TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ -----  ----- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI:

Th«ng tin bÊt c©n xøng trªn thÞ tr êng

tµi chÝnh ViÖt nam, thùc tr¹ng vµ gi¶i ph¸p

Họ và tên sinh viên

: Nguyễn Thị Phƣơng Nhật

: Anh 14

Lớp

: K42 D

Khoá

Giáo viên hƣớng dẫn

: THS.Nguyễn Thị Tƣờng Anh

 Hà nội, tháng 11/2007 

MỤC LỤC

1.1.

1.1.1. 1.1.2.

1.2.

1.2.1. 1.2.2.

1.3.

1.3.1. 1.3.2.

2.1.1. 2.1.2. 2.1.3. 2.1.4.

2.2.1. 2.2.2.

2.3.1. 2.3.2. 2.3.3. 2.3.4.

Danh mục từ viết tắt Lời mở đầu ........................................................................................................................... 2 CHƢƠNG I: Lý luận chung về thị trƣờng tài chính và lý thuyết thông tin bất cân xứng. 6 I. Lý luận chung về thị trƣờng tài chính...................................................................... 6 1. Các thị trƣờng cấu thành ...................................................................................... 6 Theo thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính ......................................... 6 Thị trường tiền tệ:.................................................................................... 6 Thị trường vốn: ....................................................................................... 7 Theo cách thức huy động vốn ........................................................................ 7 Thị trường nợ: ......................................................................................... 7 Thị trường cổ phần: ................................................................................. 8 Theo thời điểm các công cụ tài chính được đưa ra thị trường ....................... 8 Thị trường sơ cấp .................................................................................... 8 Thị trường thứ cấp: ................................................................................. 8 2. Các loại hình định chế tài chính ........................................................................... 9 2.1. Các định chế tài chính nhận tiền gửi ............................................................. 9 Ngân hàng thương mại: ..........................................................................10 Hiệp hội tiết tiệm và cho vay: .................................................................10 Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ: ................................................................10 Liên hiệp tín dụng:..................................................................................11 2.2. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng: ..........................................................11 Công ty bảo hiểm: ..................................................................................11 Quỹ hưu trí: ............................................................................................12 2.3. Các định chế đầu tư trung gian .....................................................................12 Công ty tài chính: ...................................................................................12 Quỹ đầu tư: ............................................................................................12 Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ: .............................................................13 Ngân hàng đầu tư: ..................................................................................13 3. Ba vấn đề cố hữu của thị trƣờng tài chính ..........................................................14 3.1. Chi phí giao dịch ...........................................................................................14 3.2. Bất cân xứng về thông tin .............................................................................14 3.3. Bất ổn định mang tính hệ thống....................................................................15 II. Lý thuyết thông tin bất cân xứng ...............................................................................15 1. Giới thiệu chung về lý thuyết thông tin bất cân xứng . .......................................15 Lựa chọn ngược ............................................................................................17 1.1. 1.2. Rủi ro đạo đức ...............................................................................................20 Phát tín hiệu ..................................................................................................22 1.3. 2. Thông tin bất cân xứng trong thị trƣờng tài chính .............................................23 Lựa chọn ngược ............................................................................................23 2.1. 2.2. Rủi ro đạo đức ...............................................................................................25

28

1.2.1. 1.2.2.

1.1.

1.1.1. khoán. 1.1.2.

3. Tác động của tình trạng thông tin bất cân xứng tới tính hiệu quả của thị trƣờng 4. Những biện pháp chung hạn chế trở ngại thông tin bất cân xứng .....................28 Sàng lọc .........................................................................................................28 4.1. 4.2. Phát tín hiệu ..................................................................................................29 4.3. Giám sát trực tiếp ..........................................................................................30 4.4. Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích: .............................31 Chƣơng II: Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính Việt Nam ........33 I. Tổng quan về thị trƣờng tài chính việt nam ...........................................................33 Thực trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính ............................38 II. 1. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng .............................38 1.1. Lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng ...................................................38 1.2. Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn và của bản thân các ngân hàng ..........44 Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn trong sử dụng vốn vay ...................44 Rủi ro đạo đức của bản thân các ngân hàng ...........................................48 2. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng chứng khoán ........................................56 Lựa chọn ngược của các nhà đầu tư .............................................................57 Thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng ...............................................................................................................57 Thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau. ...........................61 1.2. Rủi ro đạo đức của các công ty phát hành chứng khoán ..............................67 3. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tiền tệ: ..................................................70 4. Đánh giá chung về thị trƣờng tài chính. ..............................................................71

Chƣơng III: định hƣớng phát triển và giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính việt nam .............................................................................72 I. Định hƣớng phát triển thị trƣờng tài chính Việt Nam - Tƣ tƣởng và quan điểm chủ đạo của Đảng và nhà nƣớc ..............................................................................................72 1. Quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về phát triển thị trƣờng tài chính và nhận thức đúng thị trƣờng tài chính ............................................................72 2. Đảm bảo sự vận hành của thị trƣờng tài chính trên cơ sở các quan hệ thị trƣờng thật sự. .............................................................................................................73 3. Đặt quá trình phát triển và hoàn thiện thị trƣờng tài chính trong tổng thể hình thành đồng bộ thể chế thị trƣờng, cải cách cơ cấu và hội nhập kinh tế quốc tế. .......74 4. Hƣớng tới hình thành và phát triển một thị trƣờng tài chính cân đối hơn, xác định và lựa chọn mô hình quản lý tài chính phù hợp với sự phát triển của thị trƣờng tài chính. .......................................................................................................................74 5. Tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nƣớc đối với thị trƣờng tài chính ..............................................................................................................................75 6. Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá rủi ro tài chính và mô hình cảnh báo sớm .77

1.1.1. 1.1.2.

II. Giải pháp khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tài chính Việt Nam ..........................................................................................................................77 1. Trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng ...................................................................77 1.1. Biện pháp hạn chế lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng .....................77 Các quy định pháp lý rõ ràng, chặt chẽ liên quan đến hoạt động tín dụng.. ...............................................................................................................77 Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy ........................78 a. Phát triển trung tâm thông tin tín dụng tư nhân .........................................78 b. Hệ thống thông tin nội bộ của bản thân các tổ chức tín dụng ......................84

Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá thống nhất và phù hợp với

1.1.3. chuẩn mực quốc tế .................................................................................................85 Hệ thống đăng kí tài sản hiệu quả ...........................................................86 1.1.4. 1.2. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong sử dụng vốn vay . Error! Bookmark not defined.

1.2.1. Vật thế chấp và số dư bù ..............................................................................88 1.2.2. Các điều kiện hạn chế: .................................................................................89 1.3. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng .............................90 1.3.1. Điều chỉnh hợp lý các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hoạt động tín dụng .......................................................................................................................90 a. Dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh. ......................................90 b. Xây dựng một chính sách bảo hiểm tiền gửi phù hợp. .................................90 1.3.2. Tăng cường giám sát Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng ......................92 a. Hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản và yêu cầu về vốn ..............................92 b. Giám sát và kiểm tra ngân hàng .................................................................94 c. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro .............................................................95 d. Yêu cầu về công bố thông tin ......................................................................96 2. Trên thị trƣờng chứng khoán ..............................................................................97 Tăng cường hoạt động giám sát Nhà nước đối với thị trường chứng khoán 97 Tăng cường các quy định pháp lý về công bố thông tin ................................99

2.1. 2.2. 2.3. Nâng cao hiệu quả của các công ty định mức tín nhiệm (Credit Rating Agency) ................................................................................................................... 101 2.4. Hỗ trợ hoạt động kiểm toán......................................................................... 106 Kết luận .................................................................................................................. 109

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TTTC: Thị trường tài chính

TTCK: Thị trường chứng khoán

NHTM: Ngân hàng thương mại

NHTW: Ngân hàng Trung Ương

TTTD: Thông tin tín dụng

DNNN: Doanh nghiệp nhà nước

TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán

SGDCK: Sở Giao dịch chứng khoán

UBCKNN: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài:

Thị trường tài chính bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng

khoán và thị trường tín dụng ngân hàng, giữ một vai trò quan trọng trong

việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn trong nền kinh tế. Có được thị trường

tài chính phát triển lành mạnh là một nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ

mô, tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Đặc biệt

trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, khi

Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, vai

trò của thị trường tài chính càng trở nên quan trọng hơn. Những áp lực hội

nhập, cam kết mở cửa mạnh mẽ trong khu vực tài chính đã đặt ra một yêu

cầu cấp thiết phải nghiên cứu những bất cập đang trở thành trở lực đối với

sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam hiện nay, từ đó tìm ra những

phương hướng khắc phục, giải quyết phù hợp.

Chính vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài khóa luận tốt nghiệp là: “Thông

tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt nam, thực trạng và giải pháp”.

Có rất nhiều vấn đề đang tồn tại cản trở sự phát triển lành mạnh của thị

trường tài chính Việt Nam như sự can thiệp không hợp lý của Nhà nước,

thông tin thiếu minh bạch và không hiệu quả, thiếu sự tham gia của nhiều

định chế tài chính trung gian, văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp

chưa có, cơ sở hạ tầng chưa tương xứng,... Khóa luận này xin được tiếp cận

những tồn tại, bất cập trên trong thị trường tài chính trên cơ sở lý thuyết

2

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng - một lý thuyết đang chiếm giữ vị trí quan trọng

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ trong nền kinh tế học hiện đại do nhóm ba nhà khoa học George Akerlof,

Michael Spence và Joseph Stiglitz đưa ra.

2. Đối tượng và nội dung nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thị trường tài chính Việt Nam

với các thị trường cấu thành là thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng và thị

trường chứng khoán. Nội dung nghiên cứu là tình trạng thông tin bất cân

xứng với những biểu hiện cụ thể trên từng thị trường.

3. Mục tiêu nghiên cứu:

Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là đưa lại một cái nhìn cụ thể, đầy

đủ về tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam,

phân tích nguyên nhân nhằm đề xuất những biện pháp giải quyết phù hợp.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Phương pháp nghiên cứu của người viết đó là đi từ cơ sở lý thuyết

chung và dẫn chiếu đến các biểu hiện cụ thể trên thực tế thị trường tài chính,

từ đó đưa ra những phương hướng giải quyết tương ứng.

5. Kết cấu của khóa luận:

Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

gồm có 3 chương:

Chương 1: Lý luận chung về thị trường tài chính và Lý thuyết thông

tin bất cân xứng.

Chương 2: Thực trạng Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt

Nam

Chương 3: Giải pháp kiến nghị khắc phục tình trạng thông tin bất cân

3

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

xứng trên thị trường tài chính Việt Nam

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Người viết hy vọng khóa luận này sẽ đóng góp một cái nhìn tổng quát

về thị trường tài chính thông qua một cách tiếp cận khá mới, và đề xuất một

vài giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng thông tin bất cân xứng.

Qua đây, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới cô giáo Th.S Nguyễn Thị

Thúy Anh đã gợi ý cho tôi chọn đề tài này, T.S Võ Trí Thành - Trưởng ban

Nghiên cứu Chính sách và Hội nhập, Viện nghiên cứu kinh tế Trung Ương đã

hướng dẫn phương pháp nghiên cứu và hỗ trợ tôi trong quá trình thu thập tài liệu,

và trên hết là lời cảm ơn chân thành tới cô giáo - Th.S Nguyễn Thị Tường Anh,

đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận trong suốt thời gian

4

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

qua.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

CHƢƠNG I

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VÀ LÝ

THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH

Thị trường tài chính là nơi trao đổi, giao dịch các loại “hàng hóa” của

thị trường, đó là các quyền đòi nợ tài chính (financial claims).1

1. Các thị trƣờng cấu thành

Thị trường tài chính có thể được phân loại theo nhiều cách thức khác

nhau, theo thời gian đáo hạn của công cụ tài chính, theo cách thức huy động

vốn hoặc theo thời điểm phát hành công cụ tài chính ra công chúng.

1.1. Theo thời gian đáo hạn của các công cụ tài chính

1.1.1. Thị trường tiền tệ:

Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài

chính ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm). Thị trường tiền tệ thường bao gồm thị

trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường

đấu thầu tín phiếu kho bạc. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ bao gồm

Ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, và các tổ chức tài chính

phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi

giới tiền tệ.

Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ có độ rủi ro thấp,

tính thanh khoản cao. Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm tín phiếu

kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu của ngân hàng, thỏa

thuận mua lại, tín phiếu NHTW.

1Võ Trí Thành (chủ biên), Lê Xuân Sang (Đồng chủ biên), Đinh Hiền Minh, Trịnh Quang ------------------------------------------------------------------------------------------------------- 6 ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

1.1.2. Thị trường vốn:

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài

chính (các công cụ nợ và các công cụ vốn) có thời hạn trên 1 năm. Thị

trường vốn gồm thị trường tín dụng và TTCK (thị trường cổ phiếu và thị

trường trái phiếu). Các chủ thể chính tham gia thị trường vốn là ngân hàng

thương mại, tổ chức tài chính phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp,

cá nhân, các nhà môi giới chứng khoán.

Hàng hóa giao dịch trên thị trường vốn bao gồm cổ phiếu, trái phiếu

chính phủ, trái phiếu công ty, khế ước thế chấp và tín dụng trung - dài hạn

của ngân hàng. Các công cụ của thị trường vốn thường có độ rủi ro lớn hơn

và có mức lợi tức cao hơn các công cụ của thị trường tiền tệ.

Thị trường vốn và thị trường tiền tệ có mối quan hệ qua lại mật thiết

với nhau. Trong một thị trường tài chính phát triển, những biến động trong

nền kinh tế lúc đầu tác động lên một thị trường cấu thành sau đó sẽ dễ dàng

lan truyền đến các thị trường khác trong toàn bộ hệ thống. Chẳng hạn, việc

thay đổi lãi suất có tác động lan tỏa lên thị trường tiền tệ lẫn thị trường vốn.

Tỷ giá hối đoái biến động sẽ có tác động lên dòng vốn ngắn hạn cũng như

dài hạn.

Ngày nay, khi thị trường tài chính ngày càng phát triển, các công cụ

tài chính được sử dụng đan xen giữa các thị trường. Những công cụ mới

không ngừng ra đời và mang đặc trưng của nhiều loại công cụ tài khác.

Chính vì vậy, ranh giới phân định giữa các công cụ tài chính và các thị

trường cấu thành của thị trường tài chính ngày càng mang tính tương đối.

Thị trường tiền tệ và thị trường vốn do đó càng trở nên gắn bó chặt chẽ hơn.

1.2. Theo cách thức huy động vốn

7

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

1.2.1. Thị trường nợ:

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Thị trường nợ là thị trường trong đó người cần vốn huy động vốn

bằng cách phát hành các công cụ vay nợ hay thực hiện một món vay thế

chấp. Người vay thanh toán cho người nắm giữ các công cụ nợ một khoản

tiền cố định (lãi suất) trong những khoảng thời gian đều đặn cho tới một thời

điểm quy định trước (ngày đáo hạn) là lúc đợt thanh toán cuối cùng được

thực hiện. Kỳ hạn thanh toán của một công cụ nợ là thời gian tính tới ngày

kết thúc của công cụ vay nợ. Công cụ vay nợ có thể có thời gian đáo hạn từ

1 năm trở xuống, công cụ nợ trung hạn có thời gian đáo hạn từ 1 năm tới 10

năm, và công cụ nợ dài hạn có thời gian đáo hạn trên 10 năm.

1.2.2. Thị trường cổ phần:

Thị trường cổ phần là thị trường trong đó người cần huy động vốn

bằng cách phát hành các cổ phiếu. Các cổ phiếu là quyền được chia phần

trên lãi ròng (sau khi trừ chi phí và thuế) và tài sản của công ty phát hành cổ

phiếu. Người nắm giữ cổ phiếu được gọi là cổ đông. Các cổ đông thường

được thanh toán cổ tức theo định kỳ. Các cổ phiếu không có thời gian đáo

hạn và được coi là các chứng khoán dài hạn.

1.3. Theo thời điểm các công cụ tài chính được đưa ra thị trường

1.3.1. Thị trường sơ cấp

 Thị trường sơ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lần đầu

các công cụ tài chính. Thị trường này thu hút các khoản tiết kiệm của các

hộ gia đình và các khoản vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp và của chính

phủ thành các khoản đầu tư vốn. Điều này có nghĩa là các chủ thể phát

hành thu được tiền từ việc bán các công cụ tài chính để tài trợ cho việc

đầu tư ngắn hạn hoặc dài hạn.

8

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

1.3.2. Thị trường thứ cấp:

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------  Thị trường thứ cấp là nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các công cụ

tài chính đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Khác với thị trường sơ

cấp, khoản tiền thu được từ bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp

thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh chứng khoán/ tự doanh

chứng khoán, chứ không thuộc về các tổ chức phát hành chứng khoán.

2. Các loại hình định chế tài chính

Như đã đề cập ở trên, các chủ thể tham gia trên thị trường tài chính

bao gồm các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, các cá nhân, chính phủ, và các

định chế tài chính trung gian. Trong đó, các định chế tài chính trung gian là

các chủ thể quan trọng nhất tham gia thị trường.

Các định chế tài chính được phân loại theo nhiều cách khác nhau như

theo các đặc trưng về chấp nhận rủi ro, theo thời hạn của các khoản vay và

các khoản cho vay hoặc theo cách chuyển đổi các thỏa thuận tài chính. Cách

thông thường là các định chế tài chính được phân loại theo loại hình dịch vụ

cung cấp, bao gồm: các định chế tài chính nhận tiền gửi, các định chế đầu tư. Cách phân loại các định chế tài chính chỉ có tính tương đối.2

2.1. Các định chế tài chính nhận tiền gửi

Các định chế tài chính nhận tiền gửi thường nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ

chức khác rồi sau đó cho vay lại. Các định chế này có đặc điểm chung là đều

nhận tiền gửi từ dân cư và các pháp nhân. Số tiền gửi này được đem cho vay

trực tiếp tới các cá nhân hay tổ chức khác cần vốn, một phần khác có thể

được đầu tư vào các chứng khoán. Thu nhập của các định chế này được tạo

9

2 Trong các tài liệu về thị trường tài chính, quan niệm và cách phân loại về các định chế tài chính có thể khác nhau. Khóa luận này dựa theo sự phân loại của cuốn Thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng, vấn đề và giải pháp chính sách, nhóm tác giả Võ Trí Thành (chủ biên), Lê Xuân Sang (đồng chủ biên), Đinh Hiền Minh, Trịnh Quang Long, Nhà Xuất bản Tài chính, 2004. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

ra từ hai nguồn: Thu nhập từ các khoản cho vay và mua chứng khoán, và thu

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nhập từ các khoản lệ phí. Các định chế tài chính nhận tiền gửi bao gồm các

ngân hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay, các ngân hàng tiết

kiệm tương hỗ (mutual savings banks) và các liên hiệp tín dụng (credit

unions).

2.1.1. Ngân hàng thương mại:

Ngân hàng thương mại có 2 chức năng cơ bản là cung cấp dịch vụ

thanh toán và tái phân bổ vốn từ người tiết kiệm (có vốn nhàn rỗi) sang

người vay tiền (có nhu cầu về vốn). Ngân hàng thương mại đóng vai trò

trung gian giữa người tiết kiệm và người đi vay, huy động vốn chủ yếu bằng

2 cách là nhận tiền gửi và phát hành trái phiếu. Ngân hàng có thể sử dụng

vốn huy động được để cho vay lại và để mua chứng khoán.

2.1.2. Hiệp hội tiết tiệm và cho vay:

Nguồn vốn hàng đầu của các hiệp hội này là các khoản tiền gửi tiết

kiệm, các khoản tiền gửi có kỳ hạn, các khoản tiền gửi có thể chuyển thành

séc. Thông thường, các nguồn vồn thu được dùng để cho vay thế chấp. Ngày

nay, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay được phép phát hành các khoản séc,

thực hiện các khoản cho vay tiêu dùng và thực hiện nhiều hoạt động trước

đây chỉ dành cho các ngân hàng thương mại. Tương tự như các ngân hàng

thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay cũng được yêu cầu gửi tiền tại

ngân hàng trung ương.

2.1.3. Ngân hàng tiết kiệm tương hỗ:

Hoạt động của các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ tương đối giống với

các quỹ tiết kiệm và cho vay. Họ nhận các khoản tiền gửi và dùng chúng

trước hết là để cho vay thế chấp. Cấu trúc tổ chức của các ngân hàng tiết

kiệm tương hỗ hơi khác các quỹ tiết kiệm và cho vay ở chỗ họ luôn được tổ

10

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chức như có sự “tương trợ” lẫn nhau, tức là họ hoạt động như một “hợp tác

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ xã” trong đó những người sở hữu tiền gửi lại là các chủ sở hữu ngân hàng.

Ngày nay, các ngân hàng tiết kiệm tương hỗ cũng có thể phát hành séc và

thực hiện các khoản cho vay khác ngoài các khoản cho vay thế chấp.

2.1.4. Liên hiệp tín dụng:

Các liên hiệp, quỹ tín dụng là các tổ chức cho vay rất nhỏ có tính chất

như các hợp tác xã được tổ chức xung quanh một nhóm xã hội đặc biệt. Các

thành viên của quỹ tín dụng là những người lao động của một công ty nào

đó. Họ thu nhận vốn từ các khoản tiền gửi và trước hết là thực hiện các

khoản cho vay. Các quỹ tín dụng cũng được phép phát hành các khoản tiền

gửi có thể chuyển thành séc và có thể thực hiện các khoản cho vay tiêu

dùng.

2.2. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng:

Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng là những định chế tài chính

nhận vốn theo định kỳ trên cơ sở các hợp đồng. Do có thể dự tính được

những khoản phải thanh toán trong tương lai, các định chế tiết kiệm này

không phải lo lắng nhiều về việc thiếu hụt vốn như các định chế tài chính

nhận tiền gửi. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng có xu hướng đầu tư vốn

vào các chứng khoán dài hạn như trái phiếu công ty, cổ phiếu và các khoản

cho vay thế chấp. Các định chế tiết kiệm theo hợp đồng chủ yếu bao gồm

các công ty bảo hiểm và các quỹ hưu trí.

2.2.1. Công ty bảo hiểm:

Công ty bảo hiểm là định chế tài chính đảm nhận việc thực hiện một

khoản thanh toán mỗi khi có một sự việc xảy ra với một khoản đóng góp

11

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trước đó của người tham gia bảo hiểm. Công ty bảo hiểm hoạt động với tư

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cách là người chấp nhận rủi ro. Công ty bảo hiểm thu phí từ những người

mua bảo hiểm để huy động vốn và sau đó chủ yếu đầu tư khoản tiền nhận

được vào chứng khoán. Có 2 loại hình công ty bảo hiểm chính là các công ty

bảo hiểm nhân thọ và các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.

2.2.2. Quỹ hưu trí:

Các quỹ hưu trí được công ty tư nhân, chính phủ hoặc chính quyền địa

phương, các nghiệp đoàn lao động đại diện cho các thành viên của mình, và

các cá nhân có nhu cầu thành lập để thanh toán những khoản phúc lợi cho

người lao động khi họ về hưu. Đặc điểm của quỹ này là chúng liên quan đến việc

đầu tư vào một tài sản có tính thanh khoản rất thấp, đó là hợp đồng hưu trí. Một

nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các quỹ hưu trí là các

khoản đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người lao động cũng như các

khoản thu được từ tài sản của quỹ đều không bị đánh thuế. Về thực chất, quỹ

hưu trí là một hình thức trả công cho người lao động mà không bị đánh thuế cho

đến khi số tiền này được rút ra, nó có tác dụng khuyến khích người lao động ở

lại với doanh nghiệp.

2.3. Các định chế đầu tư trung gian

2.3.1. Công ty tài chính:

Các công ty tài chính thường huy động vốn bằng cách bán thương

phiếu (công cụ nợ ngắn hạn) và phát hành các cổ phiếu và trái phiếu. Các

công ty tài chính có thể cho vay tiêu dùng hoặc cho các doanh nghiệp vay

đầu tư. Một số công ty tài chính do công ty mẹ thành lập với mục đích hỗ trợ

tín dụng mua hàng từ công ty mẹ.

2.3.2. Quỹ đầu tư:

Quỹ đầu tư là một tổ chức tài chính phi ngân hàng huy động vốn

12

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

bằng hình thức hùn vốn đầu tư (investment pool) thông qua việc phát hành

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ các cổ phiếu hoặc các chứng chỉ hưởng lợi. Việc hùn vốn đảm bảo cho thành

viên của quỹ mua được cổ phiếu và trái phiếu với chi phí giao dịch thấp. Các

cổ đông cũng có thể bán cổ phiếu của mình có trong Quỹ vào bất kỳ lúc nào

với giá trị phụ thuộc vào giá trị của cổ phiếu mà Quỹ đã đầu tư tại thời điểm

đó.

Các quỹ đầu tư thực hiện các hoạt động đầu tư vốn bằng 2 cách: trực

tiếp (tức là tham gia vào một công ty với tư cách là một cổ đông thành lập)

và gián tiếp (tham gia TTCK, hoặc cho thực hiện các khoản cho vay có thể

chuyển thành cổ phần).

2.3.3. Quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ:

Các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ phát hành các cổ phiếu để thu hút

vốn, sau đó vốn này được dùng để mua các công cụ chính trên thị trường

tiền tệ. Lãi suất thu được từ các công cụ tài chính được thanh toán cho các

cổ đông. Các cổ đông của quỹ có thể phát hành séc ứng với giá trị phần tài

sản cổ phần của họ có trong quỹ. Tuy vậy, quỹ này cũng có những hạn chế

đối với việc sử dụng đặc quyền phát hành séc. Séc thường không được phát

hành với một tổng giá trị nhỏ hơn mức tối thiểu đã quy định trước.

2.3.4. Ngân hàng đầu tư:

Ngân hàng đầu tư thường tiến hành các hoạt động sau: (i)Hỗ trợ các

doanh nghiệp huy động vốn trên TTCK như tư vấn phát hành cổ phiếu, trái

phiếu và bảo lãnh phát hành, (ii) kinh doanh chứng khoán như môi giới

chứng khoán, tự doanh chứng khoán, và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán,

(iii) tư vấn về sáp nhập và mua lại công ty. Ngày nay, các ngân hàng đầu tư

có xu hướng mở rộng hoạt động sang lĩnh vực hoạt động của các ngân hàng

thương mại. Các ngân hàng đầu tư cũng nhận tiền gửi và cho vay. Điều này

13

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

tạo áp lực cạnh tranh lớn lên các ngân hàng thương mại.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

3. Ba vấn đề cố hữu của thị trƣờng tài chính

3.1. Chi phí giao dịch

Các giao dịch tài chính thường kéo theo những chi phí về thời gian và

tiền bạc. Chi phí giao dịch là một vấn đề lớn đối với những người tiết kiệm

nhỏ, đơn lẻ trong việc vay vốn và mua chứng khoán. Tiền lãi thu được từ các

khoản cho vay nhỏ có thể không đủ để bù đắp các chi phí để ký kết các khế

ước vay vốn. Người tiết kiệm sẽ phải trả chi phí giao dịch lớn trong trường

hợp mua chứng khoán do số tiền tiết kiệm chỉ đủ mua một số lượng nhỏ

chứng khoán. Vì vậy, người tiết kiệm chỉ có thể thực hiện một số khoản đầu

tư nhỏ và phải đối mặt với nhiều rủi ro do không có khả năng đa dạng hóa

các khoản đầu tư. Như vậy chi phí giao dịch cao đã loại trừ nhiều người có

món tiền tiết kiệm nhỏ và những người đi vay các món nợ nhỏ được tham

gia trực tiếp trên thị trường tài chính.

3.2. Bất cân xứng về thông tin

Một trong những nhân tố thiết yếu để thị trường tài chính hoạt động

hiệu quả là sự có được thông tin đầy đủ, kịp thời về chất lượng, giá cả và sự

sẵn có của các sản phẩm hoặc dịch vụ tài chính trên thị trường. Việc thiếu

thông tin trên thị trường tài chính có thể làm cho những người tham gia thị

trường ra các quyết định sai lệch.

Một trường hợp của tình trạng thông tin không đầy đủ là tình trạng bất

cân xứng về thông tin. Bất cân xứng về thông tin xảy ra trong trường hợp

những người tham gia thị trường có được các thông tin khác nhau liên quan

đến các giao dịch tài chính. Một bên giao dịch thường không biết đầy đủ các

thông tin cần thiết về đối tác để có những quyết định đúng đắn. Ví dụ, một

14

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

người đi vay một khoản tiền thường có thông tin tốt hơn về lợi ích tiềm ẩn

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ và rủi ro kèm theo với dự án đầu tư mà anh ta dự định tiến hành so với người

cho vay.

Tình trạng bất cân xứng về thông tin có thể xảy ra trước, trong

và/hoặc sau khi giao dịch tài chính được thực hiện. TìNH trạng này làm cho

thị trường tài chính không còn là một cơ chế phân bổ các nguồn vốn một

cách có hiệu quả. Bất cân xứng về thông tin có thể dẫn đến các vấn đề như:

lựa chọn ngược, rủi ro đạo đức và hành vi bầy đàn (hay hành vi đám đông).

3.3. Bất ổn định mang tính hệ thống

Sự bất ổn định mang tính hệ thống là một đặc tính cơ bản của thị

trường tài chính so với các thị trường khác. Sự bất ổn định mang tính hệ

thống xảy ra khi một định chế tài chính đã không thể thực hiện cam kết tài

chính; điều này có thể dẫn đến tình trạng hoảng loạn chung trong toàn hệ

thống tài chính khi có nhiều người sợ rằng một định chế nào đó cũng sẽ

không thực hiện các cam kết tài chính của mình. Một cuộc khủng hoảng có

thể xảy ra khi sự lan truyền kiểu này làm cho các định chế tài chính khác

đang hoạt động có hiệu quả bị rơi vào tình trạng nguy hiểm. Không phải

ngẫu nhiêu mà rủi ro được xem là “yếu tố trung tâm có ảnh hướng tới hành

vi tài chính”.

II. LÝ THUYẾT THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG 1. Giới thiệu chung về lý thuyết thông tin bất cân xứng3 .

Trong suốt hơn 3 thập kỉ trở lại đây, lý thuyết về thị trường với thông

15

3 Các ví dụ minh họa trong phần này được tham khảo tại Bài giảng Thông tin bất cân xứng trong tài chính, Học kì Xuân 2005, Bộ môn Tài chính phát triển, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, tác giả Xuân Thành, Lê Hồng Nhật, biên dịch Thạch Quân. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

tin bất cân xứng đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu kinh tế quan trọng và

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ hết sức thú vị. Các mô hình kinh tế với tình trạng thông tin không hoàn hảo

đã trở thành một công cụ không thể thiếu được của các nhà nghiên cứu kinh

tế. Từ lý thuyết này đã có không biết bao nhiêu ứng dụng trong thực tế, từ

những nền thị trường nông nghiệp truyền thống của các quốc gia đang phát

triển cho đến những thị trường tài chính hiện đại ở những nền kinh tế phát

triển. Cơ sở cho lý thuyết thông tin bất cân xứng này được đưa ra lần đầu

tiên vào những năm 1970 bởi một nhóm ba nhà khoa học gồm George

Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz. Đến năm 2001 thì lý thuyết này

đã khẳng định được vị trí trong nền kinh tế học hiện đại khi các nhà nghiên

cứu nói trên cùng vinh dự được trao giải thưởng Nobel Kinh tế cho công

trình nghiên cứu “phân tích các thị trường với tình trạng thông tin bất cân

xứng”.

Lý thuyết thông tin bất cân xứng ra đời khi lý thuyết kinh tế học tân

cổ điển đã thất bại trong việc giải thích một cách hiệu quả tại sao các thể chế

thị trường xuất hiện. Lý thuyết kinh tế tân cổ điển về thị trường giả định

người bán và người mua có thông tin hoàn hảo về: (i) đối tác bên kia của

giao dịch, (ii) chất lượng, đặc điểm của hàng hóa hay dịch vụ được trao đổi,

và (iii) cấu trúc thị trường. Giả định trên là hoàn toàn hợp lý nếu như ta dễ

dàng có được các thông tin. Tuy nhiên, trên thực tế phải tốn chi phí mới có

được thông tin, thậm chí trong nhiều trường hợp một đối tượng tham gia

giao dịch không thể biết được thông tin của đối tác bên kia cho dù có bỏ bao

nhiêu tiền để thu thập thông tin đi nữa. Trong nhiều thị trường hàng hóa,

người mua thường khó phân biệt được giữa sản phẩm chất lượng tốt với sản

phẩm chất lượng tồi. Trong thị trường lao động, các công ty và người sử

dụng lao động thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc xác định kỹ năng và

16

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

năng lực của nhân viên trong công ty mình khi mới bắt đầu tuyển dụng.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Trong thị trường tài chính, người cho vay thường phải mất chi phí khá cao

để xác định được mức độ uy tín hay thành tích tín dụng của người đi vay

tiềm năng.

Lý thuyết Thông tin bất cân xứng đi vào nghiên cứu tình trạng các bên

tham gia vào giao dịch không có các lượng thông tin cân xứng nhau. Một

bên trong giao dịch có lợi thế về thông tin (informed party) còn bên kia bị

bất lợi về thông tin (uninformed party). Thông tin ở đây có thể là một hành

động (action) hay một đặc điểm (characteristic) của bên có lợi thế về thông

tin. Ví dụ của sự bất cân xứng thông tin về đặc điểm của một bên có thể thấy

ở thị trường hàng hóa cũ, như xe cũ chẳng hạn: người bán hàng thường có

thông tin đầy đủ và chính xác hơn về thực trạng chất lượng của chiếc xe

mình đã sử dụng, còn người mua thường rơi vào trạng thái bất lợi về thông

tin. Còn ví dụ cho sự bất cân xứng thông tin về hành động là mối quan hệ

giữa người chủ doanh nghiệp với những nhân viên của mình như nhân viên

bán hàng. Người chủ doanh nghiệp không thể biết một cách chính xác liệu

nhân viên của mình có thực sự tận tâm với công việc hay không, có tìm mọi

cách để tăng doanh số bán hàng hay không, vì sự nỗ lực không phải lúc nào

cũng có thể được quan sát trực tiếp và đo lường một cách chính xác.

Lý thuyết này đưa ra ba lớp bài toán quan trọng là lựa chọn ngược

(hay còn gọi là lựa chọn bất lợi - adverse selection), rủi ro đạo đức (hay còn

được dịch là tâm lý ỷ lại - moral harzard) và phát tín hiệu (signalling). Lựa

chọn ngược và tâm lý ỷ lại là hai hệ quả trực tiếp của hiện tượng thông tin

bất cân xứng, còn phát tín hiệu là biện pháp để hạn chế tình trạng này.

1.1. Lựa chọn ngược

Lựa chọn ngược là tình huống thông tin bất cân xứng xảy ra trước khi

17

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

tiến hành giao dịch: khi một bên trong giao dịch có lợi thế thông tin về một

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đặc điểm nào đó (chẳng hạn như chất lượng sản phẩm, tình trạng sức khỏe, sự

lành mạnh về tài chính, …) mà bên kia không thể quan sát với độ chính xác

tuyệt đối khiến bên kia không thể đưa ra quyết định chính xác và tối ưu. Bên có

lợi thế về thông tin có thể lợi dụng đặc điểm này để che dấu, bóp méo thông tin

theo hướng có lợi cho mình. Còn bên thiếu thông tin hơn cần hiểu được bất lợi

này để tìm các biện pháp buộc bên có nhiều thông tin phải bộc lộ những đặc

điểm hay thông tin cần biết.

Hãy xem xét một ví dụ trong hoạt động bảo hiểm. Một công ty bảo

hiểm phát hành một hợp đồng bảo hiểm rủi ro mất xe. Kết quả có nhiều khả

năng xảy ra là đa số những người phải để xe ở những nơi không an toàn sẽ

mua bảo hiểm. Thông tin về nơi mà người sử dụng xe hay gửi xe là thông tin

chỉ riêng anh hay chị ta biết. Nói một cách khác, đó là thông tin mà người

ngoài và cụ thể là công ty bảo hiểm không thể quan sát được. Do vậy, công

ty không thể phân biệt được để tính mức phí bảo hiểm khác nhau với độ rủi

ro khác nhau. Ai cũng nói là mình luôn gửi xe ở những nơi an toàn để hy

vọng được hưởng phí bảo hiểm thấp. Trường hợp này, công ty bảo hiểm sẽ

áp dụng một mức phí bảo hiểm bình quân. Với một mức phí bảo hiểm bình

quân như vậy, thì những người thực sự luôn gửi xe ở nơi an toàn – khách

hàng mà công ty bảo hiểm muốn hướng tới - sẽ thấy không đáng để mua bảo

hiểm, còn những người có độ rủi ro cao - đối tượng khách hàng công ty bảo

hiểm muốn tránh - sẽ sẵn sàng mua. Như vậy, chỉ có những người có độ rủi

ro mất xe cao mới mua bảo hiểm. Như vậy, công ty bảo hiểm đã bị đặt trong

tình trạng lựa chọn ngược vì thực chất, công ty bảo hiểm chỉ muốn bán bảo

18

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hiểm cho những khách hàng gửi xe ở nơi an toàn.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Hãy xem xét một ví dụ khác trong thị trường xe cũ 4 . Những người

muốn mua xe thường không thể biết một cách chính xác chất lượng của

những chiếc xe đã qua sử dụng. Vấn đề này còn được miêu tả trong kinh tế học với hình ảnh “những trái chanh” (The Lemons problem *)5

Họ không thể phân biệt được đâu là chiếc xe tốt (một quả đào), đâu là

chiếc xe đã quá cũ, chất lượng tồi (một quả chanh). Vì thế, cái giá mà họ sẵn

sàng trả để mua một chiếc xe cũ sẽ phản ánh chất lượng trung bình của

những chiếc xe cũ trên thị trường, sẽ là một mức giá nằm giữa giá của một

chiếc xe tồi và giá của một chiếc xe tốt.

Về phía người bán xe cũ, anh ta biết rõ hơn ai hết chất lượng thực sự

của chiếc xe của mình. Nếu chiếc xe của anh ta là một “trái chanh”, thì

người chủ xe sẽ cực kì sẵn lòng bán cho bạn với mức giá trung bình mà bạn

chấp nhận, bởi mức giá này cao hơn giá trị thực sự của chiếc xe. Trong khi

đó, nếu chiếc xe của anh ta là một “trái đào”, tức là một chiếc xe chất lượng

tốt, thì anh ta sẽ không muốn bán cho bạn theo mức giá trung bình đó. Bởi vì

như chúng ta đã nói ở trên, mức giá trung bình đó cao hơn mức giá của chiếc

xe tồi nhưng lại thấp hơn mức giá của một chiếc xe tốt thực sự. Anh ta biết

rằng chiếc xe tốt của mình đã bị trả giá thấp hơn giá trị, vì thế sẽ không

muốn bán nó trên thị trường. Chính vì hiện tượng này, trên thị trường sẽ chỉ

19

4 Frederic S. Mishkin, Columbia University, 2004. The Economics of Money, banking and Financial markets, Chapter 1: Why study money, banking and financial markets? Asymmetric Information: Adverse Selection and Moral Hazard, Pearson Addison Wisley, New York, USA. 5 Nghiên cứu cụ thể và những thảo luận xung quanh Vấn đề những trái chanh (Lemons problem) có thể được tham khảo ở địa chỉ : www.nobel.se/economics/laureates/2001/public.html ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

có rất ít những chiếc xe tốt và người mua xe sẽ chỉ mua được những chiếc xe

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ chất lượng kém, với mức giá cao hơn giá trị thực sự của nó. Đây chính là

hiện tượng lựa chọn ngược.

Hiện tượng này có thể thấy rõ ở thị trường xe máy Trung Quốc tại

Việt Nam. Thị trường này có 2 loại xe: xe chất lượng tốt và xe dỏm. Giả sử

xe chất lượng tốt chiếm một phần tư số xe bán. Và giả sử những người có xe

tốt sẵn lòng bán với giá 700$, còn những người có xe dỏm sẵn lòng bán với

giá 300$. Người mua xe sẵn lòng trả 800$ cho xe tốt nhưng chỉ trả 400$ cho

xe dỏm. Nếu có cách biết rõ được loại xe mà mình mua, thì người mua xe sẽ

trả trong khoảng 700 - 800$ cho một chiếc xe tốt, và khoảng 300 - 400$ cho

một chiếc xe dỏm.

Tuy nhiên thực tế là người bán xe biết được chất lượng của chiếc xe

anh ta bán, còn người mua thì không có cách nào quan sát được chất lượng

của những chiếc xe trước khi mua. Động cơ của người bán xe dỏm là luôn

che dấu thông tin và nói rằng xe anh ta là xe tốt. Do luôn có khả năng mua

phải xe dỏm (với xác suất là 3/4) nên người mua không bao giờ trả 700 -

800$ cho một chiếc xe. Anh ta sẽ trả một mức giá kỳ vọng là 3/4*400 +

1/4*800 = 500$. Như vậy người có xe tốt sẽ không bán vì anh ta đòi 700$.

Vấn đề lựa chọn ngược nảy sinh vì những người có động cơ bán xe chỉ toàn

là những người có xe dỏm.

1.2. Rủi ro đạo đức

Hiện tượng rủi ro đạo đức là tình trạng thông tin bất cân xứng xảy ra

sau giao dịch, trong đó một bên trong giao dịch có ít thông tin hơn bên kia

về hành động của bên kia sau khi giao kết hợp đồng. Do bên có nhiều thông

tin hơn có thể dễ dàng che đậy hành động của mình, nên họ có xu hướng

hành động đi ngược lại lợi ích của bên kia và theo hướng có lợi cho mình.

20

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Hiện tượng này còn được nghiên cứu dưới hình thức là vấn đề người ủy thác

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ - đại lý (principal - agent problem). Vấn đề nảy sinh khi có sự phân ly về

quyền lợi. Một công ty muốn nhân viên bán hàng của mình chủ động tìm

kiếm khách hàng, nhưng các nhân viên thì thích ngồi không và uống trà.

Khác biệt về quyền lợi đi kèm với thực tế là chủ công ty không thể quan sát

được hành động của các nhân viên bán hàng của mình. Nói một cách khác,

ta gặp phải vấn đề hành động bị che đậy. Nếu như người chủ sở hữu có thể

quan sát được nhân viên làm việc có trách nhiệm như thế nào, thì sẽ không

có vấn đề về động cơ khuyến khích nhân viên bỏ bê công việc để làm việc

riêng. Bởi lúc đó, người chủ sở hữu đơn giản chỉ cần trả lương căn cứ trên

nỗ lực người nhân viên bỏ ra. Nhưng thường thì việc đo lường các hoạt động

của nhân viên, việc kiểm chứng các thông tin được báo cáo đối với người

chủ sở hữu là vô cùng tốn kém hoặc thậm chí không thể thực hiện được.

Để hiểu rõ hơn về khái niệm rủi ro đạo đức, ta hãy dùng một ví dụ về

bảo hiểm, nơi thuật ngữ này bắt nguồn. Trong phần nói về lựa chọn ngược ở

trên, chúng ta đã sử dụng ví dụ về rủi ro mất xe máy để minh họa cho khái

niệm “lựa chọn ngược”. Ta thấy rằng trước khi ký hợp đồng bảo hiểm, công ty

bảo hiểm không biết được đặc điểm của các khách hàng (thông tin bị che đậy

dẫn tới lựa chọn ngược). Thậm chí sau khi đã ký hợp đồng, công ty bảo hiểm

cũng không cũng không quan sát được hành vi của khách hàng. Những người

sau khi đã mua bảo hiểm thường trở nên bất cẩn hơn. Họ không còn giữ xe cẩn

thận như trước nữa vì ỷ lại rằng nếu mất thì cũng được công ty bảo hiểm đền

bù. Đây chính là tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức. Kết quả là xác suất mất xe của

những người bảo hiểm tăng lên đáng kể, từ đó kéo theo chi phí đền bù của công

ty bảo hiểm tăng lên.

Nếu quan sát được hành vi của khách hàng, công ty bảo hiểm sẽ đưa

21

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

vào trong hợp đồng các điều khoản để xác định rõ những hành vi (bất cẩn)

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nào dẫn tới mất xe thì sẽ không được bồi thường và sẽ thực thi những điều

khoản đó. Tuy nhiên, việc quan sát hành vi là rất tốn kém, nếu không muốn

nói là không khả thi. Do vậy, khi một khách hàng đến đòi đền bù thì công ty

bảo hiểm thường không có cách nào để xác định được là khách đó có thực

hiện đúng các điều khoản hợp đồng hay không.

1.3. Phát tín hiệu

Trong thị trường xảy ra tình trạng thông tin bất cân xứng, không phải

lúc nào bên có nhiều thông tin cũng là bên có lợi thế. Chẳng hạn trong thị

trường xe máy Trung Quốc, những người sản xuất xe máy tốt thực sự là bên

có nhiều thông tin hơn về chất lượng sản phẩm của mình nhưng họ vẫn

không thể bán được hàng do phía người mua không có thông tin đầy đủ về

chất lượng sản phẩm. Trong những trường hợp thế này, người nắm giữ

những thông tin riêng biệt cần chủ động thực hiện những hoạt động làm cho

đối tác trong giao dịch biết được thông tin về mình. Người bán xe chất lượng

tốt sẽ có động cơ khuyến khích để phát ra tín hiệu nhằm mục đích làm cho

người mua biết được mình bán xe tốt và sẵn lòng trả giá cao cho xe tốt này.

Một tín hiệu mà người bán xe có thể phát đi để người mua xe nhận biết

được, đó chính là điều khoản bảo hành.

Nếu người bán muốn thực hiện một hành vi nào đó để phát tín hiệu thì

sẽ phải tốn chi phí. Điểm then chốt là chi phí phát tín hiệu của người bán sản

phẩm chất lượng xấu luôn luôn cao hơn chi phí phát tín hiệu của người bán

sản phẩm chất lượng cao. Do vậy, người bán sản phẩm tồi sẽ không có động

cơ tìm cách phát tín hiệu và nói dối. Ví dụ, việc cung cấp chế độ bảo hành

đối với người bán xe chất lượng kém sẽ đòi hỏi nhiều chi phí hơn người bán

22

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

xe hơi tốt. Khi đó, bảo hành xe đã trở thành một tín hiệu hết sức hiệu quả.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Trong thị trường tín dụng, nếu một cá nhân trước đó đã tốn nhiều

công sức để thiết lập thành tích tín dụng tốt, lời tuyên bố của anh ta rằng anh

ta có ý định hoàn trả món nợ sẽ đáng tin hơn. Thành tích tín dụng của anh ta

khi đó sẽ đóng vai trò như một tín hiệu.

2. Thông tin bất cân xứng trong thị trƣờng tài chính

Như đã trình bày ở phần lý luận chung về thị trường tài chính, một

trong những vấn đề cố hữu của thị trường tài chính chính là chi phí giao

dịch. Sự tồn tại của chi phí giao dịch trong thị trường tài chính phần nào lý

giải được tại sao các trung gian tài chính và tài chính gián tiếp lại đóng vai

trò quan trọng trong thị trường tài chính như vậy. Một lý do khác nữa đó là

trong thị trường tài chính, một bên thường không biết đủ thông tin về bên

kia để đưa ra các quyết định đúng đắn. Ví dụ một người đi vay thường có

nhiều thông tin về nguồn thu nhập tiềm năng trong tương lai cũng như những

rủi ro liên quan với dự án đầu tư của họ hơn là người cho vay. Tình trạng thông

tin bất cân xứng này trong thị trường tài chính cũng dẫn tới 2 vấn đề trong hệ

thống tài chính vào 2 thời điểm: trước và sau giao dịch.

2.1. Lựa chọn ngược

Lựa chọn ngược là vấn đề gây ra bởi tình trạng thông tin bất cân xứng

trước khi giao dịch được tiến hành. Lựa chọn ngược trong thị trường tài

chính xảy ra khi hầu hết những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra kết

quả đầu tư tồi nhất - rủi ro tín dụng cao - lại là những người có khả năng sẽ

vay được nợ nhất.

Để hiểu được tại sao lại xảy ra tình huống lựa chọn ngược, hãy giả

thiết là bạn có 2 người bạn mà bạn có thể cho vay tiền là A và B. A là kiểu

người cẩn thận, truyền thống, chỉ đi vay khi anh ta có một kế hoạch đầu tư

23

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chắc chắn mang lại lợi nhuận. Còn B thì ngược lại, anh ta là một kẻ ưa liều

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lĩnh. B chỉ vừa mới nghĩ tới một kế hoạch làm giàu nhanh chóng mà sẽ biến

anh ta thành một triệu phú chỉ trong một đêm nếu anh ta có thể kiếm được số

đầu tư ban đầu là 1000$. Tuy nhiên, không may là những dự án làm giàu

nhanh kiểu như thế này lại thường đi liền với độ rủi ro rất cao: có nhiều khả

năng là khoản đầu tư của B sẽ không mang lại kết quả và anh ta sẽ mất trắng

1000$.

Vậy thì ai có nhiều khả năng sẽ tìm đến bạn để hỏi vay hơn? A hay B?

Tất nhiên người đó sẽ là B, bởi vì anh ta sẽ kiếm được bộn tiền nếu khoản

đầu tư đó thành công. Tuy nhiên bạn có thể sẽ không thích cho B vay vì có

nhiều khả năng B sẽ thất bại và không thể trả lại cho bạn món tiền 1000$.

Nếu bạn biết cả A và B rất rõ, có nghĩa là thông tin hoàn toàn cân xứng, thì

bạn sẽ không gặp vấn đề gì trong việc cho vay, bởi vì bạn biết rõ rằng B là

một rủi ro tín dụng lớn và bạn sẽ không cho B vay. Giả thiết là bạn không

biết rõ về cả 2 thì có khả năng là bạn sẽ cho B vay bởi vì B sẽ luôn tìm mọi

cách để vay được 1000$. Khi đó bạn đã tự đặt mình vào tình huống rủi ro

cao. Nhưng nếu giả thiết bạn hiểu rõ tình trạng thông tin bất cân xứng của

mình và quyết định không cho ai vay để đảm bảo an toàn vốn, thì lại gây ra

một tình trạng lãng phí nguồn lực bởi những người như A - có thành tích tín

dụng tốt hoặc có tiềm năng trả nợ cao - lại không thể tìm được một nguồn

vốn đầu tư cho dự án khả thi của mình.

Tương tự như ví dụ về thị trường bảo hiểm đã xem xét ở trước, nếu

càng tăng phí bảo hiểm thì càng làm cho những người có rủi ro cao mua và đẩy

những người rủi ro thấp ra, từ đó lại làm tăng chi phí bồi thường bảo hiểm.

Trong thị trường tín dụng, lãi suất mà ngân hàng quy định các đối tượng vay

phải trả sẽ ảnh hưởng tới sự chọn lựa những ai nộp hồ sơ xin vay vốn. Lãi suất

24

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

càng cao thì chỉ có những ai có dự án đầu tư rủi ro cao mới sẵn sàng vay. Như

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ vậy, tăng lãi suất có thể dẫn tới sự gia tăng các dự án đầu tư rủi ro và gia tăng

nợ khó đòi cho ngân hàng. Vấn đề cốt lõi dẫn tới tình trạng này là ngân hàng

không thể phân biệt được những người vay vốn xem ai là người đầu tư an tòan

và ai là người đầu tư rủi ro.

2.2. Rủi ro đạo đức

Rủi ro đạo đức là vấn đề gây nên bởi tình trạng thông tin bất cân xứng

sau khi giao dịch xảy ra. Rủi ro đạo đức chính là nguy cơ (rủi ro) người đi

vay sẽ tham gia vào những hoạt động không mong muốn (phi đạo đức) - xét

trên quan điểm của người cho vay vì anh ta tin rằng những hoạt động như

thế này sẽ làm giảm khả năng thanh toán nợ của người đi vay. Và vì vấn đề

rủi ro đạo đức khiến cho khả năng thu hồi nợ giảm đi nên những người cho

vay sẽ không tiếp tục cho vay nợ nữa.

Hãy xem xét một ví dụ về rủi ro đạo đức. Giả sử bạn cho một người

chú C vay 1000$. C cần khoản tiền này để mua một chiếc máy soạn thảo văn

bản để anh ta có thể mở cửa hàng đánh máy thuê cho đối tượng là sinh viên

viết khóa luận. Tuy nhiên, sau khi bạn cho C vay nợ, C có vẻ như không

muốn đầu tư vào cửa hàng đánh máy nữa mà thay vào đó, anh ta bắt đầu đi

cá cược ở trường đua ngựa. Nếu anh ta cá cược 1 ăn 20 và thắng bằng số tiền

cho vay của bạn, thì anh ta sẽ có khả năng hoàn trả số nợ cho bạn và ngoài ra

còn có thể bỏ túi số tiền khá lớn là 19000$. Nhưng nếu anh ta thua - mà điều

này rất dễ xảy ra - thì bạn sẽ mất trắng 1000$, nhưng những gì anh ta mất

chỉ là uy tín của một người chú đáng tin trong gia đình mà thôi. Vì thế anh ta

sẽ có động cơ đi tới cá cược ở trường đua ngựa bởi phần anh ta thu về nếu cá

cược đúng (19000$) lớn hơn rất nhiều so với những gì anh ta mất (uy tín).

Nếu bạn biết rõ C định làm gì, thì hiển nhiên bạn sẽ ngăn cản anh ta đến

25

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trường đua ngựa, và anh ta sẽ không thể làm tăng rủi ro đạo đức. Tuy nhiên,

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ để nắm rõ thông tin về mọi hoạt động của người đi vay là rất khó, thậm chí

không thể, có nghĩa là thông tin là bất cân xứng, nên có nhiều khả năng là C

sẽ tham gia cá cược và bạn có thể sẽ không thu hồi được số tiền cho vay của

mình. Rủi ro đạo đức khiến bạn không muốn cho vay dù bạn biết rõ nếu C

dùng tiền để đầu tư thì bạn sẽ thu hồi được nợ.

Trong các hợp đồng tài chính, tâm lý ỷ lại hay rủi ro đạo đức là một

vấn đề cố hữu. Các công ty hoạt động nhờ vào vốn vay mượn, nhưng trong

trường hợp phá sản thì chỉ có trách nhiệm hữu hạn (đối với các công ty

TNHH). Vì vậy, công ty sẽ tham gia vào những dự án rủi ro hơn mức mong

muốn của ngân hàng. Điều này đặc biệt đúng với các doanh nghiệp đang

trên bờ vực phá sản. Lý do là nếu dự án thành công (cho dù với cơ hội rất

thấp), thì doanh nghiệp sẽ thoát khỏi tình trạng khó khăn, còn nếu không

thành công thì cũng không sao bởi đằng nào công ty cũng phá sản. Ví dụ sau

đây minh họa cho tình huống này.

ABC Co. là một công ty hiện đang vay nợ ngân hàng. Giá trị tài sản

(theo thị trường) của công ty là 100 triệu $ và giá trị cổ phần (cũng theo thị

trường) là 50 triệu$. Hiện ABC Co. có một cơ hội đầu tư với chi phí đầu tư

là 10 triệu $. Sau một năm dự án kết thúc, có 2 khả năng xảy ra: hoặc dự án

tạo ra nguồn thu ròng (sau khi trừ đi chi phí) 96 triệu$ (với xác suất 10%)

hoặc tạo ra nguồn thu ròng bằng 0 (với xác suất 90%). Giả sử tỷ lệ chiết

khấu hợp lý (sau khi đã hiệu chỉnh rủi ro) áp dụng cho dự án là 20%. Giá trị

hiện tại ròng của dự án đầu tư là:

NPV= -10 + (10%*96 + 90%*0)/(1 + 20%) = -2 (triệu $)

Việc thực hiện dự án sẽ làm giảm giá trị doanh nghiệp và do vậy ABC Co.

26

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

sẽ không thực hiện dự án.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Một năm sau, tình hình kinh doanh và tài chính của ABC Co. trở nên

xấu đi. Vào lúc này, giá trị tài sản chỉ còn 40 triệu $ (trong đó có 10 triệu $

tiền mặt). Nghiêm trọng hơn, chỉ còn đúng một năm nữa là ABC phải hoàn

trả ngân hàng một khoản nợ là 50 triệu $. Giả sử rằng cơ hội đầu tư vào dự

án trên vẫn còn với các chi tiết kỹ thuật và tài chính không thay đổi.

Lúc này, nếu không thực hiện dự án, ABC Co. có thể sẽ phải tuyên bố

phá sản và/hay phát mãi toàn bộ tài sản để thanh toán cho khoản nợ ngân

hàng. Còn nếu thực hiện dự án và tình huống tốt xảy ra, công ty sẽ được 96

triệu $, thừa đủ để trang trải khoản nợ 50 triệu $. Mặt khác, nếu thực hiện dự

án và tình huống xấu xảy ra thì công ty phá sản, cũng như trường hợp không

thực hiện dự án.

Vậy ABC Co. sẽ thực hiện dự án cho dù NPV có âm. Lý do căn bản là

dự án có độ rủi ro rất cao và lợi nhuận trong trường hợp tốt đủ lớn để đưa

công ty thoát khỏi khó khăn tài chính. Ngân hàng chủ nợ của doanh nghiệp

rõ ràng sẽ chịu thiệt khi công ty thực hiện dự án rủi ro cao vì giá trị kỳ vọng

của khoản nợ mà công ty trả cho ngân hàng giảm đi (Nhớ rằng việc thực

hiện dự án hút đi mất 10 triệu $ từ giá trị tài sản của doanh nghiệp và giá trị

hiện tại kỳ vọng của dự án chỉ là 8 triệu).

Chính vì thế mà ta thường thấy những hoạt động không thể thiếu của

ngân hàng là thẩm định tín dụng, đánh giá tài sản thế chấp, theo dõi hoạt

động của đối tượng cho vay nợ và đôi khi còn thiết kế hợp đồng tín dụng

sao cho có thể rút vốn ngay lập tức khi thấy không yên tâm về khả năng chi

trả của người cho vay. Những cơ chế này chính là để đề phòng tâm lý ỷ lại

của những người vay vốn.

Những vấn đề gây nên bởi tình trạng Lựa chọn ngược và Rủi ro đạo

27

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

đức là những trở lực lớn khiến thị trường tài chính hoạt động kém hiệu quả.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Trong nhiều trường hợp, tình trạng thông tin bất cân xứng có thể khiến thị

trường hoàn toàn sụp đổ.

3. Tác động của tình trạng thông tin bất cân xứng tới tính hiệu quả của

thị trƣờng

Tình trạng thông tin bất cân xứng khiến các thị trường hoạt động kém

hiệu quả. Chẳng hạn trong thị trường hàng hóa, người bán hàng tốt không

còn động cơ để sản xuất và bán những hàng chất lượng cao, trong khi thị

trường chỉ còn lại những người bán hàng kém chất lượng. Nếu người mua

vẫn quyết định mua hàng, thì anh ta phải trả số tiền lớn hơn giá trị thực của

hàng hóa, chỉ làm lợi cho một số cá nhân nhưng lại gây hao phí cho toàn xã

hội. Nếu nghiêm trọng hơn, anh ta nhận thức được vấn đề này và quyết định

không tiến hành giao dịch thì thị trường lúc đó sẽ sụp đổ. Trong thị trường

tài chính, vấn đề thông tin bất cân xứng gây ra tình trạng lãng phí các nguồn

lực xã hội vào các dự án tồi trong khi nhiều dự án tốt lại không có đủ vốn để

thực hiện, gây lãng phí lớn. Vấn đề thông tin bất cân xứng nếu không được

hạn chế sẽ có thể khiến thị trường hoạt động lệch lạc và sụp đổ.

Nhìn chung, thông tin bất cân xứng khiến các nguồn lực của xã hội

được phân bổ không hiệu quả, gây lãng chí chung cho toàn xã hội, và đe dọa

sự tồn tại của một số thị trường, kìm hãm sự phát triển chung của nền kinh

tế.

4. Những biện pháp chung hạn chế trở ngại thông tin bất cân xứng

4.1. Sàng lọc

Quay trở lại ví dụ về lựa chọn ngược trong ngành bảo hiểm. Một cách

để khắc phục tình trạng này là công ty bảo hiểm thiết kế hợp đồng bảo hiểm

28

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

sao cho có thể tách biệt 2 loại khách hàng: nhóm rủi ro mất xe cao và nhóm

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ rủi ro mất xe thấp. Hợp đồng bảo hiểm gồm 2 lựa chọn, bất cứ khách hàng

nào cũng có thể lựa chọn một trong hai. Lựa chọn thứ nhất: bảo hiểm toàn

bộ giá trị của chiếc xe. Lựa chọn thứ hai: chỉ bảo hiểm một phần với một

mức phí thấp hơn mức phí trong lựa chọn thứ nhất. Mẹo ở đây là xác định

mức phí bảo hiểm và tỷ lệ giá trị xe được bảo hiểm sao cho nhóm rủi ro cao

luôn thấy có lợi nhất khi chọn hợp đồng thứ nhất, còn nhóm rủi ro thấp chỉ

chọn hợp đồng thứ 2. Trước hết, chi phí bảo hiểm trong hợp đồng thứ nhất

được định ở mức cạnh tranh sao cho đủ bù đắp chi phí kỳ vọng phải bồi

thường đối với nhóm rủi ro cao cộng với chi phí quản lý. Đối với hợp đồng

thứ hai, ta chọn một mức phí thấp hơn phù hợp với mức rủi ro thấp hơn (ví

dụ bằng một nửa phí bảo hiểm trong hợp đồng thứ nhất), nhưng khách hàng

trong hợp đồng này chỉ được bảo hiểm một phần giá trị tài sản (ví dụ bảo

hiểm 40% giá trị). Những người có rủi ro mất xe thấp thấy rằng chẳng tội gì

chọn hợp đồng thứ nhất vì mức phí quá cao (cho dù có được bảo hiểm toàn

bộ giá trị xe). Còn những người có độ rủi ro cao lại thấy rằng hợp đồng thứ

nhất là tốt hơn cả. Đối với họ, đúng là có thể được lợi từ mức phí thấp ở hợp

đồng thứ hai, nhưng vì chỉ được bảo hiểm một phần trong khi rủi ro mất xe

cao nên việc mua hợp đồng thứ hai không còn hấp dẫn. Cần nhớ rằng mặc

dù tách biệt được hai loại khách hàng, nhưng nhóm có rủi ro thấp không

được hưởng bảo hiểm toàn bộ giá trị. Đó chính là chi phí của thông tin bất

cân xứng.

4.2. Phát tín hiệu

Michael Spence chỉ ra được cơ chế phát tín hiệu (signaling): bên có

nhiều thông tin có thể phát tín hiệu đến những bên ít thông tin một cách

trung thực và tin cậy. Ví dụ trong thị trường hàng hóa, để phát tín hiệu về

29

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chất lượng hàng hóa tới người tiêu dùng, người bán có thể đưa ra các điều

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khoản bảo hành thời hạn dài nhằm chứng tỏ chất lượng cao của sản phẩm.

Trong thị trường tín dụng, những người đi vay vốn thường phải tích lũy

thành tích tín dụng tốt, chứng minh tính khả thi của dự án và tiềm năng trả

nợ của mình, để ngân hàng có thể đánh giá được rủi ro tín dụng và quyết

định cho vay. Spence lấy ví dụ bằng thị trường lao động. Người bán trên thị

trường lao động là những ứng cử viên đi xin việc và người mua là nhà tuyển

dụng. Nhà tuyển dụng không thể trực tiếp quan sát các khả năng của ứng cử

viên mà chỉ có thể đánh giá gián tiếp thông qua bằng cấp của họ. Nếu những

người kém năng lực phải mất nhiều thời gian và nỗ lực hơn những người có

năng lực để đạt được cùng trình độ học vấn thì những người có năng lực có

thể phát tín hiệu bằng cách đạt được những bằng cấp mà người kém năng lực

không thể đạt được. Hay một ví dụ khác, việc triển khai các chương trình

quảng cáo đắt tiền, việc duy trì chế độ bảo hành cho sản phẩm, việc chia cổ tức cho cổ đông... đó đều là những cách phát tín hiệu trên thương trường.6

4.3. Giám sát trực tiếp

Giám sát trực tiếp là cơ chế trong đó một bên trong giao dịch bỏ ra

nguồn lực để đạt được việc kiểm soát thông tin đối với bên kia. Việc giám

sát này có thể bao gồm gia tăng nguồn lực dành cho việc kiểm soát và kiểm

chứng. Trong thị trường tài chính, giải pháp này gắn với các yêu cầu về

kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty do các công ty kiểm toán độc

lập tiến hành trước khi được phép công bố. Trong hoạt động tín dụng ngân

hàng của nhiều quốc gia, báo cáo tài chính được kiểm toán trở thành một

điều kiện quan trọng để ngân hàng đánh giá rủi ro tín dụng, thẩm định dự án

30

và quyết định cho vay. Người chủ công ty cử một nhân viên giám sát nhằm

kiểm tra, theo dõi hành vi của các nhân viên của mình, và đưa ra các quyết 6 Th.S.Nguyễn Thúy Anh, khoa Quản trị kinh doanh, Đại học Ngoại Thương, Thông tin bất cân xứng - Rủi ro tiềm ẩn, Tạp chí Tia sáng, số ra ngày 19/03/2007. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ định tăng lương, thưởng dựa trên kết quả đánh giá của giám sát viên này.

Những người gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng cần có những yêu cầu cụ thể

đối với hoạt động đầu tư của ngân hàng, và yêu cầu công bố thông tin liên

quan nhằm giám sát hoạt động sử dụng vốn huy động của ngân hàng, đảm

bảo an toàn vốn. Các tổ chức đầu tư mạo hiểm khi quyết định đầu tư vào các

dự án kinh doanh mới thường trực tiếp cử một người của quỹ tham gia vào

quá trình tạo lập công ty nhằm hạn chế tình trạng thông tin bất cân xứng,

đảm bảo hiệu quả sử dụng đồng vốn của họ.

4.4. Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích:

Giám sát gián tiếp thông qua các động cơ khuyến khích là việc một

bên trong giao dịch thiết kế hợp đồng sao cho bên kia cảm thấy không có

động cơ để thực hiện những hành vi đi ngược lại lợi ích của anh ta, và khiến

bên kia cảm thấy rằng việc tuân thủ các điều khoản sẽ có lợi cho mình.

Trong hợp đồng có thể thiết kế các điều khoản hạn chế để ngăn cản bên kia

tham gia vào các hoạt động có độ rủi ro cao, hạn chế vấn đề rủi ro đạo đức.

Quay trở lại ví dụ bạn cho người chú C vay 1000$ để đầu tư vào cửa hàng

đánh máy thuê cho sinh viên viết khóa luận. Nếu bạn biết rõ rằng người chú

của mình sử dụng nguồn tiền vay đúng mục đích thì bạn sẽ yên tâm cho vay,

bởi khả năng thu hồi vốn là chắc chắn. Tuy nhiên, vì có khả năng cao là chú

C sẽ dùng khoản tiền đó để đi cá cược ở trường đua ngựa, nên bạn phải ngăn

chặn tình trạng này bằng cách quy định rõ trong hợp đồng rằng khoản tiền

đó chỉ được sử dụng để mua máy soạn thảo văn bản. Trong các hợp đồng

vay nợ nói chung, để kiểm soát tình trạng rủi ro đạo đức, bên cho vay cần

đưa vào những điều khoản hạn chế để loại trừ những hành vi không mong

muốn, đồng thời khuyến khích những hành vi tích cực. Có bốn loại điều

31

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

khoản hạn chế thường gặp: Điều khoản ngăn cản hành vi không mong muốn,

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Điều khoản khuyến khích hành vi mong muốn, Điều khoản đảm bảo giá trị

vật thế chấp, Điều khoản cung cấp thông tin. Những điều khoản này sẽ được

32

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

nói kỹ hơn trong chương III.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

CHƢƠNG II

THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ

TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

I. TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

Thị trường tài chính, bao gồm thị trường tiền tệ, thị trường chứng

khoán (thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu) và thị trường tín dụng ngân

hàng, giữ một vai trò đặc biệt trong việc phân bổ hữu hiệu các nguồn vốn

trong nền kinh tế. Có được thị trường tài chính phát triển lành mạnh là một

nhân tố thiết yếu đảm bảo ổn định vĩ mô, tăng trưởng kinh tế và nâng cao

khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và

hội nhập kinh tế quốc tế .

Với công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã

từng bước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường và

ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong

bối cảnh đó, thị trường tài chính cũng đã được hình thành và cải cách theo

các nguyên tắc thị trường, góp phần phân bổ các nguồn lực tài chính một

cách hiệu quả hơn và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngày 7/11/2006, Việt

Nam đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đồng

nghĩa với việc mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền kinh tế

đất nước nói chung và thị trường tài chính nói riêng.

Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, thị trường

tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định. Trước hết, các thị

trường cấu thành cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành và từng

33

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

bước hoàn thiện. Nhiều loại hình định chế trung gian tài chính được thành

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lập. Đặc biệt, thị trường chứng khoán đã được thiết lập và có những đóng

góp ban đầu trong việc huy động các nguồn vốn dài hạn cho nền kinh tế.

Thứ hai, trong hơn 5 năm lại đây, hệ thống ngân hàng đã được cơ cấu

lại nhằm giảm thiểu những yếu kém của hệ thống và những sai lệch trong

chính sách tín dụng. Chương trình cơ cấu lại tập trung vào việc lành mạnh

hoá và tăng cường năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là các

ngân hàng thương mại Nhà nước. Hoạt động tín dụng đã được đổi mới theo

hướng các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong

quyết định cho vay, lựa chọn khách hàng và biện pháp đảm bảo tiền vay trên

nguyên tắc thương mại, đảm bảo an toàn và hiệu quả.

Thứ ba, các nguyên tắc quản lý tài chính tiên tiến và chuẩn mực quốc

tế về tính minh bạch, kế toán, kiểm toán, giám sát... đã và đang từng bước

được thể chế hoá và ứng dụng rộng rãi hơn trong thực tế. Các thể chế về

quản trị doanh nghiệp (kể cả ngân hàng) cũng được hoàn thiện một bước,

nhất là đối với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán.

Cuối cùng, song không kém phần quan trọng, khung pháp luật của thị

trường tài chính đang ngày càng phù hợp hơn với các chuẩn mực và thông lệ

quốc tế. Chính sách tín dụng ngày càng đối xử bình đẳng hơn đối với các

doanh nghiệp tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài. Các định chế tài chính

nước ngoài ngày càng được phép mở rộng phạm vi, lĩnh vực hoạt động kinh

doanh của mình.

Tuy đạt được không ít thành tựu, song thị trường tài chính Việt Nam

vẫn được xem là còn kém phát triển. Độ sâu tài chính đo bằng tỷ lệ của tổng

phương tiện thanh toán (M2)/GDP và tổng tín dụng trong nước/GDP đã tăng

đáng kể, đều từ dưới 20% năm 1990 tương ứng lên 50,5% và 35,1% năm

34

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

2000 và 79,0% và 70,2% năm 2005. Song những chỉ số này chỉ tương đương

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ với chỉ số của các nước trong khu vực vào những năm cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 19907.

Thị trường chứng khoán, tuy có những bước phát triển nhanh trong

năm 2006, song vẫn còn nhỏ bé. Tổng vốn hoá thị trường của 54 công ty

niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

tại thời điểm 16/11/2006 đạt 58.562 tỷ đồng, tương đương 3,64 tỷ USD hay

gần 7% GDP năm 2005; nếu tính cả chứng chỉ quỹ, tổng vốn hoá thị trường

đạt 60.522,7 tỷ đồng, tương đương 3,77 tỷ USD hay 7,2% GDP năm 2005.

Cùng thời điểm, tổng giá trị trái phiếu niêm yết cũng chỉ đạt khoảng 6,9%

GDP năm 2005, trong đó hầu hết thuộc trái phiếu Chính phủ và chính quyền địa phương (chiếm khoảng 97%)8. Có rất ít trái phiếu công ty được phát

hành. Thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của

nền kinh tế và kênh huy động vốn quan trọng của các doanh nghiệp Việt

Nam.

Mẫu hình thị trường tài chính Việt Nam cơ bản là dựa vào ngân hàng

hay do ngân hàng chi phối (bank-based or bank dominated financial market),

trong khi thị trường tín dụng lại chứa đựng không ít vấn đề như:

(1) Mức độ tích tụ và phân khúc thị trường còn cao. Các Ngân hàng

thương mại (NHTM) nhà nước hiện chiếm gần 80% thị phần huy động tiền

gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng. Nhóm khách hàng truyền

35

thống của các NHTM Nhà nước là các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN).

Các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu tập trung vào đối tượng các 7 TS. Võ Trí Thành, Trưởng ban NCCS hội nhập - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, tham luận Thị trường tài chính Việt Nam: Thực trạng và tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO. 8 Nghiên cứu trao đổi, Bức tranh toàn cảnh về thị trường chứng khoán, (08/01/2007 16:18), http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=39818 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nhóm khách hàng của các ngân hàng liên doanh

và chi nhánh ngân hàng nước ngoài là khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài. Tín dụng theo ngành cũng phản ánh sự phân khúc thị trường

tín dụng, nhất là đối với các NHTM Nhà nước, mặc dù với mức độ đang

giảm.

(2) Rủi ro tín dụng, nhất là vấn đề nợ xấu vẫn còn hiện hữu. Tỷ lệ nợ

quá hạn so với tổng dư nợ của hệ thống NHTM được công bố đã giảm từ 13% năm 2000 xuống còn 3,4% năm 20059. Tuy nhiên, nếu dựa trên cách

phân loại quốc tế về nợ, thì tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM có thể lớn gấp

nhiều lần con số công bố. Hơn nữa, nguy cơ tiếp tục phát sinh nợ quá hạn là

khá cao do nhiều dự án đầu tư chưa được kiểm định chặt chẽ về tính hiệu

quả và khả thi, trong khi quá trình cải cách các DNNN lớn mới chỉ thực sự

được triển khai từ năm 2005.

(3) Vấn đề “sai lệch kép” cũng đáng lo ngại. Với tỷ trọng nguồn vốn

huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn chiếm khoảng 75%, nguy cơ sai

lệch về cơ cấu thời hạn trong bảng cân đối tài sản của hệ thống NHTM là

tương đối lớn. Nguy cơ này có thể tăng trong bối cảnh các NHTM có thể sử

dụng tới 25-30% tổng huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn.

Sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm trong hai ba năm lại đây, song mức

độ vẫn còn khá lớn và lại rất nhạy cảm với biến động tỷ giá, lãi suất, nhất là

trong môi trường đô la hóa cao.

(4) Rủi ro tín dụng có thể tăng còn do thu nhập của các NHTM chủ

yếu dựa trên nguồn thu từ chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay,

36

mặc dù nhiều loại hình dịch vụ ngân hàng đã có bước phát triển trong 3-4

năm lại đây. Phần lớn các khoản vay lại được thế chấp bằng bất động sản, 9 T.S Phan Minh Ngọc, ĐH Kyushu Nhật Bản, Nợ xấu chưa được xử lý từ gốc? Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 50 - 2006, ra ngày 10/12/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ trong khi thị trường bất động sản biến động mạnh. Các khoản vay được thế

chấp chứng khoán tuy có tỷ trọng chưa lớn song cũng đáng lo ngại khi năng

lực của các nhà đầu tư cá nhân còn thấp và thị trường chứng khoán (TTCK)

vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố gây biến động lớn về giá cả.

Trong khi đó, năng lực giám sát, quản trị ngân hàng còn nhiều hạn

chế. Công tác giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu. Quá trình giám sát từ xa

còn bất cập trong việc tổng hợp, thu thập và xử lý thông tin, đặc biệt trong

bối cảnh các chuẩn mực về kế toán, kiểm toán chưa được áp dụng thật rộng

rãi, nhất quán. Công tác giám sát tín dụng cũng chưa bao quát hết toàn bộ

các định chế tài chính có liên quan đến hoạt động tín dụng do thiếu sự phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và do mô hình quản lý hệ

thống tài chính hiện tại về thực chất là quản lý theo định chế tài chính. Các

quy định quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản lý rủi ro, quản trị tài sản

có, tài sản nợ, kiểm toán nội bộ,…mới được áp dụng, nên chưa thật sự có

hiệu lực và hiệu quả. Nhìn chung, trình độ quản trị nội tại ngân hàng chưa

đáp ứng tốt các chuẩn mực quốc tế như CAMEL và BASEL.

Thị trường chứng khoán vẫn còn ít các định chế tài chính quan trọng

như các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương hỗ. Các công ty định mức tín nhiệm tuy

đã xuất hiện nhưng hoạt động chưa thực sự chuyên nghiệp, chưa được thế giới

công nhận. Các nhà bảo lãnh phát hành chủ yếu là các NHTM Nhà nước. Các

công ty chứng khoán chưa đóng vai trò nhà tạo lập thị trường quan trọng trên

thị trường, mới chỉ thực hiện bảo lãnh phát hành đối với trái phiếu chính phủ.

Các nhà đầu tư cá nhân nhìn chung chưa có tính chuyên nghiệp; hành vi đầu tư

thường mang tính ngắn hạn, “bầy đàn”, gây biến động mạnh về giá và làm

giảm độ tin cậy đối với thị trường, nhất là trong bối cảnh mức độ công khai,

37

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

minh bạch của thị trường chưa cao.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Lãi suất trái phiếu chính phủ vẫn chưa tạo được đường cong lãi suất

chuẩn làm cơ sở cho việc phát hành trái phiếu công ty và các hoạt động đầu

tư trên thị trường tài chính. Cách thức huy động vốn qua phát hành trái phiếu

quốc gia trên thị trường quốc tế dường như vẫn thiếu tầm nhìn, chưa thật rõ

ràng về mục tiêu dài hạn. Thành phần tham gia đấu thầu trái phiếu Chính

phủ trên thực tế chủ yếu vẫn là các NHTM Nhà nước. Thị trường thứ cấp

kém phát triển. Sự tham gia đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của công chúng

còn hạn chế. Hệ thống tư pháp, các chuẩn mực về công bố thông tin và kế

toán, hệ thống thanh toán,... cần được cải thiện nhiều. Việc thiếu vắng các tổ

chức định mức tín nhiệm cũng là nguyên nhân kìm hãm thị trường. Có thể

nói, hiện Việt Nam còn thiếu nhiều điều kiện nền tảng để phát triển thị

trường trái phiếu công ty.

II. THỰC TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ

TRƢỜNG TÀI CHÍNH

1. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng

Lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng

Vấn đề thông tin bất cân xứng là một trong ba vấn đề cố hữu của thị

trường tài chính, bên cạnh vấn đề chi phí giao dịch và sự bất ổn định mang

tính hệ thống. Đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng ngân hàng, thông tin bất cân

xứng là một vấn đề nổi cộm. Nguyên nhân là do các ngân hàng luôn có ít

thông tin về dự án và người xin cấp vốn hơn bản thân anh ta, vì thế gặp

nhiều khó khăn trong công tác thẩm định dự án vay vốn và đánh giá rủi ro

tín dụng liên quan đến đối tượng đi vay. Chính vấn đề thông tin bất cân

xứng đã dẫn đến lựa chọn ngược trong hoạt động phân phối tín dụng, tức là

38

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

những dự án có độ rủi ro tín dụng cao lại được lựa chọn để cấp vốn, trong

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khi những dự án có tính khả thi và ít rủi ro thì lại không tìm được nguồn vốn

tài trợ. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến nhiều bất cập trong hoạt động của

thị trường tín dụng tại Việt Nam.

Trước hết đó là vấn đề nợ xấu. Trong thị trường tài chính Việt Nam,

các ngân hàng chiếm tỉ trọng cao trong thị trường tài chính. Hầu hết các giao

dịch đều được thực hiện qua hệ thống ngân hàng, TTCK chỉ chiếm một vai

trò khá khiêm tốn. Các ngân hàng Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng

đối với nền kinh tế. Hiện ngân hàng đã là kênh huy động, cung ứng vốn

chính cho nền kinh tế với 30% vốn đầu tư phát triển hàng năm và 40% tổng

nhu cầu vốn của các doanh nghiệp được tài trợ bởi tín dụng ngân hàng. Tuy

còn thấp hơn so với một số nước khác, nhưng tổng dư nợ tín dụng qua hệ

thống ngân hàng vào cuối năm 2005 đã trên 60% GDP, cao hơn mức bình quân chung của các nước có thu nhập thấp10.

Tuy nhiên, vấn đề chất lượng tín dụng và tỉ lệ nợ xấu là những vấn đề

cần báo động. Theo báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt

nam, đến cuối năm 2003, tỷ lệ nợ xấu (quá hạn) của các ngân hàng thương

mại Việt Nam chiếm 4,74% trong tổng dư nợ cho vay gần 300.000 tỷ VNĐ

(tương đương với 14.200 tỷ VNĐ). Nhưng theo ý kiến của bà Susan Adams

đại diện thường trú cao cấp của IMF tại Việt Nam và ông Klaus Rohland -

Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam thì nợ xấu của

hệ thống ngân hàng Việt Nam vào khoảng 15-20% (tương đương 45.000-

60.000 tỷ VNĐ), chiếm từ 7-10% GDP Việt nam. Theo đánh giá của một số

39

10 Huỳnh Thế Du, Giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Cải cách ngân hàng, còn lắm chông gai, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 52 - 2005 (784), ra ngày 22/12/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chuyên gia thì tỷ lệ nợ xấu lên đến 30%.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Đến năm 2005, tỉ lệ nợ xấu theo công bố của Ngân hàng Nhà nước

trong báo cáo thường niên 3,18% (trên 7% đối với ngân hàng quốc doanh).

Dù tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ giảm nhưng con số tuyệt đối nợ xấu lại tăng.

Vấn đề con số thống kê nợ xấu là bao nhiêu cũng đang gây nhiều tranh cãi.

Theo Ngân hàng thế giới World Bank và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF trong các

bản báo cáo định kỳ thường trích dẫn ý kiến cho rằng nợ quá hạn của hệ

thống ngân hàng Việt Nam không thấp hơn hai con số. Nếu chỉ dùng con số

công bố chính thức với tỷ lệ trên 10% của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam và dưới 5% của ba ngân hàng còn lại thì khối lượng nợ xấu đang

nằm trong bảng cân đối kế toán của các NHTM Nhà nước cũng trên 20.000

tỉ đồng.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tỉ lệ nợ xấu trên tổng mức dư nợ của các

ngân hàng Việt Nam luôn ở mức cao nhưng chủ yếu là do tình trạng thông tin

bất cân xứng trong quá trình thẩm định cho vay. Công tác đánh giá khách hàng,

thẩm định dự án xin cấp vốn của các ngân hàng Việt Nam còn yếu kém, gặp

nhiều khó khăn.

Căn cứ vào quy định của Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản

hướng dẫn kèm theo, tất cả các ngân hàng đều xây dựng cho mình quy trình

tín dụng tách bạch giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tuy nhiên

với những vấn đề thực tế nêu trên, việc sàng lọc, lựa chọn khách hàng, dự án

có hiệu quả, đủ độ tin cậy, có mức độ rủi ro thấp, đảm bảo khả năng trả nợ

ngân hàng là một thách thức rất lớn đối với các tổ chức tín dụng. Độ tin cậy

và tính chính xác của trong kết quả đánh giá, thẩm định khách hàng, thẩm

định dự án tại các tổ chức tín dụng còn rất nhiều điều phải bàn. Hầu như

không có tổ chức tín dụng nào đủ tự tin quyết định cấp tín dụng chỉ dựa vào

40

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

bảng kết quả này mà không dựa vào tài sản đảm bảo hoặc những căn cứ

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khác. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của nền kinh tế vẫn là thiết yếu, các tổ

chức tín dụng huy động vốn vẫn phải cung tín dụng, nhưng quyết định cấp

tín dụng của các tổ chức tín dụng căn cứ vào các tiêu chuẩn nào. Liệu các

quyết định này có đủ độ tin cậy, giảm thiểu việc tạo ra nợ xấu hay không là

câu hỏi rất lớn đối với từng tổ chức tín dụng nói riêng hệ thống tài chính

ngân hàng Việt Nam nói chung.

Mặc dù các quy định pháp lý về tiêu chuẩn cấp tín dụng đã khó rõ

ràng và gần sát với thông lệ quốc tế, nhưng các điều kiện hỗ trợ cho ngân

hàng trong công tác thẩm định vẫn còn thiếu. Ngân hàng khó có thể kiểm tra

tính xác thực của các hồ sơ vay vốn, và không thể giám sát hoạt động của

doanh nghiệp sau khi đã cấp tín dụng. Vì thế, doanh nghiệp có rất nhiều cách

để che mắt ngân hàng, thậm chí lừa đảo để vay vốn. Có thể lấy ví dụ một vài

hành vi che mắt ngân hàng sau đây:

Hồ sơ giấy tờ giả để vay vốn: Do ngân hàng khó có khả năng xác

minh một cách tuyệt đối tính chân thực, hợp pháp của hồ sơ giấy tờ vay vốn

nên nhiều cá nhân đã lợi dụng hiện tượng này để lừa đảo chiếm dụng vốn

ngân hàng. Một ví dụ là vụ án hàng chục ngân hàng mắc lừa đường dây làm

giả sổ đỏ gần đây tại Đà Nẵng. Ba bị cáo đã làm giả hàng loạt sổ đỏ cùng với

nhiều giấy tờ khác để lừa đảo, vay vốn hàng chục ngân hàng ở Đà Nẵng và Quảng Nam , chiếm dụng hơn 20 tỷ đồng11. Cũng gần đây, Công an quận 3,

41

11 Hàng chục ngân hàng là nạn nhân của đường dây làm giả sổ đỏ, 04/06/2007; 04:06:48 PM, http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?id=0741168&page=1&sheet=1&cid=244&nid ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

TP HCM vừa bắt giữ một giám đốc về hành vi lợi dụng tín nhiệm chiếm

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đoạt tài sản. Bị cáo đã dùng 12 bộ giấy tờ nhà đất giả để lừa đảo gần 6,5 tỷ đồng.12

Bên cạnh những hành vi trên là vô số các thủ thuật, mánh lới lập dự

án giả vay vốn ngân hàng, móc ngoặc với các tổ chức tài chính đen, “phù

phép” báo cáo tài chính để che giấu tình trạng tài chính không lành mạnh, ...

Hàng loạt các vụ án lừa đảo chiếm dụng vốn ngân hàng trong thời gian qua

đã báo động về công tác đánh giá khách hàng, thẩm định vốn vay của ngân

hàng.

Một hợp đồng vay nhiều ngân hàng: Do hệ thống thông tin tín dụng

giữa các tổ chức tín dụng hiện nay chưa thông suốt, nên xảy ra nhiều trường

hợp một hợp đồng, một dự án kinh doanh có thể được sử dụng để vay vốn

nhiều lần tại các ngân hàng khác nhau. Doanh nghiệp ABC trúng thầu xây

dựng một công trình hạ tầng H. ABC ký hợp đồng phụ với các đơn vị thành

viên của mình hoặc một số đơn vị khác làm B' cho mình. Các đơn vị này lại

ký hợp đồng tiếp với các đơn vị khác nữa làm B''... Khi đó, tất cả các đơn vị

có hợp đồng xây dựng công trình H đem đến các ngân hàng vay vốn. Do

không có hệ thống thông tin kiểm tra một cách đầy đủ, khả năng tất cả các

hợp đồng thi công nêu trên đều được vay vốn là có thể xảy ra. Có thể tóm tắt

Sơ đồ 1: Một hợp đồng vay vốn nhiều ngân hàng.

42

12 Giám đốc dùng giấy tờ nhà giả lừa đảo 6,5 tỷ đồng, 25/04/2007; 09:04:28 AM http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?id=0741007&page=2&sheet=1&cid=244&nid ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

theo sơ đồ sau:

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Xác minh có lợi nhuận giữ lại: Đây cũng là vấn đề rất khó khăn đối

với ngân hàng vì lợi nhuận của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào các

khoản phải thu, các loại chi phí chờ phân bổ … Với hệ thống sổ sách kế toán

không đủ độ minh bạch, không có kiểm toán thì rất khó có thể xác định được

doanh nghiệp lãi thật hay lãi giả.

Nói chung, khi thẩm định khả năng góp vốn tự có của khách hàng

trong việc thực hiện dự án ngân hàng chủ yếu tín vào sự trung thực của

khách hàng. rất khó khẳng định là khách hàng có thực sự bỏ vốn vào thực

hiện dự án hay toàn bộ là vốn vay. Một phương thức mà các doanh nghiệp

có thể "qua mặt" các tổ chức tín dụng là sử dụng biện pháp nâng giá trong

các hợp đồng. Giử sử dự án đầu tư chỉ cần 7 tỷ đồng là có thể hoàn thành

nhưng bên vay lập dự án tăng lên thành 10 tỷ đồng. Bằng một vài biện pháp

chuyển tiền vòng vèo qua lại theo một vài hợp đồng là bên vay có thể chứng

minh với ngân hàng là mình đã bỏ ra trước 3 tỷ đồng để đầu tư dự án mà

43

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thực tế họ chẳng bỏ ra đồng nào cả. Với sự không minh bạch và khó xác

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ định tính xác thực, hợp lý, hợp lệ cũng như giá trị của các loại tài sản đã gây

rất nhiều khó khăn cho các ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cấp tín

dụng của mình.

Trên đây chỉ là một vài ví dụ để minh chứng cho tình trạng thiếu

thông tin phục vụ cho công tác đánh giá, thẩm định cho vay của ngân hàng.

Vấn đề thông tin bất cân xứng ở khâu phân phối tín dụng đã khiến các ngân

hàng phải vướng vào các khoản cho vay khó có khả năng thu hồi.

Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn và của bản thân các

ngân hàng

Rủi ro đạo đức của người đi vay vốn trong sử dụng vốn vay

Với những vấn đề nên trên, việc xử lý lựa chọn bất lợi đối với khách

hàng trong hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng Việt Nam hiện nay

đang là vấn đề rất lớn. Đó mới là những vấn đề trước khi quyết định cho

vay. Bây giờ chúng ta cùng xem xét vấn đề xử lý rủi ro đạo đức của các tổ

chức tín dụng sau khi cho vay. Hay nói cách khác việc giám sát sử dụng vốn

vay, thu hồi nợ vay của các tổ chức tín dụng. Để có thể kiểm tra giám sát,

đảm bảo việc sử dụng vốn vay đúng mục đích đòi hỏi các tổ chức tín dụng

phải biết được dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình sử dụng vốn vay

của bên vay. Đây là một vấn đề rất lớn đang đặt ra đối với các tổ chức tín

dụngViệt Nam vì việc kiểm soát dòng tiền bảo đảm bên vay sử dụng vốn

đúng mục đích không phải là vấn đề đơn giản vì khác với các nền kinh tế

phát triển, đối với Việt Nam, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt vẫn ở mức rất

cao. Đây chính là khó khăn rất lớn trong việc giám sát chi tiêu của người vay

vốn.

Mặt khác, trong khi hệ thống thông tin trong nội bộ các tổ chức tín

44

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

dụng, giữa các tổ chức tín dụng chưa được thông suốt, mà các doanh nghiệp

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ được mở tài khoản ở rất nhiều các tổ chức tín dụng khác nhau và các hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp hết sức đa dạng, rất khó phân biệt nên

việc "qua mặt" các ngân hàng trong việc sử dụng vốn vay sai mục đích là

điều rất dễ xảy ra. Hoặc trường hợp một dự án, hợp đồng có thể vay ở nhiều

tổ chức tín dụng là điều rất hay xảy ra. Chúng ta cùng xem xét một số vấn đề

mà các ngân hàng có thể gặp phải trong hoạt động tín dụng của mình:

Lòng vòng vay mượn: Doanh nghiệp ABC hoạt động sản xuất kinh

doanh tổng hợp (xây lắp, sản xuất vật liệuxây dựng, đầu tư bất động sản…)

cho rằng thị trường bất động sản đang ấm dần lên, nếu đầu tư ngay thì khả

năng sẽ có lợi trong tương lai. Nhưng hiện tại, ABC không có đủ vốn, việc

vay vốn ngân hàng để đầu tư vào bất động sản là không thể được vì ngân

hàng đánh giá đây là loại hình kinh doanh quá rủi ro. Làm thế nào để ABC

có tiền để đầu tư vào dự án bất động sản nêu trên? Hiện tại ABC đang là nhà

thầu thi công công trình có quy mô lớn. ABC vay vốn ngân hàng để mua

nguyên vật liệu của công ty XYZ (ABC chuyển tiền trả cho XYZ). XYZ là

nhà phân phối chính của ABC. XYZ tiếp tục ký hợp đồng mua sản phẩm của

ABC, XYZ chuyển tiền ngược trở lại cho ABC. Bây giờ tiền của ABC là

doanh thu chứ không phải là vốn vay. Vậy là ABC có thể dùng khoản tiền

này để thực hiện đầu tư dự án bất động sản nêu trên. Điều gì sẽ xảy ra nếu

thời gian sau đó thị trường bất động sản bị đóng băng. Việc chuyển tiền,

thanh toán nêu trên có thể thực hiện tinh vi hơn qua một vài doanh nghiệp

nữa. Đây cũng là cách mà một số doanh nghiệp có thể thực hiện để thay

những khoản nợ quá hạn bằng những khoản nợ mới mà trong giới tài chính

ngân hàng gọi là đảo nợ.

Đảo nợ: Về nguyên tắc, “đảo nợ” là việc làm bị hạn chế, nhưng trong

45

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thực tế, do sự bất cân xứng thông tin cộng với tâm lý sợ cái xấu ảnh hưởng

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đến thành tích chung, nên bằng cách này hay cách khác nhiều khoản nợ,

trước khi được xếp vào loại nợ xấu, có thể đã được quay vài ba vòng. Hoặc

khi các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, về nguyên tắc ngân hàng

không được tiếp tục cho vay, nhưng nếu không cho vay tiếp thì không thể thu hồi được nợ cũ, đã phóng lao đành phải theo lao.13

Sử dụng vốn vay sai mục đích: Một khi các doanh nghiệp đã được cấp

vốn, ngân hàng khó có khả năng giám sát quá trình sử dụng vốn vay của đơn

vị. Chính vì thế dẫn tới nhiều trường hợp sử dụng danh nghĩa công ty để vay

vốn nhưng lại không sử dụng vốn vào mục đích kinh doanh mà đút túi cá

nhân, hay sử dụng vốn vay để tham gia vào các hoạt động đầu tư không

đúng như trong dự án vay vốn, hay tham gia các hoạt động phạm pháp...

Có thể lấy một ví dụ về việc sử dụng vốn vay sai mục đích của Chủ

tịch hội đồng thành viên Công ty cổ phần Sản xuất muối công nghiệp VN - Isaco, bà Nguyễn Minh Hoa14. Theo Cơ quan điều tra Bộ Công an, từ năm

2000 đến nay bà Nguyễn Minh Hoa, chủ tịch hội đồng thành viên Công ty

cổ phần Sản xuất muối công nghiệp VN - Isaco có hai dự án, hai công ty cổ

phần (Isaco và Anh Khoa) nhưng tất cả hoạt động không hiệu quả, tình hình

tài chính mất cân đối nghiêm trọng. Tổng số nợ của bà Hoa tại các ngân

hàng (NH), quĩ hỗ trợ phát triển và các đơn vị kinh tế khác lên đến khoảng

76 tỉ đồng.

46

Bà Hoa đã lợi dụng danh nghĩa hai công ty để lập các báo cáo tài

chính, các dự án giả để xin cấp vốn tại các tổ chức tín dụng như: Quĩ hỗ trợ 13 Huỳnh Thế Du, giảng viên Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Ngân hà,ng không nên đeo gông cho mình, 02/03/2007, http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=986, 14 Nhiều ngân hàng là nạn nhân của “cò” tín dụng, 10/03/2006; 01:03:28 PM, http://www.icb.com.vn/v/02/0101.php?cid=244 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu (BR-VT), Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ

thương (Techcombank) TP. Hồ Chí Minh, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát

triển nông thôn Bà Rịa Vũng Tàu, NH Đầu tư phát triển Tây Ninh, Quĩ hỗ

trợ phát triển Đồng Nai số tiền lên đến hơn 80 tỉ đồng. Tuy nhiên, khi nguồn

vốn được giải ngân thì bà Hoa đã sử dụng vào mục đích trả nợ cá nhân và bỏ

túi riêng số tiền hàng chục tỉ.

Theo kết quả xác minh của cơ quan điều tra, sai sót lớn nhất của các

ngân hàng là không xem xét giá trị tài sản đảm bảo nợ vay, không trực tiếp

kiểm tra thực tế, không kiểm tra phương án kinh doanh; sau khi giải ngân

không theo dõi, kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay, dẫn đến tình trạng

không có khả năng thu hồi vốn cho vay.

Mặc dù đã thẩm định hồ sơ chặt chẽ, ngân hàng vẫn không thoát khỏi

nguy cơ đối mặt với rủi ro đạo đức của người đi vay. Nhiều trường hợp do

hệ thống đăng kí tài sản chưa chặt chẽ khiến ngân hàng không những không

nắm được thông tin về người đi vay mà còn không kiểm soát được quyền sở

hữu tài sản thế chấp. Điều này dẫn đến việc nhiều người sử dụng luôn chính

tài sản thế chấp hình thành từ vốn vay để đi bán lại cho người thứ ba mà

ngân hàng không hề hay biết.

Trường hợp đề cập tới ở đây là một rủi ro của Ngân hàng Cổ phần Quốc tế (trụ sở số 5 Lê Thánh Tông, Hà Nội)15. Tháng 9/2003 Ngân hàng

Cổ phần Quốc Tế sau khi tiến hành thẩm định hồ sơ đã quyết định cho anh

Nguyễn Quốc Khánh (188 Phó Đức Chính, Hà Nội) vay để mua xe ô tô với

biện pháp bảo đảm chính là tài sản hình thành từ vốn vay. Theo hợp đồng tín

47

15 Rủi ro đạo đức đang rình rập các ngân hàng, 07:35, 24/09/2004, http://www.vnn.vn/xahoi/doisong/2004/09/263874/ ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

dụng, chỉ khi nào người đivay hoàn trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng thì tài

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ sản hình thành từ vốn vay mới hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của anh ta.

Tuy nhiên, do những bất cập trong hệ thống đăng kí tài sản, cùng với thực tế

thông tin bất cân xứng trong việc giám sát hoạt động của người đi vay sau

khi được cấp vốn, các ngân hàng không thể kiểm soát được các hành vi trái

pháp luật của người đi vay vốn với tài sản thế chấp. Trường hợp này, anh

Khánh dù chưa thanh lý xong hợp đồng tín dụng (có nghĩa là chiếc xe nói

trên chưa thuộc quyền sở hữu của anh mà vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân

hàng) nhưng đã đem bán chiếc xe cho người thứ 3. Hoạt động đăng kí sở

hữu xe cho người thứ 3 vẫn được tiến hành bình thường tại phòng cảnh sát

giao thông khu vực, và sai phạm vẫn không bị phát hiện cho đến ngày

21/8/2004, anh ta bị giữ lại trên đường khi đang điều khiển chiếc xe với lý

do tài sản này là của ngân hàng.

Đây là rủi ro mang tính đạo đức bởi khi quyết định cho vay, Ngân

hàng Cổ phần Quốc tế rất khó có thể biết được liệu người đi vay có thực

hiện đúng những cam kết, nghĩa vụ pháp lý hay không. Đây là điều nằm

ngoài tầm kiểm soát của ngân hàng. Hơn nữa, thông thường một cán bộ tín

dụng không chỉ chịu trách nhiệm quản lý một đối tượng được hỗ trợ vốn

trong quá trình cho vay. Chính vì vậy việc kiểm soát mọi hoạt động của bên

vay trong quá trình sử dụng vốn từ ngân hàng là rất khó khăn. Nhất là đối

với những khoản vay mà tài sản thế chấp là những tài sản pháp luật không

bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu, hoặc các phương tiện giao thông vận

tải.

1.2.2. Rủi ro đạo đức của bản thân các ngân hàng

Trong thị trường tín dụng, vấn đề thông tin bất cân xứng không chỉ

tồn tại ở lựa chọn ngược của ngân hàng trong phân phối tín dụng và rủi ro

48

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

đạo đức của những người vay vốn sau khi đã được cấp tín dụng, mà nó còn

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tồn tại ở một mức độ tinh vi hơn: đó chính là rủi ro đạo đức của bản thân các

ngân hàng. Xét rủi ro đạo đức của ngân hàng ở đây là trong mối quan hệ

giữa Ngân hàng - Chính phủ, lúc này, các ngân hàng là người có lợi thế về

thông tin và có thể che đậy hành vi của mình, do đó có xu hướng tham gia

vào các hoạt động rủi ro cao. Để xem xét vấn đề rủi ro đạo đức, trước hết

hãy đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa bộ ba: Chính phủ - Ngân hàng quốc

doanh - Doanh nghiệp Nhà nước. Đây là tam giác đã được khá nhiều nhà

kinh tế học phân tích trong thời gian gần đây.

Ở Việt Nam, chính phủ thường can thiệp vào hoạt động cho vay của

các ngân hàng quốc doanh đối với các một số lĩnh vực đầu tư, và khuyến

khích cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Chính phủ công

khai hoặc ngầm thể hiện sự hỗ trợ cho các ngân hàng quốc doanh trong

trường hợp DNNN phá sản. Chính vì thế, các ngân hàng quốc doanh có xu

hướng ỷ lại vào sự đảm bảo của Nhà nước, có xu hướng thích cho các doanh

nghiệp Nhà nước, dù là đang trên bờ vực phá sản, vay vốn. Tiếp đến, vì nhận

thức được sự hỗ trợ này từ phía Nhà nước, ỷ lại vào Nhà nước và ngân hàng

quốc doanh, các DNNN càng có động cơ tham gia vào các hoạt động có độ

rủi ro cao. Điều này dẫn đến tình trạng các DNNN làm ăn thua lỗ, gây thiệt

hại lớn cho ngân sách quốc gia, ngân hàng quốc doanh hoạt động kém hiệu

quả, tỉ lệ nợ xấu cao báo động, trong khi Nhà nước phải liên tục bơm thêm

vốn hỗ trợ. Như vậy, sự hỗ trợ của nhà nước đối với các ngân hàng quốc

doanh trong việc cho vay với các DNNN (được đề cập trong nhiều nghiên

cứu như là chính sách ngân hàng lớn không sụp đổ - Too big to fail) đã dẫn

đến tình trạng rủi ro đạo đức của các ngân hàng.

Trong nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt

49

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Nam vào năm 2005, tiến sĩ Jenny Gordon và các đồng sự nhận xét: “Điểm

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ yếu lớn nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam rõ ràng là sự chi phối của

các ngân hàng thương mại quốc doanh. Về mặt truyền thống, trên thế giới,

các ngân hàng thương mại quốc doanh đã có những người chủ yếu kém,

không có khả năng yêu cầu các ngân hàng của mình đạt kết quả kinh doanh

bền vững hoặc thực hiện các quy định an toàn tương tự như đặt ra cho các

ngân hàng tư nhân”.

Một ngân hàng được coi là hoạt động có hiệu quả khi suất sinh lợi

trên tổng tài sản (ROA) tối thiểu phải đạt từ 0,9-1% và được coi là đủ vốn

khi hệ số đủ vốn (CAR) phải đạt tối thiểu 8%. Thế nhưng, năm 2003, ROA

của bốn NHTMNN (chiếm hơn 70% thị phần huy động vốn và tín dụng) chỉ

khoảng 0,3%, hệ số đủ vốn vào cuối năm 2004 chưa vượt con số 5%. Nếu

trích dự phòng rủi ro đầy đủ thì hai chỉ số này chắc chắn sẽ âm. Năm 2005,

trong số 5 ngân hàng thì có tới 4 ngân hàng có chỉ số ROA bé hơn 1%.

Bảng 1: Tình hình tài chính ngân hàng quốc doanh

(Tính đến 31/12/2005)

Ngân hàng ROE ROA

Công thương 12,74% 0,49%

Nông nghiệp và 11,86% 0,44%

Phát triển nông

thôn

Đầu tư và Phát 7,9% 0,41%

triển

Ngoại thương 14,9% 1,0%

Phát triển nhà 7,85% 0,56%

ĐBSCL

50

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2005.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Không những hoạt động kém hiệu quả, vấn đề chất lượng tín dụng và

nợ xấu cũng là điều đáng báo động. Bất chấp Ngân hàng Nhà nước gần đây

đã bơm thêm vốn (tái cấp vốn) cho các ngân hàng thương mại quốc doanh,

vấn đề nợ xấu vẫn ở mức trầm trọng. Đặc biệt đối với ngân hàng thương mại

quốc doanh, theo một số ước tính tỷ lệ nợ xấu lên tới 10-20%, hoặc thậm chí

cao hơn thế, trong tổng dư nợ của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, mặc

dù con số công bố chính thức chỉ ở mức vài ba phần trăm.

Hơn nữa, những khoản tín dụng có vấn đề tập trung chủ yếu ở các

DNNN, những doanh nghiệp mà trong khoảng một thập niên qua, tổng số

tiền trợ cấp của nhà nước tương đương với số thuế thu nhập mà các doanh

nghiệp này đã nộp (khoảng 70.000 tỉ đồng). Hay nói cách khác, với 200.000

tỉ đồng (tương đương 28% GDP năm 2004) giao cho các DNNN sử dụng,

nhà nước không thu được đồng thuế thu nhập nào chứ đừng nói đến thu cổ tức trên cương vị cổ đông16.

Theo lý thuyết và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế kế hoạch

hóa hoặc chuyển đổi, nợ xấu thường là do vấn đề các ngân hàng thương mại

quốc doanh chỉ bị ràng buộc tài chính “mềm”, dẫn đến việc các ngân hàng

không quan tâm đến việc đánh giá sát sao năng lực tài chính của người vay,

gây ra và tích đọng nợ xấu. Ràng buộc tài chính “mềm” là một thuật ngữ

chuyên môn chỉ tình trạng một doanh nghiệp không quan tâm nghiêm túc

đến việc thua lỗ tài chính và luôn luôn kỳ vọng rằng chính phủ hay một bên

51

16 Huỳnh Thế Du, Giảng viên chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Cải cách ngân hàng, còn lắm chông gai, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 52 - 2005 (784), ra ngày 22/12/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thứ ba sẽ đứng ra cứu giúp khi phải đối mặt với phá sản. Chính sách bao cấp

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ của chính phủ đối với doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước là cơ sở cho tình trạng này17.

Sự can thiệp của chính phủ vào việc cho vay của ngân hàng có thể

diễn ra trước khi quyết định cho vay được đưa ra hoặc sau khi giao dịch đã

hoàn tất. Với can thiệp diễn ra trước khi ra quyết định cho vay, cho đến tận

những năm gần đây, các ngân hàng quốc doanh vẫn có nghĩa vụ thực hiện

các khoản cho vay chính sách, theo các chương trình phát triển của chính

phủ hoặc vì lý do chính trị.

Tuy tỷ lệ các khoản cho vay theo chính sách không bao giờ được tiết lộ, một

số nhà phân tích ước đoán không dưới 1/3 tổng dư nợ cho vay của các ngân

hàng quốc doanh ở một số thời điểm. Tất nhiên, các khoản cho vay chính

sách thông thường bao giờ cũng có chất lượng thấp hơn các khoản cho vay

thương mại. Theo Bộ Tài chính, năm 2006 nợ phải trả của doanh nghiệp nhà

nước khoảng 350.000 tỉ đồng, trong đó chủ yếu nợ ngân hàng. Cổ phần hóa

vẫn đang tiếp tục, nhưng trong số doanh nghiệp nhà nước còn lại, 229 đơn vị kinh doanh không có lãi, 316 công ty thua lỗ18.

Mặc dù hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua những bước thay

đổi quan trọng về tổ chức và cơ chế hoạt động, biến các ngân hàng quốc

doanh thành các ngân hàng kinh doanh thương mại thuần túy, nhưng chính

quyền Trung ương vẫn có xu hướng gây áp lực hay khuyến khích một cách

công khai hoặc ngầm định các ngân hàng cấp tín dụng vượt quá mức an toàn

thương mại cho phép để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra. Chính quyền

52

17 T.S Phan Minh Ngọc, ĐH Kyushu, Nhật Bản, Nguyên nhân của vấn đề nợ xấu có quy mô lớn ở Việt Nam, Thời báo Kinh tế Việt Nam, số ra ngày 6/10/2006. 18 Nợ xấu ngân hàng: Đằng sau những con số, Thời báo Kinh tế Sài gòn, số 40 - 2006, ra ngày 28/09/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

địa phương đôi khi cũng "ép" các ngân hàng cho vay các doanh nghiệp Nhà

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nước thua lỗ để tránh làm tăng mức thấp nghiệp. Ngoài ra, các quan chức

chính phủ cũng thường can thiệp vào quyết định cho vay của ngân hàng,

khiến tỷ lệ nợ xấu thêm gia tăng.

Chính phủ còn can thiệp vào thị trường tín dụng sau khi sự cho vay đã

diễn ra hoàn tất bằng cách ra tay cứu vớt các doanh nghiệp Nhà nước hoặc

ngân hàng quốc doanh có vấn đề. Sự cứu giúp của chính phủ có thể ở dưới

nhiều dạng như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thua lỗ, nhận các khoản

nợ xấu, và cố ý trì hoãn việc đóng cửa các tổ chức tài chính mất khả năng

thanh toán. Thông lệ cứu vớt như vậy đã làm giảm nhu cầu cải thiện tính

hiệu quả ở các ngân hàng, khuyến khích ngân hàng theo đuổi các dự án cho

vay đầy rủi ro.

Dưới sự can thiệp hoặc khuyến khích ngầm định và công khai của

chính phủ như trên, các ngân hàng quốc doanh trở nên “thích” cho vay các

doanh nghiệp nhà nước hơn vì mọi rủi ro hầu như đã được chính phủ bảo

lãnh. Điều này càng quan trọng hơn khi mà ở Việt Nam, cơ chế luật định

liên quan đến thi hành các nghĩa vụ hợp đồng rất yếu kém, làm tăng rủi ro

mất khả năng thu hồi các khoản cho vay của ngân hàng. Trong bối cảnh

không có sự bảo lãnh của chính phủ thì tất nhiên các ngân hàng sẽ phải rất

thận trọng khi quyết định cho các doanh nghiệp Nhà nước vay. Hơn nữa,

quan hệ truyền thống và dài hạn giữa ngân hàng quốc doanh và các doanh

nghiệp nhà nước làm cho chi phí giao dịch với các doanh nghiệp nhà nước

nhỏ hơn với doanh nghiệp tư nhân, càng làm tăng thêm xu hướng ngân hàng

cho vay doanh nghiệp nhà nước hơn là doanh nghiệp tư nhân.

Vì thế, dễ hiểu tại sao con nợ mất khả năng thanh toán chính của ngân

hàng quốc doanh là các doanh nghiệp Nhà nước chứ không phải các doanh

53

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

nghiệp tư nhân.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Nghiêm trọng hơn, sự can thiệp và khuyến khích của chính phủ dẫn

đến xu hướng là các doanh nghiệp nhà nước càng có tính rủi ro cao thì càng

được các ngân hàng cho vay nhiều hơn vì hai lý do. Thứ nhất, những doanh

nghiệp này càng là mối bận tâm của chính phủ, buộc chính phủ phải tăng

cường chỉ đạo các ngân hàng cho vay để cứu vớt, cải tổ lại chúng. Thứ hai,

bản thân các ngân hàng cũng muốn cho các doanh nghiệp này tiếp tục vay vì

nếu rút lui thì các doanh nghiệp này sẽ phá sản, do đó các ngân hàng mất

khả năng thu hồi các món cho vay trước đó.

Tất nhiên trong việc này, các ngân hàng kỳ vọng, như đã và đang xảy

ra, rằng chính phủ sẽ đứng ra cứu vớt nếu sự cho vay mạo hiểm kiểu này sẽ

đưa các ngân hàng đến bên vực phá sản.

Một trong những ví dụ điển hình của việc cứu vớt các ngân hàng quốc

doanh là việc tái cấp vốn để che giấu quy mô nợ khó đòi của các ngân hàng

này nhờ làm giảm tỷ lệ nợ xấu của chúng đi (tuy con số tuyệt đối vẫn không

thay đổi). Một ví dụ khác là việc thành lập gần đây và cấp vốn cho công ty

quản lý tài sản (AMC) nhà nước để xử lý nợ khó đòi của các ngân hàng

thương mại quốc doanh, và thành lập cơ quan Bảo hiểm tiền gửi.

Với hai biện pháp xử lý nợ đầu, nhiều nhà kinh tế nhìn nhận với con

mắt quan ngại vì chúng sẽ làm tăng rủi ro đạo đức trong các quyết định cho

vay của các ngân hàng nghiêng hơn nữa về các dự án có tính rủi ro cao - đặc

biệt là của các doanh nghiệp Nhà nước, do kỳ vọng sẽ được chính phủ cứu

vớt trong tương lai nếu có xảy ra nguy cơ mất khả năng thanh toán. Và như

vậy thì vấn đề nợ khó đòi sẽ càng trở nên trầm trọng hơn với việc thi hành

hai biện pháp xử lý nợ khó đòi này. Việc giải quyết vốn không sinh lời đang

bị trì trệ. Vấn đề sâu xa ở chỗ, việc giải quyết các khoản vay không thế chấp

54

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

đòi hỏi phải đưa ra các quyết định liên quan đến tương lai của các DNNN

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ không có khả năng trả nợ. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại quốc

doanh lại không ở vị trí để có thể đưa ra các quyết định đó.

Chính sách Bảo hiểm tiền gửi quá rộng rãi cũng là một nguyên nhân

làm tăng rủi ro đạo đức. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV) được thành lập

và đi vào hoạt động từ năm 2000. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi thực chất là sự

cam kết của Nhà nước đối với những người gửi tiền rằng Nhà nước sẽ đảm

bảo an toàn cho các khoản tiền gửi của họ ngay cả khi ngân hàng mất khả

năng trả các món nợ. Đây là một biện pháp nhằm tạo tâm lý yên tâm cho

người gửi tiền, tránh tình trạng khi có những tin đồn thất thiệt về hoạt động

của ngân hàng, người gửi tiền sẽ đổ xô đi rút hết tiền từ các ngân hàng, gây

nên tình trạng hỗn loạn và sụp đổ ngân hàng trên toàn hệ thống. Tuy nhiên,

chính sách bảo hiểm tiền gửi quá rộng rãi sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại cho các ngân

hàng trong các quyết định cho vay, và kéo theo tâm lý ỷ lại của những người

gửi tiền. Bởi vì họ tin rằng dù ngân hàng có sử dụng nguồn vốn huy động

không hiệu quả đi chăng nữa thì món tiền của họ cũng không gặp rủi ro do

có sự đảm bảo của Nhà nước, do đó những người có các khoản tiền gửi lớn

sẽ không còn động cơ để giám sát hoạt động của ngân hàng như trước đây.

Thiếu sự giám sát của người gửi tiền, cùng với sự hỗ trợ đảm bảo của Nhà

nước đã khiến rủi ro đạo đức của các Ngân hàng lại càng tăng.

Mặc dù có rất ít tiến bộ trong cải cách cơ cấu ngân hàng, nhưng các

ngân hàng quốc doanh thời gian qua vẫn nhận được những khoản tái cấp vốn

hàng chục ngàn tỉ đồng và điều này tạo nguy cơ tiếp tục sử dụng lãng phí.

Vốn bổ sung dường như đã không giúp các ngân hàng quốc doanh thận

55

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trọng hơn trong hoạt động cho vay.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Chất lượng cho vay thấp ở các ngân hàng quốc doanh còn do người

quản lý của các ngân hàng được trao quyền tự chủ trong việc ra quyết định cho

vay, nhưng không hoàn toàn chịu trách nhiệm vào chất lượng các khoản cho

vay theo quyết định của họ. Vì thế, chừng nào các nhà quản lý còn không bị

ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm trong các quyết định của mình thì các khoản

cho vay khó đòi sẽ tiếp tục phát sinh và ứ đọng dần lên trong bảng tổng kết tài

sản của ngân hàng.

Ngay trong tháng 8/2006, Ngân hàng Nhà nước có công văn đề nghị

bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn (Ngân hàng Công thương Việt

Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển

Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam) khẩn

trương làm việc với Tổng công ty Điện lực Việt Nam để thỏa thuận các nội

dung của hợp đồng tín dụng, thống nhất nội dung để ký hợp đồng tín dụng

đối với dự án thủy điện Sơn La. Công văn ghi rõ: “Căn cứ quyết định đầu tư

dự án thủy điện Sơn La đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các ngân

hàng thương mại xét duyệt cho vay, không phải thẩm định phương án vay,

trả nợ”19!!!

2. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng chứng khoán

Thị trường chứng khoán bao gồm thị trường cổ phiếu và thị trường

trái phiếu. Ở cả hai thị trường, vấn đề thông tin bất cân xứng đều tồn tại, và

có các đặc điểm bản chất tương đồng nhau. Tuy nhiên, do thị trường trái

56

phiếu Việt Nam còn chưa phát triển, vấn đề thông tin bất cân xứng còn chưa

bộc lộ rõ. Khóa luận này xin được tập trung vào phân tích thực trạng thông 19 Hồng Phúc, Loanh quanh nợ xấu, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 36 - 2006 (820), ra ngày 31/08/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tin bất cân xứng trên thị trường cổ phiếu Việt Nam. Những đặc điểm được

phân tích ở đây cũng có thể được áp dụng luôn cho thị trường trái phiếu.

1.1. Lựa chọn ngược của các nhà đầu tư

Trong TTCK, vấn đề thông tin bất cân xứng trước giao dịch tồn tại ở

hai dạng: thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng

khoán, và giữa các nhà đầu tư với nhau. Thông tin bất cân xứng giữa nhà

đầu tư và công ty phát hành chứng khoán tồn tại do doanh nghiệp biết rõ về

tình hình tài chính của công ty và giá trị thực của chứng khoán mà công ty

phát hành hơn nhà đầu tư, và có xu hướng che giấu các thông tin bất lợi, bóp

méo, thổi phồng các thông tin theo hướng có lợi cho mình, phản ánh sai lệch

giá trị của doanh nghiệp, lừa đảo và đẩy nhà đầu tư tới các quyết định sai

lệch.

Trong khi đó, thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau lại

xảy ra do có một nhóm các nhà đầu tư được biết nhiều thông tin riêng biệt

hơn hơn số còn lại, có thể do có nguồn thông tin riêng, hay do các mối quan

hệ, các thủ thuật để lấy thông tin. Biểu hiện rõ nhất của thông tin bất cân

xứng giữa các nhà đầu tư đó là hiện tượng giao dịch nội gián và hiện tượng

tạo cung cầu ảo trên TTCK.

1.1.1. Thông tin bất cân xứng giữa nhà đầu tư và công ty phát hành chứng

khoán.

Hiện tượng thông tin bất cân xứng giữa công ty phát hành và nhà đầu

tư là cơ sở cho rất nhiều hành vi giao dịch thao túng TTCK liên tục trong

thời gian qua. Theo Thông tư 97/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn thi hành

một số điều của Nghị định số 36/2007/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán,

57

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hành vi giao dịch thao túng TTCK là các hành vi giao dịch làm cho mọi

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người hiểu sai lệch về thị trường. Hành vi này được cụ thể hóa ở những giao

dịch như (1)Lập hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có

thông tin sai lệch, gây hiểu lầm hoặc không có đầy đủ thông tin cần thiết

theo quy định của pháp luật (2)Cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu

sự thật, (3) Sử dụng thông tin ngoài Bản cáo bạch để thăm dò thị trường

trước khi được phép phát hành ra công chúng, (4) Không nộp hồ sơ đăng ký

với ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) trong thời hạn 90 ngày, kể

từ ngày trở thành công ty đại chúng, (5) Hồ sơ công ty đại chúng đăng ký

với UBCKNN có những thông tin sai lệch hoặc không có đủ thông tin cần

thiết, (6) Không báo cáo hoặc báo cáo không kịp thời khi xảy ra các sự kiện

bất thường gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tài chính và hoạt

động kinh doanh, các hành vi trì hoãn, trốn tránh, không cung cấp đầy đủ,

kịp thời thông tin, tài liệu, dữ liệu điện tử theo yêu cầu của thanh tra... đều là

những hành vi vi phạm.

Mặc dù đã có Thông tư 38 của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên

TTCK, và các thông tư khác liên quan đến chế tài xử phạt hành vi vi phạm

nhưng hiện tượng các công ty cố tình che giấu, không công bố thông tin vẫn

diễn ra “như cơm bữa” trên TTCK. Trong tháng 10 vừa qua, do vi phạm

khâu công bố thông tin và không báo cáo lên Uỷ ban Chứng khoán Nhà

nước, công ty cổ phần Thuỷ hải sản Minh Phú (MPC) đã phải chịu mức phạt

hành chính 30 triệu đồng cho hai vi phạm. Cụ thể, ngày 4/10, Chánh Thanh

tra UBCKNN đã ký Quyết định số 26/QĐ-TT về việc xử phạt vi phạm hành

chính đối với CTCP Thuỷ hải sản Minh Phú. Theo đó, căn cứ kết quả giám

sát, tài liệu và chứng cứ về việc phát hành thêm cổ phiếu của Thuỷ hải sản

Minh Phú, UBCKNN kết luận: công ty thực hiện phát hành cổ phiếu theo

58

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chương trình lựa chọn cho người lao động trong nội bộ nhưng không gửi các

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tài liệu liên quan đến UBCKNN, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội.

Ngoài ra, Minh Phú cũng không công bố thông tin trên các phương tiện

thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi thực hiện việc phát hành theo

quy định của pháp luật.

Một phần nguyên nhân là do chế tài xử phạt không có tính răn đe, Uỷ

ban chứng khoán vẫn còn “giơ cao đánh khẽ” đối với đơn vị vi phạm.

Phù phép báo cáo tài chính: Trước đây, khi chưa cổ phần hóa, nhiều

công ty thường lập hai sổ kể toán, một để làm việc với cơ quan thuế, một là

sổ thực để quản lý nội bộ. Sự phù phép lãi nhiều thành lãi ít, lãi ít thành

không lãi để có thể bỏ túi được nhiều hơn là việc làm không phải là hiếm

thấy. Còn bây giờ, khi đã cổ phần hóa thì họ lại phù phép ngược lại, lỗ thành

lãi, lãi nhỏ thành lãi lớn.

Thổi cổ phiếu: Sau khi đã dùng các thủ thuật để chuyển lãi thành lỗ,

các công ty lại tiếp tục sử dụng các thủ thuật nhằm nâng giá cổ phiếu. Để cổ

phiếu còn lên cao hơn nữa, có thể dùng chiêu quyết định đánh gục các nhà

đầu tư đang bị cuốn hút như sau: Chia cổ tức bằng cổ phiếu và phát hành

nâng vốn điều lệ. Với tỷ lệ cổ tức 2:1 (50%) và phát hành mua thêm 1:1 với

mệnh giá, thị giá cổ phiếu dễ dàng được đẩy lên gấp nhiều lần so với thị giá

trước đó. Lúc đó sẽ chỉ thấy hình ảnh các nhà đầu tư đặt giá trần để mua cổ

phiếu của công ty này với khối lượng mỗi ngày có thể lên đến vài trăm ngàn

cổ phiếu, thậm chí cả triệu cổ phiếu. Nhưng, lượng cổ phiếu sẽ được bán ra

nhỏ giọt mà thôi (vài trăm, vài ngàn, chục ngàn, ...). Ai cũng nghĩ đó là một

cổ phiếu quý hiếm và không muốn bán ra. Giá cổ phiếu cứ thế bị đẩy lên.

Các công ty không có khả năng quản lý nguồn vốn lớn hơn nhưng cứ phải

phát hành nâng vốn thêm. Mục đích của những việc này chỉ là đẩy cổ phiếu

59

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

của công ty họ lên cao hơn nhiều lần, từ đó, số lợi mang lại cho họ từ việc

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tăng giá chóng mặt của cổ phiếu của công ty họ đem lại cho họ những món

lợi khổng lồ.

Với những công ty sắp lên sàn, những người nắm vai trò quản trị

trong công ty có thể úp úp mở mở rằng công ty sắp tham gia góp vốn vào dự

án rất triển vọng, dự án thủy điện chẳng hạn. Hay với số cổ phần còn ế,

người ta bày ra chiêu phân chia quyền lợi những ai được mua số cổ phiếu

đó. Tin đồn chỉ có những thành viên chủ chốt mới được mua những cổ phiếu

còn lại (thực chất là bị ế), lọt ra ngoài và cổ phiếu đó bắt đầu được quan tâm

trên thị trường.

Có vô vàn những hành vi gian lận, thủ thuật tinh vi khác mà các

công ty phát hành có thể sử dụng nhằm thổi phồng giá trị cổ phiếu của công

ty mình, phản ánh không đúng giá trị cổ phiếu. Trong bối cảnh tính minh

bạch của thị trường còn thấp, các kỷ luật công bố thông tin trên thị trường

còn lỏng lẻo, không có các tổ chức sản xuất và bán thông tin độc lập, các

nhà đầu tư luôn ở thế bất lợi về thông tin. Do đó, họ thường đưa ra các quyết

định đầu tư sai lầm. Cũng do thiếu thông tin mà các nhà đầu tư trên TTCK

Việt Nam còn có “hành vi bầy đàn” hay “tâm lý đám đông” trong các quyết

định đầu tư. Không ít nhà đầu tư nghe theo tin đồn đã mua phải những cổ

phiếu giả, cổ phiếu của các công ty đang thua lỗ, hay mua với giá cao hơn

giá trị thực của cổ phiếu, để rồi cuối cùng vỡ nợ, phá sản. Trong khi đó,

nhiều công ty làm ăn chân chính, có tình hình tài chính thực sự lành mạnh,

lại không biết cách phát tín hiệu với nhà đầu tư, khiến họ không nhận biết

được giá trị thực sự của cổ phiếu công ty, dẫn tới tình trạng giá thấp hơn giá

trị thực, gây lãng phí cho thị trường. Đó chính là vấn đề lựa chọn ngược -

60

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hậu quả của tình trạng thông tin bất cân xứng.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Các nhà đầu tư trong nước, do thiếu thông tin chính xác về tình hình

tài chính thực sự của doanh nghiệp, nên đành quan sát hành vi của nhà đầu

tư nước ngoài và làm theo. Chính vì thế, những nguồn thông tin của các tổ

chức đánh giá độc lập có tác động cực kỳ to lớn với thị trường, điển hình là

“hiệu ứng Merry Lynch” gần đây. TTCK ảm đạm trong một thời gian khá

dài sau báo cáo của Merry Lynch khuyến nghị rút toàn bộ vốn ra khỏi Việt

Nam. Khi các nhà đầu tư nội địa hoang mang và bán ra một lượng cổ phiếu

lớn, khiến giá cổ phiếu sụt mạnh thì các nhà đầu tư ngoại lại tăng mua vào.

Xét về khía cạnh thông tin bất cân xứng, thì có thể thấy là do các nhà đầu tư

có quá ít thông tin đáng tin cậy, đầy đủ về hoạt động, triển vọng của các

doanh nghiệp, có quá ít nguồn thông tin độc lập nên chỉ một nguồn thông tin

một chiều cũng khiến họ hoang mang, mất phương hướng.

1.1.2. Thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư với nhau.

Thực tế, vấn đề thông tin bất cân xứng giữa các nhà đầu tư trên thị

trường chứng khoán xuất phát từ tình trạng thông tin bất cân xứng giữa nhà

đầu tư với công ty phát hành chứng khoán, tạo điều kiện cho các công ty lợi

dụng tiết lộ thông tin cho một số hạn chế các nhà đầu tư, cung cấp thông tin

không công bằng đối với các nhà đầu tư. Nhà đầu tư nhỏ lẻ, thiếu thông tin

vì thế phải chịu nhiều thua thiệt.

Một trong những khó khăn lớn nhất của nhà đầu tư nhỏ lẻ là khả năng

tiếp cận và xử lý thông tin. Mặc dù trong một thời đại công nghệ thông tin,

nhưng thị trường chứng khoán vốn rất nhạy bén với thông tin, việc tiếp cận

thông tin chậm hơn dù chỉ là chút xíu hoặc xử lý thông tin không tốt cũng có

thể dẫn đến thua thiệt rất nhiều. Trong những ngày đầu hoạt động của thị

trường chứng khoán, những tin đồn như nhà máy nhiệt điện Phả Lại bị cháy

61

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

một tổ máy, cán bộ lãnh đạo đang bị điều trình trước công an, việc một tổng

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ giám đốc ôm hàng trăm tỷ đồng bỏ trốn, ..., đã khiến cho không ít người

hoang mang, bán đổ cổ phiếu đến khi thông tin được xác nhận là tin đồn

nhảm thì cũng khiến nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ khuynh gia bại sản. Thêm vào

đó là hiện tượng làm giá, tạo cầu giả bằng nhiều thủ thuật của một số công ty

đã khiến cho nhiều nhà đầu tư non trẻ, chạy theo xu hướng chung bị thua

62

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thiệt nặng nề.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Giao dịch nội gián:

Giao dịch nội gián là việc tổ chức hoặc cá nhân sử dụng các thông tin

nội bộ chưa được công bố công khai của doanh nghiệp có chứng khoán niêm

yết để thực hiện việc mua hoặc bán chứng khoán của tổ chức đó. Giao dịch

nội gián thể hiện sự không công bằng, xâm phạm quyền lợi của nhà đầu tư vì

trên TTCK, thông tin tốt, xấu có ảnh hướng rất lớn đến giá cổ phiếu. Theo

Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ 1.1.2007), người biết rõ thông tin nội bộ

hoặc người có thông tin nội bộ nếu mua, bán chứng khoán, tiết lộ thông tin

này hoặc đề nghị người khác mua, bán chứng khoán sẽ bị phạt tiền, tịch thu

các khoản thu vi phạm hoặc bị xử lý hình sự.

TTCK vẫn còn nhiều kẽ hở cho giao dịch nội gián. Việc thiếu minh

bạch về thông tin thể hiện ở chỗ các quy định vẫn chưa cho phép công ty

niêm yết và đăng ký giao dịch công bố thông tin rộng rãi trong cùng một

thời điểm, mà phải gửi trước thông tin cho TGDCK. Như vậy, các trung tâm

được hưởng đặc quyền sở hữu thông tin trước và sau đó mới công bố. Cơ

chế này đã tạo mảnh đất màu mỡ cho giao dịch nội gián phát triển. Ngoài ra,

tại các phiên đấu giá cổ phiếu, thông tin về số lượng nhà đầu tư tham gia chỉ

là một con số tổng hợp, còn thông tin nội gián về danh sách các nhà đầu tư

tổ chức (trong nước và nước ngoài) tham gia đấu giá cổ phần không được

công bố, nhưng lại dễ bị rò rỉ. Tình trạng này chỉ gây thiệt hại cho đông đảo

nhà đầu tư cá nhân.

Bên cạnh đó, các thành viên của hội đồng quản trị, ban giám đốc, ...

những người được tiếp cận với thông tin liên quan đến chứng khoán của

công ty đầu tiên, có thể là nguồn rò rỉ thông tin nội gián. Ví dụ, vào cuối

năm tài chính, tổng kết hoạt động công ty có tỷ suất lợi nhuận 60% nhưng

63

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chưa được công bố. Thành viên hội đồng quản trị có thể lợi dụng báo cho

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người nhà mua khối lượng lớn cổ phiếu, chờ đến khi công bố thông tin giá

cổ phiếu tăng, họ bán ra, thu chênh lệch giá lớn

Trong bảy năm qua kể từ khi thị trường chứng khoán VN đi vào hoạt

động, “nghi án” giao dịch nội gián lớn nhất là giao dịch có liên quan đến cổ

phiếu của một công ty bánh kẹo. Ở thời điểm công ty này đang “biến lỗ

thành lời” cho năm tài chính 2002, một thành viên hội đồng quản trị đã bán

ra 40.000 cổ phiếu của công ty. Khi đó, giới đầu tư nghi ngờ ông này biết

được nội tình nên đã kịp thời tháo chạy. Và quả thật, tháng 6/2003, ông bước ra khỏi hội đồng quản trị công ty này20.

Trong các phiên đấu giá cổ phiếu, hầu hết những người thắng đều là

nhà đầu tư tổ chức. Thông tin nội gián về danh sách các nhà đầu tư tổ chức (

trong nước và nước ngoài) tham gia đấu giá cổ phần bị rò rỉ trở thành phổ

biến và phiên đấu giá trở thành cơ chế xin cho. Tình trạng này gây thiệt hại

cho đông đảo nhà đầu tư cá nhân không có mối quan hệ.

Với các giao dịch lớn của các quỹ đầu tư thì thông tin bị rò rỉ ở các

công ty chứng khoán - nơi các quỹ này đặt lệnh. Các nhân viên ở phòng môi

giới là những người tiếp cận thông tin này trước, và một số đã nhanh chân

hơn vì khi các quỹ mua cổ phiếu, giá sẽ tăng. Theo giới tài chính, hiện tượng

này được xem là một hoạt động giao dịch nội gián với tên gọi phổ biến là

“fund-running”, tức cầm tiền chạy trước quỹ (đầu tư).

Trong thời gian gần đây, rất nhiều ý kiến phản ánh tình trạng tiêu cực

tại một số công ty chứng khoán, khi họ đồng thời vừa đóng vai trò tư vấn

cho khách hàng lại vừa giao dịch trên thị trường dưới hình thức tự doanh. Sự

64

20 Nở rộ kiểu đầu cơ chứng khoán nhờ giao dịch nội gián, 18/1/2007, 09:31 GMT+7, http://www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/Chung-khoan/2007/01/3B9F2767/ ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hơn trội hẳn về khả năng quản lý giao dịch, thời gian, thời điểm nhập lệnh

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ khiến cho cuộc chơi thiếu hẳn sự bình đẳng. Vấn đề bức xúc này hiện vẫn

chưa có một giải pháp nào hữu hiệu. Điều này thuộc về bản chất bất đối

xứng của thông tin giữa một bên là những người có thông tin tốt hơn (các

công ty được niêm yết, các đại gia lớn) và một bên là những người ít thông

tin hơn (các nhà đầu tư nhỏ lẻ) dẫn đến sự không cân bằng giữa các lực

lượng thị trường.

Các giao dịch nội gián gần như không thể kiểm soát được do cơ quan

quản lý nhà nước còn thiếu kinh nghiệm và luật còn quá lỏng lẻo. Động thái

gần đây nhất của TTGDCK nhằm phát hiện và ngăn chặn giao dịch nội gián

là yêu cầu các công ty có giá cổ phiếu tăng kịch trần trong năm phiên liên

tiếp phải giải trình về các thông tin có liên quan đến việc tăng giá.

Tạo cung cầu giả, thao túng giá trên TTCK.

Hiện tượng các nhà đầu tư lớn sử dụng các thủ thuật đặt khớp lệnh

trên sàn giao dịch chứng khoán nhằm tạo ra cung cầu giả, thao túng giá xảy

ra khá phổ biến trong thời gian qua. Các nhà đầu tư có thể sử dụng các thủ

thuật như: khi muốn bán loại cổ phiếu nào đó với giá trần, một nhà đầu tư

lớn (thường được gọi là đại gia) chỉ cần đặt một lệnh mua giá trần với khối

lượng khá lớn, nhưng sau đó hủy lệnh. Các nhà đầu tư khác trên sàn sẽ “sập

bẫy” khi đại gia này dùng tài khoản khác để bán ra cổ phiếu này. Ngược lại,

khi muốn mua cổ phiếu nào đó với giá sàn, các đại gia chỉ cần đặt lệnh bán

cổ phiếu này ở giá sàn với khối lượng lớn, có thể đưa lệnh vào cuối phiên

hay hủy lệnh, đồng thời dùng tài khoản khác để mua vào. Có nhiều biện

pháp mang tính kỹ thuật khác mà một số nhà đầu tư có thể sử dụng để tạo

khối lượng giao dịch ảo, cung - cầu ảo trên thị trường, khiến những nhà đầu

tư ít thông tin hơn đánh giá sai lệch về cổ phiếu, khiến giá khớp lệnh không

65

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

phản ánh đúng cung cầu trên thị trường. Những nhà đầu tư nhỏ lẻ, ít thông

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tin cần phải thận trọng khi thấy giá một loại chứng khoán đột ngột đụng trần

hay rớt sàn một cách khác thường trong một phiên giao dịch, bởi đó rất có

thể là dấu hiệu của một thủ thuật “làm giá” trên TTCK.

Tháng 7 vừa qua, thanh tra ủy ban Chứng khoán nhà nước vừa xử

phạt ba nhà đầu tư cá nhân ở TP. Hồ Chí Minh có hành vi tạo ra cung, cầu

giả tạo và thao túng giá trên thị trường chứng khoán. Hai ông Bùi Quang

Thành (quận Phú Nhuận) và Huỳnh Thanh Minh ở quận Tân Phú, TP. Hồ

Chí Minh đã bị phạt tổng cộng 160 triệu đồng vì đã thông đồng trong giao

dịch chứng chỉ quỹ VF1 nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo và cấu kết với nhau

liên tục mua bán chứng chỉ này để thao túng giá.

Giao dịch không công bố thông tin:

Gần đây xảy ra nhiều trường hợp cổ đông lớn, quan trọng của các

công ty cổ phần đã âm thầm bán chứng khoán mà không thông báo theo qui

định đã ảnh hưởng đến lòng tin của các nhà đầu tư trong đó có nhà đầu tư

nhỏ...

Cuối tháng 8/2007, ông Phạm Đình Lâm - thành viên hội đồng quản

trị CTCP Nhựa xây dựng Đồng Nai phải giải trình trước Uỷ ban Chứng

khoán về việc giao dịch cổ phiếu với số lượng lớn mà không công bố thông

tin. Đây chỉ là một trong bốn vụ vi phạm công bố thông tin giao dịch nội bộ

diễn ra trong tháng 8/2007, được HOSE phát hiện và yêu cầu các đương sự

giải trình.

Theo qui định về công bố thông tin trên TTCK, các thành viên hội

đồng quản trị, ban kiểm soát, các thành viên ban giám đốc, kế toán trưởng

của tổ chức niêm yết và người có liên quan phải công bố thông tin giao dịch,

kể cả giao dịch không thông qua hệ thống giao dịch tại sàn cho SSC, Sở

66

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Giao dịch CK, TTGDCK tối thiểu trước khi giao dịch một ngày. Trong thời

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ hạn ba ngày sau khi hoàn tất giao dịch cũng phải báo cáo kết quả cho các cơ

quan nêu trên.

1.2. Rủi ro đạo đức của các công ty phát hành chứng khoán

Ở trên, chúng ta đã nghiên cứu tình trạng thông tin bất cân xứng trước

giao dịch giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp phát hành, dẫn đến lựa chọn

ngược trong quyết định của nhà đầu tư. Tuy nhiên, vẫn còn một khía cạnh

nữa của tình trạng thông tin bất cân xứng, đó là rủi ro đạo đức. Trên TTCK,

rủi ro đạo đức thuộc về các công ty phát hành. Sau khi đã phát hành và bán

hết số cổ phiếu, các công ty phát hành đã sử dụng nguồn vốn huy động được

vào các hoạt động rủi ro cao. Nhà đầu tư, vì không thể nào giám sát, nắm giữ

được thông tin về hoạt động của công ty phát hành, nên đành phải hứng chịu

nguy cơ các khoản đầu tư của họ giảm hay mất giá trị. Nguyên nhân là do

tình trạng thông tin bất cân xứng khiến các công ty có thể che đậy hành vi

của mình, và có động cơ lạm dụng vốn cổ đông, liên tục phát hành thêm cổ

phiếu, thực hiện những hành vi mà xét trên quan điểm nhà đầu tư - bên nắm

giữ ít thông tin hơn - là không có lợi cho nguồn vốn của họ.

Sử dụng vốn huy động để đầu tư tài chính:

Hiện nay, các công ty phát hành chứng khoán ồ ạt. Nhiều công ty

không có nhu cầu tăng vốn cho hoạt động sản xuất, hay không có khả năng

quản lý nguồn vốn lớn hơn, nhưng vẫn tiếp tục phát hành huy động thêm

vốn. Bất lợi của việc huy động vốn cổ đông ào ạt là là việc tăng vốn cổ phần

sẽ dẫn đến chi phí vốn cao. Bởi vì chi phí vốn cổ phần bao giờ cũng cao hơn

chi phí lãi vay, nên việc tăng tỉ trọng vốn cổ phần kéo theo chi phí vốn bình

quân của doanh nghiệp tăng lên. Tỷ suất sinh lợi trên một đồng vốn sẽ hầu

như giảm xuống do các dự án kinh doanh mới của doanh nghiệp không đủ

67

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

bù đắp sự tăng lên của chi phí vốn. Thống kê các doanh nghiệp trên sàn TP.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Hồ Chí Minh thì trong năm 2006, cơ cấu vốn của các doanh nghiệp đều có

sự thay đổi rõ rệt so với năm 2005: Hầu hết các doanh nghiệp đều gia tăng

cơ cấu vốn cổ phần, giảm tỉ trọng vốn nợ. Hệ quả tất yếu là chi phí vốn bình

quân tăng lên, thông thường từ 1-2%, cá biệt có doanh nghiệp việc thay đổi

cơ cấu vốn làm chi phí vốn bình quân tăng 3-4%. Như vậy, tính trung bình

cho năm 2006, chi phí huy động vốn của các doanh nghiệp dao động trong

khoảng 14-17%.Liệu các dự án mà các cổ đông thông qua có đạt được mức

sinh lợi trên 18%/năm trên mức chi phí đã bỏ ra và thời gian để có được hiệu

quả đó là bao lâu?

Do tình trạng thông tin bất cân xứng, nhà đầu tư không thể trực tiếp

giám sát cách thức và lộ trình giải ngân lượng thặng dư vốn khổng lồ của

doanh nghiệp sau phát hành (và thực tế thì do nhận thức, nhiều nhà đầu tư

Việt Nam còn chưa quan tâm tới vấn đề này) Về nguyên tắc vốn huy động

được sau phát hành sẽ được đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo

đúng phương án đề ra sau phát hành. Nhưng thực tế là các dự án đề ra

thường là các dự án dài hạn và việc giải ngân vốn sẽ được thực hiện trong

thời gian dài, nên lượng tiền nhàn rỗi là rất lớn. Trong khi đó, việc mở rộng

sản xuất lại phải gắn liền với việc tìm đầu ra cho sản phẩm và sức tiêu thụ

của thị trường.

Hầu hết các lượng vốn dư thừa đó được sử dụng để đầu tư tài chính,

đây chính là một điểm thể hiện tính rủi ro khi các công ty này không có một

đội ngũ đầu tư chuyên nghiệp và sự đổ vỡ tài chính có thể xảy ra bất kỳ lúc

nào khi thị trường sụt giảm. Lợi nhuận tài chính thu về từ hoạt động đầu tư

hầu hết là rất nhỏ, không đáng kể so với chi phí tài chính (chủ yếu là chi phí

lãi vay). Tỉ suất lợi nhuận trên khoản tiền đầu tư là rất thấp, đặc biệt là trong

68

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thời điểm thị trường ảm đạm như hiện nay. Huy động vốn trên thị trường

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ chứng khoán và tiền lại chảy ngược lại chứ không phục vụ cho hoạt động

sản xuất kinh doanh là một sự lãng phí vốn một cách trầm trọng.

Hậu quả là quyền lợi của chính các cổ đông bị ảnh hưởng khi tiền của

mình bị sử dụng không đúng mục đích. Vậy huy động thêm vốn là tốt hay

không tốt trong giai đoạn hiện nay và huy động vốn để làm gì, là bài toán mà

cổ đông phải tỉnh táo và sáng suốt để tính toán cho đúng.

Chính vì thế mà không chỉ Merry Lynch, mà rất nhiều nhà nghiên cứu

có cái nhìn xấu về thói quen phát hành thêm cổ phiếu của các công ty trên

sàn chứng khoán của Việt Nam.

Sử dụng vốn không hiệu quả:

Các nhà đầu tư không giám sát được hoạt động của công ty phát hành,

do đó không đảm bảo được việc sử dụng nguồn vốn huy động có hiệu quả.

Ví dụ là sự việc xôn xao gần đây về tình trạng “pha loãng thương hiệu

FPT”. Khi giá cổ phiếu của FPT giảm mạnh, nhiều cổ đông của Công ty cổ

phần Phát triển đầu tư công nghệ FPT mới nhận ra họ đã dễ dãi khi trao

quyền quá lớn cho hội đồng quản trị trong việc lập các công ty con, khiến

thương hiệu này bị “pha loãng”. Công ty FPT lại không nắm giữ cổ phần tại

các công ty con, không tính giá trị thương hiệu như cổ phần góp vốn. Câu

hỏi được nhiều cổ đông nhỏ bên ngoài đặt ra là vì sao họ không được tham

gia quá trình thành lập công ty con và quyết định phương thức góp vốn vào

những công ty này? Bởi lẽ nếu FPT sở hữu 100% thì lợi nhuận của những

công ty con sẽ chảy về công ty mẹ và các cổ đông cùng được hưởng. Thế

nhưng, tất cả chủ trương thành lập công ty con và quyết định phương thức

góp vốn đã không được thông qua đại hội đồng cổ đông FPT. Lý do trực tiếp

là đơn giản là vì các cổ đông đã thông qua bản điều lệ công ty theo hướng

69

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trao quyền cực lớn cho HĐQT. Theo bản điều lệ này, chỉ có những khoản

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đầu tư có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong

báo cáo tài chính gần nhất của FPT mới phải biểu quyết tại đại hội cổ đông.

Nhưng bản chất sâu xa của vấn đề chính là rủi ro đạo đức của các công ty

phát hành, và các nhà đầu tư thì không thể kiểm soát được hành động của

công ty.

3. Thông tin bất cân xứng trên thị trƣờng tiền tệ:

Thị trường tiền tệ là thị trường phát hành và mua bán các công cụ tài

chính ngắn hạn (kỳ hạn dưới 1 năm). Thị trường tiền tệ thường bao gồm thị

trường nội tệ liên ngân hàng, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường

đấu thầu tín phiếu kho bạc. Các chủ thể tham gia thị trường tiền tệ bao gồm

Ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại, và các tổ chức tài chính

phi ngân hàng, chính phủ, các doanh nghiệp, các cá nhân và các nhà môi

giới tiền tệ.

Các công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tiền tệ có độ rủi

ro thấp, tính thanh khoản cao. Các công cụ của thị trường tiền tệ bao gồm tín

phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu của ngân hàng,

thỏa thuận mua lại, tín phiếu NHTW.

Nhìn chung, thị trường này không bộc lộ rõ tình trạng thông tin bất

cân xứng. Mặc dù có sự tham gia của cá nhân và doanh nghiệp, nhưng các

giao dịch trên thị trường tiền tệ chủ yếu diễn ra giữa các tổ chức tài chính,

giữa tổ chức tài chính và chính phủ. Bên cạnh đó, thị trường tiền tệ còn được

coi là công cụ thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước thông qua hệ

thống ngân hàng hai cấp. Vấn đề thường gặp ở đây chỉ là tính công khai,

minh bạch của Chính phủ trong việc thực hiện các chính sách mà thôi. Một

70

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

số nghiệp vụ trên thị trường này như nghiệp vụ Arbitrage có thể được dựa

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ một phần trên cơ sở thông tin không hiệu quả, do người mua và người bán

không gặp trực tiếp mà phải thông qua trung gian arbitraguer, nhưng bản

chất của nghiệp vụ không phải dựa trên tình trạng thông tin bất cân xứng

mà dựa trên sự chênh lệch tỉ giá giữa các khu vực khác nhau. Đây là vấn đề

luôn tồn tại trên thị trường ngoại hối do quan hệ cung cầu ngoại hối quyết

định.

Do những lý do trình bày ở trên, khóa luận này xin được không phân

tích vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tiền tệ Việt Nam.

4. Đánh giá chung về thị trƣờng tài chính.

 Sau khi đã có cái nhìn cụ thể về tình trạng thông tin bất cân

xứng trên từng thị trường cấu thành, người viết xin đưa ra một số đánh

giá chung sau đây:

 Thứ nhất, vấn đề minh bạch hóa thông tin trên toàn thị trường

đang trở thành một vấn đề cấp thiết cần quan tâm để đảm bảo sự hoạt

động lành mạnh của thị trường. Đặc biệt là thị trường chứng khoán đang

bắt đầu trỗi dậy, việc minh bạch hóa thông tin là điều kiện tiên quyết đảm

bảo quyền lợi nhà đầu tư, giúp thị trường hoạt động tốt và giúp TTCK trở

thành một kênh huy động vốn quan trọng, hiệu quả cho nền kinh tế. Để

tăng cường tính minh bạch của thị trường đòi hỏi một hệ thống giải pháp

toàn diện trên nhiều lĩnh vực, cần sự quan tâm của cả chính phủ và các

đối tượng tham gia thị trường.

 Thứ hai, sự can thiệp hành chính, và chính sách bao cấp hỗ trợ

không hợp lý của chính phủ đã phần nào làm lệch lạc các quan hệ thị

71

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trường. Trong bối cảnh toàn cầu hóa tài chính, vấn đề này cần được chú ý

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

đúng mức để giúp thị trường tài chính hoạt động theo đúng quy luật thị

trường thật sự, hội nhập vào nền tài chính thế giới.

 Thứ ba, văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam

nhìn chung còn chưa được xây dựng đúng mức, tính kỷ luật chưa cao.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu như chưa quan tâm tới vấn đề này, dẫn

đến tình trạng thái độ trong hoạt động kinh doanh phần nào còn mang

tính chộp giật, ngắn hạn, chưa coi trọng đúng mức chữ tín. Chính điều

này đã làm cho vấn đề thông tin bất cân xứng, cụ thể là rủi ro đạo đức

tăng cao.

CHƢƠNG III

ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC

TÌNH TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN XỨNG TRÊN THỊ

TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

I. ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT

NAM - TƢ TƢỞNG VÀ QUAN ĐIỂM CHỦ ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ

NHÀ NƢỚC

1. Quán triệt đầy đủ quan điểm, chủ trƣơng của Đảng về phát triển thị

72

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trƣờng tài chính và nhận thức đúng thị trƣờng tài chính

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Việc phát triển và hoàn thiện thị trường tài chính có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế bền vững.

Ngược lại, sự ổn định kinh tế - xã hội, tăng trưởng kinh tế và sự phát triển

năng động của doanh nghiệp cũng là nền tảng cho sự phát triển của thị

trường tài chính. Nền kinh tế Việt Nam hiện vẫn còn đang trong trình độ

phát triển thấp và đang trong quá trình chuyển đổi, bản thân thị trường tài

chính còn chứa đựng không ít rủi ro, yếu kém và đòi hỏi một quá trình phát

triển lâu dài, bền vững và an toàn. Chính vì vậy, cần có lộ trình, chính sách,

biện pháp phù hợp với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam.

2. Đảm bảo sự vận hành của thị trƣờng tài chính trên cơ sở các quan hệ

thị trƣờng thật sự.

Để đảm bảo thị trường tài chính thực hiện chức năng phân bổ nguồn

lực tài chính một cách có hiệu quả, cần thực hiện tôn trọng quan hệ thị

trường, thông qua việc thực hiện các nguyên tắc cơ bản là giảm thiểu sự can

thiệp hành chính của Nhà nước, tăng cường cạnh tranh và đảm bảo giá cả

phản ánh đúng quan hệ cung cầu trên thị trường. Quan hệ thị trường phải

được đảm bảo đối với cả thị trường tiền tệ, thị trường trái phiếu, thị trường

cổ phiếu và thị trường tín dụng ngân hàng. Điều này không hề cản trở tới

chức năng của nhà nước trong việc đảm bảo tính minh bạch của thị trường,

hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường khả năng giám sát (dựa trên các chuẩn

mực và kinh nghiệm quốc tế) và hoàn thiện các tổ chức quản lý. Đây cũng là

điều kiện đặc biệt quan trọng, nhất là đối với thị trường tài chính vốn rất

73

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

nhạy cảm và chứa đựng không ít rủi ro.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ 3. Đặt quá trình phát triển và hoàn thiện thị trƣờng tài chính trong

tổng thể hình thành đồng bộ thể chế thị trƣờng, cải cách cơ cấu và

hội nhập kinh tế quốc tế.

Cải cách cơ cấu, hội nhập kinh tế quốc tế và việc phát triển thị trường

các nhân tố sản xuất có quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại với nhau. Việc

cụ thể hóa đường lối chiến lược phát triển đất nước đến năm 2020 cần phải

đồng thời tính đến đầy đủ quá trình cải cách, hội nhập, và phát triển thị

trường các nhân tố sản xuất, trong đó có thị trường tài chính. Trong điều

kiện Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO, với nhiều

cam kết trong lĩnh vực tài chính, chúng ta cần phải có lộ trình phát triển

WTO vững chắc, đồng bộ nhằm hạn chế những tác động tiêu cực có thể phát

sinh từ các cam kết quốc tế.

4. Hƣớng tới hình thành và phát triển một thị trƣờng tài chính cân đối

hơn, xác định và lựa chọn mô hình quản lý tài chính phù hợp với sự

phát triển của thị trƣờng tài chính.

Hình thành và phát triển một thị trường tài chính có cấu trúc cân đối

hơn là yêu cầu tất yếu để được một thị trường tài chính hiện đại, lành mạnh

và có hiệu quả. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, trong một số năm trước mắt,

hệ thống ngân hàng và tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chi phối trong

thị trường tài chính trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Những hạn chế

về xuất phát điểm, năng lực, thể chế cũng chưa cho phép nhanh chóng xây

dựng một thị trường tài chính hiện đại và cân đối hơn. Chính vì vậy, cần có

lộ trình tổng thể thích hợp phát triển đồng bộ thị trường tài chính cũng như

mô hình quản lý hệ thống tài chính và thị trường tài chính.

Trước mắt, cần chú trọng đến việc hoàn thiện thị trường tiền tệ và

74

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

lành mạnh hóa hệ thống ngan hàng, nhất là các NHTMNN do yêu cầu thực

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tế hiện nay vì đây cũng chính là cơ sở cho sự phát triển và hoàn thiện các

công cụ giao dịch, nhất là các công cụ phái sinh để giảm thiểu rủi ro. Cần

nhấn mạnh rằng một thị trường tiền tệ hoàn chỉnh hơn sẽ góp phần đẩy

nhanh việc chuyển sang sử dụng có hiệu quả các công cụ tiền tệ gián tiếp

nhằm vừa đảm bảo khả năng kiểm soát cung tiền tệ, vừa góp phần hạn chế

những rủi ro tài chính có thể phát sinh, nhất là trong bối cảnh hội nhập kinh

tế quốc tế và lãi suất được tự do hóa.

Dưới sự giúp đỡ, hỗ trợ của cac tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ

Tiền tệ quốc tế IMF, Ngân hàng thế giới, chương trình cơ cấu lại hệ thống

Ngân hàng thương mại đã được Ngân hàng Nhà nước xây dựng tương đối

hoàn chỉnh và đang được thực thi. Vấn đề cơ bản ở đây là tăng vốn cho các

NHTMNN, xử lý dứt điểm nợ xấu và hạn chế tối đa các khoản nợ quá hạn

mới có thể tiếp tục phát sinh. Điều này không chỉ là kết quả của việc nâng

cao năng lực quản trị rủi ro, tăng cường áp lực cạnh tranh đối với các ngân

hàng, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào tiến trình cải cách DNNN, việc thay

đổi cách thức lựa chọn đầu tư và sự can thiệp vào thị trường tài chính của

nhà nước.

5. Tăng cƣờng hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nƣớc đối với thị

trƣờng tài chính

Việc tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước đối với thị

trường tài chính cần gắn liền với đảm bảo thực thi nghiêm túc các nguyên

tắc quản lý cơ bản, trong đó cần chú trọng xây dựng các chế tài thích hợp và

hiệu quả, xây dựng mô hình quản lý thích hợp và tăng cường sự phối hợp

giữa các cơ quan quản lý Nhà nước và nâng cao năng lực của cơ quan quản

75

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

lý Nhà nước.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Trước hết, cần thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc, kỷ luật về minh

bạch hóa thông tin, kế toán, kiểm toán, và giám sát dựa trên các chuẩn mực

quốc tế và chỉnh sửa các văn bản pháp lý có liên quan. Định mức tín nhiệm

quốc tế và việc tạo dựng lòng tin đối với công chúng và các nhà đầu tư phụ

thuộc vào hiệu quả của việc thực hiện các nguyên tắc này. Mô hình quản lý

ở Việt Nam về cơ bản là mô hình quản lý theo định chế tài chính, mặc dù

cũng có một số khía cạnh quản lý là theo chức năng. Mô hình này chỉ có thể

phát huy tác dụng với 2 điều kiện:

Một là, cần làm rõ và tăng cường chức năng nhiệm vụ của các cơ

quan quản lý, nhất là đối với Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính và Uỷ ban

Chứng khoán Nhà nước. Đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cần thực sự được

đảm bảo quyền chủ động trong xây dựng và thực thi các chính sách tiền tệ.

Chức năng giám sát, kiểm tra và chức năng cơ quan chủ quản ngành của các

cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần được phân định rõ ràng hơn.

Hai là, cần thể chế hóa cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý

(bằng quy định pháp lý và/hoặc qua thành lập tổ chức). Một phương án là

củng cố, nâng cao vị trí của Hội đồng Tài chính - Tiền tệ quốc gia với tư

cách là một cơ quan điều phối chung có đầy đủ chức năng, quyền lực cần

thiết. Phương án khác là chỉ định một cơ quan quản lý, dưới sự chỉ đạo trực

tiếp của Chính phủ, làm đầu mối thưuờng trực thực hiện công tác phối hợp,

điều hành và thực thi các chính sách tài chính - tiền tệ.

Đồng thời, cần nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý thích hợp và

khả thi trong tương lai, khi thị trường tài chính đã phát triển hơn. Việc kết

hợp quản lý theo định chế với quản lý theo chức năng, hạn chế xung đột lợi

76

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

ích giữa các cơ quan quản lý là một hướng cần được quan tâm nghiên cứu.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ Bên cạnh việc hoàn thiện thể thì chất lượng nguồn nhân lực cũng là một

nhân tố quyết định năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước. Những vấn

đề cần tập trung xử lý để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là đối mới

chương trình đào tạo - bồi dưỡng nghiệp vụ theo hướng cơ bản, hiện đại, tập

trung sự giúp đỡ và hỗ trợ quốc tế, và cải cách công tác tuyển chọn, bố trí và

đề bạt cán bộ.

6. Xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá rủi ro tài chính và mô hình cảnh

báo sớm

Đây là một căn cứ quan trọng để xử lý kịp thời các tình huống có thể

phát sinh, hạn chế rủi ro trên thị trường tài chính và ngăn ngừa khủng hoảng

tài chính - tiền tệ. Cách thức thông thường là tập hợp và xem xét một loạt

các nhóm chỉ số về kinh tế vĩ mổ, tài chính - ngân hàng, tiền tệ, cán cân

thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài, và tài chính doanh nghiệp. Cách thức

được quan tâm gần đây là xây dựng các mô hình dự báo khủng hoảng tài

chính - tiền tệ. (Ở tầm khu vực, có thể xây dựng mô hình cảnh báo sớm về

khả năng và phạm vi lan truyền khủng hoảng).

Tuy nhiên, mô hình chỉ là sự khởi đầu của quá trình phân tích kinh tế

và chính sách. Đánh giá theo hệ thống các chỉ số và mô hình cần kết hợp với

đánh giá chuyên gia để có thể đưa ra những dự báo kịp thời và kiến nghị

chính sách hợp lý.

II. GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG THÔNG TIN BẤT CÂN

XỨNG TRÊN THỊ TRƢỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM

1. Trên thị trƣờng tín dụng ngân hàng

1.1. Biện pháp hạn chế lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng

1.1.1. Các quy định pháp lý rõ ràng, chặt chẽ liên quan đến hoạt động

77

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

tín dụng

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Ở Việt Nam, hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động tín dụng nói

riêng được quy định bởi văn bản cao nhất là Luật các tổ chức tín dụng.

Ngoài ra còn có các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, của Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam và các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng. Các quy

định về hoạt động tín dụng tại Việt Nam được đánh giá là tương đối đầy đủ

và theo thông lệ chung với các hướng dẫn rõ ràng, quyền tự chủ dành cho

bên cấp tín dụng trên cơ sở bảo đảm những quy định về an toàn. Tuy nhiên,

cần quy định chi tiết, chặt chẽ hơn nữa về các điều kiện cấp tín dụng, quy

định về đảm bảo tiền vay và quy định về việc thẩm định, xét duyệt cho vay

và giám sát thu hồi vốn vay nhằm hướng dẫn các tổ chức tín dụng. Đồng

thời, các quy định pháp lý cần tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng được tự

chủ và phải chịu trách nhiệm về hoạt động tín dụng của mình, đảm bảo điều

kiện để ngân hàng có thể tìm đúng khách hàng, đúng dự án để cấp tín dụng

(giảm thiểu tình trạng lựa chọn ngược) và giám sát để khách hàng thực hiện

những hành vi đúng sau khi được cấp tín dụng để hoàn trả cho ngân hàng

khoản tín dụng được cấp (phòng tránh rủi ro đạo đức).

1.1.2. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đầy đủ, đáng tin cậy

a. Phát triển trung tâm thông tin tín dụng tư nhân

Vấn đề thông tin bất cân xứng trên thị trường tín dụng tồn tại khiến

các tổ chức cho vay không có đủ thông tin về đối tượng xin cấp tín dụng,

dẫn tới tình trạng lựa chọn ngược trong phân phối tín dụng và khiến cho hoạt

động phân phối tín dụng trở nên kém hiệu quả. Các dự án rủi ro lại được lựa

chọn để cấp tín dụng trong khi đó các dự án kinh doanh khả thi, có độ rủi ro

thấp lại không thể vay được vốn do chi phí trở nên cao một cách tương đối.

Một biện pháp để đảm bảo cho vay mà ngân hàng thường sử dụng là thế

78

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

chấp. Tuy nhiên, việc đòi hỏi thế chấp lại là cản trở lớn đối với nhiều doanh

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) và những doanh

nghiệp mới thành lập vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có

đủ giấy tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một

giải pháp khác hiệu quả hơn đang được tổ chức cho vay ở nhiều nước sử

dụng là chỉ phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa

chọn và theo dõi họ thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay

phải nắm được thông tin về lịch sử thanh toán của những khách hàng tiềm

năng khi ra quyết định cho vay và xác định lãi suất vay. Kinh nghiệm quốc

tế cho thấy ở những quốc gia mà thông tin tín dụng sẵn có sẽ có nhiều doanh

nghiệp và cá nhân tiếp cận được các nguồn tài chính. Để đạt được điều đó,

việc hết sức cần thiết hiện nay là phải xây dựng các trung tâm thông tin tín

dụng (TTTD) độc lập.

Trung tâm thông tin tín dụng là các tổ chức trung gian đúng ra thu

thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp các

tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay (doanh nghiệp và cá nhân) tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn21. Trung tâm thông tin tín

dụng tư nhân là một mô hình đang rất phát triển ở nhiều nước và đã được

chứng minh là có thể giúp tăng cường tiếp cận tín dụng cho doanh nghiệp

nhỏ và vừa (DNNVV) và cá nhân. Ở Việt Nam, mô hình trung tâm TTTD

còn rất mới. Trung tâm thông tin tín dụng trực thuộc Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam (Credit Information Center, viết tắt là CIC) mới được thành lập từ

năm 1999. Tuy nhiên, hoạt động của Trung tâm còn mang tính hình thức,

thông tin nghèo nàn, thiếu chính xác và có độ trễ trong việc cập nhật, chưa

79

21 Trung tâm thông tin kinh tế, Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, 02/2006, Trung tâm thông tin tín dụng tư nhân - một định chế còn thiếu để tăng cường tiếp cận tài chính ở Việt Nam, Bản tin Môi trường kinh doanh, số 15 tháng 2/2006. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thực sự hiệu quả và chưa trở thành một nguồn thông tin tham khảo tin cậy

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cho các tổ chức cho vay. Bên cạnh đó, còn thiếu vắng các trung tâm TTTD

tư nhân. Do hạn chế này, phạm vi thu thập thông tin tín dụng ở Việt Nam là

rất hẹp so với ở nước có trung tâm TTTD tư nhân. Ở Việt Nam, trên 1000

người trưởng thành thì chỉ có thông tin tín dụng của 11 người - trong khi đó ở Thái Lan con số này là 184 người và ở Australia là 1000 người22. Đây có

thể là một trong những lý do giải thích tại sao DNNVV và cá nhân ở Việt

Nam vẫn còn gặp nhiều rào cản khi tiếp cận tín dụng.

Ở hầu hết các nước, trung tâm TTTD nhà nước thông thường do Ngân

hàng Nhà nước thành lập với mục đích giám sát các ngân hàng là chính, còn

trung tâm TTTD tư nhân thường được thành lập bởi các tổ chức tín dụng hay

những thành viên tham gia thị trường tín dụng khác để giúp các thành viên

chia sẻ thông tin tín dụng vì mục đích kinh doanh. Các trung tâm TTTD Nhà

nước có xu hướng chỉ thu thập thông tin về các khoản vay giá trị lớn có thể

có ảnh hưởng tổng thể đến nền kinh tế. Những thông tin mà họ thu thập là từ

những tổ chức tài chính thuộc quyền giám sát của Ngân hàng Nhà nước, do

đó thường không bao gồm các định chế tài chính phi ngân hàng đang rất

phát triển như các công ty thuê mua, công ty tài chính. Hơn nữa, trung tâm

TTTD Nhà nước cũng chỉ cung cấp thông tin tín dụng hiện tại mà không

cung cấp thông tin lịch sử thanh toán của người vay.

Trong khi đó, trung tâm TTTD tư nhân thu thập thông tin trên phạm

vi rộng hơn nhiều, bao gồm cả những khoản vay của DNNVV và cá nhân.

Đặc biệt thông tin được lưu giữ không chỉ giới hạn ở những khoản vay lớn.

Trung tâm TTTD tư nhân cung cấp thông tin về lịch sử thanh toán của người

80

đi vay và nhiều dịch vụ khác như công cụ xử lý đơn xin cấp tín dụng, hệ

thống chấm điểm tín dụng,… Để kiểm soát thành tích tín dụng thì báo cáo 22 Báo cáo toàn cầu về Môi trường kinh doanh 2006: Việc làm, Ngân hàng thế giới và Công ty Tài Chính quốc tế, tháng 9/2005. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ kỷ luật tín dụng của các doanh nghiệp phải được kiểm toán độc lập, thẩm

định chéo trước khi công bố. Như vậy, trung tâm TTTD tư nhân mới đáp

ứng tốt nhất các yêu cầu về thông tin tín dụng của các tổ chức cho vay để

phục vụ đối tượng xin vay là DNNVV và cá nhân tốt hơn.

Một điều tra năm 2003 của Ngân hàng Thế giới ở nhiều nước đã đưa

ra những bằng chứng cho thấy không có mối liên hệ đáng kể nào giữa hoạt

động của trung tâm TTTD Nhà nước với sự giảm bớt các rào cản về tín

dụng; trong khi đó với sự có mặt của trung tâm TTTD tư nhân, rào cản tiếp

cận tài chính giảm bớt một cách rõ rệt và tỷ lệ được cấp tín dụng của doanh nghiệp nhỏ gia tăng23 Những phát hiện cụ thể là tỷ lệ % các doanh nghiệp

nhỏ gặp khó khăn về vốn ở những nước có trung tâm TTTD tư nhân là 27%

trong khi đó, ở những nơi không có trung tâm này, tỷ lệ này là 49%; xác suất

doanh nghiệp nhỏ vay được từ ngân hàng ở những nước có trung tâm TTTD

tư nhân là 40%, cao hơn nhiều ở những nước không có (28%).

Tốc độ tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tín dụng cho DNNVV và tín

dụng tiêu dùng trong những năm gần đây, đang tạo ra một nhu cầu rất lớn về

thông tin tín dụng mà khả năng và nguồn lực của CIC không thể đáp ứng

hết. Trong một hội thảo gần đây do Ngân hàng Nhà nước phối hợp với IFC-

MPDF và Visa tổ chức, hơn 150 đại diện đến từ các ngân hàng đang hoạt

động ở thị trường Việt Nam đã ủng hộ việc thành lập trung tâm TTTD tư

nhân ở Việt Nam. Nhu cầu thông tin tín dụng về DNVVN và cá nhân tăng

cao không được đáp ứng đang ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh

của các ngân hàng. Có thể thấy thị trường tài chính Việt Nam đang tồn tại

81

một nhu cầu bức thiết phải thành lập các trung tâm TTTD độc lập. Điều này

cần sự hỗ trợ kịp thời từ phía chính phủ và các cơ quan nghiên cứu kinh tế. 23 Inesa Love và Natalya Mylenko,10/2003, Thông tin tín dụng và các cản trở về tiếp cận tài chính, World Bank. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Song cũng cần nhận thức rằng thông tin tín dụng là một lĩnh vực khá

nhạy cảm vì nó không chỉ liên quan đến quyền và trách nhiệm của các tổ

chức tín dụng mà còn có thể ảnh hưởng đến tính riêng tư và bảo mật về dữ

liệu của các doanh nghiệp và cá nhân. Để đảm bảo độ tin cậy, tổ chức đánh giá tín dụng cần đảm bảo sáu điều kiện sau đây24:

Tính khách quan: Phương pháp đánh giá tín dụng cần phải chặt chẽ,

có hệ thống và phải căn cứ vào các số liệu quá khứ theo một phương pháp

đánh giá nào đó. Ngoài ra, các kết quả đánh giá cần phải liên tục được rà

soát và điều chỉnh kịp thời theo những thay đổi về tình hình tài chính. Để

được các cơ quan chủ quản ngân hàng công nhận, phương pháp đánh giá đối

với mỗi khu vực thị trường, trong đó có việc đối chiếu lại một cách chặt chẽ

(rigorous back testing), cần phải được sử dụng trước đó ít nhất một năm và

nên là ba năm

Tính độc lập: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải độc lập và

không chịu các sức ép về kinh tế hoặc chính trị có thể ảnh hưởng đến kết quả

đánh giá. Quá trình đánh giá càng ít bị ảnh hưởng bởi những mâu thuẫn về

lợi ích có thể phát sinh do thành phần của hội đồng quản trị hoặc cơ cấu cổ

đông của công ty gây ra càng tốt.

Khả năng tiếp cận quốc tế/ Tính minh bạch: Các kết quả đánh giá cần

được cung cấp cho các tổ chức trong và ngoài nước để sử dụng trong các

mục đích hợp pháp và với các điều kiện cung cấp tương đương nhau. Ngoài

ra, phương pháp luận chung để đánh giá tín dụng của các tổ chức đánh giá

cần phải được công khai, hầu hết các dự án vay vốn từ World Bank hoặc

82

24 Huỳnh Thế Du, Nguyễn Minh Kiều, Nguyễn Trọng Hoài, 04/2005, Thông tin bất cân xứng trong hoạt động tín dụng tại Việt Nam, Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, bộ môn Tài Chính phát triển. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Asian Development Bank đều công khai trên web rõ ràng phương pháp luận

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cụ thể để đánh giá một dự án, điều này sẽ tránh được những che đậy thông

tin từ bên phía khách hàng đặt mục tiêu có nguồn tín dụng bằng mọi giá.

Cung cấp thông tin: Tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần cung cấp

các

thông tin về phương pháp đánh giá, bao gồm các khái niệm về khả năng

không trả được nợ, khoảng thời gian đánh giá, ý nghĩa của mỗi bậc xếp

hạng; tỷ lệ không trả được nợ trong thực tế ứng với mỗi nhóm xếp hạng; và

xu hướng thay đổi các kết quả đánh giá, ví dụ khả năng từ xếp hạng AA

xuống xếp hạng A theo thời gian.

Các nguồn lực: Một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cần phải có đủ

các nguồn lực cần thiết để thực hiện việc đánh giá với chất lượng cao. Các

nguồn lực này cho phép các tổ chức này tiếp xúc thường xuyên với cán bộ

quản lý và nghiệp vụ tại các tổ chức đang được đánh giá tín dụng để bổ sung

các thông tin quan trọng cho việc đánh giá tín dụng. Các kết quả đánh giá

cần phải dựa trên sự kết hợp các phương pháp định tính và định lượng.

Nguồn lực thẩm định tín dụng cũng nên làm việc theo nhóm, có nghĩa là bản

thân ngân hàng cũng nên có những chuyên gia độc lập thẩm định từ phía

nước ngoài nhằm áp dụng cho những dự án qui mô lớn.

Tính tin cậy: Trong một chừng mực nhất định, độ tin cậy của các kết

quả đánh giá đạt được nhờ các tiêu chí đã nêu trên. Ngoài ra, lòng tin của

các tổ chức độc lập (nhà đầu tư, nhà bảo hiểm, các đối tác kinh doanh) đối

với các kết quả đánh giá của một tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng là

bằng chứng của độ tin cậy của các kết quả đánh giá này. Độ tin cậy của một

tổ chức đánh giá tín dụng độc lập cũng thể hiện ở việc các tổ chức này sử

83

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

dụng các quy trình nội bộ nhằm tránh không cho các thông tin mật được sử

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ dụng sai mục đích. Để được công nhận, một tổ chức đánh giá tín dụng độc

lập không nhất thiết phải đánh giá các công ty ở hai quốc gia trở lên..

Ở hầu hết các quốc gia đang phát triển, việc thành lập trung tâm

TTTD tư nhân là một công việc rất khó khăn. Để có được một trung tâm

TTTD tư nhân hoạt động hiệu quả, cần (i) xây dựng một khuôn khổ pháp lý

phù hợp; (ii) có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các

tổ chức tài chính lớn; (iii) có sự hợp tác giữa khu vực công–tư và sự hiểu biết

của toàn xã hội; và cuối cùng là (iv) tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm

quốc tế. Trong gần ba năm qua, Ngân hàng Nhà nước đã quan tâm tới vấn đề

này và tham vấn sự hỗ trợ kỹ thuật từ Công ty Tài chính Quốc tế IFC. Những

nỗ lực này cần được đẩy nhanh hơn nữa để trung tâm TTTD tư nhân có thể ra

đời và hoạt động hiệu quả ở Việt Nam.

b. Hệ thống thông tin nội bộ của bản thân các tổ chức tín dụng

Để phục vụ cho việc sàng lọc và giám sát các cá nhân và tổ chức vay

vốn, thẩm định dự án, bản thân các tổ chức tín dụng không thể chỉ trông chờ

vào các nguồn thông tin từ các tổ chức trung gian mà phải tự mình xây dựng

một hệ thống thông tin nội bộ để lưu trữ, xử lý thông tin về khách hàng hiệu

quả và có hệ thống. Việc lưu trữ một cách có hệ thống thông tin khách hàng

không chỉ giúp các ngân hàng tiết kiệm chi phí giao dịch mà còn hạn chế

được tình trạng lựa chọn ngược. Bản thân ngân hàng có thể theo dõi tình

hình tài chính, kế hoạch hoạt động, và tính toán được một cách khoa học

định mức tín nhiệm của các đơn vị xin cấp tín dụng để đưa ra quyết định cho

vay. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là ngân hàng sẽ chỉ thu thập

được thông tin về một số lượng hạn chế người đi vay tiềm năng, chủ yếu là

84

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

những đối tượng đã có quan hệ tín dụng trước đó với ngân hàng.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Ngoài hệ thống thông tin dùng để đánh giá khách hàng, khi thẩm định

dự án, phương án kinh doanh, các tổ chức tín dụng cần phải có hệ thống

thông tín nhằm xác định, kiểm tra các thông số đầu vào và đầu ra của dự án,

nhất là các thông số về thị trường các nguyên liệu đầu vào và thị trường đàu

ra của sản phẩm…Thực tế, hiện nay các tổ chức tín dụng thường sử dụng

các thông lấy được trên mạng internet với tính hệ thống không cao. Việc

truy cập, tìm kiếm những số liệu này phụ thuộc rất nhiều vào trình độ của

các bộ tín dụng với yêu cầu phải có khả năng đọc tốt tiếng anh. Do vấn đề về

hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án của các tổ chức tín

dụng hiện nay vẫn đang là vấn đề rất lớn. Những biến số quan trọng nhất

quyết định đến hiệu quả của dự án như giá nguyên vật liệu, giá bán, khả

năng tiêu thụ…lại thiếu thông tin nhất trong quá trình thẩm định.

1.1.3. Hệ thống các tiêu chuẩn và kỹ thuật đánh giá thống nhất và phù

hợp với chuẩn mực quốc tế

Hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài chính là một trong những cơ

sở cực kỳ quan trọng giúp cho các bên liên quan nắm bắt được tình hình tài

chính của doanh nghiệp. Nếu một hệ thống thông tin kế toán và báo cáo tài

chính không được tổ chức tốt và không minh bạch và có độ tin cậy cao sẽ rất

khó có thể căn cứ để xem xét “sức khỏe”của doanh nghiệp. Trước hết, cần

phải đưa chuẩn mực kế toán của Việt Nam (VAS) tiến gần hơn nữa so với hệ

thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Bên cạnh đó, phải nâng cao kỷ luật kế toán

trong các doanh nghiệp, loại bỏ tình trạng các doanh nghiệp làm báo cáo tài

chính mang tính chất đối phó với cơ quan thuế và ngân hàng.

Bên cạnh đó, cần yêu cầu chặt chẽ hơn nữa về sự xác nhận của các

công ty kiểm toán độc lập đối với các báo cáo tài chính. Nghị định về kiểm

85

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

toán độc lập hiện nay chỉ mới yêu cầu một số loại hình doanh nghiệp phải

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ thực hiện kiểm toán như Bảo hiểm, ngân hàng, các doanh nghiệp có vốn đầu

tư nước ngoài, DNNN, số còn lại Nhà nước chỉ khuyến khích thực hiện kiểm

toán. Đây chính là kẽ hở để các doanh nghiệp có nhiều hệ thống sổ sách báo

cáo kế toán khác nhau để đối phó: một dùng để báo cáo thuế (kết quả kinh

doanh thấp hơn thực tế), một dùng để vay vốn ngân hàng (kết quả báo cáo

thường hơn thực tế), một dùng cho nội bộ (số liệu thực). Với tình trạng như

vậy, khi doanh nghiệp gặp khó khăn thì ngân hàng rất khó nhận biết tình

trạng thực của doanh nghiệp là như thế nào. Bản thân các tổ chức tín dụng

cũng nên yêu cầu khách hàng đến xin cấp tín dụng phải có báo cáo tài chính

được kiểm toán và xem báo cáo được kiểm toán đó như một cơ sở để xét độ

tín nhiệm và thẩm định cho vay.

1.1.4. Hệ thống đăng kí tài sản hiệu quả

Một hệ thống đăng ký quyền sở hữu tài sản rõ ràng là vô cùng quan

trọng cho nền kinh tế nói chung, hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.

Nếu tất cả các tài sản được đăng ký và xác nhận quyền sở hữu, thì người chủ

sở hữu tài sản đó có thể đem tài sản này thế chấp, cầm cố vay vốn ngân

hàng. Hay nói cách khác, nếu tất cả các tài sản (nhất là các bất động sản)

được đăng ký quyền sở hữu (hay quyền sử dụng) khi đó mới thực sự là tài

sản, nếu không chỉ là một công cụ của người có nó vì việc chuyển nhượng,

thế chấp, cầm cố sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Hiện nay, việc đăng ký tài sản

đã có quy định, nhưng nhìn chung việc thực hiện chưa được triệt để và rộng

khắp.

Cần thiết lập hệ thống đăng kí tài sản như đăng kí động sản, bất động

sản, xác nhận có tiền gửi ngân hàng, chứng minh có lợi nhuận giữ lại chặt

chẽ để giảm bớt khó khăn của ngân hàng trong việc xác định tính hợp lý,

86

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hợp lệ để ra quyết định cấp tín dụng; đồng thời cũng loại trừ được tình trạng

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ thông tin bất cân xứng khi các đơn vị xin cấp vốn dùng các thủ thuật để che

mắt ngân hàng. Cần phân định quyền hạn và trách nhiệm rõ ràng của các cơ

quan thực hiện đăng kí tài sản, tạo thành một hệ thống đăng kí giao dịch đảm

bảo với sự tham gia của các cơ quan đăng kí giao dịch đảm bảo gồm: Cơ

quan đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm và chi nhánh; Cơ quan đăng ký tàu

biển và thuyền viên khu vực; Cục Hàng không dân dụng Việt Nam; Sở Địa

chính hoặc Tài nguyên mô trường; ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

Mỗi cơ quan nêu trên thực hiện đăng ký giao dịch đảm bảo một số loại tài

87

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

sản theo quy định.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

1.2. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong sử dụng vốn vay

1.2.1. Vật thế chấp và số dư bù

Trong điều kiện hiện nay, mặc dù có một vài hạn chế nhưng vật thế

chấp vẫn được các ngân hàng sử dụng khá nhiều để làm căn cứ cho vay vốn.

Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi một ngân hàng cho vay thương

mại gọi là số dư bù. Một hãng khi nhận được tiền vay phải giữ lại một số

vốn tối thiểu bắt buộc trong tài khoản séc tại ngân hàng mà nó cho vay. Ví

dụ, một doanh nghiệp nhận được một món vay 10 triệu đô la có thể bị bắt

buộc phải giữ số dư bù ít nhất 1 triệu $ trong tài khoản tại ngân hàng cho

vay. Một triệu đô la số dư bù này có thể bị ngân hàng đó lấy nếu doanh

nghiệp đó vỡ nợ để bù đắp lại một phần tổn thất của món vay đó.

Ngoài việc có tác dụng như một vật thế chấp, các số dư bù tăng được

khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp

ngân hàng giám sát người đi vay, ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Việc duy trì tài

khoản séc giúp ngân hàng dễ dàng kiểm soát các giao dịch thông qua séc của

người đi vay - việc này có thể mang lại rất nhiều thông tin về điều kiện tài

chính của người đi vay nói trên. Ví dụ, một sự sụt giảm kéo dài về số dư ở

tài khoản séc của người đi vay đó cho biết rằng người này đang có khó khăn

về tài chính, hoặc hoạt động kế toán có thể cho biết người vay đó đang thực

hiện những hoạt động rủi ro, có thể một sự thay đổi về người cung cấp có

nghĩa là người đi vay đang theo đuổi một lĩnh vực kinh doanh mới,…Bất kỳ

một sự thay đổi quan trọng nào trong hoạt động thanh toán của người đi vay

này đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng phải tiến hành điều tra.

Những số dư bù đó giúp cho ngân hàng giám sát những người vay tiền hiệu

88

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

quả hơn.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

1.2.2. Các điều kiện hạn chế:

Những điều kiện hạn chế được đưa vào hợp đồng vay vốn nhằm giảm

rủi ro đạo đức bằng cách loại bỏ những hành vi không mong muốn và khuyến

khích những hành vi mong muốn. Có 4 kiểu quy định hạn chế để đạt được mục

tiêu này:

(1) Những quy định ngăn ngừa các hành vi không mong muốn: Để

ngăn ngừa người đi vay tham gia vào các dự án rủi ro, những quy định này

đòi hỏi rằng một món tiền vay chỉ có thể được dùng để tài trợ những hoạt

động đã được chỉ định sẵn, chẳng hạn như mua thiết bị đã định hay đầu tư

vào dự án đã nói trước. Có thể ghi rõ loại trừ những hoạt động rủi ro cụ thể

như mua lại các doanh nghiệp khác,…

(2) Những quy định khuyến khích hành vi mong muốn: Đối với cho

vay cá nhân, quy định này có thể là yêu cầu người trụ cột nuôi sống một gia

đình phải mua bảo hiểm sinh mạng loại sẽ thanh toán hết số tiền vay thế

chấp khi người đó chết. Đối với các doanh nghiệp, quy định này có thể là

khuyến khích công ty giữ cho giá trị tài sản ròng của công ty cao, vì khi giá

trị ròng cao thì công ty sẽ phải mất nhiều hơn nếu tham gia vào các dự án rủi

ro, do đó hạn chế tình trạng rủi ro đạo đức.

(3) Những quy định yêu cầu giữ vật thế chấp trong điều kiện tốt: Ví

dụ những hợp đồng vay mua ô tô đòi hỏi người mua ô tô đó có bảo hiểm chô

một số tối thiểu loại va đụng và bảo hiểm mất trộm và ngăn ngừa việc bán

chiếc xe trừ khi món vay đó đã thanh toán xong. Tương tự, người nhận một

món vay thế chấp nhà ở phải có đủ bảo hiểm cho ngôi nhà đó và phải thanh

89

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

toán hết khoản nợ khi vật thế chấp này được đem bán.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

(4) Những quy định yêu cầu cung cấp thông tin: Những quy định

này có thể yêu cầu công ty vay cung cấp thông tin về các hoạt động của công

ty đó một cách định kỳ ở dạng báo cáo kết toán quý và báo cáo thu nhập,

hoặc quy định bên cho vay có quyền kiểm tra và thanh tra sổ sách kế toán

của công ty này, nhờ vậy mà người cho vay dễ dàng giám sát công ty đó và

ngăn ngừa rủi ro đạo đức.

1.3. Biện pháp hạn chế rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng

1.3.1. Điều chỉnh hợp lý các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với

a. Dừng tái cấp vốn cho các ngân hàng quốc doanh.

hoạt động tín dụng

Việc quản lý các ngân hàng thương mại quốc doanh được các chuyên

gia đánh giá là nhược điểm lớn nhất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

hiện nay. Việc các ngân hàng vẫn duy trì các mối quan hệ kinh doanh khăng

khít với các DNNN cho thấy các ngân hàng này vẫn chưa đa dạng hóa được

đối tượng khách hàng cho phù hợp với cơ cấu sở hữu thay đổi trong nền

kinh tế.

Theo các chuyên gia, Chính phủ cần tạm ngừng các hoạt động tái cấp

vốn bổ sung cho ngân hàng quốc doanh. Thay vào đó, việc cần làm là để các

ngân hàng này tái định hướng hoạt động trên cơ sở lợi nhuận. Chúng cần

được điều hành bởi một ban giám đốc chuyên nghiệp thay vì một bộ phận

của Chính phủ hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, bởi lẽ nếu duy trì như

hiện nay tức là tiếp tục duy trì sự xung đột lợi ích bởi người lãnh đạo ngân

hàng vừa là đại diện chủ sở hữu vừa là cơ quan điều tiết tài chính.

b. Xây dựng một chính sách bảo hiểm tiền gửi phù hợp.

Như đã phân tích ở chương II, chính sách bảo hiểm tiền gửi và mạng

90

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

lưới an toàn của chính phủ góp phần ổn định hệ thống tài chính, tạo tâm lý

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ yên tâm cho người gửi tiền và phòng tránh khả năng đổ vỡ ngân hàng. Tuy

nhiên, một chính sách bảo hiểm quá rộng rãi sẽ tạo ra tâm lý ỷ lại cho các

ngân hàng trong việc sử dụng nguồn vốn huy động, và kéo theo tâm lý ỷ lại

của những người gửi tiền, khiến họ lơ là trong việc giám sát hoạt động của

ngân hàng để đảm bảo an toàn vốn cho chính mình. Như vậy, một vấn đề

cần quan tâm hàng đầu khi thiết lập chính sách bảo hiểm tiền gửi chính là

xác định mức trả bảo hiểm và tốc độ thanh toán bảo hiểm phù hợp, trong đó

phải đặc biệt chú ý đến sự cân bằng giữa bảo đảm ổn định tài chính một cách

triệt để thông qua phương pháp trả bảo hiểm toàn phần với bảo đảm duy trì

kỷ cương thị trường. Cần xác định được mức trả bảo hiểm tối ưu để tạo

được lòng tin cho người dân khi gửi tiền vào ngân hàng mà không tạo ra rủi

ro đạo đức do sự ỷ lại của các ngân hàng; không làm xao nhãng trách nhiệm

cùng giám sát ngân hàng của những người có số gửi tiền lớn; cẩn trọng đối

với người có số tiền gửi nhỏ nhưng vô thức có thể tạo ra sự hoảng loạn ảnh

hưởng đến mục tiêu an toàn hệ thống tài chính...Bất kỳ một hệ thống bảo

hiểm công khai nào khi triển khai chính sách đều phải trả lời các câu hỏi:

thực hiện bảo hiểm toàn phần hay hạn chế; mức trả bảo hiểm hạn chế là bao

nhiêu và tính theo nguyên tắc nào; mức trả bảo hiểm được giới hạn theo loại

tiền gửi hay theo người gửi tiền; khi nào điều chỉnh mức bảo hiểm; điều

chỉnh thế nào để vừa phản ánh được sự tăng trưởng GDP và tăng tỉ lệ lạm

phát, vừa đảm bảo để công chúng theo kịp với mức điều chỉnh mới. Cơ quan

Bảo hiểm tiền gửi cần có quyền quyết định cấp phép, chấm dứt và xóa khỏi

danh sách thành viên đối với các ngân hàng không đáp ứng tiêu chuẩn. Xu

91

25 Mai Đinh Đệ, trưởng ban Kiểm soát HĐQT Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, 2006, bài ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hướng lâu dài, mở rộng phương pháp trả bảo hiểm có giới hạn sẽ góp phần ổn đinh hệ thống tài chính, đồng thời không bóp méo kỷ cương thị trường.25

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

1.3.2. Tăng cường giám sát Nhà nước đối với hoạt động Ngân hàng

Để ngăn chặn rủi ro đạo đức của các ngân hàng, cần phải nâng cao quản lý

nhà nước đối với hoạt động ngân hàng, tăng cường cơ chế giám sát để hạn

chế ngân hàng tham gia quá nhiều vào các hoạt động có độ rủi ro cao. Năm

2006, Ngân hàng Nhà nước đã ra chỉ thị số 02/2006/CT-NHNN Về việc

tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh

doanh của các tổ chức tín dụng. Sự cam kết mạnh mẽ của chính phủ nhằm

thắt chặt kỷ luật tài chính đối với ngân hàng quốc doanh và DNNN sẽ là điều

thiết yếu để ngăn chặn sự lặp lại vòng luẩn quẩn phát sinh và tích tụ nợ khó

đòi.

a. Hạn chế đối với việc nắm giữ tài sản và yêu cầu về vốn

Để hạn chế việc ngân hàng sử dụng vốn huy động đầu tư vào các hoạt

động quá rủi ro, Chính phủ cần có các yêu cầu cụ thể về chất lượng tài sản

nắm giữ, đồng thời quy định mức dự trữ tối thiểu dành cho mỗi ngân hàng.

Theo Khảo sát của ngân hàng Nhà nước cho thấy dư nợ tín dụng trong

hoạt động cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán ở tất cả các ngân hàng

hiện nay đang ở mức thấp, khoảng 2,5% tổng dư nợ. Trong đó, 12 ngân hàng

cổ phần đã cho vay vượt mức 3% tổng dư nợ (bình quân là 7%), còn các

ngân hàng quốc doanh - hiện chiếm khoảng 70% thị trường tín dụng - thì tỉ

lệ này chỉ dưới 2%. Tuy nhiên trong cuộc gặp với các ngân hàng sáng ngày

28/6/2007, một con số lần đầu tiên được lãnh đạo Vụ Chính sách tiền tệ -

ngân hàng Nhà nước đưa ra khiến đại diện các ngân hàng giật mình: tỉ lệ cho

vay loại chứng khoán tại một số ít ngân hàng, chủ yếu là ngân hàng nhỏ, lên

tới 40-50% tổng dư nợ, một tỉ lệ chưa từng có trong nghiệp vụ này và có thể

92

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

khó lặp lại trong tương lai. tham luận “Tiếp cận mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi”.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Vừa qua, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Chỉ thị 03/2007/CT-

NHNN để kiểm soát qui mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh

doanh. Tuy nhiên, chỉ thị này chưa phát huy tác dụng do (1) bản thân nội

dung chỉ thị chưa rõ ràng và chặt chẽ, gây nhiều tranh cãi và nhiều cách hiểu

khác nhau, và có nhiều kẽ hỡ để lách. Chẳng hạn, nhiều nhà đầu tư cho rằng

chỉ thị cần chỉ rõ khái niệm chứng khoán là bao gồm những loại cụ thể nào,

có bao gồm các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ, đô thị, địa phương,

kho bạc... là một loại chứng khoán đang được nhận cầm cố như một tài sản

giá trị và có hệ số an toàn cao hay không. Riêng việc hạn chế tỉ lệ cho vay

đầu tư chứng khoán không quá 3% cũng được các nhà đầu tư hiểu theo 2

cách: một là tỉ lệ cho vay để đầu tư chứng khoán trên tổng tín dụng không

vượt quá 3%, hai là tỉ lệ cho vay bằng cầm cố các loại chứng khoán không

quá 3% tổng cho vay để đầu tư chứng khoán. (2) Chỉ thị ra đời phần nào gây

khó khăn cho các ngân hàng thương mại do Ngân hàng Nhà nước không có

hướng dẫn từ trước mà đợi đến khi các ngân hàng thương mại đã cho vay thì

mới “chạy theo thổi còi”. Ngoài ra, nên quy định tỷ lệ cho vay đầu tư chứng

khoán trên tổng tài sản có của ngân hàng, chứ không phải tổng dư nợ và nên

khuyến khích các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động này ở tỷ

lệ cao hơn so với các loại cho vay khác. Đây là phương pháp quản lý gián

tiếp, hiện NHNN mới chỉ quy định mức độ rủi ro trong lĩnh vực kinh doanh

chứng khoán là 150% để tính tỷ lệ đủ vốn, chứ chưa phải là để trích lập dự

phòng rủi ro.

Như vậy, việc hạn chế nắm giữ các tài sản rủi ro cao, yêu cầu trích lập

dự phòng và mức dự trữ tối thiểu là rất quan trọng để ràng buộc các ngân

hàng trong các quyết định đầu tư, phân phối tín dụng có tính mạo hiểm cao.

93

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Tuy nhiên, việc tính toán các thông số, chẳng hạn như mức dự trữ tối thiểu

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ là bao nhiêu, không được cho vay đầu tư chứng khoán quá bao nhiêu phần

trăm,... cần dựa trên cơ sở khoa học, nhằm vừa đảm bảo được sự ràng buộc

vừa cho phép ngân hàng tự chủ ở một mức hợp lý. Cần có các văn bản

hướng dẫn từ trước để tránh gây khó khăn cho các ngân hàng trong các hoạt

động của mình.

b. Giám sát và kiểm tra ngân hàng

Kiểm soát những người điều hành ngân hàng và cách thức ngân hàng hoạt

động - giám sát ngân hàng (bank supervision) là một biện pháp quan trọng

để hạn chế lựa chọn ngược và rủi ro đạo đức trong ngành ngân hàng. Việc

kiểm tra tại chỗ (on-site bank examination) thường xuyên đối với các ngân

hàng để kiểm tra xem liệu ngân hàng có tuân thủ các quy định về vốn và giới

hạn nắm giữ tài sản hay không cũng giúp giảm rủi ro đạo đức. Việc đánh giá ngân hàng có thể dựa trên tiêu chí đánh giá CAMELS (CAMELS rating26)

bao gồm: Mức dự trữ vốn đầy đủ (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản

(Asset quality), Quản trị (Management), Doanh thu (Earnings), Tính thanh

khoản (Liquidity) và Mức độ nhạy cảm với Rủi ro của thị trường (Sensitivity

to market risk). Với những thông tin thu nhận được qua hệ thống đánh giá

CAMELS trên đây, các cấp có thẩm quyền có thể quyết định áp dụng các

biện pháp quản lý nào đối với ngân hàng: có thể là tạm ngừng các hoạt động

để chấn chỉnh lại hành vi của ngân hàng, hoặc thậm chí có thể đóng cửa

ngân hàng nếu tỉ lệ CAMELS quá thấp. Những biện pháp hạn chế ngân hàng

tham gia vào các hoạt động rủi ro không chỉ có tác dụng ngăn chặn rủi ro

đạo đức mà từ đó còn giúp ngăn chặn hiện tượng lựa chọn ngược trong

94

26 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets, Pearson Addison Wisley, 342, New York, USA. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

ngành ngân hàng bởi khi ngân hàng ít có cơ hội để mạo hiểm thì những

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ người ham thích mạo hiểm, muốn lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động rủi

ro cao sẽ không có ý định nhảy vào ngành ngân hàng nữa.

Việc chuẩn hóa các ngân hàng, sàng lọc các dự án mở ngân hàng mới

một cách kỹ lưỡng cũng là một biện pháp nhằm ngăn cản những người kẻ có

tư tưởng phạm tội, hay những người quá ưa liều lĩnh tham gia vào điều hành

ngân hàng nhằm mục đích lợi dụng ngân hàng vào các hoạt động đầu cơ. Để

được cấp phép thành lập ngân hàng, cá nhân và tổ chức phải trình kế hoạch

điều hành ngân hàng của mình. Các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét kế

hoạch quản trị ngân hàng này để đánh giá khả năng lành mạnh về tài chính

trong tương lai của ngân hàng, doanh thu tiềm năng, số vốn đầu tư ban

đầu…

Các ngân hàng được phép thành lập sẽ bị yêu cầu phải tiến hành báo

cáo định kỳ trong đó thể hiện tài sản và nguồn vốn của ngân hàng, thu nhập

và cổ tức, quyền sở hữu, hoạt động quản lý ngoại hối, và những chi tiết

khác. Hàng năm, các cơ quan giám sát ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra ngân

hàng để xem xét tình trạng tài chính của đơn vị. Các cơ quan quản lý có thể

tiến hành kiểm tra sổ sách bất ngờ để xem ngân hàng có tuân thủ đúng

những quy định về tỉ lệ vốn và hạn chế nắm giữ tài sản hay không. Nếu nhận

thấy ngân hàng nắm giữ quá nhiều tài sản rủi ro, cơ quan giám sát có thể yêu

cầu ngân hàng từ bỏ các tài sản đó hay có thể yêu cầu đánh giá lại các khoản

nợ và xóa đồng thời ghi nhận chi phí những khoản nợ được đánh giá là khó

đòi.

c. Đánh giá hoạt động quản trị rủi ro

Thông thường, việc giám sát tại chỗ đối với ngân hàng tập trung chủ

yếu vào việc đánh giá chất lượng bảng cân đối kế toán của ngân hàng đó vào

95

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

một thời điểm nhất định và xem xét xem liệu ngân hàng đó có tuân thủ các

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ quy định về vốn hay không. Tuy nhiên, trong nền tài chính phát triển hiện

đại như ngày nay, biện pháp đó là không đủ. Việc kiểm tra sự lành mạnh về

tài chính của ngân hàng trong một thời điểm chưa thể khẳng định được rằng

liệu ngân hàng đó sẽ tham gia vào các hoạt động rủi ro cao trong tương lai

hay không. Chính vì có khả năng tham gia vào các dự án rủi ro trong tương

lai nên một ngân hàng có thể có tình hình tài chính lành mạnh thời điểm hiện

tại có thể tuyên bố phá sản bất cứ lúc nào do các thua lỗ trong thương mại.

Vì thế, cần phải xem xét những chỉ tiêu có thể phản ánh khả năng tham gia

vào các hoạt động rủi ro của ngân hàng. Các nhà giám sát ngày nay thường

quan tâm nhiều hơn tới công tác đánh giá sự lành mạnh trong công tác quản

lý ngân hàng thông qua tiêu chí kiểm soát rủi ro. Ngày nay, các cơ quan

giám sát thường đánh giá hoạt động quản trị rủi ro của ngân hàng theo bốn

tiêu chí cơ bản: (1) chất lượng trong hoạt động giám sát của ban điều hành

và quản trị cấp cao; (2) tính đầy đủ các chính sách cũng như các giới hạn

liên quan đến các hoạt động chứa đựng rủi ro trọng yếu; (3) chất lượng của

hệ thống đánh giá và kiểm soát rủi ro; (4) có các hệ thống kiểm soát nội bộ

đầy đủ để ngăn ngừa hành vi phạm pháp hay không được cho phép của nhân viên 27. Ngân hàng nhà nước và Bộ tài chính cần có những hướng dẫn cụ thể

cho các ngân hàng trong việc quản trị rủi ro lãi suất, trong đó yêu cầu ban

điều hành ngân hàng phải xác định mức rủi ro cho phép tối đa, chỉ định nhân

sự quản trị, kiểm soát rủi ro. Đồng thời, dựa vào mức độ tham gia rủi ro của

các ngân hàng, các cơ quan quản lý có thể tính toán ra mức dự trữ bắt buộc

phù hợp để yêu cầu các ngân hàng thực hiện.

96

27 Frederic S. Mishkin (2004), The Economics of Money, Banking and Financial markets, Pearson Addison Wisley, 348 - 349, New York, USA. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

d. Yêu cầu về công bố thông tin

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

Do tình trạng những người sử dụng thông tin ăn theo một cách miễn

phí (free-rider problem) nên các cá nhân hay tổ chức gửi tiền sẽ không có

động cơ để tự sản xuất thông tin riêng biệt về chất lượng tài sản của ngân

hàng. Để đảm bảo rằng những người gửi tiền nói riêng và thị trường nói

chung nắm được nhiều thông tin hơn, các nhà quản lý có thể yêu cầu các

ngân hàng tuân thủ những nguyên tắc kế toán chuẩn mực, công bố nhiều

thông tin giúp cho thị trường có thể đánh giá chất lượng các tài sản trong

danh mục đầu tư của ngân hàng, và công bố mức độ rủi ro mà ngân hàng

đang tham gia. Càng nhiều thông tin được cung cấp cho công chúng thì các

cổ đông, người đi vay, người gửi tiền càng dễ dàng đánh giá và giám sát

ngân hàng, ngăn chặn các hành vi rủi ro của ngân hàng. Những ước tính về

rủi ro tài chính do hệ thống quản trị rủi ro nội bộ của bản thân các hãng có thể được sử dụng vào mục đích công bố cho công chúng28. Như vậy, bên

cạnh việc công bố Bảng cân đối kế toán và Báo cáo doanh thu thu nhập mà

các ngân hàng sẽ phải cung cấp thêm thông tin về mức độ rủi ro tham gia và

tình hình quản lý rủi ro.

2. Trên thị trƣờng chứng khoán

2.1. Tăng cường hoạt động giám sát Nhà nước đối với thị trường

chứng khoán

TTCK phát triển bùng nổ trong thời gian qua khiến các cơ chế giám

sát của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cụ thể là ủy ban chứng khoán

Nhà nước chưa theo kịp. Sự phát triển bùng phát của TTCK từ cuối năm

2006 đến nay dường như vượt quá năng lực quản lý của UBCKNN. Thực tế

97

28 Eurocurrency Standing Committee of Central Banks of Group of Ten countries (Fisher Group), 9/1994, “Discussion Paper on Public Disclosure of Markets and Credit risks by Financial Intermediaries”. ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

là cơ quan này (bao gồm Thanh tra UBCKNN) còn quá non trẻ, chưa thể có

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ đủ các điều kiện cần thiết để quản lý và giám sát có hiệu quả trước hết là

TTCK có tổ chức. Ngoài ra, thị trường OTC cũng đang hoạt động tự phát,

chưa được quản lý và bảo vệ, không có cơ chế hoạt động hiệu quả, công

bằng và trật tự, cũng không có được sự minh bạch như ở Sở/ Trung tâm

Giao dịch chứng khoán. Các quy định về TTCK không được áp dụng bên

ngoài Sở/Trung tâm Giao dịch chứng khoán có tổ chức. Do vậy, UBCKNN

chưa có khả năng quản lý TTCK không chính thức. Thiếu một hệ thống báo

cáo và công bố thông tin giao dịch minh bạch, vấn đề giá cả trở nên không

rõ ràng. Năng lực tài chính, chuyên môn và năng lực hoạt động của các nhà

môi giới không được kiểm chứng cũng không được giám sát, và thông tin về

tổ chức phát hành không được xác minh...

Trước tình hình như vậy, Chính phủ mới đây đã yêu cầu BTC và

UBCKNN phải tăng cường quản lý, theo dõi, thanh tra, kiểm tra để bảo đảm

cho thị trường phát triển theo đúng định hướng đã đặt ra, phát huy những

mặt tích cực, sử dụng các biện pháp phù hợp, hữu hiệu, hạn chế tối đa những

mặt tiêu cực đối với thị trường, tuyệt đối không để xảy ra những biến động

đột biến vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Trong quá trình quản lý TTCK, cần

đặc biệt lưu ý: (i) Phải kiểm soát bằng được luồng vốn đầu tư vào TTCK

(thông qua các biện pháp: Đăng ký, lưu ký tập trung, đầu tư ủy thác qua

công ty quản lý quỹ, kiểm soát ngoại hối, thuế thu nhập...); (ii) Tăng cường

tính công khai, minh bạch trên TTCK, ngăn chặn có hiệu quả các hiện tượng

lừa đảo, đầu cơ và các biểu hiện tiêu cực trong việc phát hành cổ phiếu của

các doanh nghiệp; (iii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát,

giám sát các hoạt động của các Công ty chứng khoán, Công ty quản lý quỹ,

Công ty niêm yết và các quỹ đầu tư chứng khoán để đảm bảo các hoạt động

98

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

này đúng pháp luật, công khai, minh bạch.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

2.2. Tăng cường các quy định pháp lý về công bố thông tin

TTCK là một thị trường hết sức nhạy cảm với thông tin. Một thông tin

được công bố không chính xác, không trung thực hoặc không kịp thời có thể

dẫn đến những quyết định đầu tư sai lầm của nhà đầu tư. Vấn đề thông tin

bất cân xứng không chỉ ảnh hưởng tới từng cá nhân riêng lẻ mà có thể ảnh

hưởng đến cả TTCK và nền kinh tế. Theo Ayumi Konishi, Trưởng đại diện

thường trú của Ngân hàng Phát triển châu á (ADB) tại Hà Nội, phát biểu

trong hội nghị các nhà đầu tư nước ngoài do VinaCapital tổ chức vào tháng

10/2007 ở Tp.HCM: “TTCK Việt Nam đang cần một nhạc trưởng giữ nhịp

điệu và luật chơi. Chính nhạc trưởng sẽ đẩy nhanh hơn nữa quá trình minh bạch hóa, đặc biệt minh bạch hóa thông tin vốn đang rất thiếu”

Nhạc trưởng của thị trường hiện nay, không ai khác, chính là Nhà

nước. Chính vì vậy, một giải pháp quan trọng hàng đầu để hạn chế tình trạng

thông tin bất cân xứng chính là tăng cường minh bạch hóa thông tin trên

toàn bộ thị trường thông qua sự can thiệp của Nhà nước dưới các hình thức

pháp lý.

Vừa qua, ngày 18/04/2007, bộ Tài chính đã ban hành thông tư số

38/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK. Theo đó,

Thông tư quy định đối tượng được phép công bố thông tin là những công ty

đại chúng, tổ chức phát hành thực hiện chào bán trái phiếu ra công chúng, tổ

chức niêm yết, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư

chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Giao dịch Chứng

khoán, và các cá nhân liên quan.

Bộ Tài chính cũng quy định việc công bố thông tin phải đầy đủ, chính

xác, kịp thời theo qui định của pháp luật. Thông tin phải do Giám đốc hoặc

99

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

Tổng Giám đốc hoặc người được uỷ quyền công bố thông tin thực hiện và

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố cũng như phải báo cáo

Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Sàn giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao

dịch chứng khoán về nội dung thông tin công bố ngay cùng thời điểm công

bố thông tin. Bất kỳ người nào công bố thông tin làm ảnh hưởng đến giá

chứng khoán thì người được uỷ quyền công bố thông tin phải xác nhận hoặc

đính chính thông tin đó trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thông tin trên được

công bố. Việc thực hiện công bố thông tin được thực hiện qua báo cáo

thường niên, trang thông tin điện tử và các ấn phẩm khác của tổ chức thuộc

đối tượng công bố thông tin.

Trong thời hạn mười 10 ngày, kể từ ngày có báo cáo tài chính năm

được kiểm toán, công ty đại chúng phải công bố thông tin định kỳ về báo

cáo tài chính năm. Ngày hoàn thành báo cáo tài chính năm được tính từ ngày

tổ chức kiểm toán được chấp thuận ký báo cáo kiểm toán với thời hạn hoàn

thành báo cáo tài chính năm chậm nhất là chín mươi (90) ngày, kể từ ngày

kết thúc năm tài chính. Báo cáo tài chính năm, Báo cáo Thường niên của công

ty đại chúng phải lưu trữ ít nhất 10 năm tại trụ sở chính của tổ chức để nhà đầu tư

tham khảo. Trong trường hợp Tài khoản của công ty tại ngân hàng bị phong toả

hoặc tài khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong toả; Bị thu hồi Giấy

chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép thành lập, giấy phép hoạt

động… thì công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời hạn

hai mươi bốn 24 giờ, kể từ khi xảy ra các sự kiện trên và phải công bố trong thời

hạn 72 giờ nếu công ty vay hoặc phát hành trái phiếu có giá trị từ 30% vốn thực

có trở lên hoặc Công ty nhận được thông báo của Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản doanh nghiệp…

Thông tư trên ra đời vào thời điểm TTCK đang rất cần một sự can

100

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thiệp từ phía Nhà nước để chấm dứt tình trạng thông tin bất cân xứng. Thông

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ tư đã quy định khá rõ về nghĩa vụ công bố thông tin trên TTCK, hạn chế

đáng kể tình trạng bưng bít thông tin, tăng trách nhiệm về thông tin công bố

của doanh nghiệp và những người được ủy quyền công bố thông tin, và trở

thành văn bản hướng dẫn rất kịp thời, hữu ích đối với các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, bên cạnh việc cụ thể hóa các văn bản pháp lý, việc nâng

cao kỷ luật thi hành cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Hiện nay, chế

tài cho lỗi vi phạm về công bố thông tin còn khá nhẹ, chỉ mang tính giơ cao

đánh khẽ, chưa đủ sức răn đe, khiến tình trạng vi phạm vẫn xảy ra thường

xuyên. Do đó Nhà nước, bên cạnh việc ban hành các văn bản hướng dẫn cần

có những chế tài, biện pháp cưỡng chế thi hành cứng rắn nhằm nâng cao hơn

nữa hiệu lực và hiệu quả của hoạt động quản lý Nhà nước, bảo vệ quyền lợi

nhà đầu tư, nâng cao tính minh bạch và lành mạnh của thị trường.

2.3. Nâng cao hiệu quả của các công ty định mức tín nhiệm (Credit

Rating Agency)

Credit rating – tức là định mức tín nhiệm hay hệ số tín nhiệm - là hệ

số đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối

với các khoản tiền nghĩa vụ - gốc và lãi - của các các công cụ nợ mà nó phát

hành. Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn như như hối phiếu, tín

phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ

chức phát hành có thể là chính phủ cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay

các công ty.

Định mức tín nhiệm xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu

đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914

thì công ty Moody’s - tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới

được ông John Moody thành lập dựa vào một công ty được ông thành lập

101

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trước đó vào năm 1909. Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ lập trên sự sát nhập của Poor’s Publishing va Standard Statistics. Hiện tại

trên thế giới có một số tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm được quốc tế công

nhận, cũng như một số tổ chức được quốc gia của họ công nhận. Tuy vậy 3

tổ chức Moody’s, Standard and Poor’s và Pitch Ratings là 3 tổ chức được

công nhận, có uy tín và thị phần cao nhất trên thế giới.

Các hệ thống hạn mức tín nhiệm thường được xếp hạng theo thông lệ

quốc tế , thông thường bao gồm 10 loại định mức tín nhiệm từ AAA, AA, A

cho đến C và D. Trong đó AAA là định mức tín nhiệm cao nhất trong hệ

thống định mức tín nhiệm. Các doanh nghiệp được xếp hạng AAA có khả

năng hoàn trả cao nhất các nghĩa vụ tài chính của mình. Cho đến các doanh

nghiệp hạng C, có nguy cơ không trả được nợ rất cao và D chỉ sử dụng khi

doanh nghiệp đã thực sự phá sản.

Một hệ thống định mức tín nhiệm doanh nghiệp nhất thiết phải đảm

bảo được tính khách quan, độc lập, khoa học và công khai. Về phương pháp

xếp hạng nói chung được xây dựng trên cơ sở các phân tích định tính, và

định lượng, với sự tham gia thẩm định của các nhà khoa học và các chuyên

gia trong từng lĩnh vực. Hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên

cơ sở cho điểm các thông tin được đánh giá định tính và định lượng. Việc

xếp hạng không chỉ giới hạn ở việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính mà còn

bao gồm cả việc đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính như việc xem xét môi

trường hoạt động của doanh nghiệp, những dự báo chủ quan về vị thế cạnh

tranh của doanh nghiệp, hoạt động của ban giám độc, chiến lược của doanh

nghiệp và các tác động bên ngoài.

Các phân tính định tính thường bao gồm các chỉ tiêu rủi ro ngành, môi

trường cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp, chất lượng quản lý, đa dạng và

102

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

cơ cấu sở hữu, khả năng huy động vốn, chất lượng thông tin tài chính. Các

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ phân tích định lượng tập trung vào chính sách của công ty về chiến lược

kinh doanh, các mục tiêu tài chính. Các chỉ tiêu định lượng sẽ được so sánh

để phân tích xu hướng và và so sánh với đối thủ cạnh tranh và mức bình

quân ngành. Các chỉ tiêu tài chính sẽ được tổng hợp để đạt tới một cái nhìn

tổng quan về khả năng tài chính lành mạnh.

Trên thế giới, các công ty đánh giá tín nhiệm có quyền lực rất mạnh

trong việc quyết định giá cả, điều khoản và điều kiện tiếp cận TTCK (các

nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu với tỷ lệ lãi suất phụ thuộc vào chỉ số

đánh giá tín nhiệm cao hay thấp).

Cũng giống như Trung tâm thông tin tín dụng độc lập trong thị trường

tín dụng ngân hàng, việc thành lập các công ty định mức tín nhiệm được coi

là một trong những biện pháp hữu hiệu giảm thiểu tình trạng thông tin bất

cân xứng khi các nhà đầu tư không có đủ thông tin về các dự án đầu tư và

các công ty phát hành chứng khoán. Thủ tướng Chính phủ khi phê duyệt

Chiến lược phát triển TTCK đến năm 2010, đã đưa ra chủ trương thành lập

các tổ chức định mức tín nhiệm, chậm nhất vào năm 2005. Các tổ chức quốc

tế như World Bank, Asian Development Bank cũng đề nghị ngân hàng nhà

nước Việt nam nhanh chóng thành lập các tổ chức này. Hiện nay, một số

công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đã được hình thành và đi vào hoạt

động, bao gồm Credit Information Center (CIC) kiêm thêm hoạt động đánh

giá tín nhiệm, Vietnamnet Solution (VASC), và Credit Rating Vietnam

(CRV).

Tổ chức đánh giá tín nhiệm ra đời là cầu nối thông tin giữa các doanh

nghiệp, các nhà đầu tư không chỉ trên TTCK mà còn trong việc lựa chọn đối

tác. Ngoài ra, với kết quả xếp hạng một cách khách quan, doanh nghiệp sẽ

103

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

có thêm thông tin để tự điều chỉnh chiến lược kinh doanh, cải tiến quy trình

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ quản lý. Các công ty xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đã và đang có những

nỗ lực làm thị trường minh bạch hơn nhằm giúp thị trường hoạt động hiệu

quả, bảo vệ nhà đầu tư nhỏ trước sự lạm dụng quyền lực của các đại gia và

các tổ chức lớn. Đối với các công ty, tổ chức: kết quả xếp hạng hệ số tín

nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu,

nhất là khi phát hành trái phiếu ra nước ngoài, cũng như việc xác định lãi

suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi trái phiếu càng thấp và ngược

lại). Thiếu sự xác định hệ số tín nhiệm, thị trường trái phiếu dài hạn của các

công ty chưa thể phát triển được. Đối với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư

tổ chức, chuyên nghiệp, ngoài việc căn cứ vào hệ số tín nhiệm để quyết định

mua trái phiếu, họ còn dùng hệ số tín nhiệm của trái phiếu của công ty đó để

làm căn cứ để quyết định có đưa cổ phiếu của công ty đó vào danh mục đầu

tư của mình hay không. Theo đó, cổ phiếu của những công ty có trái phiếu

được xếp hạng hệ số tín nhiệm thấp (từ BB hay Ba trở xuống) thường không

được lựa chọn.

Tuy nhiên, ba tổ chức đánh giá tín nhiệm của Việt Nam vẫn chưa

được quốc tế công nhận và vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ

chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Việc mời các tổ chức đánh giá của thế giới

xếp hạng hệ số tín nhiệm của trái phiếu cũng chưa phổ biến. Cho đến hiện

tại, chỉ mới có chính phủ và hai công ty BIDV và Techcombank thực hiện.

Đây là một lĩnh vực hoạt động khá mới mẻ, do đó Nhà nước cần quan tâm

tạo một hành lang pháp lý thuận lợi cho các tổ chức này. Bộ Tài chính đang

soạn thảo khung pháp lý để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ này phát triển

phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bên cạnh đó, bản thân các tổ chức cũng cần đầu tư nâng cao chất

104

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

lượng cho nguồn nhân lực, tận dụng lợi thế của người đi sau để nghiên cứu

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ và học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước có những điều kiện kinh tế

tương tự. Những quốc gia mà chúng ta có thể tham khảo là Thái Lan, Trung

Quốc, Singapore. Đây là những quốc gia có nhiều điều kiện kinh tế xã hội

tương tự, cũng đã từng phải mày mò xây dựng các tổ chức đánh giá tín dụng,

cũng đã gặp những thất bại và cuối cùng đã thành công. Tuy nhiên, việc

tham khảo cần chú ý tới những đặc điểm khác biệt, riêng có của thị trường

tài chính Việt Nam để tránh tình trạng áp dụng máy móc, không phù hợp thị

105

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

trường.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

2.4. Hỗ trợ hoạt động kiểm toán

Một trong những yêu cầu không thể thiếu với các doanh nghiệp niêm

yết trên TTCK là báo cáo tài chính được kiểm toán. Một báo cáo tài chính

được kiểm toán độc lập sẽ là cơ sở tin cậy cho các nhà đầu tư đưa ra các

quyết định đầu tư đúng đắn, giúp nâng cao tính minh bạch của thị trường.

Tuy nhiên, hiện nay còn thiếu hụt nguồn lực kiểm toán trong lĩnh vực chứng

khoán.

Theo ủy ban Chứng khoán Nhà nước, từ 1/1/2007 sẽ có 12 tổ chức

kiểm toán độc lập được ủy ban này cho phép kiểm toán trong lĩnh vực chứng

khoán. Các tổ chức này là Công ty Kiểm toán và Kế toán AAC; Công ty

Kiểm toán DTL; Công ty Kiểm toán và Tư vấn tài chính kế toán (AFC);

Công ty Dịch vụ tư vấn Tài chính kế toán và Kiểm toán (AASC); Công ty

Price Water House Cooper (Vietnam); Công ty TNHH KPMG; Công ty

Kiểm toán BHP; Công ty Kiểm toán và Tư vấn (A&C); Công ty Kiểm toán

Việt Nam (VACO); Công ty Kiểm toán và Định giá Việt Nam (VAE); Công

ty TNHH Ernst & Young Việt Nam; Công ty Kiểm toán và Dịch vụ tin học

(AISC). Các tổ chức kiểm toán này được tham gia kiểm toán cho các tổ

chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán. Để

được tham gia kiểm toán trên TTCK, các doanh nghiệp kiểm toán độc lập

phải được ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận theo các tiêu chuẩn của

Bộ Tài chính.

Tuy nhiên, cuối tháng 3 vừa qua, Công ty TNHH Dịch vụ kiểm toán

và Tư vấn kế toán BHP đã bị mất quyền được kiểm toán cho các tổ chức

phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán, do không

đủ số lượng kiểm toán viên theo yêu cầu. 11 doanh nghiệp kiểm toán còn lại

106

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

được chấp thuận của ủy ban Chứng khoán Nhà nước được kiểm toán các

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ doanh nghiệp hoạt động trên TTCK cũng đang lâm vào tình trạng khó khăn

về nhân lực. Thiếu người dẫn đến thiếu cả công ty kiểm toán cho ngành

chứng khoán.

Sự bùng nổ của TTCK Việt Nam trong năm 2006 với làn sóng lên sàn

của các công ty cổ phần và thành lập mới công ty chứng khoán đã khiến cho

sự thiếu hụt về công ty kiểm toán được chấp thuận kiểm toán các tổ chức

trên TTCK càng trở nên trầm trọng hơn. 12 công ty kiểm toán nay chỉ còn

11, sẽ chia nhau kiểm toán cho 195 doanh nghiệp niêm yết và 55 công ty chứng khoán đang hoạt động29. Sự lựa chọn vốn đã ít nay càng ít hơn.

Để giải quyết tình trạng thiếu công ty kiểm toán cho lĩnh vực chứng

khoán, mới đây ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có thông báo tới các công

ty kiểm toán nếu đáp ứng đủ các điều kiện kiểm toán theo quy định có thể

nộp hồ sơ về ủy ban và được xem xét chấp thuận ngay, thay vì trước đây cơ

quan này chỉ xem xét chấp thuận hai năm một lần (Theo quy định hiện hành,

một công ty kiểm toán thành lập được 3 năm có 10 kiểm toán viên sẽ đủ

điều kiện xin ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp phép cho kiểm toán các

công ty niêm yết).

Ủy ban chứng khoán và chính phủ cần xem xét để tăng cường nguồn

lực kiểm toán cho lĩnh vực chứng khoán đồng thời nâng cao chất lượng nhân

lực kiểm toán. Nhà nước cũng cần ban hành các văn bản pháp luật như Nghị

định về kiểm toán độc lập tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho kiểm toán.

Bên cạnh đó, như đã nói ở phần giải pháp cho thị trường tín dụng,

107

29 Số liệu đến ngày 09/04/2007, http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1048 ------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

việc đưa hoạt động kế toán và kiểm toán gần hơn với các chuẩn mực thế giới

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------ cũng là một biện pháp cần thiết để nâng cao tính minh bạch, giảm tình trạng

108

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

thông tin bất cân xứng trên TTCK.

Thông tin bất cân xứng trên thị trường tài chính Việt Nam - Thực trạng và giải pháp ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ ------

KẾT LUẬN

Với những lý luận chung về thị trường tài chính và cơ sở lý luận Lý

thuyết thông tin bất cân xứng, những phân tích cụ thể các biểu hiện cụ thể

trong thực tiễn tại thị trường tài chính, khóa luận đã mang lại một cái nhìn

tổng quát về vấn đề bất cân xứng thông tin trên thị trường tài chính Việt

Nam, và đóng góp một số phương hướng giải pháp để khắc phục tình trạng

trên. Thực tế gần đây có không ít những nghiên cứu về thị trường tài chính

của nhiều nhà kinh tế và các học giả, xoay quanh rất nhiều khía cạnh khác

nhau như: Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO và những cam kết

trong lĩnh vực tài chính, toàn cầu hóa tài chính và các vấn đề chính sách,...

Đóng góp nhỏ bé của khóa luận đối với những nghiên cứu về thị trường tài

chính là ở cách tiếp cận các vấn đề trên thị trường tài chính trên cơ sở lý

thuyết thông tin bất cân xứng.

Tuy nhiên, trong phạm vi của một khóa luận tốt nghiệp, cùng với

những hạn chế nhất định về kiến thức và phương pháp nghiên cứu, người

viết chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu những biểu hiện chung nhất và tiêu

biểu nhất của thông tin bất cân xứng trên toàn bộ thị trường tài chính. Người

viết hy vọng sẽ có thêm nhiều nghiên cứu sâu và cụ thể hơn về từng thị

trường. Ngoài ra cũng có rất nhiều cách tiếp cận mới mà người viết xin được

đề xuất để nghiên cứu về thị trường tài chính như Vấn đề trái chanh

(Lemons problem), Lý thuyết thị trường hiệu quả (Efficient Market

hypothesis) và Lý thuyết thông tin hiệu quả (Efficient Information

109

------------------------------------------------------------------------------------------------------- ----Nguyễn Thị Phương Nhật - Anh 14 K42D - Kinh tế và kinh doanh quốc tế

hypothesis).