ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-------------

TẠ THỊ HIỂN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG

TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở

VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa: QH-2013-L

Hà Nội, 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-------------

TẠ THỊ HIỂN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG

TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở

VIỆT NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa: QH-2013-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. Nguyễn Thị Lan Hương

Hà Nội, 2017

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan khóa luận “Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông

trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” là công trình nghiên cứu

của riêng tôi. Các thông tin và số liệu mà tôi sử dụng trong khóa luận là trung

thực. Các luận điểm được trích dẫn đầy đủ, nếu không là ý tưởng hoặc kết quả

tổng hợp của chính bản thân tôi.

Tôi đã hoàn thành các môn học và các nghĩa vụ khác theo quy định của

Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Khóa luận.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2017

Tạ Thị Hiển

Người cam đoan

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng

dẫn TS. Nguyễn Thị Lan Hương, người đã hết sức nhiệt tình hướng dẫn và chỉ

bảo tôi thực hiện khóa luận này. Tôi xin được trân trọng cảm ơn Khoa Luật –

ĐHQGHN đã tạo điều kiện để tôi được thực hiện đề tài của mình: “Pháp luật về

bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam”

Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hoàn thành đề tài một cách hoàn chỉnh nhất,

song không tránh khỏi những thiếu sót về cả kinh nghiệm và kiến thức trong

suốt quá trình nghiên cứu. Tác giả hi vọng rằng sẽ nhận được sự góp ý quý báu

từ quý thầy cô và các bạn để khóa luận này được hoàn chỉnh hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM 7

1.1. Khái niệm NHTMCP, phân loại và đặc thù của NHTMCP ..................... 7

1.2. Khái niệm cổ đông và cổ đông trong NHTMCP .................................... 12

1.3. Khái niệm quyền của cổ đông và phân loại............................................ 14

1.4. Các cơ chế bảo đảm quyền của cổ đông .................................................. 16

1.4.1. Cơ chế tự bảo vệ ................................................................................ 17

1.4.2. Thiết chế nội bộ ................................................................................. 18

1.4.3. Các thiết chế bảo vệ bên ngoài ......................................................... 22

1.4.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của NHTMCP. ............................................................................................. 23

1.4.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh về quyền của cổ đông trong NHTMCP. ................................................................................................... 25

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................ 28

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .......................... 29

2.1. Thực hiện nhóm quyền về tài sản ........................................................... 29

2.1.1. Quyền được nhận cổ tức ............................................................... 29

2.1.2. Quyền được ưu tiên mua cổ phần ................................................. 31

2.1.3. Quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần .................................. 33

2.1.4. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần ....................................... 34

1

2.1.5. Quyền nhận tài sản còn lại khi công ty phá sản, giải thể .............. 35

2.2. Thực hiện một số quyền chung .............................................................. 37

2.2.1. Quyền tham gia và biểu quyết quyết tại ĐHĐCĐ ........................ 37

2.2.2. Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ ................................................. 40

2.2.3. Quyền tiếp cận thông tin ............................................................... 42

2.2.4. Quyền giám sát của cổ đông ......................................................... 45

2.2.5. Quyền khởi kiện ............................................................................ 48

2.3. Những bất cập phát sinh trong hoạt động quản trị và tái cơ cấu NHTMCP. ....................................................................................................... 51

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 62

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM ........................... 63

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông. ......................... 63

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông. .............. 65

3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông ............................... 65

3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ .......... 69

3.2.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của BKS ................ 71

3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của HĐQT và người quản lý ..................................................................................................................... 72

3.2.5. Hoàn thiện các quy định về kiểm toán độc lập ................................ 74

3.2.6. Kiến nghị phương thức tái cơ cấu để bảo vệ cổ đông ....................... 75

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3................................................................................ 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 78

1. Văn bản pháp luật ................................................................................... 78

2. Tài liệu tiếng Việt: .................................................................................. 78

3. Tài liệu tiếng nước ngoài. ....................................................................... 81

2

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BKS Ban kiểm soát

ĐHĐCĐ Đại hội đồng cổ đông

GĐ/ TGĐ Giám đốc/ Tổng giám đốc

HĐQT Hội đồng quản trị

LDN Luật doanh nghiệp

NHNN Ngân hàng Nhà nước

NHTM Ngân hàng thương mại

NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần

TCTD Tổ chức tín dụng

3

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngày nay với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, sự giao thoa giữa các

nền kinh tế mới, chủ thể kinh doanh mới đòi hỏi rất nhiều yếu tố tạo động lực

cho sự ổn định và phát triển bền vững. Bảo vệ nhà đầu tư được coi là một trong

những yếu tố động lực để ổn định thị trường chứng khoán cũng như kích thích

đầu tư trong và ngoài nước. Trong báo cáo thường niên về Môi trường kinh

doanh của Việt Nam và thế giới năm 2016, WB và IFC đã tiến hành đánh giá tại

các nền kinh tế. Theo đó mức độ bảo vệ nhà đầu tư ở nước ta được xếp ở vị trí

thứ 87 trong 189 quốc gia và nền kinh tế1. Như vậy chỉ số bảo vệ nhà đầu tư của

nước ta đã có những khởi khắc tích cực tuy nhiên so với các nước trong khu vực

Việt Nam vẫn còn đi sau về mức độ bảo vệ nhà đầu tư như Singapore ở vị trí thứ

1, Malaysia ở vị trí thứ 3, Thái Lan ở vị trí 27…

Để đánh giá mức độ bảo vệ nhà đầu tư của luật pháp trong một nước, báo

cáo Môi trường kinh doanh của WB và IFC đã xây dựng các tiêu chí về mức độ

bảo vệ nhà đầu tư dựa trên các tình huống tiêu chuẩn với các giả định cụ thể.

Theo đó, mức độ bảo vệ nhà đầu tư thể hiện trên ba tiêu chí sau: (i) Mức độ công

bố thông tin; (ii) Trách nhiệm của ban giám đốc; (iv) Mức độ dễ dàng để cổ

đông có thể kiện ra toàn án. Theo những tiêu chí nói chung này, xét trên mọi

bình diện, chính sách và cơ chế thực thi pháp luật nước ta chưa đáp ứng được với

tiêu chuẩn chung của thế giới.

Trong khi công cụ pháp luật giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ

quyền lợi của cổ đông2 thì thực trạng pháp luật nước ta về bảo vệ cổ đông ngân

1 Doing Business – The Word Bank, Protecting Minority Investors, June 2016. 2 The Gang of Four (2000), 58 Journal of Financial, Investor Protection and Corporate Governance.

4

hàng thương mại cổ phần còn tồn tại những bất cập. Những năm gần đây hoạt

động của các ngân hàng ngày càng đi xuống, tình trạng nợ xấu kéo dài, vốn lưu

động không có, cung không đáp ứng được cầu, đồng thời chính sách tiền tệ cũng

không thu hút được người gửi vốn dẫn tới tình trạng mất khả năng về mặt tài

chính, nhiều ngân hàng buộc phải mua lại với giá 0 đồng theo chính sách cân

bằng ổn định thị trường tài chính của ngân hàng trung ương; các chính sách tái

cơ cấu ngân hàng cũng không đảm bảo được quyền lợi chung cho cả nhà đầu tư

và khách hàng. Điển hình của bất cập này phải kể đến việc NHNN mua lại ba 3

NHTMCP trong năm 2015 với giá 0 đồng. Bên cạnh đó trong lộ trình tái cơ cấu

hệ thống ngân hàng theo quan điểm và chính sách của Nhà nước, nhiều phương

án tái cơ cấu không thỏa đáng, hoặc là không tạo cơ cơ hội khả thi cho các ngân

hàng hoạt động tốt, ảnh hưởng tới quyền lợi của cổ đông. Đơn cử như lộ trình

sáp nhập giữa Ngân hàng cổ phần nhà Hà Nội đầu tiên Habubank (HBB) với

Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Hà Nội (SHB) năm 2012 mặc dù về lý thuyết quyền

lợi của các cổ đông hai bên ngân hàng vẫn được đảm bảo nhưng thực tế quyền

lợi đó chỉ mang tính hình thức. Chính những điều này dẫn tới một điểm bất cập

chung đó là quyền lợi của cổ đông không được đảm bảo, cổ đông sẽ phải đối mặt

với nhiều bất lợi, thậm chí là rủi ro mất trắng.

Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo vệ cổ đông và những thực tiễn

bất cập đang đặt ra, tác giả xin lựa chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ quyền của

cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận

tốt nghiệp chương trình đào tạo cử nhân luật học của mình.

2. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

Như đã trình bày ở trên, yêu cầu bảo vệ cổ đông trong NHTMCP đang là

một vấn đề cấp thiết trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay. Trong khuôn

khổ giới hạn của khóa luận tốt nghiệp, tác giả hi vọng có thể đưa ra một số quan

5

điểm đóng góp vào việc hoàn thiện, làm phong phú hơn nội dung nghiên cứu về

quyền của cổ đông trong NHTMCP hiện nay.

Trong phạm vi đề tài, tác giả đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu đồng thời

cũng là phạm vi nghiên cứu của đề tài này như sau:

(1) Nghiên cứu khái quát chung về NHTMCP, quyền của cổ đông trong

NHTMCP, các đặc thù và mối quan hệ giữa quyền lợi của cổ đông

với các hoạt động đặc thù của ngân hàng thương mại như việc thực

hiện chính sách tiền tệ…

(2) Nghiên cứu thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo

vệ quyền về của cổ đông trong NHTMCP.

(3) Một số đề xuất kiến nghị.

3. Đối tượng nghiên cứu

“Pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông trong Ngân hàng thương mại cổ

phần ở Việt Nam” và thực trạng vấn đề bảo vệ quyền của cổ đông trong

NHTMCP ở Việt Nam.

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu : phân tích, so sánh và tổng hợp.

5. Bố cục đề tài

Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung cơ bản về quyền của cổ đông và

pháp luật điều chỉnh về bảo vệ quyền của cổ đông trong NHTMCP ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông và thực tiễn

áp dụng trong NHTMCP theo pháp luật Việt Nam.

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông.

6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ

ĐÔNG VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ

ĐÔNG TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm NHTMCP, phân loại và đặc thù của NHTMCP

 Khái niệm NHTMCP

Là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế, NHTM trước tiên là một

loại hình doanh nghiệp trong lĩnh vực tài chính với hoạt động là kinh doanh,

cung ứng thường xuyên một hoặc một số dịch vụ: nhận tiền gửi, cho vay, cung

ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản và các hoạt động khác có liên quan, thực

chất là sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới hình thức là

cung cấp dịch vụ tài chính với mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới có

rất nhiều các định nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là một loại hình tổ

chức tín dụng cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc

biệt là tín dụng tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, đồng thời NHTM sẽ là tổ chức

thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh

nào trong nền kinh tế. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa NHTM là

những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình

thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ đang cho chính họ vào nghiệp

vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.3

Ở Việt Nam, tại khoản 2 Điều 4 Luật các TCTD 2010 quy định “Ngân hàng

thương mại là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt

động ngân hàng theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận.” Theo đó

thì NHTM sẽ thực hiện kinh doanh, cung ứng thường xuyên một số dịch vụ như:

3 Lê Văn tề, Nguyễn Thị Xuân Liễu, Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Thống Kê, Hà Nội, năm 2013.

7

thu nhận tiền gửi của công chúng và có hoàn trả; cấp tín dụng cho các chủ thể

khác vay dưới nhiều hình thức khác nhau; làm trung gian thanh toán và quản lý

các phương tiện thanh toán; và các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ khác có liên

quan4. Cùng là TCTD được thành lập theo Luật TCTD của Ngân hàng Nhà Nước

Việt Nam và hoạt động chính là kinh doanh tiền tệ, tuy nhiên NHTM có sự khác

biệt rõ rệt với TCTD phi ngân hàng. TCTD phi ngân hàng chỉ là loại hình tổ

chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy

định của Luật TCTD, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng

các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng5. Như vậy hoạt động của

NHTM sẽ rộng hơn, không chỉ bao gồm các hoạt động ngân hàng nói chung mà

còn được thực hiện các hoạt động nghiệp vụ có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận.

Trong hệ thống NHTM thì NHTMCP được xem là loại hình tổ chức tín dụng

mang nhiều ưu điểm trong nền kinh tế thị trường. Loại hình ngân hàng này có

những đặc trưng của công ty cổ phần đó là cấu trúc vốn và tài chính linh hoạt; cơ

chế quản lý tập trung cao với sự tách bạch rõ ràng giữa quyền sở hữu và bộ máy

quản trị trong hoạt động.

Tóm lại NHTMCP là loại hình TCTD được tổ chức dưới hình thức công ty cổ

phần; được thực hiện tất cả các hoạt động nghiệp vụ tài chính như nhận tiền gửi,

cho vay, cung ứng dịch vụ thanh toán và các hoạt động nghiệp vụ có liên quan.

Tên gọi NHTMCP có thể phân biệt với các ngân hàng thương mại nhà nước và

ngân hàng thương mại liên doanh và chi nhánh ngân hàng thương mại nước

ngoài tại Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của NHTMCP được điều chỉnh bởi

Luật DN, Luật TCTD, Nghị định 59/2009- NĐ/CP và các văn bản pháp luật liên

quan.

 Phân loại NHTMCP

4 Lê Thị Thu Thủy, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Khoa luật – ĐHQGHN, năm 2013. 5 Khoản 4 điều 4 Luật các TCTD 2010.

8

NHTMCP ở Việt Nam có thể được chia theo hình thức sở hữu như sau:

Thứ nhất: Loại hình NHTMCP có sự tham gia của cổ đông nhà nước. Vài

năm trước, ở Việt Nam có một số ngân hàng thương mại nhà nước qui mô lớn

trong đó Nhà nước sở hữu 100 %... Trong xu thế kinh tế hội nhập hiện nay, để

thu hút và thúc đẩy hoạt động ngân hàng vững mạnh, các ngân hàng thương mại

nhà nước đã chuyển đổi thành NHTMCP trong đó Nhà nước năm trên 50% tổng

số cổ phần phát hành. Chẳng hạn Ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước:

Vietcombank, Vietinbank, Agribank, BIDV…

Thứ hai: Loại hình NHTMCP tư nhân. Là ngân hàng thương mại được thành

lập dưới sự góp vốn của hai hay nhiều cá nhân hoặc công ty theo cổ phần. Trong

đó mỗi cá nhân hay công ty chỉ được sở hữu một số cổ phần hạn định theo quy

định của ngân hàng nhà nước Việt Nam.

Một số ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay là: Ngân hàng thương mại cổ

phần Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Ngân hàng thương mại cổ phần

Quân đội (MB), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn- Hà Nội (SHB), Ngân

hàng thương mại cổ phần Tiên Phong (TP Bank), Ngân hàng thương mại cổ

phần Á Châu (ACB), Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển nhà thành phố

Hồ Chí Minh ( HDBank), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương tín

(Sacombank), Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á.

Thứ ba: Loại hình NHTMCP có vốn góp của bên nước ngoài (thuộc loại hình

tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài). Đây là loại hình NHTMCP có thành

phần cổ đông góp vốn là cổ đông Việt Nam và các cổ đông (cá nhân, doanh

nghiệp) nước ngoài.

Hầu hết các NHTMCP tư nhân hiện nay đều có vốn góp của cổ đông nước

ngoài. Chẳng hạn: Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) hiện có 4 cổ đông lớn đều

là cổ đông nước ngoài như: Standard Chartered APR Limited (9.65%),

9

Connaught Investors Limited (7.99%), Dragon Financial Holdings Limited

(6.81%), Standard Chartered Bank (Hong Kong) Limited (6.23%), hay Ngân

hàng ngoại thương Việt Nam (VCB) với tổng phần trăm sở hữu nước ngoài

chiếm 20.07 %, trong đó cổ đông lớn là doanh nghiệp nước ngoài Mizuho Bank,

Ltd (11.11%). Ngoài ra còn rất nhiều các NHTMCP có vốn sở hữu của nước

ngoài, chủ yếu là các doanh nghiệp, ngân hàng nước ngoài đầu tư.

 Đặc thù của NHTMCP

NHTMCP không chỉ mang những đặc trưng của công ty cổ phần thông

thường mà còn có những nét đặc trưng riêng của một tổ chức tín dụng. Dưới đây

là một số đặc thù của NHTMCP:

Thứ nhất: NHTMCP phải có vốn pháp định. Khác với doanh nghiệp thông

thường điều kiện để đi vào hoạt động là khi đăng kí kinh doanh tại các cơ quan

đăng kí kinh doanh, NHTMCP sẽ được cấp giấy phép thành lập và hoạt động bởi

NHNN khi đạt đủ điều kiện theo quy định để thành lập, trong đó đặc trưng đầu

tiên là NHTMCP đó phải có đủ số vốn pháp định. Hiện nay mức vốn pháp định

của từng loại hình ngân hàng được điều chỉnh theo Nghị định số 07/2013

VBHN-NHNN.

Thứ hai: NHTMCP phải có cổ đông chiến lược. Bản chất hoạt động của

NHTMCP là kinh doanh tài chính, do đó khả năng và sức mạnh tài chính của

ngân hàng là điều quan trọng đầu tiên. Để ngân hàng có thể hoạt động vững

mạnh, hiệu quả và có lợi nhuận thì luôn cần tới vai trò của các nhà đầu tư chiến

lược. Theo quy định tại khoản 3 điều 6 Nghị định số 59/2011/NĐ-CP có định

nghĩa “Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước

ngoài có năng lực tài chính và có cam kết bằng văn bản của người có thẩm

quyền trong việc gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp và hỗ trợ doanh nghiệp

sau cổ phần hóa về: chuyển giao công nghệ mới; đào tạo nguồn nhân lực; nâng

10

cao năng lực tài chính; quản trị doanh nghiệp; cung ứng nguyên vật liệu; phát

triển thị trường tiêu thụ sản phẩm.” Các cổ đông chiến lược ngoài ra còn phải

đáp ứng các tiêu chí theo quy định tại Thông tư 10/2011/TT-NHNN của NHNN

Việt Nam đối với cổ đông trong nước và cổ đông nước ngoài. Vai trò của cổ

đông chiến lược trong NHTMCP không chỉ giúp ngân hàng củng cố năng lực tài

chính, mà còn thúc đẩy ngân hàng nâng cao năng lực quản trị điều hành, quản trị

rủi ro, phát triển sản phẩm dịch vụ, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh

tranh.

Thứ ba: Hoạt động của NHTMCP phải tuân thủ chặt chẽ các qui định chuyên

ngành. Hoạt động của NHTM chứa đựng nhiều rủi ro hơn các ngành kinh doanh

khác. Rủi ro trong hoạt động của NHTM có thể là các loại rủi ro đặc thù như rủi

ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro vốn khả

dụng, rủi ro đạo đức,…Khi có rủi ro xảy ra, kéo theo rất nhiều ảnh hưởng lớn

đến các hoạt động kinh tế xã hội. Chính vì lí do này mà NHTM chịu sự kiểm

soát, giám sát chặt chẽ của hệ thống phát luật. Các quy định pháp lý đối với

NHTM được bao quát trên nhiều mặt của hoạt động kinh doanh như: điều kiện

kinh doanh, tiêu chuẩn của người lãnh đạo NH, dự trữ bắt buộc, bảo hiểm tiền

gửi, an toàn trong hoạt động, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, sử dụng

vốn tự có đầu tư cho tài sản cố định,…Mọi hoạt động của NHTMCP vì thế mà

phải tuân thủ chặt chẽ theo các quy định của pháp luật chuyên ngành như Luật

NHHH, Luật các TCTD, Nghị định, thông tư liên quan.

Thứ tư: Tuân thủ các chuẩn mực quốc tế Basel về quản trị ngân hàng. Quản

trị công ty hiệu quả rất cần thiết để xây dựng, duy trì sự tín nhiệm và lòng tin của

công chúng đối với hệ thống ngân hàng. Đây chính là những yếu tố cốt yếu cho

sự vận hành lành mạnh của ngành ngân hàng cũng như toàn bộ nền kinh tế6.

6 Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng.

11

Quản trị ngân hàng hiệu quả không chỉ ảnh hưởng tới quyền lợi của các chủ nợ

mà còn là quyền lợi trực tiếp của các nhà đầu tư. Quản trị công ty tốt phải dựa

trên các nền tảng phù hợp và hiệu quả về pháp lý, quản lý và thể chế. Chính vì

vậy mà hoạt động của các NHTMCP phải tuân thủ những chuẩn mực quốc tế về

Basel như bộ Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức

ngân hàng tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng, các nội

dung của Basel I và Basel II.

1.2. Khái niệm cổ đông và cổ đông trong NHTMCP

 Cổ đông ( shareholder)

Cổ phần là phần chia nhỏ của vốn điều lệ, cổ phần có thể phát hành bằng

mệnh giá hoặc theo giá thị trường. Theo luật doanh nghiệp 2014 thì “Cổ đông là

cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần của công ty cổ phần”. Pháp luật Việt

Nam hiện nay không thừa nhận về CTCP một cổ đông nhưng thực tế pháp luật

nhiều nước trên thế giới thừa nhận và điều tiết CTCP một thành viên.7 Theo quan

điểm cổ đông là những người có mua cổ phần của công ty8 thì về bản chất, cổ

đông là chủ thể cùng các cổ đông khác đồng sở hữu CTCP; lợi ích của cổ đông

phụ thuộc vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp. Trên phương diện pháp lý, tổ

chức, cá nhân có quyền sở hữu cổ phần khi trả tiền cổ phần và nhận cổ phần phát

hành và được ghi nhận trong sổ cổ đông. Cổ phần có thể dưới hình thức chứng

chỉ ghi tên hoặc không ghi tên. Đối với CTCP niêm yết, cổ phần có thể được lưu

ký dưới hình thức dữ liệu điện tử.

Như vậy có thể hiểu cổ đông là tổ chức, cá nhân nắm giữ và sở hữu cổ

phần của CTCP và được đăng ký vào sổ cổ đông của công ty.

 Cổ đông trong NHTMCP

7 Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại, Phần chung và thương nhân, Nxb ĐHQGHN-2013. 8 PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Như Phát (chủ biên), Giáo trình luật kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội -2001.

12

Cổ đông của NHTMCP cũng như cổ đông của công ty cổ phần nói chung

sở hữu một hoặc một số cổ phần của CTCP, mỗi chứng chỉ xác nhận quyền sở

hữu này gọi là cổ phiếu. Tại khoản 1 và 2 Luật TCTD 2010 có định nghĩa ngân

hàng là một loại hình tổ chức tín dụng, mà tổ chức tín dụng là loại hình doanh

nghiệp duy nhất có quyền thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng9, do

đó khái niệm cổ đông theo luật doanh nghiệp nói chung cũng phù hợp với khái

niệm của cổ đông trong NHTMCP. Như vậy cổ đông trong NHTMCP là tổ chức,

cá nhân nắm giữ và sở hữu cổ phần trong ngân hàng và được đăng ký trong sổ cổ

đông của ngân hàng.

NHTMCP cũng giống nhu CTCP nói chung phải có cổ đông phổ thông,

người sở hữu các cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Ngoài các cổ đông

phổ thông, NHTMCP còn có các cổ đông ưu đãi, bao gồm: cổ đông ưu đãi biểu

quyết, ưu đãi hoàn lại, ưu đãi cổ tức và một số ưu đãi khác theo quy định trong

Điều lệ NHTMCP. Tuy nhiên khác với Luật doanh nghiệp, do tính chất đặc biệt

của một tổ chức tín dụng nên cổ đông trong ngân hàng bị quy định đặt chẽ bởi

yêu cầu về tỷ lệ sở hữu cổ phần. Theo đó thì một cổ đông là cá nhân không được

sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Một cổ đông là tổ

chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ

các trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần theo quy định tại khoản 3 Điều 149 của

Luật các tổ chức tín dụng 2010 để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm

an toàn hệ thống tổ chức tín dụng; Sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng

cổ phần hóa; Sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài quy định tại khoản 2

Điều 16 của Luật các tổ chức tín dụng 2010. Bên cạnh đó cổ đông và người có

liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một

tổ chức tín dụng. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày được cấp Giấy phép, các cổ

đông sáng lập phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ

9 ThS. Trần Vũ Hải, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb giáo dục Việt Nam năm 2010.

13

chức tín dụng; các cổ đông sáng lập là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối

thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ (Điều 55 Luật

các TCTD 2010).

1.3. Khái niệm quyền của cổ đông và phân loại

Quyền lợi của cổ đông trong NHTMCP là bình đẳng trước pháp luật và

quyền được đối xử công bằng giữa các cổ đông gắn với quá trình góp vốn thành

lập, quá trình hoạt động của NHTMCP và cụ thể là trong ra quyết định và triển

khai thực hiện các quyết định kinh doanh, huy động vốn, sử dụng vốn và phân

chia lợi nhuận của cơ quan quản trị nội bộ10. Cổ đông trong NHTMCP nói riêng

có các quyền được quy định trong Luật Doanh nghiệp 2014. Ngoài ra quyền của

cổ đông trong NHTMCP còn được quy định cụ thể trong Luật các TCTD 2010.

Theo đó dựa vào tính chất các quyền có thể phân thành nhóm quyền chung và

quyền hưởng lợi.

 Nhóm quyền quyền tài sản

Cổ đông phổ thông:

Theo Các nguyên tắc quản trị công ty của Tổ chức Hợp tác và Phát triển

kinh tế OECD 2015 “G20/OECD Principles of Corporate Governance 2015”, các

quyền cơ bản của cổ đông bao gồm quyền được: 1) Đảm bảo các phương thức

đăng ký quyền sở hữu; 2) Chuyển nhượng cổ phần; 3) Tiếp cận các thông tin liên

quan và quan trọng về công ty một cách kịp thời và thường xuyên; 4) Tham gia

và biểu quyết tại Đại hội đồng cổ đông; 5) Bầu và bãi miễn các thành viên Hội

đồng Quản trị; 6) Hưởng lợi nhuận của công ty.11

10 Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20/2014, tr 28-34. 11 G20/OECD Principles of Corporate Governance, Organisation for Economic Co-operation and Development, page 21.

14

Đối với cổ đông phổ thông theo pháp luật Việt Nam, có một số quyền cơ

bản như sau: (i) Nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông;

(ii) Ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông

của từng cổ đông trong công ty; (iii) Tự do chuyển nhượng cổ phần của mình

cho người khác, trừ trường hợp quy định của luật, (iv) Khi công ty giải thể hoặc

phá sản, được nhận một phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần

tại công ty;

Ngoài ra đối với nhóm cổ đông ưu đãi còn có thêm một số quyền hưởng

lợi đặc biệt. Đối với cổ đông ưu đãi cổ tức: (i) Được trả cổ tức với mức cao hơn

so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức

được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng, cổ tức cố định không

phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và

phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi

cổ tức. (ii) Nhận phần tài sản còn lại tương ứng với tỷ lệ sở hữu cổ phần tại công

ty, sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn lại khi

công ty giải thể hoặc phá sản. Đối với cổ đông ưu đãi hoàn lại, được công ty

hoàn lại vốn góp theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện được

ghi tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại khi có nhu cầu thu lại vốn đầu tư.

 Nhóm quyền chung

Theo LDN 2014 và Luật các TCTD 2010 thì cổ đông trong NHTMCP có

những quyền chung cơ bản sau:

1) Tham dự và phát biểu trong các Đại hội đồng cổ đông và thực hiện quyền

biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện theo ủy quyền hoặc theo hình

thức khác do pháp luật, Điều lệ công ty quy định.

2) Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có

quyền biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác;

15

3) Xem xét, tra cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp

Đại hội đồng cổ đông và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;

4) Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở

lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn

quy định tại Điều lệ công ty có các quyền sau đây:

 Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát;

 Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của Hội đồng quản

trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu của hệ thống kế

toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát;

 Yêu cầu triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong trường hợp quy định

tại khoản 3 Điều 114, Luật Doanh nghiệp 2014;

 Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản

lý, điều hành hoạt động của công ty khi xét thấy cần thiết. Các quyền

khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều lệ công ty.

Ngoài ra đối với cổ đông ưu đãi còn có các quyền đặc biệt và các ngoại lệ

như: Đối với cổ đông ưu đãi biểu quyết: (i) Có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so

với cổ phần phổ thông, số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do

Điều lệ công ty quy định. (ii) Ngoại lệ: Cổ đông không được chuyển nhượng cổ

phần này cho người khác. Đối với cổ đông ưu đãi cổ tức: Cổ đông sở hữu cổ

phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề

cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Đối với cổ đông ưu đãi hoàn

lại: Cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu quyết, dự họp

Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát.

1.4. Các cơ chế bảo đảm quyền của cổ đông

Công ty cổ phần nói chung, NHTMCP nói riêng không phải là sự tập hợp đơn

thuần của cổ đông mà là một thực thể thống nhất có tổ chức chặt chẽ. Bản thân

16

công ty không thể quyết định được ý chí của mình hay tự mình hành động như

một thể nhân. Ý chí và hành vi của những thể nhân giữ cương vị nhất định trong

công ty được xem là ý chí và hành vi của công ty. Theo lý thuyết về đại diện, sự

tách biệt giữa sở hữu và quản lý làm nảy sinh xung đột giữa người đại diện (các

nhà quản lý) và người ủy quyền (các cổ đông)12. Khi lợi ích của một nhóm trong

công ty bị tổn hại sẽ dẫn đến những mâu thuẫn trong sự hài hòa về lợi ích13. Do

đó cần có cơ chế đảm bảo cân bằng lợi ích cho các chủ thể trong NHTMCP.

Quyền và lợi ích của cổ đông luôn tiềm ẩn nguy cơ bị xâm hại. Các nguy cơ

bị xâm hại được chia thành hai loại: xâm phạm từ bên trong và xâm phạm từ bên

ngoài. Do vậy để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi xâm phạm tới quyền

và lợi ích của cổ đông cần huy động tới vai trò của rất nhiều cơ chế bảo vệ bao

gồm cả ý thức tự bảo vệ quyền của mình của cổ đông, các thiết chế bên trong và

bên ngoài.

1.4.1. Cơ chế tự bảo vệ

Hoạt động của công ty cổ phần nói chung và NHTMCP nói riêng là nơi

biểu hiện tập trung rõ nhất các quy luật của nền kinh tế thị trường. Ý thức tự bảo

vệ của cổ đông đóng vai trò quan trọng trước tiên trong việc đảm bảo cân bằng

lợi ích giữa các chủ thể. Cơ sở của ý thức tự bảo vệ quyền xuất phát từ nguyên

tắc đối xử công bằng giữa các cổ đông. Khi nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân mua

cổ phần trở thành cổ đông của CTCP, cổ đông cũng có quyền bình đẳng trước

pháp luật, được đối xử công bằng14. Ý thức này thể hiện ở sự hiểu biết về các

quyền cơ bản và cơ chế bảo vệ quyền của cổ đông trong hoạt động của các tổ

chức tín dụng. Bảo đảm quyền của cổ đông chỉ thực sự có hiệu quả nếu cổ đông

12 Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4. 13 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22-25. 14 Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20/2014, tr. 28-34.

17

thể hiện vai trò chủ động của mình trong việc tự bảo vệ. Nếu cổ đông không ý

thực tự bảo vệ mình, thờ ơ quyền lợi chính đáng của mình, không tích cực tham

gia vào họp ĐHĐCĐ, không dũng cảm đấu tranh với các hành vi vi phạm quyền

của cổ đông thì Nhà nước hay bất kỳ chủ thể nào cũng không thể can thiệp được

với mục đích bảo đảm quyền cho họ.

1.4.2. Thiết chế nội bộ

 ĐHĐCĐ:

Là cơ quan có thẩm quyền cao nhất trong công ty cổ phần, có quyền quyết

định những vấn đề quan trọng nhất. Tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, khi

họp lại trở thành một cơ quan quyết nghị, có quyền quyết định cao nhất trong

công ty được gọi là ĐHĐCĐ.15 Mỗi cổ đông kể cả cổ đông sở hữu một cổ phần

được phát hành công khai của NHTMCP đều có quyền tham dự và phát biểu

trong cuộc họp ĐHĐCĐ và thực hiện quyền biểu quyết của mình hoặc thông qua

người đại diện để thực hiện quyền này (ngoại trừ cổ đông ưu đãi cổ tức, ưu đãi

hoàn lại và các cổ đông ưu đãi khác do Điều lệ công ty quy định không có quyền

tham dự họp ĐHĐCĐ). Hoạt động của ĐHĐCĐ họp theo quy định có hai trường

hợp:

ĐHĐCĐ thường niên diễn ra một năm một lần vào đầu năm (từ tháng một

đến tháng tư). Đây là thời điểm kết thúc một năm hoạt động và công ty phải lập

xong BCTC, một số CTCP còn phải thực hiện kiểm toán BCTC nếu thuộc diện

bắt buộc phải kiểm toán BCTC trước khi công bố BCTC. Đồng thời ĐHĐCĐ

thường niên phải thông qua các kế hoạch và phương án kinh doanh của năm tiếp

theo do vậy nếu việc họp càng muộn thì hoạt động càng khó khăn. Việc tham dự

ĐHĐCĐ là cơ hội đầu tiên và quan trọng nhất để cổ đôn có thể nắm bắt được

tình hình hoạt động của công ty, thấy rằng việc hoạt động của ngân hàng là hiệu 15 Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Tập 1, Luật Doanh nghiệp: Tình huống, Phân tích, Bình luận, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2006.

18

quả hay không, thông qua định hướng phát triển công ty, cũng như làm rõ những

vấn đề còn khúc mắc đặc biệt liên quan đến kết quả hoạt động kinh doanh từ đó

cổ đông có những quyết định đúng đắn để bảo vệ quyền lợi của mình.

ĐHĐCĐ bất thường: Trong trường hợp HĐQT xét thấy cần thiết và vì lợi

ích của công ty phải triệu tập họp bất thường ĐHĐCĐ trong các trường hợp: (i)

Hội đồng quản trị xét thấy cần thiết vì lợi ích của công ty; (ii) Số thành viên Hội

đồng quản trị còn lại ít hơn số thành viên theo quy định của pháp luật; (iii) Theo

yêu cầu của cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ

thông trong thời hạn liên tục ít nhất sau tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy

định tại Điều lệ của TCTD); (iv) Theo yêu cầu của Ban kiểm soát; (v) Các

trường hợp khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ của TCTD (Điều 59

Luật các TCTD 2010).

 HĐQT, GĐ/TGĐ.

HĐQT là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để

quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng không thuộc thẩm

quyền của ĐHĐCĐ. Ở bất cứ nền kinh tế nào, vai trò của HĐQT đối với CTCP;

vai trò của đội ngũ quản trị ngân hàng luôn rất quan trọng bởi nếu có người quản

trị đủ năng lực, ngân hàng sẽ thực hiện tốt mục tiêu chiến lược đã đề ra, bảo đảm

sự phát triển của ngân hàng. Các vấn đề pháp lý cơ bản về Hội đồng quản trị và

cơ cấu Hội đồng quản trị trong Ngân hàng Thương mại được quy định cụ thể tại

Điều 16 Nghị định 59/2009/NĐ-CP. Theo đó thì HĐQT đóng vai trò quan trọng

trong việc tạo ra cơ chế bảo vệ quyền lợi của cổ đông. Hội đồng quản trị là cơ

quan quản trị ngân hàng, có toàn quyền nhân danh ngân hàng để quyết định, thực

hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền

của Đại hội đồng cổ đông (đối với ngân hàng thương mại cổ phần) hoặc chủ sở

hữu (đối với ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại 100% vốn

19

nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành

viên) hoặc thành viên góp vốn (đối với ngân hàng thương mại liên doanh, ngân

hàng thương mại 100% vốn nước ngoài được tổ chức dưới hình thức công ty

trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên). HĐQT đóng vai trò chính nhất trong

nhiệm vụ đảm bảo hoạt động của công ty tuân thủ theo pháp luật, tuân thủ điều

lệ và quy định nội bộ của công ty, đối xử bình đẳng đối với tất cả các cổ đông và

tôn trọng lợi ích của người có quyền liên quan đến công ty. HĐQT được bầu ra

với mục đích và kỳ vọng là vì quyền lợi của tất cả các cổ đông một cách bình

đẳng.

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty là người điều hành hoạt động kinh

doanh hằng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên về

việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Nhiệm vụ và quyền hạn của Ban

giám đốc NHTMCP được quy định tại Điều 64 Luật doanh nghiệp 2014 và Điều

55 Nghị đinh số 59/2009/NĐ-CP. HĐQT bổ nhiệm một người trong số họ hoặc

thuê người khác làm GĐ hoặc TGĐ. Trường hợp điều lệ ngân hàng không quy

định Chủ tịch HĐQT là người đại diện theo pháp luật thì GĐ hoặc TGĐ là người

đại diện theo pháp luật của công ty. GĐ hoặc TGĐ sẽ điều hành hoạt động kinh

doanh hàng ngày của công ty theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ công ty,

hợp đồng lao động ký với công ty và quyết định của HĐQT. GĐ hoặc TGĐ phải

thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt

nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty. Bên canh đó GĐ, TGĐ

phải trung thành với lợi ích của công ty; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ

hội kinh doanh của công ty, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản

của công ty để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác

 Ban kiểm soát:

20

BKS chính là thiết chế không thể thiếu để giám sát hoạt động của người

quản lý, đảm bảo người quản lý thực hiện nhiệm vụ một các trung thực, mẫn cán

và cẩn trọng. BKS là tổ chức được ĐHĐCĐ ủy quyền thực hiện việc giám sát

thường xuyên hoạt động quản lý, điều hành của HĐQT, GĐ/TGĐ. Ở Việt Nam,

Trung Quốc, Nhật Bản, BKS do ĐHĐCĐ trực tiếp bầu ra, chịu sự giám sát của

ĐHĐCĐ thực hiện chức năng giám sát HĐQT, GĐ/TGĐ. Còn ở Đức BKS

không chỉ có quyền giám sát mà còn có quyền quyết định quyết sách quản lý

công ty, giữa địa vị pháp lý trên HĐQT, có quyền bổ nhiệm các thành viên

HĐQT và giám sát hoạt động kinh doanh của HĐQT, đồng tời HĐQT có trách

nhiệm báo cáo công tác trước BKS. Đối với Anh - Mỹ, trong cơ cấu quản trị

công ty không tồn tại BKS mà thành lập Uỷ ban kiểm toán thực thuộc HĐQT,

Uỷ ban này thường là các thành viên HĐQT độc lập, có trách nhiệm tham gia

với tư cách như thành viên HĐQT khác và có nhiệm vụ quan trọng là giám sát

GĐ/TGĐ.

 Kiểm toán nội bộ:

Theo IIA “Kiểm tán nội bộ là hoạt động đánh giá và tư vấn độc lập trong

nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động

của tổ chức đó. Giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá và cải

tiến một cách hệ thống và chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm

soát và quản lý rủi ro.”16 Mục đích của kiểm toán nội bộ là phục vụ công tác

quản lý doanh nghiệp, không chỉ đánh giá những yếu kém của hệ thống quản lý

mà còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty. Kiểm toán nội bộ có thể

đem lại cho công ty rất nhiều lợi ích. Đây là công cụ giúp phát triển và cải tiến

những điểm yếu trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Thông qua công cụ

này, ban giám đốc và HĐQT có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro

16 IIA là tổ chức nghề nghiệp dành cho kiểm toán viên nội bộ thành lập năm 1941 có trụ sở chính tại Hoa Kỳ và hơn 122000 hội viên trên toàn cầu.

21

tốt hơn, tăng khả năng đạt được các mục tiêu kinh doanh. Một doanh nghiệp có

kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng thêm niềm tin của các cổ đông, nhà đầu tư trên

thị trường chứng khoán.

1.4.3. Các thiết chế bảo vệ bên ngoài

Cơ chế bảo vệ bên ngoài là cơ chế không thể thiếu trong bất kì hoạt động

của NHTMCP nào. Cơ chế này thực sự cần thiết và hữu dụng khi cổ đông đã tự

ý thức bảo vệ quyền lợi của mình và theo đuổi tốt đối với những cơ chế nội bộ

công ty, ngân hàng nhưng vẫn không thể bảo vệ quyền lợi của mình, của nhóm

cổ đông một cách công bằng và hợp lý17. Tới lúc này, các cơ quan hành chính

nhà nước, cơ quan tư pháp hay các tổ chức độc lập cùng giám sát chung của xã

hội sẽ song hành cùng cổ đông trên con đường tìm công lý, bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của mình.

 Cơ chế hành chính

Vai trò của nhà nước được xem là chủ lực, có ý nghĩa định hướng cho các

thiết chế trung gian khác hoạt động. Nhà nước với tư cách là thiết chế công

quyền quản lý mọi mặt của đời sống xã hội nên có vai trò quan trọng trong việc

bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông; từ việc cấp phép hoạt động, ban hành các

văn bản quy phạm pháp luật ghi nhận các quyền của cổ đông, thiết lập cơ chế

bảo vệ quyền và bảo vệ lợi ích của cổ đông tới phát hiện và xử lý những hành vi

xâm phạm tới quyền và lợi ích của cổ đông.

Chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng

khoán thể hiện vai trò của của nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của

cổ đông. Cơ quan chuyên ngành về quản lý thị trường chứng khoán, có chức

năng giám sát các hoạt động liên quan tới chứng khoán và thị trường chứng

17 Nguyễn Văn Mích (2007), Bảo vệ cổ đông theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ , Khoa Luật – ĐHQGHN.

22

khoán, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng

khoán nhằm xây dựng một môi trường lành mạnh, công khai, minh bạch góp

phần to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của cổ đông.

Vai trò của các thiết chế nhà nước còn được thể hiện qua hệ thống các cơ

quan tư pháp từ cơ quan điều tra, cơ quan xét xử tới cơ quan thi hành án, cơ quan

thuế… là những thiết chế quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của cổ đông

 Cơ chế tư pháp

Quyền yêu cầu trọng tài hoặc tòa án bảo vệ quyền lợi: Về mặt lý thuyết

bất kì cổ đông nào cũng có thể khởi kiện chống lại giám đốc hoặc người quản lý

đã có hành vi vi phạm quyền hợp pháp của cổ đông và gây thiệt hại lợi ích cho

các cổ đông. Với quyền năng này thì cổ đông đặc biệt là cổ đông thiểu số có thể

chủ động lên tiếng, yêu cầu tòa án hoặc trọng tài lên tiếng hoặc yêu cầu can thiệp

để bảo vệ quyền lợi của mình.

Pháp luật các quốc gia khác không chỉ có hệ thống quy phạm về nội dung

mà còn có hệ thống đầy đủ các quy phạm pháp luật hình thức tương ứng để có

thể đảm bảo có một cơ chế xét xử, giải quyết các tranh chấp đối với các trường

hợp vi phạm quyền cổ đông thiểu số. Theo các nước này, quy định về giám sát

người quản lý bằng hình thức khởi kiện là một nội dung quan trọng trong luật về

doanh nghiệp và là một tiêu chí để đánh giá về mức độ bảo vệ nhà đầu tư trong

các nền kinh tế của ngân hàng thế giới.

1.4.4. Yêu cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ

của NHTMCP.

Chính sách tiền tệ, là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh

tế của nhà nước để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế nhằm đạt

được những mục tiêu kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Ngân hàng

Trung ương có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ, phù hợp với tình hình thực

23

tiễn của nền kinh tế, đó là chính sách nới lỏng tiền tệ và chính sách thắt chặt tiền

tệ. Chính sách nới lỏng tiền tệ: Là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế,

nhằm khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm. Chính sách

thắt chặt tiền tệ: Là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế đầu

tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế là kiểm chế lạm phát. Để thực

hiện hai chính sách tiền tệ này, ngân hàng trung ương có thể sử dụng hàng loạt

các công cụ tiền tệ nằm trong tầm tay của mình đó là các công cụ trực tiếp và

công cụ gián tiếp.

Với các công cụ trực tiếp, NHTW có thể tác động trực tiếp đến cung cầu

tiền tệ, mà không cần thông qua một công cụ khác như ấn định khung lãi suất

tiền gửi và cho vay. Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm

gia tăng nguồn vốn cho vay. Nếu NHTMCP thực hiện khung lãi suất cao sẽ thu

được khoản tiền mặt lớn phục vụ cho việc thực hiện hoạt động kinh doanh tài

chính của ngân hàng, mang lại lợi ích cho cổ đông. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm

giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng. Xong biện pháp này

sẽ làm cho các ngân hàng thương mại mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh

doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại

thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền vào dự trữ vàng, ngoại tệ

bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt cũng như nguồn vốn

cho vay.

Các công cụ gián tiếp thông qua dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là phần

tiền gửi mà các ngân hàng thương mại phải đưa vào dự trữ theo luật định. Phần

dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng ở ngân hàng trung ương và để tại

quỹ của mình, với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của

NHTMCP và dùng làm phương tiện kiểm soát khối lượng tín dụng của ngân

hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ có tác dụng làm giảm khả năng cho

vay và đầu tư của ngân hàng thương mại đó. Việc giảm khả năng cho vay sẽ dẫn

24

đến trong trường hợp giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng mở rộng cho vay của

NHTMCP sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông. Đối với

việc thực hiện lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn là những cách thức cho vay của

NHNN đối với các NHTM.

Với những tác động tích cực, việc kinh doanh của NHTMCP thu được

nhiều lợi ích lớn về doanh thu, giữ ngân hàng trong tình trạng hoạt động ổn định

vững mạnh, giảm tỷ lệ rủi ro khó khăn về chi trả. Thông qua đó cổ đông hơn ai

hết chính là đối tượng được thụ hưởng những quyền lợi về mặt cổ tức, và những

chính sách nội bộ khác; và ngược lại nếu việc thực hiện chính sách tiền tệ không

hiệu quả chính là nguyên nhân dẫn tới việc NHTMCP hoạt động yếu kém, gặp

khó khăn về mặt tài chính, nợ ròng kéo dài hoặc khả năng thanh khoản thấp,

nguồn tiền gửi ít dẫn tới việc cổ đông không nhận được cổ tức định kì, hoặc

nghiêm trọng hơn cổ đông có thể trắng tay nếu ngân hàng hoạt động kém hiệu

quả, dẫn tới việc tái cơ cấu mà không đảm bảo được quyền lợi của cổ đông.

1.4.5. Khái quát pháp luật điều chỉnh về quyền của cổ đông trong

NHTMCP.

Hệ thống pháp luật nội dung về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP là tổng

hòa các quy phạm pháp luật ở nhiều bộ luật khác nhau. Giá trị pháp lý của các

quy định cũng khác nhau, xét trên cả phương diện chiều dọc vào chiều ngang.

Xét theo chiều dọc giá trị pháp lý là Hiến pháp 1992 sửa đổi 2013, tiếp theo là

các Bộ luật, Luật rồi đến các nghị định, thông tư hướng dẫn. Nếu xét theo chiều

ngang, pháp luật chuyên ngành sẽ được ưu tiên, sau đó đến luật chung với vai trò

là luật gốc. Do vậy khi tìm hiểu pháp luật về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP cần

nghiên cứu trong tổng thể hệ thống pháp luật một cách toàn diện và thấu đáo.

Trong phạm vi nghiên cứu, khóa luận được tiếp cận dựa vào Luật các tổ chức tín

dụng năm 2010, Luật doanh nghiệp 2014, Luật chứng khoán 2013, Luật kiểm

25

toán độc lập, nghị định 59/2009- NĐ/CP về tổ chức và hoạt động của ngân hàng

thương mại…các luật, nghị định, thông tư có liên quan.

Thứ nhất, nhóm quy định pháp luật về quyền của cổ đông. Cổ đông có

quyền được ghi nhận tại Luật doanh nghiệp 2014 : điều 114, 116, 117, 118, 129,

137, 140, 143, 144, 147, 162, ; Luật các tổ chức tín dụng 2010 tại Điều 53, 56,

57; Điều 32 Nghị định 59/2009- NĐ/CP…

Thứ hai, nhóm các quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ của cổ đông trong

NHTMCP. Có thể hiểu cơ chế bảo vệ cổ đông được hiểu là cách thức theo đó

một quá trình được thực hiện. Tùy theo vị trí của chủ thể mà có thể tiến hành

chia làm các cơ chế bảo vệ cổ đông như sau:

 Quy định pháp luật về cơ chế bảo vệ bên trong. Cơ chế này được hiểu

là cổ đông có thể được bảo vệ bởi chính các thiết chế như HĐQT, GĐ,

TGĐ, kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ. Các thiết chế nội bộ này

được quy định cụ thể như sau: Luật doanh nghiệp 2014 quy định về

ĐHĐCĐ từ điều 129 đến điều 146, về HĐQT từ điều 149 đến điều 156,

GĐ hoặc TGĐ các điều 157, 158, 160…các quy định khác: điều 124,

125, 126, 129, 130, 159, 160, 162, 170, 171…Hệ thống các quy định

trong Luật các tổ chức tín dụng điều 59, 61, 62, 63, 64, 65…

 Nhóm quy định về cơ chế bảo vệ bên ngoài: Cổ đông khi bị xâm phạm

quyền lợi sẽ được các chủ thể bên ngoài bảo vệ, đó chính là việc yêu

cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp hoặc tìm đến các

thiết chế hỗ trợ khác

 Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước: phòng đăng kí kinh

doanh của Sở kế hoạch và đầu tư; các chi cục Thuế, UBND xã

nơi ngân hàng, CTCP có trụ sở, UBCKNN, các Sở giao dịch

chứng khoán, Ngân hàng nhà nước Việt Nam.

26

 Các cơ quan tài phán. Cổ đông Việt Nam có thể được bảo vệ

thông qua các phán quyết của Tòa án hoặc trọng tài thương mại

 Các tổ chức độc lập. Hoạt động của cổ đông có thể được đảm

bảo hơn thông qua các tổ chức như công ty kiểm toán độc lập,

hoạt động của các luật sư tư vấn, luật sư tranh tụng trong các

đoàn luật sư trên toàn quốc, hoạt động của các hội…

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về nội dung này gồm có:

Luật quy định tại điều 210 Luật doanh nghiệp 2014, Luật ngân hàng nhà nước

2010, Luật chứng khoán 2013, Luật kiểm toán độc lập 2014, Luật bảo hiểm tiền

gửi 2012 và các Luật, văn bản nghị định có liên quan.

27

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Toàn bộ chương 1, khóa luận trên cơ sở tiếp cận những vấn đề chung

trong giới hạn về bảo vệ cổ đông trong NHTMCP đã đưa ra những khái niệm cơ

bản về ngân hàng và NHTMCP, các khái niệm về cổ đông nói chung và cổ đông

trong NHTMCP nói riêng; các khái niệm về quyền của đông trong NHTMCP và

phân loại và khái quát các quyền của cổ đông theo pháp luật Việt Nam; các đặc

thù của NHTMCP nói chung. Kế tiếp khóa luận hệ thống khái các cơ chế bảo vệ

cổ đông thông qua cơ chế tự bảo vệ, cơ chế nội bộ và các cơ chế bên ngoài; yêu

cầu bảo vệ cổ đông trong quá trình thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng là

hoạt động đặc thù của các NHTM. Phần cuối của chương khóa luận đã trình bày

hệ thống pháp luật chuyên ngành và pháp luật có liên quan điều chỉnh quan hệ

liên quan đến bảo vệ quyền của cổ đông. Thông qua các vấn đề lý luận về quyền

của cổ đông trong NHTMCP từ đó làm cơ sở tiếp cận thực tiễn áp dụng pháp

luật về bảo vệ cổ đông sẽ được trình bày ở chương 2.

28

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ

ĐÔNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN

HÀNG THƯƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

2.1. Thực hiện nhóm quyền về tài sản

2.1.1. Quyền được nhận cổ tức

Với đặc trưng công ty đối vốn nên cổ đông sẽ được hưởng quyền tài sản

tương ứng với số vốn góp của mình vào công ty. Tuy vậy thực trạng chi trả cổ

tức cho cổ đông các NHTMCP vẫn còn đang tồn tại một số bất cập:

Thứ nhất: Bất cập đầu tiên phải kể tới khả năng được nhận cổ tức của cổ

đông không có cơ chế đảm bảo. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 79 Luật

doanh nghiệp 2005 ( tương ứng với Điểm b Khoản 1 Điều 114 Luật doanh

nghiệp 2014) quy định cổ đông phổ thông có quyền nhận cổ tức với mức theo

quyết định của ĐHĐCĐ. Cổ tức là khoản lợi nhuận ròng mà cổ đông được trả

cho mỗi cổ phần bằng tiền mặt hoặc bằng tài sản khác từ nguồn lợi nhuận còn lại

của công ty sau khi đã thực hiện được các nghĩa vụ về tài chính.

Quy định chung chỉ rõ cổ đông được nhận cổ tức với hai điều kiện: (i)

Công ty có lãi, (ii) ĐHĐCĐ quyết định chia cổ tức với tỷ lệ nhất định. Đồng thời

phải thỏa mãn quy định tại Khoản 2 Điều 132 luật doanh nghiệp 2014: (i) Công

ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của

pháp luật; (ii) Đã trích lập các quỹ công ty và bù đắp đủ lỗ trước đó theo quy

định của pháp luật và Điều lệ công ty; (iii) Ngay sau khi trả hết số cổ tức đã

định, công ty vẫn bảo đảm thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác

đến hạn. Như vậy việc có chia cổ tức hay không phụ thuộc vào ĐHĐCĐ, mà

ĐHĐCĐ quyết định theo tỉ lệ số phiếu biểu quyết, do vậy nếu các cổ đông đa số

cố tình không thông qua việc chia cổ tức thì cổ đông thiểu số cũng không thể đòi

cổ tức cho mình được. Điều này dẫn đến tâm lý chán nản của cổ đông khi đầu tư

29

vào NHTM, đặc biệt là các cổ đông nhỏ, họ không có cơ chế gì được bảo đảm

rằng mình sẽ nhận được cổ tức.

Ở nhiều nước, pháp luật của họ có quy định việc các CTCP phải dành ra

một tỷ lệ lợi nhuận nhất định để trả cổ tức cho cổ đông. Quy định này nhằm tạo

ra công cụ pháp lý bảo vệ lợi ích của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số khi các

công cụ bảo vệ khác tỏ ra kém hiệu lực. 18 Thực trạng các NHTMCP không chi

trả cổ tức cổ đông diễn ra rất nhiều trong những năm qua. Điển hình như ngân

hàng MaritimeBank đã 3 năm từ năm 2014 đã không thực hiện chi trả cổ tức cho

cổ đông. Hay như trường hợp của TechcomBank, suốt từ năm 2011 đến nay

ngân hàng quên quyền lợi của cổ đông, không chia sẻ một xu cổ tức, trong khi

thù lao của lãnh đạo vẫn được đánh giá là “cao ngất ngưởng.”19. Trường hợp việc

chi trả cổ tức dẫn đến tình hình tài chính kém đi, các tỷ lệ an toàn bị ảnh hưởng

xấu thì sẽ bị hạn chế chi trả. Lý do này dẫn tới tình trạng như năm 2016 vừa qua

cả VietinBank và BIDV đều gặp vướng mắc về chính sách cổ tức. Thực trạng

trên đây không phải là bất cập hiếm thấy, nó xảy ra thường xuyên ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông. Trong khi đó chính sách, pháp luật về chi trả

cổ tức cho cổ đông chưa rõ ràng, còn tồn tại cả trong chính sách, pháp luật và cơ

chế chi trả cho cổ đông.

Thứ hai: Cổ đông được nhận cổ tức nhưng đa phần là chi trả dưới hình

thức cổ phiếu hay cổ phiếu thưởng. Theo quy định của pháp luật doanh nghiệp

về chi trả cổ tức thì bên cạnh hình thức chi trả bằng tiền mặt, doanh nghiệp,

NHTMCP có thể chi trả cổ tức cho cổ đông dưới hình thức cổ phiếu. Thực tế

những năm qua ngoại trừ những NHTMCP có sở hữu nhà nước chi phối có thể

sẽ chia cổ tức bằng tiền mặt theo yêu cầu của cổ đông chi phối, hầu hết các

NHTMCP còn lại đều chi trả cổ tức bằng cổ phiếu. Về bản chất việc trả cổ tức 18 Đỗ Thái Hán, (2012), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật hoc khoa luật Đại học quốc gia. 19 Techcombank lãi nghìn tỷ, cổ đông vẫn tiếp tục ‘nhịn’ cổ tức, Thời báo tài chính Việt Nam (24/04/2016)

30

bằng cổ phiếu là chuyển một phần tiền lợi nhuận chưa phân phối sang thành vốn

cổ phần, hay nói cách khác cổ tức bằng cổ phiếu (hoặc thưởng bằng cổ phiếu)

chính là nghiệp vụ chia tách cổ phiếu và nó không hề phát sinh bất kỳ dòng tiền

mới nào giúp doanh nghiệp gia tăng nội lực của mình.20Trên góc độ của

NHTMCP thì cách thức này sẽ giúp ngân hàng tăng vốn nhằm nâng cao năng lực

tài chính, khả năng cạnh tranh, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động

ngân hàng. Tuy nhiên đôi khi chính Ban điều hành của ngân hàng đã lợi dụng lợi

dụng sự hiểu biết chưa rõ của nhà đầu tư, che giấu việc thiếu hụt dòng tiền chia

cổ tức (hoặc cổ ý để lại quỹ tiền mặt lớn nhằm mục đích cá nhân) bằng việc chia

hoặc thưởng thêm cổ phiếu. Bằng cách đó cổ đông sẽ ngộ nhận rằng mình được

thêm giá trị do số cổ phiếu tăng lên nhưng thực tế giá trị của họ không nhận

được gì ngoài những tờ cổ phiếu ghi giá trị nằm trên giấy.

2.1.2. Quyền được ưu tiên mua cổ phần

Theo quy định của luật doanh nghiệp cổ đông có quyền được ưu tiên mua

lại cổ phần. Khi NHTMCP chào bán cổ phần để tăng vốn có nghĩa là cấu trúc

vốn có sự thay đổi. Nếu các cổ đông cũ không mua lại tỷ lệ cổ phần tương ứng

thì đồng nghĩa với đó là quyền kiểm soát của họ trong công ty giảm. Việc phát

hành thêm cổ phần phải đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông đang sở hữu loại cổ

phần đó và trước tiên họ phải được mua tương ứng với tỷ lệ loại cổ phần mà họ

đang sở hữu. Đồng thời phải đảm bảo tỷ lệ cổ phần do họ nắm giữ trong công ty

trước và sau khi phát hành thêm phải như nhau. 21

Thực tế quyền này của cổ đông phổ thông không được đảm bảo như luật

quy định. Nhiều trường hợp cổ đông chiến lược và Ban điều hành bằng kĩ thuật

soạn thảo Nghị quyết trong ĐHĐCĐ đã tạo ra những sự bất bình đẳng khi phát

hành cổ phiếu. Đơn cử như một số trường hợp phát hành bất bình đẳng dễ nhận 20 Bản chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, Vietstock.vn. 21 Trương Thế Côn(2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học Đại học Quốc gia Hà Nội

31

thấy là việc quy định cổ đông lớn được mua với giá thấp, cổ đông nhỏ phải mua

với giá cao; trường hợp khác có thể cho lãnh đạo mua cổ phiếu ưu đãi với giá

thấp nhiều lần so với giá thị trường, nếu cổ đông nhỏ có phản đối thì cũng không

có tác dụng gì đối với các cổ đông chiến lược, đặc biệt là cổ đông nhà nước. Một

số trường hợp khác thì cổ đông được mua cổ phần phát hành tăng vốn với giá

bằng nhau nhưng tỷ lệ mua khác nhau. Chẳng hạn quy định giá cổ phiếu bằng

nhau, nhưng cổ đông sáng lập sẽ được mua thêm một cổ phần mới trên một cổ

phần cũ, còn cổ đông không phải sáng lập thì phải hai cổ phần cũ mới được mua

một cổ phần mới.

Nhiều NHTM chưa bảo vệ quyền lợi của cổ đông, và các cơ chế bảo vệ

chưa được áp dụng để bảo vệ cổ đông. Ở Australia, Uỷ ban Chứng khoán và Đầu

tư (ASIC) sẽ xem xét những trường hợp ưu ái cổ đông lớn. Nếu sự ưu tiên đó bị

những cổ đông nhỏ phản đối, ASIC sẽ bảo vệ sự công bằng cho cổ đông. 22

Để thực hiện quyền mua cổ phần, cổ đông muốn mua phải gửi phiếu đăng

ký mua cổ phần theo mẫu của công ty về công ty như đúng hạn, quá thời hạn này

coi như cổ đông có liên quan đã không nhận quyền ưu tiên mua cổ phần, công ty

có quyền bán số cổ phần không được mua đó cho người khác theo cách thức hợp

lý. Chính điều này mà những người quản lý công ty có thể lợi dụng để thâu tóm

công ty bằng cách làm cho cổ đông thiểu số từ bỏ quyền mua thêm cổ phần như

không có thông tin rõ ràng về việc phát hành thêm cổ phần; liên tục phát hành cổ

phần tăng vốn điều lệ làm cổ đông thiểu số không có tiền để mua thêm.

Bên cạnh đó cổ đông chiến lược của NHTMCP còn lợi dụng danh nghĩa

của mình để dành quyền ưu tiên mua cổ phần mới phát hành với tỷ lệ cao hơn và

mức giá thấp hơn nhiều so với các cổ đông bình thường khác. Những hiện tượng

22 Cao Đình Lành(2014), Bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số trong mua bán, sáp nhập công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam- Học viện Khoa học xã hội.

32

nói trên đã vi phạm nguyên tắc đối xử giữa các cổ đông, là hành vi tước đoạt một

phần giá trị tài sản của các cổ đông nhỏ, và đó cũng có thể coi là một hình thức

tham ô giá trị tài sản của công ty.23

2.1.3. Quyền được tự do chuyển nhượng cổ phần

Quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của cổ đông được ghi nhận trong

Khoản 4, Điều 53 Luật các TCTD năm 2010. Đặc tính của NHTMCP và CTCP

nói chung là việc chuyển nhượng cổ phần một cách tự do. Hoạt động giao dịch

mua bán chứng khoán trên các sàn giao dịch diễn ra hàng ngày làm thay đổi tư

cách cổ đông của một chủ thể trong NHTMCP. Cơ chế tách bạch giữa quyền

quản lý và quyền sở hữu nên việc chuyển nhượng cổ phần không ảnh hưởng đến

việc điều hành công ty. Pháp luật ghi nhận quyền tự do chuyển nhượng cổ phần

của cổ đông ngân hàng bên cạnh một số hạn chế như sau:

Thứ nhất, quyền chuyển nhượng cổ phần của cổ đông ngân hàng bị hạn

chế trong một số trường hợp.(i) Đối với việc chuyển nhượng cổ phần của cổ

đông lớn, chuyển nhượng cổ phần dẫn đến cổ đông lớn trở thành cổ đông thường

và ngược lại, TCTD phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản

trước khi thực hiện các thủ tục thay đổi24. (ii) Đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu

đãi biểu quyết, cổ phần này không được tự do chuyển nhượng. (iii) Tại Điều 56

Luật các TCTD 2014: “Cổ đông là cá nhân, cổ đông là tổ chức có người đại diện

là thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám

đốc) của tổ chức tín dụng không được chuyển nhượng cổ phần của mình trong

thời gian đảm nhiệm chức vụ. Trong thời gian đang xử lý hậu quả theo nghị

quyết của Đại hội đồng cổ đông hoặc theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước

do trách nhiệm cá nhân, thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát,

Tổng giám đốc (Giám đốc) không được chuyển nhượng cổ phần, trừ một trong 23 T.S Trần Đình Cung, Bàn về quyền của cổ đông và đại hội đồng cổ đông, Tạp chí chứng khoán Việt Nam, Số 5/ 2008, tr. 5-7. 24 Điều 29, Luật các TCTD 2010

33

các trường hợp họ là đại diện theo ủy quyền của cổ đông tổ chức bị sáp nhập,

hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật; họ bị buộc

chuyển nhượng cổ phần theo quyết định của Tòa án; hoặc chuyển nhượng cổ

phần cho các nhà đầu tư khác nhằm thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất bắt buộc

quy định tại khoản 2 Điều 149 của Luật các TCTD. Trong thời hạn 05 năm, kể từ

ngày được cấp Giấy phép, cổ đông sáng lập chỉ được phép chuyển nhượng cổ

phần cho các cổ đông sáng lập khác với điều kiện bảo đảm các tỷ lệ sở hữu cổ

phần quy định tại Điều 55 của Luật này.

Thứ hai, mặc dù cổ đông được tự do chuyển nhượng cổ phần nhưng

thông tin về việc chuyển nhượng không được công khai dẫn tới quyền lợi không

được đảm bảo. Cụ thể là đối với rất nhiều doanh nghiệp, ngân hàng trước các

thương vụ mua bán, sáp nhập thông thường Ban điều hành và một số cổ đông có

quan hệ nội bộ gần gũi được tiếp cận thông tin, do đó họ có chiến lược nhằm thu

lợi riêng thông qua mua bán lại cổ phần. Thường giá cổ phiếu của công ty bị

thâu tóm, mua lại sẽ tăng khá mạnh trước khi thông tin chính thức được công bố,

những cổ đông lớn sẽ biết được thông tin mật về việc mua bán do đó họ sẽ chủ

động mua cổ phiếu từ khi mới có thông tin nội bộ và bán ra khi thông tin bắt đầu

công khai. Trong khi đó rất nhiều cổ đông, đặc biệt là cổ đông nhỏ bị hạn chế

trong việc tiếp cận thông tin công khai do đó tiến hành chuyển nhượng cổ phần

muộn và bị ảnh hưởng quyền lợi.

2.1.4. Quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần

Quyền này được quy định tại Điều lệ công ty theo quy định tại Điều 29

Luật doanh nghiệp 2005 nhằm bảo vệ lợi ích của cổ đông trong trường hợp cổ

đông hay nhóm cổ đông lớn lạm dụng vị thế chi phối đưa ra những quyết định

làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của nhóm cổ đông thiểu số.

34

Đối với cổ đông của NHTMCP thì quy định yêu cầu ngân hàng mua lại cổ

phần chặt chẽ hơn. Điều 57 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổ chức tín dụng

chỉ được mua lại cổ phần của cổ đông nếu sau khi thanh toán hết số cổ phần

được mua lại mà vẫn bảo đảm các tỷ lệ an toàn trong hoạt động ngân hàng, giá

trị thực của vốn điều lệ không giảm thấp hơn mức vốn pháp định; trường hợp

mua lại cổ phần dẫn đến việc giảm vốn điều lệ của tổ chức tín dụng thì phải

được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận trước bằng văn bản.”

Theo quy định tại Điều 131 của LDN 2014 về điều kiện thanh toán và xử

lý các cổ phần được mua lại và đặc biệt khi cổ phiếu của công ty cổ phần này

được niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán thì việc yêu cầu công ty

mua lại cổ phần sẽ khó thực hiện. Theo đó thì việc mua lại cổ phiếu theo yêu cầu

của cổ đông chỉ có hiệu lực sau khi công ty đã thanh toán tiền cho các cổ đông

mà vẫn đảm bảo thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác. Hơn nữa,

khi một quyết định được thông qua nhưng cổ đông đó không đồng ý thì sẽ có

quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần nhưng nếu tỷ lệ cổ phần của cổ đông đó

quá lớn thì không phải lúc nào công ty cũng có đủ tiền mặt để thanh toán cho

việc mua lại. Một mặt khác là về thỏa thuận giá, khi các bên không thỏa thuận

được một giá cả cả hợp lý thì công ty sẽ giới thiệu ít nhất ba tổ chức thẩm định

giá chuyên nghiệp để cổ đông lựa chọn25. Tuy nhiên ai sẽ là bên trả chi phí thuê

tổ chức thậm định giá và biện pháp xử lý khi các bên đều không chọn một trong

ba tổ chức thẩm định chuyên nghiệp thì luật lại chưa có quy định.

2.1.5. Quyền nhận tài sản còn lại khi công ty phá sản, giải thể

Liên quan đến nhóm quyền tài sản của cổ đông khi ngân hàng rơi vào tình

trạng kiểm soát đặc biệt, trước khi chính thức được tuyên bố phá sản hay không,

các ngân hàng phải thông qua thủ tục kiểm soát đặc biệt. Việc kiểm soát đặc biệt

đối với tổ chức tín dụng được quy định tại Thông tư 07/2013/TT-NHNN. Theo 25 Khoản 2 Điều 129 LDN 2014.

35

đó kiểm soát đặc biệt là việc một tổ chức tín dụng bị đặt dưới sự kiểm soát trực

tiếp của NHNN Việt Nam do có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng

thanh toán hoặc vi phạm nghiêm trọng pháp luật dẫn đến nguy cơ mất an toàn

hoạt động. Khi tổ chức tín dụng được NHNN chấm dứt kiểm soát đặc biệt do

không khôi phục được khả năng thanh toán, NHNN sẽ gửi văn bản tới Tòa án về

việc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi thanh toán và yêu cầu tổ chức tín

dụng đó làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản

theo quy định của pháp luật về phá sản. Trong thời gian áp dụng thủ tục kiểm

soát đặc biệt, pháp luật nước ta chưa quy định rõ ràng về các giao dịch liên quan

đến tài sản chủ sở hữu, các giao dịch của HĐQT và người lãnh đạo. Do vậy hệ

quả của những giao dịch này sau khi ngân hàng tuyên bố phá sản cũng không thể

đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.

Pháp luật doanh nghiệp và Luật các TCTD 2010 có ghi nhận quyền nhận

tài sản của cổ đông khi ngân hàng phá sản, giải thể26. Thủ tục phá sản và thứ tự

phân chia tài sản của cổ đông được quy định tại điều 101 chương VII Luật phá

sản 2014. Theo đó việc phân chia giá trị tài sản của tổ chức tín dụng thực hiện

theo thứ tự như sau: (i) Chi phí phá sản; (ii) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc,

bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp

đồng lao động và thoả ước lao động tập thể đã ký kết; (iii) Khoản tiền gửi, khoản

tiền tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải trả cho người gửi tiền tại tổ chức tín dụng phá

sản theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và hướng dẫn của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam; (iv) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ

không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo

đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.

Trên cơ sở này có thể thấy rằng quyền nhận lại tài sản của cổ đông trong

ngân hàng không phải là một quyền chắc chắn được thực hiện mà chỉ là khả 26 Khoản 7 Điều 53 Luật các TCTD 2010.

36

năng. Khả năng này có được thực hiện hay không phụ thuộc vào tương quan

giữa nghĩa vụ thanh toán của ngân hàng đối với các chủ thể và số tài sản còn lại

của ngân hàng khi tuyên bố phá sản giải thể.

Liên quan đến vấn đề quyền tài sản của cổ đông khi ngân hàng phá sản

giải thể có vai trò của hoạt động bảo hiểm tiền gửi. Bảo hiểm tiền gửi là sự bảo

đảm hoàn trả tiền gửi cho người được bảo hiểm tiền gửi trong hạn mức trả tiền

bảo hiểm khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả

năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền hoặc phá sản.27 Theo đó, người gửi tiền

có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách

bảo hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức Bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo

hiểm, khi tổ chức nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán.

Số tiền mà tổ chức bảo hiểm dùng để chi trả cho người gửi tiền sẽ được lấy từ

phí mà ngân hàng tham gia bảo hiểm phải nộp để bảo hiểm cho người gửi tiền.

Khi NHTMCP rơi vào phá sản, nghĩa vụ tài chính đối với chủ nợ thông qua bảo

hiểm tiền gửi được ưu tiên trước. Về nguyên tắc, khoản nợ của doanh nghiệp

phải được hoàn trả bằng chính tài sản của công ty. Trong quan hệ với chủ sở

hữu, chủ nợ có quyền ưu tiên thanh toán các khoản nợ so với quyền nhận lợi

nhuận của chủ sở hữu28. Như vậy trong mối quan hệ giữa cổ đông ngân hàng và

các chủ nợ, khi quyền lợi của các chủ nợ được ưu tiên đảm bảo, thì quyền lợi của

cổ đông cũng đồng thời giảm đi.

2.2. Thực hiện một số quyền chung

2.2.1. Quyền tham gia và biểu quyết quyết tại ĐHĐCĐ

Theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Luật doanh nghiệp 2005 (tương ứng

với điểm a khoản 1 Điều 114 Luật doanh nghiệp năm 2014) thì cổ đông phổ

thông có quyền được tham dự và biểu quyết trong các ĐHĐCĐ. Cổ đông là 27 Khoản 1 Điều 4 Luật bảo hiểm tiền gửi 2012. 28 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Nhưng vấn đề pháp lý về tài chính doanh nghiệp, Nhà xb chính trị quốc gia – sự thật, 2013.

37

những người nắm giữ, sở hữu ít nhất một cổ phần phổ thông đã phát hành của

NHTMCP do đó họ phải có quyền tham gia biểu quyết các hoạt động của công

ty, vì mọi hoạt động đều trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến quyền và lợi ích

của họ. Tuy nhiên trên thực tế quyền này của cổ đông không được bảo đảm do

Ban điều hành và nhiều cổ đông lớn đã dùng nhiều cách thức để tìm cách triệt

tiêu hoặc hạn chế quyền này của cổ đông.

Thứ nhất, Bằng cách quy định trong giấy mời họp ĐHĐCĐ điều kiện để

cổ đông được tham gia là phải có đủ một lượng vốn tối thiểu mới được tham gia

dự họp. Điều này vô hình chung đã tạo ra sự phân biệt giữa các cổ đông có tỷ lệ

sở hữu cổ phần khác nhau. Trong trường hợp cổ đông không có đủ tỷ lệ cổ phần

theo quy định trong giấy mời họp, họ đương nhiên bị tước đi quyền được tham

dự cuộc họp.

Thứ hai, Quy định nếu cổ đông không tham gia đại hội và thực hiện

quyền biểu quyết của mình thì đương nhiên ủy quyền cho HĐQT số phiếu có

quyền biểu quyết của mình. Quyền biểu quyết là một trong những quyền chung

quan trọng của một cổ đông. Trên thực tế nhiều cổ đông nhỏ có tâm lý không

muốn tham gia ĐHĐCĐ do số cổ phần ít không đủ để tạo ra sự thay đổi khác

biệt cho mỗi quyết định cần biểu quyết. Tuy nhiên việc cổ đông không tham gia

không đồng nghĩa với việc HĐQT có thể tước đi quyền năng đó và nghiễm nhiên

sử dụng nó như là một trong những yếu tố làm gia tăng tính khả thi những quyết

định cần thông qua của mình. Tước đi quyền biểu quyết của cổ đông là vi phạm

trắng trợn tính dân chủ và bình đẳng của các cô đông theo luật Doanh nghiệp,

luật các tổ chức tín dụng nói chung.

Cổ đông có thể thực hiện biểu quyết thông qua hệ thống điện tử. Luật

Doanh nghiệp 2014 ghi nhận tại khoản 2 điều 140, cổ đông có thể tham gia biểu

quyết dưới hình thức khác như tham dự và biểu quyết thông qua hội nghị trực

38

tuyến, bỏ phiếu điện tử; gửi phiếu biểu quyết đến cuộc họp thông qua gửi thư,

fax, thư điện tử. Quy định này có thể giúp các cổ đông không cần ủy quyền hoặc

di chuyển trực tiếp đến nơi tổ chức cuộc họp để thực hiện quyền của mình mà

vẫn có thể tham gia biểu quyết. Nhưng trên thực tế hình thức này vẫn còn nhiều

bất cập, chưa được nâng cấp, đồng bộ hoặc khuyến khích thực hiện một cách dân

chủ hiệu quả. Hầu hết các công ty chưa tạo điều kiện để cổ đông thực hiện quyền

biểu quyết ở nước ngoài.29

Thứ ba, HĐQT và Ban điều hành có thể tạo ra những khó khăn nhất định

cho cổ đông tham dự ĐHĐCĐ như: tổ chức cuộc họp ở nhưng nơi cách xa trụ sở

công ty, không bố trí đủ chỗ ngồi cho các cổ đông tham dự gây khó khăn trong

việc theo dõi và thực hiện quyền chất vấn của mình, hoặc không gửi giấy mời

họp kèm hồ sơ tài liệu để cổ đông có thời gian nghiên cứu, chuẩn bị câu hỏi chất

vấn từ trước.

Thứ tư, ĐHĐCĐ quyết định những vấn đề căn cứ vào ý chí của những cổ

đông chiếm giữ. Nguyên tắc biểu quyết vấn đề theo đa số của NHTMCP dẫn tới

việc khi một nhóm có ảnh hưởng vượt trội thì việc thiết kế và thực hiện chính

sách trong ngân hàng có thể bị làm thiên lệch theo cách có lợi cho họ30. ĐHĐCĐ

với bản chất là cuộc họp để thể hiện quyền lợi của cổ đông một cách dân chủ và

toàn diện nhất vì ở đó các cổ đông được thông qua toàn bộ kế hoạch hoạt động

và những vấn đề hệ trọng nhất của công ty. Tuy nhiên trên thực tế, cổ đông lớn

và Ban điều hành luôn nắm quyền chủ động, dùng nhiều thủ đoạn để đạt được

mục đích, áp đặt ý chí của mình cho công ty mà phớt lờ ý kiến của cổ đông thiểu

số.

29 Phan Hoàng Ngọc, Bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đáp ứng thông lệ và chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, Tạp chí tài chính, Kì 1 – tháng 10/ 2016, tr.51-54. 30 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22 – 25.

39

Thứ năm, quyền chi phối của cổ đông sử hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết

trong 3 năm đầu sau khi thành lập doanh nghiệp có thể ảnh hưởng tới quyền lợi

của các cổ đông khác. Luật các TCTD 2014 quy định chỉ có tổ chức được Chính

phủ ủy quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi biểu

quyết. Quyền ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập có hiệu lực trong 03 năm,

kể từ ngày tổ chức tín dụng được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau

thời hạn đó, cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chuyển đổi thành cổ

phần phổ thông.31Như vậy thực tế đối với các NHTMCP được thành lập theo

phương thức góp vốn một phần của cổ đông sáng lập và huy động vốn từ bên

ngoài, nếu quyền ưu đã biểu quyết tập trung vào một số cổ đông sáng lập thì việc

thực hiện quyền ưu đãi biểu quyết sẽ làm vô hiệu hóa quyền của cổ đông phổ

thông nói chung và đặc biệt là cổ đông có vốn góp chi phối ngoài cổ đông sáng

lập.32

2.2.2. Quyền yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ

Quyền yêu cầu triệu tập họp ĐHĐCĐ là một trong những quyền cơ bản

của cổ đông được ghi nhận tại Khoản 3 Điều 79 Luật doanh nghiệp năm 2005

(tương ứng với điểm c khoản 2 Điều 114 Luật doanh nghiệp 2014). Theo đó thì:

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông quy định tại khoản 2 Điều này có quyền yêu cầu

triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông trong các trường hợp: (i) Hội đồng quản trị vi

phạm nghiêm trọng quyền của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra

quyết định vượt quá thẩm quyền được giao; (ii) Nhiệm kỳ của Hội đồng quản trị

đã vượt quá 06 tháng mà Hội đồng quản trị mới chưa được bầu thay thế; (iii)

Trường hợp khác theo quy định của Điều lệ công ty.

Khoản 4 Điều 136 Luật doanh nghiệp 2014 quy định rằng nếu Điều lệ

công ty không quy định thời hạn, thì Hội đồng quản trị phải triệu tập họp đại hội 31 Khoản 4 Điều 52 Luật các TCTD 2010. 32 T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 20-2014, tr 31. 40

cổ đông trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày số thành viên Hội đồng quản trị ít hơn

số thành viên theo quy định của pháp luật; hoặc nhân được yêu cầu của cổ đông

hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10 % tổng số cổ phần phổ thông trong thời hạn

liên tục ít nhất sáu tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công

ty); hoặc theo yêu cầu của Ban kiểm soát. Trường hợp Hội đồng quản trị không

triệu tập họp đại hội cổ đông trong 30 ngày tiếp theo, Ban kiểm soát sẽ thay thế

Hội đồng quản trị triệu tập đại hội cổ đông theo quy định. Trường hợp Ban kiểm

soát không triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông theo quy định thì Ban kiểm soát

phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và bồi thường thiệt hại phát sinh cho công

ty. Trường hợp Ban kiểm soát không triệu tập họp đại hội cổ đông trong thời hạn

30 ngày tiếp theo, thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ

phần phổ thông trong thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng (hoặc một tỷ lệ khác nhỏ

hơn quy định tại Điều lệ công ty) có quyền thay thế Hội đồng quản trị, Ban kiểm

soát triệu tập họp cổ đông theo quy định. Trên thực tế khi cổ đông thực hiện

quyền này thường vấp phải một số khó khăn như:

Thứ nhất, Đối với căn cứ Hội đồng quản trị vi phạm nghiêm trọng quyền

của cổ đông, nghĩa vụ của người quản lý hoặc ra quyết định vượt quá thẩm

quyền được giao thì cổ đông muốn triệu tập ĐHĐCĐ phải cung cấp được các tài

liệu chứng cứ về các vi phạm, mức độ vi phạm. Việc cổ đông phải cung cấp

được các tài liệu, chứng cứ về việc vi phạm là điều rất khó khăn, nhất là đối với

những tài liệu quản trị và chứng từ hóa đơn của doanh nghiệp. Hơn thế nữa, việc

xác định thế nào là vi phạm nghiêm trọng thì luật hoặc các văn bản khác chưa

quy định rõ ràng. Đối với mỗi nhóm quyền lợi khác nhau thì quan điểm và ý kiến

cũng có sự phân hóa khác nhau rõ rệt.

Thứ hai, việc các cổ đông liên kết lại để đạt mức 10% tổng số cổ phần

phổ thông là điều không dễ dàng. Thông thường đối các công ty đã niêm yết

chứng khoán tại Sở giao dịch chứng khoán, các công ty đại chúng thì mỗi ngày

41

có tới hàng nghìn lượt giao dịch qua lại. Mỗi lần khớp lệnh giao dịch thành công,

tiền chuyền về tài khoản công ty đồng nghĩa với người sở hữu cổ phần sẽ trở

thành cổ đông của công ty. Các cổ đông trong công ty muốn liên kết với các cổ

đông khác để tiến hành yêu cầu triệu tập ĐHĐCĐ thì phải thông qua Trung tâm

lưu ký chứng khoán để có danh sách và thông tin của cổ đông. Hơn thế nữa việc

mua qua bán lại cổ phần để ăn chênh lệch làm cho thành phần và loại cổ đông

trong công ty thay đổi liên tục. Nhìn chung điều này rất khó khăn cho cổ đông

nếu thực sự muốn liên kết với các cổ đông khác để thực hiện quyền yêu cầu triệu

tập cổ đông này.

2.2.3. Quyền tiếp cận thông tin

Cũng như các quyền khác, quyền tiếp cận thông tin một cách công khai là

một trong những quyền cơ bản của cổ đông, được ghi nhận trong luật. Đây là

nhóm quyền quan trọng mà các cổ đông hay sử dụng vì nó ảnh hưởng trực tiếp

đến việc ra quyết định của họ.33 Trong CTCP hay trong NHTMCP, các cổ đông

đều mong muốn có được thông tin trung thực, chính xác để có những quyết định,

điều chỉnh đúng đắn đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình. Đối với một doanh

nghiệp quyền của cổ đông được tiếp cận thông tin công khai được coi như là một

cách để thể hiện sự minh bạch hóa, giúp duy trì được niềm tin của công chúng

vào đầu tư và từ đó có thể huy động vốn dễ dàng khi phát hành cổ phiếu ra công

chúng.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, quyền được thông tin của cổ đông

được tiếp nhận dưới hai góc độ: (i) quyền của cổ đông chủ động tiếp cận, thu

thập thông tin; (ii) quyền của cổ đông được các chủ thể khác cung cấp thông tin.

Thứ nhất. Về nguyên tắc cổ đông là những người chủ công ty nên có

quyền tiếp cận thông tin, tuy nhiên mức độ tiếp cận thông tin của cổ đông lại phụ

33 Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong công ty cổ phần, số 6 (254) – 2009, tr. 29-33.

42

thuộc vào loại cổ phần, tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Cổ đông (sở hữu ít

nhất một cổ phần đã phát hành) có quyền yêu cầu được cung cấp thông tin như:

(i) Xem xét, tra cứu và trích lục các thông tin trong Danh sách cổ đông có quyền

biểu quyết và yêu cầu sửa đổi các thông tin không chính xác; (ii) Xem xét, tra

cứu, trích lục hoặc sao chụp Điều lệ công ty, biên bản họp Đại hội đồng cổ đông

và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông; (theo Điểm đ, e Khoản 1 Điều 114

Luật doanh nghiệp 2014 và Khoản 5, 6 Điều 53 Luật các TCTD 2010).

Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục ít nhất một năm có quyền tự

mình hoặc cùng với luật sư hoặc kế toán và kiểm toán viên có chứng chỉ hành

nghề trực tiếp xem xét các báo cáo theo quy định trong thời gian hợp lý như: (i)

Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty; (ii) Báo cáo tài chính; (iii) Báo cáo

đánh giá công tác quản lý, điều hành công ty. (Điều 170 Luật doanh nghiệp

2014).

Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở

lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định

tại Điều lệ công ty có các quyền: Xem xét và trích lục sổ biên bản và các nghị

quyết của Hội đồng quản trị, báo cáo tài chính giữa năm và hằng năm theo mẫu

của hệ thống kế toán Việt Nam và các báo cáo của Ban kiểm soát. (điểm b khoản

2 điều 114 Luật doanh nghiệp 2014)

Luật doanh nghiệp mới năm 2014 tại Điều 171 đã lược đi điều khoản về

quyền tiếp cận thông tin của cổ đông. Theo quy định tại Điều 129 Luật doanh

nghiệp 2005 cổ đông có quyền xem hoặc sao chép BCTC hàng năm của CTCP

tại cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền. Tuy nhiên tới Luật doanh nghiệp

mới thì điều này không còn được ghi nhận nữa.

43

Thứ hai, Trên phương diện công ty cổ phần phải có nghĩa vụ công bố

thông tin. Đối với mỗi loại hình CTCP thì sẽ có nghĩa vụ công bố thông tin khác

nhau.

Đối với hình thức CTCP đại chúng, chế độ công bố thông tin được quy

định rõ ràng trong luật chứng khoán năm 2006 ( Luật sửa đổi bổ sung một số

điều của Luật chứng khoán năm 2010). Đối với CTCP chưa đại chúng, Luật

doanh nghiệp chỉ quy định việc công bố thông tin liên quan đến BCTC, một tài

liệu quan trọng để phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.

Về cơ bản pháp luật Việt Nam đã có hành lang pháp lý cụ thể để cho việc công

bố thông tin giúp minh bạch hóa hoạt động của CTCP nhằm bảo vệ nhà đầu tư,

trong đó nhất là cổ đông thiểu số. Tuy vậy, việc vận hành và hiện thực hóa

những cơ chế để đảm bảo quyền này thì không hề được đảm bảo.

Thực tiễn mức độ công khai và minh bạch hóa chưa đáp ứng được yêu

cầu. Trên thực tế có nhiều vụ việc xảy ra ở các công ty do cố tình làm sai lệch số

liệu trong BCTC. Có đôi lúc tình hình kinh tế khóa khăn, các doanh nghiệp hoạt

động kém hiệu quả, tê liệt, ít giao dịch thành công và để có được những con số

đẹp họ đã phải vận dụng tới nhiều thủ thuật để làm đẹp số liệu tài chính. Bên

cạnh đó rất ít doanh nghiệp tự nguyện kiểm toán BCTC của mình, do tâm lý sợ

liên quan tới nhiều hoạt động nội bộ không minh bạch.

Quyền xem xét, trích lục sổ sách tài liệu của cổ đông vẫn bị hạn chế. Trên

thực tế có nhiều khi các cổ đông liên kết lại thành nhóm để có quyền tiếp cận

những thông tin của công ty. Tuy nhiên cổ đông không thể có được những chứng

từ, hóa đơn được lưu giữ ở phòng Tài chính- kế toán vì bộ phận này từ chối tiếp

cận. Pháp luật nước ta vẫn còn quá nhiều chỗ chưa quy định rõ ràng, cụ thể do

vậy cổ đông khó có thể tập hợp những chứng cứ vi phạm của Ban điều hành, gây

khó khăn trong quá trình tiến hành khởi kiện.

44

Đối với cổ đông trong các NHTMCP, việc cổ đông không được tiếp cận

với thông tin của công ty hoặc tiếp cận không đầy đủ, chính xác và trung thực là

hiện tượng phổ biến, cổ đông không được nhận thông báo về các quyết định của

ĐHĐCĐ, không nhận được tóm tắt báo cáo tài chính hàng năm, không được

nhận thông báo về trả cổ tức, về cổ phiếu thưởng, các thông tin về mua bán sáp

nhập ngân hàng. Mặt khác, việc tiếp nhận thông tin cũng bị mất cân đối giữa các

chủ sở hữu công ty và người trực tiếp điều hành công ty34, do vậy đa số cổ đông

phổ thông – những người không nắm giữ quyền điều hành trong công ty thường

bị bất lợi về quyền được thông tin.

2.2.4. Quyền giám sát của cổ đông

 Quyền kiểm soát những giao dịch lớn, tư lợi, nội gián

Bản thân những người làm ở những vị trí quản lý điều hành NHTMCP

thường là những người thực hiện trực tiếp những giao dịch lớn, quan trọng trong

công ty. Họ đồng thời là những người nắm rõ được những thông tin nội bộ trực

tiếp có lợi cho họ do đó có thể dễ dàng tiến hành những giao dịch nội gián. Thực

tế quy định về nội dung và cách thức công khai hóa giao dịch có liên quan chưa

hợp lý và đầy đủ. Bảo vệ cổ đông chính là bảo đảm nhằm giảm thiểu rủi ro bị

chiếm đoạt bởi các giao dịch nội gián của công ty.35

Khoản 2 điều 120 Luật doanh nghiệp 2005 quy định : “Hội đồng quản trị

chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 50% tổng giá trị tài sản

doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn

quy định tại Điều lệ công ty”, khoản 3 điều 120: “Đại hội đồng cổ đông chấp

thuận các hợp đồng và giao dịch khác trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều

này”. Theo khoản 2 điều 162 Luật doanh nghiệp 2014 đã hạ tỉ lệ HĐQT được 34 Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong công ty cổ phần, số 6 (254) – 2009, tr. 29-33. 35 Phan Đức Hiếu, Bảo vệ cổ đông và một số kiến nghị sửa đổi Luật doanh nghiêp, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 19/2014, tr. 12-14.

45

chấp thuận các hợp đồng và giao dịch có giá trị nhỏ hơn 35% tổng giá trị tài sản

của doanh nghiệp ghi trong BCTC gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy

định tại Điều lệ công ty; các hợp đồng và giao dịch khác có giá trị lớn hơn phải

được ĐHĐCĐ chấp thuận. Điều này đồng nghĩa với việc cổ đông thiếu số càng

có cơ hội thông qua các giao dịch lớn của công ty.

Đối với hợp đồng có liên quan đến cổ đông lớn hoặc ban điều hành. Theo

Khoản 1 Điều 162 Luật doanh nghiệp 2014 thì: Cổ đông, người đại diện ủy

quyền của cổ đông sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và

những người có liên quan của họ; hoặc thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc

hoặc Tổng giám đốc và người có liên quan của họ phải được ĐHĐCĐ hoặc

HĐQT chấp thuận. Những hợp đồng này tiềm ẩn nguy cơ trục lợi của những cổ

đông chiến lược hoặc Ban điều hành có thể lợi dụng vị trí, địa vị của mình để tạo

điều kiện thuận lợi cho mình mình hoặc những người có liên quan. Để cổ đông

thực sự kiểm soát được những giao dịch này đòi hỏi phải có một cơ chế giám sát

nội bộ hoạt động hiệu quả, những quy tắc đạo đức áp dụng cho người quản lý

công ty phải được tuân thủ, do đó quyền kiểm soát những giao dịch này của cổ

đông không hề dễ dàng. Một môi trường pháp lý vững chắc và việc thực thi kiên

quyết là điều quan trọng để kiềm chế các hành vi trục lợi, đảm bảo đối xử công

bằng với tất cả các cổ đông và tạo dựng độ tin cậy cho các nhà đầu tư.36 Bất cập

của nội dung này có thể kể đến liên tiếp những vụ việc sai phạm nghiêm trọng

trong hoạt động quản lý của Ban điều hành cácNHTM. Điển hình là các vụ việc

vi phạm từ người quản trị trong NHTMCP đã bị khởi tố: Trường hợp cuối tháng

7/2014 Ban lãnh đạo VNCB đã bị khởi tố về tội danh “vi phạm quy định về cho

vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” làm thiệt hại nghiêm trọng đối với

hoạt động của VNCB. Kế đó là trường hợp của Oceanbank. Tính đến 31/3/2014,

36 Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) – 2007, tr. 22 – 25.

46

Oceanbank nợ xấu hơn 14.000 tỷ đồng chiếm 49,84% tổng dư nợ toàn hệ thống;

lợi trước thuế lỗ hơn 10.000 tỷ đồng bằng 249,63% vốn chủ sở hữu (tức âm vốn

chủ sở hữu gần 2,5 lần. Ngày 6/5/2015, Ngân hàng Nhà nước đã mua lại

Oceanbank với giá 0 đồng. Trong quá trình điều hành, chủ tịch HĐQT và các

đồng phạm để xảy ra nhiều vi phạm trong việc cho vay, huy động tiền gửi, chi lãi

suất vượt trần gây thiệt hại nghiêm trọng cho Oceanbank và các cổ đông.

Ở mỗi vụ việc xảy ra, hậu quả để lại trước tiên chính là các cổ đông phải là

người gánh chịu, vì đối với khách hàng, dù ít hay nhiều họ vẫn sẽ được hỗ trợ

đảm bảo quyền lợi từ phía NHNN. Nguyên nhân của những vụ việc này xuất

phát từ quy định pháp luật và cơ chế đảm bảo quyền giám sát của cả cổ đông

nhất là nhóm cổ đông thiểu số còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ; đồng thời quyền

tiếp cận thông tin, chất vấn của cổ đông không được đảm bảo do vậy họ không

thể nắm bắt được tình hình và kiểm soát được hoạt động của Ban quản trị.

 Quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của công ty

Quyền yêu cầu thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động của công ty, NHTMCP

phụ thuộc vào số lượng cổ phần và thời gian nắm giữ cổ phần. Theo đó có 2

nhóm đối tượng như sau:

 Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở

lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06 tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn

quy định tại Điều lệ công ty có quyền: Yêu cầu Ban kiểm soát kiểm tra

từng vấn đề cụ thể liên quan đến quản lý, điều hành hoạt động của công ty

khi xét thấy cần thiết.

 Cổ đông sở hữu cổ phần của công ty liên tục trong thời hạn ít nhất một

năm có quyền yêu cầu HĐQT đình chỉ thực hiện quyết định của HĐQT

thông qua trái với quy định của pháp luật hoặc Điều lệ công ty gây thiệt

hại cho công ty thì các thành viên chấp thuận thông qua quyết định đo

47

phải cùng liên đới chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định đo và phải đền

bù thiệt hại cho công ty; thành viên phản đối trách nhiệm nói trên được

miễn trừ trách nhiệm (Theo khoản 4 điều 149 Luật doanh nghiệp 2014).

Tuy nhiên quyền thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt động công ty của các

cổ đông không phải là quyền chủ động, họ hoàn toàn bị động do chỉ có

quyền yêu cầu BKS thực hiện. Nếu BKS không thực hiện hoặc thực hiện

qua loa thiếu trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp thì cổ đông sẽ khó có

thể có được những thông tin trung thực. Việc yêu cầu HĐQT đình chỉ thực

hiện quyết định HĐQT trái luật hoặc Điều lệ của công ty cũng khó khả thi

do HĐQT không có trách nhiệm thông báo phiên họp và cổ đông thiểu số

cũng không có quyền dự họp ĐHĐCĐ do vậy nếu công ty không cung cấp

quyết định của HĐQT thì cổ đông thiểu số cũng không thể biết để yêu cầu

HĐQT ngừng thực hiện.

Rất nhiều vụ việc cho tới khi Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về mặt

tài chính, buộc để ngân hàng trung ương can thiệp mua lại với giá 0 đồng như

trường hợp của 3 ngân hàng VNCB, Oceanbank, GPBank năm 2015 thì cổ đông

đều không hay về tình hình của công ty, không có quyền giám sát hoạt động của

Ban lãnh đạo. Tính minh bạch là điều tiên quyết để đảm bảo quyền lợi cân bằng

cho các chủ thể. Ở những nơi mà các quy định pháp luật không đảm bảo được

việc bảo vệ chắc chắn cho cổ đông thì chính ngân hàng phải tăng tính thân thiện

với các nhà đầu tư, bằng cải tiến quản trị thông qua quyền giám sát minh bạch

của cổ đông.

2.2.5. Quyền khởi kiện

Tất cả các cổ đông đều phải đối mặt với các rủi ro, thiệt hại do hành vi của

người quản lý, điều hành công ty có thể gây ra37. Quyền lợi của cổ đông sẽ chỉ là

37 Bùi Xuân Hải, Khởi kiện người quản lý công ty: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong phap luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 1/2011, tr. 29-36.

48

trên giấy nếu thiếu tố quyền, do đó quyền khởi kiện của cổ đông đã được ghi

nhận tại LDN38. Cổ đông có quyền yêu cầu Tòa án hay trọng tài can thiệp để bảo

vệ quyền lợi của mình là một nội dung mới trong LDN ở Việt Nam mà trước đây

Luật Công ty năm 1990 và Luật doanh nghiệp 1999 không có điều khoản nào

quy định. LDN 2014 ghi nhận quyền này của cổ đông tại Điều 161. Bên cạnh đó

thì quyền khởi kiện đối với thành viên HĐQT, GĐ/TGĐ được cụ thể hóa tại

khoản 1 điều 19 và khoán 1 điều 25 về trường hợp khởi kiện và khoản 2 điều 19

và các khoản 2,3, và 4 điều 25 về trình tự, thủ tục khởi kiện trong Nghị định

102/2010 NĐ/CP của Chính phủ ban hành ngày 01/10/2010, hướng dẫn thi hành

một số điều của luật doanh nghiệp năm 2005. Ở các nước theo truyền thống án lệ

như Anh, Mỹ, Úc, Canada,…quyền kiện người quản lý công ty là một quyền cơ

bản của cổ đông, cổ đông có thể nhân danh chính mình hoặc nhân danh công ty

để khởi kiện người quản lý công ty.39

Một là, chưa quy định rõ ràng về tư cách khởi kiện của cổ đông. Tại điều

161 luật doanh nghiệp 2016 có quy định quyền khởi kiện đối với thành viên Hội

đồng quản trị, Giám đốc, Tổng giám đốc. Theo đó thì “Cổ đông, nhóm cổ đông

sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có

quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với

thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc”40. Tuy nhiên

pháp luật lại không nói rõ đối tượng có quyền khởi kiện có cần thiết phải nắm

giữ cổ phần một cách liên tục từ thời điểm được cho là xảy ra hành vi vi phạm

đến thời điểm khởi kiện hay không; liệu cổ đông nắm giữ 1% cổ phần khởi kiện

là người nắm giữ cổ phần tại thời điểm xảy ra hành vi vi phạm hay tại thời điểm

khởi kiện? Mặt khác trong suốt quá trình diễn ra vụ kiện thì cổ đông khởi kiện có

38 Phạm Duy Nghĩa, Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh với luật công ty năm 2005 của CHNN Trung Hoa, Tạp chí nhà nươc và pháp luật, 2006. 39 Stephen M. Bainbridge, Corporate Law and Economics (2002), tr.362-5. 40 Điều 161, LDN 2014.

49

bắt buộc vẫn là cổ đông của công ty hay không và nếu trường hợp công ty tăng

vốn và cổ đông hoặc nhóm cổ đông không duy trì tỷ lệ tăng theo tương ứng, dẫn

tới hệ quả là chỉ sở hữu dưới 1% tỷ lệ cổ phần thì lúc đó tư cách nguyên đơn của

bên khởi kiện có còn được giữ hay không? Đây chính là những câu hỏi mà rất

nhiều người đã đặt ra cho luật Doanh nghiệp 2014 khi cho rằng quy định đã có

nhưng không cụ thể, có thể dẫn tới lúng túng cho Tòa án khi tiếp nhận đơn kiện

của nguyên đơn.

Hai là, hệ thống pháp luật nước ta chưa có những quy định tương thích

với khái niệm mới trong luật doanh nghiệp về quyền khởi kiện phái sinh và vai

trò đại diện tố tụng. Theo tư tưởng về quyền khởi kiện trách nhiệm dân sự thì

người bị thiệt hại trực tiếp sẽ là người khởi kiện. Tuy nhiên trong NHTMCP

không phải lúc nào hành vi vi phạm của người quản lý cũng gây thiệt hại trực

tiếp tới cổ đông mà sẽ thiệt hại trực tiếp tới công ty đầu tiên, sau đó thiệt hại của

cổ đông mới là gián tiếp. Ở Mỹ, cổ đông có thể nhân danh công ty khởi kiện

người quản lý công ty vi phạm nghĩa vụ và gây thiệt hại cho công ty, mặc dù

hành vi của người quản lý công ty gây thiệt hại cho công ty chứ không gây thiệt

hại trực tiếp cho cổ đông đó41. Ở Nhật Bản, các học giả gọi đại diện tố tụng

không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của cổ đông42, do đó cổ đông có thể tự

mình hoặc thông qua yêu cầu để công ty khởi kiện chính HĐQT hoặc Ban giám

đốc. Việc cổ đông đại diện tố tụng là cách thức để duy trì lợi ích dài hạn của

công ty. Bởi vậy, để cơ chế kiện phái sinh phát huy tốt hiệu quả trong bảo vệ cổ

đông, cần sớm sửa đổi Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự theo hướng bổ

sung các nội dung về trình tự, thủ tục của cơ chế khởi kiện phái sinh đồng thời

coi quyền khởi kiện của cổ đông như là cách thức để duy trì lợi ích chung của

công ty chứ không phải là lạm dụng quyền khởi kiện cho cá nhân.

41 Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ phần, 2004, tr.270. 42 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Đại diện tố tụng của cổ đông ở Nhật Bản, số 12/ 2005, tr. 60-63.

50

2.3. Những bất cập phát sinh trong hoạt động quản trị và tái cơ cấu

NHTMCP.

 Vai trò của Hội đồng quản trị chưa đảm bảo quyền lợi của cổ đông.

HĐQT đóng vai trò chính nhất trong nhiệm vụ đảm bảo hoạt động của công

ty tuân thủ theo pháp luật, tuân thủ điều lệ và quy định nội bộ của công ty, đối xử

bình đẳng đối với tất cả các cổ đông và tôn trọng lợi ích của người có quyền liên

quan đến công ty. HĐQT được bầu ra với mục đích và kỳ vọng là vì quyền lợi

của tất cả các cổ đông một cách bình đẳng nhưng ở Việt Nam, HĐQT đang đóng

3 vai trò: vừa đóng quyền đại diện cổ đông lớn, vừa quản lý công ty, vừa kiểm

soát cả BKS. Chính vì điều này mà ở nhiều công ty, HĐQT chi phối, kiểm soát

mạnh và chỉ phục vụ lợi ích của đa số cổ đông lớn trong công ty.

HĐQT ở Việt Nam gồm từ 3-11 thành viên, đa số thành viên là cổ đông lớn,

hoặc đại diện của cổ đông lớn, trực tiếp nắm giữ những chức danh khác nhau

trong công ty; 67% số lượng các công ty được khảo sát có Chủ tịch HĐQT đồng

thời kiêm GĐ, TGĐ.43 Điều này vô hình chung dẫn tới hệ quả là cổ đông thiểu số

khó có thể chi phối hay ảnh hưởng đến các quyết định của HĐQT, lại càng khó

có thể giám sát những đối tượng này. Theo quy định của LDN thì cổ đông có

quyền đề cử người vào HĐQT hay có thể tác động tới thành phần HĐQT thông

qua việc sử dụng dồn phiếu ngay cả trong trường hợp các thành viên HĐQT

được đề cử hoặc bầu chọn lại theo định kỳ. Tuy nhiên trên thực tế thì thực tế các

NHTMCP ít ghi nhận quyền này của cổ đông. Ngay cả khi quyền này được ghi

nhận thì LDN 2014 đã vô hình chung có thể vô hiệu hóa nó bằng quy định tại

Khoản 2 Điều 156. Theo đó thì các thành viên HĐQT được bầu này đều có thể bị

bãi nhiệm bất cứ lúc nào theo nghị quyết của ĐHĐCĐ. Nếu các cổ đông lớn sử

dụng điều khoản này để tiến hành thông qua nghị quyết bãi nhiệm thành viên

43 Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học.

51

HĐQT đại diện cho cổ đông thiểu số thì lúc này quyền lợi của cổ đông thiểu số

không thể được đảm bảo như tinh thần mà luật ghi nhận nữa.

Trong khi HĐQT và những người quản lý được trao cho những quyền năng

quan trọng để điều hành hoạt động ngân hàng nhưng đối với những vi phạm

trong hoạt động của các chủ thể này chưa có các quy định về trách nhiệm đền bù

thiệt hại. Quy định về trách nhiệm dân sự trong LDN chưa đề cập đến bảo vệ lợi

ích của bên thứ ba khi có các hành vi vi phạm liên quan đến hoạt động tài chính

của CTCP44. Vì thiếu các quy định về trách nhiệm đền bù thiệt hại nên khi xảy ra

vi phạm tại hoạt động của các NHTMCP, cổ đông hầu hết bị thiệt hại mà không

có cơ chế đảm bảo quyền lợi chính đáng cho mình.

 Hoạt động của Ban kiểm soát còn mờ nhạt

Ban kiểm soát trong NHTMCP là một thành phần bắt buộc khi ngân hàng có

từ 11 cổ đông là cá nhân hoặc có cổ đông là tổ chức sở hữu trên 50% tổng số cổ

phần của ngân hàng. Theo quy định của LDN 2014 và Nghị định số

59/2009/NĐ-CP thì BKS là cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng nhằm đánh

giá chính xác hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của ngân hàng. BKS

của ngân hàng có tối thiểu 03 thành viên, số lượng cụ thể do Điều lệ ngân hàng

quy định, trong đó phải có ít nhất 1/2 (một phần hai) tổng số thành viên là

chuyên trách. BKS có đặc quyền đó là có bộ phận giúp việc và được sử dụng bộ

phận kiểm toán của ngân hàng để thực hiện các nhiệm vụ của mình.

Theo luật doanh nghiệp 2014 thì BKS rất nhiều nhiệm vụ và quyền hạn liên

quan tới vai trò kiểm soát của mình. Tuy nhiên những quyền hạn của BKS chỉ

được giới hạn trong những quyền yêu cầu cung cấp thông tin tài liệu cho việc

kiểm soát và chế độ báo cáo ngay cho cơ quan đại diện chủ sở hữu công ty, các

44 T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2013), Sửa đổi Luật doanh nghiệp để bảo đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 02+03/2013, tr 78-84

52

thành viên khác. Những quyền này không mang lại cho BKS thẩm quyền thực sự

để can thiêp vào các hành vi vi phạm của các chủ thể quản lý khác. BKS không

thể can thiệp dưới mọi hình thức để đình chỉ các hành vi xâm phạm lợi ích của

công ty và cổ đông khác. Như vậy theo quy định của LDN thì BKS vẫn không

phải là một cơ quan có thực quyền bởi những hoạt động và kết quả hoạt động

bằng văn bản của BKS ban hành về việc kiểm tra, giám sát chỉ có ý nghĩa cảnh

báo. Ngay cả khi phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ quản lý công ty của HĐQT

hoặc BGĐ, BKS cũng chỉ có quyền yêu cầu các cá nhân liên quan chấm dứt

hành vi vi phạm và có giải pháp khắc phục hậu quả. BKS không có quyền sa thải

người lao động nếu họ sai phạm (điều 106 Luật doanh nghiệp 2014).

Một số vấn đề bất cập còn tồn tại trong thực tiễn hoạt động của BKS phải kể

đến cách thức bầu chọn thành viên BKS. Thành viên của ban này thường là do

HĐQT lựa chọn do vậy tính độc lập trong hoạt động của BKS mặc dù luật có

quy định nhưng không ai đảm bảo được họ sẽ hoạt động công tâm khách quan.

Thêm vào đó, thực tiễn cổ đông đa số chi phối HĐQT, BKS thông quan đề cử,

ứng cử từ ĐHĐCĐ; hoặc giới hạn số lượng thành viên BKS tới mức thấp nhất để

tước đi cơ hội và tỷ lệ được tham gia của nhóm cổ đông thiểu số. Quy định

“Không phải là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con

nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người đứng

đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan đại diện chủ sở hữu của công ty, thành

viên Hội đồng thành viên của công ty, phó Giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc

và Kế toán trưởng của công ty, kiểm soát viên khác của công ty” không bao quát

hết với trường hợp nhờ người khác đứng tên hộ nắm cổ phần chi phối, cổ đông

lớn (trên 5%).

 Bất cập trong bảo vệ cổ đông từ việc mua lại NHTMCP với giá 0 đồng

53

Trong những năm qua một số ngân hàng trong thời gian hoạt động đã bộc lộ

nhiều yếu kém, việc quản trị và điều hành vi phạm nghiêm trọng quy định của

pháp luật. Trước tình hình đó, để kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tổn thất tài sản của

ngân hàng, NHNN đã quyết định đặt các ngân hàng này vào tình trạng kiểm soát

đặc biệt. Với tổn thất tài chính nặng nề, trong khi chính các ngân hàng này

không có các giải pháp khả thi để tăng vốn điều lệ đảm bảo mức vốn pháp định

theo yêu cầu của NHNN, nhằm xử lý dứt điểm các vấn đề tồn tại yếu kém của

ngân hàng, căn cứ các quy định hiện hành, NHNN đã tuyên bố mua bắt buộc

toàn bộ cổ phần của các cổ đông hiện hữu tại một số ngân hàng điển hình trong

năm 2015 như: VNCB, Oceanbank, GP.Bank.

Cơ sở pháp lý để NHNN mua ngân hàng trong diện kiểm soát đặc biệt với

giá 0 đồng là Điều 149 Luật Các TCTD nêu rõ: NHNN có quyền trực tiếp mua

hoặc chỉ định TCTD khác mua lại ngân hàng yếu kém, những ngân hàng thuộc

diện kiểm soát đặc biệt, nếu ngân hàng đó không thực thiện được việc tăng vốn,

không thực hiện phương án tăng vốn theo quy định của NHNN. Trên cơ sở đó

năm 2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 48, hướng dẫn cụ

thể về trình tự thủ tục, các hình thức, biện pháp mua lại các ngân hàng trong diện

kiểm soát đặc biệt bao gồm định giá cổ phiếu, quyền các bên liên quan.Việc mua

lại các ngân hàng 0 đồng của NHNN chưa từng có tiền lệ trước thời điểm nó xảy

ra, có nghĩa là không có một cơ chế hay quy định trực tiếp nào về quyền lợi của

cổ đông trong những trường hợp này. Đối với mỗi ngân hàng, khi xảy ra tình

trạng mua lại với giá 0 đồng, quyền lợi của các cổ đông vẫn còn là một bài toán

không có lời giải thỏa đáng.

Thứ nhất, khi các ngân hàng bị mua lại với giá 0 đồng, đồng nghĩa với việc

quyền sở hữu của các cổ đông hiện hữu bị chấm dứt. Khi mua lại ngân hàng với

giá 0 đồng, NHNN sẽ trở thành chủ sở hữu duy nhất với 100% vốn sở hữu của

ngân hàng đó, ngân hàng 0 đồng lúc này trở thành NHTM một thành viên nhà

54

nước. Đối với các cổ đông của NHTMCP, việc ngân hàng của họ làm ăn thua lỗ,

số vốn cổ phần của cổ đông bị suy giảm giá trị là điều có thể lường ra; tuy nhiên

đối với trường hợp mất trắng chỉ trong nháy mắt lại là điều cổ đông chưa thể

nghĩ đến. Việc đột nhiên mất hoàn toàn quyền sở hữu của mình tại ngân hàng đối

với cổ đông có thể còn nghiêm trọng hơn nhiều so với việc ngân hàng bị phá sản.

Vì dù ngân hàng có bị phá sản, thì cũng phải giải quyết qua nhiều năm tháng và

cổ đông vẫn có quyền hy vọng vớt vát được một phần vốn thông qua việc thu hồi

các khoản tiền. Ngay khi có quyết định mua lại các ngân hàng trên với giá 0

đồng, các cổ đông hiện hữu của ngân hàng bị chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và

tư cách cổ đông.

Thứ hai, Quyền tiếp cận thông tin và tham gia hoạt động đối với các ngân

hàng 0 đồng của cổ đông bị hạn chế. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014

và Luật các TCTD 2010 về quyền chung của cổ đông là có quyền tiếp cận thông

tin một cách công khai. Thực tế từ những lần các ngân hàng 0 đồng được mua,

cho thấy cổ đông không hề có quyền chủ động tiếp cận và được thông tin về tình

hình của công ty, dẫn tới tình trạng bị động. Trên bình diện pháp lý, quyền của

cổ đông nhỏ được xây dựng như một định chế, đó là có quyền được truy vấn ban

điều hành, HĐQT của ngân hàng mình góp vốn; hay như các ngân hàng đều phải

có thành viên HĐQT độc lập để bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông nhỏ. Tuy

nhiên, những quyền này gần như không có thực chất trong việc bảo vệ quyền cho

cổ đông nhỏ. Với những ngân hàng yếu kém bị mua lại 0 đồng như GP.Bank

(ngân hàng TMCP Dầu khí Toàn cầu), VNCB đã rất nhiều năm không có báo

cáo tài chính nhưng những cổ đông nhỏ lẻ cũng không đòi hỏi. Nhiều cổ đông

cho rằng họ vẫn nhận được báo cáo tài chính về hoạt động kinh doanh rất khả

quan của ngân hàng. Lấy ví dụ như trường hợp của OceanBank: Năm trước khi

có quyết định bị mua lại từ NHNN, OceanBank còn được vinh danh là 1 trong

200 doanh nghiệp phát triển nhanh và lành mạnh. Đến quý 3/2014 còn nhận

55

những giải thưởng quốc tế như ngân hàng bán lẻ tốt nhất của năm... Tuy nhiên

khi NHNN có thông báo kiểm soát đặc biệt rồi cho thời gian ngắn ngủi để tăng

vốn, và sau đó là quyết định mua lại bắt buộc, cổ đông bỏ vốn vào bị mất trắng,

các doanh nghiệp làm ăn khó khăn lại mất hết cả vốn hàng trăm tỷ đồng. Chính

vì bất cập trong việc công khai thông tin dẫn tới việc cổ đông, đặc biệt là cổ

đông nhỏ hoàn toàn bất ngờ khi được tin ngân hàng mình đang đóng góp cổ phần

trở thành ngân hàng thuộc sở hữu hoàn toàn của nhà nước. Có thể thấy đây là bất

cập lớn trong hệ thống pháp luật để giải quyết vấn đề này, đảm bảo quyền lợi cao

nhất cho các nhà đầu tư.

Thứ ba, Không có cơ chế đền bù thiệt hại cho cổ đông khi xảy ra sai phạm

của người quản lý. Khi rất nhiều cổ đông góp vốn để thành lập và gia tăng nguồn

vốn hoạt động ngân hàng, họ trao quyền cho Ban điều hành đại diện và thực hiện

tất cả các hoạt động để thu về lợi nhuận. Trên thực tế ngay cả khi ngân hàng

không chi trả cổ tức, hay làm ăn thua lỗ, lãnh đạo thuộc Ban điều hành vẫn được

hưởng thù lao rất cao, trong khi cổ đông không được nhận một chút lợi nhuận

nào. Vì vậy khi xảy ra thất thoát, yếu kém và nợ xấu quá cao, NHNN buộc phải

can thiệp thì chính đội ngũ lãnh đạo phải là người có trách nhiệm trong trường

hợp này. Theo lý thuyết cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn

góp, ở trường hợp đối với các ngân hàng 0 đồng, để đảm bảo một chút quyền lợi

của cổ đông (nhất là các cổ đông nhỏ - những chủ thể không hề biết chút thông

tin về tình hình hoạt động của ngân hàng) các cổ đông thuộc Ban điều hành phải

giải trình trách nhiệm cụ thể. Tuy nhiên pháp luật chỉ truy cứu trách nhiệm hình

sự đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm

trọng mà chưa có các cơ chế về dân sự để khắc phục và đền bù thiệt hại cho các

cổ đông khác trong những trường hợp này.

 Quyền lợi của cổ đông bị giảm do nợ xấu

56

Trong thời gian qua, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã phải đối

mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó điển hình là vấn đề nợ xấu. Nợ xấu

đã trở thành một nỗi lo thường trực của nhiều ngân hàng thương mại không chỉ ở

trên thế giới mà còn ở hệ thống các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại

tại Việt Nam. Nợ xấu đã, đang và có thể sẽ tiếp tục tác động tiêu cực đến việc

lưu thông dòng vốn vào nền kinh tế. Trong những yếu tố tác động của nợ xấu,

quyền lợi của cổ đông trong các ngân hàng sẽ bị tác động đầu tiên.

Nợ xấu xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Tuy nhiên nguyên nhân chính vẫn

phải kể đến là năng lực quản trị rủi ro tại mỗi ngân hàng còn kém. Các ngân

hàng chưa xây dựng được thước đo lượng hóa rủi ro nên chưa tính toán chính

xác được yếu tố này dẫn đến quyết định cho vay, phân loại nợ chưa chính xác.

Ngân hàng có thể cấp tín dụng cho những dự án không an toàn hoặc cho doanh

nghiệp có quan hệ thân thiết. Bên cạnh đó việc cho vay dễ dàng, thiếu kiểm soát

cộng với việc thẩm định vốn vay thiếu cẩn trọng tất yếu sẽ dẫn đến không thu

hồi được vốn.

Khi tỷ lệ nợ xấu cao sẽ dẫn tới rất nhiều tác động tiêu cực, đứng trên phương

diện quyền của cổ đông có thể thấy như sau: Trước tiên lợi nhuận của cổ đông sẽ

giảm sút. Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn

vốn của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi

trả tiền lãi cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi nhuận bị giảm sút. Nếu lợi

nhuận không đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn tự có của mình để bù

đắp thiệt hại. Điều này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô hoạt động của các

NHTM. Mặt khác, để khắc phục được tình trạng nợ xấu, các ngân hàng phải thực

hiện biện pháp trích lập quỹ và sử dụng quỹ dự phòng. Số tiền để trích lập quỹ

dự phòng tính vào chi phí của ngân hàng, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận mà

cổ đông đáng được hưởng. Trong trường hợp phải quyết liệt xử lý nợ xấu theo

cách buộc các ngân hàng phải trích dự phòng rủi ro đủ cho số nợ xấu, thì các

57

ngân hàng sẽ mất vốn chủ sở hữu. Thậm chí, còn đẩy vốn chủ sở hữu tại một số

ngân hàng xuống thấp hơn mức quy định là 3.000 tỷ đồng, hoặc âm vốn. Tới

đây, hệ lụy kéo theo có thể khiến ngân hàng rơi vào tình trạng bị kiểm soát đặc

biệt, thậm chí là tiếp tục bị mua lại với giá 0 đồng hoặc tái cơ cấu không đảm

bảo được quyền lợi cho cổ đông.

 Quyền lợi của cổ đông không được đảm bảo sau tái cơ cấu.

Trên thực tế hoạt động ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều hơn, nhưng luôn

luôn tiềm ẩn những nguy cơ về khả năng thanh khoản, nợ xấu và đứng trước

nguy cơ phá sản nếu hoạt động không đủ mạnh mẽ, cứng rắn. Ở mỗi tình huống

cụ thể sau khi các ngân hàng vấp phải khó khăn về tài chính không thể tự mình

giải quyết hiệu quả thì việc tái cơ cấu lại tiếp tục đặt ra. Nhìn trên phương diện

quyền lợi của các nhà đầu tư sau mỗi lần tái cơ cấu thì câu chuyện được mất rất

khó xác định. Rõ ràng nhất phải kể đến thương vụ sáp nhập giữa Ngân hàng cổ

phần nhà Hà Nội đầu tiên Habubank (HBB) với Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Hà

Nội (SHB) năm 2012. Trong vụ sáp nhập điển hình này, quyền lợi của đại đa số

cổ đông ngân hàng SHB được cho là chưa cân bằng.

Về lý thuyết, quyền lợi của các cổ đông của cả SHB và HBB sau vụ sáp nhập

này đều được đảm bảo. Theo đó, cổ đông đang nắm giữ 1 cổ phiếu HBB sẽ được

hoán đổi 0,75 cổ phiếu SHB và cổ đông đang nắm giữ 1 cổ phiếu SHB sẽ được

thêm 0,21 cổ phiếu. Song đó không phải là điều mà các cổ đông của SHB lo

ngại, mà cổ đông SHB đã phải đối mặt với trục trặc trong hoạt động sau khi sáp

nhập, khi đó lợi ích của cổ đông khó lòng được đảm bảo.Trước tiên khi 2 ngân

hàng này sáp nhập, SHB sẽ phải thành lập ban quản lý, xử lý nợ để làm việc với

từng doanh nghiệp để giải quyết 3.729 tỷ đồng nợ xấu mà HBB để lại. Những

khoản nợ khó thu hồi từ Bianfishco mà HBB đã rót vào công ty này hay khoản

nợ tại Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển Kenmark, nơi cả SHB và HBB đều

58

cho vay (riêng SHB cho vay 14,5 triệu USD)... Ngoài ra, SHB phải gánh thêm

một số công ty con của HBB đang hoạt động không hiệu quả, bỏ ra nhiều khoản

chi phí để thay đổi thương hiệu, hình ảnh của các chi nhánh, văn phòng giao dịch

của HBB; chi phí hoán đổi cổ phiếu HBB thành SHB... Tất cả những thay đổi

trên khiến cổ đông SHB suy nghĩ là liệu giá trị cổ phiếu của SHB có bị hạ thấp

và cổ tức năm tới còn lại bao nhiêu khi ngành ngân hàng kinh doanh ngày càng

khó khăn. Bên cạnh đó, mâu thuẫn về mục tiêu và tầm nhìn của các ông chủ mới

sau khi sáp nhập, hợp nhất trở thành rào cản mới trong kinh doanh.

Một mặt khác là về việc tiếp cận thông tin của cổ đông. Thông tin ngân hàng

sáp nhập cần được bảo mật, nhưng đã có người tiếp cận được thông tin và vi

phạm nguyên tắc bảo mật được NHNN quy định. Như vậy với việc thông tin quy

định cần bảo mật được tiết lộ ra ngoài, chắc chắn có những người được hưởng

lợi và những người bị thua thiệt. Quan trọng hơn sự thiếu cẩn trọng và tinh tế

trong bạch hóa thông tin khiến cho niềm tin của cổ đông và nhà đầu tư bị giảm

sút rất nhiều, cũng rất khó có thể khẳng định là có hay không người lợi dụng

thông tin để trục lợi. Trong trường hợp này quyền lợi của các cổ đông đặc biệt là

các cổ đông nhỏ đã bị xem nhẹ.

Về phương diện công bố thông tin tài chính, cổ đông của HBB cũng không

được đảm bảo ở thời điểm xảy ra yêu cầu sáp nhập. Tại phiên họp ĐHĐCĐ

thường niên Habubank bất ngờ công bố thực trạng tài chính tồi tệ của mình đang

gặp phải, điều này khiến các cổ đông hoàn toàn bị động, dù cổ đông hoàn toàn

lường trước kết quả hoạt động của ngân hàng thời gian vừa qua là không tốt. Cổ

đông hoàn toàn hoang mang lo ngại, không biết về mức độ tin cậy và tính chính

xác của các báo cáo tài chính và hoạt động kiểm toán. Cổ đông cho rằng tới tận

lúc công bố sáp nhập thì các thông số về hoạt động yếu kém của HBB mới được

công khai khiến cổ đông HBB cảm thấy hẫng hụt và đành phải lựa chọn phương

án cuối cùng là chấp nhận để sáp nhập.

59

 Các quy định về tình trạng sở hữu chéo ngân hàng gây bất lợi gián

tiếp đến quyền lợi của cổ đông.

Tình trạng sở hữu chéo là một đặc thù trong hoạt động ngân hàng, bên cạnh

những tác động tích cực như giúp ngân hàng nhỏ mở rộng được quy mô, nâng

cao được năng lực về tài chính, công nghệ, nhân sự…, sở hữu chéo trong hệ

thống ngân hàng đang ngày càng bộc lộ nhiều bất cập. Sở hữu chéo trong

NHTMCP ở nước ta hiện nay có thể theo các dạng như sau: (i) Cổ đông chiến

lược nước ngoài tại các NHTM, (ii) Cổ đông tại các NHTM là các Cty quản lý

quỹ, (iii) Sở hữu của NHTM nhà nước tại các NHTM cổ phần, (iv) Sở hữu lẫn

nhau giữa các NHTM cổ phần, (v) Sở hữu NHTM cổ phần bởi các tập đoàn,

tổng Cty Nhà nước và tư nhân.45

Tác động tiêu cực của chính sách tiền tệ, sở hữu chéo đối với quyền lợi của

cổ đông có thể hạn chế thực chất cạnh tranh, tạo ra hiện tượng vốn ảo, và cản trở

việc thực hiện quyền sở hữu46. Việc sở hữu chéo giữa các ngân hàng tạo điều

kiện để cho các doanh nghiệp sở hữu ngân hàng này có thể dễ dàng vay được

vốn từ ngân hàng kia. Khi bị lạm dụng có chủ đích với quy mô lớn và thường

xuyên, sở hữu chéo tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng, vô hiệu

hóa các giới hạn và nguyên tắc an toàn tín dụng theo quy định hiện hành, nguồn

vốn và các dòng tiền của các ngân hàng không được đánh giá đúng và giám sát

chặt chẽ, sự thâu tóm bất hợp pháp thậm chí biến ngân hàng thành công ty gia

đình hay chỉ của một vài cá nhân.

Sở hữu chéo có thể làm gia tăng việc cho vay thiếu kiểm soát. Đối với các

doanh nghiệp (hay ngân hàng) là cổ đông lớn của ngân hàng, sở hữu chéo cho

phép một doanh nghiệp (hay ngân hàng) có tỷ lệ cổ phần lớn trong các NHTM

45 Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội. 46 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11 – 2005, tr 53-54.

60

có thể gây áp lực (một cách hợp pháp như qua bỏ phiếu trong hội đồng quản trị

với vị thế cổ đông chiến lược) để ngân hàng này cấp vốn đầu tư vào những dự án

không đủ tiêu chuẩn của doanh nghiệp hay ngân hàng của mình. Mặc dù theo

quy định thì các ngân hàng không được cho các cổ đông của mình vay vốn,

nhưng các ngân hàng có thể lách quy định này bằng cách cho các công ty con

của các doanh nghiệp vay vốn. Mặt khác, không loại trừ trường hợp lãnh đạo của

ngân hàng chi phối lạm dụng quyền lực buộc ngân hàng mà mình có thể chi phối

cấp tín dụng để phục vụ lợi ích cá nhân.

Bên cạnh đó các quy định về giới hạn tín dụng, phân loại nợ và trích lập dự

phòng rủi ro của NHNN có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi

khách hàng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, thay vì xếp khoản

vay thành nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A giấu nợ

xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu mà nhờ ngân hàng B (ngân hàng

A có sở hữu) cho vay để đảo nợ. Đây cũng là một trong những lý do khiến

NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Pháp

luật Việt Nam còn chưa ghi nhận rõ ràng về tình trạng sở hữu chéo dẫn đến

những bất cập trong hoạt động của NHTMCP. Ở Nhật Bản, hình thái sở hữu

chéo đã được pháp luật thừa nhận trên nguyên tắc giảm tác hại phát sinh trong

quá trình tồn tại47. Pháp luật Nhật Bản hạn chế việc sở hữu cổ phần theo Luật

cấm độc quyền, cấm công ty con sở hữu cổ phần của công ty mẹ theo Luật

thương mại, hạn chế thực hiện quyền biểu quyết của công ty liên quan và công

khai sở hữu cổ phần chéo. Nên chăng pháp luật Việt Nam cũng cần có những cơ

chế cần thiết và hợp lý để kiểm soát tình trạng sở hữu chéo này, bảo đảm cho

hoạt động của ngân hàng diễn ra lành mạnh trên số tiền mà các cổ đông nhỏ đã

bỏ ra với tâm huyết hoạt động thực tế mang lại lợi ích.

47 T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11 – 2005, tr 53-54.

61

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Toàn bộ chương 2, khóa luận trên cơ sở phân tích các quy phạm pháp luật

điều chỉnh quyền của cổ đông trong CTCP nói chung và NHTMCP nói riêng, từ

đó đưa ra những đánh giá tính hạn chế của pháp luật về bảo vệ cổ đông trong

NHTMCP nước ta hiện nay. Khóa luận đã đưa ra những bất cập và thực trạng áp

dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong NHTMCP thông qua việc

thực hiện một số quyền cơ bản trong nhóm quyền tài sản và nhóm quyền chung.

Mặc dù các quyền cơ bản đều được ghi nhận trong luật nhưng trên thực tế các

quyền này đều bị hạn chế khi áp dụng cũng như cơ chế đảm bảo thực hiện.

Bên cạnh đó thông qua tham khảo, tổng kết những hiện trạng về thực tiễn

bảo vệ cổ đông trong NHTMCP ở nước ta trong những năm gần đây, khóa luận

đã đưa ra những vấn đề bất cập nổi bật và đặc thù trong hoạt động của các

NHTMCP như thực tiễn hoạt động quản trị của HĐQT và Ban giám đốc, sự mờ

nhạt khi thực hiện vai trò của BKS; bất cập qua các thương vụ sáp nhập ngân

hàng không đảm bảo quyền lợi của cổ đông; các trường hợp NHNN mua lại các

NHTMCP yếu kém với giá 0 đồng, tình trạng nợ xấu và thực tế sở hữu chéo của

các ngân hàng ảnh hưởng quyền lợi của cổ đông. Bằng việc phân tích những

thực tiễn cơ bản về bảo vệ cổ đông ở một số ngân hàng trong những năm gần

đây, qua đó khóa luận muốn đưa ra thực trạng việc áp dụng pháp luật bảo vệ cổ

đông trong NHTMCP ở nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều yếu kém. Pháp luật cần có

những thay đổi phù hợp để đảm bảo quyền lợi của cổ đông trong CTCP nói

chung và NHTMCP nói riêng.

62

CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG

3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ đông.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật của Đảng theo Chiến lược phát triển kinh

tế- xã hội 2011- 2020 thể hiện rõ rằng phát triển nhanh gắn liền với phát triển

bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt tròn Chiến lược. Phát triển

đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn

thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực phát

triển kinh tế - xã hội. Trên tinh thần đó nền kinh tế thị trường sẽ được đẩy mạnh

phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên định

mục tiêu phát triển gắn liền với đảm bảo công bằng lợi ích phải được áp dụng

trong CTCP đặc biệt liên quan đến cổ đông của NHTMCP - loại hình công ty cổ

phần đặc biệt trong xã hội. Khi đảm bảo được môi trường cạnh tranh bình đẳng,

minh bạch, cổ đông nhất là nhóm cổ đông thiểu số sẽ kiểm soát được hoạt động

của công ty, khuyến khích các cổ đông tin tưởng và bỏ vốn đầu tư, ổn định

TTCK tao thành kênh huy động vốn lành mạnh để phát triển kinh tế một cách

bền vững.

Hoàn thiện pháp luật Doanh nghiệp nói chung và pháp luật về các tổ chức

tín dụng, kịp thời đưa ra các nghị định, thông tư gắn liền với hoạt động của

NHTMCP trong đó có pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông không chỉ nhằm khắc

phục những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tiễn bảo vệ cổ đông mà còn xuất

phát từ yêu cầu phát của nền kinh tế thị trường, cũng như đòi hỏi hội nhập kinh

tế quốc tế và xu thế toàn cầu hóa hiện nay. Thực tiễn ở Việt Nam hiện nay cho

thấy đã đến lúc các CTCP, NHTMCP cần nghiên cứu và áp dụng những chuẩn

mực về quản trị công ty trong đó vấn đề bảo vệ cổ đông là trung tâm. Hoàn thiện

63

pháp luật nhằm bảo vệ cổ đông để hạn chế sự thiếu đồng bộ và bất cập trong hệ

thống pháp luật kinh tế đặc biệt là luật Doanh nghiệp 2014 và luật các tổ chức tín

dụng năm 2010. Định hướng hoàn thiện pháp luật bảo vệ cổ đông trên cơ sở các

nguyên tắc:

Thứ nhất, tôn trọng nguyên tắc đối vốn trong công ty cổ phần. Nguyên

tắc này xuất phát từ nền tảng hình thành và cơ sở phát sinh lợi ích của

NHTMCP. Thực chất nguyên tắc này xuất phát từ quyền và nghĩa vụ của cổ

đông phụ thuộc vào số cổ phần mà cổ đông đó sở hữu. Dù bảo vệ cổ đông thiểu

số cũng cần cân nhắc tới quyền lợi tự nhiên và hợp lý của cổ đông chiến lược,

tránh tình trạng thiên vị và gây khó dễ đối với cổ đông lớn và ban điều hành

trong công ty. Hoàn thiện pháp luật gắn trong sự hài hòa quyền lợi giữa các

nhóm cổ đông và cùng vì mục đích phát triển chung của CTCP.

Thứ hai, đối xử công bằng giữa các cổ đông. Đây là nguyên tắc quan

trọng hàng đầu cần được tôn trọng. Mỗi cổ đông trong công ty cổ phần đều bỏ

tiền ra đầu tư trước tiên vì lợi ích chung nên quyền lợi của họ cần được đảm bảo.

Các cổ đông không phân biệt là cổ đông đa số hay thiểu số, cổ đông trong nước

hay cổ đông nước ngoài, cổ đông là cá nhân hay tổ chức, cổ đông tư nhân hay

nhà nước thì đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau. Tất cả các cổ đông đều

phải được đối xử như nhau trong những tình huống khác nhau, không được phân

biệt đối xử, không chèn ép và xâm hại tới lợi ích của cổ đông thiểu số.

Thứ ba, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ phù hợp với pháp luật Việt

Nam nói chung. Hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ và hoàn thiện là cơ sở

cho các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, nhà đầu tư và cổ đông áp dụng có

hiệu quả. Chính sự thống nhất và đồng ộ trong các quy định pháp luật sẽ tạo

hành lang pháp lý an toàn để bảo vệ cổ đông. Việc sửa đổi, bổ sung phải được

xem xét một cách tổng thể đảm bảo tính đồng bộ thống nhất với hệ thống pháp

64

luật Việt Nam nói chung giữa các loại luật: Luật doanh nghiệp, Luật chứng

khoán, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kiểm toán độc lập…

Thứ tư, pháp luật bảo vệ cổ đông phải phù hợp với thông lệ quốc tế:

Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải đảm bảo các quy định của pháp luật quốc gia

phải phù hợp với các quy định của pháp luật và tập quán thương mại quốc tế.

Trong vấn đề bảo vệ cổ đông nói chung, doanh nghiệp và NHTMCP có thể tham

khảo bộ quy tắc quản trị của OECD để có những quy định chuẩn mực, hài hòa,

tiến tới một môi trường kinh doanh đầu tư lành mạnh, hấp dẫn các nhà đầu tư

nước ngoài.

3.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của cổ đông. 3.2.1. Hoàn thiện các quy định về quyền của cổ đông

Quy định về quyền của cổ đông là điều kiện tiên quyết và quan trọng nhất để

bảo vệ cổ đông, là phương tiện để cổ đông có thể sử dụng để bảo vệ mình48.

Muốn nâng cao hiệu quả và đảm bảo sự đồng bộ trong hoạt động của các

NHTMCP hiện nay cần hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền của cổ đông nhất

là cổ đông thiểu số để mỗi nhà đầu tư thấy được và tự mình bảo vệ quyền lợi của

mình.

Một là, tập trung bảo vệ quyền của cổ đông tại các phiên họp, cải thiện

quyền biểu quyết của cổ đông trong một số trường hợp đặc biệt khi quyết định

của công ty có nguy cơ xâm hại trực tiếp đến quyền lợi của cổ đông NHTMCP.

Ở Việt Nam tỷ lệ thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ theo luật doanh nghiệp

2014 đã giảm xuống còn 51% so với tỷ lệ 75% hoặc 65% số phiếu biểu quyết tán

thành. Thực chất việc giảm tỷ lệ này có thể xuất phát từ một số nguyên nhân

như: (i) Khi tham gia WTO, Việt Nam đã cam kết hạ tỷ lệ này xuống còn 51%

cho phù hợp với thông lệ quốc tế khi thông qua Nghị quyết của ĐHĐCĐ; (ii)

48 T.S Bùi Xuân Hải, Biện pháp bảo vệ cổ đông, thành viên công ty: Lí luận và thực tiễn, Tạp chí luật học số 3/2011, tr. 10-17.

65

Việc quy định tỷ lệ thông qua như vậy là quá cao, rõ ràng quy định một mức tỷ

lệ để bảo vệ quyền lợi của cổ đông bằng cách đặt cho nó một tỷ lệ thông qua lớn,

đảm bảo cho vấn đề được lựa chọn chấp thuận có tính chính xác và hợp lý cao

hơn. Nhưng thực chất điều này lại gây khó khăn cho việc thông qua các Nghị

quyết của ĐHĐCĐ, gây lãng phí thời gian và đôi khi làm mất đi cơ hội phát triển

cho công ty. Trên tinh thần kết quả thông qua theo số đông ở một tỷ lệ nhất định

theo quy định, nếu tỷ lệ để thông qua được quy định càng cao thì cổ đông càng

đảm bảo được quyền lợi của mình. Xét trên phương diện quyền lợi chung thì một

quyết định được thông qua trên sự đồng thuận của càng nhiều người thì yếu tố

hợp lý càng cao và do đó càng được sự ủng hộ để đạt hiệu quả hoạt động tối ưu.

Xét trên phương diện của nhóm cổ đông thiểu số thì tỷ lệ được quy định càng

cao thì họ càng có cơ hội phủ quyết những nghị quyết xâm hại tới quyền lợi

chung và quyền lợi của họ. Các cổ đông thiểu số chỉ cần liên kết với nhau tạo

thành nhóm không tán thành sao cho số cổ phiếu của cổ đông lớn hơn không đủ

quyền phủ quyết là họ đã có thể tự bảo vệ mình. Như vậy quy định một tỷ lệ

thông qua Nghị quyết ĐHĐCĐ cao sẽ là một công cụ hữu hiệu để cổ đông tự bảo

vệ mình. Chính vì vậy mà việc hạ tỉ lệ xuống còn 51% đang làm mất đi công cụ

hữu hiệu để bảo vệ cổ đông, thay vào đó Việt Nam chỉ nên quy định những lĩnh

vực bắt buộc cam kết gia nhập WTO theo tỉ lệ này mà thôi. Quyền lợi của cổ

đông cần được bảo đảm hài hòa giữa các nhóm lợi ích trong công ty bằng việc

hoàn thiện pháp luật.

Hai là, tăng cường quyền tiếp cận thông tin của cổ đông, đặc biệt là cổ đông

thiểu số. Như đã phân tích những bất cập về quyền tiếp cận thông tin của cổ

đông trong NHTMCP dẫn tới những thiệt hại về quyền lợi của cổ đông khi bị

đẩy vào tình trạng của những ngân hàng 0 đồng, hoặc những thương vụ sáp

nhập, tái cơ cấu ngân hàng. Do đó pháp luật cần hoàn thiện những quy định cụ

thể về nghĩa vụ cung cấp thông tin của NHTMCP như: cung cấp thông tin định

66

kỳ, cung cấp thông tin xảy ra các sự kiện làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt

động của công ty để cổ đông chủ động biết và có phương án xử lý, cung cấp

thông tin theo yêu cầu của cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số. Đặc biệt là

những thông tin sáp nhập ngân hàng hay thông tin về tình trạng nợ xấu của ngân

hàng để cổ đông có thể nắm bắt được tình trạng của ngân hàng, đồng thời không

tạo ra điểm khuất để các đối tượng có quyền nắm bắt thông tin trước lợi dụng

trục lợi cá nhân.

Về cách thức và thời hạn công bố thông tin cũng cần được quy định rõ hơn;

cần có quy định rõ cổ đông thiểu số được phép tiếp cận những loại thông tin nào

và mức độ cụ thể đến đâu. Thông thường cổ đông thiểu số chỉ nhận được các

thông tin khi đi họp ĐHĐCĐ liên quan đến: BCTC, tỉ lệ chia cổ tức, phương

hướng hoạt động kinh doanh hay Nghị quyết họp ĐHĐCĐ. Khi cổ đông muốn

tiếp cận tới những thông tin chi tiết hơn về tài chính thì cần có quy định một giới

hạn nhất định để họ có thể thực hiện quyền này, chẳng hạn quy định một mức

10% vốn điều lệ là có thể tiếp cận với những thông tin chi tiết hơn như hợp đồng

kinh tế, hóa đơn, chứng từ kế toán nếu có căn cứ HĐQT, Ban điều hành hoặc

BKS cố tình làm trái để trục lợi. Chính vì lẽ đó mà công khai hóa thông tin và sự

minh bạch trong hoạt động ngân hàng là một yêu cầu không thể thiếu để đảm

bảo lòng tin và sự công bằng cho các cổ đông trong hoạt động của NHTMCP. Sở

dĩ phải công khai thông tin trong các hoạt động nói chung vì thiếu chế độ này

mọi hoạt động của ngân hàng dựa trên tiền vốn của chính các nhà đầu tư sẽ tiềm

ẩn nguy cơ rủi ro lớn về thanh khoản, nợ xấu, làm ăn thua lỗ, không có cổ tức

hoặc thậm chí là phá sản. Vì vậy, có thể coi các quy định về công bố thông tin là

một bộ phận cấu thành quan trọng của pháp luật chứng khoán, pháp luật các

TCTD với mục tiêu là công khai thông tin với nhà đầu tư, giúp họ có quyết định

đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

67

Ba là, quy định rõ hơn nhóm quyền ngăn chặn của cổ đông cụ thể là các

quyền yêu cầu kiểm toán độc lập, quyền kiểm soát những người quản lý điều

hành công ty khi có dấu hiệu vi phạm và làm ảnh hưởng đến lợi ích của công ty.

Những quyền phòng ngừa của cổ đông pháp luật đã có quy định nhưng

cần cụ thể và chi tiết hơn để các quyền này có thể vận hành trong thực tế. Cụ thể

thực tiễn đặt ra hai vấn đề xoay quanh quyền khởi kiện của cổ đông. Một là,

người cụ thể có quyền khởi kiện? Luật chỉ quy định người sở hữu 1% cổ phần

liên tục trong thời hạn 6 tháng mà không quy định rõ thời điểm nào có thể phát

sinh quyền này, pháp luật cũng không nói rõ rằng liệu cổ đông có cần thiết phải

là người sở hữu từ thời điểm bắt đầu xảy ra hành vi vi phạm tới khi tiến hành

khởi kiện. Pháp luật các nước khác nhau có những quy định rất cụ thể rõ ràng về

vấn đề này. Cụ thể như ở Anh, quy định cổ đông nắm giữ cổ phần vào thời điểm

khởi kiện nhưng không cần thiết phải là cổ đông vào thời điểm xảy ra hành vi vi

phạm. Luật pháp Mỹ quy định cổ đông có quyền khởi kiện nếu họ là cổ đông

vào thời điểm xảy ra hành vi vi phạm và phải liên tục nắm giữ cổ phần từ thời

điểm khởi kiện tới khi vụ kiện đó kết thúc, nếu không họ sẽ mất tư cách nguyên

đơn. Trên quan điểm đó thì pháp luật Việt Nam cần làm rõ thời hạn nắm giữ cổ

phần như quy định của các nước, như là một điều kiện để khởi kiện, tránh tình

trạng toàn án bị lúng túng khi thụ lí vụ án liên quan đến cổ đông thiểu số khởi

kiện.

Mặt khác cũng cần có cơ chế xem xét lại yêu cầu khởi kiện trước khi gửi

đến Tòa án. Một công ty đang hoạt động ổn định, xét trên phương diện khách

quan khi có dính níu đến hoạt động kiện tụng, tự thân nó sẽ bị ảnh hưởng, đặc

biệt là hoạt động đó lại hay diễn ra. Do đó để đảm bảo cân bằng hài hòa cả lợi

ích chung của công ty, vì toàn thể cổ đông thì cần có một cơ chế xem trước

giống như một hội đồng của công ty để chắc chắn rằng vấn đề mà cổ đông khởi

68

kiện là hợp lý, có căn cứ và nên khởi kiện, trước hết vì lợi ích hoạt động chung

của công ty, sau đó là vì lợi ích của cổ đông thiểu số bị xâm phạm.

Bốn là, bảo đảm quyền yêu cầu NHTMCP mua lại cổ phần của cổ đông.

Như đã phân tích những bất cập về quyền yêu cầu công ty mua lại cổ phần tại

Chương 2 thì vấn đề đầu tiên đặt ra đó là NHTMCP lấy tiền đâu để thực hiện

mua lại cổ phần của cổ đông trong trường hợp họ không muốn tiếp tục là một

phần sở hữu của công ty. Vốn điều lệ của NHTMCP được thu về khi thành lập

doanh nghiệp, các cổ đông góp tiền hoặc tài sản hiện vật và trở thành đồng chủ

sở hữu của ngân hàng đó. Khi cổ đông bán lại cổ phần của mình cho NHTMCP,

ngân hàng mua lại đồng nghĩa với việc vốn Điều lệ thực tế của ngân hàng sẽ

giảm xuống và số cổ phần ngân hàng mua lại sẽ trở thành cổ phiếu quỹ của ngân

hàng đó. Trên giấy tờ đăng kí kinh doanh, vốn điều lệ của NHTMCP vẫn thế

nhưng trên thực tiễn số tiền vốn của NHTMCP đã giảm đi. Điều này đồng nghĩa

với việc khi có rủi ro xảy ra ngân hàng vẫn phải chịu trách nhiệm trên số tài sản

thuộc vốn Điều lệ, các cổ đông hiện hữu thì vẫn chịu trách nhiệm hữu hạn trong

phạm vi số vốn đã góp vào ngân hàng do đó dẫn tới hệ lụy về trách nhiệm tài sản

của cổ đông hiện hữu với số tiền ngân hàng đã bỏ ra mua cổ phần theo yêu cầu

của cổ đông thiểu số. Luật doanh nghiệp nói chung và luật các tổ chức tín dụng

nói riêng nên có những quy định theo hướng NHTMCP khi làm ăn có lãi nên tạo

lập quỹ dự phòng tài chính với một tỷ lệ nhất định để doanh nghiệp có nguồn

tiền mua lại cổ phần theo yêu cầu của cổ đông. Khi đã tạo lập được một quỹ dự

phòng ổn định và có khả năng mua lại cổ phần của cổ đông mà công ty lại không

mua lại theo quy định của luật thì cổ đông có quyền yêu cầu Tòa án hoặc Trọng

tài có cơ chế xử lý buộc phải thi hành để đảm bảo quyền lợi cho cổ đông.

3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của ĐHĐCĐ

Trước hết pháp luật doanh nghiệp cần hạ tỷ lệ 10% cổ đông mới có quyền

triệu tập ĐHĐCĐ xuống còn 5%. Việc giảm tỷ lệ nhằm tạo điều kiện cho cổ

69

đông thiểu số có thể dễ dàng hơn tiếp cận với quyền này của mình. Thực tế cổ

đông nhất là cổ đông thiểu số ở Việt Nam rất khó liên kết để đạt tới một tỉ lệ nhất

định nhằm thực hiện quyền triệu tập ĐHĐCĐ. Cổ đông mà đặc biệt cô đông

thiểu số không thể tiếp cận nhiều thông tin, họ bị hạn chế nhiều mặt và không

quen biết rộng chính vì vậy mà nảy sinh tâm lý không muốn cổ gắng thực hiện

quyền của mình. Nếu quy định tỉ lệ 5% khả năng cổ đông sẽ hào hứng chủ động

tham giao vào công việc hoạt động chung của công ty, chủ động bàn bạc và tháo

gỡ những vấn đề bất thường của doanh nghiệp.

Bên cạnh đó cần bổ sung những quy định về hiệu lực của nghị quyết,

quyết định của ĐHĐCĐ, HĐQT đang bị kiện. Theo điều 148 luật Doanh nghiệp

2014 quy định: “Trường hợp có cổ đông, nhóm cổ đông yêu cầu Tòa án hoặc

Trọng tài hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông theo quy định tại Điều

147 của Luật này, thì các nghị quyết đó vẫn có hiệu lực thi hành cho đến khi Tòa

án, Trọng tài có quyết định khác, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp

tạm thời theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.” Quy định này nhằm đảo

bảo cho hoạt động của ĐHĐCĐ, HĐQT được diễn ra liên tục mà không bị

ngừng trệ giữa chừng. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là trong quá trình trong quá

trình chờ phán quyết của Tòa án, Trọng tài nghị quyết, quyết định bị khởi kiện

vẫn tiếp tục được thi hành thì nếu xảy ra thiệt hại cho bên khởi kiện thì ai sẽ là

người chịu trách nhiệm nhất là khi các nghị quyết, quyết định này đã được thực

hiện trong một khoảng thời gian và có nhiều thay đổi gây bất lợi cho chủ thể

khởi kiện. Do đó pháp luật cần có những quy định cụ thể như gắn trách nhiệm

cho người tiếp tục thực hiện quyết định, nghị quyết gâu thiệt hại như: “Trong

thời gian quyết định của ĐHĐCĐ đang bị Tòa án xem xét hủy bỏ thì nó vẫn có

hiệu lực pháp luật cho đến khi có quyết định có hiệu lực của Tòa án hủy bỏ nó;

trong suốt thời gian này, những người thực tế đang quản lý, điều hành công ty

70

phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do hành vi không đúng

pháp luật và điều lệ gây ra”.

Pháp luật cần có quy định chế tài đối với trường hợp CTCP cố tình không

tổ chức họp ĐHĐCĐ theo đúng thời hạn luật định. Việc không tổ chức họp

ĐHĐCĐ đúng thời hạn không chỉ ảnh hưởng tới hoạt động chung của công ty

mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của cổ đông, khiến họ không nắm bắt được tình

hình hoạt động và được biểu quyết những vấn đề liên quan tới hoạt động của

công ty.

Quy định rõ trách nhiệm trả lời chất vấn của lãnh đạo công ty trước

ĐHĐCĐ là một yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của ĐHĐCĐ nhằm

bảo vệ quyền lợi của cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Thực tế cổ đông muốn

chất vấn nhưng người có trách nhiệm trả lời lại trốn tránh bằng cách hạn chế thời

gian trả lời, dẫn tới cổ đông không nhận được câu trả lời chất lượng và lời giải

thích thỏa đáng. Do vậy luật doanh nghiệp và luật tổ chức các tổ chức tín dụng

cần có những quy định rõ ràng về trách nhiệm phải trả lời chất vấn của Ban lãnh

đạo, đối với những vấn đề chưa thỏa đáng cần tạo cho cổ đông có thời gian yêu

cầu BKS làm rõ trong thời hạn nhất định và sau đó thông báo bằng văn bản cho

cổ đông biết.

3.2.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của BKS

Cần hoàn thiện các quy định liên quan tới việc tăng tính độc lập của thành

viên BKS để đảm bảo BKS hoạt động vô tư và đem lại hiệu quả cao nhất cho

công ty. Điều này có thể được thực hiện khi pháp luật có quy định về thành viên

một BKS độc lập, những thành viên này không làm việc tại công ty, không nhất

thiết phải là cổ đông của công ty nhưng có trình độ cao về kế toán, kiểm toán, và

pháp luật…Với một BKS tinh gọn và công bằng có thể góp phần nâng cao tính

độc lập và chuyên nghiệp hơn.

71

Luật cũng cần quy định rõ trách nhiệm của BKS khi họ hoạt động mà

không làm tròn trách nhiệm của mình, vi phạm các vấn đề liên quan đến đạo đức

nghề nghiệp. Trách nhiệm của người quản lý là đương nhiên nhưng trách nhiệm

của bộ phận giám sát chính là yếu tố góp phần để hoạt động của Ban điều hành

luôn đi đúng pháp luật, Điều lệ và quy định của công ty cũng như đảm bảo

quyền lợi của cac cổ đông.

Cần có quy định rõ chế độ làm việc của BKS với những tiêu chuẩn nhất

định về thành viên BKS. Pháp luật cần có cơ chế để đảm bảo lượng thời gian cho

BKS hoạt động một cách chuyên nghiệp, đạt hiệu quả tối ưu trên cương vị là đội

ngũ giám sát toàn bộ công việc của NHTMCP. Đi liền với đó thì bản thân thành

viên BKS cũng phải là có đủ năng lực, hội tụ các yếu tố có thể đảm bảo được

công việc như: giám sát tài chính, bao gồm các năng lực chủ yếu như quản lý rủi

ro, năng lực chuyên môn về kế toán, kiểm toán, quản lý tuân thủ, am hiểu về

chuyên môn nghiệp vụ, có đủ khả năng thẩm định, đánh giá các bảo cáo rà soát.

3.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của HĐQT và người quản lý

HĐQT là cơ quan quản trị của NHTMCP, có toàn quyền nhân danh ngân

hàng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng không thuộc thẩm quyền

của ĐHĐCĐ. Tuy nhiên trên thực tế thành viên HĐQT thường là những cổ đông

lớn của ngân hàng, đồng thời họ còn tham gia trực tiếp vào việc điều hành hoạt

động kinh doanh của công ty. Để khắc phục tình trạng này, có thể có một số giải

pháp như sau:

Một là, pháp luật nước ta cần hoàn thiện những quy định về lựa chọn

thành viên HĐQT độc lập. Chẳng hạn thành viên HĐQT độc lập đó có thể thỏa

mãn những tiêu chí đảm bảo tính khách quan tuyệt đối như: không phải là người

làm việc cho công ty gần đây, không có mối quan hệ kinh doanh gần đây với

công ty, không có mối quan hệ gia đình với bất kỳ thành viên HĐQT hoặc cán

72

bộ cấp cao nào. Thành phần của HĐQT cũng nên đảm bảo một tỷ lệ cao thành

viên là HĐQT độc lập, có đủ uy tín và chuyên môn cao. Luật cần nâng số thành

viên HĐQT lên 5 người để việc bầu dồn phiếu phát huy hiệu quả, giúp các cổ

đông nhất là cổ đông thiểu số có thể cử đại diện vào HĐQT. Đồng thời cũng cần

ban hành bộ quy tắc ứng xử của HĐQT, coi như là luật mềm. Luật mềm này phải

trên tinh thần là những quy tắc mang tính tự nguyện, mà các công ty có thể áp

dụng hoặc không áp dụng49 và định hướng cho họ xử lý những xung đột mà pháp

luật và điều lệ công ty chưa quy định.

Hai là, pháp luật cũng cần thắt chặt vai trò quản trị và trách nhiệm bồi

thường thiệt hại của Hội đồng quản trị và người quản lý. Luật các TCTD 2010

quy định nhiệm vụ và quyền hạn của HĐQT trong NHTMCP có phạm vi rộng,

hầu hết những vấn đề quan trọng của công ty do HĐQT đảm nhiệm, đối với

những vấn đề cần đưa ra thông qua tại kỳ họp ĐHĐCĐ có đôi khi cũng hoàn

toàn theo kế hoạch của HĐQT sắp đặt trước. Chính vì vậy hệ thống pháp luật

cần có những quy định cụ thể hơn để giới hạn trách nhiệm rõ ràng cho HĐQT,

vai trò của chủ tịch HĐQT trong việc giám sát hoạt động của HĐQT. Pháp luật

cần có cơ chế rõ ràng hơn đối với trách nhiệm báo cáo của HĐQT tại cuộc họp

ĐHĐCĐ, trách nhiệm giải trình báo cáo và tạo điều kiện để cổ đông được chất

vấn báo cáo cuả HĐQT một cách công khai, công bằng. Đối với từng sai phạm

cần có những quy định tương thích để đảm bảo HĐQT luôn hoạt động một cách

trách nhiệm, vì quyền lợi của toàn thể ngân hàng, cổ đông và chủ nợ.

Mặc khác LDN và Luật các TCTD cũng cần có những quy định trách

nhiệm bồi thường thiệt hại của người quản lý, điều hành và các thành viên khác

trong tổ chức nội bộ NHTMCP thành một điều khoản bao quát, có đấy đủ các

49 Jean Jacques du Plessis, James McConvill and Mirko Bagaric (2005), Pinciples of Contemporary Corporate Governance, tr. 113.

73

trường hợp vi phạm để phòng ngừa cũng như khắc phục những thiệt hại về tài

sản xảy ra đối với ngân hàng, cổ đông và chủ nợ.

Ba là, sửa đổi Nghị định 59 phù hợp với LDN 2014 về mô hình quản trị.

LDN 2014 được cho là luật có nhiều điểm mới liên quan đến mô hình quản trị

của doanh nghiệp. Trong khi đó hoạt động quản trị và điều hành của ngân hàng

mặc dù có Luật các TCTD 2010 ra đời thay thể luật cũ, nhưng những nội dung

mà Luật TCTD chưa điều chỉnh, Nghị định 59 vẫn cần được áp dụng cho phù

hợp. Nghị định 59/2009 - NĐ/CP đã và đang là văn bản pháp luật chuyên ngành

cụ thể, làm căn cứ cho hoạt động quản trị và điều hành ngân hàng, nhưng hiện

nay đã xuất hiện một số điểm vênh với LDN mới 2014. Luật doanh nghiệp 2014

thay đổi một số nội dung liên quan đến quản trị doanh nghiệp như: Điều kiện

họp Đại hội đồng cổ đông, tỷ lệ biểu quyết trong cuộc họp cổ đông, nhiệm kỳ

của thành viên Hội đồng quản trị không quá 05 năm và có thể được bầu lại với

số nhiệm kỳ không hạn chế (trước đó là 5 năm), các quy định bầu Chủ tịch Hội

đồng quản trị, bổ sung các quy định về quyền của BKS… Trên cơ sở những thay

đổi của luật chung, Nghị định 59 cần được sửa đổi theo hướng phù hợp hơn với

LDN 2014 về mô hình quản trị, tạo ra sự đồng nhất để các chủ thể áp dụng rõ

ràng, tránh tình trạng chồng chéo. Thông qua mô hình quản trị mới, góp phần

bảo vệ quyền lợi của cổ đông một cách thiết thực hơn.

3.2.5. Hoàn thiện các quy định về kiểm toán độc lập

Những năm gần đây hoạt động ngân hàng đang có xu hướng trùng xuống,

tuy nhiên xu hướng phát triển của thị trường chứng khoán thì ngày càng tăng, do

đó đòi hỏi dịch vụ kiểm toán trong lĩnh vực này ngày phải càng tăng về số lượng

và chất lượng. Công tác đào tạo nhân lực của ngành kiểm toán phải được đẩy

mạnh đáp ứng được các yêu cầu đặt ra; cần tiếp tục ban hành đầy đủ hệ thống

chuẩn mực của kế toán, kiểm toán Việt Nam, rút ngắn khoảng cách giữa các

chuẩn mực Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế.

74

3.2.6. Kiến nghị phương thức tái cơ cấu để bảo vệ cổ đông

Tái cơ cấu ngân hàng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của tái cơ

cấu kinh tế. Biện pháp tái cơ cấu là việc sắp xếp lại hệ thống ngân hàng hiện tại,

đưa ra những biện pháp khắc phục các khuyết điểm của hệ thống ngân hàng

nhằm nâng cao khả năng quản trị điều hành của NHTM, mở rộng sản phẩm dịch

vụ, dịch vụ ngân hàng để đảm bảo an toàn hệ thống, xây dựng ngân hàng có sức

mạnh tài chính thực sự, khả năng kiểm soát rủi ro, quản trị tốt, duy trì ổn định và

hiệu quả chức năng trung gian tài chính của ngân hàng trong nền kinh tế.

Nguyên nhân của việc tái cơ cấu là do khủng hoảng kinh tế, nợ xấu gia tăng, tỷ

lệ an toàn vốn thấp, thực hiện chức năng trung gian không hiệu quả, khuôn khổ

giám sát và quản lý yếu…. Nhờ tái cơ cấu mà nguy cơ đổ vỡ của hệ thống ngân

hàng thương mại giảm, giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh…Tuy nhiên

trong những năm vừa qua một số ngân hàng đã được mua lại bắt buộc với giá 0

đồng. Điều này đã làm ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của các cổ đông ngân hàng

khi mà họ không có một cơ chế nào đảm bảo quyền lợi của mình trong những

trường hợp ngân hàng hoạt động yếu kém có nguy cơ mất khả năng tài chính do

hoạt động quản lý của Ban điều hành ngân hàng. Do vậy một mặt các chế định

về hoạt động nội bộ của ngân hàng cần được sửa đổi hợp lý, mặt khác Nhà nước

cũng cần có những chính sách, cơ chế để thực hiện tái cơ cấu ngân hàng trong

trường hợp các ngân hàng cần tới phương thức cơ cấu lại ngân hàng. Để thực

hiện thành công các mục tiêu tái cơ cấu ngân hàng, tránh để các ngân hàng yếu

kém không có khả năng tự hoạt động lành mạnh trở lại dẫn tới tình trạng bị buộc

mua lại từ NHNN với giá 0 đồng thì ngành ngân hàng cần có những điều chỉnh

hợp lý về tái cơ cấu cho phù hợp.

Trước tiên cần bổ sung và xây dựng được khuôn khổ pháp luật về cơ cấu

lại các TCTD, xử lý các TCTD yếu kém và xử lý nợ xấu, trong đó đề cao thẩm

quyền can thiệp của Nhà nước và trách nhiệm của các TCTD trong việc xử lý

75

các yếu kém, tồn tại và các vi phạm, rủi ro của TCTD. Nguyên nhân chính dẫn

đến những bất cập, hạn chế còn tồn tại trong quá trình triển khai cơ cấu lại hệ

thống ngân hàng là do khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về xử lý TCTD yếu

kém và xử lý nợ xấu chưa hoàn thiện. Các quy định về thẩm quyền của Chính

phủ, NHNN khi xử lý TCTD yếu kém còn chưa đầy đủ. Tiến trình phục hồi và

cơ cấu lại các TCTD yếu kém còn hết sức khó khăn do chưa có cơ sở pháp lý để

áp dụng giải pháp phù hợp với thực trạng của TCTD yếu kém; thiếu giải pháp hỗ

trợ tài chính hiệu quả để phục hồi các TCTD yếu kém. Quy định của pháp luật về

xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ còn nhiều bất cập làm hạn chế tiến độ, hiệu

quả của việc xử lý nợ như vướng mắc về thu giữ tài sản, về quyền nhận tài sản

bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; về phí thi hành án, về kê

biên tài sản bảo đảm ...

Đồng thời với việc luật hóa các quy định về cơ cấu lại TCTD và xử lý nợ

xấu, Chính phủ và NHNN cũng cần đề ra những phương thức tái cơ cấu có khả

năng mang lại hiệu quả phục hồi cao cho ngân hàng, các phương án khả thi để

giúp ngân hàng không bị rơi vào tình trạng phải xử lý bắt buộc như mua lại với

giá 0 đồng.

76

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Toàn bộ chương 3, khóa luận đã đưa định hướng hoàn thiện hệ thống pháp

luật về bảo vệ cổ đông trên cơ sở quan điểm hoàn thiện pháp luật của Đảng theo

Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 2011 – 2020 . Hoàn thiện pháp luật trên cơ

sở các nguyên tắc, đặc biệt là trên cơ sở đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ phù

hợp với pháp luật Việt Nam nói chung cũng như sự hài hòa với thông lệ quốc tế.

Trên cơ sở những quan điểm, định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật,

khóa luận đưa ra một số kiến nghị cụ thể để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ cổ

đông trong NHTMCP, gắn với những đặc thù về hoạt động của NHTMCP. Các

kiến nghị trước tiên tập trung vào hoàn thiện các quy định pháp luật về ghi nhận

các quyền của cổ đông bao gồm các quyền chính như: quyền biểu quyết, quyền

được nhận cổ tức, quyền được tự do thông tin đặc biệt là tiếp cận và công khai

hóa thông tin về chi trả cổ tức, cổ phiếu thưởng, thông tin mua bán sáp nhập

NHTMCP…Bên cạnh đó khóa luận kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền hạn

và trách nhiệm của ĐHĐCĐ thực sự, trách nhiệm của HĐQT và những người

lãnh đạo, nâng cao vai trò của BKS với chức năng giám sát hoạt động, nâng cao

chất lượng kiểm toán độc lập và một số kiến nghị nhằm thay đổi phương thức tái

cơ cấu nâng cao năng lực hoạt động của các NHTMCP, bảo đảm quyền lợi cho

các cổ đông và các chủ thể khác.

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn bản pháp luật

1. Luật doanh nghiệp 2005

2. Luật doanh nghiệp 2014

3. Luật các tổ chức tín dụng 2010

4. Luật phá sản 2014

5. Luật bảo hiểm tiền gửi 2012

6. Luật chứng khoán 2013

7. Nghị định 59/2009 - NĐ/CP ngày 16-7-2009 về tổ chức và hoạt động của

NHTM.

8. Nghị định số 07/2013 VBHN-NHNN ngày 25-11-2013 về ban hành danh

mục mức vốn pháp định của TCTD.

9. Thông tư số 07/2013/TT-NHNN ngày 14-03-2013 của Thống đốc NHNN

Việt Nam ban hành quy định về việc kiểm soát đặc biệt đối với TCTD.

10. Nghị định 102/2010 NĐ/CP ngày 1-10-2010 hướng dẫn thi hành một số

điều của LDN 2005.

11. Thông tư 10/2011/TT-NHNN ngày 22-4-2011 quy định tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược đối với ngân hàng thương mại Nhà nước cổ phần hóa.

2. Tài liệu tiếng Việt:

12. PGS.TS Lê Thị Thu Thủy, Giáo trình Luật ngân hàng Việt Nam, Khoa

luật – ĐHQGHN, Nxb. Đại học quốc gia, 2005.

78

13. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Giáo trình Luật kinh tế, Tập 1, Luật Doanh

nghiệp: Tình huống, Phân tích, Bình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

2006.

14. PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Nguyễn Như Phát (chủ biên), Giáo trình luật

kinh tế Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.

15. PGS.TS Ngô Huy Cương, Giáo trình luật thương mại, Phần chung và

thương nhân, Nxb ĐHQGHN, 2013.

16. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Những vấn đề pháp lý về tài chính doanh

nghiệp, Nhà xb chính trị quốc gia – sự thật, 2013.

17. Nguyễn Ngọc Bích, Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ

phần, 2004.

18. Lê Văn tề, Nguyễn Thị Xuân Liễu (2003), Quản trị Ngân hàng thương

mại, Nxb Thống Kê, Hà Nội.

19. ThS. Trần Vũ Hải, Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam, Nxb giáo dục

Việt Nam năm 2010.

20. Phạm Duy Nghĩa, Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật

chung: Luật doanh nghiệp 2005 từ một góc nhìn so sánh với luật công ty năm 2005 của CHNN Trung Hoa, Tạp chí nhà nươc và pháp luật, 2006.

21. T.S Nguyễn Thị Lan Hương(2013), Sửa đổi Luật doanh nghiệp để bảo

đảm an toàn tài chính công ty cổ phần, lợi ích của cổ đông và chủ nợ, Tạp

chí nghiên cứu lập pháp, số 02+03/2013.

22. T.S Nguyễn Thị Lan Hương (2014), Bảo đảm sự công bằng giữa các cổ

đông trong Dự thảo Luật doanh nghiệp (sửa đổi), Tạp chí nghiên cứu lập

pháp, số 20/2014.

23. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Đại diện tố tụng của cổ đông ở Nhật Bản, số

12/ 2005.

79

24. T.S Nguyễn Thị Lan Hương, Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở

Nhật Bản, Tạp chí tài chính, số 11/2005.

25. T.S Bùi Xuân Hải, Biện pháp bảo vệ cổ đông, thành viên công ty: Lí luận

và thực tiễn, Tạp chí luật học số 3/2011.

26. T.S Bùi Xuân Hải (2007), Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp

luật công ty Việt Nam, Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 4.

27. Bùi Xuân Hải, Khởi kiện người quản lý công ty: Một số vấn đề lý luận và

thực tiễn trong phap luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 1/2011.

28. Cao Đình Lành, Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong

công ty cổ phần, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 6 (254)/2009.

29. Cao Đình Lành (2007), Xung đột các nhóm lợi ích trong công ty cổ phần,

Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 3 (180) /2007.

30. T.S Trần Đình Cung, Bàn về quyền của cổ đông và đại hội đồng cổ đông,

Tạp chí chứng khoán Việt Nam, Số 5/ 2008.

31. Nguyễn Thị Liên Hoa (2007), Minh bạch thông tin trên thị trường chứng

khoán Việt Nam, Tạp chí Phát triển kinh tế (TP HCM), số 195.

32. Phan Hoàng Ngọc, Bảo vệ quyền lợi của cổ đông, đáp ứng thông lệ và

chuẩn mực quốc tế về quản trị công ty, Tạp chí tài chính, Kì 1-tháng 10/

2016.

33. Phan Đức Hiếu, Bảo vệ cổ đông và một số kiến nghị sửa đổi Luật doanh

nghiêp, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 19/2014.

34. Đỗ Thái Hán, (2012), Bảo vệ cổ đông thiểu số trong công ty cổ phần ở

Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật hoc, Khoa luật – ĐHQGHN.

35. Trương Thế Côn (2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp

luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Khoa Luật –

ĐHQGHN.

80

36. Cao Đình Lành (2014), Bảo đảm quyền của cổ đông thiểu số trong mua

bán, sáp nhập công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam, Luận án tiến sĩ

Luật học, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam - Học viện Khoa học

xã hội.

37. Nguyễn Thị Thu Hương (2015), Pháp luật về bảo vệ cổ đông thiểu số

trong công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học.

38. Nguyễn Văn Mích (2007), Bảo vệ cổ đông theo pháp luật Việt Nam, Luận

văn thạc sĩ, Khoa Luật – ĐHQGHN.

39. Trương Thế Côn (2007), Bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số theo pháp

luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học – ĐHQGHN.

40. Các nguyên tắc tăng cường quản trị công ty đối với các tổ chức ngân hàng

tháng 10/2010 của Ủy ban Basel về Giám sát Ngân hàng.

41. Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội.

42. Techcombank lãi nghìn tỷ, cổ đông vẫn tiếp tục ‘nhịn’ cổ tức, Thời báo tài

chính Việt Nam (24/04/2016)

43. Bản chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, Vietstock.vn.

https://thebank.vn/posts/8221-bao-hiem-tien-gui-la-gi-ban-chat-va-muc-

dich-cua-hoat-dong-bao-hiem-tien-gui. Truy cập ngày 1-5-2017.

3. Tài liệu tiếng nước ngoài.

44. G20/OECD Principles of Corporate Governance, Organisation for

Economic Co-operation and Development, page 21.

45. Doing Business – The Word Bank, Protecting Minority Investors, June

2016.

46. The Gang of Four (2000), 58 Journal of Financial, Investor Protection

and Corporate Governance.

81

Jean Jacques du Plessis, James McConvill and Mirko Bagaric (2005), 47.

Pinciples of Contemporary Corporate Governance, tr. 113.

48. Stephen M. Bainbridge, Corporate Law and Economics (2002), tr.362-5.

82