TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ ----- ----- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Th«ng tin bÊt c©n xøng trªn thÞ tr êng
tµi chÝnh ViÖt nam, thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p
Họ và tên sinh viên
: Nguyễn Thị Phƣơng Nhật
: Anh 14
Lớp
: K42 D
Khoá
Giáo viên hƣớng dẫn
: THS.Nguyễn Thị Tƣờng Anh
Hà nội, tháng 11/2007
MỤC LỤC
1.1.
1.1.1. 1.1.2.
1.2.
1.2.1. 1.2.2.
1.3.
1.3.1. 1.3.2.
2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.1.4.
2.2.1. 2.2.2.
2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4.
Danh mục từ viết tắt Lời mở đầu ........................................................................................................................... 2 CHƢƠNG I: Lý luận chung về thị trƣờng tài chính và lý thuyết thông tin bất cân xứng. 6 I. Lý luận chung về thị trƣờng tài chính...................................................................... 6 1. Các thị trƣờng cấu thành ...................................................................................... 6 Theo thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính ......................................... 6 Thị trường tiền tệ:.................................................................................... 6 Thị trường vốn: ....................................................................................... 7 Theo cách thức huy động vốn ........................................................................ 7 Thị trường nợ: ......................................................................................... 7 Thị trường cổ phần: ................................................................................. 8 Theo thời điểm các công cụ tài chính được đưa ra thị trường ....................... 8 Thị trường sơ cấp .................................................................................... 8 Thị trường thứ cấp: ................................................................................. 8 2. Các loại hình định chế tài chính ........................................................................... 9 2.1. Các định chế tài chính nhận tiền gửi ............................................................. 9 Ngân hàng thương mại: ..........................................................................10 Hiệp hội tiết tiệm và cho vay: .................................................................10 Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: ................................................................10 Liên hiệp tín dụng:..................................................................................11 2.2. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng: ..........................................................11 Công ty bảo hiểm: ..................................................................................11 Quỹ hưu trí: ............................................................................................12 2.3. Các định chế đầu tư trung gian .....................................................................12 Công ty tài chính: ...................................................................................12 Quỹ đầu tư: ............................................................................................12 Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ: .............................................................13 Ngân hàng đầu tư: ..................................................................................13 3. Ba vấn đề cố hữu của thị trƣờng tài chính ..........................................................14 3.1. Chi phí giao dịch ...........................................................................................14 3.2. Bất cân xứng về thông tin .............................................................................14 3.3. Bất ổn định mang tính hệ thống....................................................................15 II. Lý thuyết thông tin bất cân xứng ...............................................................................15 1. Giới thiệu chung về lý thuyết thông tin bất cân xứng . .......................................15 Lựa chọn ngược ............................................................................................17 1.1. 1.2. Rủi ro đạo đức ...............................................................................................20 Phát tín hiệu ..................................................................................................22 1.3. 2. Thông tin bất cân xứng trong thị trƣờng tài chính .............................................23 Lựa chọn ngược ............................................................................................23 2.1. 2.2. Rủi ro đạo đức ...............................................................................................25
28
1.2.1. 1.2.2.
1.1.
1.1.1. khoán. 1.1.2.
3. Tác động của tình trạng thông tin bất cân xứng tới tính hiệu quả của thị trƣờng 4. Những biện pháp chung hạn chế trở ngại thông tin bất cân xứng .....................28 Sàng lọc .........................................................................................................28 4.1. 4.2. Phát tín hiệu ..................................................................................................29 4.3. Giám sát trực tiếp ..........................................................................................30 4.4. Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích: .............................31 Chƣơng II: Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính Việt Nam ........33 I. Tổng quan về thị trƣờng tài chính việt nam ...........................................................33 Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính ............................38 II. 1. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng .............................38 1.1. Lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng ...................................................38 1.2. Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn và của bản thân các ngân hàng ..........44 Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn trong sử dụng vốn vay ...................44 Rủi ro đạo đức của bản thân các ngân hàng ...........................................48 2. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng chứng khoán ........................................56 Lựa chọn ngược của các nhà đầu tư .............................................................57 Thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng ...............................................................................................................57 Thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau. ...........................61 1.2. Rủi ro đạo đức của các công ty phát hành chứng khoán ..............................67 3. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tiền tệ: ..................................................70 4. Đánh giá chung về thị trƣờng tài chính. ..............................................................71
Chƣơng III: định hƣớng phát triển và giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính việt nam .............................................................................72 I. Định hƣớng phát triển thị trƣờng tài chính Việt Nam - Tƣ tƣởng và quan điểm chủ đạo của Đảng và nhà nƣớc ..............................................................................................72 1. Quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về phát triển thị trƣờng tài chính và nhận thức đúng thị trƣờng tài chính ............................................................72 2. Đảm bảo sự vận hành của thị trƣờng tài chính trên cơ sở các quan hệ thị trƣờng thật sự. .............................................................................................................73 3. Đặt quá trình phát triển và hoàn thiện thị trƣờng tài chính trong tổng thể hình thành đồng bộ thể chế thị trƣờng, cải cách cơ cấu và hội nhập kinh tế quốc tế. .......74 4. Hƣớng tới hình thành và phát triển một thị trƣờng tài chính cân đối hơn, xác định và lựa chọn mô hình quản lý tài chính phù hợp với sự phát triển của thị trƣờng tài chính. .......................................................................................................................74 5. Tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nƣớc đối với thị trƣờng tài chính ..............................................................................................................................75 6. Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá rủi ro tài chính và mô hình cảnh báo sớm .77
1.1.1. 1.1.2.
II. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính Việt Nam ..........................................................................................................................77 1. Trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng ...................................................................77 1.1. Biện pháp hạn chế lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng .....................77 Các quy định pháp lý rõ ràng, chặt chẽ liên quan đến hoạt động tín dụng.. ...............................................................................................................77 Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy ........................78 a. Phát triển trung tâm thông tin tín dụng tư nhân .........................................78 b. Hệ thống thông tin nội bộ của bản thân các tổ chức tín dụng ......................84
Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá thống nhất và phù hợp với
1.1.3. chuẩn mực quốc tế .................................................................................................85 Hệ thống đăng kí tài sản hiệu quả ...........................................................86 1.1.4. 1.2. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong sử dụng vốn vay . Error! Bookmark not defined.
1.2.1. Vật thế chấp và số dư bù ..............................................................................88 1.2.2. Các điều kiện hạn chế: .................................................................................89 1.3. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng .............................90 1.3.1. Điều chỉnh hợp lý các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động tín dụng .......................................................................................................................90 a. Dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh. ......................................90 b. Xây dựng một chính sách bảo hiểm tiền gửi phù hợp. .................................90 1.3.2. Tăng cường giám sát Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng ......................92 a. Hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản và yêu cầu về vốn ..............................92 b. Giám sát và kiểm tra ngân hàng .................................................................94 c. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro .............................................................95 d. Yêu cầu về công bố thông tin ......................................................................96 2. Trên thị trƣờng chứng khoán ..............................................................................97 Tăng cường hoạt động giám sát Nhà nước đối với thị trường chứng khoán 97 Tăng cường các quy định pháp lý về công bố thông tin ................................99
2.1. 2.2. 2.3. Nâng cao hiệu quả của các công ty định mức tín nhiệm (Credit Rating Agency) ................................................................................................................... 101 2.4. Hỗ trợ hoạt động kiểm toán......................................................................... 106 Kết luận .................................................................................................................. 109
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTTC: Thị trường tài chính
TTCK: Thị trường chứng khoán
NHTM: Ngân hàng thương mại
NHTW: Ngân hàng Trung Ương
TTTD: Thông tin tín dụng
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán
SGDCK: Sở Giao dịch chứng khoán
UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán và thị trường tín dụng ngân hàng, giữ một vai trò quan trọng trong
việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường
tài chính phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ
mô, tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khi
Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, vai
trò của thị trường tài chính càng trở nên quan trọng hơn. Những áp lực hội
nhập, cam kết mở cửa mạnh mẽ trong khu vực tài chính đã đặt ra một yêu
cầu cấp thiết phải nghiên cứu những bất cập đang trở thành trở lực đối với
sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, từ đó tìm ra những
phương hướng khắc phục, giải quyết phù hợp.
Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Thông
tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt nam, thực trạng và giải pháp”.
Có rất nhiều vấn đề đang tồn tại cản trở sự phát triển lành mạnh của thị
trường tài chính Việt Nam như sự can thiệp không hợp lý của Nhà nước,
thông tin thiếu minh bạch và không hiệu quả, thiếu sự tham gia của nhiều
định chế tài chính trung gian, văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp
chưa có, cơ sở hạ tầng chưa tương xứng,... Khóa luận này xin được tiếp cận
những tồn tại, bất cập trên trong thị trường tài chính trên cơ sở lý thuyết
2
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng - một lý thuyết đang chiếm giữ vị trí quan trọng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ trong nền kinh tế học hiện đại do nhóm ba nhà khoa học George Akerlof,
Michael Spence và Joseph Stiglitz đưa ra.
2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thị trường tài chính Việt Nam
với các thị trường cấu thành là thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng và thị
trường chứng khoán. Nội dung nghiên cứu là tình trạng thông tin bất cân
xứng với những biểu hiện cụ thể trên từng thị trường.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là đưa lại một cái nhìn cụ thể, đầy
đủ về tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam,
phân tích nguyên nhân nhằm đề xuất những biện pháp giải quyết phù hợp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu của người viết đó là đi từ cơ sở lý thuyết
chung và dẫn chiếu đến các biểu hiện cụ thể trên thực tế thị trường tài chính,
từ đó đưa ra những phương hướng giải quyết tương ứng.
5. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về thị trường tài chính và Lý thuyết thông
tin bất cân xứng.
Chương 2: Thực trạng Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp kiến nghị khắc phục tình trạng thông tin bất cân
3
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
xứng trên thị trường tài chính Việt Nam
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Người viết hy vọng khóa luận này sẽ đóng góp một cái nhìn tổng quát
về thị trường tài chính thông qua một cách tiếp cận khá mới, và đề xuất một
vài giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng.
Qua đây, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới cô giáo Th.S Nguyễn Thị
Thúy Anh đã gợi ý cho tôi chọn đề tài này, T.S Võ Trí Thành - Trưởng ban
Nghiên cứu Chính sách và Hội nhập, Viện nghiên cứu kinh tế Trung Ương đã
hướng dẫn phương pháp nghiên cứu và hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập tài liệu,
và trên hết là lời cảm ơn chân thành tới cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Tường Anh,
đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận trong suốt thời gian
4
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
qua.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
CHƢƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VÀ LÝ
THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH
Thị trường tài chính là nơi trao đổi, giao dịch các loại “hàng hóa” của
thị trường, đó là các quyền đòi nợ tài chính (financial claims).1
1. Các thị trƣờng cấu thành
Thị trường tài chính có thể được phân loại theo nhiều cách thức khác
nhau, theo thời gian đáo hạn của công cụ tài chính, theo cách thức huy động
vốn hoặc theo thời điểm phát hành công cụ tài chính ra công chúng.
1.1. Theo thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính
1.1.1. Thị trường tiền tệ:
Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài
chính ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm). Thị trường tiền tệ thường bao gồm thị
trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ bao gồm
Ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi
giới tiền tệ.
Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ có độ rủi ro thấp,
tính thanh khoản cao. Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm tín phiếu
kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu của ngân hàng, thỏa
thuận mua lại, tín phiếu NHTW.
1Võ Trí Thành (chủ biên), Lê Xuân Sang (Đồng chủ biên), Đinh Hiền Minh, Trịnh Quang ------------------------------------------------------------------------------------------------------- 6 ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
1.1.2. Thị trường vốn:
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài
chính (các công cụ nợ và các công cụ vốn) có thời hạn trên 1 năm. Thị
trường vốn gồm thị trường tín dụng và TTCK (thị trường cổ phiếu và thị
trường trái phiếu). Các chủ thể chính tham gia thị trường vốn là ngân hàng
thương mại, tổ chức tài chính phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp,
cá nhân, các nhà môi giới chứng khoán.
Hàng hóa giao dịch trên thị trường vốn bao gồm cổ phiếu, trái phiếu
chính phủ, trái phiếu công ty, khế ước thế chấp và tín dụng trung - dài hạn
của ngân hàng. Các công cụ của thị trường vốn thường có độ rủi ro lớn hơn
và có mức lợi tức cao hơn các công cụ của thị trường tiền tệ.
Thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối quan hệ qua lại mật thiết
với nhau. Trong một thị trường tài chính phát triển, những biến động trong
nền kinh tế lúc đầu tác động lên một thị trường cấu thành sau đó sẽ dễ dàng
lan truyền đến các thị trường khác trong toàn bộ hệ thống. Chẳng hạn, việc
thay đổi lãi suất có tác động lan tỏa lên thị trường tiền tệ lẫn thị trường vốn.
Tỷ giá hối đoái biến động sẽ có tác động lên dòng vốn ngắn hạn cũng như
dài hạn.
Ngày nay, khi thị trường tài chính ngày càng phát triển, các công cụ
tài chính được sử dụng đan xen giữa các thị trường. Những công cụ mới
không ngừng ra đời và mang đặc trưng của nhiều loại công cụ tài khác.
Chính vì vậy, ranh giới phân định giữa các công cụ tài chính và các thị
trường cấu thành của thị trường tài chính ngày càng mang tính tương đối.
Thị trường tiền tệ và thị trường vốn do đó càng trở nên gắn bó chặt chẽ hơn.
1.2. Theo cách thức huy động vốn
7
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
1.2.1. Thị trường nợ:
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Thị trường nợ là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn
bằng cách phát hành các công cụ vay nợ hay thực hiện một món vay thế
chấp. Người vay thanh toán cho người nắm giữ các công cụ nợ một khoản
tiền cố định (lãi suất) trong những khoảng thời gian đều đặn cho tới một thời
điểm quy định trước (ngày đáo hạn) là lúc đợt thanh toán cuối cùng được
thực hiện. Kỳ hạn thanh toán của một công cụ nợ là thời gian tính tới ngày
kết thúc của công cụ vay nợ. Công cụ vay nợ có thể có thời gian đáo hạn từ
1 năm trở xuống, công cụ nợ trung hạn có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 10
năm, và công cụ nợ dài hạn có thời gian đáo hạn trên 10 năm.
1.2.2. Thị trường cổ phần:
Thị trường cổ phần là thị trường trong đó người cần huy động vốn
bằng cách phát hành các cổ phiếu. Các cổ phiếu là quyền được chia phần
trên lãi ròng (sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của công ty phát hành cổ
phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu được gọi là cổ đông. Các cổ đông thường
được thanh toán cổ tức theo định kỳ. Các cổ phiếu không có thời gian đáo
hạn và được coi là các chứng khoán dài hạn.
1.3. Theo thời điểm các công cụ tài chính được đưa ra thị trường
1.3.1. Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lần đầu
các công cụ tài chính. Thị trường này thu hút các khoản tiết kiệm của các
hộ gia đình và các khoản vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp và của chính
phủ thành các khoản đầu tư vốn. Điều này có nghĩa là các chủ thể phát
hành thu được tiền từ việc bán các công cụ tài chính để tài trợ cho việc
đầu tư ngắn hạn hoặc dài hạn.
8
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
1.3.2. Thị trường thứ cấp:
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các công cụ
tài chính đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Khác với thị trường sơ
cấp, khoản tiền thu được từ bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp
thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh chứng khoán/ tự doanh
chứng khoán, chứ không thuộc về các tổ chức phát hành chứng khoán.
2. Các loại hình định chế tài chính
Như đã đề cập ở trên, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính
bao gồm các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cá nhân, chính phủ, và các
định chế tài chính trung gian. Trong đó, các định chế tài chính trung gian là
các chủ thể quan trọng nhất tham gia thị trường.
Các định chế tài chính được phân loại theo nhiều cách khác nhau như
theo các đặc trưng về chấp nhận rủi ro, theo thời hạn của các khoản vay và
các khoản cho vay hoặc theo cách chuyển đổi các thỏa thuận tài chính. Cách
thông thường là các định chế tài chính được phân loại theo loại hình dịch vụ
cung cấp, bao gồm: các định chế tài chính nhận tiền gửi, các định chế đầu tư. Cách phân loại các định chế tài chính chỉ có tính tương đối.2
2.1. Các định chế tài chính nhận tiền gửi
Các định chế tài chính nhận tiền gửi thường nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ
chức khác rồi sau đó cho vay lại. Các định chế này có đặc điểm chung là đều
nhận tiền gửi từ dân cư và các pháp nhân. Số tiền gửi này được đem cho vay
trực tiếp tới các cá nhân hay tổ chức khác cần vốn, một phần khác có thể
được đầu tư vào các chứng khoán. Thu nhập của các định chế này được tạo
9
2 Trong các tài liệu về thị trường tài chính, quan niệm và cách phân loại về các định chế tài chính có thể khác nhau. Khóa luận này dựa theo sự phân loại của cuốn Thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng, vấn đề và giải pháp chính sách, nhóm tác giả Võ Trí Thành (chủ biên), Lê Xuân Sang (đồng chủ biên), Đinh Hiền Minh, Trịnh Quang Long, Nhà Xuất bản Tài chính, 2004. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
ra từ hai nguồn: Thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán, và thu
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nhập từ các khoản lệ phí. Các định chế tài chính nhận tiền gửi bao gồm các
ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết
kiệm tương hỗ (mutual savings banks) và các liên hiệp tín dụng (credit
unions).
2.1.1. Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại có 2 chức năng cơ bản là cung cấp dịch vụ
thanh toán và tái phân bổ vốn từ người tiết kiệm (có vốn nhàn rỗi) sang
người vay tiền (có nhu cầu về vốn). Ngân hàng thương mại đóng vai trò
trung gian giữa người tiết kiệm và người đi vay, huy động vốn chủ yếu bằng
2 cách là nhận tiền gửi và phát hành trái phiếu. Ngân hàng có thể sử dụng
vốn huy động được để cho vay lại và để mua chứng khoán.
2.1.2. Hiệp hội tiết tiệm và cho vay:
Nguồn vốn hàng đầu của các hiệp hội này là các khoản tiền gửi tiết
kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản tiền gửi có thể chuyển thành
séc. Thông thường, các nguồn vồn thu được dùng để cho vay thế chấp. Ngày
nay, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay được phép phát hành các khoản séc,
thực hiện các khoản cho vay tiêu dùng và thực hiện nhiều hoạt động trước
đây chỉ dành cho các ngân hàng thương mại. Tương tự như các ngân hàng
thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay cũng được yêu cầu gửi tiền tại
ngân hàng trung ương.
2.1.3. Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ:
Hoạt động của các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ tương đối giống với
các quỹ tiết kiệm và cho vay. Họ nhận các khoản tiền gửi và dùng chúng
trước hết là để cho vay thế chấp. Cấu trúc tổ chức của các ngân hàng tiết
kiệm tương hỗ hơi khác các quỹ tiết kiệm và cho vay ở chỗ họ luôn được tổ
10
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chức như có sự “tương trợ” lẫn nhau, tức là họ hoạt động như một “hợp tác
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ xã” trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.
Ngày nay, các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ cũng có thể phát hành séc và
thực hiện các khoản cho vay khác ngoài các khoản cho vay thế chấp.
2.1.4. Liên hiệp tín dụng:
Các liên hiệp, quỹ tín dụng là các tổ chức cho vay rất nhỏ có tính chất
như các hợp tác xã được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt. Các
thành viên của quỹ tín dụng là những người lao động của một công ty nào
đó. Họ thu nhận vốn từ các khoản tiền gửi và trước hết là thực hiện các
khoản cho vay. Các quỹ tín dụng cũng được phép phát hành các khoản tiền
gửi có thể chuyển thành séc và có thể thực hiện các khoản cho vay tiêu
dùng.
2.2. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng:
Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng là những định chế tài chính
nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp đồng. Do có thể dự tính được
những khoản phải thanh toán trong tương lai, các định chế tiết kiệm này
không phải lo lắng nhiều về việc thiếu hụt vốn như các định chế tài chính
nhận tiền gửi. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng có xu hướng đầu tư vốn
vào các chứng khoán dài hạn như trái phiếu công ty, cổ phiếu và các khoản
cho vay thế chấp. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng chủ yếu bao gồm
các công ty bảo hiểm và các quỹ hưu trí.
2.2.1. Công ty bảo hiểm:
Công ty bảo hiểm là định chế tài chính đảm nhận việc thực hiện một
khoản thanh toán mỗi khi có một sự việc xảy ra với một khoản đóng góp
11
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trước đó của người tham gia bảo hiểm. Công ty bảo hiểm hoạt động với tư
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cách là người chấp nhận rủi ro. Công ty bảo hiểm thu phí từ những người
mua bảo hiểm để huy động vốn và sau đó chủ yếu đầu tư khoản tiền nhận
được vào chứng khoán. Có 2 loại hình công ty bảo hiểm chính là các công ty
bảo hiểm nhân thọ và các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.
2.2.2. Quỹ hưu trí:
Các quỹ hưu trí được công ty tư nhân, chính phủ hoặc chính quyền địa
phương, các nghiệp đoàn lao động đại diện cho các thành viên của mình, và
các cá nhân có nhu cầu thành lập để thanh toán những khoản phúc lợi cho
người lao động khi họ về hưu. Đặc điểm của quỹ này là chúng liên quan đến việc
đầu tư vào một tài sản có tính thanh khoản rất thấp, đó là hợp đồng hưu trí. Một
nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các quỹ hưu trí là các
khoản đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người lao động cũng như các
khoản thu được từ tài sản của quỹ đều không bị đánh thuế. Về thực chất, quỹ
hưu trí là một hình thức trả công cho người lao động mà không bị đánh thuế cho
đến khi số tiền này được rút ra, nó có tác dụng khuyến khích người lao động ở
lại với doanh nghiệp.
2.3. Các định chế đầu tư trung gian
2.3.1. Công ty tài chính:
Các công ty tài chính thường huy động vốn bằng cách bán thương
phiếu (công cụ nợ ngắn hạn) và phát hành các cổ phiếu và trái phiếu. Các
công ty tài chính có thể cho vay tiêu dùng hoặc cho các doanh nghiệp vay
đầu tư. Một số công ty tài chính do công ty mẹ thành lập với mục đích hỗ trợ
tín dụng mua hàng từ công ty mẹ.
2.3.2. Quỹ đầu tư:
Quỹ đầu tư là một tổ chức tài chính phi ngân hàng huy động vốn
12
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
bằng hình thức hùn vốn đầu tư (investment pool) thông qua việc phát hành
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ các cổ phiếu hoặc các chứng chỉ hưởng lợi. Việc hùn vốn đảm bảo cho thành
viên của quỹ mua được cổ phiếu và trái phiếu với chi phí giao dịch thấp. Các
cổ đông cũng có thể bán cổ phiếu của mình có trong Quỹ vào bất kỳ lúc nào
với giá trị phụ thuộc vào giá trị của cổ phiếu mà Quỹ đã đầu tư tại thời điểm
đó.
Các quỹ đầu tư thực hiện các hoạt động đầu tư vốn bằng 2 cách: trực
tiếp (tức là tham gia vào một công ty với tư cách là một cổ đông thành lập)
và gián tiếp (tham gia TTCK, hoặc cho thực hiện các khoản cho vay có thể
chuyển thành cổ phần).
2.3.3. Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ:
Các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ phát hành các cổ phiếu để thu hút
vốn, sau đó vốn này được dùng để mua các công cụ chính trên thị trường
tiền tệ. Lãi suất thu được từ các công cụ tài chính được thanh toán cho các
cổ đông. Các cổ đông của quỹ có thể phát hành séc ứng với giá trị phần tài
sản cổ phần của họ có trong quỹ. Tuy vậy, quỹ này cũng có những hạn chế
đối với việc sử dụng đặc quyền phát hành séc. Séc thường không được phát
hành với một tổng giá trị nhỏ hơn mức tối thiểu đã quy định trước.
2.3.4. Ngân hàng đầu tư:
Ngân hàng đầu tư thường tiến hành các hoạt động sau: (i)Hỗ trợ các
doanh nghiệp huy động vốn trên TTCK như tư vấn phát hành cổ phiếu, trái
phiếu và bảo lãnh phát hành, (ii) kinh doanh chứng khoán như môi giới
chứng khoán, tự doanh chứng khoán, và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,
(iii) tư vấn về sáp nhập và mua lại công ty. Ngày nay, các ngân hàng đầu tư
có xu hướng mở rộng hoạt động sang lĩnh vực hoạt động của các ngân hàng
thương mại. Các ngân hàng đầu tư cũng nhận tiền gửi và cho vay. Điều này
13
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
tạo áp lực cạnh tranh lớn lên các ngân hàng thương mại.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
3. Ba vấn đề cố hữu của thị trƣờng tài chính
3.1. Chi phí giao dịch
Các giao dịch tài chính thường kéo theo những chi phí về thời gian và
tiền bạc. Chi phí giao dịch là một vấn đề lớn đối với những người tiết kiệm
nhỏ, đơn lẻ trong việc vay vốn và mua chứng khoán. Tiền lãi thu được từ các
khoản cho vay nhỏ có thể không đủ để bù đắp các chi phí để ký kết các khế
ước vay vốn. Người tiết kiệm sẽ phải trả chi phí giao dịch lớn trong trường
hợp mua chứng khoán do số tiền tiết kiệm chỉ đủ mua một số lượng nhỏ
chứng khoán. Vì vậy, người tiết kiệm chỉ có thể thực hiện một số khoản đầu
tư nhỏ và phải đối mặt với nhiều rủi ro do không có khả năng đa dạng hóa
các khoản đầu tư. Như vậy chi phí giao dịch cao đã loại trừ nhiều người có
món tiền tiết kiệm nhỏ và những người đi vay các món nợ nhỏ được tham
gia trực tiếp trên thị trường tài chính.
3.2. Bất cân xứng về thông tin
Một trong những nhân tố thiết yếu để thị trường tài chính hoạt động
hiệu quả là sự có được thông tin đầy đủ, kịp thời về chất lượng, giá cả và sự
sẵn có của các sản phẩm hoặc dịch vụ tài chính trên thị trường. Việc thiếu
thông tin trên thị trường tài chính có thể làm cho những người tham gia thị
trường ra các quyết định sai lệch.
Một trường hợp của tình trạng thông tin không đầy đủ là tình trạng bất
cân xứng về thông tin. Bất cân xứng về thông tin xảy ra trong trường hợp
những người tham gia thị trường có được các thông tin khác nhau liên quan
đến các giao dịch tài chính. Một bên giao dịch thường không biết đầy đủ các
thông tin cần thiết về đối tác để có những quyết định đúng đắn. Ví dụ, một
14
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
người đi vay một khoản tiền thường có thông tin tốt hơn về lợi ích tiềm ẩn
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà anh ta dự định tiến hành so với người
cho vay.
Tình trạng bất cân xứng về thông tin có thể xảy ra trước, trong
và/hoặc sau khi giao dịch tài chính được thực hiện. TìNH trạng này làm cho
thị trường tài chính không còn là một cơ chế phân bổ các nguồn vốn một
cách có hiệu quả. Bất cân xứng về thông tin có thể dẫn đến các vấn đề như:
lựa chọn ngược, rủi ro đạo đức và hành vi bầy đàn (hay hành vi đám đông).
3.3. Bất ổn định mang tính hệ thống
Sự bất ổn định mang tính hệ thống là một đặc tính cơ bản của thị
trường tài chính so với các thị trường khác. Sự bất ổn định mang tính hệ
thống xảy ra khi một định chế tài chính đã không thể thực hiện cam kết tài
chính; điều này có thể dẫn đến tình trạng hoảng loạn chung trong toàn hệ
thống tài chính khi có nhiều người sợ rằng một định chế nào đó cũng sẽ
không thực hiện các cam kết tài chính của mình. Một cuộc khủng hoảng có
thể xảy ra khi sự lan truyền kiểu này làm cho các định chế tài chính khác
đang hoạt động có hiệu quả bị rơi vào tình trạng nguy hiểm. Không phải
ngẫu nhiêu mà rủi ro được xem là “yếu tố trung tâm có ảnh hướng tới hành
vi tài chính”.
II. LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG 1. Giới thiệu chung về lý thuyết thông tin bất cân xứng3 .
Trong suốt hơn 3 thập kỉ trở lại đây, lý thuyết về thị trường với thông
15
3 Các ví dụ minh họa trong phần này được tham khảo tại Bài giảng Thông tin bất cân xứng trong tài chính, Học kì Xuân 2005, Bộ môn Tài chính phát triển, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, tác giả Xuân Thành, Lê Hồng Nhật, biên dịch Thạch Quân. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
tin bất cân xứng đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu kinh tế quan trọng và
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ hết sức thú vị. Các mô hình kinh tế với tình trạng thông tin không hoàn hảo
đã trở thành một công cụ không thể thiếu được của các nhà nghiên cứu kinh
tế. Từ lý thuyết này đã có không biết bao nhiêu ứng dụng trong thực tế, từ
những nền thị trường nông nghiệp truyền thống của các quốc gia đang phát
triển cho đến những thị trường tài chính hiện đại ở những nền kinh tế phát
triển. Cơ sở cho lý thuyết thông tin bất cân xứng này được đưa ra lần đầu
tiên vào những năm 1970 bởi một nhóm ba nhà khoa học gồm George
Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz. Đến năm 2001 thì lý thuyết này
đã khẳng định được vị trí trong nền kinh tế học hiện đại khi các nhà nghiên
cứu nói trên cùng vinh dự được trao giải thưởng Nobel Kinh tế cho công
trình nghiên cứu “phân tích các thị trường với tình trạng thông tin bất cân
xứng”.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng ra đời khi lý thuyết kinh tế học tân
cổ điển đã thất bại trong việc giải thích một cách hiệu quả tại sao các thể chế
thị trường xuất hiện. Lý thuyết kinh tế tân cổ điển về thị trường giả định
người bán và người mua có thông tin hoàn hảo về: (i) đối tác bên kia của
giao dịch, (ii) chất lượng, đặc điểm của hàng hóa hay dịch vụ được trao đổi,
và (iii) cấu trúc thị trường. Giả định trên là hoàn toàn hợp lý nếu như ta dễ
dàng có được các thông tin. Tuy nhiên, trên thực tế phải tốn chi phí mới có
được thông tin, thậm chí trong nhiều trường hợp một đối tượng tham gia
giao dịch không thể biết được thông tin của đối tác bên kia cho dù có bỏ bao
nhiêu tiền để thu thập thông tin đi nữa. Trong nhiều thị trường hàng hóa,
người mua thường khó phân biệt được giữa sản phẩm chất lượng tốt với sản
phẩm chất lượng tồi. Trong thị trường lao động, các công ty và người sử
dụng lao động thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định kỹ năng và
16
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
năng lực của nhân viên trong công ty mình khi mới bắt đầu tuyển dụng.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Trong thị trường tài chính, người cho vay thường phải mất chi phí khá cao
để xác định được mức độ uy tín hay thành tích tín dụng của người đi vay
tiềm năng.
Lý thuyết Thông tin bất cân xứng đi vào nghiên cứu tình trạng các bên
tham gia vào giao dịch không có các lượng thông tin cân xứng nhau. Một
bên trong giao dịch có lợi thế về thông tin (informed party) còn bên kia bị
bất lợi về thông tin (uninformed party). Thông tin ở đây có thể là một hành
động (action) hay một đặc điểm (characteristic) của bên có lợi thế về thông
tin. Ví dụ của sự bất cân xứng thông tin về đặc điểm của một bên có thể thấy
ở thị trường hàng hóa cũ, như xe cũ chẳng hạn: người bán hàng thường có
thông tin đầy đủ và chính xác hơn về thực trạng chất lượng của chiếc xe
mình đã sử dụng, còn người mua thường rơi vào trạng thái bất lợi về thông
tin. Còn ví dụ cho sự bất cân xứng thông tin về hành động là mối quan hệ
giữa người chủ doanh nghiệp với những nhân viên của mình như nhân viên
bán hàng. Người chủ doanh nghiệp không thể biết một cách chính xác liệu
nhân viên của mình có thực sự tận tâm với công việc hay không, có tìm mọi
cách để tăng doanh số bán hàng hay không, vì sự nỗ lực không phải lúc nào
cũng có thể được quan sát trực tiếp và đo lường một cách chính xác.
Lý thuyết này đưa ra ba lớp bài toán quan trọng là lựa chọn ngược
(hay còn gọi là lựa chọn bất lợi - adverse selection), rủi ro đạo đức (hay còn
được dịch là tâm lý ỷ lại - moral harzard) và phát tín hiệu (signalling). Lựa
chọn ngược và tâm lý ỷ lại là hai hệ quả trực tiếp của hiện tượng thông tin
bất cân xứng, còn phát tín hiệu là biện pháp để hạn chế tình trạng này.
1.1. Lựa chọn ngược
Lựa chọn ngược là tình huống thông tin bất cân xứng xảy ra trước khi
17
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
tiến hành giao dịch: khi một bên trong giao dịch có lợi thế thông tin về một
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đặc điểm nào đó (chẳng hạn như chất lượng sản phẩm, tình trạng sức khỏe, sự
lành mạnh về tài chính, …) mà bên kia không thể quan sát với độ chính xác
tuyệt đối khiến bên kia không thể đưa ra quyết định chính xác và tối ưu. Bên có
lợi thế về thông tin có thể lợi dụng đặc điểm này để che dấu, bóp méo thông tin
theo hướng có lợi cho mình. Còn bên thiếu thông tin hơn cần hiểu được bất lợi
này để tìm các biện pháp buộc bên có nhiều thông tin phải bộc lộ những đặc
điểm hay thông tin cần biết.
Hãy xem xét một ví dụ trong hoạt động bảo hiểm. Một công ty bảo
hiểm phát hành một hợp đồng bảo hiểm rủi ro mất xe. Kết quả có nhiều khả
năng xảy ra là đa số những người phải để xe ở những nơi không an toàn sẽ
mua bảo hiểm. Thông tin về nơi mà người sử dụng xe hay gửi xe là thông tin
chỉ riêng anh hay chị ta biết. Nói một cách khác, đó là thông tin mà người
ngoài và cụ thể là công ty bảo hiểm không thể quan sát được. Do vậy, công
ty không thể phân biệt được để tính mức phí bảo hiểm khác nhau với độ rủi
ro khác nhau. Ai cũng nói là mình luôn gửi xe ở những nơi an toàn để hy
vọng được hưởng phí bảo hiểm thấp. Trường hợp này, công ty bảo hiểm sẽ
áp dụng một mức phí bảo hiểm bình quân. Với một mức phí bảo hiểm bình
quân như vậy, thì những người thực sự luôn gửi xe ở nơi an toàn – khách
hàng mà công ty bảo hiểm muốn hướng tới - sẽ thấy không đáng để mua bảo
hiểm, còn những người có độ rủi ro cao - đối tượng khách hàng công ty bảo
hiểm muốn tránh - sẽ sẵn sàng mua. Như vậy, chỉ có những người có độ rủi
ro mất xe cao mới mua bảo hiểm. Như vậy, công ty bảo hiểm đã bị đặt trong
tình trạng lựa chọn ngược vì thực chất, công ty bảo hiểm chỉ muốn bán bảo
18
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hiểm cho những khách hàng gửi xe ở nơi an toàn.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Hãy xem xét một ví dụ khác trong thị trường xe cũ 4 . Những người
muốn mua xe thường không thể biết một cách chính xác chất lượng của
những chiếc xe đã qua sử dụng. Vấn đề này còn được miêu tả trong kinh tế học với hình ảnh “những trái chanh” (The Lemons problem *)5
Họ không thể phân biệt được đâu là chiếc xe tốt (một quả đào), đâu là
chiếc xe đã quá cũ, chất lượng tồi (một quả chanh). Vì thế, cái giá mà họ sẵn
sàng trả để mua một chiếc xe cũ sẽ phản ánh chất lượng trung bình của
những chiếc xe cũ trên thị trường, sẽ là một mức giá nằm giữa giá của một
chiếc xe tồi và giá của một chiếc xe tốt.
Về phía người bán xe cũ, anh ta biết rõ hơn ai hết chất lượng thực sự
của chiếc xe của mình. Nếu chiếc xe của anh ta là một “trái chanh”, thì
người chủ xe sẽ cực kì sẵn lòng bán cho bạn với mức giá trung bình mà bạn
chấp nhận, bởi mức giá này cao hơn giá trị thực sự của chiếc xe. Trong khi
đó, nếu chiếc xe của anh ta là một “trái đào”, tức là một chiếc xe chất lượng
tốt, thì anh ta sẽ không muốn bán cho bạn theo mức giá trung bình đó. Bởi vì
như chúng ta đã nói ở trên, mức giá trung bình đó cao hơn mức giá của chiếc
xe tồi nhưng lại thấp hơn mức giá của một chiếc xe tốt thực sự. Anh ta biết
rằng chiếc xe tốt của mình đã bị trả giá thấp hơn giá trị, vì thế sẽ không
muốn bán nó trên thị trường. Chính vì hiện tượng này, trên thị trường sẽ chỉ
19
4 Frederic S. Mishkin, Columbia University, 2004. The Economics of Money, banking and Financial markets, Chapter 1: Why study money, banking and financial markets? Asymmetric Information: Adverse Selection and Moral Hazard, Pearson Addison Wisley, New York, USA. 5 Nghiên cứu cụ thể và những thảo luận xung quanh Vấn đề những trái chanh (Lemons problem) có thể được tham khảo ở địa chỉ : www.nobel.se/economics/laureates/2001/public.html ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
có rất ít những chiếc xe tốt và người mua xe sẽ chỉ mua được những chiếc xe
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ chất lượng kém, với mức giá cao hơn giá trị thực sự của nó. Đây chính là
hiện tượng lựa chọn ngược.
Hiện tượng này có thể thấy rõ ở thị trường xe máy Trung Quốc tại
Việt Nam. Thị trường này có 2 loại xe: xe chất lượng tốt và xe dỏm. Giả sử
xe chất lượng tốt chiếm một phần tư số xe bán. Và giả sử những người có xe
tốt sẵn lòng bán với giá 700$, còn những người có xe dỏm sẵn lòng bán với
giá 300$. Người mua xe sẵn lòng trả 800$ cho xe tốt nhưng chỉ trả 400$ cho
xe dỏm. Nếu có cách biết rõ được loại xe mà mình mua, thì người mua xe sẽ
trả trong khoảng 700 - 800$ cho một chiếc xe tốt, và khoảng 300 - 400$ cho
một chiếc xe dỏm.
Tuy nhiên thực tế là người bán xe biết được chất lượng của chiếc xe
anh ta bán, còn người mua thì không có cách nào quan sát được chất lượng
của những chiếc xe trước khi mua. Động cơ của người bán xe dỏm là luôn
che dấu thông tin và nói rằng xe anh ta là xe tốt. Do luôn có khả năng mua
phải xe dỏm (với xác suất là 3/4) nên người mua không bao giờ trả 700 -
800$ cho một chiếc xe. Anh ta sẽ trả một mức giá kỳ vọng là 3/4*400 +
1/4*800 = 500$. Như vậy người có xe tốt sẽ không bán vì anh ta đòi 700$.
Vấn đề lựa chọn ngược nảy sinh vì những người có động cơ bán xe chỉ toàn
là những người có xe dỏm.
1.2. Rủi ro đạo đức
Hiện tượng rủi ro đạo đức là tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra
sau giao dịch, trong đó một bên trong giao dịch có ít thông tin hơn bên kia
về hành động của bên kia sau khi giao kết hợp đồng. Do bên có nhiều thông
tin hơn có thể dễ dàng che đậy hành động của mình, nên họ có xu hướng
hành động đi ngược lại lợi ích của bên kia và theo hướng có lợi cho mình.
20
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Hiện tượng này còn được nghiên cứu dưới hình thức là vấn đề người ủy thác
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ - đại lý (principal - agent problem). Vấn đề nảy sinh khi có sự phân ly về
quyền lợi. Một công ty muốn nhân viên bán hàng của mình chủ động tìm
kiếm khách hàng, nhưng các nhân viên thì thích ngồi không và uống trà.
Khác biệt về quyền lợi đi kèm với thực tế là chủ công ty không thể quan sát
được hành động của các nhân viên bán hàng của mình. Nói một cách khác,
ta gặp phải vấn đề hành động bị che đậy. Nếu như người chủ sở hữu có thể
quan sát được nhân viên làm việc có trách nhiệm như thế nào, thì sẽ không
có vấn đề về động cơ khuyến khích nhân viên bỏ bê công việc để làm việc
riêng. Bởi lúc đó, người chủ sở hữu đơn giản chỉ cần trả lương căn cứ trên
nỗ lực người nhân viên bỏ ra. Nhưng thường thì việc đo lường các hoạt động
của nhân viên, việc kiểm chứng các thông tin được báo cáo đối với người
chủ sở hữu là vô cùng tốn kém hoặc thậm chí không thể thực hiện được.
Để hiểu rõ hơn về khái niệm rủi ro đạo đức, ta hãy dùng một ví dụ về
bảo hiểm, nơi thuật ngữ này bắt nguồn. Trong phần nói về lựa chọn ngược ở
trên, chúng ta đã sử dụng ví dụ về rủi ro mất xe máy để minh họa cho khái
niệm “lựa chọn ngược”. Ta thấy rằng trước khi ký hợp đồng bảo hiểm, công ty
bảo hiểm không biết được đặc điểm của các khách hàng (thông tin bị che đậy
dẫn tới lựa chọn ngược). Thậm chí sau khi đã ký hợp đồng, công ty bảo hiểm
cũng không cũng không quan sát được hành vi của khách hàng. Những người
sau khi đã mua bảo hiểm thường trở nên bất cẩn hơn. Họ không còn giữ xe cẩn
thận như trước nữa vì ỷ lại rằng nếu mất thì cũng được công ty bảo hiểm đền
bù. Đây chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức. Kết quả là xác suất mất xe của
những người bảo hiểm tăng lên đáng kể, từ đó kéo theo chi phí đền bù của công
ty bảo hiểm tăng lên.
Nếu quan sát được hành vi của khách hàng, công ty bảo hiểm sẽ đưa
21
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
vào trong hợp đồng các điều khoản để xác định rõ những hành vi (bất cẩn)
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nào dẫn tới mất xe thì sẽ không được bồi thường và sẽ thực thi những điều
khoản đó. Tuy nhiên, việc quan sát hành vi là rất tốn kém, nếu không muốn
nói là không khả thi. Do vậy, khi một khách hàng đến đòi đền bù thì công ty
bảo hiểm thường không có cách nào để xác định được là khách đó có thực
hiện đúng các điều khoản hợp đồng hay không.
1.3. Phát tín hiệu
Trong thị trường xảy ra tình trạng thông tin bất cân xứng, không phải
lúc nào bên có nhiều thông tin cũng là bên có lợi thế. Chẳng hạn trong thị
trường xe máy Trung Quốc, những người sản xuất xe máy tốt thực sự là bên
có nhiều thông tin hơn về chất lượng sản phẩm của mình nhưng họ vẫn
không thể bán được hàng do phía người mua không có thông tin đầy đủ về
chất lượng sản phẩm. Trong những trường hợp thế này, người nắm giữ
những thông tin riêng biệt cần chủ động thực hiện những hoạt động làm cho
đối tác trong giao dịch biết được thông tin về mình. Người bán xe chất lượng
tốt sẽ có động cơ khuyến khích để phát ra tín hiệu nhằm mục đích làm cho
người mua biết được mình bán xe tốt và sẵn lòng trả giá cao cho xe tốt này.
Một tín hiệu mà người bán xe có thể phát đi để người mua xe nhận biết
được, đó chính là điều khoản bảo hành.
Nếu người bán muốn thực hiện một hành vi nào đó để phát tín hiệu thì
sẽ phải tốn chi phí. Điểm then chốt là chi phí phát tín hiệu của người bán sản
phẩm chất lượng xấu luôn luôn cao hơn chi phí phát tín hiệu của người bán
sản phẩm chất lượng cao. Do vậy, người bán sản phẩm tồi sẽ không có động
cơ tìm cách phát tín hiệu và nói dối. Ví dụ, việc cung cấp chế độ bảo hành
đối với người bán xe chất lượng kém sẽ đòi hỏi nhiều chi phí hơn người bán
22
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
xe hơi tốt. Khi đó, bảo hành xe đã trở thành một tín hiệu hết sức hiệu quả.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Trong thị trường tín dụng, nếu một cá nhân trước đó đã tốn nhiều
công sức để thiết lập thành tích tín dụng tốt, lời tuyên bố của anh ta rằng anh
ta có ý định hoàn trả món nợ sẽ đáng tin hơn. Thành tích tín dụng của anh ta
khi đó sẽ đóng vai trò như một tín hiệu.
2. Thông tin bất cân xứng trong thị trƣờng tài chính
Như đã trình bày ở phần lý luận chung về thị trường tài chính, một
trong những vấn đề cố hữu của thị trường tài chính chính là chi phí giao
dịch. Sự tồn tại của chi phí giao dịch trong thị trường tài chính phần nào lý
giải được tại sao các trung gian tài chính và tài chính gián tiếp lại đóng vai
trò quan trọng trong thị trường tài chính như vậy. Một lý do khác nữa đó là
trong thị trường tài chính, một bên thường không biết đủ thông tin về bên
kia để đưa ra các quyết định đúng đắn. Ví dụ một người đi vay thường có
nhiều thông tin về nguồn thu nhập tiềm năng trong tương lai cũng như những
rủi ro liên quan với dự án đầu tư của họ hơn là người cho vay. Tình trạng thông
tin bất cân xứng này trong thị trường tài chính cũng dẫn tới 2 vấn đề trong hệ
thống tài chính vào 2 thời điểm: trước và sau giao dịch.
2.1. Lựa chọn ngược
Lựa chọn ngược là vấn đề gây ra bởi tình trạng thông tin bất cân xứng
trước khi giao dịch được tiến hành. Lựa chọn ngược trong thị trường tài
chính xảy ra khi hầu hết những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra kết
quả đầu tư tồi nhất - rủi ro tín dụng cao - lại là những người có khả năng sẽ
vay được nợ nhất.
Để hiểu được tại sao lại xảy ra tình huống lựa chọn ngược, hãy giả
thiết là bạn có 2 người bạn mà bạn có thể cho vay tiền là A và B. A là kiểu
người cẩn thận, truyền thống, chỉ đi vay khi anh ta có một kế hoạch đầu tư
23
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chắc chắn mang lại lợi nhuận. Còn B thì ngược lại, anh ta là một kẻ ưa liều
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lĩnh. B chỉ vừa mới nghĩ tới một kế hoạch làm giàu nhanh chóng mà sẽ biến
anh ta thành một triệu phú chỉ trong một đêm nếu anh ta có thể kiếm được số
đầu tư ban đầu là 1000$. Tuy nhiên, không may là những dự án làm giàu
nhanh kiểu như thế này lại thường đi liền với độ rủi ro rất cao: có nhiều khả
năng là khoản đầu tư của B sẽ không mang lại kết quả và anh ta sẽ mất trắng
1000$.
Vậy thì ai có nhiều khả năng sẽ tìm đến bạn để hỏi vay hơn? A hay B?
Tất nhiên người đó sẽ là B, bởi vì anh ta sẽ kiếm được bộn tiền nếu khoản
đầu tư đó thành công. Tuy nhiên bạn có thể sẽ không thích cho B vay vì có
nhiều khả năng B sẽ thất bại và không thể trả lại cho bạn món tiền 1000$.
Nếu bạn biết cả A và B rất rõ, có nghĩa là thông tin hoàn toàn cân xứng, thì
bạn sẽ không gặp vấn đề gì trong việc cho vay, bởi vì bạn biết rõ rằng B là
một rủi ro tín dụng lớn và bạn sẽ không cho B vay. Giả thiết là bạn không
biết rõ về cả 2 thì có khả năng là bạn sẽ cho B vay bởi vì B sẽ luôn tìm mọi
cách để vay được 1000$. Khi đó bạn đã tự đặt mình vào tình huống rủi ro
cao. Nhưng nếu giả thiết bạn hiểu rõ tình trạng thông tin bất cân xứng của
mình và quyết định không cho ai vay để đảm bảo an toàn vốn, thì lại gây ra
một tình trạng lãng phí nguồn lực bởi những người như A - có thành tích tín
dụng tốt hoặc có tiềm năng trả nợ cao - lại không thể tìm được một nguồn
vốn đầu tư cho dự án khả thi của mình.
Tương tự như ví dụ về thị trường bảo hiểm đã xem xét ở trước, nếu
càng tăng phí bảo hiểm thì càng làm cho những người có rủi ro cao mua và đẩy
những người rủi ro thấp ra, từ đó lại làm tăng chi phí bồi thường bảo hiểm.
Trong thị trường tín dụng, lãi suất mà ngân hàng quy định các đối tượng vay
phải trả sẽ ảnh hưởng tới sự chọn lựa những ai nộp hồ sơ xin vay vốn. Lãi suất
24
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
càng cao thì chỉ có những ai có dự án đầu tư rủi ro cao mới sẵn sàng vay. Như
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ vậy, tăng lãi suất có thể dẫn tới sự gia tăng các dự án đầu tư rủi ro và gia tăng
nợ khó đòi cho ngân hàng. Vấn đề cốt lõi dẫn tới tình trạng này là ngân hàng
không thể phân biệt được những người vay vốn xem ai là người đầu tư an tòan
và ai là người đầu tư rủi ro.
2.2. Rủi ro đạo đức
Rủi ro đạo đức là vấn đề gây nên bởi tình trạng thông tin bất cân xứng
sau khi giao dịch xảy ra. Rủi ro đạo đức chính là nguy cơ (rủi ro) người đi
vay sẽ tham gia vào những hoạt động không mong muốn (phi đạo đức) - xét
trên quan điểm của người cho vay vì anh ta tin rằng những hoạt động như
thế này sẽ làm giảm khả năng thanh toán nợ của người đi vay. Và vì vấn đề
rủi ro đạo đức khiến cho khả năng thu hồi nợ giảm đi nên những người cho
vay sẽ không tiếp tục cho vay nợ nữa.
Hãy xem xét một ví dụ về rủi ro đạo đức. Giả sử bạn cho một người
chú C vay 1000$. C cần khoản tiền này để mua một chiếc máy soạn thảo văn
bản để anh ta có thể mở cửa hàng đánh máy thuê cho đối tượng là sinh viên
viết khóa luận. Tuy nhiên, sau khi bạn cho C vay nợ, C có vẻ như không
muốn đầu tư vào cửa hàng đánh máy nữa mà thay vào đó, anh ta bắt đầu đi
cá cược ở trường đua ngựa. Nếu anh ta cá cược 1 ăn 20 và thắng bằng số tiền
cho vay của bạn, thì anh ta sẽ có khả năng hoàn trả số nợ cho bạn và ngoài ra
còn có thể bỏ túi số tiền khá lớn là 19000$. Nhưng nếu anh ta thua - mà điều
này rất dễ xảy ra - thì bạn sẽ mất trắng 1000$, nhưng những gì anh ta mất
chỉ là uy tín của một người chú đáng tin trong gia đình mà thôi. Vì thế anh ta
sẽ có động cơ đi tới cá cược ở trường đua ngựa bởi phần anh ta thu về nếu cá
cược đúng (19000$) lớn hơn rất nhiều so với những gì anh ta mất (uy tín).
Nếu bạn biết rõ C định làm gì, thì hiển nhiên bạn sẽ ngăn cản anh ta đến
25
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trường đua ngựa, và anh ta sẽ không thể làm tăng rủi ro đạo đức. Tuy nhiên,
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ để nắm rõ thông tin về mọi hoạt động của người đi vay là rất khó, thậm chí
không thể, có nghĩa là thông tin là bất cân xứng, nên có nhiều khả năng là C
sẽ tham gia cá cược và bạn có thể sẽ không thu hồi được số tiền cho vay của
mình. Rủi ro đạo đức khiến bạn không muốn cho vay dù bạn biết rõ nếu C
dùng tiền để đầu tư thì bạn sẽ thu hồi được nợ.
Trong các hợp đồng tài chính, tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức là một
vấn đề cố hữu. Các công ty hoạt động nhờ vào vốn vay mượn, nhưng trong
trường hợp phá sản thì chỉ có trách nhiệm hữu hạn (đối với các công ty
TNHH). Vì vậy, công ty sẽ tham gia vào những dự án rủi ro hơn mức mong
muốn của ngân hàng. Điều này đặc biệt đúng với các doanh nghiệp đang
trên bờ vực phá sản. Lý do là nếu dự án thành công (cho dù với cơ hội rất
thấp), thì doanh nghiệp sẽ thoát khỏi tình trạng khó khăn, còn nếu không
thành công thì cũng không sao bởi đằng nào công ty cũng phá sản. Ví dụ sau
đây minh họa cho tình huống này.
ABC Co. là một công ty hiện đang vay nợ ngân hàng. Giá trị tài sản
(theo thị trường) của công ty là 100 triệu $ và giá trị cổ phần (cũng theo thị
trường) là 50 triệu$. Hiện ABC Co. có một cơ hội đầu tư với chi phí đầu tư
là 10 triệu $. Sau một năm dự án kết thúc, có 2 khả năng xảy ra: hoặc dự án
tạo ra nguồn thu ròng (sau khi trừ đi chi phí) 96 triệu$ (với xác suất 10%)
hoặc tạo ra nguồn thu ròng bằng 0 (với xác suất 90%). Giả sử tỷ lệ chiết
khấu hợp lý (sau khi đã hiệu chỉnh rủi ro) áp dụng cho dự án là 20%. Giá trị
hiện tại ròng của dự án đầu tư là:
NPV= -10 + (10%*96 + 90%*0)/(1 + 20%) = -2 (triệu $)
Việc thực hiện dự án sẽ làm giảm giá trị doanh nghiệp và do vậy ABC Co.
26
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
sẽ không thực hiện dự án.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Một năm sau, tình hình kinh doanh và tài chính của ABC Co. trở nên
xấu đi. Vào lúc này, giá trị tài sản chỉ còn 40 triệu $ (trong đó có 10 triệu $
tiền mặt). Nghiêm trọng hơn, chỉ còn đúng một năm nữa là ABC phải hoàn
trả ngân hàng một khoản nợ là 50 triệu $. Giả sử rằng cơ hội đầu tư vào dự
án trên vẫn còn với các chi tiết kỹ thuật và tài chính không thay đổi.
Lúc này, nếu không thực hiện dự án, ABC Co. có thể sẽ phải tuyên bố
phá sản và/hay phát mãi toàn bộ tài sản để thanh toán cho khoản nợ ngân
hàng. Còn nếu thực hiện dự án và tình huống tốt xảy ra, công ty sẽ được 96
triệu $, thừa đủ để trang trải khoản nợ 50 triệu $. Mặt khác, nếu thực hiện dự
án và tình huống xấu xảy ra thì công ty phá sản, cũng như trường hợp không
thực hiện dự án.
Vậy ABC Co. sẽ thực hiện dự án cho dù NPV có âm. Lý do căn bản là
dự án có độ rủi ro rất cao và lợi nhuận trong trường hợp tốt đủ lớn để đưa
công ty thoát khỏi khó khăn tài chính. Ngân hàng chủ nợ của doanh nghiệp
rõ ràng sẽ chịu thiệt khi công ty thực hiện dự án rủi ro cao vì giá trị kỳ vọng
của khoản nợ mà công ty trả cho ngân hàng giảm đi (Nhớ rằng việc thực
hiện dự án hút đi mất 10 triệu $ từ giá trị tài sản của doanh nghiệp và giá trị
hiện tại kỳ vọng của dự án chỉ là 8 triệu).
Chính vì thế mà ta thường thấy những hoạt động không thể thiếu của
ngân hàng là thẩm định tín dụng, đánh giá tài sản thế chấp, theo dõi hoạt
động của đối tượng cho vay nợ và đôi khi còn thiết kế hợp đồng tín dụng
sao cho có thể rút vốn ngay lập tức khi thấy không yên tâm về khả năng chi
trả của người cho vay. Những cơ chế này chính là để đề phòng tâm lý ỷ lại
của những người vay vốn.
Những vấn đề gây nên bởi tình trạng Lựa chọn ngược và Rủi ro đạo
27
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
đức là những trở lực lớn khiến thị trường tài chính hoạt động kém hiệu quả.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Trong nhiều trường hợp, tình trạng thông tin bất cân xứng có thể khiến thị
trường hoàn toàn sụp đổ.
3. Tác động của tình trạng thông tin bất cân xứng tới tính hiệu quả của
thị trƣờng
Tình trạng thông tin bất cân xứng khiến các thị trường hoạt động kém
hiệu quả. Chẳng hạn trong thị trường hàng hóa, người bán hàng tốt không
còn động cơ để sản xuất và bán những hàng chất lượng cao, trong khi thị
trường chỉ còn lại những người bán hàng kém chất lượng. Nếu người mua
vẫn quyết định mua hàng, thì anh ta phải trả số tiền lớn hơn giá trị thực của
hàng hóa, chỉ làm lợi cho một số cá nhân nhưng lại gây hao phí cho toàn xã
hội. Nếu nghiêm trọng hơn, anh ta nhận thức được vấn đề này và quyết định
không tiến hành giao dịch thì thị trường lúc đó sẽ sụp đổ. Trong thị trường
tài chính, vấn đề thông tin bất cân xứng gây ra tình trạng lãng phí các nguồn
lực xã hội vào các dự án tồi trong khi nhiều dự án tốt lại không có đủ vốn để
thực hiện, gây lãng phí lớn. Vấn đề thông tin bất cân xứng nếu không được
hạn chế sẽ có thể khiến thị trường hoạt động lệch lạc và sụp đổ.
Nhìn chung, thông tin bất cân xứng khiến các nguồn lực của xã hội
được phân bổ không hiệu quả, gây lãng chí chung cho toàn xã hội, và đe dọa
sự tồn tại của một số thị trường, kìm hãm sự phát triển chung của nền kinh
tế.
4. Những biện pháp chung hạn chế trở ngại thông tin bất cân xứng
4.1. Sàng lọc
Quay trở lại ví dụ về lựa chọn ngược trong ngành bảo hiểm. Một cách
để khắc phục tình trạng này là công ty bảo hiểm thiết kế hợp đồng bảo hiểm
28
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
sao cho có thể tách biệt 2 loại khách hàng: nhóm rủi ro mất xe cao và nhóm
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ rủi ro mất xe thấp. Hợp đồng bảo hiểm gồm 2 lựa chọn, bất cứ khách hàng
nào cũng có thể lựa chọn một trong hai. Lựa chọn thứ nhất: bảo hiểm toàn
bộ giá trị của chiếc xe. Lựa chọn thứ hai: chỉ bảo hiểm một phần với một
mức phí thấp hơn mức phí trong lựa chọn thứ nhất. Mẹo ở đây là xác định
mức phí bảo hiểm và tỷ lệ giá trị xe được bảo hiểm sao cho nhóm rủi ro cao
luôn thấy có lợi nhất khi chọn hợp đồng thứ nhất, còn nhóm rủi ro thấp chỉ
chọn hợp đồng thứ 2. Trước hết, chi phí bảo hiểm trong hợp đồng thứ nhất
được định ở mức cạnh tranh sao cho đủ bù đắp chi phí kỳ vọng phải bồi
thường đối với nhóm rủi ro cao cộng với chi phí quản lý. Đối với hợp đồng
thứ hai, ta chọn một mức phí thấp hơn phù hợp với mức rủi ro thấp hơn (ví
dụ bằng một nửa phí bảo hiểm trong hợp đồng thứ nhất), nhưng khách hàng
trong hợp đồng này chỉ được bảo hiểm một phần giá trị tài sản (ví dụ bảo
hiểm 40% giá trị). Những người có rủi ro mất xe thấp thấy rằng chẳng tội gì
chọn hợp đồng thứ nhất vì mức phí quá cao (cho dù có được bảo hiểm toàn
bộ giá trị xe). Còn những người có độ rủi ro cao lại thấy rằng hợp đồng thứ
nhất là tốt hơn cả. Đối với họ, đúng là có thể được lợi từ mức phí thấp ở hợp
đồng thứ hai, nhưng vì chỉ được bảo hiểm một phần trong khi rủi ro mất xe
cao nên việc mua hợp đồng thứ hai không còn hấp dẫn. Cần nhớ rằng mặc
dù tách biệt được hai loại khách hàng, nhưng nhóm có rủi ro thấp không
được hưởng bảo hiểm toàn bộ giá trị. Đó chính là chi phí của thông tin bất
cân xứng.
4.2. Phát tín hiệu
Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu (signaling): bên có
nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách
trung thực và tin cậy. Ví dụ trong thị trường hàng hóa, để phát tín hiệu về
29
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chất lượng hàng hóa tới người tiêu dùng, người bán có thể đưa ra các điều
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khoản bảo hành thời hạn dài nhằm chứng tỏ chất lượng cao của sản phẩm.
Trong thị trường tín dụng, những người đi vay vốn thường phải tích lũy
thành tích tín dụng tốt, chứng minh tính khả thi của dự án và tiềm năng trả
nợ của mình, để ngân hàng có thể đánh giá được rủi ro tín dụng và quyết
định cho vay. Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán trên thị
trường lao động là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển
dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử
viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những
người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có
năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có
thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà người kém năng lực
không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình
quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương trường.6
4.3. Giám sát trực tiếp
Giám sát trực tiếp là cơ chế trong đó một bên trong giao dịch bỏ ra
nguồn lực để đạt được việc kiểm soát thông tin đối với bên kia. Việc giám
sát này có thể bao gồm gia tăng nguồn lực dành cho việc kiểm soát và kiểm
chứng. Trong thị trường tài chính, giải pháp này gắn với các yêu cầu về
kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty do các công ty kiểm toán độc
lập tiến hành trước khi được phép công bố. Trong hoạt động tín dụng ngân
hàng của nhiều quốc gia, báo cáo tài chính được kiểm toán trở thành một
điều kiện quan trọng để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng, thẩm định dự án
30
và quyết định cho vay. Người chủ công ty cử một nhân viên giám sát nhằm
kiểm tra, theo dõi hành vi của các nhân viên của mình, và đưa ra các quyết 6 Th.S.Nguyễn Thúy Anh, khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngoại Thương, Thông tin bất cân xứng - Rủi ro tiềm ẩn, Tạp chí Tia sáng, số ra ngày 19/03/2007. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ định tăng lương, thưởng dựa trên kết quả đánh giá của giám sát viên này.
Những người gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cần có những yêu cầu cụ thể
đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng, và yêu cầu công bố thông tin liên
quan nhằm giám sát hoạt động sử dụng vốn huy động của ngân hàng, đảm
bảo an toàn vốn. Các tổ chức đầu tư mạo hiểm khi quyết định đầu tư vào các
dự án kinh doanh mới thường trực tiếp cử một người của quỹ tham gia vào
quá trình tạo lập công ty nhằm hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng,
đảm bảo hiệu quả sử dụng đồng vốn của họ.
4.4. Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích:
Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích là việc một
bên trong giao dịch thiết kế hợp đồng sao cho bên kia cảm thấy không có
động cơ để thực hiện những hành vi đi ngược lại lợi ích của anh ta, và khiến
bên kia cảm thấy rằng việc tuân thủ các điều khoản sẽ có lợi cho mình.
Trong hợp đồng có thể thiết kế các điều khoản hạn chế để ngăn cản bên kia
tham gia vào các hoạt động có độ rủi ro cao, hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức.
Quay trở lại ví dụ bạn cho người chú C vay 1000$ để đầu tư vào cửa hàng
đánh máy thuê cho sinh viên viết khóa luận. Nếu bạn biết rõ rằng người chú
của mình sử dụng nguồn tiền vay đúng mục đích thì bạn sẽ yên tâm cho vay,
bởi khả năng thu hồi vốn là chắc chắn. Tuy nhiên, vì có khả năng cao là chú
C sẽ dùng khoản tiền đó để đi cá cược ở trường đua ngựa, nên bạn phải ngăn
chặn tình trạng này bằng cách quy định rõ trong hợp đồng rằng khoản tiền
đó chỉ được sử dụng để mua máy soạn thảo văn bản. Trong các hợp đồng
vay nợ nói chung, để kiểm soát tình trạng rủi ro đạo đức, bên cho vay cần
đưa vào những điều khoản hạn chế để loại trừ những hành vi không mong
muốn, đồng thời khuyến khích những hành vi tích cực. Có bốn loại điều
31
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
khoản hạn chế thường gặp: Điều khoản ngăn cản hành vi không mong muốn,
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Điều khoản khuyến khích hành vi mong muốn, Điều khoản đảm bảo giá trị
vật thế chấp, Điều khoản cung cấp thông tin. Những điều khoản này sẽ được
32
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
nói kỹ hơn trong chương III.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
CHƢƠNG II
THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ
TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
Thị trường tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng
khoán (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu) và thị trường tín dụng ngân
hàng, giữ một vai trò đặc biệt trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn
trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính phát triển lành mạnh là một
nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao
khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và
hội nhập kinh tế quốc tế .
Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã
từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và
ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong
bối cảnh đó, thị trường tài chính cũng đã được hình thành và cải cách theo
các nguyên tắc thị trường, góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính một
cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngày 7/11/2006, Việt
Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng
nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền kinh tế
đất nước nói chung và thị trường tài chính nói riêng.
Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, thị trường
tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị
trường cấu thành cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành và từng
33
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết lập và có những đóng
góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.
Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu
lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong
chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh
hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các
ngân hàng thương mại Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo
hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong
quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên
nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả.
Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc
tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước
được thể chế hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về
quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước,
nhất là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của thị
trường tài chính đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ
quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các
doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính
nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh
doanh của mình.
Tuy đạt được không ít thành tựu, song thị trường tài chính Việt Nam
vẫn được xem là còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng
phương tiện thanh toán (M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng
đáng kể, đều từ dưới 20% năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm
34
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
2000 và 79,0% và 70,2% năm 2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ với chỉ số của các nước trong khu vực vào những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 19907.
Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong
năm 2006, song vẫn còn nhỏ bé. Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty
niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh
tại thời điểm 16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay
gần 7% GDP năm 2005; nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường
đạt 60.522,7 tỷ đồng, tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005.
Cùng thời điểm, tổng giá trị trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9%
GDP năm 2005, trong đó hầu hết thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%)8. Có rất ít trái phiếu công ty được phát
hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của
nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Mẫu hình thị trường tài chính Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng
hay do ngân hàng chi phối (bank-based or bank dominated financial market),
trong khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như:
(1) Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các Ngân hàng
thương mại (NHTM) nhà nước hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền
gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền
35
thống của các NHTM Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).
Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các 7 TS. Võ Trí Thành, Trưởng ban NCCS hội nhập - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, tham luận Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO. 8 Nghiên cứu trao đổi, Bức tranh toàn cảnh về thị trường chứng khoán, (08/01/2007 16:18), http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=39818 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm khách hàng của các ngân hàng liên doanh
và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị trường
tín dụng, nhất là đối với các NHTM Nhà nước, mặc dù với mức độ đang
giảm.
(2) Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ
quá hạn so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000 xuống còn 3,4% năm 20059. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách
phân loại quốc tế về nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp
nhiều lần con số công bố. Hơn nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là
khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu
quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các DNNN lớn mới chỉ thực sự
được triển khai từ năm 2005.
(3) Vấn đề “sai lệch kép” cũng đáng lo ngại. Với tỷ trọng nguồn vốn
huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy cơ sai
lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là
tương đối lớn. Nguy cơ này có thể tăng trong bối cảnh các NHTM có thể sử
dụng tới 25-30% tổng huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.
Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm trong hai ba năm lại đây, song mức
độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là
trong môi trường đô la hóa cao.
(4) Rủi ro tín dụng có thể tăng còn do thu nhập của các NHTM chủ
yếu dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay,
36
mặc dù nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 3-4
năm lại đây. Phần lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản, 9 T.S Phan Minh Ngọc, ĐH Kyushu Nhật Bản, Nợ xấu chưa được xử lý từ gốc? Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 50 - 2006, ra ngày 10/12/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ trong khi thị trường bất động sản biến động mạnh. Các khoản vay được thế
chấp chứng khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng
lực của các nhà đầu tư cá nhân còn thấp và thị trường chứng khoán (TTCK)
vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về giá cả.
Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn
chế. Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa
còn bất cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong
bối cảnh các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng
rãi, nhất quán. Công tác giám sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ
các định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ
thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các
quy định quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản
có, tài sản nợ, kiểm toán nội bộ,…mới được áp dụng, nên chưa thật sự có
hiệu lực và hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng chưa
đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL.
Thị trường chứng khoán vẫn còn ít các định chế tài chính quan trọng
như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ. Các công ty định mức tín nhiệm tuy
đã xuất hiện nhưng hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa được thế giới
công nhận. Các nhà bảo lãnh phát hành chủ yếu là các NHTM Nhà nước. Các
công ty chứng khoán chưa đóng vai trò nhà tạo lập thị trường quan trọng trên
thị trường, mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu chính phủ.
Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung chưa có tính chuyên nghiệp; hành vi đầu tư
thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”, gây biến động mạnh về giá và làm
giảm độ tin cậy đối với thị trường, nhất là trong bối cảnh mức độ công khai,
37
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
minh bạch của thị trường chưa cao.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo được đường cong lãi suất
chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động đầu
tư trên thị trường tài chính. Cách thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu
quốc gia trên thị trường quốc tế dường như vẫn thiếu tầm nhìn, chưa thật rõ
ràng về mục tiêu dài hạn. Thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu Chính
phủ trên thực tế chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Thị trường thứ cấp
kém phát triển. Sự tham gia đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của công chúng
còn hạn chế. Hệ thống tư pháp, các chuẩn mực về công bố thông tin và kế
toán, hệ thống thanh toán,... cần được cải thiện nhiều. Việc thiếu vắng các tổ
chức định mức tín nhiệm cũng là nguyên nhân kìm hãm thị trường. Có thể
nói, hiện Việt Nam còn thiếu nhiều điều kiện nền tảng để phát triển thị
trường trái phiếu công ty.
II. THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ
TRƢỜNG TÀI CHÍNH
1. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng
Lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng
Vấn đề thông tin bất cân xứng là một trong ba vấn đề cố hữu của thị
trường tài chính, bên cạnh vấn đề chi phí giao dịch và sự bất ổn định mang
tính hệ thống. Đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, thông tin bất cân
xứng là một vấn đề nổi cộm. Nguyên nhân là do các ngân hàng luôn có ít
thông tin về dự án và người xin cấp vốn hơn bản thân anh ta, vì thế gặp
nhiều khó khăn trong công tác thẩm định dự án vay vốn và đánh giá rủi ro
tín dụng liên quan đến đối tượng đi vay. Chính vấn đề thông tin bất cân
xứng đã dẫn đến lựa chọn ngược trong hoạt động phân phối tín dụng, tức là
38
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
những dự án có độ rủi ro tín dụng cao lại được lựa chọn để cấp vốn, trong
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khi những dự án có tính khả thi và ít rủi ro thì lại không tìm được nguồn vốn
tài trợ. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều bất cập trong hoạt động của
thị trường tín dụng tại Việt Nam.
Trước hết đó là vấn đề nợ xấu. Trong thị trường tài chính Việt Nam,
các ngân hàng chiếm tỉ trọng cao trong thị trường tài chính. Hầu hết các giao
dịch đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, TTCK chỉ chiếm một vai
trò khá khiêm tốn. Các ngân hàng Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế. Hiện ngân hàng đã là kênh huy động, cung ứng vốn
chính cho nền kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển hàng năm và 40% tổng
nhu cầu vốn của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Tuy
còn thấp hơn so với một số nước khác, nhưng tổng dư nợ tín dụng qua hệ
thống ngân hàng vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức bình quân chung của các nước có thu nhập thấp10.
Tuy nhiên, vấn đề chất lượng tín dụng và tỉ lệ nợ xấu là những vấn đề
cần báo động. Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt
nam, đến cuối năm 2003, tỷ lệ nợ xấu (quá hạn) của các ngân hàng thương
mại Việt Nam chiếm 4,74% trong tổng dư nợ cho vay gần 300.000 tỷ VNĐ
(tương đương với 14.200 tỷ VNĐ). Nhưng theo ý kiến của bà Susan Adams
đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam và ông Klaus Rohland -
Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam thì nợ xấu của
hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15-20% (tương đương 45.000-
60.000 tỷ VNĐ), chiếm từ 7-10% GDP Việt nam. Theo đánh giá của một số
39
10 Huỳnh Thế Du, Giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Cải cách ngân hàng, còn lắm chông gai, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 52 - 2005 (784), ra ngày 22/12/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chuyên gia thì tỷ lệ nợ xấu lên đến 30%.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Đến năm 2005, tỉ lệ nợ xấu theo công bố của Ngân hàng Nhà nước
trong báo cáo thường niên 3,18% (trên 7% đối với ngân hàng quốc doanh).
Dù tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm nhưng con số tuyệt đối nợ xấu lại tăng.
Vấn đề con số thống kê nợ xấu là bao nhiêu cũng đang gây nhiều tranh cãi.
Theo Ngân hàng thế giới World Bank và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF trong các
bản báo cáo định kỳ thường trích dẫn ý kiến cho rằng nợ quá hạn của hệ
thống ngân hàng Việt Nam không thấp hơn hai con số. Nếu chỉ dùng con số
công bố chính thức với tỷ lệ trên 10% của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam và dưới 5% của ba ngân hàng còn lại thì khối lượng nợ xấu đang
nằm trong bảng cân đối kế toán của các NHTM Nhà nước cũng trên 20.000
tỉ đồng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tỉ lệ nợ xấu trên tổng mức dư nợ của các
ngân hàng Việt Nam luôn ở mức cao nhưng chủ yếu là do tình trạng thông tin
bất cân xứng trong quá trình thẩm định cho vay. Công tác đánh giá khách hàng,
thẩm định dự án xin cấp vốn của các ngân hàng Việt Nam còn yếu kém, gặp
nhiều khó khăn.
Căn cứ vào quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản
hướng dẫn kèm theo, tất cả các ngân hàng đều xây dựng cho mình quy trình
tín dụng tách bạch giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên
với những vấn đề thực tế nêu trên, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án
có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ
ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Độ tin cậy
và tính chính xác của trong kết quả đánh giá, thẩm định khách hàng, thẩm
định dự án tại các tổ chức tín dụng còn rất nhiều điều phải bàn. Hầu như
không có tổ chức tín dụng nào đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào
40
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
bảng kết quả này mà không dựa vào tài sản đảm bảo hoặc những căn cứ
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khác. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế vẫn là thiết yếu, các tổ
chức tín dụng huy động vốn vẫn phải cung tín dụng, nhưng quyết định cấp
tín dụng của các tổ chức tín dụng căn cứ vào các tiêu chuẩn nào. Liệu các
quyết định này có đủ độ tin cậy, giảm thiểu việc tạo ra nợ xấu hay không là
câu hỏi rất lớn đối với từng tổ chức tín dụng nói riêng hệ thống tài chính
ngân hàng Việt Nam nói chung.
Mặc dù các quy định pháp lý về tiêu chuẩn cấp tín dụng đã khó rõ
ràng và gần sát với thông lệ quốc tế, nhưng các điều kiện hỗ trợ cho ngân
hàng trong công tác thẩm định vẫn còn thiếu. Ngân hàng khó có thể kiểm tra
tính xác thực của các hồ sơ vay vốn, và không thể giám sát hoạt động của
doanh nghiệp sau khi đã cấp tín dụng. Vì thế, doanh nghiệp có rất nhiều cách
để che mắt ngân hàng, thậm chí lừa đảo để vay vốn. Có thể lấy ví dụ một vài
hành vi che mắt ngân hàng sau đây:
Hồ sơ giấy tờ giả để vay vốn: Do ngân hàng khó có khả năng xác
minh một cách tuyệt đối tính chân thực, hợp pháp của hồ sơ giấy tờ vay vốn
nên nhiều cá nhân đã lợi dụng hiện tượng này để lừa đảo chiếm dụng vốn
ngân hàng. Một ví dụ là vụ án hàng chục ngân hàng mắc lừa đường dây làm
giả sổ đỏ gần đây tại Đà Nẵng. Ba bị cáo đã làm giả hàng loạt sổ đỏ cùng với
nhiều giấy tờ khác để lừa đảo, vay vốn hàng chục ngân hàng ở Đà Nẵng và Quảng Nam , chiếm dụng hơn 20 tỷ đồng11. Cũng gần đây, Công an quận 3,
41
11 Hàng chục ngân hàng là nạn nhân của đường dây làm giả sổ đỏ, 04/06/2007; 04:06:48 PM, http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?id=0741168&page=1&sheet=1&cid=244&nid ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
TP HCM vừa bắt giữ một giám đốc về hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đoạt tài sản. Bị cáo đã dùng 12 bộ giấy tờ nhà đất giả để lừa đảo gần 6,5 tỷ đồng.12
Bên cạnh những hành vi trên là vô số các thủ thuật, mánh lới lập dự
án giả vay vốn ngân hàng, móc ngoặc với các tổ chức tài chính đen, “phù
phép” báo cáo tài chính để che giấu tình trạng tài chính không lành mạnh, ...
Hàng loạt các vụ án lừa đảo chiếm dụng vốn ngân hàng trong thời gian qua
đã báo động về công tác đánh giá khách hàng, thẩm định vốn vay của ngân
hàng.
Một hợp đồng vay nhiều ngân hàng: Do hệ thống thông tin tín dụng
giữa các tổ chức tín dụng hiện nay chưa thông suốt, nên xảy ra nhiều trường
hợp một hợp đồng, một dự án kinh doanh có thể được sử dụng để vay vốn
nhiều lần tại các ngân hàng khác nhau. Doanh nghiệp ABC trúng thầu xây
dựng một công trình hạ tầng H. ABC ký hợp đồng phụ với các đơn vị thành
viên của mình hoặc một số đơn vị khác làm B' cho mình. Các đơn vị này lại
ký hợp đồng tiếp với các đơn vị khác nữa làm B''... Khi đó, tất cả các đơn vị
có hợp đồng xây dựng công trình H đem đến các ngân hàng vay vốn. Do
không có hệ thống thông tin kiểm tra một cách đầy đủ, khả năng tất cả các
hợp đồng thi công nêu trên đều được vay vốn là có thể xảy ra. Có thể tóm tắt
Sơ đồ 1: Một hợp đồng vay vốn nhiều ngân hàng.
42
12 Giám đốc dùng giấy tờ nhà giả lừa đảo 6,5 tỷ đồng, 25/04/2007; 09:04:28 AM http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?id=0741007&page=2&sheet=1&cid=244&nid ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
theo sơ đồ sau:
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Xác minh có lợi nhuận giữ lại: Đây cũng là vấn đề rất khó khăn đối
với ngân hàng vì lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các
khoản phải thu, các loại chi phí chờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán
không đủ độ minh bạch, không có kiểm toán thì rất khó có thể xác định được
doanh nghiệp lãi thật hay lãi giả.
Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng
trong việc thực hiện dự án ngân hàng chủ yếu tín vào sự trung thực của
khách hàng. rất khó khẳng định là khách hàng có thực sự bỏ vốn vào thực
hiện dự án hay toàn bộ là vốn vay. Một phương thức mà các doanh nghiệp
có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là sử dụng biện pháp nâng giá trong
các hợp đồng. Giử sử dự án đầu tư chỉ cần 7 tỷ đồng là có thể hoàn thành
nhưng bên vay lập dự án tăng lên thành 10 tỷ đồng. Bằng một vài biện pháp
chuyển tiền vòng vèo qua lại theo một vài hợp đồng là bên vay có thể chứng
minh với ngân hàng là mình đã bỏ ra trước 3 tỷ đồng để đầu tư dự án mà
43
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thực tế họ chẳng bỏ ra đồng nào cả. Với sự không minh bạch và khó xác
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài sản đã gây
rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín
dụng của mình.
Trên đây chỉ là một vài ví dụ để minh chứng cho tình trạng thiếu
thông tin phục vụ cho công tác đánh giá, thẩm định cho vay của ngân hàng.
Vấn đề thông tin bất cân xứng ở khâu phân phối tín dụng đã khiến các ngân
hàng phải vướng vào các khoản cho vay khó có khả năng thu hồi.
Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn và của bản thân các
ngân hàng
Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn trong sử dụng vốn vay
Với những vấn đề nên trên, việc xử lý lựa chọn bất lợi đối với khách
hàng trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay
đang là vấn đề rất lớn. Đó mới là những vấn đề trước khi quyết định cho
vay. Bây giờ chúng ta cùng xem xét vấn đề xử lý rủi ro đạo đức của các tổ
chức tín dụng sau khi cho vay. Hay nói cách khác việc giám sát sử dụng vốn
vay, thu hồi nợ vay của các tổ chức tín dụng. Để có thể kiểm tra giám sát,
đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng
phải biết được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay
của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các tổ chức tín
dụngViệt Nam vì việc kiểm soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn
đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh tế
phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất
cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu của người vay
vốn.
Mặt khác, trong khi hệ thống thông tin trong nội bộ các tổ chức tín
44
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
dụng, giữa các tổ chức tín dụng chưa được thông suốt, mà các doanh nghiệp
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ được mở tài khoản ở rất nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau và các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên
việc "qua mặt" các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích là
điều rất dễ xảy ra. Hoặc trường hợp một dự án, hợp đồng có thể vay ở nhiều
tổ chức tín dụng là điều rất hay xảy ra. Chúng ta cùng xem xét một số vấn đề
mà các ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng của mình:
Lòng vòng vay mượn: Doanh nghiệp ABC hoạt động sản xuất kinh
doanh tổng hợp (xây lắp, sản xuất vật liệuxây dựng, đầu tư bất động sản…)
cho rằng thị trường bất động sản đang ấm dần lên, nếu đầu tư ngay thì khả
năng sẽ có lợi trong tương lai. Nhưng hiện tại, ABC không có đủ vốn, việc
vay vốn ngân hàng để đầu tư vào bất động sản là không thể được vì ngân
hàng đánh giá đây là loại hình kinh doanh quá rủi ro. Làm thế nào để ABC
có tiền để đầu tư vào dự án bất động sản nêu trên? Hiện tại ABC đang là nhà
thầu thi công công trình có quy mô lớn. ABC vay vốn ngân hàng để mua
nguyên vật liệu của công ty XYZ (ABC chuyển tiền trả cho XYZ). XYZ là
nhà phân phối chính của ABC. XYZ tiếp tục ký hợp đồng mua sản phẩm của
ABC, XYZ chuyển tiền ngược trở lại cho ABC. Bây giờ tiền của ABC là
doanh thu chứ không phải là vốn vay. Vậy là ABC có thể dùng khoản tiền
này để thực hiện đầu tư dự án bất động sản nêu trên. Điều gì sẽ xảy ra nếu
thời gian sau đó thị trường bất động sản bị đóng băng. Việc chuyển tiền,
thanh toán nêu trên có thể thực hiện tinh vi hơn qua một vài doanh nghiệp
nữa. Đây cũng là cách mà một số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay
những khoản nợ quá hạn bằng những khoản nợ mới mà trong giới tài chính
ngân hàng gọi là đảo nợ.
Đảo nợ: Về nguyên tắc, “đảo nợ” là việc làm bị hạn chế, nhưng trong
45
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thực tế, do sự bất cân xứng thông tin cộng với tâm lý sợ cái xấu ảnh hưởng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đến thành tích chung, nên bằng cách này hay cách khác nhiều khoản nợ,
trước khi được xếp vào loại nợ xấu, có thể đã được quay vài ba vòng. Hoặc
khi các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, về nguyên tắc ngân hàng
không được tiếp tục cho vay, nhưng nếu không cho vay tiếp thì không thể thu hồi được nợ cũ, đã phóng lao đành phải theo lao.13
Sử dụng vốn vay sai mục đích: Một khi các doanh nghiệp đã được cấp
vốn, ngân hàng khó có khả năng giám sát quá trình sử dụng vốn vay của đơn
vị. Chính vì thế dẫn tới nhiều trường hợp sử dụng danh nghĩa công ty để vay
vốn nhưng lại không sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh mà đút túi cá
nhân, hay sử dụng vốn vay để tham gia vào các hoạt động đầu tư không
đúng như trong dự án vay vốn, hay tham gia các hoạt động phạm pháp...
Có thể lấy một ví dụ về việc sử dụng vốn vay sai mục đích của Chủ
tịch hội đồng thành viên Công ty cổ phần Sản xuất muối công nghiệp VN - Isaco, bà Nguyễn Minh Hoa14. Theo Cơ quan điều tra Bộ Công an, từ năm
2000 đến nay bà Nguyễn Minh Hoa, chủ tịch hội đồng thành viên Công ty
cổ phần Sản xuất muối công nghiệp VN - Isaco có hai dự án, hai công ty cổ
phần (Isaco và Anh Khoa) nhưng tất cả hoạt động không hiệu quả, tình hình
tài chính mất cân đối nghiêm trọng. Tổng số nợ của bà Hoa tại các ngân
hàng (NH), quĩ hỗ trợ phát triển và các đơn vị kinh tế khác lên đến khoảng
76 tỉ đồng.
46
Bà Hoa đã lợi dụng danh nghĩa hai công ty để lập các báo cáo tài
chính, các dự án giả để xin cấp vốn tại các tổ chức tín dụng như: Quĩ hỗ trợ 13 Huỳnh Thế Du, giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Ngân hà,ng không nên đeo gông cho mình, 02/03/2007, http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=986, 14 Nhiều ngân hàng là nạn nhân của “cò” tín dụng, 10/03/2006; 01:03:28 PM, http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?cid=244 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ
thương (Techcombank) TP. Hồ Chí Minh, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Bà Rịa Vũng Tàu, NH Đầu tư phát triển Tây Ninh, Quĩ hỗ
trợ phát triển Đồng Nai số tiền lên đến hơn 80 tỉ đồng. Tuy nhiên, khi nguồn
vốn được giải ngân thì bà Hoa đã sử dụng vào mục đích trả nợ cá nhân và bỏ
túi riêng số tiền hàng chục tỉ.
Theo kết quả xác minh của cơ quan điều tra, sai sót lớn nhất của các
ngân hàng là không xem xét giá trị tài sản đảm bảo nợ vay, không trực tiếp
kiểm tra thực tế, không kiểm tra phương án kinh doanh; sau khi giải ngân
không theo dõi, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, dẫn đến tình trạng
không có khả năng thu hồi vốn cho vay.
Mặc dù đã thẩm định hồ sơ chặt chẽ, ngân hàng vẫn không thoát khỏi
nguy cơ đối mặt với rủi ro đạo đức của người đi vay. Nhiều trường hợp do
hệ thống đăng kí tài sản chưa chặt chẽ khiến ngân hàng không những không
nắm được thông tin về người đi vay mà còn không kiểm soát được quyền sở
hữu tài sản thế chấp. Điều này dẫn đến việc nhiều người sử dụng luôn chính
tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay để đi bán lại cho người thứ ba mà
ngân hàng không hề hay biết.
Trường hợp đề cập tới ở đây là một rủi ro của Ngân hàng Cổ phần Quốc tế (trụ sở số 5 Lê Thánh Tông, Hà Nội)15. Tháng 9/2003 Ngân hàng
Cổ phần Quốc Tế sau khi tiến hành thẩm định hồ sơ đã quyết định cho anh
Nguyễn Quốc Khánh (188 Phó Đức Chính, Hà Nội) vay để mua xe ô tô với
biện pháp bảo đảm chính là tài sản hình thành từ vốn vay. Theo hợp đồng tín
47
15 Rủi ro đạo đức đang rình rập các ngân hàng, 07:35, 24/09/2004, http://www.vnn.vn/xahoi/doisong/2004/09/263874/ ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
dụng, chỉ khi nào người đivay hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng thì tài
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ sản hình thành từ vốn vay mới hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của anh ta.
Tuy nhiên, do những bất cập trong hệ thống đăng kí tài sản, cùng với thực tế
thông tin bất cân xứng trong việc giám sát hoạt động của người đi vay sau
khi được cấp vốn, các ngân hàng không thể kiểm soát được các hành vi trái
pháp luật của người đi vay vốn với tài sản thế chấp. Trường hợp này, anh
Khánh dù chưa thanh lý xong hợp đồng tín dụng (có nghĩa là chiếc xe nói
trên chưa thuộc quyền sở hữu của anh mà vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân
hàng) nhưng đã đem bán chiếc xe cho người thứ 3. Hoạt động đăng kí sở
hữu xe cho người thứ 3 vẫn được tiến hành bình thường tại phòng cảnh sát
giao thông khu vực, và sai phạm vẫn không bị phát hiện cho đến ngày
21/8/2004, anh ta bị giữ lại trên đường khi đang điều khiển chiếc xe với lý
do tài sản này là của ngân hàng.
Đây là rủi ro mang tính đạo đức bởi khi quyết định cho vay, Ngân
hàng Cổ phần Quốc tế rất khó có thể biết được liệu người đi vay có thực
hiện đúng những cam kết, nghĩa vụ pháp lý hay không. Đây là điều nằm
ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Hơn nữa, thông thường một cán bộ tín
dụng không chỉ chịu trách nhiệm quản lý một đối tượng được hỗ trợ vốn
trong quá trình cho vay. Chính vì vậy việc kiểm soát mọi hoạt động của bên
vay trong quá trình sử dụng vốn từ ngân hàng là rất khó khăn. Nhất là đối
với những khoản vay mà tài sản thế chấp là những tài sản pháp luật không
bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, hoặc các phương tiện giao thông vận
tải.
1.2.2. Rủi ro đạo đức của bản thân các ngân hàng
Trong thị trường tín dụng, vấn đề thông tin bất cân xứng không chỉ
tồn tại ở lựa chọn ngược của ngân hàng trong phân phối tín dụng và rủi ro
48
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
đạo đức của những người vay vốn sau khi đã được cấp tín dụng, mà nó còn
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tồn tại ở một mức độ tinh vi hơn: đó chính là rủi ro đạo đức của bản thân các
ngân hàng. Xét rủi ro đạo đức của ngân hàng ở đây là trong mối quan hệ
giữa Ngân hàng - Chính phủ, lúc này, các ngân hàng là người có lợi thế về
thông tin và có thể che đậy hành vi của mình, do đó có xu hướng tham gia
vào các hoạt động rủi ro cao. Để xem xét vấn đề rủi ro đạo đức, trước hết
hãy đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa bộ ba: Chính phủ - Ngân hàng quốc
doanh - Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là tam giác đã được khá nhiều nhà
kinh tế học phân tích trong thời gian gần đây.
Ở Việt Nam, chính phủ thường can thiệp vào hoạt động cho vay của
các ngân hàng quốc doanh đối với các một số lĩnh vực đầu tư, và khuyến
khích cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Chính phủ công
khai hoặc ngầm thể hiện sự hỗ trợ cho các ngân hàng quốc doanh trong
trường hợp DNNN phá sản. Chính vì thế, các ngân hàng quốc doanh có xu
hướng ỷ lại vào sự đảm bảo của Nhà nước, có xu hướng thích cho các doanh
nghiệp Nhà nước, dù là đang trên bờ vực phá sản, vay vốn. Tiếp đến, vì nhận
thức được sự hỗ trợ này từ phía Nhà nước, ỷ lại vào Nhà nước và ngân hàng
quốc doanh, các DNNN càng có động cơ tham gia vào các hoạt động có độ
rủi ro cao. Điều này dẫn đến tình trạng các DNNN làm ăn thua lỗ, gây thiệt
hại lớn cho ngân sách quốc gia, ngân hàng quốc doanh hoạt động kém hiệu
quả, tỉ lệ nợ xấu cao báo động, trong khi Nhà nước phải liên tục bơm thêm
vốn hỗ trợ. Như vậy, sự hỗ trợ của nhà nước đối với các ngân hàng quốc
doanh trong việc cho vay với các DNNN (được đề cập trong nhiều nghiên
cứu như là chính sách ngân hàng lớn không sụp đổ - Too big to fail) đã dẫn
đến tình trạng rủi ro đạo đức của các ngân hàng.
Trong nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt
49
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Nam vào năm 2005, tiến sĩ Jenny Gordon và các đồng sự nhận xét: “Điểm
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ yếu lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam rõ ràng là sự chi phối của
các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về mặt truyền thống, trên thế giới,
các ngân hàng thương mại quốc doanh đã có những người chủ yếu kém,
không có khả năng yêu cầu các ngân hàng của mình đạt kết quả kinh doanh
bền vững hoặc thực hiện các quy định an toàn tương tự như đặt ra cho các
ngân hàng tư nhân”.
Một ngân hàng được coi là hoạt động có hiệu quả khi suất sinh lợi
trên tổng tài sản (ROA) tối thiểu phải đạt từ 0,9-1% và được coi là đủ vốn
khi hệ số đủ vốn (CAR) phải đạt tối thiểu 8%. Thế nhưng, năm 2003, ROA
của bốn NHTMNN (chiếm hơn 70% thị phần huy động vốn và tín dụng) chỉ
khoảng 0,3%, hệ số đủ vốn vào cuối năm 2004 chưa vượt con số 5%. Nếu
trích dự phòng rủi ro đầy đủ thì hai chỉ số này chắc chắn sẽ âm. Năm 2005,
trong số 5 ngân hàng thì có tới 4 ngân hàng có chỉ số ROA bé hơn 1%.
Bảng 1: Tình hình tài chính ngân hàng quốc doanh
(Tính đến 31/12/2005)
Ngân hàng ROE ROA
Công thương 12,74% 0,49%
Nông nghiệp và 11,86% 0,44%
Phát triển nông
thôn
Đầu tư và Phát 7,9% 0,41%
triển
Ngoại thương 14,9% 1,0%
Phát triển nhà 7,85% 0,56%
ĐBSCL
50
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2005.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Không những hoạt động kém hiệu quả, vấn đề chất lượng tín dụng và
nợ xấu cũng là điều đáng báo động. Bất chấp Ngân hàng Nhà nước gần đây
đã bơm thêm vốn (tái cấp vốn) cho các ngân hàng thương mại quốc doanh,
vấn đề nợ xấu vẫn ở mức trầm trọng. Đặc biệt đối với ngân hàng thương mại
quốc doanh, theo một số ước tính tỷ lệ nợ xấu lên tới 10-20%, hoặc thậm chí
cao hơn thế, trong tổng dư nợ của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, mặc
dù con số công bố chính thức chỉ ở mức vài ba phần trăm.
Hơn nữa, những khoản tín dụng có vấn đề tập trung chủ yếu ở các
DNNN, những doanh nghiệp mà trong khoảng một thập niên qua, tổng số
tiền trợ cấp của nhà nước tương đương với số thuế thu nhập mà các doanh
nghiệp này đã nộp (khoảng 70.000 tỉ đồng). Hay nói cách khác, với 200.000
tỉ đồng (tương đương 28% GDP năm 2004) giao cho các DNNN sử dụng,
nhà nước không thu được đồng thuế thu nhập nào chứ đừng nói đến thu cổ tức trên cương vị cổ đông16.
Theo lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch
hóa hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các ngân hàng thương mại
quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài chính “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng
không quan tâm đến việc đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay,
gây ra và tích đọng nợ xấu. Ràng buộc tài chính “mềm” là một thuật ngữ
chuyên môn chỉ tình trạng một doanh nghiệp không quan tâm nghiêm túc
đến việc thua lỗ tài chính và luôn luôn kỳ vọng rằng chính phủ hay một bên
51
16 Huỳnh Thế Du, Giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Cải cách ngân hàng, còn lắm chông gai, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 52 - 2005 (784), ra ngày 22/12/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thứ ba sẽ đứng ra cứu giúp khi phải đối mặt với phá sản. Chính sách bao cấp
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ của chính phủ đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước là cơ sở cho tình trạng này17.
Sự can thiệp của chính phủ vào việc cho vay của ngân hàng có thể
diễn ra trước khi quyết định cho vay được đưa ra hoặc sau khi giao dịch đã
hoàn tất. Với can thiệp diễn ra trước khi ra quyết định cho vay, cho đến tận
những năm gần đây, các ngân hàng quốc doanh vẫn có nghĩa vụ thực hiện
các khoản cho vay chính sách, theo các chương trình phát triển của chính
phủ hoặc vì lý do chính trị.
Tuy tỷ lệ các khoản cho vay theo chính sách không bao giờ được tiết lộ, một
số nhà phân tích ước đoán không dưới 1/3 tổng dư nợ cho vay của các ngân
hàng quốc doanh ở một số thời điểm. Tất nhiên, các khoản cho vay chính
sách thông thường bao giờ cũng có chất lượng thấp hơn các khoản cho vay
thương mại. Theo Bộ Tài chính, năm 2006 nợ phải trả của doanh nghiệp nhà
nước khoảng 350.000 tỉ đồng, trong đó chủ yếu nợ ngân hàng. Cổ phần hóa
vẫn đang tiếp tục, nhưng trong số doanh nghiệp nhà nước còn lại, 229 đơn vị kinh doanh không có lãi, 316 công ty thua lỗ18.
Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua những bước thay
đổi quan trọng về tổ chức và cơ chế hoạt động, biến các ngân hàng quốc
doanh thành các ngân hàng kinh doanh thương mại thuần túy, nhưng chính
quyền Trung ương vẫn có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích một cách
công khai hoặc ngầm định các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn
thương mại cho phép để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra. Chính quyền
52
17 T.S Phan Minh Ngọc, ĐH Kyushu, Nhật Bản, Nguyên nhân của vấn đề nợ xấu có quy mô lớn ở Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số ra ngày 6/10/2006. 18 Nợ xấu ngân hàng: Đằng sau những con số, Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 40 - 2006, ra ngày 28/09/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
địa phương đôi khi cũng "ép" các ngân hàng cho vay các doanh nghiệp Nhà
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nước thua lỗ để tránh làm tăng mức thấp nghiệp. Ngoài ra, các quan chức
chính phủ cũng thường can thiệp vào quyết định cho vay của ngân hàng,
khiến tỷ lệ nợ xấu thêm gia tăng.
Chính phủ còn can thiệp vào thị trường tín dụng sau khi sự cho vay đã
diễn ra hoàn tất bằng cách ra tay cứu vớt các doanh nghiệp Nhà nước hoặc
ngân hàng quốc doanh có vấn đề. Sự cứu giúp của chính phủ có thể ở dưới
nhiều dạng như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nhận các khoản
nợ xấu, và cố ý trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng
thanh toán. Thông lệ cứu vớt như vậy đã làm giảm nhu cầu cải thiện tính
hiệu quả ở các ngân hàng, khuyến khích ngân hàng theo đuổi các dự án cho
vay đầy rủi ro.
Dưới sự can thiệp hoặc khuyến khích ngầm định và công khai của
chính phủ như trên, các ngân hàng quốc doanh trở nên “thích” cho vay các
doanh nghiệp nhà nước hơn vì mọi rủi ro hầu như đã được chính phủ bảo
lãnh. Điều này càng quan trọng hơn khi mà ở Việt Nam, cơ chế luật định
liên quan đến thi hành các nghĩa vụ hợp đồng rất yếu kém, làm tăng rủi ro
mất khả năng thu hồi các khoản cho vay của ngân hàng. Trong bối cảnh
không có sự bảo lãnh của chính phủ thì tất nhiên các ngân hàng sẽ phải rất
thận trọng khi quyết định cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Hơn nữa,
quan hệ truyền thống và dài hạn giữa ngân hàng quốc doanh và các doanh
nghiệp nhà nước làm cho chi phí giao dịch với các doanh nghiệp nhà nước
nhỏ hơn với doanh nghiệp tư nhân, càng làm tăng thêm xu hướng ngân hàng
cho vay doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh nghiệp tư nhân.
Vì thế, dễ hiểu tại sao con nợ mất khả năng thanh toán chính của ngân
hàng quốc doanh là các doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải các doanh
53
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
nghiệp tư nhân.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Nghiêm trọng hơn, sự can thiệp và khuyến khích của chính phủ dẫn
đến xu hướng là các doanh nghiệp nhà nước càng có tính rủi ro cao thì càng
được các ngân hàng cho vay nhiều hơn vì hai lý do. Thứ nhất, những doanh
nghiệp này càng là mối bận tâm của chính phủ, buộc chính phủ phải tăng
cường chỉ đạo các ngân hàng cho vay để cứu vớt, cải tổ lại chúng. Thứ hai,
bản thân các ngân hàng cũng muốn cho các doanh nghiệp này tiếp tục vay vì
nếu rút lui thì các doanh nghiệp này sẽ phá sản, do đó các ngân hàng mất
khả năng thu hồi các món cho vay trước đó.
Tất nhiên trong việc này, các ngân hàng kỳ vọng, như đã và đang xảy
ra, rằng chính phủ sẽ đứng ra cứu vớt nếu sự cho vay mạo hiểm kiểu này sẽ
đưa các ngân hàng đến bên vực phá sản.
Một trong những ví dụ điển hình của việc cứu vớt các ngân hàng quốc
doanh là việc tái cấp vốn để che giấu quy mô nợ khó đòi của các ngân hàng
này nhờ làm giảm tỷ lệ nợ xấu của chúng đi (tuy con số tuyệt đối vẫn không
thay đổi). Một ví dụ khác là việc thành lập gần đây và cấp vốn cho công ty
quản lý tài sản (AMC) nhà nước để xử lý nợ khó đòi của các ngân hàng
thương mại quốc doanh, và thành lập cơ quan Bảo hiểm tiền gửi.
Với hai biện pháp xử lý nợ đầu, nhiều nhà kinh tế nhìn nhận với con
mắt quan ngại vì chúng sẽ làm tăng rủi ro đạo đức trong các quyết định cho
vay của các ngân hàng nghiêng hơn nữa về các dự án có tính rủi ro cao - đặc
biệt là của các doanh nghiệp Nhà nước, do kỳ vọng sẽ được chính phủ cứu
vớt trong tương lai nếu có xảy ra nguy cơ mất khả năng thanh toán. Và như
vậy thì vấn đề nợ khó đòi sẽ càng trở nên trầm trọng hơn với việc thi hành
hai biện pháp xử lý nợ khó đòi này. Việc giải quyết vốn không sinh lời đang
bị trì trệ. Vấn đề sâu xa ở chỗ, việc giải quyết các khoản vay không thế chấp
54
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
đòi hỏi phải đưa ra các quyết định liên quan đến tương lai của các DNNN
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ không có khả năng trả nợ. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại quốc
doanh lại không ở vị trí để có thể đưa ra các quyết định đó.
Chính sách Bảo hiểm tiền gửi quá rộng rãi cũng là một nguyên nhân
làm tăng rủi ro đạo đức. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) được thành lập
và đi vào hoạt động từ năm 2000. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi thực chất là sự
cam kết của Nhà nước đối với những người gửi tiền rằng Nhà nước sẽ đảm
bảo an toàn cho các khoản tiền gửi của họ ngay cả khi ngân hàng mất khả
năng trả các món nợ. Đây là một biện pháp nhằm tạo tâm lý yên tâm cho
người gửi tiền, tránh tình trạng khi có những tin đồn thất thiệt về hoạt động
của ngân hàng, người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút hết tiền từ các ngân hàng, gây
nên tình trạng hỗn loạn và sụp đổ ngân hàng trên toàn hệ thống. Tuy nhiên,
chính sách bảo hiểm tiền gửi quá rộng rãi sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại cho các ngân
hàng trong các quyết định cho vay, và kéo theo tâm lý ỷ lại của những người
gửi tiền. Bởi vì họ tin rằng dù ngân hàng có sử dụng nguồn vốn huy động
không hiệu quả đi chăng nữa thì món tiền của họ cũng không gặp rủi ro do
có sự đảm bảo của Nhà nước, do đó những người có các khoản tiền gửi lớn
sẽ không còn động cơ để giám sát hoạt động của ngân hàng như trước đây.
Thiếu sự giám sát của người gửi tiền, cùng với sự hỗ trợ đảm bảo của Nhà
nước đã khiến rủi ro đạo đức của các Ngân hàng lại càng tăng.
Mặc dù có rất ít tiến bộ trong cải cách cơ cấu ngân hàng, nhưng các
ngân hàng quốc doanh thời gian qua vẫn nhận được những khoản tái cấp vốn
hàng chục ngàn tỉ đồng và điều này tạo nguy cơ tiếp tục sử dụng lãng phí.
Vốn bổ sung dường như đã không giúp các ngân hàng quốc doanh thận
55
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trọng hơn trong hoạt động cho vay.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Chất lượng cho vay thấp ở các ngân hàng quốc doanh còn do người
quản lý của các ngân hàng được trao quyền tự chủ trong việc ra quyết định cho
vay, nhưng không hoàn toàn chịu trách nhiệm vào chất lượng các khoản cho
vay theo quyết định của họ. Vì thế, chừng nào các nhà quản lý còn không bị
ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm trong các quyết định của mình thì các khoản
cho vay khó đòi sẽ tiếp tục phát sinh và ứ đọng dần lên trong bảng tổng kết tài
sản của ngân hàng.
Ngay trong tháng 8/2006, Ngân hàng Nhà nước có công văn đề nghị
bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn (Ngân hàng Công thương Việt
Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) khẩn
trương làm việc với Tổng công ty Điện lực Việt Nam để thỏa thuận các nội
dung của hợp đồng tín dụng, thống nhất nội dung để ký hợp đồng tín dụng
đối với dự án thủy điện Sơn La. Công văn ghi rõ: “Căn cứ quyết định đầu tư
dự án thủy điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các ngân
hàng thương mại xét duyệt cho vay, không phải thẩm định phương án vay,
trả nợ”19!!!
2. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng chứng khoán
Thị trường chứng khoán bao gồm thị trường cổ phiếu và thị trường
trái phiếu. Ở cả hai thị trường, vấn đề thông tin bất cân xứng đều tồn tại, và
có các đặc điểm bản chất tương đồng nhau. Tuy nhiên, do thị trường trái
56
phiếu Việt Nam còn chưa phát triển, vấn đề thông tin bất cân xứng còn chưa
bộc lộ rõ. Khóa luận này xin được tập trung vào phân tích thực trạng thông 19 Hồng Phúc, Loanh quanh nợ xấu, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 36 - 2006 (820), ra ngày 31/08/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tin bất cân xứng trên thị trường cổ phiếu Việt Nam. Những đặc điểm được
phân tích ở đây cũng có thể được áp dụng luôn cho thị trường trái phiếu.
1.1. Lựa chọn ngược của các nhà đầu tư
Trong TTCK, vấn đề thông tin bất cân xứng trước giao dịch tồn tại ở
hai dạng: thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng
khoán, và giữa các nhà đầu tư với nhau. Thông tin bất cân xứng giữa nhà
đầu tư và công ty phát hành chứng khoán tồn tại do doanh nghiệp biết rõ về
tình hình tài chính của công ty và giá trị thực của chứng khoán mà công ty
phát hành hơn nhà đầu tư, và có xu hướng che giấu các thông tin bất lợi, bóp
méo, thổi phồng các thông tin theo hướng có lợi cho mình, phản ánh sai lệch
giá trị của doanh nghiệp, lừa đảo và đẩy nhà đầu tư tới các quyết định sai
lệch.
Trong khi đó, thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau lại
xảy ra do có một nhóm các nhà đầu tư được biết nhiều thông tin riêng biệt
hơn hơn số còn lại, có thể do có nguồn thông tin riêng, hay do các mối quan
hệ, các thủ thuật để lấy thông tin. Biểu hiện rõ nhất của thông tin bất cân
xứng giữa các nhà đầu tư đó là hiện tượng giao dịch nội gián và hiện tượng
tạo cung cầu ảo trên TTCK.
1.1.1. Thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng
khoán.
Hiện tượng thông tin bất cân xứng giữa công ty phát hành và nhà đầu
tư là cơ sở cho rất nhiều hành vi giao dịch thao túng TTCK liên tục trong
thời gian qua. Theo Thông tư 97/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn thi hành
một số điều của Nghị định số 36/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán,
57
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hành vi giao dịch thao túng TTCK là các hành vi giao dịch làm cho mọi
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người hiểu sai lệch về thị trường. Hành vi này được cụ thể hóa ở những giao
dịch như (1)Lập hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có
thông tin sai lệch, gây hiểu lầm hoặc không có đầy đủ thông tin cần thiết
theo quy định của pháp luật (2)Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu
sự thật, (3) Sử dụng thông tin ngoài Bản cáo bạch để thăm dò thị trường
trước khi được phép phát hành ra công chúng, (4) Không nộp hồ sơ đăng ký
với ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) trong thời hạn 90 ngày, kể
từ ngày trở thành công ty đại chúng, (5) Hồ sơ công ty đại chúng đăng ký
với UBCKNN có những thông tin sai lệch hoặc không có đủ thông tin cần
thiết, (6) Không báo cáo hoặc báo cáo không kịp thời khi xảy ra các sự kiện
bất thường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tài chính và hoạt
động kinh doanh, các hành vi trì hoãn, trốn tránh, không cung cấp đầy đủ,
kịp thời thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử theo yêu cầu của thanh tra... đều là
những hành vi vi phạm.
Mặc dù đã có Thông tư 38 của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên
TTCK, và các thông tư khác liên quan đến chế tài xử phạt hành vi vi phạm
nhưng hiện tượng các công ty cố tình che giấu, không công bố thông tin vẫn
diễn ra “như cơm bữa” trên TTCK. Trong tháng 10 vừa qua, do vi phạm
khâu công bố thông tin và không báo cáo lên Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước, công ty cổ phần Thuỷ hải sản Minh Phú (MPC) đã phải chịu mức phạt
hành chính 30 triệu đồng cho hai vi phạm. Cụ thể, ngày 4/10, Chánh Thanh
tra UBCKNN đã ký Quyết định số 26/QĐ-TT về việc xử phạt vi phạm hành
chính đối với CTCP Thuỷ hải sản Minh Phú. Theo đó, căn cứ kết quả giám
sát, tài liệu và chứng cứ về việc phát hành thêm cổ phiếu của Thuỷ hải sản
Minh Phú, UBCKNN kết luận: công ty thực hiện phát hành cổ phiếu theo
58
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chương trình lựa chọn cho người lao động trong nội bộ nhưng không gửi các
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tài liệu liên quan đến UBCKNN, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Ngoài ra, Minh Phú cũng không công bố thông tin trên các phương tiện
thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi thực hiện việc phát hành theo
quy định của pháp luật.
Một phần nguyên nhân là do chế tài xử phạt không có tính răn đe, Uỷ
ban chứng khoán vẫn còn “giơ cao đánh khẽ” đối với đơn vị vi phạm.
Phù phép báo cáo tài chính: Trước đây, khi chưa cổ phần hóa, nhiều
công ty thường lập hai sổ kể toán, một để làm việc với cơ quan thuế, một là
sổ thực để quản lý nội bộ. Sự phù phép lãi nhiều thành lãi ít, lãi ít thành
không lãi để có thể bỏ túi được nhiều hơn là việc làm không phải là hiếm
thấy. Còn bây giờ, khi đã cổ phần hóa thì họ lại phù phép ngược lại, lỗ thành
lãi, lãi nhỏ thành lãi lớn.
Thổi cổ phiếu: Sau khi đã dùng các thủ thuật để chuyển lãi thành lỗ,
các công ty lại tiếp tục sử dụng các thủ thuật nhằm nâng giá cổ phiếu. Để cổ
phiếu còn lên cao hơn nữa, có thể dùng chiêu quyết định đánh gục các nhà
đầu tư đang bị cuốn hút như sau: Chia cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành
nâng vốn điều lệ. Với tỷ lệ cổ tức 2:1 (50%) và phát hành mua thêm 1:1 với
mệnh giá, thị giá cổ phiếu dễ dàng được đẩy lên gấp nhiều lần so với thị giá
trước đó. Lúc đó sẽ chỉ thấy hình ảnh các nhà đầu tư đặt giá trần để mua cổ
phiếu của công ty này với khối lượng mỗi ngày có thể lên đến vài trăm ngàn
cổ phiếu, thậm chí cả triệu cổ phiếu. Nhưng, lượng cổ phiếu sẽ được bán ra
nhỏ giọt mà thôi (vài trăm, vài ngàn, chục ngàn, ...). Ai cũng nghĩ đó là một
cổ phiếu quý hiếm và không muốn bán ra. Giá cổ phiếu cứ thế bị đẩy lên.
Các công ty không có khả năng quản lý nguồn vốn lớn hơn nhưng cứ phải
phát hành nâng vốn thêm. Mục đích của những việc này chỉ là đẩy cổ phiếu
59
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
của công ty họ lên cao hơn nhiều lần, từ đó, số lợi mang lại cho họ từ việc
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tăng giá chóng mặt của cổ phiếu của công ty họ đem lại cho họ những món
lợi khổng lồ.
Với những công ty sắp lên sàn, những người nắm vai trò quản trị
trong công ty có thể úp úp mở mở rằng công ty sắp tham gia góp vốn vào dự
án rất triển vọng, dự án thủy điện chẳng hạn. Hay với số cổ phần còn ế,
người ta bày ra chiêu phân chia quyền lợi những ai được mua số cổ phiếu
đó. Tin đồn chỉ có những thành viên chủ chốt mới được mua những cổ phiếu
còn lại (thực chất là bị ế), lọt ra ngoài và cổ phiếu đó bắt đầu được quan tâm
trên thị trường.
Có vô vàn những hành vi gian lận, thủ thuật tinh vi khác mà các
công ty phát hành có thể sử dụng nhằm thổi phồng giá trị cổ phiếu của công
ty mình, phản ánh không đúng giá trị cổ phiếu. Trong bối cảnh tính minh
bạch của thị trường còn thấp, các kỷ luật công bố thông tin trên thị trường
còn lỏng lẻo, không có các tổ chức sản xuất và bán thông tin độc lập, các
nhà đầu tư luôn ở thế bất lợi về thông tin. Do đó, họ thường đưa ra các quyết
định đầu tư sai lầm. Cũng do thiếu thông tin mà các nhà đầu tư trên TTCK
Việt Nam còn có “hành vi bầy đàn” hay “tâm lý đám đông” trong các quyết
định đầu tư. Không ít nhà đầu tư nghe theo tin đồn đã mua phải những cổ
phiếu giả, cổ phiếu của các công ty đang thua lỗ, hay mua với giá cao hơn
giá trị thực của cổ phiếu, để rồi cuối cùng vỡ nợ, phá sản. Trong khi đó,
nhiều công ty làm ăn chân chính, có tình hình tài chính thực sự lành mạnh,
lại không biết cách phát tín hiệu với nhà đầu tư, khiến họ không nhận biết
được giá trị thực sự của cổ phiếu công ty, dẫn tới tình trạng giá thấp hơn giá
trị thực, gây lãng phí cho thị trường. Đó chính là vấn đề lựa chọn ngược -
60
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hậu quả của tình trạng thông tin bất cân xứng.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Các nhà đầu tư trong nước, do thiếu thông tin chính xác về tình hình
tài chính thực sự của doanh nghiệp, nên đành quan sát hành vi của nhà đầu
tư nước ngoài và làm theo. Chính vì thế, những nguồn thông tin của các tổ
chức đánh giá độc lập có tác động cực kỳ to lớn với thị trường, điển hình là
“hiệu ứng Merry Lynch” gần đây. TTCK ảm đạm trong một thời gian khá
dài sau báo cáo của Merry Lynch khuyến nghị rút toàn bộ vốn ra khỏi Việt
Nam. Khi các nhà đầu tư nội địa hoang mang và bán ra một lượng cổ phiếu
lớn, khiến giá cổ phiếu sụt mạnh thì các nhà đầu tư ngoại lại tăng mua vào.
Xét về khía cạnh thông tin bất cân xứng, thì có thể thấy là do các nhà đầu tư
có quá ít thông tin đáng tin cậy, đầy đủ về hoạt động, triển vọng của các
doanh nghiệp, có quá ít nguồn thông tin độc lập nên chỉ một nguồn thông tin
một chiều cũng khiến họ hoang mang, mất phương hướng.
1.1.2. Thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau.
Thực tế, vấn đề thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán xuất phát từ tình trạng thông tin bất cân xứng giữa nhà
đầu tư với công ty phát hành chứng khoán, tạo điều kiện cho các công ty lợi
dụng tiết lộ thông tin cho một số hạn chế các nhà đầu tư, cung cấp thông tin
không công bằng đối với các nhà đầu tư. Nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu thông tin
vì thế phải chịu nhiều thua thiệt.
Một trong những khó khăn lớn nhất của nhà đầu tư nhỏ lẻ là khả năng
tiếp cận và xử lý thông tin. Mặc dù trong một thời đại công nghệ thông tin,
nhưng thị trường chứng khoán vốn rất nhạy bén với thông tin, việc tiếp cận
thông tin chậm hơn dù chỉ là chút xíu hoặc xử lý thông tin không tốt cũng có
thể dẫn đến thua thiệt rất nhiều. Trong những ngày đầu hoạt động của thị
trường chứng khoán, những tin đồn như nhà máy nhiệt điện Phả Lại bị cháy
61
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
một tổ máy, cán bộ lãnh đạo đang bị điều trình trước công an, việc một tổng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ giám đốc ôm hàng trăm tỷ đồng bỏ trốn, ..., đã khiến cho không ít người
hoang mang, bán đổ cổ phiếu đến khi thông tin được xác nhận là tin đồn
nhảm thì cũng khiến nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ khuynh gia bại sản. Thêm vào
đó là hiện tượng làm giá, tạo cầu giả bằng nhiều thủ thuật của một số công ty
đã khiến cho nhiều nhà đầu tư non trẻ, chạy theo xu hướng chung bị thua
62
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thiệt nặng nề.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Giao dịch nội gián:
Giao dịch nội gián là việc tổ chức hoặc cá nhân sử dụng các thông tin
nội bộ chưa được công bố công khai của doanh nghiệp có chứng khoán niêm
yết để thực hiện việc mua hoặc bán chứng khoán của tổ chức đó. Giao dịch
nội gián thể hiện sự không công bằng, xâm phạm quyền lợi của nhà đầu tư vì
trên TTCK, thông tin tốt, xấu có ảnh hướng rất lớn đến giá cổ phiếu. Theo
Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ 1.1.2007), người biết rõ thông tin nội bộ
hoặc người có thông tin nội bộ nếu mua, bán chứng khoán, tiết lộ thông tin
này hoặc đề nghị người khác mua, bán chứng khoán sẽ bị phạt tiền, tịch thu
các khoản thu vi phạm hoặc bị xử lý hình sự.
TTCK vẫn còn nhiều kẽ hở cho giao dịch nội gián. Việc thiếu minh
bạch về thông tin thể hiện ở chỗ các quy định vẫn chưa cho phép công ty
niêm yết và đăng ký giao dịch công bố thông tin rộng rãi trong cùng một
thời điểm, mà phải gửi trước thông tin cho TGDCK. Như vậy, các trung tâm
được hưởng đặc quyền sở hữu thông tin trước và sau đó mới công bố. Cơ
chế này đã tạo mảnh đất màu mỡ cho giao dịch nội gián phát triển. Ngoài ra,
tại các phiên đấu giá cổ phiếu, thông tin về số lượng nhà đầu tư tham gia chỉ
là một con số tổng hợp, còn thông tin nội gián về danh sách các nhà đầu tư
tổ chức (trong nước và nước ngoài) tham gia đấu giá cổ phần không được
công bố, nhưng lại dễ bị rò rỉ. Tình trạng này chỉ gây thiệt hại cho đông đảo
nhà đầu tư cá nhân.
Bên cạnh đó, các thành viên của hội đồng quản trị, ban giám đốc, ...
những người được tiếp cận với thông tin liên quan đến chứng khoán của
công ty đầu tiên, có thể là nguồn rò rỉ thông tin nội gián. Ví dụ, vào cuối
năm tài chính, tổng kết hoạt động công ty có tỷ suất lợi nhuận 60% nhưng
63
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chưa được công bố. Thành viên hội đồng quản trị có thể lợi dụng báo cho
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người nhà mua khối lượng lớn cổ phiếu, chờ đến khi công bố thông tin giá
cổ phiếu tăng, họ bán ra, thu chênh lệch giá lớn
Trong bảy năm qua kể từ khi thị trường chứng khoán VN đi vào hoạt
động, “nghi án” giao dịch nội gián lớn nhất là giao dịch có liên quan đến cổ
phiếu của một công ty bánh kẹo. Ở thời điểm công ty này đang “biến lỗ
thành lời” cho năm tài chính 2002, một thành viên hội đồng quản trị đã bán
ra 40.000 cổ phiếu của công ty. Khi đó, giới đầu tư nghi ngờ ông này biết
được nội tình nên đã kịp thời tháo chạy. Và quả thật, tháng 6/2003, ông bước ra khỏi hội đồng quản trị công ty này20.
Trong các phiên đấu giá cổ phiếu, hầu hết những người thắng đều là
nhà đầu tư tổ chức. Thông tin nội gián về danh sách các nhà đầu tư tổ chức (
trong nước và nước ngoài) tham gia đấu giá cổ phần bị rò rỉ trở thành phổ
biến và phiên đấu giá trở thành cơ chế xin cho. Tình trạng này gây thiệt hại
cho đông đảo nhà đầu tư cá nhân không có mối quan hệ.
Với các giao dịch lớn của các quỹ đầu tư thì thông tin bị rò rỉ ở các
công ty chứng khoán - nơi các quỹ này đặt lệnh. Các nhân viên ở phòng môi
giới là những người tiếp cận thông tin này trước, và một số đã nhanh chân
hơn vì khi các quỹ mua cổ phiếu, giá sẽ tăng. Theo giới tài chính, hiện tượng
này được xem là một hoạt động giao dịch nội gián với tên gọi phổ biến là
“fund-running”, tức cầm tiền chạy trước quỹ (đầu tư).
Trong thời gian gần đây, rất nhiều ý kiến phản ánh tình trạng tiêu cực
tại một số công ty chứng khoán, khi họ đồng thời vừa đóng vai trò tư vấn
cho khách hàng lại vừa giao dịch trên thị trường dưới hình thức tự doanh. Sự
64
20 Nở rộ kiểu đầu cơ chứng khoán nhờ giao dịch nội gián, 18/1/2007, 09:31 GMT+7, http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Chung-khoan/2007/01/3B9F2767/ ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hơn trội hẳn về khả năng quản lý giao dịch, thời gian, thời điểm nhập lệnh
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khiến cho cuộc chơi thiếu hẳn sự bình đẳng. Vấn đề bức xúc này hiện vẫn
chưa có một giải pháp nào hữu hiệu. Điều này thuộc về bản chất bất đối
xứng của thông tin giữa một bên là những người có thông tin tốt hơn (các
công ty được niêm yết, các đại gia lớn) và một bên là những người ít thông
tin hơn (các nhà đầu tư nhỏ lẻ) dẫn đến sự không cân bằng giữa các lực
lượng thị trường.
Các giao dịch nội gián gần như không thể kiểm soát được do cơ quan
quản lý nhà nước còn thiếu kinh nghiệm và luật còn quá lỏng lẻo. Động thái
gần đây nhất của TTGDCK nhằm phát hiện và ngăn chặn giao dịch nội gián
là yêu cầu các công ty có giá cổ phiếu tăng kịch trần trong năm phiên liên
tiếp phải giải trình về các thông tin có liên quan đến việc tăng giá.
Tạo cung cầu giả, thao túng giá trên TTCK.
Hiện tượng các nhà đầu tư lớn sử dụng các thủ thuật đặt khớp lệnh
trên sàn giao dịch chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả, thao túng giá xảy
ra khá phổ biến trong thời gian qua. Các nhà đầu tư có thể sử dụng các thủ
thuật như: khi muốn bán loại cổ phiếu nào đó với giá trần, một nhà đầu tư
lớn (thường được gọi là đại gia) chỉ cần đặt một lệnh mua giá trần với khối
lượng khá lớn, nhưng sau đó hủy lệnh. Các nhà đầu tư khác trên sàn sẽ “sập
bẫy” khi đại gia này dùng tài khoản khác để bán ra cổ phiếu này. Ngược lại,
khi muốn mua cổ phiếu nào đó với giá sàn, các đại gia chỉ cần đặt lệnh bán
cổ phiếu này ở giá sàn với khối lượng lớn, có thể đưa lệnh vào cuối phiên
hay hủy lệnh, đồng thời dùng tài khoản khác để mua vào. Có nhiều biện
pháp mang tính kỹ thuật khác mà một số nhà đầu tư có thể sử dụng để tạo
khối lượng giao dịch ảo, cung - cầu ảo trên thị trường, khiến những nhà đầu
tư ít thông tin hơn đánh giá sai lệch về cổ phiếu, khiến giá khớp lệnh không
65
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
phản ánh đúng cung cầu trên thị trường. Những nhà đầu tư nhỏ lẻ, ít thông
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tin cần phải thận trọng khi thấy giá một loại chứng khoán đột ngột đụng trần
hay rớt sàn một cách khác thường trong một phiên giao dịch, bởi đó rất có
thể là dấu hiệu của một thủ thuật “làm giá” trên TTCK.
Tháng 7 vừa qua, thanh tra ủy ban Chứng khoán nhà nước vừa xử
phạt ba nhà đầu tư cá nhân ở TP. Hồ Chí Minh có hành vi tạo ra cung, cầu
giả tạo và thao túng giá trên thị trường chứng khoán. Hai ông Bùi Quang
Thành (quận Phú Nhuận) và Huỳnh Thanh Minh ở quận Tân Phú, TP. Hồ
Chí Minh đã bị phạt tổng cộng 160 triệu đồng vì đã thông đồng trong giao
dịch chứng chỉ quỹ VF1 nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo và cấu kết với nhau
liên tục mua bán chứng chỉ này để thao túng giá.
Giao dịch không công bố thông tin:
Gần đây xảy ra nhiều trường hợp cổ đông lớn, quan trọng của các
công ty cổ phần đã âm thầm bán chứng khoán mà không thông báo theo qui
định đã ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư
nhỏ...
Cuối tháng 8/2007, ông Phạm Đình Lâm - thành viên hội đồng quản
trị CTCP Nhựa xây dựng Đồng Nai phải giải trình trước Uỷ ban Chứng
khoán về việc giao dịch cổ phiếu với số lượng lớn mà không công bố thông
tin. Đây chỉ là một trong bốn vụ vi phạm công bố thông tin giao dịch nội bộ
diễn ra trong tháng 8/2007, được HOSE phát hiện và yêu cầu các đương sự
giải trình.
Theo qui định về công bố thông tin trên TTCK, các thành viên hội
đồng quản trị, ban kiểm soát, các thành viên ban giám đốc, kế toán trưởng
của tổ chức niêm yết và người có liên quan phải công bố thông tin giao dịch,
kể cả giao dịch không thông qua hệ thống giao dịch tại sàn cho SSC, Sở
66
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Giao dịch CK, TTGDCK tối thiểu trước khi giao dịch một ngày. Trong thời
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ hạn ba ngày sau khi hoàn tất giao dịch cũng phải báo cáo kết quả cho các cơ
quan nêu trên.
1.2. Rủi ro đạo đức của các công ty phát hành chứng khoán
Ở trên, chúng ta đã nghiên cứu tình trạng thông tin bất cân xứng trước
giao dịch giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành, dẫn đến lựa chọn
ngược trong quyết định của nhà đầu tư. Tuy nhiên, vẫn còn một khía cạnh
nữa của tình trạng thông tin bất cân xứng, đó là rủi ro đạo đức. Trên TTCK,
rủi ro đạo đức thuộc về các công ty phát hành. Sau khi đã phát hành và bán
hết số cổ phiếu, các công ty phát hành đã sử dụng nguồn vốn huy động được
vào các hoạt động rủi ro cao. Nhà đầu tư, vì không thể nào giám sát, nắm giữ
được thông tin về hoạt động của công ty phát hành, nên đành phải hứng chịu
nguy cơ các khoản đầu tư của họ giảm hay mất giá trị. Nguyên nhân là do
tình trạng thông tin bất cân xứng khiến các công ty có thể che đậy hành vi
của mình, và có động cơ lạm dụng vốn cổ đông, liên tục phát hành thêm cổ
phiếu, thực hiện những hành vi mà xét trên quan điểm nhà đầu tư - bên nắm
giữ ít thông tin hơn - là không có lợi cho nguồn vốn của họ.
Sử dụng vốn huy động để đầu tư tài chính:
Hiện nay, các công ty phát hành chứng khoán ồ ạt. Nhiều công ty
không có nhu cầu tăng vốn cho hoạt động sản xuất, hay không có khả năng
quản lý nguồn vốn lớn hơn, nhưng vẫn tiếp tục phát hành huy động thêm
vốn. Bất lợi của việc huy động vốn cổ đông ào ạt là là việc tăng vốn cổ phần
sẽ dẫn đến chi phí vốn cao. Bởi vì chi phí vốn cổ phần bao giờ cũng cao hơn
chi phí lãi vay, nên việc tăng tỉ trọng vốn cổ phần kéo theo chi phí vốn bình
quân của doanh nghiệp tăng lên. Tỷ suất sinh lợi trên một đồng vốn sẽ hầu
như giảm xuống do các dự án kinh doanh mới của doanh nghiệp không đủ
67
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
bù đắp sự tăng lên của chi phí vốn. Thống kê các doanh nghiệp trên sàn TP.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Hồ Chí Minh thì trong năm 2006, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp đều có
sự thay đổi rõ rệt so với năm 2005: Hầu hết các doanh nghiệp đều gia tăng
cơ cấu vốn cổ phần, giảm tỉ trọng vốn nợ. Hệ quả tất yếu là chi phí vốn bình
quân tăng lên, thông thường từ 1-2%, cá biệt có doanh nghiệp việc thay đổi
cơ cấu vốn làm chi phí vốn bình quân tăng 3-4%. Như vậy, tính trung bình
cho năm 2006, chi phí huy động vốn của các doanh nghiệp dao động trong
khoảng 14-17%.Liệu các dự án mà các cổ đông thông qua có đạt được mức
sinh lợi trên 18%/năm trên mức chi phí đã bỏ ra và thời gian để có được hiệu
quả đó là bao lâu?
Do tình trạng thông tin bất cân xứng, nhà đầu tư không thể trực tiếp
giám sát cách thức và lộ trình giải ngân lượng thặng dư vốn khổng lồ của
doanh nghiệp sau phát hành (và thực tế thì do nhận thức, nhiều nhà đầu tư
Việt Nam còn chưa quan tâm tới vấn đề này) Về nguyên tắc vốn huy động
được sau phát hành sẽ được đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo
đúng phương án đề ra sau phát hành. Nhưng thực tế là các dự án đề ra
thường là các dự án dài hạn và việc giải ngân vốn sẽ được thực hiện trong
thời gian dài, nên lượng tiền nhàn rỗi là rất lớn. Trong khi đó, việc mở rộng
sản xuất lại phải gắn liền với việc tìm đầu ra cho sản phẩm và sức tiêu thụ
của thị trường.
Hầu hết các lượng vốn dư thừa đó được sử dụng để đầu tư tài chính,
đây chính là một điểm thể hiện tính rủi ro khi các công ty này không có một
đội ngũ đầu tư chuyên nghiệp và sự đổ vỡ tài chính có thể xảy ra bất kỳ lúc
nào khi thị trường sụt giảm. Lợi nhuận tài chính thu về từ hoạt động đầu tư
hầu hết là rất nhỏ, không đáng kể so với chi phí tài chính (chủ yếu là chi phí
lãi vay). Tỉ suất lợi nhuận trên khoản tiền đầu tư là rất thấp, đặc biệt là trong
68
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thời điểm thị trường ảm đạm như hiện nay. Huy động vốn trên thị trường
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ chứng khoán và tiền lại chảy ngược lại chứ không phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh là một sự lãng phí vốn một cách trầm trọng.
Hậu quả là quyền lợi của chính các cổ đông bị ảnh hưởng khi tiền của
mình bị sử dụng không đúng mục đích. Vậy huy động thêm vốn là tốt hay
không tốt trong giai đoạn hiện nay và huy động vốn để làm gì, là bài toán mà
cổ đông phải tỉnh táo và sáng suốt để tính toán cho đúng.
Chính vì thế mà không chỉ Merry Lynch, mà rất nhiều nhà nghiên cứu
có cái nhìn xấu về thói quen phát hành thêm cổ phiếu của các công ty trên
sàn chứng khoán của Việt Nam.
Sử dụng vốn không hiệu quả:
Các nhà đầu tư không giám sát được hoạt động của công ty phát hành,
do đó không đảm bảo được việc sử dụng nguồn vốn huy động có hiệu quả.
Ví dụ là sự việc xôn xao gần đây về tình trạng “pha loãng thương hiệu
FPT”. Khi giá cổ phiếu của FPT giảm mạnh, nhiều cổ đông của Công ty cổ
phần Phát triển đầu tư công nghệ FPT mới nhận ra họ đã dễ dãi khi trao
quyền quá lớn cho hội đồng quản trị trong việc lập các công ty con, khiến
thương hiệu này bị “pha loãng”. Công ty FPT lại không nắm giữ cổ phần tại
các công ty con, không tính giá trị thương hiệu như cổ phần góp vốn. Câu
hỏi được nhiều cổ đông nhỏ bên ngoài đặt ra là vì sao họ không được tham
gia quá trình thành lập công ty con và quyết định phương thức góp vốn vào
những công ty này? Bởi lẽ nếu FPT sở hữu 100% thì lợi nhuận của những
công ty con sẽ chảy về công ty mẹ và các cổ đông cùng được hưởng. Thế
nhưng, tất cả chủ trương thành lập công ty con và quyết định phương thức
góp vốn đã không được thông qua đại hội đồng cổ đông FPT. Lý do trực tiếp
là đơn giản là vì các cổ đông đã thông qua bản điều lệ công ty theo hướng
69
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trao quyền cực lớn cho HĐQT. Theo bản điều lệ này, chỉ có những khoản
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đầu tư có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong
báo cáo tài chính gần nhất của FPT mới phải biểu quyết tại đại hội cổ đông.
Nhưng bản chất sâu xa của vấn đề chính là rủi ro đạo đức của các công ty
phát hành, và các nhà đầu tư thì không thể kiểm soát được hành động của
công ty.
3. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tiền tệ:
Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài
chính ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm). Thị trường tiền tệ thường bao gồm thị
trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường
đấu thầu tín phiếu kho bạc. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ bao gồm
Ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, và các tổ chức tài chính
phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi
giới tiền tệ.
Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ có độ rủi
ro thấp, tính thanh khoản cao. Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm tín
phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu của ngân hàng,
thỏa thuận mua lại, tín phiếu NHTW.
Nhìn chung, thị trường này không bộc lộ rõ tình trạng thông tin bất
cân xứng. Mặc dù có sự tham gia của cá nhân và doanh nghiệp, nhưng các
giao dịch trên thị trường tiền tệ chủ yếu diễn ra giữa các tổ chức tài chính,
giữa tổ chức tài chính và chính phủ. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ còn được
coi là công cụ thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước thông qua hệ
thống ngân hàng hai cấp. Vấn đề thường gặp ở đây chỉ là tính công khai,
minh bạch của Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách mà thôi. Một
70
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
số nghiệp vụ trên thị trường này như nghiệp vụ Arbitrage có thể được dựa
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ một phần trên cơ sở thông tin không hiệu quả, do người mua và người bán
không gặp trực tiếp mà phải thông qua trung gian arbitraguer, nhưng bản
chất của nghiệp vụ không phải dựa trên tình trạng thông tin bất cân xứng
mà dựa trên sự chênh lệch tỉ giá giữa các khu vực khác nhau. Đây là vấn đề
luôn tồn tại trên thị trường ngoại hối do quan hệ cung cầu ngoại hối quyết
định.
Do những lý do trình bày ở trên, khóa luận này xin được không phân
tích vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tiền tệ Việt Nam.
4. Đánh giá chung về thị trƣờng tài chính.
Sau khi đã có cái nhìn cụ thể về tình trạng thông tin bất cân
xứng trên từng thị trường cấu thành, người viết xin đưa ra một số đánh
giá chung sau đây:
Thứ nhất, vấn đề minh bạch hóa thông tin trên toàn thị trường
đang trở thành một vấn đề cấp thiết cần quan tâm để đảm bảo sự hoạt
động lành mạnh của thị trường. Đặc biệt là thị trường chứng khoán đang
bắt đầu trỗi dậy, việc minh bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết đảm
bảo quyền lợi nhà đầu tư, giúp thị trường hoạt động tốt và giúp TTCK trở
thành một kênh huy động vốn quan trọng, hiệu quả cho nền kinh tế. Để
tăng cường tính minh bạch của thị trường đòi hỏi một hệ thống giải pháp
toàn diện trên nhiều lĩnh vực, cần sự quan tâm của cả chính phủ và các
đối tượng tham gia thị trường.
Thứ hai, sự can thiệp hành chính, và chính sách bao cấp hỗ trợ
không hợp lý của chính phủ đã phần nào làm lệch lạc các quan hệ thị
71
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, vấn đề này cần được chú ý
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
đúng mức để giúp thị trường tài chính hoạt động theo đúng quy luật thị
trường thật sự, hội nhập vào nền tài chính thế giới.
Thứ ba, văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
nhìn chung còn chưa được xây dựng đúng mức, tính kỷ luật chưa cao.
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu như chưa quan tâm tới vấn đề này, dẫn
đến tình trạng thái độ trong hoạt động kinh doanh phần nào còn mang
tính chộp giật, ngắn hạn, chưa coi trọng đúng mức chữ tín. Chính điều
này đã làm cho vấn đề thông tin bất cân xứng, cụ thể là rủi ro đạo đức
tăng cao.
CHƢƠNG III
ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
TÌNH TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ
TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT
NAM - TƢ TƢỞNG VÀ QUAN ĐIỂM CHỦ ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ
NHÀ NƢỚC
1. Quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về phát triển thị
72
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trƣờng tài chính và nhận thức đúng thị trƣờng tài chính
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Việc phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế bền vững.
Ngược lại, sự ổn định kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế và sự phát triển
năng động của doanh nghiệp cũng là nền tảng cho sự phát triển của thị
trường tài chính. Nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn còn đang trong trình độ
phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi, bản thân thị trường tài
chính còn chứa đựng không ít rủi ro, yếu kém và đòi hỏi một quá trình phát
triển lâu dài, bền vững và an toàn. Chính vì vậy, cần có lộ trình, chính sách,
biện pháp phù hợp với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.
2. Đảm bảo sự vận hành của thị trƣờng tài chính trên cơ sở các quan hệ
thị trƣờng thật sự.
Để đảm bảo thị trường tài chính thực hiện chức năng phân bổ nguồn
lực tài chính một cách có hiệu quả, cần thực hiện tôn trọng quan hệ thị
trường, thông qua việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản là giảm thiểu sự can
thiệp hành chính của Nhà nước, tăng cường cạnh tranh và đảm bảo giá cả
phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. Quan hệ thị trường phải
được đảm bảo đối với cả thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu, thị trường
cổ phiếu và thị trường tín dụng ngân hàng. Điều này không hề cản trở tới
chức năng của nhà nước trong việc đảm bảo tính minh bạch của thị trường,
hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường khả năng giám sát (dựa trên các chuẩn
mực và kinh nghiệm quốc tế) và hoàn thiện các tổ chức quản lý. Đây cũng là
điều kiện đặc biệt quan trọng, nhất là đối với thị trường tài chính vốn rất
73
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
nhạy cảm và chứa đựng không ít rủi ro.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ 3. Đặt quá trình phát triển và hoàn thiện thị trƣờng tài chính trong
tổng thể hình thành đồng bộ thể chế thị trƣờng, cải cách cơ cấu và
hội nhập kinh tế quốc tế.
Cải cách cơ cấu, hội nhập kinh tế quốc tế và việc phát triển thị trường
các nhân tố sản xuất có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Việc
cụ thể hóa đường lối chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020 cần phải
đồng thời tính đến đầy đủ quá trình cải cách, hội nhập, và phát triển thị
trường các nhân tố sản xuất, trong đó có thị trường tài chính. Trong điều
kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, với nhiều
cam kết trong lĩnh vực tài chính, chúng ta cần phải có lộ trình phát triển
WTO vững chắc, đồng bộ nhằm hạn chế những tác động tiêu cực có thể phát
sinh từ các cam kết quốc tế.
4. Hƣớng tới hình thành và phát triển một thị trƣờng tài chính cân đối
hơn, xác định và lựa chọn mô hình quản lý tài chính phù hợp với sự
phát triển của thị trƣờng tài chính.
Hình thành và phát triển một thị trường tài chính có cấu trúc cân đối
hơn là yêu cầu tất yếu để được một thị trường tài chính hiện đại, lành mạnh
và có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, trong một số năm trước mắt,
hệ thống ngân hàng và tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trong
thị trường tài chính trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Những hạn chế
về xuất phát điểm, năng lực, thể chế cũng chưa cho phép nhanh chóng xây
dựng một thị trường tài chính hiện đại và cân đối hơn. Chính vì vậy, cần có
lộ trình tổng thể thích hợp phát triển đồng bộ thị trường tài chính cũng như
mô hình quản lý hệ thống tài chính và thị trường tài chính.
Trước mắt, cần chú trọng đến việc hoàn thiện thị trường tiền tệ và
74
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
lành mạnh hóa hệ thống ngan hàng, nhất là các NHTMNN do yêu cầu thực
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tế hiện nay vì đây cũng chính là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện các
công cụ giao dịch, nhất là các công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro. Cần
nhấn mạnh rằng một thị trường tiền tệ hoàn chỉnh hơn sẽ góp phần đẩy
nhanh việc chuyển sang sử dụng có hiệu quả các công cụ tiền tệ gián tiếp
nhằm vừa đảm bảo khả năng kiểm soát cung tiền tệ, vừa góp phần hạn chế
những rủi ro tài chính có thể phát sinh, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế và lãi suất được tự do hóa.
Dưới sự giúp đỡ, hỗ trợ của cac tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ
Tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới, chương trình cơ cấu lại hệ thống
Ngân hàng thương mại đã được Ngân hàng Nhà nước xây dựng tương đối
hoàn chỉnh và đang được thực thi. Vấn đề cơ bản ở đây là tăng vốn cho các
NHTMNN, xử lý dứt điểm nợ xấu và hạn chế tối đa các khoản nợ quá hạn
mới có thể tiếp tục phát sinh. Điều này không chỉ là kết quả của việc nâng
cao năng lực quản trị rủi ro, tăng cường áp lực cạnh tranh đối với các ngân
hàng, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tiến trình cải cách DNNN, việc thay
đổi cách thức lựa chọn đầu tư và sự can thiệp vào thị trường tài chính của
nhà nước.
5. Tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nƣớc đối với thị
trƣờng tài chính
Việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị
trường tài chính cần gắn liền với đảm bảo thực thi nghiêm túc các nguyên
tắc quản lý cơ bản, trong đó cần chú trọng xây dựng các chế tài thích hợp và
hiệu quả, xây dựng mô hình quản lý thích hợp và tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và nâng cao năng lực của cơ quan quản
75
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
lý Nhà nước.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Trước hết, cần thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, kỷ luật về minh
bạch hóa thông tin, kế toán, kiểm toán, và giám sát dựa trên các chuẩn mực
quốc tế và chỉnh sửa các văn bản pháp lý có liên quan. Định mức tín nhiệm
quốc tế và việc tạo dựng lòng tin đối với công chúng và các nhà đầu tư phụ
thuộc vào hiệu quả của việc thực hiện các nguyên tắc này. Mô hình quản lý
ở Việt Nam về cơ bản là mô hình quản lý theo định chế tài chính, mặc dù
cũng có một số khía cạnh quản lý là theo chức năng. Mô hình này chỉ có thể
phát huy tác dụng với 2 điều kiện:
Một là, cần làm rõ và tăng cường chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan quản lý, nhất là đối với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Uỷ ban
Chứng khoán Nhà nước. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cần thực sự được
đảm bảo quyền chủ động trong xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ.
Chức năng giám sát, kiểm tra và chức năng cơ quan chủ quản ngành của các
cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần được phân định rõ ràng hơn.
Hai là, cần thể chế hóa cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý
(bằng quy định pháp lý và/hoặc qua thành lập tổ chức). Một phương án là
củng cố, nâng cao vị trí của Hội đồng Tài chính - Tiền tệ quốc gia với tư
cách là một cơ quan điều phối chung có đầy đủ chức năng, quyền lực cần
thiết. Phương án khác là chỉ định một cơ quan quản lý, dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Chính phủ, làm đầu mối thưuờng trực thực hiện công tác phối hợp,
điều hành và thực thi các chính sách tài chính - tiền tệ.
Đồng thời, cần nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý thích hợp và
khả thi trong tương lai, khi thị trường tài chính đã phát triển hơn. Việc kết
hợp quản lý theo định chế với quản lý theo chức năng, hạn chế xung đột lợi
76
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
ích giữa các cơ quan quản lý là một hướng cần được quan tâm nghiên cứu.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Bên cạnh việc hoàn thiện thể thì chất lượng nguồn nhân lực cũng là một
nhân tố quyết định năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Những vấn
đề cần tập trung xử lý để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đối mới
chương trình đào tạo - bồi dưỡng nghiệp vụ theo hướng cơ bản, hiện đại, tập
trung sự giúp đỡ và hỗ trợ quốc tế, và cải cách công tác tuyển chọn, bố trí và
đề bạt cán bộ.
6. Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá rủi ro tài chính và mô hình cảnh
báo sớm
Đây là một căn cứ quan trọng để xử lý kịp thời các tình huống có thể
phát sinh, hạn chế rủi ro trên thị trường tài chính và ngăn ngừa khủng hoảng
tài chính - tiền tệ. Cách thức thông thường là tập hợp và xem xét một loạt
các nhóm chỉ số về kinh tế vĩ mổ, tài chính - ngân hàng, tiền tệ, cán cân
thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài, và tài chính doanh nghiệp. Cách thức
được quan tâm gần đây là xây dựng các mô hình dự báo khủng hoảng tài
chính - tiền tệ. (Ở tầm khu vực, có thể xây dựng mô hình cảnh báo sớm về
khả năng và phạm vi lan truyền khủng hoảng).
Tuy nhiên, mô hình chỉ là sự khởi đầu của quá trình phân tích kinh tế
và chính sách. Đánh giá theo hệ thống các chỉ số và mô hình cần kết hợp với
đánh giá chuyên gia để có thể đưa ra những dự báo kịp thời và kiến nghị
chính sách hợp lý.
II. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN
XỨNG TRÊN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM
1. Trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng
1.1. Biện pháp hạn chế lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng
1.1.1. Các quy định pháp lý rõ ràng, chặt chẽ liên quan đến hoạt động
77
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
tín dụng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói
riêng được quy định bởi văn bản cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng.
Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng. Các quy
định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ
và theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho
bên cấp tín dụng trên cơ sở bảo đảm những quy định về an toàn. Tuy nhiên,
cần quy định chi tiết, chặt chẽ hơn nữa về các điều kiện cấp tín dụng, quy
định về đảm bảo tiền vay và quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay
và giám sát thu hồi vốn vay nhằm hướng dẫn các tổ chức tín dụng. Đồng
thời, các quy định pháp lý cần tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng được tự
chủ và phải chịu trách nhiệm về hoạt động tín dụng của mình, đảm bảo điều
kiện để ngân hàng có thể tìm đúng khách hàng, đúng dự án để cấp tín dụng
(giảm thiểu tình trạng lựa chọn ngược) và giám sát để khách hàng thực hiện
những hành vi đúng sau khi được cấp tín dụng để hoàn trả cho ngân hàng
khoản tín dụng được cấp (phòng tránh rủi ro đạo đức).
1.1.2. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy
a. Phát triển trung tâm thông tin tín dụng tư nhân
Vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng tồn tại khiến
các tổ chức cho vay không có đủ thông tin về đối tượng xin cấp tín dụng,
dẫn tới tình trạng lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng và khiến cho hoạt
động phân phối tín dụng trở nên kém hiệu quả. Các dự án rủi ro lại được lựa
chọn để cấp tín dụng trong khi đó các dự án kinh doanh khả thi, có độ rủi ro
thấp lại không thể vay được vốn do chi phí trở nên cao một cách tương đối.
Một biện pháp để đảm bảo cho vay mà ngân hàng thường sử dụng là thế
78
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
chấp. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với nhiều doanh
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và những doanh
nghiệp mới thành lập vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có
đủ giấy tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một
giải pháp khác hiệu quả hơn đang được tổ chức cho vay ở nhiều nước sử
dụng là chỉ phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa
chọn và theo dõi họ thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay
phải nắm được thông tin về lịch sử thanh toán của những khách hàng tiềm
năng khi ra quyết định cho vay và xác định lãi suất vay. Kinh nghiệm quốc
tế cho thấy ở những quốc gia mà thông tin tín dụng sẵn có sẽ có nhiều doanh
nghiệp và cá nhân tiếp cận được các nguồn tài chính. Để đạt được điều đó,
việc hết sức cần thiết hiện nay là phải xây dựng các trung tâm thông tin tín
dụng (TTTD) độc lập.
Trung tâm thông tin tín dụng là các tổ chức trung gian đúng ra thu
thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp các
tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay (doanh nghiệp và cá nhân) tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn21. Trung tâm thông tin tín
dụng tư nhân là một mô hình đang rất phát triển ở nhiều nước và đã được
chứng minh là có thể giúp tăng cường tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa (DNNVV) và cá nhân. Ở Việt Nam, mô hình trung tâm TTTD
còn rất mới. Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (Credit Information Center, viết tắt là CIC) mới được thành lập từ
năm 1999. Tuy nhiên, hoạt động của Trung tâm còn mang tính hình thức,
thông tin nghèo nàn, thiếu chính xác và có độ trễ trong việc cập nhật, chưa
79
21 Trung tâm thông tin kinh tế, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, 02/2006, Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân - một định chế còn thiếu để tăng cường tiếp cận tài chính ở Việt Nam, Bản tin Môi trường kinh doanh, số 15 tháng 2/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thực sự hiệu quả và chưa trở thành một nguồn thông tin tham khảo tin cậy
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cho các tổ chức cho vay. Bên cạnh đó, còn thiếu vắng các trung tâm TTTD
tư nhân. Do hạn chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là
rất hẹp so với ở nước có trung tâm TTTD tư nhân. Ở Việt Nam, trên 1000
người trưởng thành thì chỉ có thông tin tín dụng của 11 người - trong khi đó ở Thái Lan con số này là 184 người và ở Australia là 1000 người22. Đây có
thể là một trong những lý do giải thích tại sao DNNVV và cá nhân ở Việt
Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản khi tiếp cận tín dụng.
Ở hầu hết các nước, trung tâm TTTD nhà nước thông thường do Ngân
hàng Nhà nước thành lập với mục đích giám sát các ngân hàng là chính, còn
trung tâm TTTD tư nhân thường được thành lập bởi các tổ chức tín dụng hay
những thành viên tham gia thị trường tín dụng khác để giúp các thành viên
chia sẻ thông tin tín dụng vì mục đích kinh doanh. Các trung tâm TTTD Nhà
nước có xu hướng chỉ thu thập thông tin về các khoản vay giá trị lớn có thể
có ảnh hưởng tổng thể đến nền kinh tế. Những thông tin mà họ thu thập là từ
những tổ chức tài chính thuộc quyền giám sát của Ngân hàng Nhà nước, do
đó thường không bao gồm các định chế tài chính phi ngân hàng đang rất
phát triển như các công ty thuê mua, công ty tài chính. Hơn nữa, trung tâm
TTTD Nhà nước cũng chỉ cung cấp thông tin tín dụng hiện tại mà không
cung cấp thông tin lịch sử thanh toán của người vay.
Trong khi đó, trung tâm TTTD tư nhân thu thập thông tin trên phạm
vi rộng hơn nhiều, bao gồm cả những khoản vay của DNNVV và cá nhân.
Đặc biệt thông tin được lưu giữ không chỉ giới hạn ở những khoản vay lớn.
Trung tâm TTTD tư nhân cung cấp thông tin về lịch sử thanh toán của người
80
đi vay và nhiều dịch vụ khác như công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ
thống chấm điểm tín dụng,… Để kiểm soát thành tích tín dụng thì báo cáo 22 Báo cáo toàn cầu về Môi trường kinh doanh 2006: Việc làm, Ngân hàng thế giới và Công ty Tài Chính quốc tế, tháng 9/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ kỷ luật tín dụng của các doanh nghiệp phải được kiểm toán độc lập, thẩm
định chéo trước khi công bố. Như vậy, trung tâm TTTD tư nhân mới đáp
ứng tốt nhất các yêu cầu về thông tin tín dụng của các tổ chức cho vay để
phục vụ đối tượng xin vay là DNNVV và cá nhân tốt hơn.
Một điều tra năm 2003 của Ngân hàng Thế giới ở nhiều nước đã đưa
ra những bằng chứng cho thấy không có mối liên hệ đáng kể nào giữa hoạt
động của trung tâm TTTD Nhà nước với sự giảm bớt các rào cản về tín
dụng; trong khi đó với sự có mặt của trung tâm TTTD tư nhân, rào cản tiếp
cận tài chính giảm bớt một cách rõ rệt và tỷ lệ được cấp tín dụng của doanh nghiệp nhỏ gia tăng23 Những phát hiện cụ thể là tỷ lệ % các doanh nghiệp
nhỏ gặp khó khăn về vốn ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 27%
trong khi đó, ở những nơi không có trung tâm này, tỷ lệ này là 49%; xác suất
doanh nghiệp nhỏ vay được từ ngân hàng ở những nước có trung tâm TTTD
tư nhân là 40%, cao hơn nhiều ở những nước không có (28%).
Tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho DNNVV và tín
dụng tiêu dùng trong những năm gần đây, đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về
thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC không thể đáp ứng
hết. Trong một hội thảo gần đây do Ngân hàng Nhà nước phối hợp với IFC-
MPDF và Visa tổ chức, hơn 150 đại diện đến từ các ngân hàng đang hoạt
động ở thị trường Việt Nam đã ủng hộ việc thành lập trung tâm TTTD tư
nhân ở Việt Nam. Nhu cầu thông tin tín dụng về DNVVN và cá nhân tăng
cao không được đáp ứng đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng. Có thể thấy thị trường tài chính Việt Nam đang tồn tại
81
một nhu cầu bức thiết phải thành lập các trung tâm TTTD độc lập. Điều này
cần sự hỗ trợ kịp thời từ phía chính phủ và các cơ quan nghiên cứu kinh tế. 23 Inesa Love và Natalya Mylenko,10/2003, Thông tin tín dụng và các cản trở về tiếp cận tài chính, World Bank. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Song cũng cần nhận thức rằng thông tin tín dụng là một lĩnh vực khá
nhạy cảm vì nó không chỉ liên quan đến quyền và trách nhiệm của các tổ
chức tín dụng mà còn có thể ảnh hưởng đến tính riêng tư và bảo mật về dữ
liệu của các doanh nghiệp và cá nhân. Để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức đánh giá tín dụng cần đảm bảo sáu điều kiện sau đây24:
Tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ,
có hệ thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp
đánh giá nào đó. Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà
soát và điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính. Để
được các cơ quan chủ quản ngân hàng công nhận, phương pháp đánh giá đối
với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối chiếu lại một cách chặt chẽ
(rigorous back testing), cần phải được sử dụng trước đó ít nhất một năm và
nên là ba năm
Tính độc lập: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và
không chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả
đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về
lợi ích có thể phát sinh do thành phần của hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ
đông của công ty gây ra càng tốt.
Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh giá cần
được cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các
mục đích hợp pháp và với các điều kiện cung cấp tương đương nhau. Ngoài
ra, phương pháp luận chung để đánh giá tín dụng của các tổ chức đánh giá
cần phải được công khai, hầu hết các dự án vay vốn từ World Bank hoặc
82
24 Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài, 04/2005, Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam, Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, bộ môn Tài Chính phát triển. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Asian Development Bank đều công khai trên web rõ ràng phương pháp luận
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cụ thể để đánh giá một dự án, điều này sẽ tránh được những che đậy thông
tin từ bên phía khách hàng đặt mục tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.
Cung cấp thông tin: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp
các
thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng
không trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp
hạng; tỷ lệ không trả được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và
xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng AA
xuống xếp hạng A theo thời gian.
Các nguồn lực: Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ
các nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các
nguồn lực này cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ
quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá tín dụng để bổ sung
các thông tin quan trọng cho việc đánh giá tín dụng. Các kết quả đánh giá
cần phải dựa trên sự kết hợp các phương pháp định tính và định lượng.
Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm, có nghĩa là bản
thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia độc lập thẩm định từ phía
nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô lớn.
Tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết
quả đánh giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của
các tổ chức độc lập (nhà đầu tư, nhà bảo hiểm, các đối tác kinh doanh) đối
với các kết quả đánh giá của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là
bằng chứng của độ tin cậy của các kết quả đánh giá này. Độ tin cậy của một
tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể hiện ở việc các tổ chức này sử
83
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông tin mật được sử
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ dụng sai mục đích. Để được công nhận, một tổ chức đánh giá tín dụng độc
lập không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên..
Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, việc thành lập trung tâm
TTTD tư nhân là một công việc rất khó khăn. Để có được một trung tâm
TTTD tư nhân hoạt động hiệu quả, cần (i) xây dựng một khuôn khổ pháp lý
phù hợp; (ii) có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các
tổ chức tài chính lớn; (iii) có sự hợp tác giữa khu vực công–tư và sự hiểu biết
của toàn xã hội; và cuối cùng là (iv) tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm
quốc tế. Trong gần ba năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã quan tâm tới vấn đề
này và tham vấn sự hỗ trợ kỹ thuật từ Công ty Tài chính Quốc tế IFC. Những
nỗ lực này cần được đẩy nhanh hơn nữa để trung tâm TTTD tư nhân có thể ra
đời và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.
b. Hệ thống thông tin nội bộ của bản thân các tổ chức tín dụng
Để phục vụ cho việc sàng lọc và giám sát các cá nhân và tổ chức vay
vốn, thẩm định dự án, bản thân các tổ chức tín dụng không thể chỉ trông chờ
vào các nguồn thông tin từ các tổ chức trung gian mà phải tự mình xây dựng
một hệ thống thông tin nội bộ để lưu trữ, xử lý thông tin về khách hàng hiệu
quả và có hệ thống. Việc lưu trữ một cách có hệ thống thông tin khách hàng
không chỉ giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí giao dịch mà còn hạn chế
được tình trạng lựa chọn ngược. Bản thân ngân hàng có thể theo dõi tình
hình tài chính, kế hoạch hoạt động, và tính toán được một cách khoa học
định mức tín nhiệm của các đơn vị xin cấp tín dụng để đưa ra quyết định cho
vay. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là ngân hàng sẽ chỉ thu thập
được thông tin về một số lượng hạn chế người đi vay tiềm năng, chủ yếu là
84
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
những đối tượng đã có quan hệ tín dụng trước đó với ngân hàng.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định
dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống
thông tín nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án,
nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đàu
ra của sản phẩm…Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng
các thông lấy được trên mạng internet với tính hệ thống không cao. Việc
truy cập, tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của
các bộ tín dụng với yêu cầu phải có khả năng đọc tốt tiếng anh. Do vấn đề về
hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các tổ chức tín
dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất
quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả
năng tiêu thụ…lại thiếu thông tin nhất trong quá trình thẩm định.
1.1.3. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá thống nhất và phù
hợp với chuẩn mực quốc tế
Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một trong những cơ
sở cực kỳ quan trọng giúp cho các bên liên quan nắm bắt được tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài
chính không được tổ chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất
khó có thể căn cứ để xem xét “sức khỏe”của doanh nghiệp. Trước hết, cần
phải đưa chuẩn mực kế toán của Việt Nam (VAS) tiến gần hơn nữa so với hệ
thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, phải nâng cao kỷ luật kế toán
trong các doanh nghiệp, loại bỏ tình trạng các doanh nghiệp làm báo cáo tài
chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế và ngân hàng.
Bên cạnh đó, cần yêu cầu chặt chẽ hơn nữa về sự xác nhận của các
công ty kiểm toán độc lập đối với các báo cáo tài chính. Nghị định về kiểm
85
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
toán độc lập hiện nay chỉ mới yêu cầu một số loại hình doanh nghiệp phải
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ thực hiện kiểm toán như Bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, DNNN, số còn lại Nhà nước chỉ khuyến khích thực hiện kiểm
toán. Đây chính là kẽ hở để các doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo
cáo kế toán khác nhau để đối phó: một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh
doanh thấp hơn thực tế), một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo
thường hơn thực tế), một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như
vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình
trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào. Bản thân các tổ chức tín dụng
cũng nên yêu cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính
được kiểm toán và xem báo cáo được kiểm toán đó như một cơ sở để xét độ
tín nhiệm và thẩm định cho vay.
1.1.4. Hệ thống đăng kí tài sản hiệu quả
Một hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản rõ ràng là vô cùng quan
trọng cho nền kinh tế nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Nếu tất cả các tài sản được đăng ký và xác nhận quyền sở hữu, thì người chủ
sở hữu tài sản đó có thể đem tài sản này thế chấp, cầm cố vay vốn ngân
hàng. Hay nói cách khác, nếu tất cả các tài sản (nhất là các bất động sản)
được đăng ký quyền sở hữu (hay quyền sử dụng) khi đó mới thực sự là tài
sản, nếu không chỉ là một công cụ của người có nó vì việc chuyển nhượng,
thế chấp, cầm cố sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Hiện nay, việc đăng ký tài sản
đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng
khắp.
Cần thiết lập hệ thống đăng kí tài sản như đăng kí động sản, bất động
sản, xác nhận có tiền gửi ngân hàng, chứng minh có lợi nhuận giữ lại chặt
chẽ để giảm bớt khó khăn của ngân hàng trong việc xác định tính hợp lý,
86
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hợp lệ để ra quyết định cấp tín dụng; đồng thời cũng loại trừ được tình trạng
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ thông tin bất cân xứng khi các đơn vị xin cấp vốn dùng các thủ thuật để che
mắt ngân hàng. Cần phân định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng của các cơ
quan thực hiện đăng kí tài sản, tạo thành một hệ thống đăng kí giao dịch đảm
bảo với sự tham gia của các cơ quan đăng kí giao dịch đảm bảo gồm: Cơ
quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và chi nhánh; Cơ quan đăng ký tàu
biển và thuyền viên khu vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở Địa
chính hoặc Tài nguyên mô trường; ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo một số loại tài
87
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
sản theo quy định.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
1.2. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong sử dụng vốn vay
1.2.1. Vật thế chấp và số dư bù
Trong điều kiện hiện nay, mặc dù có một vài hạn chế nhưng vật thế
chấp vẫn được các ngân hàng sử dụng khá nhiều để làm căn cứ cho vay vốn.
Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi một ngân hàng cho vay thương
mại gọi là số dư bù. Một hãng khi nhận được tiền vay phải giữ lại một số
vốn tối thiểu bắt buộc trong tài khoản séc tại ngân hàng mà nó cho vay. Ví
dụ, một doanh nghiệp nhận được một món vay 10 triệu đô la có thể bị bắt
buộc phải giữ số dư bù ít nhất 1 triệu $ trong tài khoản tại ngân hàng cho
vay. Một triệu đô la số dư bù này có thể bị ngân hàng đó lấy nếu doanh
nghiệp đó vỡ nợ để bù đắp lại một phần tổn thất của món vay đó.
Ngoài việc có tác dụng như một vật thế chấp, các số dư bù tăng được
khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp
ngân hàng giám sát người đi vay, ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Việc duy trì tài
khoản séc giúp ngân hàng dễ dàng kiểm soát các giao dịch thông qua séc của
người đi vay - việc này có thể mang lại rất nhiều thông tin về điều kiện tài
chính của người đi vay nói trên. Ví dụ, một sự sụt giảm kéo dài về số dư ở
tài khoản séc của người đi vay đó cho biết rằng người này đang có khó khăn
về tài chính, hoặc hoạt động kế toán có thể cho biết người vay đó đang thực
hiện những hoạt động rủi ro, có thể một sự thay đổi về người cung cấp có
nghĩa là người đi vay đang theo đuổi một lĩnh vực kinh doanh mới,…Bất kỳ
một sự thay đổi quan trọng nào trong hoạt động thanh toán của người đi vay
này đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng phải tiến hành điều tra.
Những số dư bù đó giúp cho ngân hàng giám sát những người vay tiền hiệu
88
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
quả hơn.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
1.2.2. Các điều kiện hạn chế:
Những điều kiện hạn chế được đưa vào hợp đồng vay vốn nhằm giảm
rủi ro đạo đức bằng cách loại bỏ những hành vi không mong muốn và khuyến
khích những hành vi mong muốn. Có 4 kiểu quy định hạn chế để đạt được mục
tiêu này:
(1) Những quy định ngăn ngừa các hành vi không mong muốn: Để
ngăn ngừa người đi vay tham gia vào các dự án rủi ro, những quy định này
đòi hỏi rằng một món tiền vay chỉ có thể được dùng để tài trợ những hoạt
động đã được chỉ định sẵn, chẳng hạn như mua thiết bị đã định hay đầu tư
vào dự án đã nói trước. Có thể ghi rõ loại trừ những hoạt động rủi ro cụ thể
như mua lại các doanh nghiệp khác,…
(2) Những quy định khuyến khích hành vi mong muốn: Đối với cho
vay cá nhân, quy định này có thể là yêu cầu người trụ cột nuôi sống một gia
đình phải mua bảo hiểm sinh mạng loại sẽ thanh toán hết số tiền vay thế
chấp khi người đó chết. Đối với các doanh nghiệp, quy định này có thể là
khuyến khích công ty giữ cho giá trị tài sản ròng của công ty cao, vì khi giá
trị ròng cao thì công ty sẽ phải mất nhiều hơn nếu tham gia vào các dự án rủi
ro, do đó hạn chế tình trạng rủi ro đạo đức.
(3) Những quy định yêu cầu giữ vật thế chấp trong điều kiện tốt: Ví
dụ những hợp đồng vay mua ô tô đòi hỏi người mua ô tô đó có bảo hiểm chô
một số tối thiểu loại va đụng và bảo hiểm mất trộm và ngăn ngừa việc bán
chiếc xe trừ khi món vay đó đã thanh toán xong. Tương tự, người nhận một
món vay thế chấp nhà ở phải có đủ bảo hiểm cho ngôi nhà đó và phải thanh
89
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
toán hết khoản nợ khi vật thế chấp này được đem bán.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
(4) Những quy định yêu cầu cung cấp thông tin: Những quy định
này có thể yêu cầu công ty vay cung cấp thông tin về các hoạt động của công
ty đó một cách định kỳ ở dạng báo cáo kết toán quý và báo cáo thu nhập,
hoặc quy định bên cho vay có quyền kiểm tra và thanh tra sổ sách kế toán
của công ty này, nhờ vậy mà người cho vay dễ dàng giám sát công ty đó và
ngăn ngừa rủi ro đạo đức.
1.3. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng
1.3.1. Điều chỉnh hợp lý các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với
a. Dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh.
hoạt động tín dụng
Việc quản lý các ngân hàng thương mại quốc doanh được các chuyên
gia đánh giá là nhược điểm lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hiện nay. Việc các ngân hàng vẫn duy trì các mối quan hệ kinh doanh khăng
khít với các DNNN cho thấy các ngân hàng này vẫn chưa đa dạng hóa được
đối tượng khách hàng cho phù hợp với cơ cấu sở hữu thay đổi trong nền
kinh tế.
Theo các chuyên gia, Chính phủ cần tạm ngừng các hoạt động tái cấp
vốn bổ sung cho ngân hàng quốc doanh. Thay vào đó, việc cần làm là để các
ngân hàng này tái định hướng hoạt động trên cơ sở lợi nhuận. Chúng cần
được điều hành bởi một ban giám đốc chuyên nghiệp thay vì một bộ phận
của Chính phủ hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bởi lẽ nếu duy trì như
hiện nay tức là tiếp tục duy trì sự xung đột lợi ích bởi người lãnh đạo ngân
hàng vừa là đại diện chủ sở hữu vừa là cơ quan điều tiết tài chính.
b. Xây dựng một chính sách bảo hiểm tiền gửi phù hợp.
Như đã phân tích ở chương II, chính sách bảo hiểm tiền gửi và mạng
90
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
lưới an toàn của chính phủ góp phần ổn định hệ thống tài chính, tạo tâm lý
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ yên tâm cho người gửi tiền và phòng tránh khả năng đổ vỡ ngân hàng. Tuy
nhiên, một chính sách bảo hiểm quá rộng rãi sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại cho các
ngân hàng trong việc sử dụng nguồn vốn huy động, và kéo theo tâm lý ỷ lại
của những người gửi tiền, khiến họ lơ là trong việc giám sát hoạt động của
ngân hàng để đảm bảo an toàn vốn cho chính mình. Như vậy, một vấn đề
cần quan tâm hàng đầu khi thiết lập chính sách bảo hiểm tiền gửi chính là
xác định mức trả bảo hiểm và tốc độ thanh toán bảo hiểm phù hợp, trong đó
phải đặc biệt chú ý đến sự cân bằng giữa bảo đảm ổn định tài chính một cách
triệt để thông qua phương pháp trả bảo hiểm toàn phần với bảo đảm duy trì
kỷ cương thị trường. Cần xác định được mức trả bảo hiểm tối ưu để tạo
được lòng tin cho người dân khi gửi tiền vào ngân hàng mà không tạo ra rủi
ro đạo đức do sự ỷ lại của các ngân hàng; không làm xao nhãng trách nhiệm
cùng giám sát ngân hàng của những người có số gửi tiền lớn; cẩn trọng đối
với người có số tiền gửi nhỏ nhưng vô thức có thể tạo ra sự hoảng loạn ảnh
hưởng đến mục tiêu an toàn hệ thống tài chính...Bất kỳ một hệ thống bảo
hiểm công khai nào khi triển khai chính sách đều phải trả lời các câu hỏi:
thực hiện bảo hiểm toàn phần hay hạn chế; mức trả bảo hiểm hạn chế là bao
nhiêu và tính theo nguyên tắc nào; mức trả bảo hiểm được giới hạn theo loại
tiền gửi hay theo người gửi tiền; khi nào điều chỉnh mức bảo hiểm; điều
chỉnh thế nào để vừa phản ánh được sự tăng trưởng GDP và tăng tỉ lệ lạm
phát, vừa đảm bảo để công chúng theo kịp với mức điều chỉnh mới. Cơ quan
Bảo hiểm tiền gửi cần có quyền quyết định cấp phép, chấm dứt và xóa khỏi
danh sách thành viên đối với các ngân hàng không đáp ứng tiêu chuẩn. Xu
91
25 Mai Đinh Đệ, trưởng ban Kiểm soát HĐQT Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, 2006, bài ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hướng lâu dài, mở rộng phương pháp trả bảo hiểm có giới hạn sẽ góp phần ổn đinh hệ thống tài chính, đồng thời không bóp méo kỷ cương thị trường.25
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
1.3.2. Tăng cường giám sát Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng
Để ngăn chặn rủi ro đạo đức của các ngân hàng, cần phải nâng cao quản lý
nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, tăng cường cơ chế giám sát để hạn
chế ngân hàng tham gia quá nhiều vào các hoạt động có độ rủi ro cao. Năm
2006, Ngân hàng Nhà nước đã ra chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN Về việc
tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh
doanh của các tổ chức tín dụng. Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ nhằm
thắt chặt kỷ luật tài chính đối với ngân hàng quốc doanh và DNNN sẽ là điều
thiết yếu để ngăn chặn sự lặp lại vòng luẩn quẩn phát sinh và tích tụ nợ khó
đòi.
a. Hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản và yêu cầu về vốn
Để hạn chế việc ngân hàng sử dụng vốn huy động đầu tư vào các hoạt
động quá rủi ro, Chính phủ cần có các yêu cầu cụ thể về chất lượng tài sản
nắm giữ, đồng thời quy định mức dự trữ tối thiểu dành cho mỗi ngân hàng.
Theo Khảo sát của ngân hàng Nhà nước cho thấy dư nợ tín dụng trong
hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở tất cả các ngân hàng
hiện nay đang ở mức thấp, khoảng 2,5% tổng dư nợ. Trong đó, 12 ngân hàng
cổ phần đã cho vay vượt mức 3% tổng dư nợ (bình quân là 7%), còn các
ngân hàng quốc doanh - hiện chiếm khoảng 70% thị trường tín dụng - thì tỉ
lệ này chỉ dưới 2%. Tuy nhiên trong cuộc gặp với các ngân hàng sáng ngày
28/6/2007, một con số lần đầu tiên được lãnh đạo Vụ Chính sách tiền tệ -
ngân hàng Nhà nước đưa ra khiến đại diện các ngân hàng giật mình: tỉ lệ cho
vay loại chứng khoán tại một số ít ngân hàng, chủ yếu là ngân hàng nhỏ, lên
tới 40-50% tổng dư nợ, một tỉ lệ chưa từng có trong nghiệp vụ này và có thể
92
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
khó lặp lại trong tương lai. tham luận “Tiếp cận mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi”.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-
NHNN để kiểm soát qui mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh
doanh. Tuy nhiên, chỉ thị này chưa phát huy tác dụng do (1) bản thân nội
dung chỉ thị chưa rõ ràng và chặt chẽ, gây nhiều tranh cãi và nhiều cách hiểu
khác nhau, và có nhiều kẽ hỡ để lách. Chẳng hạn, nhiều nhà đầu tư cho rằng
chỉ thị cần chỉ rõ khái niệm chứng khoán là bao gồm những loại cụ thể nào,
có bao gồm các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ, đô thị, địa phương,
kho bạc... là một loại chứng khoán đang được nhận cầm cố như một tài sản
giá trị và có hệ số an toàn cao hay không. Riêng việc hạn chế tỉ lệ cho vay
đầu tư chứng khoán không quá 3% cũng được các nhà đầu tư hiểu theo 2
cách: một là tỉ lệ cho vay để đầu tư chứng khoán trên tổng tín dụng không
vượt quá 3%, hai là tỉ lệ cho vay bằng cầm cố các loại chứng khoán không
quá 3% tổng cho vay để đầu tư chứng khoán. (2) Chỉ thị ra đời phần nào gây
khó khăn cho các ngân hàng thương mại do Ngân hàng Nhà nước không có
hướng dẫn từ trước mà đợi đến khi các ngân hàng thương mại đã cho vay thì
mới “chạy theo thổi còi”. Ngoài ra, nên quy định tỷ lệ cho vay đầu tư chứng
khoán trên tổng tài sản có của ngân hàng, chứ không phải tổng dư nợ và nên
khuyến khích các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động này ở tỷ
lệ cao hơn so với các loại cho vay khác. Đây là phương pháp quản lý gián
tiếp, hiện NHNN mới chỉ quy định mức độ rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh
chứng khoán là 150% để tính tỷ lệ đủ vốn, chứ chưa phải là để trích lập dự
phòng rủi ro.
Như vậy, việc hạn chế nắm giữ các tài sản rủi ro cao, yêu cầu trích lập
dự phòng và mức dự trữ tối thiểu là rất quan trọng để ràng buộc các ngân
hàng trong các quyết định đầu tư, phân phối tín dụng có tính mạo hiểm cao.
93
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Tuy nhiên, việc tính toán các thông số, chẳng hạn như mức dự trữ tối thiểu
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ là bao nhiêu, không được cho vay đầu tư chứng khoán quá bao nhiêu phần
trăm,... cần dựa trên cơ sở khoa học, nhằm vừa đảm bảo được sự ràng buộc
vừa cho phép ngân hàng tự chủ ở một mức hợp lý. Cần có các văn bản
hướng dẫn từ trước để tránh gây khó khăn cho các ngân hàng trong các hoạt
động của mình.
b. Giám sát và kiểm tra ngân hàng
Kiểm soát những người điều hành ngân hàng và cách thức ngân hàng hoạt
động - giám sát ngân hàng (bank supervision) là một biện pháp quan trọng
để hạn chế lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng. Việc
kiểm tra tại chỗ (on-site bank examination) thường xuyên đối với các ngân
hàng để kiểm tra xem liệu ngân hàng có tuân thủ các quy định về vốn và giới
hạn nắm giữ tài sản hay không cũng giúp giảm rủi ro đạo đức. Việc đánh giá ngân hàng có thể dựa trên tiêu chí đánh giá CAMELS (CAMELS rating26)
bao gồm: Mức dự trữ vốn đầy đủ (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản
(Asset quality), Quản trị (Management), Doanh thu (Earnings), Tính thanh
khoản (Liquidity) và Mức độ nhạy cảm với Rủi ro của thị trường (Sensitivity
to market risk). Với những thông tin thu nhận được qua hệ thống đánh giá
CAMELS trên đây, các cấp có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các
biện pháp quản lý nào đối với ngân hàng: có thể là tạm ngừng các hoạt động
để chấn chỉnh lại hành vi của ngân hàng, hoặc thậm chí có thể đóng cửa
ngân hàng nếu tỉ lệ CAMELS quá thấp. Những biện pháp hạn chế ngân hàng
tham gia vào các hoạt động rủi ro không chỉ có tác dụng ngăn chặn rủi ro
đạo đức mà từ đó còn giúp ngăn chặn hiện tượng lựa chọn ngược trong
94
26 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets, Pearson Addison Wisley, 342, New York, USA. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
ngành ngân hàng bởi khi ngân hàng ít có cơ hội để mạo hiểm thì những
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người ham thích mạo hiểm, muốn lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động rủi
ro cao sẽ không có ý định nhảy vào ngành ngân hàng nữa.
Việc chuẩn hóa các ngân hàng, sàng lọc các dự án mở ngân hàng mới
một cách kỹ lưỡng cũng là một biện pháp nhằm ngăn cản những người kẻ có
tư tưởng phạm tội, hay những người quá ưa liều lĩnh tham gia vào điều hành
ngân hàng nhằm mục đích lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động đầu cơ. Để
được cấp phép thành lập ngân hàng, cá nhân và tổ chức phải trình kế hoạch
điều hành ngân hàng của mình. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét kế
hoạch quản trị ngân hàng này để đánh giá khả năng lành mạnh về tài chính
trong tương lai của ngân hàng, doanh thu tiềm năng, số vốn đầu tư ban
đầu…
Các ngân hàng được phép thành lập sẽ bị yêu cầu phải tiến hành báo
cáo định kỳ trong đó thể hiện tài sản và nguồn vốn của ngân hàng, thu nhập
và cổ tức, quyền sở hữu, hoạt động quản lý ngoại hối, và những chi tiết
khác. Hàng năm, các cơ quan giám sát ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ngân
hàng để xem xét tình trạng tài chính của đơn vị. Các cơ quan quản lý có thể
tiến hành kiểm tra sổ sách bất ngờ để xem ngân hàng có tuân thủ đúng
những quy định về tỉ lệ vốn và hạn chế nắm giữ tài sản hay không. Nếu nhận
thấy ngân hàng nắm giữ quá nhiều tài sản rủi ro, cơ quan giám sát có thể yêu
cầu ngân hàng từ bỏ các tài sản đó hay có thể yêu cầu đánh giá lại các khoản
nợ và xóa đồng thời ghi nhận chi phí những khoản nợ được đánh giá là khó
đòi.
c. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro
Thông thường, việc giám sát tại chỗ đối với ngân hàng tập trung chủ
yếu vào việc đánh giá chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng đó vào
95
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
một thời điểm nhất định và xem xét xem liệu ngân hàng đó có tuân thủ các
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ quy định về vốn hay không. Tuy nhiên, trong nền tài chính phát triển hiện
đại như ngày nay, biện pháp đó là không đủ. Việc kiểm tra sự lành mạnh về
tài chính của ngân hàng trong một thời điểm chưa thể khẳng định được rằng
liệu ngân hàng đó sẽ tham gia vào các hoạt động rủi ro cao trong tương lai
hay không. Chính vì có khả năng tham gia vào các dự án rủi ro trong tương
lai nên một ngân hàng có thể có tình hình tài chính lành mạnh thời điểm hiện
tại có thể tuyên bố phá sản bất cứ lúc nào do các thua lỗ trong thương mại.
Vì thế, cần phải xem xét những chỉ tiêu có thể phản ánh khả năng tham gia
vào các hoạt động rủi ro của ngân hàng. Các nhà giám sát ngày nay thường
quan tâm nhiều hơn tới công tác đánh giá sự lành mạnh trong công tác quản
lý ngân hàng thông qua tiêu chí kiểm soát rủi ro. Ngày nay, các cơ quan
giám sát thường đánh giá hoạt động quản trị rủi ro của ngân hàng theo bốn
tiêu chí cơ bản: (1) chất lượng trong hoạt động giám sát của ban điều hành
và quản trị cấp cao; (2) tính đầy đủ các chính sách cũng như các giới hạn
liên quan đến các hoạt động chứa đựng rủi ro trọng yếu; (3) chất lượng của
hệ thống đánh giá và kiểm soát rủi ro; (4) có các hệ thống kiểm soát nội bộ
đầy đủ để ngăn ngừa hành vi phạm pháp hay không được cho phép của nhân viên 27. Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính cần có những hướng dẫn cụ thể
cho các ngân hàng trong việc quản trị rủi ro lãi suất, trong đó yêu cầu ban
điều hành ngân hàng phải xác định mức rủi ro cho phép tối đa, chỉ định nhân
sự quản trị, kiểm soát rủi ro. Đồng thời, dựa vào mức độ tham gia rủi ro của
các ngân hàng, các cơ quan quản lý có thể tính toán ra mức dự trữ bắt buộc
phù hợp để yêu cầu các ngân hàng thực hiện.
96
27 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets, Pearson Addison Wisley, 348 - 349, New York, USA. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
d. Yêu cầu về công bố thông tin
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
Do tình trạng những người sử dụng thông tin ăn theo một cách miễn
phí (free-rider problem) nên các cá nhân hay tổ chức gửi tiền sẽ không có
động cơ để tự sản xuất thông tin riêng biệt về chất lượng tài sản của ngân
hàng. Để đảm bảo rằng những người gửi tiền nói riêng và thị trường nói
chung nắm được nhiều thông tin hơn, các nhà quản lý có thể yêu cầu các
ngân hàng tuân thủ những nguyên tắc kế toán chuẩn mực, công bố nhiều
thông tin giúp cho thị trường có thể đánh giá chất lượng các tài sản trong
danh mục đầu tư của ngân hàng, và công bố mức độ rủi ro mà ngân hàng
đang tham gia. Càng nhiều thông tin được cung cấp cho công chúng thì các
cổ đông, người đi vay, người gửi tiền càng dễ dàng đánh giá và giám sát
ngân hàng, ngăn chặn các hành vi rủi ro của ngân hàng. Những ước tính về
rủi ro tài chính do hệ thống quản trị rủi ro nội bộ của bản thân các hãng có thể được sử dụng vào mục đích công bố cho công chúng28. Như vậy, bên
cạnh việc công bố Bảng cân đối kế toán và Báo cáo doanh thu thu nhập mà
các ngân hàng sẽ phải cung cấp thêm thông tin về mức độ rủi ro tham gia và
tình hình quản lý rủi ro.
2. Trên thị trƣờng chứng khoán
2.1. Tăng cường hoạt động giám sát Nhà nước đối với thị trường
chứng khoán
TTCK phát triển bùng nổ trong thời gian qua khiến các cơ chế giám
sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là ủy ban chứng khoán
Nhà nước chưa theo kịp. Sự phát triển bùng phát của TTCK từ cuối năm
2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Thực tế
97
28 Eurocurrency Standing Committee of Central Banks of Group of Ten countries (Fisher Group), 9/1994, “Discussion Paper on Public Disclosure of Markets and Credit risks by Financial Intermediaries”. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
là cơ quan này (bao gồm Thanh tra UBCKNN) còn quá non trẻ, chưa thể có
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đủ các điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả trước hết là
TTCK có tổ chức. Ngoài ra, thị trường OTC cũng đang hoạt động tự phát,
chưa được quản lý và bảo vệ, không có cơ chế hoạt động hiệu quả, công
bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch như ở Sở/ Trung tâm
Giao dịch chứng khoán. Các quy định về TTCK không được áp dụng bên
ngoài Sở/Trung tâm Giao dịch chứng khoán có tổ chức. Do vậy, UBCKNN
chưa có khả năng quản lý TTCK không chính thức. Thiếu một hệ thống báo
cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên không
rõ ràng. Năng lực tài chính, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà
môi giới không được kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về
tổ chức phát hành không được xác minh...
Trước tình hình như vậy, Chính phủ mới đây đã yêu cầu BTC và
UBCKNN phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để bảo đảm
cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đã đặt ra, phát huy những
mặt tích cực, sử dụng các biện pháp phù hợp, hữu hiệu, hạn chế tối đa những
mặt tiêu cực đối với thị trường, tuyệt đối không để xảy ra những biến động
đột biến vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong quá trình quản lý TTCK, cần
đặc biệt lưu ý: (i) Phải kiểm soát bằng được luồng vốn đầu tư vào TTCK
(thông qua các biện pháp: Đăng ký, lưu ký tập trung, đầu tư ủy thác qua
công ty quản lý quỹ, kiểm soát ngoại hối, thuế thu nhập...); (ii) Tăng cường
tính công khai, minh bạch trên TTCK, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng
lừa đảo, đầu cơ và các biểu hiện tiêu cực trong việc phát hành cổ phiếu của
các doanh nghiệp; (iii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát,
giám sát các hoạt động của các Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ,
Công ty niêm yết và các quỹ đầu tư chứng khoán để đảm bảo các hoạt động
98
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
này đúng pháp luật, công khai, minh bạch.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
2.2. Tăng cường các quy định pháp lý về công bố thông tin
TTCK là một thị trường hết sức nhạy cảm với thông tin. Một thông tin
được công bố không chính xác, không trung thực hoặc không kịp thời có thể
dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm của nhà đầu tư. Vấn đề thông tin
bất cân xứng không chỉ ảnh hưởng tới từng cá nhân riêng lẻ mà có thể ảnh
hưởng đến cả TTCK và nền kinh tế. Theo Ayumi Konishi, Trưởng đại diện
thường trú của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) tại Hà Nội, phát biểu
trong hội nghị các nhà đầu tư nước ngoài do VinaCapital tổ chức vào tháng
10/2007 ở Tp.HCM: “TTCK Việt Nam đang cần một nhạc trưởng giữ nhịp
điệu và luật chơi. Chính nhạc trưởng sẽ đẩy nhanh hơn nữa quá trình minh bạch hóa, đặc biệt minh bạch hóa thông tin vốn đang rất thiếu”
Nhạc trưởng của thị trường hiện nay, không ai khác, chính là Nhà
nước. Chính vì vậy, một giải pháp quan trọng hàng đầu để hạn chế tình trạng
thông tin bất cân xứng chính là tăng cường minh bạch hóa thông tin trên
toàn bộ thị trường thông qua sự can thiệp của Nhà nước dưới các hình thức
pháp lý.
Vừa qua, ngày 18/04/2007, bộ Tài chính đã ban hành thông tư số
38/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK. Theo đó,
Thông tư quy định đối tượng được phép công bố thông tin là những công ty
đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ
chức niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư
chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán, và các cá nhân liên quan.
Bộ Tài chính cũng quy định việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính
xác, kịp thời theo qui định của pháp luật. Thông tin phải do Giám đốc hoặc
99
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
Tổng Giám đốc hoặc người được uỷ quyền công bố thông tin thực hiện và
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố cũng như phải báo cáo
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao
dịch chứng khoán về nội dung thông tin công bố ngay cùng thời điểm công
bố thông tin. Bất kỳ người nào công bố thông tin làm ảnh hưởng đến giá
chứng khoán thì người được uỷ quyền công bố thông tin phải xác nhận hoặc
đính chính thông tin đó trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thông tin trên được
công bố. Việc thực hiện công bố thông tin được thực hiện qua báo cáo
thường niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác của tổ chức thuộc
đối tượng công bố thông tin.
Trong thời hạn mười 10 ngày, kể từ ngày có báo cáo tài chính năm
được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo
cáo tài chính năm. Ngày hoàn thành báo cáo tài chính năm được tính từ ngày
tổ chức kiểm toán được chấp thuận ký báo cáo kiểm toán với thời hạn hoàn
thành báo cáo tài chính năm chậm nhất là chín mươi (90) ngày, kể từ ngày
kết thúc năm tài chính. Báo cáo tài chính năm, Báo cáo Thường niên của công
ty đại chúng phải lưu trữ ít nhất 10 năm tại trụ sở chính của tổ chức để nhà đầu tư
tham khảo. Trong trường hợp Tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả
hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; Bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập, giấy phép hoạt
động… thì công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn
hai mươi bốn 24 giờ, kể từ khi xảy ra các sự kiện trên và phải công bố trong thời
hạn 72 giờ nếu công ty vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực
có trở lên hoặc Công ty nhận được thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp…
Thông tư trên ra đời vào thời điểm TTCK đang rất cần một sự can
100
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thiệp từ phía Nhà nước để chấm dứt tình trạng thông tin bất cân xứng. Thông
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tư đã quy định khá rõ về nghĩa vụ công bố thông tin trên TTCK, hạn chế
đáng kể tình trạng bưng bít thông tin, tăng trách nhiệm về thông tin công bố
của doanh nghiệp và những người được ủy quyền công bố thông tin, và trở
thành văn bản hướng dẫn rất kịp thời, hữu ích đối với các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bên cạnh việc cụ thể hóa các văn bản pháp lý, việc nâng
cao kỷ luật thi hành cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Hiện nay, chế
tài cho lỗi vi phạm về công bố thông tin còn khá nhẹ, chỉ mang tính giơ cao
đánh khẽ, chưa đủ sức răn đe, khiến tình trạng vi phạm vẫn xảy ra thường
xuyên. Do đó Nhà nước, bên cạnh việc ban hành các văn bản hướng dẫn cần
có những chế tài, biện pháp cưỡng chế thi hành cứng rắn nhằm nâng cao hơn
nữa hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi
nhà đầu tư, nâng cao tính minh bạch và lành mạnh của thị trường.
2.3. Nâng cao hiệu quả của các công ty định mức tín nhiệm (Credit
Rating Agency)
Credit rating – tức là định mức tín nhiệm hay hệ số tín nhiệm - là hệ
số đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối
với các khoản tiền nghĩa vụ - gốc và lãi - của các các công cụ nợ mà nó phát
hành. Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn như như hối phiếu, tín
phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ
chức phát hành có thể là chính phủ cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay
các công ty.
Định mức tín nhiệm xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu
đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914
thì công ty Moody’s - tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới
được ông John Moody thành lập dựa vào một công ty được ông thành lập
101
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trước đó vào năm 1909. Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lập trên sự sát nhập của Poor’s Publishing va Standard Statistics. Hiện tại
trên thế giới có một số tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm được quốc tế công
nhận, cũng như một số tổ chức được quốc gia của họ công nhận. Tuy vậy 3
tổ chức Moody’s, Standard and Poor’s và Pitch Ratings là 3 tổ chức được
công nhận, có uy tín và thị phần cao nhất trên thế giới.
Các hệ thống hạn mức tín nhiệm thường được xếp hạng theo thông lệ
quốc tế , thông thường bao gồm 10 loại định mức tín nhiệm từ AAA, AA, A
cho đến C và D. Trong đó AAA là định mức tín nhiệm cao nhất trong hệ
thống định mức tín nhiệm. Các doanh nghiệp được xếp hạng AAA có khả
năng hoàn trả cao nhất các nghĩa vụ tài chính của mình. Cho đến các doanh
nghiệp hạng C, có nguy cơ không trả được nợ rất cao và D chỉ sử dụng khi
doanh nghiệp đã thực sự phá sản.
Một hệ thống định mức tín nhiệm doanh nghiệp nhất thiết phải đảm
bảo được tính khách quan, độc lập, khoa học và công khai. Về phương pháp
xếp hạng nói chung được xây dựng trên cơ sở các phân tích định tính, và
định lượng, với sự tham gia thẩm định của các nhà khoa học và các chuyên
gia trong từng lĩnh vực. Hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên
cơ sở cho điểm các thông tin được đánh giá định tính và định lượng. Việc
xếp hạng không chỉ giới hạn ở việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính mà còn
bao gồm cả việc đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính như việc xem xét môi
trường hoạt động của doanh nghiệp, những dự báo chủ quan về vị thế cạnh
tranh của doanh nghiệp, hoạt động của ban giám độc, chiến lược của doanh
nghiệp và các tác động bên ngoài.
Các phân tính định tính thường bao gồm các chỉ tiêu rủi ro ngành, môi
trường cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp, chất lượng quản lý, đa dạng và
102
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
cơ cấu sở hữu, khả năng huy động vốn, chất lượng thông tin tài chính. Các
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phân tích định lượng tập trung vào chính sách của công ty về chiến lược
kinh doanh, các mục tiêu tài chính. Các chỉ tiêu định lượng sẽ được so sánh
để phân tích xu hướng và và so sánh với đối thủ cạnh tranh và mức bình
quân ngành. Các chỉ tiêu tài chính sẽ được tổng hợp để đạt tới một cái nhìn
tổng quan về khả năng tài chính lành mạnh.
Trên thế giới, các công ty đánh giá tín nhiệm có quyền lực rất mạnh
trong việc quyết định giá cả, điều khoản và điều kiện tiếp cận TTCK (các
nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu với tỷ lệ lãi suất phụ thuộc vào chỉ số
đánh giá tín nhiệm cao hay thấp).
Cũng giống như Trung tâm thông tin tín dụng độc lập trong thị trường
tín dụng ngân hàng, việc thành lập các công ty định mức tín nhiệm được coi
là một trong những biện pháp hữu hiệu giảm thiểu tình trạng thông tin bất
cân xứng khi các nhà đầu tư không có đủ thông tin về các dự án đầu tư và
các công ty phát hành chứng khoán. Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt
Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010, đã đưa ra chủ trương thành lập
các tổ chức định mức tín nhiệm, chậm nhất vào năm 2005. Các tổ chức quốc
tế như World Bank, Asian Development Bank cũng đề nghị ngân hàng nhà
nước Việt nam nhanh chóng thành lập các tổ chức này. Hiện nay, một số
công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đã được hình thành và đi vào hoạt
động, bao gồm Credit Information Center (CIC) kiêm thêm hoạt động đánh
giá tín nhiệm, Vietnamnet Solution (VASC), và Credit Rating Vietnam
(CRV).
Tổ chức đánh giá tín nhiệm ra đời là cầu nối thông tin giữa các doanh
nghiệp, các nhà đầu tư không chỉ trên TTCK mà còn trong việc lựa chọn đối
tác. Ngoài ra, với kết quả xếp hạng một cách khách quan, doanh nghiệp sẽ
103
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
có thêm thông tin để tự điều chỉnh chiến lược kinh doanh, cải tiến quy trình
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ quản lý. Các công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đã và đang có những
nỗ lực làm thị trường minh bạch hơn nhằm giúp thị trường hoạt động hiệu
quả, bảo vệ nhà đầu tư nhỏ trước sự lạm dụng quyền lực của các đại gia và
các tổ chức lớn. Đối với các công ty, tổ chức: kết quả xếp hạng hệ số tín
nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu,
nhất là khi phát hành trái phiếu ra nước ngoài, cũng như việc xác định lãi
suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi trái phiếu càng thấp và ngược
lại). Thiếu sự xác định hệ số tín nhiệm, thị trường trái phiếu dài hạn của các
công ty chưa thể phát triển được. Đối với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư
tổ chức, chuyên nghiệp, ngoài việc căn cứ vào hệ số tín nhiệm để quyết định
mua trái phiếu, họ còn dùng hệ số tín nhiệm của trái phiếu của công ty đó để
làm căn cứ để quyết định có đưa cổ phiếu của công ty đó vào danh mục đầu
tư của mình hay không. Theo đó, cổ phiếu của những công ty có trái phiếu
được xếp hạng hệ số tín nhiệm thấp (từ BB hay Ba trở xuống) thường không
được lựa chọn.
Tuy nhiên, ba tổ chức đánh giá tín nhiệm của Việt Nam vẫn chưa
được quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ
chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Việc mời các tổ chức đánh giá của thế giới
xếp hạng hệ số tín nhiệm của trái phiếu cũng chưa phổ biến. Cho đến hiện
tại, chỉ mới có chính phủ và hai công ty BIDV và Techcombank thực hiện.
Đây là một lĩnh vực hoạt động khá mới mẻ, do đó Nhà nước cần quan tâm
tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức này. Bộ Tài chính đang
soạn thảo khung pháp lý để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ này phát triển
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, bản thân các tổ chức cũng cần đầu tư nâng cao chất
104
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
lượng cho nguồn nhân lực, tận dụng lợi thế của người đi sau để nghiên cứu
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước có những điều kiện kinh tế
tương tự. Những quốc gia mà chúng ta có thể tham khảo là Thái Lan, Trung
Quốc, Singapore. Đây là những quốc gia có nhiều điều kiện kinh tế xã hội
tương tự, cũng đã từng phải mày mò xây dựng các tổ chức đánh giá tín dụng,
cũng đã gặp những thất bại và cuối cùng đã thành công. Tuy nhiên, việc
tham khảo cần chú ý tới những đặc điểm khác biệt, riêng có của thị trường
tài chính Việt Nam để tránh tình trạng áp dụng máy móc, không phù hợp thị
105
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
trường.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
2.4. Hỗ trợ hoạt động kiểm toán
Một trong những yêu cầu không thể thiếu với các doanh nghiệp niêm
yết trên TTCK là báo cáo tài chính được kiểm toán. Một báo cáo tài chính
được kiểm toán độc lập sẽ là cơ sở tin cậy cho các nhà đầu tư đưa ra các
quyết định đầu tư đúng đắn, giúp nâng cao tính minh bạch của thị trường.
Tuy nhiên, hiện nay còn thiếu hụt nguồn lực kiểm toán trong lĩnh vực chứng
khoán.
Theo ủy ban Chứng khoán Nhà nước, từ 1/1/2007 sẽ có 12 tổ chức
kiểm toán độc lập được ủy ban này cho phép kiểm toán trong lĩnh vực chứng
khoán. Các tổ chức này là Công ty Kiểm toán và Kế toán AAC; Công ty
Kiểm toán DTL; Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính kế toán (AFC);
Công ty Dịch vụ tư vấn Tài chính kế toán và Kiểm toán (AASC); Công ty
Price Water House Cooper (Vietnam); Công ty TNHH KPMG; Công ty
Kiểm toán BHP; Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C); Công ty Kiểm toán
Việt Nam (VACO); Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam (VAE); Công
ty TNHH Ernst & Young Việt Nam; Công ty Kiểm toán và Dịch vụ tin học
(AISC). Các tổ chức kiểm toán này được tham gia kiểm toán cho các tổ
chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán. Để
được tham gia kiểm toán trên TTCK, các doanh nghiệp kiểm toán độc lập
phải được ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận theo các tiêu chuẩn của
Bộ Tài chính.
Tuy nhiên, cuối tháng 3 vừa qua, Công ty TNHH Dịch vụ kiểm toán
và Tư vấn kế toán BHP đã bị mất quyền được kiểm toán cho các tổ chức
phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán, do không
đủ số lượng kiểm toán viên theo yêu cầu. 11 doanh nghiệp kiểm toán còn lại
106
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
được chấp thuận của ủy ban Chứng khoán Nhà nước được kiểm toán các
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ doanh nghiệp hoạt động trên TTCK cũng đang lâm vào tình trạng khó khăn
về nhân lực. Thiếu người dẫn đến thiếu cả công ty kiểm toán cho ngành
chứng khoán.
Sự bùng nổ của TTCK Việt Nam trong năm 2006 với làn sóng lên sàn
của các công ty cổ phần và thành lập mới công ty chứng khoán đã khiến cho
sự thiếu hụt về công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán các tổ chức
trên TTCK càng trở nên trầm trọng hơn. 12 công ty kiểm toán nay chỉ còn
11, sẽ chia nhau kiểm toán cho 195 doanh nghiệp niêm yết và 55 công ty chứng khoán đang hoạt động29. Sự lựa chọn vốn đã ít nay càng ít hơn.
Để giải quyết tình trạng thiếu công ty kiểm toán cho lĩnh vực chứng
khoán, mới đây ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có thông báo tới các công
ty kiểm toán nếu đáp ứng đủ các điều kiện kiểm toán theo quy định có thể
nộp hồ sơ về ủy ban và được xem xét chấp thuận ngay, thay vì trước đây cơ
quan này chỉ xem xét chấp thuận hai năm một lần (Theo quy định hiện hành,
một công ty kiểm toán thành lập được 3 năm có 10 kiểm toán viên sẽ đủ
điều kiện xin ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp phép cho kiểm toán các
công ty niêm yết).
Ủy ban chứng khoán và chính phủ cần xem xét để tăng cường nguồn
lực kiểm toán cho lĩnh vực chứng khoán đồng thời nâng cao chất lượng nhân
lực kiểm toán. Nhà nước cũng cần ban hành các văn bản pháp luật như Nghị
định về kiểm toán độc lập tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho kiểm toán.
Bên cạnh đó, như đã nói ở phần giải pháp cho thị trường tín dụng,
107
29 Số liệu đến ngày 09/04/2007, http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1048 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
việc đưa hoạt động kế toán và kiểm toán gần hơn với các chuẩn mực thế giới
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cũng là một biện pháp cần thiết để nâng cao tính minh bạch, giảm tình trạng
108
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
thông tin bất cân xứng trên TTCK.
Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------
KẾT LUẬN
Với những lý luận chung về thị trường tài chính và cơ sở lý luận Lý
thuyết thông tin bất cân xứng, những phân tích cụ thể các biểu hiện cụ thể
trong thực tiễn tại thị trường tài chính, khóa luận đã mang lại một cái nhìn
tổng quát về vấn đề bất cân xứng thông tin trên thị trường tài chính Việt
Nam, và đóng góp một số phương hướng giải pháp để khắc phục tình trạng
trên. Thực tế gần đây có không ít những nghiên cứu về thị trường tài chính
của nhiều nhà kinh tế và các học giả, xoay quanh rất nhiều khía cạnh khác
nhau như: Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO và những cam kết
trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu hóa tài chính và các vấn đề chính sách,...
Đóng góp nhỏ bé của khóa luận đối với những nghiên cứu về thị trường tài
chính là ở cách tiếp cận các vấn đề trên thị trường tài chính trên cơ sở lý
thuyết thông tin bất cân xứng.
Tuy nhiên, trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, cùng với
những hạn chế nhất định về kiến thức và phương pháp nghiên cứu, người
viết chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu những biểu hiện chung nhất và tiêu
biểu nhất của thông tin bất cân xứng trên toàn bộ thị trường tài chính. Người
viết hy vọng sẽ có thêm nhiều nghiên cứu sâu và cụ thể hơn về từng thị
trường. Ngoài ra cũng có rất nhiều cách tiếp cận mới mà người viết xin được
đề xuất để nghiên cứu về thị trường tài chính như Vấn đề trái chanh
(Lemons problem), Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market
hypothesis) và Lý thuyết thông tin hiệu quả (Efficient Information
109
------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế
hypothesis).