ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------------
TẠ THỊ HIỂN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở
VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH-2013-L
Hà Nội, 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------------
TẠ THỊ HIỂN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở
VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa: QH-2013-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Lan Hương
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận “Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông
trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các thông tin và số liệu mà tôi sử dụng trong khóa luận là trung
thực. Các luận điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả
tổng hợp của chính bản thân tôi.
Tôi đã hoàn thành các môn học và các nghĩa vụ khác theo quy định của
Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017
Tạ Thị Hiển
Người cam đoan
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng
dẫn TS. Nguyễn Thị Lan Hương, người đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn và chỉ
bảo tôi thực hiện khóa luận này. Tôi xin được trân trọng cảm ơn Khoa Luật –
ĐHQGHN đã tạo điều kiện để tôi được thực hiện đề tài của mình: “Pháp luật về
bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam”
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,
song không tránh khỏi những thiếu sót về cả kinh nghiệm và kiến thức trong
suốt quá trình nghiên cứu. Tác giả hi vọng rằng sẽ nhận được sự góp ý quý báu
từ quý thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM 7
1.1. Khái niệm NHTMCP, phân loại và đặc thù của NHTMCP ..................... 7
1.2. Khái niệm cổ đông và cổ đông trong NHTMCP .................................... 12
1.3. Khái niệm quyền của cổ đông và phân loại............................................ 14
1.4. Các cơ chế bảo đảm quyền của cổ đông .................................................. 16
1.4.1. Cơ chế tự bảo vệ ................................................................................ 17
1.4.2. Thiết chế nội bộ ................................................................................. 18
1.4.3. Các thiết chế bảo vệ bên ngoài ......................................................... 22
1.4.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của NHTMCP. ............................................................................................. 23
1.4.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh về quyền của cổ đông trong NHTMCP. ................................................................................................... 25
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .......................... 29
2.1. Thực hiện nhóm quyền về tài sản ........................................................... 29
2.1.1. Quyền được nhận cổ tức ............................................................... 29
2.1.2. Quyền được ưu tiên mua cổ phần ................................................. 31
2.1.3. Quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần .................................. 33
2.1.4. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần ....................................... 34
1
2.1.5. Quyền nhận tài sản còn lại khi công ty phá sản, giải thể .............. 35
2.2. Thực hiện một số quyền chung .............................................................. 37
2.2.1. Quyền tham gia và biểu quyết quyết tại ĐHĐCĐ ........................ 37
2.2.2. Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ ................................................. 40
2.2.3. Quyền tiếp cận thông tin ............................................................... 42
2.2.4. Quyền giám sát của cổ đông ......................................................... 45
2.2.5. Quyền khởi kiện ............................................................................ 48
2.3. Những bất cập phát sinh trong hoạt động quản trị và tái cơ cấu NHTMCP. ....................................................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 62
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ........................... 63
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông. ......................... 63
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông. .............. 65
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông ............................... 65
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ .......... 69
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của BKS ................ 71
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của HĐQT và người quản lý ..................................................................................................................... 72
3.2.5. Hoàn thiện các quy định về kiểm toán độc lập ................................ 74
3.2.6. Kiến nghị phương thức tái cơ cấu để bảo vệ cổ đông ....................... 75
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 78
1. Văn bản pháp luật ................................................................................... 78
2. Tài liệu tiếng Việt: .................................................................................. 78
3. Tài liệu tiếng nước ngoài. ....................................................................... 81
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS Ban kiểm soát
ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông
GĐ/ TGĐ Giám đốc/ Tổng giám đốc
HĐQT Hội đồng quản trị
LDN Luật doanh nghiệp
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD Tổ chức tín dụng
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự giao thoa giữa các
nền kinh tế mới, chủ thể kinh doanh mới đòi hỏi rất nhiều yếu tố tạo động lực
cho sự ổn định và phát triển bền vững. Bảo vệ nhà đầu tư được coi là một trong
những yếu tố động lực để ổn định thị trường chứng khoán cũng như kích thích
đầu tư trong và ngoài nước. Trong báo cáo thường niên về Môi trường kinh
doanh của Việt Nam và thế giới năm 2016, WB và IFC đã tiến hành đánh giá tại
các nền kinh tế. Theo đó mức độ bảo vệ nhà đầu tư ở nước ta được xếp ở vị trí
thứ 87 trong 189 quốc gia và nền kinh tế1. Như vậy chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của
nước ta đã có những khởi khắc tích cực tuy nhiên so với các nước trong khu vực
Việt Nam vẫn còn đi sau về mức độ bảo vệ nhà đầu tư như Singapore ở vị trí thứ
1, Malaysia ở vị trí thứ 3, Thái Lan ở vị trí 27…
Để đánh giá mức độ bảo vệ nhà đầu tư của luật pháp trong một nước, báo
cáo Môi trường kinh doanh của WB và IFC đã xây dựng các tiêu chí về mức độ
bảo vệ nhà đầu tư dựa trên các tình huống tiêu chuẩn với các giả định cụ thể.
Theo đó, mức độ bảo vệ nhà đầu tư thể hiện trên ba tiêu chí sau: (i) Mức độ công
bố thông tin; (ii) Trách nhiệm của ban giám đốc; (iv) Mức độ dễ dàng để cổ
đông có thể kiện ra toàn án. Theo những tiêu chí nói chung này, xét trên mọi
bình diện, chính sách và cơ chế thực thi pháp luật nước ta chưa đáp ứng được với
tiêu chuẩn chung của thế giới.
Trong khi công cụ pháp luật giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ
quyền lợi của cổ đông2 thì thực trạng pháp luật nước ta về bảo vệ cổ đông ngân
1 Doing Business – The Word Bank, Protecting Minority Investors, June 2016. 2 The Gang of Four (2000), 58 Journal of Financial, Investor Protection and Corporate Governance.
4
hàng thương mại cổ phần còn tồn tại những bất cập. Những năm gần đây hoạt
động của các ngân hàng ngày càng đi xuống, tình trạng nợ xấu kéo dài, vốn lưu
động không có, cung không đáp ứng được cầu, đồng thời chính sách tiền tệ cũng
không thu hút được người gửi vốn dẫn tới tình trạng mất khả năng về mặt tài
chính, nhiều ngân hàng buộc phải mua lại với giá 0 đồng theo chính sách cân
bằng ổn định thị trường tài chính của ngân hàng trung ương; các chính sách tái
cơ cấu ngân hàng cũng không đảm bảo được quyền lợi chung cho cả nhà đầu tư
và khách hàng. Điển hình của bất cập này phải kể đến việc NHNN mua lại ba 3
NHTMCP trong năm 2015 với giá 0 đồng. Bên cạnh đó trong lộ trình tái cơ cấu
hệ thống ngân hàng theo quan điểm và chính sách của Nhà nước, nhiều phương
án tái cơ cấu không thỏa đáng, hoặc là không tạo cơ cơ hội khả thi cho các ngân
hàng hoạt động tốt, ảnh hưởng tới quyền lợi của cổ đông. Đơn cử như lộ trình
sáp nhập giữa Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội đầu tiên Habubank (HBB) với
Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Hà Nội (SHB) năm 2012 mặc dù về lý thuyết quyền
lợi của các cổ đông hai bên ngân hàng vẫn được đảm bảo nhưng thực tế quyền
lợi đó chỉ mang tính hình thức. Chính những điều này dẫn tới một điểm bất cập
chung đó là quyền lợi của cổ đông không được đảm bảo, cổ đông sẽ phải đối mặt
với nhiều bất lợi, thậm chí là rủi ro mất trắng.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo vệ cổ đông và những thực tiễn
bất cập đang đặt ra, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ quyền của
cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp chương trình đào tạo cử nhân luật học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Như đã trình bày ở trên, yêu cầu bảo vệ cổ đông trong NHTMCP đang là
một vấn đề cấp thiết trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Trong khuôn
khổ giới hạn của khóa luận tốt nghiệp, tác giả hi vọng có thể đưa ra một số quan
5
điểm đóng góp vào việc hoàn thiện, làm phong phú hơn nội dung nghiên cứu về
quyền của cổ đông trong NHTMCP hiện nay.
Trong phạm vi đề tài, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu đồng thời
cũng là phạm vi nghiên cứu của đề tài này như sau:
(1) Nghiên cứu khái quát chung về NHTMCP, quyền của cổ đông trong
NHTMCP, các đặc thù và mối quan hệ giữa quyền lợi của cổ đông
với các hoạt động đặc thù của ngân hàng thương mại như việc thực
hiện chính sách tiền tệ…
(2) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo
vệ quyền về của cổ đông trong NHTMCP.
(3) Một số đề xuất kiến nghị.
3. Đối tượng nghiên cứu
“Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ
phần ở Việt Nam” và thực trạng vấn đề bảo vệ quyền của cổ đông trong
NHTMCP ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu : phân tích, so sánh và tổng hợp.
5. Bố cục đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung cơ bản về quyền của cổ đông và
pháp luật điều chỉnh về bảo vệ quyền của cổ đông trong NHTMCP ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông và thực tiễn
áp dụng trong NHTMCP theo pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông.
6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ
ĐÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ
ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm NHTMCP, phân loại và đặc thù của NHTMCP
Khái niệm NHTMCP
Là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế, NHTM trước tiên là một
loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính với hoạt động là kinh doanh,
cung ứng thường xuyên một hoặc một số dịch vụ: nhận tiền gửi, cho vay, cung
ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hoạt động khác có liên quan, thực
chất là sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới hình thức là
cung cấp dịch vụ tài chính với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới có
rất nhiều các định nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là một loại hình tổ
chức tín dụng cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, đồng thời NHTM sẽ là tổ chức
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh
nào trong nền kinh tế. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa NHTM là
những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình
thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ đang cho chính họ vào nghiệp
vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.3
Ở Việt Nam, tại khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD 2010 quy định “Ngân hàng
thương mại là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Theo đó
thì NHTM sẽ thực hiện kinh doanh, cung ứng thường xuyên một số dịch vụ như:
3 Lê Văn tề, Nguyễn Thị Xuân Liễu, Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Thống Kê, Hà Nội, năm 2013.
7
thu nhận tiền gửi của công chúng và có hoàn trả; cấp tín dụng cho các chủ thể
khác vay dưới nhiều hình thức khác nhau; làm trung gian thanh toán và quản lý
các phương tiện thanh toán; và các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ khác có liên
quan4. Cùng là TCTD được thành lập theo Luật TCTD của Ngân hàng Nhà Nước
Việt Nam và hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ, tuy nhiên NHTM có sự khác
biệt rõ rệt với TCTD phi ngân hàng. TCTD phi ngân hàng chỉ là loại hình tổ
chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy
định của Luật TCTD, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng
các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng5. Như vậy hoạt động của
NHTM sẽ rộng hơn, không chỉ bao gồm các hoạt động ngân hàng nói chung mà
còn được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận.
Trong hệ thống NHTM thì NHTMCP được xem là loại hình tổ chức tín dụng
mang nhiều ưu điểm trong nền kinh tế thị trường. Loại hình ngân hàng này có
những đặc trưng của công ty cổ phần đó là cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt; cơ
chế quản lý tập trung cao với sự tách bạch rõ ràng giữa quyền sở hữu và bộ máy
quản trị trong hoạt động.
Tóm lại NHTMCP là loại hình TCTD được tổ chức dưới hình thức công ty cổ
phần; được thực hiện tất cả các hoạt động nghiệp vụ tài chính như nhận tiền gửi,
cho vay, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động nghiệp vụ có liên quan.
Tên gọi NHTMCP có thể phân biệt với các ngân hàng thương mại nhà nước và
ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại nước
ngoài tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của NHTMCP được điều chỉnh bởi
Luật DN, Luật TCTD, Nghị định 59/2009- NĐ/CP và các văn bản pháp luật liên
quan.
Phân loại NHTMCP
4 Lê Thị Thu Thủy, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Khoa luật – ĐHQGHN, năm 2013. 5 Khoản 4 điều 4 Luật các TCTD 2010.
8
NHTMCP ở Việt Nam có thể được chia theo hình thức sở hữu như sau:
Thứ nhất: Loại hình NHTMCP có sự tham gia của cổ đông nhà nước. Vài
năm trước, ở Việt Nam có một số ngân hàng thương mại nhà nước qui mô lớn
trong đó Nhà nước sở hữu 100 %... Trong xu thế kinh tế hội nhập hiện nay, để
thu hút và thúc đẩy hoạt động ngân hàng vững mạnh, các ngân hàng thương mại
nhà nước đã chuyển đổi thành NHTMCP trong đó Nhà nước năm trên 50% tổng
số cổ phần phát hành. Chẳng hạn Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước:
Vietcombank, Vietinbank, Agribank, BIDV…
Thứ hai: Loại hình NHTMCP tư nhân. Là ngân hàng thương mại được thành
lập dưới sự góp vốn của hai hay nhiều cá nhân hoặc công ty theo cổ phần. Trong
đó mỗi cá nhân hay công ty chỉ được sở hữu một số cổ phần hạn định theo quy
định của ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Một số ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay là: Ngân hàng thương mại cổ
phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội (MB), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội (SHB), Ngân
hàng thương mại cổ phần Tiên Phong (TP Bank), Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu (ACB), Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà thành phố
Hồ Chí Minh ( HDBank), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín
(Sacombank), Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.
Thứ ba: Loại hình NHTMCP có vốn góp của bên nước ngoài (thuộc loại hình
tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài). Đây là loại hình NHTMCP có thành
phần cổ đông góp vốn là cổ đông Việt Nam và các cổ đông (cá nhân, doanh
nghiệp) nước ngoài.
Hầu hết các NHTMCP tư nhân hiện nay đều có vốn góp của cổ đông nước
ngoài. Chẳng hạn: Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) hiện có 4 cổ đông lớn đều
là cổ đông nước ngoài như: Standard Chartered APR Limited (9.65%),
9
Connaught Investors Limited (7.99%), Dragon Financial Holdings Limited
(6.81%), Standard Chartered Bank (Hong Kong) Limited (6.23%), hay Ngân
hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) với tổng phần trăm sở hữu nước ngoài
chiếm 20.07 %, trong đó cổ đông lớn là doanh nghiệp nước ngoài Mizuho Bank,
Ltd (11.11%). Ngoài ra còn rất nhiều các NHTMCP có vốn sở hữu của nước
ngoài, chủ yếu là các doanh nghiệp, ngân hàng nước ngoài đầu tư.
Đặc thù của NHTMCP
NHTMCP không chỉ mang những đặc trưng của công ty cổ phần thông
thường mà còn có những nét đặc trưng riêng của một tổ chức tín dụng. Dưới đây
là một số đặc thù của NHTMCP:
Thứ nhất: NHTMCP phải có vốn pháp định. Khác với doanh nghiệp thông
thường điều kiện để đi vào hoạt động là khi đăng kí kinh doanh tại các cơ quan
đăng kí kinh doanh, NHTMCP sẽ được cấp giấy phép thành lập và hoạt động bởi
NHNN khi đạt đủ điều kiện theo quy định để thành lập, trong đó đặc trưng đầu
tiên là NHTMCP đó phải có đủ số vốn pháp định. Hiện nay mức vốn pháp định
của từng loại hình ngân hàng được điều chỉnh theo Nghị định số 07/2013
VBHN-NHNN.
Thứ hai: NHTMCP phải có cổ đông chiến lược. Bản chất hoạt động của
NHTMCP là kinh doanh tài chính, do đó khả năng và sức mạnh tài chính của
ngân hàng là điều quan trọng đầu tiên. Để ngân hàng có thể hoạt động vững
mạnh, hiệu quả và có lợi nhuận thì luôn cần tới vai trò của các nhà đầu tư chiến
lược. Theo quy định tại khoản 3 điều 6 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP có định
nghĩa “Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước
ngoài có năng lực tài chính và có cam kết bằng văn bản của người có thẩm
quyền trong việc gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp
sau cổ phần hóa về: chuyển giao công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực; nâng
10
cao năng lực tài chính; quản trị doanh nghiệp; cung ứng nguyên vật liệu; phát
triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.” Các cổ đông chiến lược ngoài ra còn phải
đáp ứng các tiêu chí theo quy định tại Thông tư 10/2011/TT-NHNN của NHNN
Việt Nam đối với cổ đông trong nước và cổ đông nước ngoài. Vai trò của cổ
đông chiến lược trong NHTMCP không chỉ giúp ngân hàng củng cố năng lực tài
chính, mà còn thúc đẩy ngân hàng nâng cao năng lực quản trị điều hành, quản trị
rủi ro, phát triển sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh
tranh.
Thứ ba: Hoạt động của NHTMCP phải tuân thủ chặt chẽ các qui định chuyên
ngành. Hoạt động của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành kinh doanh
khác. Rủi ro trong hoạt động của NHTM có thể là các loại rủi ro đặc thù như rủi
ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả
dụng, rủi ro đạo đức,…Khi có rủi ro xảy ra, kéo theo rất nhiều ảnh hưởng lớn
đến các hoạt động kinh tế xã hội. Chính vì lí do này mà NHTM chịu sự kiểm
soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống phát luật. Các quy định pháp lý đối với
NHTM được bao quát trên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như: điều kiện
kinh doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền
gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng
vốn tự có đầu tư cho tài sản cố định,…Mọi hoạt động của NHTMCP vì thế mà
phải tuân thủ chặt chẽ theo các quy định của pháp luật chuyên ngành như Luật
NHHH, Luật các TCTD, Nghị định, thông tư liên quan.
Thứ tư: Tuân thủ các chuẩn mực quốc tế Basel về quản trị ngân hàng. Quản
trị công ty hiệu quả rất cần thiết để xây dựng, duy trì sự tín nhiệm và lòng tin của
công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Đây chính là những yếu tố cốt yếu cho
sự vận hành lành mạnh của ngành ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế6.
6 Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng.
11
Quản trị ngân hàng hiệu quả không chỉ ảnh hưởng tới quyền lợi của các chủ nợ
mà còn là quyền lợi trực tiếp của các nhà đầu tư. Quản trị công ty tốt phải dựa
trên các nền tảng phù hợp và hiệu quả về pháp lý, quản lý và thể chế. Chính vì
vậy mà hoạt động của các NHTMCP phải tuân thủ những chuẩn mực quốc tế về
Basel như bộ Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức
ngân hàng tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, các nội
dung của Basel I và Basel II.
1.2. Khái niệm cổ đông và cổ đông trong NHTMCP
Cổ đông ( shareholder)
Cổ phần là phần chia nhỏ của vốn điều lệ, cổ phần có thể phát hành bằng
mệnh giá hoặc theo giá thị trường. Theo luật doanh nghiệp 2014 thì “Cổ đông là
cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Pháp luật Việt
Nam hiện nay không thừa nhận về CTCP một cổ đông nhưng thực tế pháp luật
nhiều nước trên thế giới thừa nhận và điều tiết CTCP một thành viên.7 Theo quan
điểm cổ đông là những người có mua cổ phần của công ty8 thì về bản chất, cổ
đông là chủ thể cùng các cổ đông khác đồng sở hữu CTCP; lợi ích của cổ đông
phụ thuộc vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Trên phương diện pháp lý, tổ
chức, cá nhân có quyền sở hữu cổ phần khi trả tiền cổ phần và nhận cổ phần phát
hành và được ghi nhận trong sổ cổ đông. Cổ phần có thể dưới hình thức chứng
chỉ ghi tên hoặc không ghi tên. Đối với CTCP niêm yết, cổ phần có thể được lưu
ký dưới hình thức dữ liệu điện tử.
Như vậy có thể hiểu cổ đông là tổ chức, cá nhân nắm giữ và sở hữu cổ
phần của CTCP và được đăng ký vào sổ cổ đông của công ty.
Cổ đông trong NHTMCP
7 Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại, Phần chung và thương nhân, Nxb ĐHQGHN-2013. 8 PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Như Phát (chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội -2001.
12
Cổ đông của NHTMCP cũng như cổ đông của công ty cổ phần nói chung
sở hữu một hoặc một số cổ phần của CTCP, mỗi chứng chỉ xác nhận quyền sở
hữu này gọi là cổ phiếu. Tại khoản 1 và 2 Luật TCTD 2010 có định nghĩa ngân
hàng là một loại hình tổ chức tín dụng, mà tổ chức tín dụng là loại hình doanh
nghiệp duy nhất có quyền thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng9, do
đó khái niệm cổ đông theo luật doanh nghiệp nói chung cũng phù hợp với khái
niệm của cổ đông trong NHTMCP. Như vậy cổ đông trong NHTMCP là tổ chức,
cá nhân nắm giữ và sở hữu cổ phần trong ngân hàng và được đăng ký trong sổ cổ
đông của ngân hàng.
NHTMCP cũng giống nhu CTCP nói chung phải có cổ đông phổ thông,
người sở hữu các cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Ngoài các cổ đông
phổ thông, NHTMCP còn có các cổ đông ưu đãi, bao gồm: cổ đông ưu đãi biểu
quyết, ưu đãi hoàn lại, ưu đãi cổ tức và một số ưu đãi khác theo quy định trong
Điều lệ NHTMCP. Tuy nhiên khác với Luật doanh nghiệp, do tính chất đặc biệt
của một tổ chức tín dụng nên cổ đông trong ngân hàng bị quy định đặt chẽ bởi
yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần. Theo đó thì một cổ đông là cá nhân không được
sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Một cổ đông là tổ
chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ
các trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 Điều 149 của
Luật các tổ chức tín dụng 2010 để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm
an toàn hệ thống tổ chức tín dụng; Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng
cổ phần hóa; Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2
Điều 16 của Luật các tổ chức tín dụng 2010. Bên cạnh đó cổ đông và người có
liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một
tổ chức tín dụng. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, các cổ
đông sáng lập phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ
9 ThS. Trần Vũ Hải, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb giáo dục Việt Nam năm 2010.
13
chức tín dụng; các cổ đông sáng lập là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối
thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ (Điều 55 Luật
các TCTD 2010).
1.3. Khái niệm quyền của cổ đông và phân loại
Quyền lợi của cổ đông trong NHTMCP là bình đẳng trước pháp luật và
quyền được đối xử công bằng giữa các cổ đông gắn với quá trình góp vốn thành
lập, quá trình hoạt động của NHTMCP và cụ thể là trong ra quyết định và triển
khai thực hiện các quyết định kinh doanh, huy động vốn, sử dụng vốn và phân
chia lợi nhuận của cơ quan quản trị nội bộ10. Cổ đông trong NHTMCP nói riêng
có các quyền được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014. Ngoài ra quyền của
cổ đông trong NHTMCP còn được quy định cụ thể trong Luật các TCTD 2010.
Theo đó dựa vào tính chất các quyền có thể phân thành nhóm quyền chung và
quyền hưởng lợi.
Nhóm quyền quyền tài sản
Cổ đông phổ thông:
Theo Các nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển
kinh tế OECD 2015 “G20/OECD Principles of Corporate Governance 2015”, các
quyền cơ bản của cổ đông bao gồm quyền được: 1) Đảm bảo các phương thức
đăng ký quyền sở hữu; 2) Chuyển nhượng cổ phần; 3) Tiếp cận các thông tin liên
quan và quan trọng về công ty một cách kịp thời và thường xuyên; 4) Tham gia
và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông; 5) Bầu và bãi miễn các thành viên Hội
đồng Quản trị; 6) Hưởng lợi nhuận của công ty.11
10 Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20/2014, tr 28-34. 11 G20/OECD Principles of Corporate Governance, Organisation for Economic Co-operation and Development, page 21.
14
Đối với cổ đông phổ thông theo pháp luật Việt Nam, có một số quyền cơ
bản như sau: (i) Nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông;
(ii) Ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông
của từng cổ đông trong công ty; (iii) Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình
cho người khác, trừ trường hợp quy định của luật, (iv) Khi công ty giải thể hoặc
phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần
tại công ty;
Ngoài ra đối với nhóm cổ đông ưu đãi còn có thêm một số quyền hưởng
lợi đặc biệt. Đối với cổ đông ưu đãi cổ tức: (i) Được trả cổ tức với mức cao hơn
so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức
được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không
phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và
phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi
cổ tức. (ii) Nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại công
ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi
công ty giải thể hoặc phá sản. Đối với cổ đông ưu đãi hoàn lại, được công ty
hoàn lại vốn góp theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được
ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại khi có nhu cầu thu lại vốn đầu tư.
Nhóm quyền chung
Theo LDN 2014 và Luật các TCTD 2010 thì cổ đông trong NHTMCP có
những quyền chung cơ bản sau:
1) Tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện quyền
biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc theo hình
thức khác do pháp luật, Điều lệ công ty quy định.
2) Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có
quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác;
15
3) Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp
Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
4) Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở
lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:
Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát;
Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản
trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế
toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;
Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều 114, Luật Doanh nghiệp 2014;
Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản
lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Các quyền
khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều lệ công ty.
Ngoài ra đối với cổ đông ưu đãi còn có các quyền đặc biệt và các ngoại lệ
như: Đối với cổ đông ưu đãi biểu quyết: (i) Có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so
với cổ phần phổ thông, số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do
Điều lệ công ty quy định. (ii) Ngoại lệ: Cổ đông không được chuyển nhượng cổ
phần này cho người khác. Đối với cổ đông ưu đãi cổ tức: Cổ đông sở hữu cổ
phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề
cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Đối với cổ đông ưu đãi hoàn
lại: Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, dự họp
Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.
1.4. Các cơ chế bảo đảm quyền của cổ đông
Công ty cổ phần nói chung, NHTMCP nói riêng không phải là sự tập hợp đơn
thuần của cổ đông mà là một thực thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ. Bản thân
16
công ty không thể quyết định được ý chí của mình hay tự mình hành động như
một thể nhân. Ý chí và hành vi của những thể nhân giữ cương vị nhất định trong
công ty được xem là ý chí và hành vi của công ty. Theo lý thuyết về đại diện, sự
tách biệt giữa sở hữu và quản lý làm nảy sinh xung đột giữa người đại diện (các
nhà quản lý) và người ủy quyền (các cổ đông)12. Khi lợi ích của một nhóm trong
công ty bị tổn hại sẽ dẫn đến những mâu thuẫn trong sự hài hòa về lợi ích13. Do
đó cần có cơ chế đảm bảo cân bằng lợi ích cho các chủ thể trong NHTMCP.
Quyền và lợi ích của cổ đông luôn tiềm ẩn nguy cơ bị xâm hại. Các nguy cơ
bị xâm hại được chia thành hai loại: xâm phạm từ bên trong và xâm phạm từ bên
ngoài. Do vậy để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm tới quyền
và lợi ích của cổ đông cần huy động tới vai trò của rất nhiều cơ chế bảo vệ bao
gồm cả ý thức tự bảo vệ quyền của mình của cổ đông, các thiết chế bên trong và
bên ngoài.
1.4.1. Cơ chế tự bảo vệ
Hoạt động của công ty cổ phần nói chung và NHTMCP nói riêng là nơi
biểu hiện tập trung rõ nhất các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ý thức tự bảo
vệ của cổ đông đóng vai trò quan trọng trước tiên trong việc đảm bảo cân bằng
lợi ích giữa các chủ thể. Cơ sở của ý thức tự bảo vệ quyền xuất phát từ nguyên
tắc đối xử công bằng giữa các cổ đông. Khi nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân mua
cổ phần trở thành cổ đông của CTCP, cổ đông cũng có quyền bình đẳng trước
pháp luật, được đối xử công bằng14. Ý thức này thể hiện ở sự hiểu biết về các
quyền cơ bản và cơ chế bảo vệ quyền của cổ đông trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng. Bảo đảm quyền của cổ đông chỉ thực sự có hiệu quả nếu cổ đông
12 Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4. 13 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22-25. 14 Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20/2014, tr. 28-34.
17
thể hiện vai trò chủ động của mình trong việc tự bảo vệ. Nếu cổ đông không ý
thực tự bảo vệ mình, thờ ơ quyền lợi chính đáng của mình, không tích cực tham
gia vào họp ĐHĐCĐ, không dũng cảm đấu tranh với các hành vi vi phạm quyền
của cổ đông thì Nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào cũng không thể can thiệp được
với mục đích bảo đảm quyền cho họ.
1.4.2. Thiết chế nội bộ
ĐHĐCĐ:
Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong công ty cổ phần, có quyền quyết
định những vấn đề quan trọng nhất. Tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, khi
họp lại trở thành một cơ quan quyết nghị, có quyền quyết định cao nhất trong
công ty được gọi là ĐHĐCĐ.15 Mỗi cổ đông kể cả cổ đông sở hữu một cổ phần
được phát hành công khai của NHTMCP đều có quyền tham dự và phát biểu
trong cuộc họp ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết của mình hoặc thông qua
người đại diện để thực hiện quyền này (ngoại trừ cổ đông ưu đãi cổ tức, ưu đãi
hoàn lại và các cổ đông ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định không có quyền
tham dự họp ĐHĐCĐ). Hoạt động của ĐHĐCĐ họp theo quy định có hai trường
hợp:
ĐHĐCĐ thường niên diễn ra một năm một lần vào đầu năm (từ tháng một
đến tháng tư). Đây là thời điểm kết thúc một năm hoạt động và công ty phải lập
xong BCTC, một số CTCP còn phải thực hiện kiểm toán BCTC nếu thuộc diện
bắt buộc phải kiểm toán BCTC trước khi công bố BCTC. Đồng thời ĐHĐCĐ
thường niên phải thông qua các kế hoạch và phương án kinh doanh của năm tiếp
theo do vậy nếu việc họp càng muộn thì hoạt động càng khó khăn. Việc tham dự
ĐHĐCĐ là cơ hội đầu tiên và quan trọng nhất để cổ đôn có thể nắm bắt được
tình hình hoạt động của công ty, thấy rằng việc hoạt động của ngân hàng là hiệu 15 Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Tập 1, Luật Doanh nghiệp: Tình huống, Phân tích, Bình luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.
18
quả hay không, thông qua định hướng phát triển công ty, cũng như làm rõ những
vấn đề còn khúc mắc đặc biệt liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh từ đó
cổ đông có những quyết định đúng đắn để bảo vệ quyền lợi của mình.
ĐHĐCĐ bất thường: Trong trường hợp HĐQT xét thấy cần thiết và vì lợi
ích của công ty phải triệu tập họp bất thường ĐHĐCĐ trong các trường hợp: (i)
Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành viên Hội
đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo
yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ
thông trong thời hạn liên tục ít nhất sau tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy
định tại Điều lệ của TCTD); (iv) Theo yêu cầu của Ban kiểm soát; (v) Các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ của TCTD (Điều 59
Luật các TCTD 2010).
HĐQT, GĐ/TGĐ.
HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng không thuộc thẩm
quyền của ĐHĐCĐ. Ở bất cứ nền kinh tế nào, vai trò của HĐQT đối với CTCP;
vai trò của đội ngũ quản trị ngân hàng luôn rất quan trọng bởi nếu có người quản
trị đủ năng lực, ngân hàng sẽ thực hiện tốt mục tiêu chiến lược đã đề ra, bảo đảm
sự phát triển của ngân hàng. Các vấn đề pháp lý cơ bản về Hội đồng quản trị và
cơ cấu Hội đồng quản trị trong Ngân hàng Thương mại được quy định cụ thể tại
Điều 16 Nghị định 59/2009/NĐ-CP. Theo đó thì HĐQT đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Hội đồng quản trị là cơ
quan quản trị ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để quyết định, thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền
của Đại hội đồng cổ đông (đối với ngân hàng thương mại cổ phần) hoặc chủ sở
hữu (đối với ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại 100% vốn
19
nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên) hoặc thành viên góp vốn (đối với ngân hàng thương mại liên doanh, ngân
hàng thương mại 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên). HĐQT đóng vai trò chính nhất trong
nhiệm vụ đảm bảo hoạt động của công ty tuân thủ theo pháp luật, tuân thủ điều
lệ và quy định nội bộ của công ty, đối xử bình đẳng đối với tất cả các cổ đông và
tôn trọng lợi ích của người có quyền liên quan đến công ty. HĐQT được bầu ra
với mục đích và kỳ vọng là vì quyền lợi của tất cả các cổ đông một cách bình
đẳng.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty là người điều hành hoạt động kinh
doanh hằng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về
việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban
giám đốc NHTMCP được quy định tại Điều 64 Luật doanh nghiệp 2014 và Điều
55 Nghị đinh số 59/2009/NĐ-CP. HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc
thuê người khác làm GĐ hoặc TGĐ. Trường hợp điều lệ ngân hàng không quy
định Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật thì GĐ hoặc TGĐ là người
đại diện theo pháp luật của công ty. GĐ hoặc TGĐ sẽ điều hành hoạt động kinh
doanh hàng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty,
hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của HĐQT. GĐ hoặc TGĐ phải
thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt
nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty. Bên canh đó GĐ, TGĐ
phải trung thành với lợi ích của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ
hội kinh doanh của công ty, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản
của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác
Ban kiểm soát:
20
BKS chính là thiết chế không thể thiếu để giám sát hoạt động của người
quản lý, đảm bảo người quản lý thực hiện nhiệm vụ một các trung thực, mẫn cán
và cẩn trọng. BKS là tổ chức được ĐHĐCĐ ủy quyền thực hiện việc giám sát
thường xuyên hoạt động quản lý, điều hành của HĐQT, GĐ/TGĐ. Ở Việt Nam,
Trung Quốc, Nhật Bản, BKS do ĐHĐCĐ trực tiếp bầu ra, chịu sự giám sát của
ĐHĐCĐ thực hiện chức năng giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ. Còn ở Đức BKS
không chỉ có quyền giám sát mà còn có quyền quyết định quyết sách quản lý
công ty, giữa địa vị pháp lý trên HĐQT, có quyền bổ nhiệm các thành viên
HĐQT và giám sát hoạt động kinh doanh của HĐQT, đồng tời HĐQT có trách
nhiệm báo cáo công tác trước BKS. Đối với Anh - Mỹ, trong cơ cấu quản trị
công ty không tồn tại BKS mà thành lập Uỷ ban kiểm toán thực thuộc HĐQT,
Uỷ ban này thường là các thành viên HĐQT độc lập, có trách nhiệm tham gia
với tư cách như thành viên HĐQT khác và có nhiệm vụ quan trọng là giám sát
GĐ/TGĐ.
Kiểm toán nội bộ:
Theo IIA “Kiểm tán nội bộ là hoạt động đánh giá và tư vấn độc lập trong
nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động
của tổ chức đó. Giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá và cải
tiến một cách hệ thống và chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm
soát và quản lý rủi ro.”16 Mục đích của kiểm toán nội bộ là phục vụ công tác
quản lý doanh nghiệp, không chỉ đánh giá những yếu kém của hệ thống quản lý
mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty. Kiểm toán nội bộ có thể
đem lại cho công ty rất nhiều lợi ích. Đây là công cụ giúp phát triển và cải tiến
những điểm yếu trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Thông qua công cụ
này, ban giám đốc và HĐQT có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro
16 IIA là tổ chức nghề nghiệp dành cho kiểm toán viên nội bộ thành lập năm 1941 có trụ sở chính tại Hoa Kỳ và hơn 122000 hội viên trên toàn cầu.
21
tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh. Một doanh nghiệp có
kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng thêm niềm tin của các cổ đông, nhà đầu tư trên
thị trường chứng khoán.
1.4.3. Các thiết chế bảo vệ bên ngoài
Cơ chế bảo vệ bên ngoài là cơ chế không thể thiếu trong bất kì hoạt động
của NHTMCP nào. Cơ chế này thực sự cần thiết và hữu dụng khi cổ đông đã tự
ý thức bảo vệ quyền lợi của mình và theo đuổi tốt đối với những cơ chế nội bộ
công ty, ngân hàng nhưng vẫn không thể bảo vệ quyền lợi của mình, của nhóm
cổ đông một cách công bằng và hợp lý17. Tới lúc này, các cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan tư pháp hay các tổ chức độc lập cùng giám sát chung của xã
hội sẽ song hành cùng cổ đông trên con đường tìm công lý, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình.
Cơ chế hành chính
Vai trò của nhà nước được xem là chủ lực, có ý nghĩa định hướng cho các
thiết chế trung gian khác hoạt động. Nhà nước với tư cách là thiết chế công
quyền quản lý mọi mặt của đời sống xã hội nên có vai trò quan trọng trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông; từ việc cấp phép hoạt động, ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận các quyền của cổ đông, thiết lập cơ chế
bảo vệ quyền và bảo vệ lợi ích của cổ đông tới phát hiện và xử lý những hành vi
xâm phạm tới quyền và lợi ích của cổ đông.
Chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán thể hiện vai trò của của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của
cổ đông. Cơ quan chuyên ngành về quản lý thị trường chứng khoán, có chức
năng giám sát các hoạt động liên quan tới chứng khoán và thị trường chứng
17 Nguyễn Văn Mích (2007), Bảo vệ cổ đông theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ , Khoa Luật – ĐHQGHN.
22
khoán, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán nhằm xây dựng một môi trường lành mạnh, công khai, minh bạch góp
phần to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông.
Vai trò của các thiết chế nhà nước còn được thể hiện qua hệ thống các cơ
quan tư pháp từ cơ quan điều tra, cơ quan xét xử tới cơ quan thi hành án, cơ quan
thuế… là những thiết chế quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông
Cơ chế tư pháp
Quyền yêu cầu trọng tài hoặc tòa án bảo vệ quyền lợi: Về mặt lý thuyết
bất kì cổ đông nào cũng có thể khởi kiện chống lại giám đốc hoặc người quản lý
đã có hành vi vi phạm quyền hợp pháp của cổ đông và gây thiệt hại lợi ích cho
các cổ đông. Với quyền năng này thì cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số có thể
chủ động lên tiếng, yêu cầu tòa án hoặc trọng tài lên tiếng hoặc yêu cầu can thiệp
để bảo vệ quyền lợi của mình.
Pháp luật các quốc gia khác không chỉ có hệ thống quy phạm về nội dung
mà còn có hệ thống đầy đủ các quy phạm pháp luật hình thức tương ứng để có
thể đảm bảo có một cơ chế xét xử, giải quyết các tranh chấp đối với các trường
hợp vi phạm quyền cổ đông thiểu số. Theo các nước này, quy định về giám sát
người quản lý bằng hình thức khởi kiện là một nội dung quan trọng trong luật về
doanh nghiệp và là một tiêu chí để đánh giá về mức độ bảo vệ nhà đầu tư trong
các nền kinh tế của ngân hàng thế giới.
1.4.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ
của NHTMCP.
Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh
tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt
được những mục tiêu kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Ngân hàng
Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ, phù hợp với tình hình thực
23
tiễn của nền kinh tế, đó là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền
tệ. Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế,
nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm. Chính sách
thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu
tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiểm chế lạm phát. Để thực
hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hàng trung ương có thể sử dụng hàng loạt
các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của mình đó là các công cụ trực tiếp và
công cụ gián tiếp.
Với các công cụ trực tiếp, NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu
tiền tệ, mà không cần thông qua một công cụ khác như ấn định khung lãi suất
tiền gửi và cho vay. Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm
gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu NHTMCP thực hiện khung lãi suất cao sẽ thu
được khoản tiền mặt lớn phục vụ cho việc thực hiện hoạt động kinh doanh tài
chính của ngân hàng, mang lại lợi ích cho cổ đông. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm
giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này
sẽ làm cho các ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh
doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại
thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ
bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn
cho vay.
Các công cụ gián tiếp thông qua dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là phần
tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa vào dự trữ theo luật định. Phần
dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở ngân hàng trung ương và để tại
quỹ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của
NHTMCP và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân
hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho
vay và đầu tư của ngân hàng thương mại đó. Việc giảm khả năng cho vay sẽ dẫn
24
đến trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của
NHTMCP sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông. Đối với
việc thực hiện lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn là những cách thức cho vay của
NHNN đối với các NHTM.
Với những tác động tích cực, việc kinh doanh của NHTMCP thu được
nhiều lợi ích lớn về doanh thu, giữ ngân hàng trong tình trạng hoạt động ổn định
vững mạnh, giảm tỷ lệ rủi ro khó khăn về chi trả. Thông qua đó cổ đông hơn ai
hết chính là đối tượng được thụ hưởng những quyền lợi về mặt cổ tức, và những
chính sách nội bộ khác; và ngược lại nếu việc thực hiện chính sách tiền tệ không
hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới việc NHTMCP hoạt động yếu kém, gặp
khó khăn về mặt tài chính, nợ ròng kéo dài hoặc khả năng thanh khoản thấp,
nguồn tiền gửi ít dẫn tới việc cổ đông không nhận được cổ tức định kì, hoặc
nghiêm trọng hơn cổ đông có thể trắng tay nếu ngân hàng hoạt động kém hiệu
quả, dẫn tới việc tái cơ cấu mà không đảm bảo được quyền lợi của cổ đông.
1.4.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh về quyền của cổ đông trong
NHTMCP.
Hệ thống pháp luật nội dung về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP là tổng
hòa các quy phạm pháp luật ở nhiều bộ luật khác nhau. Giá trị pháp lý của các
quy định cũng khác nhau, xét trên cả phương diện chiều dọc vào chiều ngang.
Xét theo chiều dọc giá trị pháp lý là Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013, tiếp theo là
các Bộ luật, Luật rồi đến các nghị định, thông tư hướng dẫn. Nếu xét theo chiều
ngang, pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên, sau đó đến luật chung với vai trò
là luật gốc. Do vậy khi tìm hiểu pháp luật về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP cần
nghiên cứu trong tổng thể hệ thống pháp luật một cách toàn diện và thấu đáo.
Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận được tiếp cận dựa vào Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010, Luật doanh nghiệp 2014, Luật chứng khoán 2013, Luật kiểm
25
toán độc lập, nghị định 59/2009- NĐ/CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng
thương mại…các luật, nghị định, thông tư có liên quan.
Thứ nhất, nhóm quy định pháp luật về quyền của cổ đông. Cổ đông có
quyền được ghi nhận tại Luật doanh nghiệp 2014 : điều 114, 116, 117, 118, 129,
137, 140, 143, 144, 147, 162, ; Luật các tổ chức tín dụng 2010 tại Điều 53, 56,
57; Điều 32 Nghị định 59/2009- NĐ/CP…
Thứ hai, nhóm các quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ của cổ đông trong
NHTMCP. Có thể hiểu cơ chế bảo vệ cổ đông được hiểu là cách thức theo đó
một quá trình được thực hiện. Tùy theo vị trí của chủ thể mà có thể tiến hành
chia làm các cơ chế bảo vệ cổ đông như sau:
Quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ bên trong. Cơ chế này được hiểu
là cổ đông có thể được bảo vệ bởi chính các thiết chế như HĐQT, GĐ,
TGĐ, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ. Các thiết chế nội bộ này
được quy định cụ thể như sau: Luật doanh nghiệp 2014 quy định về
ĐHĐCĐ từ điều 129 đến điều 146, về HĐQT từ điều 149 đến điều 156,
GĐ hoặc TGĐ các điều 157, 158, 160…các quy định khác: điều 124,
125, 126, 129, 130, 159, 160, 162, 170, 171…Hệ thống các quy định
trong Luật các tổ chức tín dụng điều 59, 61, 62, 63, 64, 65…
Nhóm quy định về cơ chế bảo vệ bên ngoài: Cổ đông khi bị xâm phạm
quyền lợi sẽ được các chủ thể bên ngoài bảo vệ, đó chính là việc yêu
cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp hoặc tìm đến các
thiết chế hỗ trợ khác
Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước: phòng đăng kí kinh
doanh của Sở kế hoạch và đầu tư; các chi cục Thuế, UBND xã
nơi ngân hàng, CTCP có trụ sở, UBCKNN, các Sở giao dịch
chứng khoán, Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
26
Các cơ quan tài phán. Cổ đông Việt Nam có thể được bảo vệ
thông qua các phán quyết của Tòa án hoặc trọng tài thương mại
Các tổ chức độc lập. Hoạt động của cổ đông có thể được đảm
bảo hơn thông qua các tổ chức như công ty kiểm toán độc lập,
hoạt động của các luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng trong các
đoàn luật sư trên toàn quốc, hoạt động của các hội…
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về nội dung này gồm có:
Luật quy định tại điều 210 Luật doanh nghiệp 2014, Luật ngân hàng nhà nước
2010, Luật chứng khoán 2013, Luật kiểm toán độc lập 2014, Luật bảo hiểm tiền
gửi 2012 và các Luật, văn bản nghị định có liên quan.
27
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Toàn bộ chương 1, khóa luận trên cơ sở tiếp cận những vấn đề chung
trong giới hạn về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP đã đưa ra những khái niệm cơ
bản về ngân hàng và NHTMCP, các khái niệm về cổ đông nói chung và cổ đông
trong NHTMCP nói riêng; các khái niệm về quyền của đông trong NHTMCP và
phân loại và khái quát các quyền của cổ đông theo pháp luật Việt Nam; các đặc
thù của NHTMCP nói chung. Kế tiếp khóa luận hệ thống khái các cơ chế bảo vệ
cổ đông thông qua cơ chế tự bảo vệ, cơ chế nội bộ và các cơ chế bên ngoài; yêu
cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng là
hoạt động đặc thù của các NHTM. Phần cuối của chương khóa luận đã trình bày
hệ thống pháp luật chuyên ngành và pháp luật có liên quan điều chỉnh quan hệ
liên quan đến bảo vệ quyền của cổ đông. Thông qua các vấn đề lý luận về quyền
của cổ đông trong NHTMCP từ đó làm cơ sở tiếp cận thực tiễn áp dụng pháp
luật về bảo vệ cổ đông sẽ được trình bày ở chương 2.
28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ
ĐÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
2.1. Thực hiện nhóm quyền về tài sản
2.1.1. Quyền được nhận cổ tức
Với đặc trưng công ty đối vốn nên cổ đông sẽ được hưởng quyền tài sản
tương ứng với số vốn góp của mình vào công ty. Tuy vậy thực trạng chi trả cổ
tức cho cổ đông các NHTMCP vẫn còn đang tồn tại một số bất cập:
Thứ nhất: Bất cập đầu tiên phải kể tới khả năng được nhận cổ tức của cổ
đông không có cơ chế đảm bảo. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 79 Luật
doanh nghiệp 2005 ( tương ứng với Điểm b Khoản 1 Điều 114 Luật doanh
nghiệp 2014) quy định cổ đông phổ thông có quyền nhận cổ tức với mức theo
quyết định của ĐHĐCĐ. Cổ tức là khoản lợi nhuận ròng mà cổ đông được trả
cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại
của công ty sau khi đã thực hiện được các nghĩa vụ về tài chính.
Quy định chung chỉ rõ cổ đông được nhận cổ tức với hai điều kiện: (i)
Công ty có lãi, (ii) ĐHĐCĐ quyết định chia cổ tức với tỷ lệ nhất định. Đồng thời
phải thỏa mãn quy định tại Khoản 2 Điều 132 luật doanh nghiệp 2014: (i) Công
ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của
pháp luật; (ii) Đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy
định của pháp luật và Điều lệ công ty; (iii) Ngay sau khi trả hết số cổ tức đã
định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
đến hạn. Như vậy việc có chia cổ tức hay không phụ thuộc vào ĐHĐCĐ, mà
ĐHĐCĐ quyết định theo tỉ lệ số phiếu biểu quyết, do vậy nếu các cổ đông đa số
cố tình không thông qua việc chia cổ tức thì cổ đông thiểu số cũng không thể đòi
cổ tức cho mình được. Điều này dẫn đến tâm lý chán nản của cổ đông khi đầu tư
29
vào NHTM, đặc biệt là các cổ đông nhỏ, họ không có cơ chế gì được bảo đảm
rằng mình sẽ nhận được cổ tức.
Ở nhiều nước, pháp luật của họ có quy định việc các CTCP phải dành ra
một tỷ lệ lợi nhuận nhất định để trả cổ tức cho cổ đông. Quy định này nhằm tạo
ra công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số khi các
công cụ bảo vệ khác tỏ ra kém hiệu lực. 18 Thực trạng các NHTMCP không chi
trả cổ tức cổ đông diễn ra rất nhiều trong những năm qua. Điển hình như ngân
hàng MaritimeBank đã 3 năm từ năm 2014 đã không thực hiện chi trả cổ tức cho
cổ đông. Hay như trường hợp của TechcomBank, suốt từ năm 2011 đến nay
ngân hàng quên quyền lợi của cổ đông, không chia sẻ một xu cổ tức, trong khi
thù lao của lãnh đạo vẫn được đánh giá là “cao ngất ngưởng.”19. Trường hợp việc
chi trả cổ tức dẫn đến tình hình tài chính kém đi, các tỷ lệ an toàn bị ảnh hưởng
xấu thì sẽ bị hạn chế chi trả. Lý do này dẫn tới tình trạng như năm 2016 vừa qua
cả VietinBank và BIDV đều gặp vướng mắc về chính sách cổ tức. Thực trạng
trên đây không phải là bất cập hiếm thấy, nó xảy ra thường xuyên ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông. Trong khi đó chính sách, pháp luật về chi trả
cổ tức cho cổ đông chưa rõ ràng, còn tồn tại cả trong chính sách, pháp luật và cơ
chế chi trả cho cổ đông.
Thứ hai: Cổ đông được nhận cổ tức nhưng đa phần là chi trả dưới hình
thức cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng. Theo quy định của pháp luật doanh nghiệp
về chi trả cổ tức thì bên cạnh hình thức chi trả bằng tiền mặt, doanh nghiệp,
NHTMCP có thể chi trả cổ tức cho cổ đông dưới hình thức cổ phiếu. Thực tế
những năm qua ngoại trừ những NHTMCP có sở hữu nhà nước chi phối có thể
sẽ chia cổ tức bằng tiền mặt theo yêu cầu của cổ đông chi phối, hầu hết các
NHTMCP còn lại đều chi trả cổ tức bằng cổ phiếu. Về bản chất việc trả cổ tức 18 Đỗ Thái Hán, (2012), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật hoc khoa luật Đại học quốc gia. 19 Techcombank lãi nghìn tỷ, cổ đông vẫn tiếp tục ‘nhịn’ cổ tức, Thời báo tài chính Việt Nam (24/04/2016)
30
bằng cổ phiếu là chuyển một phần tiền lợi nhuận chưa phân phối sang thành vốn
cổ phần, hay nói cách khác cổ tức bằng cổ phiếu (hoặc thưởng bằng cổ phiếu)
chính là nghiệp vụ chia tách cổ phiếu và nó không hề phát sinh bất kỳ dòng tiền
mới nào giúp doanh nghiệp gia tăng nội lực của mình.20Trên góc độ của
NHTMCP thì cách thức này sẽ giúp ngân hàng tăng vốn nhằm nâng cao năng lực
tài chính, khả năng cạnh tranh, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động
ngân hàng. Tuy nhiên đôi khi chính Ban điều hành của ngân hàng đã lợi dụng lợi
dụng sự hiểu biết chưa rõ của nhà đầu tư, che giấu việc thiếu hụt dòng tiền chia
cổ tức (hoặc cổ ý để lại quỹ tiền mặt lớn nhằm mục đích cá nhân) bằng việc chia
hoặc thưởng thêm cổ phiếu. Bằng cách đó cổ đông sẽ ngộ nhận rằng mình được
thêm giá trị do số cổ phiếu tăng lên nhưng thực tế giá trị của họ không nhận
được gì ngoài những tờ cổ phiếu ghi giá trị nằm trên giấy.
2.1.2. Quyền được ưu tiên mua cổ phần
Theo quy định của luật doanh nghiệp cổ đông có quyền được ưu tiên mua
lại cổ phần. Khi NHTMCP chào bán cổ phần để tăng vốn có nghĩa là cấu trúc
vốn có sự thay đổi. Nếu các cổ đông cũ không mua lại tỷ lệ cổ phần tương ứng
thì đồng nghĩa với đó là quyền kiểm soát của họ trong công ty giảm. Việc phát
hành thêm cổ phần phải đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông đang sở hữu loại cổ
phần đó và trước tiên họ phải được mua tương ứng với tỷ lệ loại cổ phần mà họ
đang sở hữu. Đồng thời phải đảm bảo tỷ lệ cổ phần do họ nắm giữ trong công ty
trước và sau khi phát hành thêm phải như nhau. 21
Thực tế quyền này của cổ đông phổ thông không được đảm bảo như luật
quy định. Nhiều trường hợp cổ đông chiến lược và Ban điều hành bằng kĩ thuật
soạn thảo Nghị quyết trong ĐHĐCĐ đã tạo ra những sự bất bình đẳng khi phát
hành cổ phiếu. Đơn cử như một số trường hợp phát hành bất bình đẳng dễ nhận 20 Bản chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, Vietstock.vn. 21 Trương Thế Côn(2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học Đại học Quốc gia Hà Nội
31
thấy là việc quy định cổ đông lớn được mua với giá thấp, cổ đông nhỏ phải mua
với giá cao; trường hợp khác có thể cho lãnh đạo mua cổ phiếu ưu đãi với giá
thấp nhiều lần so với giá thị trường, nếu cổ đông nhỏ có phản đối thì cũng không
có tác dụng gì đối với các cổ đông chiến lược, đặc biệt là cổ đông nhà nước. Một
số trường hợp khác thì cổ đông được mua cổ phần phát hành tăng vốn với giá
bằng nhau nhưng tỷ lệ mua khác nhau. Chẳng hạn quy định giá cổ phiếu bằng
nhau, nhưng cổ đông sáng lập sẽ được mua thêm một cổ phần mới trên một cổ
phần cũ, còn cổ đông không phải sáng lập thì phải hai cổ phần cũ mới được mua
một cổ phần mới.
Nhiều NHTM chưa bảo vệ quyền lợi của cổ đông, và các cơ chế bảo vệ
chưa được áp dụng để bảo vệ cổ đông. Ở Australia, Uỷ ban Chứng khoán và Đầu
tư (ASIC) sẽ xem xét những trường hợp ưu ái cổ đông lớn. Nếu sự ưu tiên đó bị
những cổ đông nhỏ phản đối, ASIC sẽ bảo vệ sự công bằng cho cổ đông. 22
Để thực hiện quyền mua cổ phần, cổ đông muốn mua phải gửi phiếu đăng
ký mua cổ phần theo mẫu của công ty về công ty như đúng hạn, quá thời hạn này
coi như cổ đông có liên quan đã không nhận quyền ưu tiên mua cổ phần, công ty
có quyền bán số cổ phần không được mua đó cho người khác theo cách thức hợp
lý. Chính điều này mà những người quản lý công ty có thể lợi dụng để thâu tóm
công ty bằng cách làm cho cổ đông thiểu số từ bỏ quyền mua thêm cổ phần như
không có thông tin rõ ràng về việc phát hành thêm cổ phần; liên tục phát hành cổ
phần tăng vốn điều lệ làm cổ đông thiểu số không có tiền để mua thêm.
Bên cạnh đó cổ đông chiến lược của NHTMCP còn lợi dụng danh nghĩa
của mình để dành quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành với tỷ lệ cao hơn và
mức giá thấp hơn nhiều so với các cổ đông bình thường khác. Những hiện tượng
22 Cao Đình Lành(2014), Bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam- Học viện Khoa học xã hội.
32
nói trên đã vi phạm nguyên tắc đối xử giữa các cổ đông, là hành vi tước đoạt một
phần giá trị tài sản của các cổ đông nhỏ, và đó cũng có thể coi là một hình thức
tham ô giá trị tài sản của công ty.23
2.1.3. Quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần
Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông được ghi nhận trong
Khoản 4, Điều 53 Luật các TCTD năm 2010. Đặc tính của NHTMCP và CTCP
nói chung là việc chuyển nhượng cổ phần một cách tự do. Hoạt động giao dịch
mua bán chứng khoán trên các sàn giao dịch diễn ra hàng ngày làm thay đổi tư
cách cổ đông của một chủ thể trong NHTMCP. Cơ chế tách bạch giữa quyền
quản lý và quyền sở hữu nên việc chuyển nhượng cổ phần không ảnh hưởng đến
việc điều hành công ty. Pháp luật ghi nhận quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của cổ đông ngân hàng bên cạnh một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông ngân hàng bị hạn
chế trong một số trường hợp.(i) Đối với việc chuyển nhượng cổ phần của cổ
đông lớn, chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn trở thành cổ đông thường
và ngược lại, TCTD phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản
trước khi thực hiện các thủ tục thay đổi24. (ii) Đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu
đãi biểu quyết, cổ phần này không được tự do chuyển nhượng. (iii) Tại Điều 56
Luật các TCTD 2014: “Cổ đông là cá nhân, cổ đông là tổ chức có người đại diện
là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám
đốc) của tổ chức tín dụng không được chuyển nhượng cổ phần của mình trong
thời gian đảm nhiệm chức vụ. Trong thời gian đang xử lý hậu quả theo nghị
quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước
do trách nhiệm cá nhân, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát,
Tổng giám đốc (Giám đốc) không được chuyển nhượng cổ phần, trừ một trong 23 T.S Trần Đình Cung, Bàn về quyền của cổ đông và đại hội đồng cổ đông, Tạp chí chứng khoán Việt Nam, Số 5/ 2008, tr. 5-7. 24 Điều 29, Luật các TCTD 2010
33
các trường hợp họ là đại diện theo ủy quyền của cổ đông tổ chức bị sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật; họ bị buộc
chuyển nhượng cổ phần theo quyết định của Tòa án; hoặc chuyển nhượng cổ
phần cho các nhà đầu tư khác nhằm thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất bắt buộc
quy định tại khoản 2 Điều 149 của Luật các TCTD. Trong thời hạn 05 năm, kể từ
ngày được cấp Giấy phép, cổ đông sáng lập chỉ được phép chuyển nhượng cổ
phần cho các cổ đông sáng lập khác với điều kiện bảo đảm các tỷ lệ sở hữu cổ
phần quy định tại Điều 55 của Luật này.
Thứ hai, mặc dù cổ đông được tự do chuyển nhượng cổ phần nhưng
thông tin về việc chuyển nhượng không được công khai dẫn tới quyền lợi không
được đảm bảo. Cụ thể là đối với rất nhiều doanh nghiệp, ngân hàng trước các
thương vụ mua bán, sáp nhập thông thường Ban điều hành và một số cổ đông có
quan hệ nội bộ gần gũi được tiếp cận thông tin, do đó họ có chiến lược nhằm thu
lợi riêng thông qua mua bán lại cổ phần. Thường giá cổ phiếu của công ty bị
thâu tóm, mua lại sẽ tăng khá mạnh trước khi thông tin chính thức được công bố,
những cổ đông lớn sẽ biết được thông tin mật về việc mua bán do đó họ sẽ chủ
động mua cổ phiếu từ khi mới có thông tin nội bộ và bán ra khi thông tin bắt đầu
công khai. Trong khi đó rất nhiều cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ bị hạn chế
trong việc tiếp cận thông tin công khai do đó tiến hành chuyển nhượng cổ phần
muộn và bị ảnh hưởng quyền lợi.
2.1.4. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần
Quyền này được quy định tại Điều lệ công ty theo quy định tại Điều 29
Luật doanh nghiệp 2005 nhằm bảo vệ lợi ích của cổ đông trong trường hợp cổ
đông hay nhóm cổ đông lớn lạm dụng vị thế chi phối đưa ra những quyết định
làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của nhóm cổ đông thiểu số.
34
Đối với cổ đông của NHTMCP thì quy định yêu cầu ngân hàng mua lại cổ
phần chặt chẽ hơn. Điều 57 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng
chỉ được mua lại cổ phần của cổ đông nếu sau khi thanh toán hết số cổ phần
được mua lại mà vẫn bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, giá
trị thực của vốn điều lệ không giảm thấp hơn mức vốn pháp định; trường hợp
mua lại cổ phần dẫn đến việc giảm vốn điều lệ của tổ chức tín dụng thì phải
được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn bản.”
Theo quy định tại Điều 131 của LDN 2014 về điều kiện thanh toán và xử
lý các cổ phần được mua lại và đặc biệt khi cổ phiếu của công ty cổ phần này
được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán thì việc yêu cầu công ty
mua lại cổ phần sẽ khó thực hiện. Theo đó thì việc mua lại cổ phiếu theo yêu cầu
của cổ đông chỉ có hiệu lực sau khi công ty đã thanh toán tiền cho các cổ đông
mà vẫn đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Hơn nữa,
khi một quyết định được thông qua nhưng cổ đông đó không đồng ý thì sẽ có
quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần nhưng nếu tỷ lệ cổ phần của cổ đông đó
quá lớn thì không phải lúc nào công ty cũng có đủ tiền mặt để thanh toán cho
việc mua lại. Một mặt khác là về thỏa thuận giá, khi các bên không thỏa thuận
được một giá cả cả hợp lý thì công ty sẽ giới thiệu ít nhất ba tổ chức thẩm định
giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn25. Tuy nhiên ai sẽ là bên trả chi phí thuê
tổ chức thậm định giá và biện pháp xử lý khi các bên đều không chọn một trong
ba tổ chức thẩm định chuyên nghiệp thì luật lại chưa có quy định.
2.1.5. Quyền nhận tài sản còn lại khi công ty phá sản, giải thể
Liên quan đến nhóm quyền tài sản của cổ đông khi ngân hàng rơi vào tình
trạng kiểm soát đặc biệt, trước khi chính thức được tuyên bố phá sản hay không,
các ngân hàng phải thông qua thủ tục kiểm soát đặc biệt. Việc kiểm soát đặc biệt
đối với tổ chức tín dụng được quy định tại Thông tư 07/2013/TT-NHNN. Theo 25 Khoản 2 Điều 129 LDN 2014.
35
đó kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực
tiếp của NHNN Việt Nam do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng
thanh toán hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật dẫn đến nguy cơ mất an toàn
hoạt động. Khi tổ chức tín dụng được NHNN chấm dứt kiểm soát đặc biệt do
không khôi phục được khả năng thanh toán, NHNN sẽ gửi văn bản tới Tòa án về
việc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi thanh toán và yêu cầu tổ chức tín
dụng đó làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
theo quy định của pháp luật về phá sản. Trong thời gian áp dụng thủ tục kiểm
soát đặc biệt, pháp luật nước ta chưa quy định rõ ràng về các giao dịch liên quan
đến tài sản chủ sở hữu, các giao dịch của HĐQT và người lãnh đạo. Do vậy hệ
quả của những giao dịch này sau khi ngân hàng tuyên bố phá sản cũng không thể
đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.
Pháp luật doanh nghiệp và Luật các TCTD 2010 có ghi nhận quyền nhận
tài sản của cổ đông khi ngân hàng phá sản, giải thể26. Thủ tục phá sản và thứ tự
phân chia tài sản của cổ đông được quy định tại điều 101 chương VII Luật phá
sản 2014. Theo đó việc phân chia giá trị tài sản của tổ chức tín dụng thực hiện
theo thứ tự như sau: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp
đồng lao động và thoả ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản tiền gửi, khoản
tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại tổ chức tín dụng phá
sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam; (iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ
không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo
đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.
Trên cơ sở này có thể thấy rằng quyền nhận lại tài sản của cổ đông trong
ngân hàng không phải là một quyền chắc chắn được thực hiện mà chỉ là khả 26 Khoản 7 Điều 53 Luật các TCTD 2010.
36
năng. Khả năng này có được thực hiện hay không phụ thuộc vào tương quan
giữa nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng đối với các chủ thể và số tài sản còn lại
của ngân hàng khi tuyên bố phá sản giải thể.
Liên quan đến vấn đề quyền tài sản của cổ đông khi ngân hàng phá sản
giải thể có vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo
đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền
bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả
năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.27 Theo đó, người gửi tiền
có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách
bảo hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo
hiểm, khi tổ chức nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán.
Số tiền mà tổ chức bảo hiểm dùng để chi trả cho người gửi tiền sẽ được lấy từ
phí mà ngân hàng tham gia bảo hiểm phải nộp để bảo hiểm cho người gửi tiền.
Khi NHTMCP rơi vào phá sản, nghĩa vụ tài chính đối với chủ nợ thông qua bảo
hiểm tiền gửi được ưu tiên trước. Về nguyên tắc, khoản nợ của doanh nghiệp
phải được hoàn trả bằng chính tài sản của công ty. Trong quan hệ với chủ sở
hữu, chủ nợ có quyền ưu tiên thanh toán các khoản nợ so với quyền nhận lợi
nhuận của chủ sở hữu28. Như vậy trong mối quan hệ giữa cổ đông ngân hàng và
các chủ nợ, khi quyền lợi của các chủ nợ được ưu tiên đảm bảo, thì quyền lợi của
cổ đông cũng đồng thời giảm đi.
2.2. Thực hiện một số quyền chung
2.2.1. Quyền tham gia và biểu quyết quyết tại ĐHĐCĐ
Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật doanh nghiệp 2005 (tương ứng
với điểm a khoản 1 Điều 114 Luật doanh nghiệp năm 2014) thì cổ đông phổ
thông có quyền được tham dự và biểu quyết trong các ĐHĐCĐ. Cổ đông là 27 Khoản 1 Điều 4 Luật bảo hiểm tiền gửi 2012. 28 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Nhưng vấn đề pháp lý về tài chính doanh nghiệp, Nhà xb chính trị quốc gia – sự thật, 2013.
37
những người nắm giữ, sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông đã phát hành của
NHTMCP do đó họ phải có quyền tham gia biểu quyết các hoạt động của công
ty, vì mọi hoạt động đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến quyền và lợi ích
của họ. Tuy nhiên trên thực tế quyền này của cổ đông không được bảo đảm do
Ban điều hành và nhiều cổ đông lớn đã dùng nhiều cách thức để tìm cách triệt
tiêu hoặc hạn chế quyền này của cổ đông.
Thứ nhất, Bằng cách quy định trong giấy mời họp ĐHĐCĐ điều kiện để
cổ đông được tham gia là phải có đủ một lượng vốn tối thiểu mới được tham gia
dự họp. Điều này vô hình chung đã tạo ra sự phân biệt giữa các cổ đông có tỷ lệ
sở hữu cổ phần khác nhau. Trong trường hợp cổ đông không có đủ tỷ lệ cổ phần
theo quy định trong giấy mời họp, họ đương nhiên bị tước đi quyền được tham
dự cuộc họp.
Thứ hai, Quy định nếu cổ đông không tham gia đại hội và thực hiện
quyền biểu quyết của mình thì đương nhiên ủy quyền cho HĐQT số phiếu có
quyền biểu quyết của mình. Quyền biểu quyết là một trong những quyền chung
quan trọng của một cổ đông. Trên thực tế nhiều cổ đông nhỏ có tâm lý không
muốn tham gia ĐHĐCĐ do số cổ phần ít không đủ để tạo ra sự thay đổi khác
biệt cho mỗi quyết định cần biểu quyết. Tuy nhiên việc cổ đông không tham gia
không đồng nghĩa với việc HĐQT có thể tước đi quyền năng đó và nghiễm nhiên
sử dụng nó như là một trong những yếu tố làm gia tăng tính khả thi những quyết
định cần thông qua của mình. Tước đi quyền biểu quyết của cổ đông là vi phạm
trắng trợn tính dân chủ và bình đẳng của các cô đông theo luật Doanh nghiệp,
luật các tổ chức tín dụng nói chung.
Cổ đông có thể thực hiện biểu quyết thông qua hệ thống điện tử. Luật
Doanh nghiệp 2014 ghi nhận tại khoản 2 điều 140, cổ đông có thể tham gia biểu
quyết dưới hình thức khác như tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực
38
tuyến, bỏ phiếu điện tử; gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư,
fax, thư điện tử. Quy định này có thể giúp các cổ đông không cần ủy quyền hoặc
di chuyển trực tiếp đến nơi tổ chức cuộc họp để thực hiện quyền của mình mà
vẫn có thể tham gia biểu quyết. Nhưng trên thực tế hình thức này vẫn còn nhiều
bất cập, chưa được nâng cấp, đồng bộ hoặc khuyến khích thực hiện một cách dân
chủ hiệu quả. Hầu hết các công ty chưa tạo điều kiện để cổ đông thực hiện quyền
biểu quyết ở nước ngoài.29
Thứ ba, HĐQT và Ban điều hành có thể tạo ra những khó khăn nhất định
cho cổ đông tham dự ĐHĐCĐ như: tổ chức cuộc họp ở nhưng nơi cách xa trụ sở
công ty, không bố trí đủ chỗ ngồi cho các cổ đông tham dự gây khó khăn trong
việc theo dõi và thực hiện quyền chất vấn của mình, hoặc không gửi giấy mời
họp kèm hồ sơ tài liệu để cổ đông có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị câu hỏi chất
vấn từ trước.
Thứ tư, ĐHĐCĐ quyết định những vấn đề căn cứ vào ý chí của những cổ
đông chiếm giữ. Nguyên tắc biểu quyết vấn đề theo đa số của NHTMCP dẫn tới
việc khi một nhóm có ảnh hưởng vượt trội thì việc thiết kế và thực hiện chính
sách trong ngân hàng có thể bị làm thiên lệch theo cách có lợi cho họ30. ĐHĐCĐ
với bản chất là cuộc họp để thể hiện quyền lợi của cổ đông một cách dân chủ và
toàn diện nhất vì ở đó các cổ đông được thông qua toàn bộ kế hoạch hoạt động
và những vấn đề hệ trọng nhất của công ty. Tuy nhiên trên thực tế, cổ đông lớn
và Ban điều hành luôn nắm quyền chủ động, dùng nhiều thủ đoạn để đạt được
mục đích, áp đặt ý chí của mình cho công ty mà phớt lờ ý kiến của cổ đông thiểu
số.
29 Phan Hoàng Ngọc, Bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đáp ứng thông lệ và chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, Tạp chí tài chính, Kì 1 – tháng 10/ 2016, tr.51-54. 30 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22 – 25.
39
Thứ năm, quyền chi phối của cổ đông sử hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết
trong 3 năm đầu sau khi thành lập doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới quyền lợi
của các cổ đông khác. Luật các TCTD 2014 quy định chỉ có tổ chức được Chính
phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu
quyết. Quyền ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập có hiệu lực trong 03 năm,
kể từ ngày tổ chức tín dụng được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau
thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ
phần phổ thông.31Như vậy thực tế đối với các NHTMCP được thành lập theo
phương thức góp vốn một phần của cổ đông sáng lập và huy động vốn từ bên
ngoài, nếu quyền ưu đã biểu quyết tập trung vào một số cổ đông sáng lập thì việc
thực hiện quyền ưu đãi biểu quyết sẽ làm vô hiệu hóa quyền của cổ đông phổ
thông nói chung và đặc biệt là cổ đông có vốn góp chi phối ngoài cổ đông sáng
lập.32
2.2.2. Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ
Quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ là một trong những quyền cơ bản
của cổ đông được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 79 Luật doanh nghiệp năm 2005
(tương ứng với điểm c khoản 2 Điều 114 Luật doanh nghiệp 2014). Theo đó thì:
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều này có quyền yêu cầu
triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp: (i) Hội đồng quản trị vi
phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra
quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; (ii) Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị
đã vượt quá 06 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế; (iii)
Trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty.
Khoản 4 Điều 136 Luật doanh nghiệp 2014 quy định rằng nếu Điều lệ
công ty không quy định thời hạn, thì Hội đồng quản trị phải triệu tập họp đại hội 31 Khoản 4 Điều 52 Luật các TCTD 2010. 32 T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20-2014, tr 31. 40
cổ đông trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày số thành viên Hội đồng quản trị ít hơn
số thành viên theo quy định của pháp luật; hoặc nhân được yêu cầu của cổ đông
hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10 % tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn
liên tục ít nhất sáu tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công
ty); hoặc theo yêu cầu của Ban kiểm soát. Trường hợp Hội đồng quản trị không
triệu tập họp đại hội cổ đông trong 30 ngày tiếp theo, Ban kiểm soát sẽ thay thế
Hội đồng quản trị triệu tập đại hội cổ đông theo quy định. Trường hợp Ban kiểm
soát không triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định thì Ban kiểm soát
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại phát sinh cho công
ty. Trường hợp Ban kiểm soát không triệu tập họp đại hội cổ đông trong thời hạn
30 ngày tiếp theo, thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ
phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ
hơn quy định tại Điều lệ công ty) có quyền thay thế Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát triệu tập họp cổ đông theo quy định. Trên thực tế khi cổ đông thực hiện
quyền này thường vấp phải một số khó khăn như:
Thứ nhất, Đối với căn cứ Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền
của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm
quyền được giao thì cổ đông muốn triệu tập ĐHĐCĐ phải cung cấp được các tài
liệu chứng cứ về các vi phạm, mức độ vi phạm. Việc cổ đông phải cung cấp
được các tài liệu, chứng cứ về việc vi phạm là điều rất khó khăn, nhất là đối với
những tài liệu quản trị và chứng từ hóa đơn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, việc
xác định thế nào là vi phạm nghiêm trọng thì luật hoặc các văn bản khác chưa
quy định rõ ràng. Đối với mỗi nhóm quyền lợi khác nhau thì quan điểm và ý kiến
cũng có sự phân hóa khác nhau rõ rệt.
Thứ hai, việc các cổ đông liên kết lại để đạt mức 10% tổng số cổ phần
phổ thông là điều không dễ dàng. Thông thường đối các công ty đã niêm yết
chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, các công ty đại chúng thì mỗi ngày
41
có tới hàng nghìn lượt giao dịch qua lại. Mỗi lần khớp lệnh giao dịch thành công,
tiền chuyền về tài khoản công ty đồng nghĩa với người sở hữu cổ phần sẽ trở
thành cổ đông của công ty. Các cổ đông trong công ty muốn liên kết với các cổ
đông khác để tiến hành yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ thì phải thông qua Trung tâm
lưu ký chứng khoán để có danh sách và thông tin của cổ đông. Hơn thế nữa việc
mua qua bán lại cổ phần để ăn chênh lệch làm cho thành phần và loại cổ đông
trong công ty thay đổi liên tục. Nhìn chung điều này rất khó khăn cho cổ đông
nếu thực sự muốn liên kết với các cổ đông khác để thực hiện quyền yêu cầu triệu
tập cổ đông này.
2.2.3. Quyền tiếp cận thông tin
Cũng như các quyền khác, quyền tiếp cận thông tin một cách công khai là
một trong những quyền cơ bản của cổ đông, được ghi nhận trong luật. Đây là
nhóm quyền quan trọng mà các cổ đông hay sử dụng vì nó ảnh hưởng trực tiếp
đến việc ra quyết định của họ.33 Trong CTCP hay trong NHTMCP, các cổ đông
đều mong muốn có được thông tin trung thực, chính xác để có những quyết định,
điều chỉnh đúng đắn đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình. Đối với một doanh
nghiệp quyền của cổ đông được tiếp cận thông tin công khai được coi như là một
cách để thể hiện sự minh bạch hóa, giúp duy trì được niềm tin của công chúng
vào đầu tư và từ đó có thể huy động vốn dễ dàng khi phát hành cổ phiếu ra công
chúng.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền được thông tin của cổ đông
được tiếp nhận dưới hai góc độ: (i) quyền của cổ đông chủ động tiếp cận, thu
thập thông tin; (ii) quyền của cổ đông được các chủ thể khác cung cấp thông tin.
Thứ nhất. Về nguyên tắc cổ đông là những người chủ công ty nên có
quyền tiếp cận thông tin, tuy nhiên mức độ tiếp cận thông tin của cổ đông lại phụ
33 Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong công ty cổ phần, số 6 (254) – 2009, tr. 29-33.
42
thuộc vào loại cổ phần, tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Cổ đông (sở hữu ít
nhất một cổ phần đã phát hành) có quyền yêu cầu được cung cấp thông tin như:
(i) Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có quyền
biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; (ii) Xem xét, tra
cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông
và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông; (theo Điểm đ, e Khoản 1 Điều 114
Luật doanh nghiệp 2014 và Khoản 5, 6 Điều 53 Luật các TCTD 2010).
Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục ít nhất một năm có quyền tự
mình hoặc cùng với luật sư hoặc kế toán và kiểm toán viên có chứng chỉ hành
nghề trực tiếp xem xét các báo cáo theo quy định trong thời gian hợp lý như: (i)
Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty; (ii) Báo cáo tài chính; (iii) Báo cáo
đánh giá công tác quản lý, điều hành công ty. (Điều 170 Luật doanh nghiệp
2014).
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở
lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định
tại Điều lệ công ty có các quyền: Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị
quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu
của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát. (điểm b khoản
2 điều 114 Luật doanh nghiệp 2014)
Luật doanh nghiệp mới năm 2014 tại Điều 171 đã lược đi điều khoản về
quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Theo quy định tại Điều 129 Luật doanh
nghiệp 2005 cổ đông có quyền xem hoặc sao chép BCTC hàng năm của CTCP
tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Tuy nhiên tới Luật doanh nghiệp
mới thì điều này không còn được ghi nhận nữa.
43
Thứ hai, Trên phương diện công ty cổ phần phải có nghĩa vụ công bố
thông tin. Đối với mỗi loại hình CTCP thì sẽ có nghĩa vụ công bố thông tin khác
nhau.
Đối với hình thức CTCP đại chúng, chế độ công bố thông tin được quy
định rõ ràng trong luật chứng khoán năm 2006 ( Luật sửa đổi bổ sung một số
điều của Luật chứng khoán năm 2010). Đối với CTCP chưa đại chúng, Luật
doanh nghiệp chỉ quy định việc công bố thông tin liên quan đến BCTC, một tài
liệu quan trọng để phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
Về cơ bản pháp luật Việt Nam đã có hành lang pháp lý cụ thể để cho việc công
bố thông tin giúp minh bạch hóa hoạt động của CTCP nhằm bảo vệ nhà đầu tư,
trong đó nhất là cổ đông thiểu số. Tuy vậy, việc vận hành và hiện thực hóa
những cơ chế để đảm bảo quyền này thì không hề được đảm bảo.
Thực tiễn mức độ công khai và minh bạch hóa chưa đáp ứng được yêu
cầu. Trên thực tế có nhiều vụ việc xảy ra ở các công ty do cố tình làm sai lệch số
liệu trong BCTC. Có đôi lúc tình hình kinh tế khóa khăn, các doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả, tê liệt, ít giao dịch thành công và để có được những con số
đẹp họ đã phải vận dụng tới nhiều thủ thuật để làm đẹp số liệu tài chính. Bên
cạnh đó rất ít doanh nghiệp tự nguyện kiểm toán BCTC của mình, do tâm lý sợ
liên quan tới nhiều hoạt động nội bộ không minh bạch.
Quyền xem xét, trích lục sổ sách tài liệu của cổ đông vẫn bị hạn chế. Trên
thực tế có nhiều khi các cổ đông liên kết lại thành nhóm để có quyền tiếp cận
những thông tin của công ty. Tuy nhiên cổ đông không thể có được những chứng
từ, hóa đơn được lưu giữ ở phòng Tài chính- kế toán vì bộ phận này từ chối tiếp
cận. Pháp luật nước ta vẫn còn quá nhiều chỗ chưa quy định rõ ràng, cụ thể do
vậy cổ đông khó có thể tập hợp những chứng cứ vi phạm của Ban điều hành, gây
khó khăn trong quá trình tiến hành khởi kiện.
44
Đối với cổ đông trong các NHTMCP, việc cổ đông không được tiếp cận
với thông tin của công ty hoặc tiếp cận không đầy đủ, chính xác và trung thực là
hiện tượng phổ biến, cổ đông không được nhận thông báo về các quyết định của
ĐHĐCĐ, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không được
nhận thông báo về trả cổ tức, về cổ phiếu thưởng, các thông tin về mua bán sáp
nhập ngân hàng. Mặt khác, việc tiếp nhận thông tin cũng bị mất cân đối giữa các
chủ sở hữu công ty và người trực tiếp điều hành công ty34, do vậy đa số cổ đông
phổ thông – những người không nắm giữ quyền điều hành trong công ty thường
bị bất lợi về quyền được thông tin.
2.2.4. Quyền giám sát của cổ đông
Quyền kiểm soát những giao dịch lớn, tư lợi, nội gián
Bản thân những người làm ở những vị trí quản lý điều hành NHTMCP
thường là những người thực hiện trực tiếp những giao dịch lớn, quan trọng trong
công ty. Họ đồng thời là những người nắm rõ được những thông tin nội bộ trực
tiếp có lợi cho họ do đó có thể dễ dàng tiến hành những giao dịch nội gián. Thực
tế quy định về nội dung và cách thức công khai hóa giao dịch có liên quan chưa
hợp lý và đầy đủ. Bảo vệ cổ đông chính là bảo đảm nhằm giảm thiểu rủi ro bị
chiếm đoạt bởi các giao dịch nội gián của công ty.35
Khoản 2 điều 120 Luật doanh nghiệp 2005 quy định : “Hội đồng quản trị
chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản
doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty”, khoản 3 điều 120: “Đại hội đồng cổ đông chấp
thuận các hợp đồng và giao dịch khác trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
này”. Theo khoản 2 điều 162 Luật doanh nghiệp 2014 đã hạ tỉ lệ HĐQT được 34 Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong công ty cổ phần, số 6 (254) – 2009, tr. 29-33. 35 Phan Đức Hiếu, Bảo vệ cổ đông và một số kiến nghị sửa đổi Luật doanh nghiêp, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 19/2014, tr. 12-14.
45
chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản
của doanh nghiệp ghi trong BCTC gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy
định tại Điều lệ công ty; các hợp đồng và giao dịch khác có giá trị lớn hơn phải
được ĐHĐCĐ chấp thuận. Điều này đồng nghĩa với việc cổ đông thiếu số càng
có cơ hội thông qua các giao dịch lớn của công ty.
Đối với hợp đồng có liên quan đến cổ đông lớn hoặc ban điều hành. Theo
Khoản 1 Điều 162 Luật doanh nghiệp 2014 thì: Cổ đông, người đại diện ủy
quyền của cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và
những người có liên quan của họ; hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc và người có liên quan của họ phải được ĐHĐCĐ hoặc
HĐQT chấp thuận. Những hợp đồng này tiềm ẩn nguy cơ trục lợi của những cổ
đông chiến lược hoặc Ban điều hành có thể lợi dụng vị trí, địa vị của mình để tạo
điều kiện thuận lợi cho mình mình hoặc những người có liên quan. Để cổ đông
thực sự kiểm soát được những giao dịch này đòi hỏi phải có một cơ chế giám sát
nội bộ hoạt động hiệu quả, những quy tắc đạo đức áp dụng cho người quản lý
công ty phải được tuân thủ, do đó quyền kiểm soát những giao dịch này của cổ
đông không hề dễ dàng. Một môi trường pháp lý vững chắc và việc thực thi kiên
quyết là điều quan trọng để kiềm chế các hành vi trục lợi, đảm bảo đối xử công
bằng với tất cả các cổ đông và tạo dựng độ tin cậy cho các nhà đầu tư.36 Bất cập
của nội dung này có thể kể đến liên tiếp những vụ việc sai phạm nghiêm trọng
trong hoạt động quản lý của Ban điều hành cácNHTM. Điển hình là các vụ việc
vi phạm từ người quản trị trong NHTMCP đã bị khởi tố: Trường hợp cuối tháng
7/2014 Ban lãnh đạo VNCB đã bị khởi tố về tội danh “vi phạm quy định về cho
vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” làm thiệt hại nghiêm trọng đối với
hoạt động của VNCB. Kế đó là trường hợp của Oceanbank. Tính đến 31/3/2014,
36 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22 – 25.
46
Oceanbank nợ xấu hơn 14.000 tỷ đồng chiếm 49,84% tổng dư nợ toàn hệ thống;
lợi trước thuế lỗ hơn 10.000 tỷ đồng bằng 249,63% vốn chủ sở hữu (tức âm vốn
chủ sở hữu gần 2,5 lần. Ngày 6/5/2015, Ngân hàng Nhà nước đã mua lại
Oceanbank với giá 0 đồng. Trong quá trình điều hành, chủ tịch HĐQT và các
đồng phạm để xảy ra nhiều vi phạm trong việc cho vay, huy động tiền gửi, chi lãi
suất vượt trần gây thiệt hại nghiêm trọng cho Oceanbank và các cổ đông.
Ở mỗi vụ việc xảy ra, hậu quả để lại trước tiên chính là các cổ đông phải là
người gánh chịu, vì đối với khách hàng, dù ít hay nhiều họ vẫn sẽ được hỗ trợ
đảm bảo quyền lợi từ phía NHNN. Nguyên nhân của những vụ việc này xuất
phát từ quy định pháp luật và cơ chế đảm bảo quyền giám sát của cả cổ đông
nhất là nhóm cổ đông thiểu số còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ; đồng thời quyền
tiếp cận thông tin, chất vấn của cổ đông không được đảm bảo do vậy họ không
thể nắm bắt được tình hình và kiểm soát được hoạt động của Ban quản trị.
Quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của công ty
Quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của công ty, NHTMCP
phụ thuộc vào số lượng cổ phần và thời gian nắm giữ cổ phần. Theo đó có 2
nhóm đối tượng như sau:
Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở
lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn
quy định tại Điều lệ công ty có quyền: Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra
từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty
khi xét thấy cần thiết.
Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất một
năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định của HĐQT
thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt
hại cho công ty thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đo
47
phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đo và phải đền
bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối trách nhiệm nói trên được
miễn trừ trách nhiệm (Theo khoản 4 điều 149 Luật doanh nghiệp 2014).
Tuy nhiên quyền thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động công ty của các
cổ đông không phải là quyền chủ động, họ hoàn toàn bị động do chỉ có
quyền yêu cầu BKS thực hiện. Nếu BKS không thực hiện hoặc thực hiện
qua loa thiếu trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp thì cổ đông sẽ khó có
thể có được những thông tin trung thực. Việc yêu cầu HĐQT đình chỉ thực
hiện quyết định HĐQT trái luật hoặc Điều lệ của công ty cũng khó khả thi
do HĐQT không có trách nhiệm thông báo phiên họp và cổ đông thiểu số
cũng không có quyền dự họp ĐHĐCĐ do vậy nếu công ty không cung cấp
quyết định của HĐQT thì cổ đông thiểu số cũng không thể biết để yêu cầu
HĐQT ngừng thực hiện.
Rất nhiều vụ việc cho tới khi Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về mặt
tài chính, buộc để ngân hàng trung ương can thiệp mua lại với giá 0 đồng như
trường hợp của 3 ngân hàng VNCB, Oceanbank, GPBank năm 2015 thì cổ đông
đều không hay về tình hình của công ty, không có quyền giám sát hoạt động của
Ban lãnh đạo. Tính minh bạch là điều tiên quyết để đảm bảo quyền lợi cân bằng
cho các chủ thể. Ở những nơi mà các quy định pháp luật không đảm bảo được
việc bảo vệ chắc chắn cho cổ đông thì chính ngân hàng phải tăng tính thân thiện
với các nhà đầu tư, bằng cải tiến quản trị thông qua quyền giám sát minh bạch
của cổ đông.
2.2.5. Quyền khởi kiện
Tất cả các cổ đông đều phải đối mặt với các rủi ro, thiệt hại do hành vi của
người quản lý, điều hành công ty có thể gây ra37. Quyền lợi của cổ đông sẽ chỉ là
37 Bùi Xuân Hải, Khởi kiện người quản lý công ty: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong phap luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 1/2011, tr. 29-36.
48
trên giấy nếu thiếu tố quyền, do đó quyền khởi kiện của cổ đông đã được ghi
nhận tại LDN38. Cổ đông có quyền yêu cầu Tòa án hay trọng tài can thiệp để bảo
vệ quyền lợi của mình là một nội dung mới trong LDN ở Việt Nam mà trước đây
Luật Công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp 1999 không có điều khoản nào
quy định. LDN 2014 ghi nhận quyền này của cổ đông tại Điều 161. Bên cạnh đó
thì quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ được cụ thể hóa tại
khoản 1 điều 19 và khoán 1 điều 25 về trường hợp khởi kiện và khoản 2 điều 19
và các khoản 2,3, và 4 điều 25 về trình tự, thủ tục khởi kiện trong Nghị định
102/2010 NĐ/CP của Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010, hướng dẫn thi hành
một số điều của luật doanh nghiệp năm 2005. Ở các nước theo truyền thống án lệ
như Anh, Mỹ, Úc, Canada,…quyền kiện người quản lý công ty là một quyền cơ
bản của cổ đông, cổ đông có thể nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty
để khởi kiện người quản lý công ty.39
Một là, chưa quy định rõ ràng về tư cách khởi kiện của cổ đông. Tại điều
161 luật doanh nghiệp 2016 có quy định quyền khởi kiện đối với thành viên Hội
đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc. Theo đó thì “Cổ đông, nhóm cổ đông
sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có
quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với
thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”40. Tuy nhiên
pháp luật lại không nói rõ đối tượng có quyền khởi kiện có cần thiết phải nắm
giữ cổ phần một cách liên tục từ thời điểm được cho là xảy ra hành vi vi phạm
đến thời điểm khởi kiện hay không; liệu cổ đông nắm giữ 1% cổ phần khởi kiện
là người nắm giữ cổ phần tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm hay tại thời điểm
khởi kiện? Mặt khác trong suốt quá trình diễn ra vụ kiện thì cổ đông khởi kiện có
38 Phạm Duy Nghĩa, Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh với luật công ty năm 2005 của CHNN Trung Hoa, Tạp chí nhà nươc và pháp luật, 2006. 39 Stephen M. Bainbridge, Corporate Law and Economics (2002), tr.362-5. 40 Điều 161, LDN 2014.
49
bắt buộc vẫn là cổ đông của công ty hay không và nếu trường hợp công ty tăng
vốn và cổ đông hoặc nhóm cổ đông không duy trì tỷ lệ tăng theo tương ứng, dẫn
tới hệ quả là chỉ sở hữu dưới 1% tỷ lệ cổ phần thì lúc đó tư cách nguyên đơn của
bên khởi kiện có còn được giữ hay không? Đây chính là những câu hỏi mà rất
nhiều người đã đặt ra cho luật Doanh nghiệp 2014 khi cho rằng quy định đã có
nhưng không cụ thể, có thể dẫn tới lúng túng cho Tòa án khi tiếp nhận đơn kiện
của nguyên đơn.
Hai là, hệ thống pháp luật nước ta chưa có những quy định tương thích
với khái niệm mới trong luật doanh nghiệp về quyền khởi kiện phái sinh và vai
trò đại diện tố tụng. Theo tư tưởng về quyền khởi kiện trách nhiệm dân sự thì
người bị thiệt hại trực tiếp sẽ là người khởi kiện. Tuy nhiên trong NHTMCP
không phải lúc nào hành vi vi phạm của người quản lý cũng gây thiệt hại trực
tiếp tới cổ đông mà sẽ thiệt hại trực tiếp tới công ty đầu tiên, sau đó thiệt hại của
cổ đông mới là gián tiếp. Ở Mỹ, cổ đông có thể nhân danh công ty khởi kiện
người quản lý công ty vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho công ty, mặc dù
hành vi của người quản lý công ty gây thiệt hại cho công ty chứ không gây thiệt
hại trực tiếp cho cổ đông đó41. Ở Nhật Bản, các học giả gọi đại diện tố tụng
không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của cổ đông42, do đó cổ đông có thể tự
mình hoặc thông qua yêu cầu để công ty khởi kiện chính HĐQT hoặc Ban giám
đốc. Việc cổ đông đại diện tố tụng là cách thức để duy trì lợi ích dài hạn của
công ty. Bởi vậy, để cơ chế kiện phái sinh phát huy tốt hiệu quả trong bảo vệ cổ
đông, cần sớm sửa đổi Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng bổ
sung các nội dung về trình tự, thủ tục của cơ chế khởi kiện phái sinh đồng thời
coi quyền khởi kiện của cổ đông như là cách thức để duy trì lợi ích chung của
công ty chứ không phải là lạm dụng quyền khởi kiện cho cá nhân.
41 Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ phần, 2004, tr.270. 42 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Đại diện tố tụng của cổ đông ở Nhật Bản, số 12/ 2005, tr. 60-63.
50
2.3. Những bất cập phát sinh trong hoạt động quản trị và tái cơ cấu
NHTMCP.
Vai trò của Hội đồng quản trị chưa đảm bảo quyền lợi của cổ đông.
HĐQT đóng vai trò chính nhất trong nhiệm vụ đảm bảo hoạt động của công
ty tuân thủ theo pháp luật, tuân thủ điều lệ và quy định nội bộ của công ty, đối xử
bình đẳng đối với tất cả các cổ đông và tôn trọng lợi ích của người có quyền liên
quan đến công ty. HĐQT được bầu ra với mục đích và kỳ vọng là vì quyền lợi
của tất cả các cổ đông một cách bình đẳng nhưng ở Việt Nam, HĐQT đang đóng
3 vai trò: vừa đóng quyền đại diện cổ đông lớn, vừa quản lý công ty, vừa kiểm
soát cả BKS. Chính vì điều này mà ở nhiều công ty, HĐQT chi phối, kiểm soát
mạnh và chỉ phục vụ lợi ích của đa số cổ đông lớn trong công ty.
HĐQT ở Việt Nam gồm từ 3-11 thành viên, đa số thành viên là cổ đông lớn,
hoặc đại diện của cổ đông lớn, trực tiếp nắm giữ những chức danh khác nhau
trong công ty; 67% số lượng các công ty được khảo sát có Chủ tịch HĐQT đồng
thời kiêm GĐ, TGĐ.43 Điều này vô hình chung dẫn tới hệ quả là cổ đông thiểu số
khó có thể chi phối hay ảnh hưởng đến các quyết định của HĐQT, lại càng khó
có thể giám sát những đối tượng này. Theo quy định của LDN thì cổ đông có
quyền đề cử người vào HĐQT hay có thể tác động tới thành phần HĐQT thông
qua việc sử dụng dồn phiếu ngay cả trong trường hợp các thành viên HĐQT
được đề cử hoặc bầu chọn lại theo định kỳ. Tuy nhiên trên thực tế thì thực tế các
NHTMCP ít ghi nhận quyền này của cổ đông. Ngay cả khi quyền này được ghi
nhận thì LDN 2014 đã vô hình chung có thể vô hiệu hóa nó bằng quy định tại
Khoản 2 Điều 156. Theo đó thì các thành viên HĐQT được bầu này đều có thể bị
bãi nhiệm bất cứ lúc nào theo nghị quyết của ĐHĐCĐ. Nếu các cổ đông lớn sử
dụng điều khoản này để tiến hành thông qua nghị quyết bãi nhiệm thành viên
43 Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học.
51
HĐQT đại diện cho cổ đông thiểu số thì lúc này quyền lợi của cổ đông thiểu số
không thể được đảm bảo như tinh thần mà luật ghi nhận nữa.
Trong khi HĐQT và những người quản lý được trao cho những quyền năng
quan trọng để điều hành hoạt động ngân hàng nhưng đối với những vi phạm
trong hoạt động của các chủ thể này chưa có các quy định về trách nhiệm đền bù
thiệt hại. Quy định về trách nhiệm dân sự trong LDN chưa đề cập đến bảo vệ lợi
ích của bên thứ ba khi có các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động tài chính
của CTCP44. Vì thiếu các quy định về trách nhiệm đền bù thiệt hại nên khi xảy ra
vi phạm tại hoạt động của các NHTMCP, cổ đông hầu hết bị thiệt hại mà không
có cơ chế đảm bảo quyền lợi chính đáng cho mình.
Hoạt động của Ban kiểm soát còn mờ nhạt
Ban kiểm soát trong NHTMCP là một thành phần bắt buộc khi ngân hàng có
từ 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ
phần của ngân hàng. Theo quy định của LDN 2014 và Nghị định số
59/2009/NĐ-CP thì BKS là cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng nhằm đánh
giá chính xác hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của ngân hàng. BKS
của ngân hàng có tối thiểu 03 thành viên, số lượng cụ thể do Điều lệ ngân hàng
quy định, trong đó phải có ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số thành viên là
chuyên trách. BKS có đặc quyền đó là có bộ phận giúp việc và được sử dụng bộ
phận kiểm toán của ngân hàng để thực hiện các nhiệm vụ của mình.
Theo luật doanh nghiệp 2014 thì BKS rất nhiều nhiệm vụ và quyền hạn liên
quan tới vai trò kiểm soát của mình. Tuy nhiên những quyền hạn của BKS chỉ
được giới hạn trong những quyền yêu cầu cung cấp thông tin tài liệu cho việc
kiểm soát và chế độ báo cáo ngay cho cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty, các
44 T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2013), Sửa đổi Luật doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02+03/2013, tr 78-84
52
thành viên khác. Những quyền này không mang lại cho BKS thẩm quyền thực sự
để can thiêp vào các hành vi vi phạm của các chủ thể quản lý khác. BKS không
thể can thiệp dưới mọi hình thức để đình chỉ các hành vi xâm phạm lợi ích của
công ty và cổ đông khác. Như vậy theo quy định của LDN thì BKS vẫn không
phải là một cơ quan có thực quyền bởi những hoạt động và kết quả hoạt động
bằng văn bản của BKS ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa cảnh
báo. Ngay cả khi phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý công ty của HĐQT
hoặc BGĐ, BKS cũng chỉ có quyền yêu cầu các cá nhân liên quan chấm dứt
hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. BKS không có quyền sa thải
người lao động nếu họ sai phạm (điều 106 Luật doanh nghiệp 2014).
Một số vấn đề bất cập còn tồn tại trong thực tiễn hoạt động của BKS phải kể
đến cách thức bầu chọn thành viên BKS. Thành viên của ban này thường là do
HĐQT lựa chọn do vậy tính độc lập trong hoạt động của BKS mặc dù luật có
quy định nhưng không ai đảm bảo được họ sẽ hoạt động công tâm khách quan.
Thêm vào đó, thực tiễn cổ đông đa số chi phối HĐQT, BKS thông quan đề cử,
ứng cử từ ĐHĐCĐ; hoặc giới hạn số lượng thành viên BKS tới mức thấp nhất để
tước đi cơ hội và tỷ lệ được tham gia của nhóm cổ đông thiểu số. Quy định
“Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng
đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan đại diện chủ sở hữu của công ty, thành
viên Hội đồng thành viên của công ty, phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc
và Kế toán trưởng của công ty, kiểm soát viên khác của công ty” không bao quát
hết với trường hợp nhờ người khác đứng tên hộ nắm cổ phần chi phối, cổ đông
lớn (trên 5%).
Bất cập trong bảo vệ cổ đông từ việc mua lại NHTMCP với giá 0 đồng
53
Trong những năm qua một số ngân hàng trong thời gian hoạt động đã bộc lộ
nhiều yếu kém, việc quản trị và điều hành vi phạm nghiêm trọng quy định của
pháp luật. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản của
ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt các ngân hàng này vào tình trạng kiểm soát
đặc biệt. Với tổn thất tài chính nặng nề, trong khi chính các ngân hàng này
không có các giải pháp khả thi để tăng vốn điều lệ đảm bảo mức vốn pháp định
theo yêu cầu của NHNN, nhằm xử lý dứt điểm các vấn đề tồn tại yếu kém của
ngân hàng, căn cứ các quy định hiện hành, NHNN đã tuyên bố mua bắt buộc
toàn bộ cổ phần của các cổ đông hiện hữu tại một số ngân hàng điển hình trong
năm 2015 như: VNCB, Oceanbank, GP.Bank.
Cơ sở pháp lý để NHNN mua ngân hàng trong diện kiểm soát đặc biệt với
giá 0 đồng là Điều 149 Luật Các TCTD nêu rõ: NHNN có quyền trực tiếp mua
hoặc chỉ định TCTD khác mua lại ngân hàng yếu kém, những ngân hàng thuộc
diện kiểm soát đặc biệt, nếu ngân hàng đó không thực thiện được việc tăng vốn,
không thực hiện phương án tăng vốn theo quy định của NHNN. Trên cơ sở đó
năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 48, hướng dẫn cụ
thể về trình tự thủ tục, các hình thức, biện pháp mua lại các ngân hàng trong diện
kiểm soát đặc biệt bao gồm định giá cổ phiếu, quyền các bên liên quan.Việc mua
lại các ngân hàng 0 đồng của NHNN chưa từng có tiền lệ trước thời điểm nó xảy
ra, có nghĩa là không có một cơ chế hay quy định trực tiếp nào về quyền lợi của
cổ đông trong những trường hợp này. Đối với mỗi ngân hàng, khi xảy ra tình
trạng mua lại với giá 0 đồng, quyền lợi của các cổ đông vẫn còn là một bài toán
không có lời giải thỏa đáng.
Thứ nhất, khi các ngân hàng bị mua lại với giá 0 đồng, đồng nghĩa với việc
quyền sở hữu của các cổ đông hiện hữu bị chấm dứt. Khi mua lại ngân hàng với
giá 0 đồng, NHNN sẽ trở thành chủ sở hữu duy nhất với 100% vốn sở hữu của
ngân hàng đó, ngân hàng 0 đồng lúc này trở thành NHTM một thành viên nhà
54
nước. Đối với các cổ đông của NHTMCP, việc ngân hàng của họ làm ăn thua lỗ,
số vốn cổ phần của cổ đông bị suy giảm giá trị là điều có thể lường ra; tuy nhiên
đối với trường hợp mất trắng chỉ trong nháy mắt lại là điều cổ đông chưa thể
nghĩ đến. Việc đột nhiên mất hoàn toàn quyền sở hữu của mình tại ngân hàng đối
với cổ đông có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều so với việc ngân hàng bị phá sản.
Vì dù ngân hàng có bị phá sản, thì cũng phải giải quyết qua nhiều năm tháng và
cổ đông vẫn có quyền hy vọng vớt vát được một phần vốn thông qua việc thu hồi
các khoản tiền. Ngay khi có quyết định mua lại các ngân hàng trên với giá 0
đồng, các cổ đông hiện hữu của ngân hàng bị chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và
tư cách cổ đông.
Thứ hai, Quyền tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động đối với các ngân
hàng 0 đồng của cổ đông bị hạn chế. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014
và Luật các TCTD 2010 về quyền chung của cổ đông là có quyền tiếp cận thông
tin một cách công khai. Thực tế từ những lần các ngân hàng 0 đồng được mua,
cho thấy cổ đông không hề có quyền chủ động tiếp cận và được thông tin về tình
hình của công ty, dẫn tới tình trạng bị động. Trên bình diện pháp lý, quyền của
cổ đông nhỏ được xây dựng như một định chế, đó là có quyền được truy vấn ban
điều hành, HĐQT của ngân hàng mình góp vốn; hay như các ngân hàng đều phải
có thành viên HĐQT độc lập để bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông nhỏ. Tuy
nhiên, những quyền này gần như không có thực chất trong việc bảo vệ quyền cho
cổ đông nhỏ. Với những ngân hàng yếu kém bị mua lại 0 đồng như GP.Bank
(ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu), VNCB đã rất nhiều năm không có báo
cáo tài chính nhưng những cổ đông nhỏ lẻ cũng không đòi hỏi. Nhiều cổ đông
cho rằng họ vẫn nhận được báo cáo tài chính về hoạt động kinh doanh rất khả
quan của ngân hàng. Lấy ví dụ như trường hợp của OceanBank: Năm trước khi
có quyết định bị mua lại từ NHNN, OceanBank còn được vinh danh là 1 trong
200 doanh nghiệp phát triển nhanh và lành mạnh. Đến quý 3/2014 còn nhận
55
những giải thưởng quốc tế như ngân hàng bán lẻ tốt nhất của năm... Tuy nhiên
khi NHNN có thông báo kiểm soát đặc biệt rồi cho thời gian ngắn ngủi để tăng
vốn, và sau đó là quyết định mua lại bắt buộc, cổ đông bỏ vốn vào bị mất trắng,
các doanh nghiệp làm ăn khó khăn lại mất hết cả vốn hàng trăm tỷ đồng. Chính
vì bất cập trong việc công khai thông tin dẫn tới việc cổ đông, đặc biệt là cổ
đông nhỏ hoàn toàn bất ngờ khi được tin ngân hàng mình đang đóng góp cổ phần
trở thành ngân hàng thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà nước. Có thể thấy đây là bất
cập lớn trong hệ thống pháp luật để giải quyết vấn đề này, đảm bảo quyền lợi cao
nhất cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, Không có cơ chế đền bù thiệt hại cho cổ đông khi xảy ra sai phạm
của người quản lý. Khi rất nhiều cổ đông góp vốn để thành lập và gia tăng nguồn
vốn hoạt động ngân hàng, họ trao quyền cho Ban điều hành đại diện và thực hiện
tất cả các hoạt động để thu về lợi nhuận. Trên thực tế ngay cả khi ngân hàng
không chi trả cổ tức, hay làm ăn thua lỗ, lãnh đạo thuộc Ban điều hành vẫn được
hưởng thù lao rất cao, trong khi cổ đông không được nhận một chút lợi nhuận
nào. Vì vậy khi xảy ra thất thoát, yếu kém và nợ xấu quá cao, NHNN buộc phải
can thiệp thì chính đội ngũ lãnh đạo phải là người có trách nhiệm trong trường
hợp này. Theo lý thuyết cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn
góp, ở trường hợp đối với các ngân hàng 0 đồng, để đảm bảo một chút quyền lợi
của cổ đông (nhất là các cổ đông nhỏ - những chủ thể không hề biết chút thông
tin về tình hình hoạt động của ngân hàng) các cổ đông thuộc Ban điều hành phải
giải trình trách nhiệm cụ thể. Tuy nhiên pháp luật chỉ truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm
trọng mà chưa có các cơ chế về dân sự để khắc phục và đền bù thiệt hại cho các
cổ đông khác trong những trường hợp này.
Quyền lợi của cổ đông bị giảm do nợ xấu
56
Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó điển hình là vấn đề nợ xấu. Nợ xấu
đã trở thành một nỗi lo thường trực của nhiều ngân hàng thương mại không chỉ ở
trên thế giới mà còn ở hệ thống các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại
tại Việt Nam. Nợ xấu đã, đang và có thể sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến việc
lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế. Trong những yếu tố tác động của nợ xấu,
quyền lợi của cổ đông trong các ngân hàng sẽ bị tác động đầu tiên.
Nợ xấu xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn
phải kể đến là năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém. Các ngân
hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính
xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác.
Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho những dự án không an toàn hoặc cho doanh
nghiệp có quan hệ thân thiết. Bên cạnh đó việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát
cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến không thu
hồi được vốn.
Khi tỷ lệ nợ xấu cao sẽ dẫn tới rất nhiều tác động tiêu cực, đứng trên phương
diện quyền của cổ đông có thể thấy như sau: Trước tiên lợi nhuận của cổ đông sẽ
giảm sút. Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn
vốn của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi
trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi
nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù
đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các
NHTM. Mặt khác, để khắc phục được tình trạng nợ xấu, các ngân hàng phải thực
hiện biện pháp trích lập quỹ và sử dụng quỹ dự phòng. Số tiền để trích lập quỹ
dự phòng tính vào chi phí của ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận mà
cổ đông đáng được hưởng. Trong trường hợp phải quyết liệt xử lý nợ xấu theo
cách buộc các ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro đủ cho số nợ xấu, thì các
57
ngân hàng sẽ mất vốn chủ sở hữu. Thậm chí, còn đẩy vốn chủ sở hữu tại một số
ngân hàng xuống thấp hơn mức quy định là 3.000 tỷ đồng, hoặc âm vốn. Tới
đây, hệ lụy kéo theo có thể khiến ngân hàng rơi vào tình trạng bị kiểm soát đặc
biệt, thậm chí là tiếp tục bị mua lại với giá 0 đồng hoặc tái cơ cấu không đảm
bảo được quyền lợi cho cổ đông.
Quyền lợi của cổ đông không được đảm bảo sau tái cơ cấu.
Trên thực tế hoạt động ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều hơn, nhưng luôn
luôn tiềm ẩn những nguy cơ về khả năng thanh khoản, nợ xấu và đứng trước
nguy cơ phá sản nếu hoạt động không đủ mạnh mẽ, cứng rắn. Ở mỗi tình huống
cụ thể sau khi các ngân hàng vấp phải khó khăn về tài chính không thể tự mình
giải quyết hiệu quả thì việc tái cơ cấu lại tiếp tục đặt ra. Nhìn trên phương diện
quyền lợi của các nhà đầu tư sau mỗi lần tái cơ cấu thì câu chuyện được mất rất
khó xác định. Rõ ràng nhất phải kể đến thương vụ sáp nhập giữa Ngân hàng cổ
phần nhà Hà Nội đầu tiên Habubank (HBB) với Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Hà
Nội (SHB) năm 2012. Trong vụ sáp nhập điển hình này, quyền lợi của đại đa số
cổ đông ngân hàng SHB được cho là chưa cân bằng.
Về lý thuyết, quyền lợi của các cổ đông của cả SHB và HBB sau vụ sáp nhập
này đều được đảm bảo. Theo đó, cổ đông đang nắm giữ 1 cổ phiếu HBB sẽ được
hoán đổi 0,75 cổ phiếu SHB và cổ đông đang nắm giữ 1 cổ phiếu SHB sẽ được
thêm 0,21 cổ phiếu. Song đó không phải là điều mà các cổ đông của SHB lo
ngại, mà cổ đông SHB đã phải đối mặt với trục trặc trong hoạt động sau khi sáp
nhập, khi đó lợi ích của cổ đông khó lòng được đảm bảo.Trước tiên khi 2 ngân
hàng này sáp nhập, SHB sẽ phải thành lập ban quản lý, xử lý nợ để làm việc với
từng doanh nghiệp để giải quyết 3.729 tỷ đồng nợ xấu mà HBB để lại. Những
khoản nợ khó thu hồi từ Bianfishco mà HBB đã rót vào công ty này hay khoản
nợ tại Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Kenmark, nơi cả SHB và HBB đều
58
cho vay (riêng SHB cho vay 14,5 triệu USD)... Ngoài ra, SHB phải gánh thêm
một số công ty con của HBB đang hoạt động không hiệu quả, bỏ ra nhiều khoản
chi phí để thay đổi thương hiệu, hình ảnh của các chi nhánh, văn phòng giao dịch
của HBB; chi phí hoán đổi cổ phiếu HBB thành SHB... Tất cả những thay đổi
trên khiến cổ đông SHB suy nghĩ là liệu giá trị cổ phiếu của SHB có bị hạ thấp
và cổ tức năm tới còn lại bao nhiêu khi ngành ngân hàng kinh doanh ngày càng
khó khăn. Bên cạnh đó, mâu thuẫn về mục tiêu và tầm nhìn của các ông chủ mới
sau khi sáp nhập, hợp nhất trở thành rào cản mới trong kinh doanh.
Một mặt khác là về việc tiếp cận thông tin của cổ đông. Thông tin ngân hàng
sáp nhập cần được bảo mật, nhưng đã có người tiếp cận được thông tin và vi
phạm nguyên tắc bảo mật được NHNN quy định. Như vậy với việc thông tin quy
định cần bảo mật được tiết lộ ra ngoài, chắc chắn có những người được hưởng
lợi và những người bị thua thiệt. Quan trọng hơn sự thiếu cẩn trọng và tinh tế
trong bạch hóa thông tin khiến cho niềm tin của cổ đông và nhà đầu tư bị giảm
sút rất nhiều, cũng rất khó có thể khẳng định là có hay không người lợi dụng
thông tin để trục lợi. Trong trường hợp này quyền lợi của các cổ đông đặc biệt là
các cổ đông nhỏ đã bị xem nhẹ.
Về phương diện công bố thông tin tài chính, cổ đông của HBB cũng không
được đảm bảo ở thời điểm xảy ra yêu cầu sáp nhập. Tại phiên họp ĐHĐCĐ
thường niên Habubank bất ngờ công bố thực trạng tài chính tồi tệ của mình đang
gặp phải, điều này khiến các cổ đông hoàn toàn bị động, dù cổ đông hoàn toàn
lường trước kết quả hoạt động của ngân hàng thời gian vừa qua là không tốt. Cổ
đông hoàn toàn hoang mang lo ngại, không biết về mức độ tin cậy và tính chính
xác của các báo cáo tài chính và hoạt động kiểm toán. Cổ đông cho rằng tới tận
lúc công bố sáp nhập thì các thông số về hoạt động yếu kém của HBB mới được
công khai khiến cổ đông HBB cảm thấy hẫng hụt và đành phải lựa chọn phương
án cuối cùng là chấp nhận để sáp nhập.
59
Các quy định về tình trạng sở hữu chéo ngân hàng gây bất lợi gián
tiếp đến quyền lợi của cổ đông.
Tình trạng sở hữu chéo là một đặc thù trong hoạt động ngân hàng, bên cạnh
những tác động tích cực như giúp ngân hàng nhỏ mở rộng được quy mô, nâng
cao được năng lực về tài chính, công nghệ, nhân sự…, sở hữu chéo trong hệ
thống ngân hàng đang ngày càng bộc lộ nhiều bất cập. Sở hữu chéo trong
NHTMCP ở nước ta hiện nay có thể theo các dạng như sau: (i) Cổ đông chiến
lược nước ngoài tại các NHTM, (ii) Cổ đông tại các NHTM là các Cty quản lý
quỹ, (iii) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần, (iv) Sở hữu lẫn
nhau giữa các NHTM cổ phần, (v) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn,
tổng Cty Nhà nước và tư nhân.45
Tác động tiêu cực của chính sách tiền tệ, sở hữu chéo đối với quyền lợi của
cổ đông có thể hạn chế thực chất cạnh tranh, tạo ra hiện tượng vốn ảo, và cản trở
việc thực hiện quyền sở hữu46. Việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng tạo điều
kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được
vốn từ ngân hàng kia. Khi bị lạm dụng có chủ đích với quy mô lớn và thường
xuyên, sở hữu chéo tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng, vô hiệu
hóa các giới hạn và nguyên tắc an toàn tín dụng theo quy định hiện hành, nguồn
vốn và các dòng tiền của các ngân hàng không được đánh giá đúng và giám sát
chặt chẽ, sự thâu tóm bất hợp pháp thậm chí biến ngân hàng thành công ty gia
đình hay chỉ của một vài cá nhân.
Sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối với các
doanh nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho
phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM
45 Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội. 46 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11 – 2005, tr 53-54.
60
có thể gây áp lực (một cách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị
với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án
không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngân hàng của mình. Mặc dù theo
quy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn,
nhưng các ngân hàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con
của các doanh nghiệp vay vốn. Mặt khác, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của
ngân hàng chi phối lạm dụng quyền lực buộc ngân hàng mà mình có thể chi phối
cấp tín dụng để phục vụ lợi ích cá nhân.
Bên cạnh đó các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự
phòng rủi ro của NHNN có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi
khách hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản
vay thành nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ
xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng
A có sở hữu) cho vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến
NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Pháp
luật Việt Nam còn chưa ghi nhận rõ ràng về tình trạng sở hữu chéo dẫn đến
những bất cập trong hoạt động của NHTMCP. Ở Nhật Bản, hình thái sở hữu
chéo đã được pháp luật thừa nhận trên nguyên tắc giảm tác hại phát sinh trong
quá trình tồn tại47. Pháp luật Nhật Bản hạn chế việc sở hữu cổ phần theo Luật
cấm độc quyền, cấm công ty con sở hữu cổ phần của công ty mẹ theo Luật
thương mại, hạn chế thực hiện quyền biểu quyết của công ty liên quan và công
khai sở hữu cổ phần chéo. Nên chăng pháp luật Việt Nam cũng cần có những cơ
chế cần thiết và hợp lý để kiểm soát tình trạng sở hữu chéo này, bảo đảm cho
hoạt động của ngân hàng diễn ra lành mạnh trên số tiền mà các cổ đông nhỏ đã
bỏ ra với tâm huyết hoạt động thực tế mang lại lợi ích.
47 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11 – 2005, tr 53-54.
61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Toàn bộ chương 2, khóa luận trên cơ sở phân tích các quy phạm pháp luật
điều chỉnh quyền của cổ đông trong CTCP nói chung và NHTMCP nói riêng, từ
đó đưa ra những đánh giá tính hạn chế của pháp luật về bảo vệ cổ đông trong
NHTMCP nước ta hiện nay. Khóa luận đã đưa ra những bất cập và thực trạng áp
dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong NHTMCP thông qua việc
thực hiện một số quyền cơ bản trong nhóm quyền tài sản và nhóm quyền chung.
Mặc dù các quyền cơ bản đều được ghi nhận trong luật nhưng trên thực tế các
quyền này đều bị hạn chế khi áp dụng cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện.
Bên cạnh đó thông qua tham khảo, tổng kết những hiện trạng về thực tiễn
bảo vệ cổ đông trong NHTMCP ở nước ta trong những năm gần đây, khóa luận
đã đưa ra những vấn đề bất cập nổi bật và đặc thù trong hoạt động của các
NHTMCP như thực tiễn hoạt động quản trị của HĐQT và Ban giám đốc, sự mờ
nhạt khi thực hiện vai trò của BKS; bất cập qua các thương vụ sáp nhập ngân
hàng không đảm bảo quyền lợi của cổ đông; các trường hợp NHNN mua lại các
NHTMCP yếu kém với giá 0 đồng, tình trạng nợ xấu và thực tế sở hữu chéo của
các ngân hàng ảnh hưởng quyền lợi của cổ đông. Bằng việc phân tích những
thực tiễn cơ bản về bảo vệ cổ đông ở một số ngân hàng trong những năm gần
đây, qua đó khóa luận muốn đưa ra thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ cổ
đông trong NHTMCP ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém. Pháp luật cần có
những thay đổi phù hợp để đảm bảo quyền lợi của cổ đông trong CTCP nói
chung và NHTMCP nói riêng.
62
CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông.
Quan điểm hoàn thiện pháp luật của Đảng theo Chiến lược phát triển kinh
tế- xã hội 2011- 2020 thể hiện rõ rằng phát triển nhanh gắn liền với phát triển
bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt tròn Chiến lược. Phát triển
đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực phát
triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó nền kinh tế thị trường sẽ được đẩy mạnh
phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên định
mục tiêu phát triển gắn liền với đảm bảo công bằng lợi ích phải được áp dụng
trong CTCP đặc biệt liên quan đến cổ đông của NHTMCP - loại hình công ty cổ
phần đặc biệt trong xã hội. Khi đảm bảo được môi trường cạnh tranh bình đẳng,
minh bạch, cổ đông nhất là nhóm cổ đông thiểu số sẽ kiểm soát được hoạt động
của công ty, khuyến khích các cổ đông tin tưởng và bỏ vốn đầu tư, ổn định
TTCK tao thành kênh huy động vốn lành mạnh để phát triển kinh tế một cách
bền vững.
Hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp nói chung và pháp luật về các tổ chức
tín dụng, kịp thời đưa ra các nghị định, thông tư gắn liền với hoạt động của
NHTMCP trong đó có pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông không chỉ nhằm khắc
phục những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tiễn bảo vệ cổ đông mà còn xuất
phát từ yêu cầu phát của nền kinh tế thị trường, cũng như đòi hỏi hội nhập kinh
tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay cho
thấy đã đến lúc các CTCP, NHTMCP cần nghiên cứu và áp dụng những chuẩn
mực về quản trị công ty trong đó vấn đề bảo vệ cổ đông là trung tâm. Hoàn thiện
63
pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông để hạn chế sự thiếu đồng bộ và bất cập trong hệ
thống pháp luật kinh tế đặc biệt là luật Doanh nghiệp 2014 và luật các tổ chức tín
dụng năm 2010. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ cổ đông trên cơ sở các
nguyên tắc:
Thứ nhất, tôn trọng nguyên tắc đối vốn trong công ty cổ phần. Nguyên
tắc này xuất phát từ nền tảng hình thành và cơ sở phát sinh lợi ích của
NHTMCP. Thực chất nguyên tắc này xuất phát từ quyền và nghĩa vụ của cổ
đông phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông đó sở hữu. Dù bảo vệ cổ đông thiểu
số cũng cần cân nhắc tới quyền lợi tự nhiên và hợp lý của cổ đông chiến lược,
tránh tình trạng thiên vị và gây khó dễ đối với cổ đông lớn và ban điều hành
trong công ty. Hoàn thiện pháp luật gắn trong sự hài hòa quyền lợi giữa các
nhóm cổ đông và cùng vì mục đích phát triển chung của CTCP.
Thứ hai, đối xử công bằng giữa các cổ đông. Đây là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu cần được tôn trọng. Mỗi cổ đông trong công ty cổ phần đều bỏ
tiền ra đầu tư trước tiên vì lợi ích chung nên quyền lợi của họ cần được đảm bảo.
Các cổ đông không phân biệt là cổ đông đa số hay thiểu số, cổ đông trong nước
hay cổ đông nước ngoài, cổ đông là cá nhân hay tổ chức, cổ đông tư nhân hay
nhà nước thì đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Tất cả các cổ đông đều
phải được đối xử như nhau trong những tình huống khác nhau, không được phân
biệt đối xử, không chèn ép và xâm hại tới lợi ích của cổ đông thiểu số.
Thứ ba, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ phù hợp với pháp luật Việt
Nam nói chung. Hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ và hoàn thiện là cơ sở
cho các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cổ đông áp dụng có
hiệu quả. Chính sự thống nhất và đồng ộ trong các quy định pháp luật sẽ tạo
hành lang pháp lý an toàn để bảo vệ cổ đông. Việc sửa đổi, bổ sung phải được
xem xét một cách tổng thể đảm bảo tính đồng bộ thống nhất với hệ thống pháp
64
luật Việt Nam nói chung giữa các loại luật: Luật doanh nghiệp, Luật chứng
khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kiểm toán độc lập…
Thứ tư, pháp luật bảo vệ cổ đông phải phù hợp với thông lệ quốc tế:
Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo các quy định của pháp luật quốc gia
phải phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.
Trong vấn đề bảo vệ cổ đông nói chung, doanh nghiệp và NHTMCP có thể tham
khảo bộ quy tắc quản trị của OECD để có những quy định chuẩn mực, hài hòa,
tiến tới một môi trường kinh doanh đầu tư lành mạnh, hấp dẫn các nhà đầu tư
nước ngoài.
3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông. 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông
Quy định về quyền của cổ đông là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để
bảo vệ cổ đông, là phương tiện để cổ đông có thể sử dụng để bảo vệ mình48.
Muốn nâng cao hiệu quả và đảm bảo sự đồng bộ trong hoạt động của các
NHTMCP hiện nay cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của cổ đông nhất
là cổ đông thiểu số để mỗi nhà đầu tư thấy được và tự mình bảo vệ quyền lợi của
mình.
Một là, tập trung bảo vệ quyền của cổ đông tại các phiên họp, cải thiện
quyền biểu quyết của cổ đông trong một số trường hợp đặc biệt khi quyết định
của công ty có nguy cơ xâm hại trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông NHTMCP.
Ở Việt Nam tỷ lệ thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ theo luật doanh nghiệp
2014 đã giảm xuống còn 51% so với tỷ lệ 75% hoặc 65% số phiếu biểu quyết tán
thành. Thực chất việc giảm tỷ lệ này có thể xuất phát từ một số nguyên nhân
như: (i) Khi tham gia WTO, Việt Nam đã cam kết hạ tỷ lệ này xuống còn 51%
cho phù hợp với thông lệ quốc tế khi thông qua Nghị quyết của ĐHĐCĐ; (ii)
48 T.S Bùi Xuân Hải, Biện pháp bảo vệ cổ đông, thành viên công ty: Lí luận và thực tiễn, Tạp chí luật học số 3/2011, tr. 10-17.
65
Việc quy định tỷ lệ thông qua như vậy là quá cao, rõ ràng quy định một mức tỷ
lệ để bảo vệ quyền lợi của cổ đông bằng cách đặt cho nó một tỷ lệ thông qua lớn,
đảm bảo cho vấn đề được lựa chọn chấp thuận có tính chính xác và hợp lý cao
hơn. Nhưng thực chất điều này lại gây khó khăn cho việc thông qua các Nghị
quyết của ĐHĐCĐ, gây lãng phí thời gian và đôi khi làm mất đi cơ hội phát triển
cho công ty. Trên tinh thần kết quả thông qua theo số đông ở một tỷ lệ nhất định
theo quy định, nếu tỷ lệ để thông qua được quy định càng cao thì cổ đông càng
đảm bảo được quyền lợi của mình. Xét trên phương diện quyền lợi chung thì một
quyết định được thông qua trên sự đồng thuận của càng nhiều người thì yếu tố
hợp lý càng cao và do đó càng được sự ủng hộ để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.
Xét trên phương diện của nhóm cổ đông thiểu số thì tỷ lệ được quy định càng
cao thì họ càng có cơ hội phủ quyết những nghị quyết xâm hại tới quyền lợi
chung và quyền lợi của họ. Các cổ đông thiểu số chỉ cần liên kết với nhau tạo
thành nhóm không tán thành sao cho số cổ phiếu của cổ đông lớn hơn không đủ
quyền phủ quyết là họ đã có thể tự bảo vệ mình. Như vậy quy định một tỷ lệ
thông qua Nghị quyết ĐHĐCĐ cao sẽ là một công cụ hữu hiệu để cổ đông tự bảo
vệ mình. Chính vì vậy mà việc hạ tỉ lệ xuống còn 51% đang làm mất đi công cụ
hữu hiệu để bảo vệ cổ đông, thay vào đó Việt Nam chỉ nên quy định những lĩnh
vực bắt buộc cam kết gia nhập WTO theo tỉ lệ này mà thôi. Quyền lợi của cổ
đông cần được bảo đảm hài hòa giữa các nhóm lợi ích trong công ty bằng việc
hoàn thiện pháp luật.
Hai là, tăng cường quyền tiếp cận thông tin của cổ đông, đặc biệt là cổ đông
thiểu số. Như đã phân tích những bất cập về quyền tiếp cận thông tin của cổ
đông trong NHTMCP dẫn tới những thiệt hại về quyền lợi của cổ đông khi bị
đẩy vào tình trạng của những ngân hàng 0 đồng, hoặc những thương vụ sáp
nhập, tái cơ cấu ngân hàng. Do đó pháp luật cần hoàn thiện những quy định cụ
thể về nghĩa vụ cung cấp thông tin của NHTMCP như: cung cấp thông tin định
66
kỳ, cung cấp thông tin xảy ra các sự kiện làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt
động của công ty để cổ đông chủ động biết và có phương án xử lý, cung cấp
thông tin theo yêu cầu của cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số. Đặc biệt là
những thông tin sáp nhập ngân hàng hay thông tin về tình trạng nợ xấu của ngân
hàng để cổ đông có thể nắm bắt được tình trạng của ngân hàng, đồng thời không
tạo ra điểm khuất để các đối tượng có quyền nắm bắt thông tin trước lợi dụng
trục lợi cá nhân.
Về cách thức và thời hạn công bố thông tin cũng cần được quy định rõ hơn;
cần có quy định rõ cổ đông thiểu số được phép tiếp cận những loại thông tin nào
và mức độ cụ thể đến đâu. Thông thường cổ đông thiểu số chỉ nhận được các
thông tin khi đi họp ĐHĐCĐ liên quan đến: BCTC, tỉ lệ chia cổ tức, phương
hướng hoạt động kinh doanh hay Nghị quyết họp ĐHĐCĐ. Khi cổ đông muốn
tiếp cận tới những thông tin chi tiết hơn về tài chính thì cần có quy định một giới
hạn nhất định để họ có thể thực hiện quyền này, chẳng hạn quy định một mức
10% vốn điều lệ là có thể tiếp cận với những thông tin chi tiết hơn như hợp đồng
kinh tế, hóa đơn, chứng từ kế toán nếu có căn cứ HĐQT, Ban điều hành hoặc
BKS cố tình làm trái để trục lợi. Chính vì lẽ đó mà công khai hóa thông tin và sự
minh bạch trong hoạt động ngân hàng là một yêu cầu không thể thiếu để đảm
bảo lòng tin và sự công bằng cho các cổ đông trong hoạt động của NHTMCP. Sở
dĩ phải công khai thông tin trong các hoạt động nói chung vì thiếu chế độ này
mọi hoạt động của ngân hàng dựa trên tiền vốn của chính các nhà đầu tư sẽ tiềm
ẩn nguy cơ rủi ro lớn về thanh khoản, nợ xấu, làm ăn thua lỗ, không có cổ tức
hoặc thậm chí là phá sản. Vì vậy, có thể coi các quy định về công bố thông tin là
một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật chứng khoán, pháp luật các
TCTD với mục tiêu là công khai thông tin với nhà đầu tư, giúp họ có quyết định
đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
67
Ba là, quy định rõ hơn nhóm quyền ngăn chặn của cổ đông cụ thể là các
quyền yêu cầu kiểm toán độc lập, quyền kiểm soát những người quản lý điều
hành công ty khi có dấu hiệu vi phạm và làm ảnh hưởng đến lợi ích của công ty.
Những quyền phòng ngừa của cổ đông pháp luật đã có quy định nhưng
cần cụ thể và chi tiết hơn để các quyền này có thể vận hành trong thực tế. Cụ thể
thực tiễn đặt ra hai vấn đề xoay quanh quyền khởi kiện của cổ đông. Một là,
người cụ thể có quyền khởi kiện? Luật chỉ quy định người sở hữu 1% cổ phần
liên tục trong thời hạn 6 tháng mà không quy định rõ thời điểm nào có thể phát
sinh quyền này, pháp luật cũng không nói rõ rằng liệu cổ đông có cần thiết phải
là người sở hữu từ thời điểm bắt đầu xảy ra hành vi vi phạm tới khi tiến hành
khởi kiện. Pháp luật các nước khác nhau có những quy định rất cụ thể rõ ràng về
vấn đề này. Cụ thể như ở Anh, quy định cổ đông nắm giữ cổ phần vào thời điểm
khởi kiện nhưng không cần thiết phải là cổ đông vào thời điểm xảy ra hành vi vi
phạm. Luật pháp Mỹ quy định cổ đông có quyền khởi kiện nếu họ là cổ đông
vào thời điểm xảy ra hành vi vi phạm và phải liên tục nắm giữ cổ phần từ thời
điểm khởi kiện tới khi vụ kiện đó kết thúc, nếu không họ sẽ mất tư cách nguyên
đơn. Trên quan điểm đó thì pháp luật Việt Nam cần làm rõ thời hạn nắm giữ cổ
phần như quy định của các nước, như là một điều kiện để khởi kiện, tránh tình
trạng toàn án bị lúng túng khi thụ lí vụ án liên quan đến cổ đông thiểu số khởi
kiện.
Mặt khác cũng cần có cơ chế xem xét lại yêu cầu khởi kiện trước khi gửi
đến Tòa án. Một công ty đang hoạt động ổn định, xét trên phương diện khách
quan khi có dính níu đến hoạt động kiện tụng, tự thân nó sẽ bị ảnh hưởng, đặc
biệt là hoạt động đó lại hay diễn ra. Do đó để đảm bảo cân bằng hài hòa cả lợi
ích chung của công ty, vì toàn thể cổ đông thì cần có một cơ chế xem trước
giống như một hội đồng của công ty để chắc chắn rằng vấn đề mà cổ đông khởi
68
kiện là hợp lý, có căn cứ và nên khởi kiện, trước hết vì lợi ích hoạt động chung
của công ty, sau đó là vì lợi ích của cổ đông thiểu số bị xâm phạm.
Bốn là, bảo đảm quyền yêu cầu NHTMCP mua lại cổ phần của cổ đông.
Như đã phân tích những bất cập về quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần tại
Chương 2 thì vấn đề đầu tiên đặt ra đó là NHTMCP lấy tiền đâu để thực hiện
mua lại cổ phần của cổ đông trong trường hợp họ không muốn tiếp tục là một
phần sở hữu của công ty. Vốn điều lệ của NHTMCP được thu về khi thành lập
doanh nghiệp, các cổ đông góp tiền hoặc tài sản hiện vật và trở thành đồng chủ
sở hữu của ngân hàng đó. Khi cổ đông bán lại cổ phần của mình cho NHTMCP,
ngân hàng mua lại đồng nghĩa với việc vốn Điều lệ thực tế của ngân hàng sẽ
giảm xuống và số cổ phần ngân hàng mua lại sẽ trở thành cổ phiếu quỹ của ngân
hàng đó. Trên giấy tờ đăng kí kinh doanh, vốn điều lệ của NHTMCP vẫn thế
nhưng trên thực tiễn số tiền vốn của NHTMCP đã giảm đi. Điều này đồng nghĩa
với việc khi có rủi ro xảy ra ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm trên số tài sản
thuộc vốn Điều lệ, các cổ đông hiện hữu thì vẫn chịu trách nhiệm hữu hạn trong
phạm vi số vốn đã góp vào ngân hàng do đó dẫn tới hệ lụy về trách nhiệm tài sản
của cổ đông hiện hữu với số tiền ngân hàng đã bỏ ra mua cổ phần theo yêu cầu
của cổ đông thiểu số. Luật doanh nghiệp nói chung và luật các tổ chức tín dụng
nói riêng nên có những quy định theo hướng NHTMCP khi làm ăn có lãi nên tạo
lập quỹ dự phòng tài chính với một tỷ lệ nhất định để doanh nghiệp có nguồn
tiền mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Khi đã tạo lập được một quỹ dự
phòng ổn định và có khả năng mua lại cổ phần của cổ đông mà công ty lại không
mua lại theo quy định của luật thì cổ đông có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng
tài có cơ chế xử lý buộc phải thi hành để đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ
Trước hết pháp luật doanh nghiệp cần hạ tỷ lệ 10% cổ đông mới có quyền
triệu tập ĐHĐCĐ xuống còn 5%. Việc giảm tỷ lệ nhằm tạo điều kiện cho cổ
69
đông thiểu số có thể dễ dàng hơn tiếp cận với quyền này của mình. Thực tế cổ
đông nhất là cổ đông thiểu số ở Việt Nam rất khó liên kết để đạt tới một tỉ lệ nhất
định nhằm thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ. Cổ đông mà đặc biệt cô đông
thiểu số không thể tiếp cận nhiều thông tin, họ bị hạn chế nhiều mặt và không
quen biết rộng chính vì vậy mà nảy sinh tâm lý không muốn cổ gắng thực hiện
quyền của mình. Nếu quy định tỉ lệ 5% khả năng cổ đông sẽ hào hứng chủ động
tham giao vào công việc hoạt động chung của công ty, chủ động bàn bạc và tháo
gỡ những vấn đề bất thường của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cần bổ sung những quy định về hiệu lực của nghị quyết,
quyết định của ĐHĐCĐ, HĐQT đang bị kiện. Theo điều 148 luật Doanh nghiệp
2014 quy định: “Trường hợp có cổ đông, nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc
Trọng tài hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều
147 của Luật này, thì các nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành cho đến khi Tòa
án, Trọng tài có quyết định khác, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.” Quy định này nhằm đảo
bảo cho hoạt động của ĐHĐCĐ, HĐQT được diễn ra liên tục mà không bị
ngừng trệ giữa chừng. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là trong quá trình trong quá
trình chờ phán quyết của Tòa án, Trọng tài nghị quyết, quyết định bị khởi kiện
vẫn tiếp tục được thi hành thì nếu xảy ra thiệt hại cho bên khởi kiện thì ai sẽ là
người chịu trách nhiệm nhất là khi các nghị quyết, quyết định này đã được thực
hiện trong một khoảng thời gian và có nhiều thay đổi gây bất lợi cho chủ thể
khởi kiện. Do đó pháp luật cần có những quy định cụ thể như gắn trách nhiệm
cho người tiếp tục thực hiện quyết định, nghị quyết gâu thiệt hại như: “Trong
thời gian quyết định của ĐHĐCĐ đang bị Tòa án xem xét hủy bỏ thì nó vẫn có
hiệu lực pháp luật cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án hủy bỏ nó;
trong suốt thời gian này, những người thực tế đang quản lý, điều hành công ty
70
phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do hành vi không đúng
pháp luật và điều lệ gây ra”.
Pháp luật cần có quy định chế tài đối với trường hợp CTCP cố tình không
tổ chức họp ĐHĐCĐ theo đúng thời hạn luật định. Việc không tổ chức họp
ĐHĐCĐ đúng thời hạn không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động chung của công ty
mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của cổ đông, khiến họ không nắm bắt được tình
hình hoạt động và được biểu quyết những vấn đề liên quan tới hoạt động của
công ty.
Quy định rõ trách nhiệm trả lời chất vấn của lãnh đạo công ty trước
ĐHĐCĐ là một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của ĐHĐCĐ nhằm
bảo vệ quyền lợi của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Thực tế cổ đông muốn
chất vấn nhưng người có trách nhiệm trả lời lại trốn tránh bằng cách hạn chế thời
gian trả lời, dẫn tới cổ đông không nhận được câu trả lời chất lượng và lời giải
thích thỏa đáng. Do vậy luật doanh nghiệp và luật tổ chức các tổ chức tín dụng
cần có những quy định rõ ràng về trách nhiệm phải trả lời chất vấn của Ban lãnh
đạo, đối với những vấn đề chưa thỏa đáng cần tạo cho cổ đông có thời gian yêu
cầu BKS làm rõ trong thời hạn nhất định và sau đó thông báo bằng văn bản cho
cổ đông biết.
3.2.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của BKS
Cần hoàn thiện các quy định liên quan tới việc tăng tính độc lập của thành
viên BKS để đảm bảo BKS hoạt động vô tư và đem lại hiệu quả cao nhất cho
công ty. Điều này có thể được thực hiện khi pháp luật có quy định về thành viên
một BKS độc lập, những thành viên này không làm việc tại công ty, không nhất
thiết phải là cổ đông của công ty nhưng có trình độ cao về kế toán, kiểm toán, và
pháp luật…Với một BKS tinh gọn và công bằng có thể góp phần nâng cao tính
độc lập và chuyên nghiệp hơn.
71
Luật cũng cần quy định rõ trách nhiệm của BKS khi họ hoạt động mà
không làm tròn trách nhiệm của mình, vi phạm các vấn đề liên quan đến đạo đức
nghề nghiệp. Trách nhiệm của người quản lý là đương nhiên nhưng trách nhiệm
của bộ phận giám sát chính là yếu tố góp phần để hoạt động của Ban điều hành
luôn đi đúng pháp luật, Điều lệ và quy định của công ty cũng như đảm bảo
quyền lợi của cac cổ đông.
Cần có quy định rõ chế độ làm việc của BKS với những tiêu chuẩn nhất
định về thành viên BKS. Pháp luật cần có cơ chế để đảm bảo lượng thời gian cho
BKS hoạt động một cách chuyên nghiệp, đạt hiệu quả tối ưu trên cương vị là đội
ngũ giám sát toàn bộ công việc của NHTMCP. Đi liền với đó thì bản thân thành
viên BKS cũng phải là có đủ năng lực, hội tụ các yếu tố có thể đảm bảo được
công việc như: giám sát tài chính, bao gồm các năng lực chủ yếu như quản lý rủi
ro, năng lực chuyên môn về kế toán, kiểm toán, quản lý tuân thủ, am hiểu về
chuyên môn nghiệp vụ, có đủ khả năng thẩm định, đánh giá các bảo cáo rà soát.
3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của HĐQT và người quản lý
HĐQT là cơ quan quản trị của NHTMCP, có toàn quyền nhân danh ngân
hàng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng không thuộc thẩm quyền
của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên trên thực tế thành viên HĐQT thường là những cổ đông
lớn của ngân hàng, đồng thời họ còn tham gia trực tiếp vào việc điều hành hoạt
động kinh doanh của công ty. Để khắc phục tình trạng này, có thể có một số giải
pháp như sau:
Một là, pháp luật nước ta cần hoàn thiện những quy định về lựa chọn
thành viên HĐQT độc lập. Chẳng hạn thành viên HĐQT độc lập đó có thể thỏa
mãn những tiêu chí đảm bảo tính khách quan tuyệt đối như: không phải là người
làm việc cho công ty gần đây, không có mối quan hệ kinh doanh gần đây với
công ty, không có mối quan hệ gia đình với bất kỳ thành viên HĐQT hoặc cán
72
bộ cấp cao nào. Thành phần của HĐQT cũng nên đảm bảo một tỷ lệ cao thành
viên là HĐQT độc lập, có đủ uy tín và chuyên môn cao. Luật cần nâng số thành
viên HĐQT lên 5 người để việc bầu dồn phiếu phát huy hiệu quả, giúp các cổ
đông nhất là cổ đông thiểu số có thể cử đại diện vào HĐQT. Đồng thời cũng cần
ban hành bộ quy tắc ứng xử của HĐQT, coi như là luật mềm. Luật mềm này phải
trên tinh thần là những quy tắc mang tính tự nguyện, mà các công ty có thể áp
dụng hoặc không áp dụng49 và định hướng cho họ xử lý những xung đột mà pháp
luật và điều lệ công ty chưa quy định.
Hai là, pháp luật cũng cần thắt chặt vai trò quản trị và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của Hội đồng quản trị và người quản lý. Luật các TCTD 2010
quy định nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT trong NHTMCP có phạm vi rộng,
hầu hết những vấn đề quan trọng của công ty do HĐQT đảm nhiệm, đối với
những vấn đề cần đưa ra thông qua tại kỳ họp ĐHĐCĐ có đôi khi cũng hoàn
toàn theo kế hoạch của HĐQT sắp đặt trước. Chính vì vậy hệ thống pháp luật
cần có những quy định cụ thể hơn để giới hạn trách nhiệm rõ ràng cho HĐQT,
vai trò của chủ tịch HĐQT trong việc giám sát hoạt động của HĐQT. Pháp luật
cần có cơ chế rõ ràng hơn đối với trách nhiệm báo cáo của HĐQT tại cuộc họp
ĐHĐCĐ, trách nhiệm giải trình báo cáo và tạo điều kiện để cổ đông được chất
vấn báo cáo cuả HĐQT một cách công khai, công bằng. Đối với từng sai phạm
cần có những quy định tương thích để đảm bảo HĐQT luôn hoạt động một cách
trách nhiệm, vì quyền lợi của toàn thể ngân hàng, cổ đông và chủ nợ.
Mặc khác LDN và Luật các TCTD cũng cần có những quy định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của người quản lý, điều hành và các thành viên khác
trong tổ chức nội bộ NHTMCP thành một điều khoản bao quát, có đấy đủ các
49 Jean Jacques du Plessis, James McConvill and Mirko Bagaric (2005), Pinciples of Contemporary Corporate Governance, tr. 113.
73
trường hợp vi phạm để phòng ngừa cũng như khắc phục những thiệt hại về tài
sản xảy ra đối với ngân hàng, cổ đông và chủ nợ.
Ba là, sửa đổi Nghị định 59 phù hợp với LDN 2014 về mô hình quản trị.
LDN 2014 được cho là luật có nhiều điểm mới liên quan đến mô hình quản trị
của doanh nghiệp. Trong khi đó hoạt động quản trị và điều hành của ngân hàng
mặc dù có Luật các TCTD 2010 ra đời thay thể luật cũ, nhưng những nội dung
mà Luật TCTD chưa điều chỉnh, Nghị định 59 vẫn cần được áp dụng cho phù
hợp. Nghị định 59/2009 - NĐ/CP đã và đang là văn bản pháp luật chuyên ngành
cụ thể, làm căn cứ cho hoạt động quản trị và điều hành ngân hàng, nhưng hiện
nay đã xuất hiện một số điểm vênh với LDN mới 2014. Luật doanh nghiệp 2014
thay đổi một số nội dung liên quan đến quản trị doanh nghiệp như: Điều kiện
họp Đại hội đồng cổ đông, tỷ lệ biểu quyết trong cuộc họp cổ đông, nhiệm kỳ
của thành viên Hội đồng quản trị không quá 05 năm và có thể được bầu lại với
số nhiệm kỳ không hạn chế (trước đó là 5 năm), các quy định bầu Chủ tịch Hội
đồng quản trị, bổ sung các quy định về quyền của BKS… Trên cơ sở những thay
đổi của luật chung, Nghị định 59 cần được sửa đổi theo hướng phù hợp hơn với
LDN 2014 về mô hình quản trị, tạo ra sự đồng nhất để các chủ thể áp dụng rõ
ràng, tránh tình trạng chồng chéo. Thông qua mô hình quản trị mới, góp phần
bảo vệ quyền lợi của cổ đông một cách thiết thực hơn.
3.2.5. Hoàn thiện các quy định về kiểm toán độc lập
Những năm gần đây hoạt động ngân hàng đang có xu hướng trùng xuống,
tuy nhiên xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán thì ngày càng tăng, do
đó đòi hỏi dịch vụ kiểm toán trong lĩnh vực này ngày phải càng tăng về số lượng
và chất lượng. Công tác đào tạo nhân lực của ngành kiểm toán phải được đẩy
mạnh đáp ứng được các yêu cầu đặt ra; cần tiếp tục ban hành đầy đủ hệ thống
chuẩn mực của kế toán, kiểm toán Việt Nam, rút ngắn khoảng cách giữa các
chuẩn mực Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế.
74
3.2.6. Kiến nghị phương thức tái cơ cấu để bảo vệ cổ đông
Tái cơ cấu ngân hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tái cơ
cấu kinh tế. Biện pháp tái cơ cấu là việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng hiện tại,
đưa ra những biện pháp khắc phục các khuyết điểm của hệ thống ngân hàng
nhằm nâng cao khả năng quản trị điều hành của NHTM, mở rộng sản phẩm dịch
vụ, dịch vụ ngân hàng để đảm bảo an toàn hệ thống, xây dựng ngân hàng có sức
mạnh tài chính thực sự, khả năng kiểm soát rủi ro, quản trị tốt, duy trì ổn định và
hiệu quả chức năng trung gian tài chính của ngân hàng trong nền kinh tế.
Nguyên nhân của việc tái cơ cấu là do khủng hoảng kinh tế, nợ xấu gia tăng, tỷ
lệ an toàn vốn thấp, thực hiện chức năng trung gian không hiệu quả, khuôn khổ
giám sát và quản lý yếu…. Nhờ tái cơ cấu mà nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân
hàng thương mại giảm, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh…Tuy nhiên
trong những năm vừa qua một số ngân hàng đã được mua lại bắt buộc với giá 0
đồng. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của các cổ đông ngân hàng
khi mà họ không có một cơ chế nào đảm bảo quyền lợi của mình trong những
trường hợp ngân hàng hoạt động yếu kém có nguy cơ mất khả năng tài chính do
hoạt động quản lý của Ban điều hành ngân hàng. Do vậy một mặt các chế định
về hoạt động nội bộ của ngân hàng cần được sửa đổi hợp lý, mặt khác Nhà nước
cũng cần có những chính sách, cơ chế để thực hiện tái cơ cấu ngân hàng trong
trường hợp các ngân hàng cần tới phương thức cơ cấu lại ngân hàng. Để thực
hiện thành công các mục tiêu tái cơ cấu ngân hàng, tránh để các ngân hàng yếu
kém không có khả năng tự hoạt động lành mạnh trở lại dẫn tới tình trạng bị buộc
mua lại từ NHNN với giá 0 đồng thì ngành ngân hàng cần có những điều chỉnh
hợp lý về tái cơ cấu cho phù hợp.
Trước tiên cần bổ sung và xây dựng được khuôn khổ pháp luật về cơ cấu
lại các TCTD, xử lý các TCTD yếu kém và xử lý nợ xấu, trong đó đề cao thẩm
quyền can thiệp của Nhà nước và trách nhiệm của các TCTD trong việc xử lý
75
các yếu kém, tồn tại và các vi phạm, rủi ro của TCTD. Nguyên nhân chính dẫn
đến những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá trình triển khai cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng là do khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về xử lý TCTD yếu
kém và xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện. Các quy định về thẩm quyền của Chính
phủ, NHNN khi xử lý TCTD yếu kém còn chưa đầy đủ. Tiến trình phục hồi và
cơ cấu lại các TCTD yếu kém còn hết sức khó khăn do chưa có cơ sở pháp lý để
áp dụng giải pháp phù hợp với thực trạng của TCTD yếu kém; thiếu giải pháp hỗ
trợ tài chính hiệu quả để phục hồi các TCTD yếu kém. Quy định của pháp luật về
xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập làm hạn chế tiến độ, hiệu
quả của việc xử lý nợ như vướng mắc về thu giữ tài sản, về quyền nhận tài sản
bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; về phí thi hành án, về kê
biên tài sản bảo đảm ...
Đồng thời với việc luật hóa các quy định về cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ
xấu, Chính phủ và NHNN cũng cần đề ra những phương thức tái cơ cấu có khả
năng mang lại hiệu quả phục hồi cao cho ngân hàng, các phương án khả thi để
giúp ngân hàng không bị rơi vào tình trạng phải xử lý bắt buộc như mua lại với
giá 0 đồng.
76
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Toàn bộ chương 3, khóa luận đã đưa định hướng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về bảo vệ cổ đông trên cơ sở quan điểm hoàn thiện pháp luật của Đảng theo
Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011 – 2020 . Hoàn thiện pháp luật trên cơ
sở các nguyên tắc, đặc biệt là trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ phù
hợp với pháp luật Việt Nam nói chung cũng như sự hài hòa với thông lệ quốc tế.
Trên cơ sở những quan điểm, định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật,
khóa luận đưa ra một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ
đông trong NHTMCP, gắn với những đặc thù về hoạt động của NHTMCP. Các
kiến nghị trước tiên tập trung vào hoàn thiện các quy định pháp luật về ghi nhận
các quyền của cổ đông bao gồm các quyền chính như: quyền biểu quyết, quyền
được nhận cổ tức, quyền được tự do thông tin đặc biệt là tiếp cận và công khai
hóa thông tin về chi trả cổ tức, cổ phiếu thưởng, thông tin mua bán sáp nhập
NHTMCP…Bên cạnh đó khóa luận kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hạn
và trách nhiệm của ĐHĐCĐ thực sự, trách nhiệm của HĐQT và những người
lãnh đạo, nâng cao vai trò của BKS với chức năng giám sát hoạt động, nâng cao
chất lượng kiểm toán độc lập và một số kiến nghị nhằm thay đổi phương thức tái
cơ cấu nâng cao năng lực hoạt động của các NHTMCP, bảo đảm quyền lợi cho
các cổ đông và các chủ thể khác.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn bản pháp luật
1. Luật doanh nghiệp 2005
2. Luật doanh nghiệp 2014
3. Luật các tổ chức tín dụng 2010
4. Luật phá sản 2014
5. Luật bảo hiểm tiền gửi 2012
6. Luật chứng khoán 2013
7. Nghị định 59/2009 - NĐ/CP ngày 16-7-2009 về tổ chức và hoạt động của
NHTM.
8. Nghị định số 07/2013 VBHN-NHNN ngày 25-11-2013 về ban hành danh
mục mức vốn pháp định của TCTD.
9. Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14-03-2013 của Thống đốc NHNN
Việt Nam ban hành quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD.
10. Nghị định 102/2010 NĐ/CP ngày 1-10-2010 hướng dẫn thi hành một số
điều của LDN 2005.
11. Thông tư 10/2011/TT-NHNN ngày 22-4-2011 quy định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược đối với ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa.
2. Tài liệu tiếng Việt:
12. PGS.TS Lê Thị Thu Thủy, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Khoa
luật – ĐHQGHN, Nxb. Đại học quốc gia, 2005.
78
13. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Tập 1, Luật Doanh
nghiệp: Tình huống, Phân tích, Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2006.
14. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Như Phát (chủ biên), Giáo trình luật
kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
15. PGS.TS Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại, Phần chung và
thương nhân, Nxb ĐHQGHN, 2013.
16. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh
nghiệp, Nhà xb chính trị quốc gia – sự thật, 2013.
17. Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ
phần, 2004.
18. Lê Văn tề, Nguyễn Thị Xuân Liễu (2003), Quản trị Ngân hàng thương
mại, Nxb Thống Kê, Hà Nội.
19. ThS. Trần Vũ Hải, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb giáo dục
Việt Nam năm 2010.
20. Phạm Duy Nghĩa, Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật
chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh với luật công ty năm 2005 của CHNN Trung Hoa, Tạp chí nhà nươc và pháp luật, 2006.
21. T.S Nguyễn Thị Lan Hương(2013), Sửa đổi Luật doanh nghiệp để bảo
đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, số 02+03/2013.
22. T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ
đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập
pháp, số 20/2014.
23. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Đại diện tố tụng của cổ đông ở Nhật Bản, số
12/ 2005.
79
24. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở
Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11/2005.
25. T.S Bùi Xuân Hải, Biện pháp bảo vệ cổ đông, thành viên công ty: Lí luận
và thực tiễn, Tạp chí luật học số 3/2011.
26. T.S Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp
luật công ty Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4.
27. Bùi Xuân Hải, Khởi kiện người quản lý công ty: Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn trong phap luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 1/2011.
28. Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong
công ty cổ phần, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 6 (254)/2009.
29. Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) /2007.
30. T.S Trần Đình Cung, Bàn về quyền của cổ đông và đại hội đồng cổ đông,
Tạp chí chứng khoán Việt Nam, Số 5/ 2008.
31. Nguyễn Thị Liên Hoa (2007), Minh bạch thông tin trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, Tạp chí Phát triển kinh tế (TP HCM), số 195.
32. Phan Hoàng Ngọc, Bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đáp ứng thông lệ và
chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, Tạp chí tài chính, Kì 1-tháng 10/
2016.
33. Phan Đức Hiếu, Bảo vệ cổ đông và một số kiến nghị sửa đổi Luật doanh
nghiêp, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 19/2014.
34. Đỗ Thái Hán, (2012), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật hoc, Khoa luật – ĐHQGHN.
35. Trương Thế Côn (2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp
luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật –
ĐHQGHN.
80
36. Cao Đình Lành (2014), Bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số trong mua
bán, sáp nhập công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học
xã hội.
37. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số
trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học.
38. Nguyễn Văn Mích (2007), Bảo vệ cổ đông theo pháp luật Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ, Khoa Luật – ĐHQGHN.
39. Trương Thế Côn (2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp
luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học – ĐHQGHN.
40. Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng
tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng.
41. Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội.
42. Techcombank lãi nghìn tỷ, cổ đông vẫn tiếp tục ‘nhịn’ cổ tức, Thời báo tài
chính Việt Nam (24/04/2016)
43. Bản chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, Vietstock.vn.
https://thebank.vn/posts/8221-bao-hiem-tien-gui-la-gi-ban-chat-va-muc-
dich-cua-hoat-dong-bao-hiem-tien-gui. Truy cập ngày 1-5-2017.
3. Tài liệu tiếng nước ngoài.
44. G20/OECD Principles of Corporate Governance, Organisation for
Economic Co-operation and Development, page 21.
45. Doing Business – The Word Bank, Protecting Minority Investors, June
2016.
46. The Gang of Four (2000), 58 Journal of Financial, Investor Protection
and Corporate Governance.
81
Jean Jacques du Plessis, James McConvill and Mirko Bagaric (2005), 47.
Pinciples of Contemporary Corporate Governance, tr. 113.
48. Stephen M. Bainbridge, Corporate Law and Economics (2002), tr.362-5.
82