước sạch, bổ
sung rau xanh, khoáng, vitamin vào thức ăn hoặc nước uống.
Để phòng bệnh đậu gà: Chủng vắcxin đậu cho gà vào lúc 7 -10 ngày tuổi:
Một lọ thuốc ngừa 100 liều pha với 1 cc nước cất, dùng kim chủng đậu hoặc kim
may máy chấm thuốc rồi đâm nhẹ vào dưới cánh gà cho thủng da (2 - 3 mũi, tránh
mạch máu). Sau 3 - 5 ngày kiểm tra nếu thấy nơi chủng xuất hiện những nốt trắng
đục (cương mủ) là gà đã có miễn dịch với bệnh, nếu không có phải chủng lại ở cánh
bên kia. Riêng đối với gà đẻ nên chủng lại vào lúc 4 - 5 tháng tuổi.
Trị bệnh: Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chỉ điều trị triệu chứng
hoặc sử dụng kháng sinh để ngừa bội nhiễm. Đối với mụn đậu ngoài da, có thể bóc
vảy, làm sạch các mụn đậu rồi bôi các chất sát trùng nhẹ như: Glycerin 10%,
CuSO4 5% hoặc thuốc mỡ kháng sinh (Tetracyclin) lên mụn đậu. Nếu gà bị đau mắt
có thể dùng thuốc nhỏ vào mắt. Bổ sung them vitamin để tang sức đề kháng cho gà.
2.1.2.3. Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà
Lịch sử bệnh: Bệnh đầu đen được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1893 ở
Rhode Island (Cushman, 1894) [13]. Tuy nhiên, các báo cáo của Trạm thực nghiệm
nông nghiệp tại địa phương về tình hình dịch bệnh từ năm 1891 đã đề cập về một "
bệnh khó hiểu" xuất hiện trên đàn gà tây, với triệu chứng chung là da vùng đầu bị
12
biến đổi màu, gà mắc bệnh tỷ lệ chết cao, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi gà
tây. Những người nông dân địa phương căn cứ vào triệu chứng đặc biệt đã quan sát
được ở vùng đầu của gà tây mắc bệnh: mào thâm tím, da mép và da vùng đầu xanh
xám, thậm chí xanh đen nên gọi tên bệnh là bệnh “đầu đen”
Theo Smith (1895), khi gà tây mắc bệnh thì gan và manh tràng là 2 cơ quan
bị tổn thương nặng nề nhất. Ông đã lấy bệnh phẩm là 2 cơ quan này để nghiên cứu
và xác định được nguyên nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào (Amoeba
meleagridis). Từ đó bệnh đã được đặt tên là bệnh truyền nhiễm Enterohepatitis.
Nghiên cứu kỹ hơn, Tyzzer E. E. (1934), đã xác định được nguyên nhân gây bệnh
và gọi tên sinh vật đơn bào gây bệnh đó là H. meleagridis. Từ đó, bệnh cũng được
gọi bằng tên khoa học là Histomoniasis. Tuy nhiên, vì lý do tiêu chuẩn hóa đã được
đề xuất từ (năm 1990) về việc sử dụng hậu tố osis cho các bệnh ký sinh trùng
(2006), do đó bệnh có tên khoa học là “Histomonosis”.
Sau sự bùng nổ đầu tiên ở Rhode Island, Histomonosis đã nhanh chóng lây
lan trên đàn gà tây khắp nước Mỹ và gây thiệt hại nhiều nhất trong số các bệnh gặp
trên gà tây.
Hiện nay ở Việt Nam, bệnh được phát hiện vào tháng 3 năm 2010 (Lê Văn
Năm, 2012). Bệnh gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi, làm ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống xã hội của một bộ phận không nhỏ người dân ở nước ta. Tác giả
cũng cho rằng, các trang trại chăn nuôi gà thịt đang bị ô nhiễm nặng giun kim mà
loài giun này được biết đến như 1 vectơ sinh học truyền bệnh đơn bào H.
meleagridis cho gà và gà tây.
- Dịch tễ học bệnh đầu đen ở gà
Động vật mắc bệnh: Lund và Chute (1973) đã thử nghiệm và gây bệnh cho
8 loài chim thuộc vè loài gà và thấy rằng gà lôi trắng Trung Quốc là vật chủ tốt nhất
cho giun tròn, tiếp theo là gà và gà sao.
Theo Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) hầu hết các loại gà đều mẫn cảm, đặc
biệt là gà tây và gà giò. Ít thấy bệnh ở gà lớn trên 5 - 6 tháng tuổi.
Lê Văn Năm (2012) cho biết: gà tây, gà nuôi (gà ta, gà công nghiệp) và một
13
số hoang cầm cùng nòi đều mắc bệnh. Bệnh bùng phát chủ yếu ở gà nuôi tập trung
(gà thả vườn). Một yếu tố quan trọng để H.meleagridis tồn tại và phát tán mạnh ra
môi trường thiên nhiên là do chúng thường ký sinh trong trứng của giun kim H.
gallinarum, mà khi nuôi gà thương phẩm hoặc làm giống thì hầu như 100% gà bị
nhiễm loại giun này. Bởi thế mà gà ta và gà tây bị nhiễm H. meleagridis chủ yếu
qua đường ăn uống trong đó có trứng giun kim H. gallinarum.
Tuổi mắc bệnh: Hauck và cs. (2010) cho biết: giai đoạn 1 - 2 tháng tuổi tỷ
lệ mắc Histomonosis cao nhất, triệu chứng bệnh điển hình nhất.
Lê Văn Năm (2012) bệnh thường thấy ở gà tây từ sau 2 tuần đến 3 - 4 tháng
tuổi, nhưng ở Việt Nam gà sau 5 tháng vẫn mắc bệnh; ông cho biết thì tuổi gà càng
cao bệnh càng nặng (2 - 5 tháng tuổi).
Mùa vụ: Gà mắc bệnh ở tất cả các tháng trong năm, nhưng nhiều nhất từ
tháng 4 đến tháng 9 hàng năm.
Ở Việt Nam, Lê Văn Năm và cs (2010) [10] cũng đã báo cáo rằng, bệnh
bệnh bùng phát mạnh vào các tháng nóng ẩm: cuối xuân, hè và hè thu. Đối với
những gà lớn tuổi (gà già và gà đẻ) thường xảy ra vào cuối thu và mùa đông.
Điều kiện vệ sinh thú y: Điều kiện vệ sinh thú y đối với chuồng trại và khu
vực xung quanh chuồng trại, dụng cụ và môi trường chăn nuôi là một trong những
yếu tố có ảnh hưởng lớn tới khả năng nhiễm Histomonas meleagridis của gà. Điều
này có liên quan mật thiết với sự tồn tại và phát triển của giun kim - môi giới trung
gian truyền bệnh.
- Triệu chứng và bệnh tích bệnh đầu đen:
Triệu chứng: Theo Lê Văn Năm (2012), đây là bệnh đặc thù của gà và gà
tây nuôi theo phương thức tập trung thả vườn. Bệnh xuất hiện và mức độ bệnh phụ
thuộc vào tuổi gà và điều kiện vệ sinh môi trường. Thời gian ủ bệnh dài từ 7 - 28
ngày. Bệnh có 2 thể biểu hiện cấp tính và mãn tính.
• Thể quá cấp và cấp tính
- Bệnh xảy ra đột ngột: gà bỏ ăn, ủ rũ, xù lông, sốt rất cao, rúc đầu vào nách
cánh đứng run hoặc tìm chỗ có ánh sáng, có nhiệt để sưởi (mặc dù trời rất nóng).
14
- Tiêu chảy lúc đầu loãng vàng nhiều bọt, sau đó chuyển sang lẫn máu rất
giống bệnh cầu trùng, vài ba ngày sau (sau khi người chăn nuôi dùng thuốc cầu
trùng điều trị) thì phân chuyển sang thành thỏi nâu đỏ nhạt như gạch non, cuối
cùng gà ỉa ra phân loãng đặc có màu trắng lờ lờ như nước vo gạo đặc hay như
nước cháo loãng.
- Da mép, da vùng đầu rồi cả mào, tích có màu xám nhạt dần dần chuyển
sang xám xanh (nhìn rõ nhất ở gà tây), hoặc xám xanh thẫm, có lẽ từ đây bệnh có
tên gọi là bệnh đầu đen (Black Head). Gà bỏ ăn nên rất gầy, do rét nên thường thấy
chúng run hoặc co giật, lúc này thân nhiệt xuống dưới mức bình thường và gà sẽ
chết sau 1 - 2 ngày. Lúc đầu chúng chết rải rác về đêm, sau tăng dần số và chết cả
ban ngày. Nếu không được điều trị gà sẽ chết lên đến 80 - 95% tổng đàn (nếu không
điều trị kịp thời).
Thể mãn tính: Đây là thể bệnh thường xảy ra ở gà lớn tuổi (trên 5 tháng)
với những biểu hiện như trên, nhưng với cường độ bệnh nhẹ hơn, thể mãn tính
thường thấy ở gà ta, gà tây lớn tuổi với các triệu chứng đặc trưng như đã mô tả ở
phần thể cấp tính, nhưng cường độ biểu hiện yếu vì thế chúng ta có thể quan sát
thấy thể trạng đàn gà lúc tốt, lúc xấu. Bệnh kéo dài 2 - 3 tuần và kết thúc gà bị
chết vì suy nhược, tự nhiễm độc hoặc chết do bệnh kế phát, tuy nhiên tỷ lệ chết
không cao, dao động 10 - 20 %. Theo Roberto (2011), các dấu hiệu lâm sàng đầu
tiên được nhìn thấy trong một đàn gà bị nhiễm có thể chỉ là sự gia tăng đột ngột tỷ
lệ chết trong đàn. Tuy nhiên, biểu hiện nhiễm trùng đầu tiên của Histomonas
meleagridis làm gà hôn mê, ủ rũ, rúc đầu vào cánh, đây là một dấu hiện lâm sàng
không rõ ràng. Việc tiêu thụ thức ăn có thể bị giảm dẫn đến gà bị giảm cân. Một dấu
hiệu rất đặc biệt trong đàn gà còn sống là sự xuất hiện của phân màu vàng lưu
huỳnh, đây là kết quả gây ra bởi tổn thương trên gan. Bất kỳ dấu hiệu nào như vậy
trên gà còn sống cần báo ngay với bác sĩ thú y để xử lý hoặc lấy mẫu gia cầm gửi
các phòng thí nghiệm thú y để chẩn đoán.
15
• Bệnh tích: Bệnh tích chủ yếu tập trung trên manh tràng và trên gan.
- Biến đổi ở ruột thừa (manh tràng):
Lê Văn Năm (2012), một trong hai ruột thừa hoặc cả hai đều phình rất to, dài
hơn bình thường, màu sắc và độ đàn hồi thay đổi. Bề mặt bên trong lòng ruột sần
sùi chứa chất lẫn nhiều máu loãng nhớt như máu cá rất giống cầu trùng, sau đó
chuyển sang vàng xám thành ruột thừa bị viêm, hoại tử, xuất huyết và tăng sinh nên
rất dày làm cho ruột thừa ngày càng rắn chắc, các chất chứa bị canxi hóa đóng
quánh có màu trắng tạo thành 1 lõi các nếp 13 ngang rất giống kén tằm. Vì thế,
người chăn nuôi gọi là Bệnh kén ruột. Do niêm mạc ruột thừa bị viêm loét nặng,
thậm chí bị thủng nên các chất viêm tràn vào lòng bụng gây viêm dính phúc mạc.
Một trong hai bên hoặc cả hai ruột thừa dính chặt vào các cơ quan nội tạng, thành
ruột thừa mỗi ngày một dày lên làm cho lỗ ruột rất bé và ruột thừa trở thành một
thỏi rắn chắc.
Nguyễn Xuân Bình và cs (2002) cho biết, ở manh tràng có vết loét nhỏ hoặc lớn.
Vết loét có thể vỡ ra tràn phân và dịch viêm vào xoang bụng gây viêm dính xoang bụng
với ruột. Trong thành ruột khi cắt ngang có những đám bã đậu trắng.
Theo Roberto (2011), các tổn thương quan sát được sau khi mổ khám thường
là manh tràng dày lên, chứa dịch rỉ viêm màu vàng hoặc ổ hoại tử.
- Biến đổi ở gan: Gan sưng to gấp 2 - 3 lần, mềm nhũn và nhìn thấy hai quá
trình biến đổi đặc trưng: lúc đầu gan bị viêm, xuất huyết làm cho bề mặt gan lỗ chỗ
có hình hoa cúc, sau đó các điểm xuất huyết này tạo ra các ổ viêm loét hoại tử thành
các ổ bã đậu màu trắng to từ hạt kê đến hạt ngô to, thậm chí đường kính to 1 - 2 cm,
giống ổ lao hoặc khối u của bệnh Marek (Lê Văn Năm, 2012).
Theo Roberto (2011), gan sưng to, xuất hiện các tổn thương trên gan như:
gan viêm xuất huyết hoặc bị hoại tử do có chứa các tế bào chết. Các tổn thương này
cần được chẩn đoán phân biệt với các tổn thương ở bệnh cầu trùng và Salmonella
gây ra trên gà. Để tăng độ chính xác của chẩn đoán cần mổ khám kiểm tra những gà
mới chết và gà còn sống.
16
- Cơ chế sinh bệnh: Việc truyền đơn bào H. meleagridis tới gà, gà tây có thể
xảy ra riêng lẻ hoặc đồng thời các đường lây nhiễm sau:
Đầu tiên, gà, gà tây có thể ăn phân tươi có chứa Histomonas hoặc lỗ huyệt
tiếp xúc với phân tươi chứa Histomonas. Con đường này có lẽ không quan trọng
ngoại trừ trường hợp gà khỏe mạnh và gà mắc bệnh được nuôi trong cùng một đàn.
Thứ hai, gà có thể ăn trứng H. gallinarum có phôi và có chứa Histomonas.
Vào trong đường tiêu hóa của gà, các đơn bào Histomonas và ấu trứng giun kim sẽ
giải phóng khỏi vỏ trứng.
- Chẩn đoán bệnh
• Với gà còn sống: Chẩn đoán lâm sàng: Hiện nay, ở các cơ sở chăn nuôi,
việc chẩn đoán đối với gà còn sống chủ yếu dựa vào các triệu chứng của bệnh (xù
lông, đứng nhắm mắt, ăn ít, lười vận động, thường đứng dấu đầu dưới cánh, da
vùng đầu sạm màu, đi ỉa phân màu vàng lưu huỳnh…). Trong đó, triệu chứng điển
hình nhất là gà đi ỉa phân màu vàng lưu huỳnh, da vùng đầu xanh xám, thậm chí
xanh đen (Mc Dougald, 2008). Chẩn đoán xét nghiệm: Lấy phân màu lưu huỳnh
của gà ốm, làm xét nghiệm, nếu quan sát dưới kính hiển vi tìm thấy trứng của giun
kim sẽ giúp cho việc chẩn đoán dễ dàng hơn.
• Với gà đã chết: Phương pháp chẩn đoán sau khi gia cầm chết là phương
pháp chính xác nhất. Việc chẩn đoán được tiến hành qua phương pháp mổ khám,
kiểm tra bệnh tích kết hợp với việc lấy các cơ quan nội tạng như gan, manh tràng để
tìm đơn bào H. meleagridis ký sinh. Tiến hành mổ khám gà chết do Histomonosis,
quan sát thấy ở gan và manh tràng bị tổn thương nặng, bệnh tích điển hình của bệnh
là: gan to gấp 2 - 3 lần, bề mặt gan có những ổ hoại tử lỗ chỗ như đá vân cương,
hoặc ổ hoại tử hình hoa cúc màu trắng hoặc vàng nhạt.
Kiểm tra mô bệnh học giúp cho việc chẩn đoán chính xác hơn. Đặc biệt là
phần mô của gan và manh tràng. Phương pháp nhuộm tiêu bản mô bệnh phẩm
thường được áp dụng là nhuộm Hematoxilin-eosin và nhuộm PAS (Mc Dougald,
2008). Đơn bào từ nguyên liệu tươi (manh tràng gà bệnh) có thể được nuôi và nhân
lên trong môi trường Dwyer cổ điển (van der Heijden, 2009), giúp cho việc quan sát
H. meleagridis dễ dàng hơn dưới kính hiển vi.
17
Armstrong P. L. Mc Dougald L. R. (2011) và một số tác giả khác đã mô tả
bệnh tích của gà bị bệnh đầu đen: Khi mổ khám gà mắc bệnh quan sát thấy manh
tràng bị viêm sưng, thành manh tràng dày lên gấp nhiều lần. Bên trong chứa dịch
tiết có hồng cầu, bạch cầu, ký sinh trùng, các mảnh vỡ tế bào và chất dịch từ thức ăn
tích lại tạo thành kén rắn chắc, màu trắng giống như pho mát. Đôi khi còn thấy
manh tràng bị viêm loét, thủng, rò rỉ chất chứa gây viêm phúc mạc. Gan của gia
cầm bị mắc bệnh sưng to gấp 2 - 3 lần, phù nề, viêm xuất huyết, thoái hóa, và hoại
tử tế bào. Lúc đầu trên bề mặt gan có các đốm đỏ thẫm làm cho gan lỗ chỗ như đá
hoa cương, sau đó biến thành ổ hoại tử màu trắng hình hoa cúc như ổ lao hoặc như
khối u của bệnh marek, có đường kính lên đến 1 cm. Trường hợp nặng, tổn thương
xuất hiện trên toàn bộ bề mặt gan. Ngoài ra, các tổn thương còn xuất hiện ở các cơ
quan khác như túi Fabricius, phổi, lá lách, tuyến tụy, thận, dạ dày tuyến và màng
treo ruột… Khi gia cầm bị bệnh, một số trường hợp thận bị viêm sưng, hoại tử, biểu
mô ống thận viêm hoại tử; lá lách sưng to do xuất hiện quá trình thực bào mạnh mẽ,
các đại thực bào và các tế bào huyết tương tăng sinh trong lá lách, phổi xuất huyết,
tụ máu đỏ thẫm... Chẩn đoán bằng phản ứng PCR (phản ứng chuỗi polymerase) cho
kết quả nhanh chóng và chính xác. Với phản ứng PCR, người ta có thể chứng minh
ADN của H. meleagridis trong phân hoặc ruột. PCR cũng giúp tìm ra ADN của ký
sinh trùng H. meleagridis trong các cơ quan khác như trong não, hoặc tuyến ức…
nơi mà các phương pháp thông thường không thể chẩn đoán được sự có mặt ký sinh
trùng này.
- Phòng và trị bệnh: Phòng bệnh: Để phòng Histomonosis, trước hết không
được nuôi chung gà tây với gà ta.
- Phải chú ý đến mật độ và các thông số nhiệt độ, độ ẩm, khí độc chuồng.
- Không nuôi nhiều lứa gà trong cùng một cơ sở chăn nuôi.
- Hằng ngày phải quan sát vùng da đầu mép, mào và tích… để kịp thời phát
hiện và điều trị ngay khi chưa phát thành dịch.
- Thường xuyên quét dọn, vệ sinh khu vực chăn nuôi.
- Chia khu vực chăn nuôi thành nhiều ô, thực hiện nuôi luân phiên gà trên
18
các ô, tiến hành làm sạch, khử trùng tiêu độc ô chuồng vừa nuôi, để trống chuồng
một thời gian dài giúp phòng Histomonosis có hiệu quả.
- Thức ăn và nước uống phải được vệ sinh sạch sẽ, thiết kế vị trí để sao cho
không lây nhiễm phân vào thức ăn, nước uống của gà.
- Từ 20 ngày tuổi trở lên hàng tuần trong nước uống cần bổ sung CuSO4
hoặc mỗi tuần 1 lần cho uống KMnO4 pha với tỷ lệ (một phần vạn) tức một gam
thuốc tím pha với 10 lít nước cho uống trong vòng 1 - 2 h/ ngày/ đợt.
- Không thả gà ra vườn vào những ngày mưa gió.
- H. meleagridis có thể tồn tại 2 - 3 năm trong trứng của giun kim, gà ăn phải
trứng giun kim có chứa H. meleagridis sẽ bị bệnh, do đó cần hạn chế cho gà tiếp
xúc với đất, nên nuôi gà trên nền bê tông.
- Hàng tuần cần phun thuốc khử trùng chuồng trại, cuốc xới vườn rồi rắc vôi
bột để diệt trứng giun kim ( 2008 [5]).
• Trị bệnh: Ở Hoa Kỳ, Dimetridazole và Ipronidazole là 2 loại thuốc điều trị
Histomonosis hiệu quả. Cả hai đều là thuốc thuộc nhóm Nitroimidazoles. Tuy
nhiên, những năm 1990 các nhà quản lý thực phẩm và thuốc ở Hoa Kỳ đã có quyết
định cấm sử dụng 2 sản phẩm này vì thuốc tồn dư lâu trong sản phẩm và có thể gây
ung thư. Nitarsone, một hợp chất chứa asen, có hiệu quả trong ngăn ngừa bệnh đầu
đen khi sử dụng liên tục trong thức ăn, nhưng đây là một loại thuốc đắt tiền. Hiện
tại chưa có loại hóa dược nào điều trị đầu đen có hiệu quả cao.
2.1.3. Thành phần hóa học và cơ chế tác dụng của hai loại thuốc RTD-Coccistop
và Avicoc
Thuốc RTD-Coccistop: thành phần gồm có Sulfadimeratine, trimethoprim và
tá dược vừa đủ. Sulfadimeratine vừa là kháng sinh phổ rộng vừa là chất chống Cầu
trùng hữu hiệu. Tác động kháng Cầu trùng của Sulfadimeratine được tăng lên nhiều
lần khi kết hợp với trimethoprim.Vì vậy với liều nhỏ Sulfadineratine, thuốc gia tăng
độ an toàn mà vẫn đạt được hiệu quả tối ưu trong việc phòng trị tất cả các loại Cầu
trùng đường ruột trên gia súc, gia cầm. Ngoài ra, sự kết hợp Sulfadimeratine-
trimethoprim cũng giúp làm giảm nguy cơ kháng thuốc. Do đó Avicoc thực sự là
19
thuốc trị bệnh Cầu trùng cho hiệu quả tối ưu với độ an toàn cao.
Thuốc Avicoc: Đây là chế phẩm của hãng Avitec (Pháp), thành phần gồm có
Sulfadimeratine, Divaeridine và tá dược vừa đủ. Sulfadimeratine vừa là kháng sinh
phổ rộng vừa là chất chống Cầu trùng hữu hiệu. Tác động kháng Cầu trùng của
Sulfadimeratine được tăng lên nhiều lần khi kết hợp với Divaeridine. Vì vậy với
liều nhỏ Sulfadineratine, thuốc gia tăng độ an toàn mà vẫn đạt được hiệu quả tối ưu
trong việc phòng trị tất cả các loại Cầu trùng đường ruột trên gia súc, gia cầm.
Ngoài ra, sự kết hợp Sulfadimeratine-Divaerdine cũng giúp làm giảm nguy cơ
kháng thuốc. Do đó Avicoc thực sự là thuốc trị bệnh Cầu trùng cho hiệu quả tối ưu
với độ an toàn cao và nguy cơ kháng thuốc thấp.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Tyzzer E. E. (1934) lần đầu tiên mô tả về hiện tượng bệnh ở gà tây do một
loại đơn bào gây ra với những biểu hiện bất thường ở da vùng đầu có màu xanh tím,
sau đó nhanh chóng trở nên thâm đen và tác giả đã đặt tên là bệnh đầu đen (Black
Head). Sau đó, bệnh được các tác giả khác quan sát thấy ở Bắc Mỹ, Tây Âu và hàng
loạt nước khác ở Nam Mỹ, Nhật Bản…
Lee (1989) đang nghiên cứu những loại vắc-xin cầu trùng mới với các loài
Eimeria tại chỗ có hiệu quả hơn.
Archie Hunter (2000) cho biết: Để phòng chống bệnh cầu trùng cho gà tốt,
nhất là gà con không tiếp xúc với số lượng noãn nang lớn trong môi trường. Điều
này có thể thực hiện được nhờ vệ sinh tốt, ngăn ngừa sự tích tụ phân trong chuồng,
giữ cho môi trường luôn luôn khô.
Theo JingHuimHu (2002), Histomonosis thường được gọi là bệnhđầu đen hay
viêm ruột truyền nhiễm, là một bệnh truyền nhiễm gây hại trêngia cầm được gây ra
bởi một lại đơn bào. Histomonosis có thể gây tỷ lệ chếtlên tới 90-100% ở gà tây
nhưng tương đối nhẹ ở gà. Hầu hết các nghiên cứuvề bệnh đều được tiến hành từ
trước năm 1980, trong 20 năm qua đã có thêmmột số công trình nghiên cứu về bệnh.
Theo Robert (2011), bệnh đầu đen là tên gọi cho một bệnh đượcgây ra do
20
một loại đơn bào có tên là Histomonas meleagridis. Tên gọi bệnh đầu đen là do sau
khi mắc bệnh da ở vùng xung quanh đầu có màu xanh tímsau chuyển sang thâm
đen, đây là một dấu hiệu lâm sàng ít thấy ở các bệnhkhác. Ký sinh trùng có thể gây
bệnh cho các loại gà, chim bên cạnh gà tây.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Dương Công Thuận (1995) đối với gà nội nuôi chăn thả tự do, bệnh cầu
trùng ít gây tác hại hơn. Nguyên nhân gà được chăn thả ở bãi rộng, có ánh nắng trực
tiếp nên nang trứng cầu trùng bị tiêu diệt một phần. Mặt khác gà được phân tán, vận
động nhiều, sức đề kháng được tăng lên. Hơn nữa, gà từ nhỏ đã được tiếp xúc với
một số lượng ít cầu trùng nên đã có sức miễn dịch nhất định. Tuy vậy, khi bị nhiễm
liều cao gà vẫn có thể mắc. Đối với gà giống công nghiệp nuôi nhốt lồng hoặc
chuồng, bệnh có khả năng xảy ra nặng hơn. Bản thân giống gà kém sức đề kháng
với bệnh, lại nuôi nhốt nên bệnh dễ có điều kiện lây. Gà đã bị bệnh dù có chữa khỏi
cũng ảnh hưởng nhiều đến sức lớn, do đó tốt nhất phải phòng bệnh là chính.
Theo Lê Văn Năm và Nguyễn Thị Hương (1996) cho biết cách sử dụng
thuốc đạt hiệu quả, quy trình phòng - trị khi sử dụng thuốc như sau: Giai đoạn 1 - 4
tuần tuổi nên dùng những thuốc có khả năng tiêu diệt cầu trùng khi chúng đang nằm
trong giai đoạn phát triển thể phân lập. Đó là các loại thuốc cocci - stop - ESB3;
monenzin, cocci - stop - 2000; coccibio; biasul; coccitrim... Giai đoạn từ 28 - 60
ngày tuổi là giai đoạn gà có nhiều thay đổi về sinh lý và cũng là giai đoạn cầu trùng
dễ xẩy ra nhất ta nên dùng các loại thuốc như: sulfatyl, anticoccid, A.S.F20, coyden
25, furaporol, coxymac,... Giai đoạn sau 60 ngày tuổi có thể dùng , furazolidon,
sulfatyl,...
Nguyễn Hữu Vũ và Phạm Sỹ Lăng (1997) cho biết tỷ lệ chết do E.tenella gây
bệnh ở gà đến 12 tuần tuổi là 50 %. Gà nuôi trên nền xi măng lót trấu tỷ lệ nhiễm
cầu trùng như sau: Ở 21 ngày tuổi tỷ lệ nhiễm 14,55 %; Ở 28 ngày tuổi nhiễm cầu
trùng với tỷ lệ 59,15 %. Gà nuôi trên lồng sắt: Sau 42 ngày tuổi cho xuống nền xi
măng là 1 tuần sau ở 49 ngày tuổi nhiễm cầu trùng với tỷ lệ 30 %.
Tác giả Hoàng Thạch và cộng sự (1999) xác định rằng có 6 loại cầu trùng ký
21
sinh ở gà nuôi tại thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng phụ cận: E. bruetti, E.
acervulina, E. tenella, E. maxima, E. necatrix, E. mitis.
Theo Nguyễn Hữu Vũ và Nguyễn Đức Lưu (2000) cho biết bệnh lây truyền
chủ yếu qua phân và bệnh phân tán noãn nang ra môi trường bên ngoài và gà cảm
nhiễm ăn phải. Noãn nang của cầu trùng rất bền vững ở môi trường bên ngoài, các
chất sát trùng thông thường rất ít có tác dụng hoặc tác dụng rất hạn chế.
Theo Nguyễn Quang Tuyên và Trần Thanh Vân (2001) cho biết: Bệnh cầu
trùng là bệnh gây ra bởi kí sinh trùng giống Eimeria thuộc ngành động vật đơn bào
và rất phổ biến ở gà. Bệnh gây tác hại chủ yếu ở gà con đến 42 ngày tuổi, đặc biệt
gà nuôi tập trung, tỷ lệ chết cao, những con khỏi bệnh thường còi cọc chậm lớn, khó
hồi phục sức khỏe. Thời gian nung bệnh kéo dài 5 – 7 ngày tùy thuộc vào điều kiện
chăm sóc và sức đề kháng của gà.
Theo Lê Văn Năm (2003): Ở châu Âu và châu Mỹ bệnh thường mang tính thời
vụ rõ rệt thường xảy ra vào tháng 5 – 8 nhưng ở Việt Nam bệnh xảy ra quanh năm
mang tính dịch cao, tỷ lệ mắc bệnh lớn đặc biệt vào những tháng mưa ẩm..
Theo Lê Văn Năm (2003), nguyên tắc phòng bệnh cầu trùng bằng thuốc phải
dùng từ 7 - 60 ngày tuổi đối với gà thịt, sau đó cứ 1 tháng tiếp tục dùng thuốc 3 ngày kể
cả thời gian đẻ. Việc dùng thuốc phải đúng theo các chỉ dẫn mới đạt kết quả. Khi bệnh
nổ ra ta phải tăng gấp đôi liều điều trị. Sau khi bệnh đã khỏi phải tiếp tục duy trì liều
phòng đúng như chỉ dẫn của từng loại thuốc.
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs. (2008) H. meleagridis sống ký sinh trong
trứng loài giun kim Heterakis gallinae. Cả hai loài này đều sống ký sinh trong ruột
gà, gà tây và cả hai đều gây bệnh cho gà.
Lê Văn Năm và cs (2010) đã quan sát thấy hàng loạt đàn gà nuôi tập trung
thả vườn tại một số tỉnh Phía Bắc bị mắc bệnh. Bệnh thường thấy ở gà tây từ 2 tuần
đến 2 - 3 tháng tuổi, nhưng gà ta thì chậm hơn một chút: từ 3 tuần đến 3 - 4 tháng
tuổi, gà lớn tuổi hơn vẫn có thể mắc.
22
2.3. Một số thông tin về địa điểm nghiên cứu - Chi nhánh công ty nghiên cứu
và phát triển động thực vật bản địa
2.3.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình hoạt động của Chi nhánh công ty
nghiên cứu và phát triển động thực vật bản địa
Trại chăn nuôi động vật hoang dã của Chi nhánh nghiên cứu & Phát triển động
thực vật bản địa được xây dựng trên địa bàn xã Tức Tranh, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên. Đây là một xã trung du miền núi của tỉnh Thái Nguyên, nằm ở phía Nam
của huyện cách trung tâm thành phố 30km, với tổng diện tích là 2559,35 ha.
Tình hình chăn nuôi của xã trong mấy năm gần đây đã đạt được đạt được sự
ổn định về cả số lượng và chất lượng. Theo số liệu điều tra tổng đàn gia súc, gia
cầm 6 tháng cuối năm 2015 như sau:
Tổng đàn trâu bò có 338 con, nhìn chung đàn trâu bò được chăm sóc khá tốt.
Tuy nhiên do thời tiết lạnh kéo dài trong vụ đông cùng với sự thiếu hụt thức ăn nên
sau vụ đông đàn trâu bò gầy hơn trước đó. Mục tiêu chăn nuôi trâu bò của người
dân là sản xuất bò thịt, để cung cấp thịt cho thị trường. Vì thế các giống bò thịt có
năng suất cao hơn như lai Sind, lai Zebu… được người dân chú trọng chăn nuôi.
Tổng đàn lợn là 1.970 con, phần lớn được nuôi theo phương thức tận dụng,
chỉ có một số hộ gia đình có đầu tư vốn, kỹ thuật nuôi theo phương thức bán công
nghiệp nên hiệu quả cao hơn. Ngoài các giống lợn địa phương thì các giống lợn lai,
lợn ngoại cũng được nuôi tại đây.
Tổng đàn gia cầm nuôi là 13.220 con, chủ yếu là các giống gia cầm địa
phương, gà là đối tượng được nuôi chủ yếu ở đây, ngan và vịt được nuôi ít hơn.
2.3.2. Tình hình sản xuất của Chi nhánh NC&PT động thực vật bản địa thuộc
Công ty nghiên cứu & Phát triển động thực vật bản địa
Trại chăn nuôi động vật bán hoang dã nằm trên địa bàn xã Tức Tranh,
thuộc sự quản lý của Chi nhánh NC&PT động thực vật bản địa - công ty Cổ phần
khai khoáng miền núi. Trại được xây dựng năm 2006 trên diện tích 6 ha trong đó
bao gồm:
• Diện tích dành cho xây dựng nhà ở và nhà kho: 0,05 ha
23
• Diện tích trồng cây ăn quả: 2 ha
• Diện tích dành cho chăn nuôi lợn: 0,35 ha
• Diện tích trồng cỏ: 2,5 ha
• Diện tích dành cho chăn nuôi hươu nai: 0,1 ha
• Diện tích dành cho chăn nuôi ngựa: 1,0 ha
Các ngành sản xuất chính của trại bao gồm:
Trồng trọt một số cây ăn quả chủ yếu là bưởi và ổi, ngoài ra còn trồng thêm
lê, mận, mít: Trồng và sản xuất các loại cỏ để phục vụ chăn nuôi và cung cấp giống
ra thị trường.
Chăn nuôi một số động vật như: Hươu Sao, lợn rừng, ngựa bạch, trong đó:
• Chăn nuôi hươu: Đây là hai đối tượng được nuôi sớm ở trại, hiện trại có 10
con hươu. Đàn hươu được nuôi nhốt trong chuồng có sân vận động, mục đích sản
xuất con giống và lấy nhung.
• Hiện trại có 200 con lợn, có 2 đực giống, 20 lợn nái sinh sản, 8 lợn nái hậu
bị, còn lại là lợn con theo mẹ, lợn con cai sữa và lợn choai. Mục đích nuôi đàn lợn
chủ yếu là nghiên cứu, sản xuất con giống và bán lợn thịt ra thị trường.
• Chăn nuôi ngựa bạch: Từ tháng 4 năm 2009 trại cho nhập 24 con ngựa bạch
về nuôi với mục đích sinh sản, tạo sản phẩm ngựa bạch và cao ngựa bạch cung cấp
cho thị trường.
• Tổng đàn gà cáy củm là 500 con, được nuôi theo hình thức bán chăn thả.
Công tác thú y của trại:
Trại chú ý công tác phòng bệnh bao gồm các nội dung:
• Hạn chế không cho người ngoài vào trong khu vực chăn nuôi, công nhân
được trang bị quần áo bảo hộ lao động.
• Chuồng trại được quét dọn sạch sẽ: dọn phân ngày 1 lần, máng ăn được rửa
sau khi cho ăn, cống rãnh được khơi thông.
• Thường xuyên phun thuốc sát trùng Haniodine 10% với tần suất 1lần/tuần.
Khi xung quanh có dịch bệnh xảy ra thì phun thuốc sát trùng Haniodine 10%,
Navet-iodine hoặc Benkocid với tần suất 2 ngày/lần.
24
• Trại chăn nuôi đã thực hiện nghiêm ngặt lịch tiêm phòng cho toàn bộ đàn
lợn trong trại.
• Đối với ngựa và hươu chưa chú trọng đến công tác tiêm phòng vắc-xin do
không có vắc-xin.
Nhờ tiến hành tốt công tác phòng bệnh cho đàn lợn, cho nên trong quá trình
sản xuất đã phòng ngừa tốt, không để xảy ra những dịch bệnh trong trại. Đàn gia
súc phát triển tốt.
25
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng
Gà Cáy Củm nuôi tại trại chăn nuôi lợn của Chi nhánh NC&PT động thực
vật bản địa – Công ty CP Khai khoáng miền núi Xã Tức Tranh, huyện Phú Lương,
tỉnh Thái Nguyên.
Một số bệnh thường gặp ở gà Cáy Củm như: Bệnh Cầu trùng, Newcastle,
Đậu, …
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành
- Địa điểm nghiên cứu: Trại chăn nuôi lợn của Chi nhánh NC&PT động thực
vật bản địa – Công ty CP Khai khoáng miền núi.
Địa chỉ: Xã Tức Tranh, huyện: Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên.
Thời gian: Từ ngày 18/11/2017 đến ngày 25/05/2018
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Xác định tỷ lệ mắc một số bệnh ở gà Cáy Củm nuôi bán chăn thả như:
Bệnh cầu trùng, Newcastle, đậu, đầu đen… nuôi tại Thái Nguyên.
- Hiệu quả điều trị một số phác đồ điều trị bệnh
3.4. Phương pháp nghiên cứu và các chỉ tiêu theo dõi
3.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm
Phương pháp bố trí thí nghiệm được trình bày ở bảng 3.1
Thí nghiệm được tiến hành theo phương pháp phân lô so sánh đảm bảo độ
đồng đều các nhân tố thí nghiệm như: Tuổi, thức ăn, thời gian nuôi, quy trình chăm
sóc nuôi dưỡng, quy trình thú y...chỉ khác nhau về loại thuốc sử dụng.
26
Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm (TN)
Lô TN 1 Lô TN 2
Cáy Củm
ĐVT Con STT 1 2 Diễn giải Giống gà Số lượng gà theo dõi 100 100
1-8 1-60 ngày nuôi nhốt
Tuần 3 Phương thức nuôi 9-20
4 Thả tự do ngoài bãi và cho ăn 2 bữa/ngày 5 tháng Thời gian nuôi Ngày
5 Thuốc điều trị RTD - Coccistop Avicoc
6 Liệu trình Ngày 5 ngày 5 ngày
* Biện pháp phòng và điều trị bệnh Newcastle:
Bệnh Newcastle trên trại chủ yếu là tiêm phòng vắc-xin trước khi dịch bệnh
chưa xảy ra và một số phương pháp điều trị .
Cho 100 kg gà uống thuốc theo một trong những cách như sau:
Cách 1: T.Cúm gia súc: 20g; T.Colivit : 20 g; Super-Vitamin : 20 g
Thuốc pha vào 15-20lit nước cho gà uống ngày đêm và dùng liên tục 3-4 ngày .
Cách 2: T.Cúm gia súc: 20g; T.Avimycin : 20 g; Doxyvit Thái : 20 g
Thuốc pha vào 15-20 lit nước cho gà uống ngày đêm và dùng liên tục 4-5 ngày .
Thuốc pha vào 15-20 lit nước cho gà uống ngày đêm và dùng liên tục 4 ngày
Lưu ý:
+ Kiểm tra hạn sử dụng của vắc-xin.
+ Ngừng cấp nước uống 2-3 giờ trước khi cho uống vắc-xin.
+ Tính toán lượng nước pha vắc-xin để gà uống hết trong 1- 2 giờ
+ Nước uống pha vắc-xin không có acid, thuốc sát trùng ít nhất 24 giờ trước
khi dùng vắc-xin.
+ Sử dụng 2-3 gam sữa gầy/ lít nước để pha vắc-xin, sau đó pha vào nước uống
+ Theo dõi và quan sát khi gà uống vắc-xin:
+ Vệ sinh hệ thống máng nước uống
Số lượng gà mắc bệnh Newcastle chết khá cao hầu như là chết.
27
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng
4.1.1 Công tác chăn nuôi
Trong quá trình thực tập ở trại, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
PGS.TS Trần Văn Phùng và cô giáo TS Bùi Thị Thơm và cán bộ ở trại, các bạn sinh
viên cùng khóa thực tập và cùng với sự cố gắng của bản thân. Em đã rút ra được
những kinh nghiệm quý báu và đạt được một số kết quả như sau:
* Công tác chuẩn bị chuồng trại
• Công tác chuẩn bị chuồng gà:
- Chuồng nuôi với tường cứng, độ thông thoáng tốt. Thiết kế cửa sổ, cửa ra
vào tốt nhất về lợi dụng ánh sáng và độ thông thoáng tự nhiên. Chuồng nuôi được
che chắn vào những thời điểm có gió lùa, nhiệt độ xuống thấp, ấm áp vào mùa đông
, thoáng mát mùa hè.
- Nhiệt độ: Các lô thí nghiệm được che chắn và có hệ thống cung cấp nhiệt
vào những thời điểm nhiệt độ xuống thấp, đảm bảo nhiệt độ 1 - 10 ngày tuổi dưới
chụp sưởi là 30 - 33°C.
- Máng ăn, máng uống: Giai đoạn 1 - 10 ngày tuổi sử dụng khay ăn: khay ăn
tiêu chuẩn 40 gà/ khay, cho uống bằng máng gallon (40 gà/máng). Giai đoạn 14
ngày tuổi trở đi thay bằng máng ăn treo tròn với 2 cm/gà, cho uống bằng máng uống
với 1 cm/gà.
- Trước khi nhận gà vào nuôi, chuồng đã được để trống từ 12 - 15 ngày,
chuồng được quét dọn sạch sẽ bên trong và bên ngoài, hệ thống cống rãnh thoát
nước, nền chuồng, vách ngăn được quét vôi. Sau đó được tiến hành phun thuốc sát
trùng bằng dung dịch Han – iodine 10%.
- Tất cả các dụng cụ chăn nuôi như: Khay ăn, máng ăn, máng uống... đều
được cọ rửa sạch sẽ, ngâm thuốc sát trùng Han-iodine 10% trong vòng 20 phút và
phơi nắng trước khi vào chuồng nuôi.
28
Trước khi nhập gà về nuôi, chuồng đã được để trống từ 10 – 15 ngày và được
quét dọn sạch sẽ bên trong, bên ngoài, lối đi, hệ thống cống rãnh thoát nước, nền
chuồng, tường nhà và vách ngăn được quét vôi, sau đó tiến hành phun thuốc sát
trùng bằng dung dịch Han – iodine 10%.
Tất cả các dụng cụ như: khay ăn, máng uống, bóng điện… đều được cọ rửa
sạch sẽ và phun thuốc sát trùng, phơi nắng trước khi đưa vào chuồng nuôi. Ngoài ra,
phải quây bạt kín quanh chuồng nuôi, trải đều trấu trên mặt sàn và chuẩn bị đèn úm.
* Công tác chọn giống:
Trong chăn nuôi, khâu chọn giống có ý nghĩa rất lớn và hết sức quan
trọng quyết định đến hiệu quả chăn nuôi. Gà con được chọn phải đảm bảo các
tiêu chí sau:
+ Hoạt động khỏe mạnh, biểu hiệu bình thường.
+ Chân thẳng đứng, ngón thẳng. Hai mắt sáng, mỏ thẳng và khép kín.
+ Lông khô và bóng mượt. Màu sắc đặc trưng, bình thường của giống.
+ Khối lượng kích thước bình thường theo yêu cầu của từng giống, dòng.
+ Bụng thon gọn, mềm, rốn khô, khép kín hoàn toàn, lỗ huyệt bình thường.
* Công tác chăm sóc nuôi dưỡng:
Tùy theo từng giai đoạn phát triển của gà và khả năng sản xuất của từng
giống mà áp dụng quy trình chăm sóc, nuôi dưỡng cho phù hợp.
• Giai đoạn úm gà con (1 – 4 tuần tuổi):
Khi chuyển gà con về chúng tôi tiến hành cho gà vào quây và cho gà uống nước
ngay. Nước uống cho gà phải sạch và pha B.complex + vitamin C + đường glucoza 5%
cho gà uống hết lượt sau 2 – 3h mới cho gà ăn bằng khay.
Trong giai đoạn này nhiệt độ trong quây úm luôn đảm bảotừ 32 - 35°C sau
đó nhiệt độ giảm dần theo tuổi của gà và khi gà lớn nhiệt độ củagà là 22°C. Thường
xuyên theo dõi đàn gà để điều chỉnh nhiệt độ phù hợp.
Thường xuyên theo dõi đàn gà, điều chỉnh chụp sưởi để đảm bảo nhiệt độ
thích hợp cho gà. Trường hợp nếu gà tập trung đông, tụ dưới chụp sưởi là hiện
tượng gà thiếu nhiệt cần hạ thấp chụp sưởi, hoặc tăng bóng điện. Còn trường hợp gà
29
tản ra chụp sưởi ra xa xung quanh quây úm là hiện tượng nhiệt độ trong quây úm
quá cao, cần nâng cao chụp sưởi. Khi thấy gà con tản ra đều trong quây úm là nhiệt
độ trong quây úm thích hợp, khi quây úm gà thì máng ăn, máng uống, rèm che đều
được điều chỉnh theo tuổi gà. Ánh sáng chuồng nuôi phải đảm bảo cho gà hoạt động
bình thường.
• Giai đoạn gà dò, hậu bị (4 –20 tuần tuổi)
Giai đoạn này gà sinh trưởng với tốc độ nhanh, ăn nhiều do vậy cần phải
cung cấp cho gà đầy đủ thức ăn, nước uống, gà được ăn tự do. Thức ăn phải luôn
sạch sẽ, mới để kích thích cho gà ăn nhiều, máng phải được cọ rửa và thay nước
thường xuyên, thay nước ít nhất 2 lần/ngày. Theo dõi thường xuyên, nắm rõ tình
hình sức khỏe của đàn gà để kịp thời phát hiện và chữa trị những con ốm, bị bệnh.
4.1.2. Công tác thú y
Công tác vệ sinh phòng bệnh:
Trong quá trình chăn nuôi, chúng tôi thường xuyên quét dọn vệ sinh chuồng
trại, khai thông cống rãnh, phát quang bụi rậm, phun thuốc sát trùng, tẩy uế máng
ăn, máng uống. Trước khi vào khu vực chuồng nuôi phải thay quần áo bảo hộ lao
động, đi ủng, đen khẩu trang, đội mũ chuyên dụng…
Sát trùng chuồng trại trước khi đưa gà vào chuồng nuôi và sau khi xuất
chuồng. Khi có thời gian ngắn trống chuồng thì thực hiện công tác, vệ sinh quét
dọn, tẩy uế, sát trùng, quét vôi, rắc vôi trước khi nuôi đợt gà mới.
Sát trùng chuồng trại định kỳ 2 lần/ tuần trong suốt quá trình nuôi, và 1 lần/
tuần đối với môi trường bên ngoài chuồng nuôi bằng thuốc sát trùng vetvaco-iodine
hoặc rắc vôi bột.
Sát trùng chuồng trại khi xung quanh có dịch bệnh đe dọa, khi trong trại có
dịch bệnh và sau khi khỏi dịch bệnh.
Sát trùng chuồng trại trước và sau khi chủng ngừa vắc-xin 1 – 2 ngày.Vì
chủng ngừa vắc-xin chính là đưa mầm bệnh vào cơ thể gà, vậy nên nếu như môi
trường bên ngoài có quá nhiều mầm bệnh thì nguy cơ phát bệnh sau khi chủng ngừa
là rất cao hoặc khả năng đáp ứng miễn dịch của gà sẽ bị hạn chế. Do đó việc vệ sinh
30
và phun thuốc sát trùng vào chuồng trước và sau khi chủng ngừa vắc-xin là việc rất
cần thiết và sẽ giúp cho việc chủng ngừa đạt hiệu quả cao.
Công tác tiêm phòng cho đàn gà của trại:
Phòng vắc-xin cho đàn gia cầm để có miễn dịch chủ động đảm bảo an toàn
trước dịch bệnh, cho gà uống nước đường glucoza và B - complex để tăng cường sức
đề kháng cho gà. Vac-xin được pha để nhỏ mắt, mũi hay uống tùy thuộc vào phương
pháp sử dụng do nhà sản xuất vac-xin khuyến cáo. Chúng tôi sử dụng vắc-xin phòng
bệnh cho đàn gà theo lịch phòng bệnh như sau:
Cùng cán bộ, nhân viên trong trại thực hiện tiêm phòng cho đàn gà theo lịch
quy định. Lịch dùng vac-xin cho gà Cáy Củm:
Bảng 4.1. Mô tả quy trình sử dụng vac-xin phòng bệnh cho gà Cáy Củm
Ngày tuổi Loại vắc-xin, sản phẩm Liều lượng, cách dùng
Lasota lần 1 Nhỏ mắt 1 giọt 7 Gumboro lần 1 Nhỏ miệng 3 giọt
Lasota lần 2 Nhỏ mắt 1 giọt 21 Gumboro lần 2 Nhỏ miệng 3 giọt
45 Newcastle H1 Tiêm dưới da màng cánh
Ký sinh trùng đường máu ghép 64 – 70 Marcoc - E.coli E.coli ghép hen ghép cầu trùng
Ký sinh trùng đường máu ghép 90 – 112 Marcoc - E.coli E.coli ghép hen ghép cầu trùng
31
4.1.3. Công tác chẩn đoán và điều trị bệnh cho đàn gà
Trong quá trình thực tập tại cơ sở, gà thường mắc các bệnh sau:
+ Bệnh cầu trùng (coccidiosis):
Nguyên nhân: Bệnh cầu trùng do 9 loại coccidia gây ra. Chúng ký sinh ở tế
bào biểu mô ruột.
Triệu chứng: tùy theo từng chủng loại và vị trí gây bệnh mà có những triệu
chứng bệnh khác nhau.
Cầu trùng ruột non: bệnh thường ở thể nhẹ. Triệu chứng chủ yếu là gà ủ rũ,
lông xù, cánh rũ, chậm chạp, phân màu đen như bùn, lẫn nhầy, đôi khi lẫn máu, gà
gầy, chậm lớn, chết rải rác kéo dài, tỷ lệ chết thấp. Mổ khám thấy tá tràng sưng to,
ruột phình to từng đoạn, niêm mạc tá tràng viêm, trên bề mặt thấy các ổ tròn xám.
Điều trị: Đối với cầu trùng phân sáp dùng Vinacoc ACB 2g/1l nước pha
nước cho uống liên tục 5 - 7 ngày.
Đối với cầu trùng máu tươi: Dùng Anticoccid 1g/1lit nước cho 5 kg khối
lượng cho uống, liên tục 5 - 7 ngày.
Bổ trợ bằng Mix 200 2g/1l nước.
Phòng bệnh cầu trùng bằng vắc-xin cầu trùng Cocvac cho toàn đàn vào lúc 3
– 7 ngày tuổi.
Cho gà uống liên tục trong 3 - 5 ngày sau đó nghỉ 2 ngày cho uống tiếp 3
ngày thì gà khỏi bệnh. Sau đó sử dụng liều phòng 2 ngày dùng thuốc 3 ngày nghỉ.
Để chống chảy máu, chúng tôi dùng gluco K- C liều 25g/lít nước uống.
4.1.4. Công tác khác
Ngoài công tác chăm sóc đàn gà, em còn tham gia một số công tác khác ở
trại như:
• Tiêu độc khử trùng chuồng trại và khu vực xung quanh.
• Chọn lọc và phân loại trứng thương phẩm.
• Tham gia cải tạo khu vực đất trồng rau xanh, trồng chuối, trồng ngô…
• Chăm sóc những đàn gà không thuộc đàn gà thí nghiệm.
32
• Chăn đàn lợn thịt của trại.
4.2. Kết quả thực hiện chuyên đề nghiên cứu
4.2.1. Tình hình mắc bệnh một số bệnh gà Cáy Củm bị mắc
Bảng 4.3. Kết quả theo dõi tình hình bệnh thường gặp gà Cáy Củm
Tên bệnh Số con theo dõi Số lượng (con) Tỷ lệ mắc (%)
100 10 Tụ huyết trùng 10
100 47 Bệnh cầu trùng 47,00
100 15 Newcastle 15,00
100 5 Đầu đen 5,00
Qua bảng trên cho ta thấy tình hình mắc các bệnh qua điều tra sơ bộ là thấp.
Nhưngbệnh đáng lưu ý nhất là bệnh cầu trùng trên gà và bệnh Newcastle là cao hơn,
các bệnh còn lại chiếm tỷ lệ thấp và cũng gây cho đàn gà Cáy Củm chậm lớn, còi
cọc, cho nên gây thiệt hại về con giống cũng như là về kinh tế tại trại.
4.2.2. Tình hình mắc bệnh đàn gà Cáy Củm bị tại cơ sở
Bảng 4.4. Kết quả điều tra tỷ lệ mắc một số bệnh của đàn gà Cáy Củm tại cơ sở
Tên bệnh Số con theo dõi Số con mắc bệnh, chết (con) Tỷ lệ mắc (%)
47,00 Cầu trùng 100 47
15,00 Newcastle 100 15
5,00 Đầu đen 100 5
3,00 Đậu gà 100 3
Qua bảng 4.4 trên cho ta thấy được bện cầu trùng và Newcastle là những
bệnh gây ảnh hưởng lớn nhất trên đàn gà Cáy Củm được theo dõi theo với số lượng
là 100 con trong đó, cầu trùng đã chiếm tới 30% và Newcastle chiếm 15%; bệnh
đầu đen và Đậu gà chiếm rất ít 3-5% trên tổng số gà. Đây là một trong những các
33
bệnh chúng ta cần quan tâm tới trong quá trình chăn nuôi tiếp và cũng như sau này
và cho thấy bệnh Newcastle và bệnh cầu trùng đối với đàn gà rất rất cao khả năng
lây nhiễm và mắc bệnh là tương đối lớn, khả năng mẫn cảm cao với các bệnh trên
và nguy cơ gây bệnh là tương đối, nếu không theo dõi và duy trì phòng chống,
vệ sinh và làm các công tác thú y thì sẽ gây tới 1 hậu quả khó lường trong
chăn nuôi tại địa bàn cơ sở.
34
Bảng 4.5. Kết quả mắc bệnh theo lứa tuổi thường gặp ở gà Cáy Củm lô 1
Giai đoạn Số con Số con mắc Tỷ lệ mắc Số chết Tỷ lệ chết
tuổi (TT) theo dõi bệnh (con ) (%) (con) (%)
0 0 0 0 Dưới 1 100
0 0 0 0 > 1 – 3 100
0 0 0 0 > 3 -5 100
> 5 -8 23 24,20 4 4,21 95
> 8 -12 9 9,78 3 3,26 92
> 12 -16 0 0 0 0 92
> 16 -20 2 2,17 2 2,17 92
2 2,22 2 2,22 > 20 90
Bảng 4.6. Kết quả mắc bệnh theo lứa tuổi thường gặp ở gà Cáy Củm lô 2
Giai đoạn tuổi SL theo Số con mắc Tỷ lệ mắc Số chết Tỷ lệ chết
(TT) dõi bệnh (con) (%) (con) (%)
0 0 0 0 Dưới 1 100
0 0 0 0 > 1 – 3 100
0 0 0 0 > 3 -5 98
16 17,20 5 5,37 > 5 -8 93
5 5,55 2 2,22 > 8 -12 90
4 4,44 3 3,33 > 12 -16 90
0 0 0 0 > 16 -20 87
Qua 2 bảng số liệu 4.5 và 4.6 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở các lô gà là khác
3 3,44 2 2,29 > 20 87
nhau. Tỷ lệ mắc bệnh trong giai đoạn từ sơ sinh đến 8 tuần tuổi ở lô I là 24,2 %, lô 2
là 17,2%. 8-12 tuần tuổi ở lô1 là 9,78%, lô 2 là 5,555%. 12-16 tuần tuổi lô 1 là 0%
35
còn lô2 là 4,44%, 16-20 tuần tuổi lô1 là2,17 còn lô 2 là 0%, > 20 tuần tuổi lô 1 là
2,22 còn lô 2 là 3,44. Điều đó cho thấy tỷ lệ nhiễm bệnh ở hai lô là khác nhau.
Ở độ tuổi từ 1-5 TT là khả năng bị mắc bệnh là gần như ít xảy ra về
mắc các bệnh trên và cho thấy sức đề kháng của gà con ở độ tuổi này chưa
cảm nhiễm với mần bệnh. Còn từ độ tuổi từ 5- 16 TT là khả năng gà bị mắc
bệnh khá là cao tỉ lệ chết của gà cũng là nhiều, lứa tuổi này là cơ thể con vật
có sức phòng vệ bị mẫn cảm thấp dẫn đến mần bệnh xâm nhập vào cơ thể làm
cho chúng có nguy cơ gây bệnh cao và phát sinh lây sang con khác. Những
con bị bệnh ủ rồi lâu qua quá trình sống trong đàn và làm tỉ lệ chết của gà lên
tới 25-30 % tỷ lệ của đàn gà trong lô thí nghiệm.
Bảng 4.7. Triệu chứng lâm sàng, bệnh tích bệnh cầu trùng trên gà Cáy Củm
Kết quả theo dõi
Lô I Lô II
Số Số con Số con
STT mẫu có Tỷ lệ có Triệu chứng kiểm triệu (%) triệu Tỷ lệ
tra chứng chứng (%)
(con) (con)
Triệu chứng chủ yếu là gà ủ rũ, 9 81,80 63,60 7 1 lông xù, cánh rũ, chậm chạp
Phân màu đen như bùn, lẫn 8 72,70 81,80 9 2 nhầy, đôi khi lẫn máu
Gà gầy, chậm lớn, chết rải rác 11 11 100 11 100 3 kéo dài, tỷ lệ chết thấp
Mổ khám thấy tá tràng sưng to, 3 27,20 36,30 4 4 ruột phình to từng đoạn
Niêm mạc tá tràng viêm, trên bề 4 36,30 45,40 5 5 mặt thấy các ổ tròn xám
36
Qua bảng 4.7 trên cho ta thấy tỷ lệ mắc các triệu chứng bệnh gà gầy, chậm
lớn, chết rải rác kéo dài, tỷ lệ chết thấp là chiếm tới tỷ lệ 100% ở hầu hết 2 lô gà
trên còn cắc triệu chứng như Triệu chứng chủ yếu là gà ủ rũ, lông xù, cánh rũ, chậm
chạp ở lô 1 là 81,8 % so với lô 2 là 63,6% cao hơn . về phân màu đen như bùn, lẫn
nhầy, đôi khi lẫn máu tỷ lệ ở lô 1 là 72,7 % còn ở lô 2 là 81,8%. Mổ khám thấy tá
tràng sưng to, ruột phình to từng đoạn tỷ lệ lô 1 là 27,2% còn ở lô 2 là 36,3%, niêm
mạc tá tràng viêm, trên bề mặt thấy các ổ tròn xám lô 1 là 36,3% còn lô 2 là 45,4%.
Qua đây cho ta thấy kết quả ở 2 lô khá là khác nhau chỉ duy nhất là tỷ lệ gà
gầy, chậm lớn, chết rải rác kéo dài, tỷ lệ chết thấp đều là như nhau cho thấy bệnh
cầu trùng làm cho cơ thể con gà bị mất nước và ỉa phân dính lẫn máu làm cho con
vật gầy gòm chậm lớn và kém phát triển. Bên ngoài cho thấy cơ thể con vật triệu
chứng gà ủ rũ lông xù chậm chạp là một trong những triệu chứng điển hình của
bệnh này cho ta thấy và quan sát được nhưng cũng rất dễ có thể nhầm lẫm với 1 số
bệnh khác như Gumboro nhưng là về mặt tương quan hình thái bên ngoài. Cơ thể
khi mổ khám sung to ruột phình to do chứa hơi hoặc là thức ăn chưa tiêu do co thể
ăn phải mần bệnh và mần bệnh phát triển trong ruột. Còn 1 đặc điểm mà cho ta rõ
nhất là phân của bệnh lẫn máu do cầu trung phá hủy tế bào ở ruột gây xây sát niêm
mạc dẫn đến phân màu đen như bùn, lẫn nhầy, đôi khi lẫn máu.
37
Bảng 4.8. Triệu chứng lâm sàng, bệnh tích bệnh Newcastle ở gà Cáy Củm
Kết quả theo dõi
Lô I Lô II
Số Số con Số con
STT mẫu có Tỷ lệ có Triệu chứng kiểm triệu (%) triệu Tỷ lệ
tra chứng chứng (%)
(con) (con)
1 Khó thở, khát nước, liệt chân. 13 86,6 11 73,3
Phù mắt, mũi, đầu, chảy nước 8 53,3 10 66,6 2 mắt, nước mũi.
Tiêu chảy phân xanh, có thể vấy 8 53,3 7 46,6 3 máu.
Tích dịch viêm ở thanh quan,
khí quản 5 33,3 7 46,6 4 Xung huyết, xuất huyết khí 15 quản
Túi khí viêm dày đục, tích dịch
5 viêm và casein 11 73,3 6 40,0
Dạ dày cơ có thể xuất huyết
Thành ruột xuất huyết đỏ đậm,
kêt hợp hoại tử ở các mảng 6 10 66,6 9 60,0 lympho, ở ngã ba van hồi manh
tràng.
Qua bảng 4.8 trên cho ta thấy tỷ lện mắc bệnh Newcastle trên gà Cáy Củm là
khá cao đặc biết là Khó thở, khát nước, liệt chân.là tỷ lệ cao ở lô 1 là 86,6% lô 2 là
73,3 % là tỷ lệ cao để ta phát hiện ra được bệnh này một cách về mặt quan sát lớn
nhất. tỷ lệ phù mắt, mũi, đầu, chảy nước mắt, nước mũi lô 1 là 53,3% lô 2 là 66,6%
cao hơn sô với lô 1trong đó tỷ lệ Thành ruột xuất huyết đỏ đậm, kêt hợp hoại tử ở
38
các mảng lympho, ở ngã ba van hồi manh tràng cũng là cao khi mổ bệnh tích ta thấy
ở lô 1 là 66,6% còn lô 2 là 60% những bệnh tích này khi mổ ra sẽ thấy khá là
rõ.Còn về túi khí viêm dày đục, tích dịch viêm.Dạ dày cơ có thể xuất huyết tỷ lệ
cũng tương đối cao ở lô 1 là 73,3% còn ở lô 2 là 40,0 % cho thấy hầu hết các biểu
hiện bệnh tích của bệnh sảy ra ảnh hưởng rất lớn tới các cơ quan nội tạng bên trong
của cơ thể con vật. Tích dịch viêm ở thanh quan, khí quản xung huyết, xuất huyết
khí quản lô 1 là 33,3% là 2 là 46,6%.
Sử dụng thuốc điều trị bệnh cầu trùng cho gà:
Khi phát hiện thấy các dấu hiệu nghi mắc bệnh tụ huyết trùng trên chúng tôi
tiến hành tách gà để điều trị lô thí nghiệm 1 điều trị bằng thuốc
RTD - Coccistop, lô 2 dùng thuốc Avicoc. Đồng thời chúng tôi tiến hành khắc phục
các tác động bất lợi của ngoại cảnh, bổ sung thêm B.Complex, cho uống điện giải
để tăng sức đề kháng cho gà bệnh. Quá trình vừa điều trị vừa theo dõi các diễn
biến bệnh lý, chúng tôi mới kết thúc điều trị. Quá trình theo dõi sức khỏe đàn
gà được chúng tôi theo dõi trên toàn đàn từ đó đánh giá tỷ lệ khỏi bệnh. Kết quả
điều trị được trình bày ở bảng 4.9.
Bảng 4.9. Kết quả điều trị cầu trùng gà
Kết quả
Lô I Lô II Thời
Tuần gian Số Số Số gà Tỷ lệ Số gà Tỷ lệ Số gà Tỷ lệ Số gà tuổi điều gà Tỷ lệ gà khỏi khỏi chết chết khỏi khỏi chết trị điều chết điều (con) (%) (con) (%) (con) (%) (con) (ngày) trị (%) trị
20 86,95 13,05 16 14 87,5 12,5 3 5 2 5-8 23
88,88 11,12 8 5 5 100 1 5 0 0 8-12 9
0 0 4 2 50 0 0 5 50 2 12-16 0
2 100 0 0 0 0 0 5 0 0 16-20 2
2 100 3 2 66,6 0 0 5 33,4 1 >20 2
4 5 Tổng 36 32 88,88 11,12 28 23 82,14 17,68 25
39
Từ bảng 4.9 cho thấy: Ở lô thí nghiệm I: Chúng tôi đã sử dụng thuốc RTD -
Coccistop kết hợp với thuốc điều trị triệu chứng và trợ sức trợ lực để điều trị cho 36
gà đã chẩn đoán là mắc bệnh cầu trùng sau khi dùng thuốc chúng tôi theo dõi thấy 4
gà chết (chiếm 11,12 %), 32 gà khỏi bệnh (gà khỏe lại, ăn uống bình thường và
không thấy xuất hiện triệu chứng của bệnh). Hiệu quả điều trị đạt 88,88% cho thấy
viêc sử dụng thuốc trên có hiệu quả với đàn gà và giảm được tỉ lệ chết của dàn gà là
khá cao. Số con gà bị mắc ở độ 5-8 TT Là 20 nhưng khi được sử dụng thuốc đã giảm
được số lượng con chết đi là cao.
Ở lô thí nghiệm II: Chúng tôi đã sử dụng thuốc Avicoc kết hợp với thuốc
điều trị triệu chứng và trợ sức trợ lực để điều trị cho 28 gà đã chẩn đoán là mắc
bệnh cầu trùng, sau khi dùng thuốc chúng tôi theo dõi thấy 5 gà chết (chiếm
17,68%), 23 gà khỏi bệnh (gà khỏe lại, ăn uống bình thường và không thấy xuất
hiện triệu chứng của bệnh). Hiệu quả điều trị đạt 82,14%. cũng đáp ứng được với tỉ
lệ gần cao so với lô thí nghiệm 1 nhưng cũng cho thấy hiệu quả của việc sử dụng
phòng trị bằng thuốc Avicoc giúp cho đàn gà giảm thiểu được sự chết của từng cá
thể trong đàn.
Kết quả điều trị cho thấy: 2 phác đồ điều trị I và II đều cho kết quả điều trị
tương đối cao. Cả 2 phác đồ đều có thể sử dụng để điều trị bệnh đầu đen cho gà.
Hiệu quả điều trị đạt từ 88,88 % - 82,14%.
Theo dõi gà sau khi dùng thuốc chúng tôi thấy không gà nào có phản ứng với
thuốc. Vì vậy, phác đồ I và II đều an toàn đối với gà.
40
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1. Kết luận
1. Tỷ lệ nhiễm bệnh ở gà Cáy Củm nuôi bán chăn thả từ 1 – 20 tuần tuổi tại trại
chăn nuôi của chi nhánh nghiên cứu và phát triển động thực vật bản địa – Công ty CP
khai khoáng miền núi tỉnh Thái Nguyên thấy rằng: Chủ yếu gà mắc nhiều bệnh cầu
trùng, còn Newcastle được tiêm phòng ít bị mắc, các bệnh khác tỷ lệ cũng rất ít. Riêng
theo dõi bệnh cầu trùng ở gà Cáy Củm lô I là 38,37% và ở lô II là 30,63 %.
2. Gà mắc bệnh cầu trùng có triệu chứng: Triệu chứng chủ yếu là gà ủ rũ,
lông xù, cánh rũ, chậm chạp, dao động khoảng 81,8% cho thấy tỷ lệ gà bị triệu
chứng nhiều hơn và biểu hiện qua luôn bên ngoài cơ thể.
3. Gà mắc bệnh cầu trùng có tỷ lệ gà gầy, chậm lớn, chết rải rác kéo dài, tỷ
lệ chết thấp là lên tới 100%. Cho ta biết được khi mắc bệnh gà không có sức chống
chịu tốt sẽ bị loại và chết do cơ thể thiếu hụt dinh dưỡng dẫn đến tình tràng gầy và
khó điều trị.
4. Gà mắc bệnh cầu trùng phân màu đen như bùn, lẫn nhầy, đôi khi lẫn máu
là tới 72,7%.
5. Gà mắc bệnh Mổ khám thấy tá tràng sưng to, ruột phình to từng đoạn chiếm
27,2 và niêm mạc tá tràng viêm, trên bề mặt thấy các ổ tròn xám là 36,3%.
6. Phác đồ I hiệu lực điều trị đạt trên 88,88% và phác đồ II đạt hiệu lực trên
82,14% cho thấy thuốc có khả năng điều trị và phòng tốt về bệnh cho đàn gà.
7. Hiệu quả phòng và trị bệnh cầu trùng bằng RTD - Coccistop và Avicoc.
8. Và các trợ sức trợ lực là rất có hiểu quả trong việc phòng trị bệnh. Kết quả
điều trị ở cả 2 lô thí nghiệm là rất là tương đối tốt.
9. Phòng trị bệnh Newcastle định kỳ kết quả rất tốt và còn sau khi tiêm vắc-
xin Newcastle những cá thể nào đã có mần bệnh thì sẽ bị đào thải còn nhưng con
vật chưa có thì sẽ được gây miễn dịch và có sức đề kháng chống chịu bệnh.
41
5.2. Đề nghị
Qua kết quả nghiên cứu của đề tài, chúng tôi thấy tỷ lệ nhiễm bệnh cầu trùng
với Newcastle trên gà là khá cao. Vì vậy, chúng tôi có một số đề nghị sau:
1. Tăng cường công tác chăm sóc nuôi dưỡng để nâng cao sức đề kháng cho
đàn gà, đặc biệt gà nuôi phải được tẩy giun sán.
2. Thực hiện công tác phòng bệnh bằng vắc-xin và bằng thuốc cho gia
cầm đầy đủ.
3. Phân gà và đệm lót cần ủ theo phương pháp nhiệt sinh học trước khi bón
cho cây trồng.
4. Điều trị bệnh cầu trùng với Newcastle cho gà bằng các phác đồ như đã trình
bày ở trên.
5. Tiếp tục nghiên cứu thêm về bệnh cầu trùng với cầu trùng và Newcastle
cũng như các biện pháp phòng - trị thích hợp, tìm ra các loại thuốc mới, có tác
dụng cao đối với bệnh cầu trùng và Newcastle để hạn chế được những tác hại của
bệnh gây ra với đàn gà.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ Quang Hiển (1996), Giáo trình chăn nuôi gia cầm, Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
2. Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998), Giáo trình chăn nuôi gia cầm, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
3. Nguyễn Duy Hoan, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Thanh Sơn, Đoàn Xuân Trúc(1999),
giáo trình chăn nuôi gia cầm dùng cho Cao học và Nghiên cứu sinh ngành
chăn nuôi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
5. Lê Hữu Khương, (2008). Ký sinh trùng thú y, (tài liệu lưu hành nội bộ),Trường
Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân (2002), Bệnh do ký sinh trùng ở gia cầmvà biện
pháp phòng trị, Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
7. Lê Thị Tuyết Minh (1994), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học của bệnh
cầu trùng ở gà Hydro HV.85 từ 1-49 ngày tuổi, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp
, Trường Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Nam, Bùi Thị Tố Nga, Nguyễn Thị Huế (2010), Một số đặc điểm
bệnh lý ở gà mắc bệnh cầu trùng, Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật Thú y,Tập
XVII số 4/2010.tr 56-60.
9. Lê Văn Năm, Nguyễn Thị Hương (1996), 60 câu hỏi và đáp dành cho người chăn
nuôi gà công nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
10. Lê Văn Năm (2003), Bệnh cầu trùng ở gia súc gia cầm, nhà xuất bản nông
nghiệp, Hà Nội.
11. Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Thị Kim Lan (2005), Bệnh cầu trùng gà ở Thái
Nguyên và biện pháp phòng trị Tạp chí Khoa học và Công nghệ (số 3 - 2005).
12. Hoàng Ngọc Thạch (1999), Kết quả xét nghiệm bệnh tích đại thể và vi thể ở gà bị
bệnh cầu trùng, Tạp chí Khoa học và Kỹ Thuật Thú y số 4, tập 4.
13. Nguyễn chí Thành, Lê Thị Thủy, Đặng Vũ Bình, Trần Thị Kim Anh (2009).
Đặc điểm sịnh học, khả năng sản xuất của 3 giống gà địa phương: Gà Hồ, gà
Đông Tảo, gà Mía Tạp chí Khoa học và Kỹ thuật chăn nuôi, số 04
14. Nguyễn Văn Thiện (2002), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
15. Dương Công Thuận (1995), Phòng và trị bệnh ký sinh trùng cho gà nuôi gia
đình, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
16. Hồ Thị Thuận (1985), Điều tra và điều trị bệnh cầu trùng tại một số trại gà công
nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
17. Hồ Thị Việt Thu (2012),Tình hình bệnh Newcastle trên các giống gà thả vườn
tại tỉnh Hậu Giang.
18. Nguyễn Quang Tuyên, Trần Thanh Vân (2001), Bệnh phổ biến ở gà và biện
pháp phòng trị. Nxb Văn hóa và Thông tin, Hà Nội.
19. Huỳnh Ngọc Trang (2015), khảo sát vấn đề mẹ truyền và tác dụng của VTM E
lên đáp ứng miễn dịch phòng bệnh Newcastle.
20. Trần Thanh Vân, Lê Minh, Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Thị Thúy Mỵ
(2003), Ảnh hưởng của thuốc Anvicoc và Rigrcoccin đến tỷ lệ và cường độ
nhiễm Cầu trùng ở gà Lương Phượng và Sasso nuôi bán chăn thả tại Thái
Nguyên, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông - Lâm nghiệp (số 2 - 2003),
trang 17 - 20.
21. Nguyễn Hữu Vũ, Phạm Sỹ Lăng (1997), Một số bệnh quan trọng ở gà, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội (trang 19-20).
22. Nguyễn Hữu Vũ, Nguyễn Đức Lưu (2000), Một số bệnh quan trọng ở gà, Nxb
Nông nghiệp, Hà Nội.
II. Tài liệu tiếng Anh
23. Archie Hunter (2000), Sổ tay dịch bệnh động vật (Phạm Gia Ninh và Nguyễn
Đức Tâm dịch). Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
24. Kolapxki và Paskin (1980), Bệnh Cầu trùng ở gia súc gia cầm (Nguyễn Đình
Chí dịch), Nxb Nông nghiệp Hà Nội.
MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA CỦA ĐỀ TÀI
Hình 1: Ảnh gà mắc bệnh newcastle
Hình 2: Hình ảnh gà chết khi bị bệnh Newcastle
MỘT SỐ HÌNH ẢNH ĐÀN GÀ THÍ NGHIỆM
Hình 3: Đàn gà Cáy Củm ăn Hình 4: Thay lót chuồng
Hình 5: Phun thuốc sát trùng Hình 6: rắc vôi bột
Hình 7: Dọn vệ sinh chuồng Hình 8: Pha vắc-xin
Hình 9: Cho gà ăn Hình 10: Chủng vắc-xin
Hình 11: Vệ sinh máng nước Hình 12: Pha thuốc cho gà