TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======
NGUYỄN THỊ HOÀI LINH
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(1989 – 2009)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
HÀ NỘI, 2019
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======
NGUYỄN THỊ HOÀI LINH
THỰC TRẠNG GIÁO DỤC Ở KHU VỰC
TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
(1989 – 2009)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN VĂN DŨNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp đại học em đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ của các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân, gia đình,
bạn bè.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Chủ nhiệm khoa Lịch sử - Trường ĐHSP Hà Nội 2, các thầy cô là giảng viên khoa Lịch sử cùng các thầy, cô giáo giảng dạy
chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Dũng - Người đã tận
tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này trong suốt thời gian vừa
qua.
Khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc (1989 – 2009)” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do còn nhiều hạn
chế về thời gian cũng như khả năng tìm kiếm của, tiếp nhận thông tin của bản thân
vì vậy không thể tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong thầy cô và các bạn đọc
xem xét và đóng góp ý kiến.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài Linh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do mình thực hiện dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - TS Nguyễn Văn Dũng, Trưởng khoa Lịch sử Trường ĐHSP Hà
Nội 2. Nếu tôi sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Sinh viên
Nguyễn Thị Hoài Linh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................... 3
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ........................................................... 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 6
5. Đóng góp của khóa luận ...................................................................................... 7
6. Bố cục của khóa luận ........................................................................................... 7
Chương 1................................................................................................................. 9
GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995) 9
1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 - 1995 ........................................................................... 9
1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm 1989 ........................................................................................................................ 9
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1989 – 1995 ........................................................................................ 12
1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới .. 15
1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) .............................................................................................................................. 18
1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp ............................................ 18
Về quy mô trường, lớp học các cấp ....................................................................... 18
Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp .......................................................... 20
1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học .......................... 24
1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 1995) .................................................................................................................. 25
1.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 25
1.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 27
1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 1995) .......................................................................................... 28
Chương 2 GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1996 - 2009) ......................................................................................................... 30
Tiểu kết chương 1: ................................................................................................. 29
2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009) ................................................................................................... 30
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong những năm 1996 – 2009 ........................................................................................ 30
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ........................................................................................ 34
2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009) .............................................................................................................................. 36
2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết .......................................................................... 36
2.2.2. Tình hình đi học ........................................................................................... 38
2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được .......................................................................... 41
2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) .................................................................................................. 44
2.3.1. Thành tựu .................................................................................................... 44
2.3.2. Hạn chế........................................................................................................ 47
2.3.3 Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 - 2009) .......................................................................................... 48
Tiểu kết chương 2 : ................................................................................................ 50
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 53
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội, sự nghiệp giáo dục luôn có vai trò quan trọng đặc biệt
đối với mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. “Giáo dục, đào tạo góp phần nâng cao
trình độ dân trí, và tạo ra nguồn lao động chất lượng cao để thúc đẩy nền kinh tế - xã hội đi lên của mỗi quốc gia”. Đương thời, các nhà tư tưởng triết học của chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng đã coi giáo dục là nhiệm vụ trọng tâm. Trong tác phẩm:
“Bàn về chế độ hợp tác” của V. I. Lênin, ông viết: “Sự thay đổi căn bản đó là ở
chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của
chúng ta vào cuộc đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính
quyền... thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt
động giáo dục” [27, tr.428]. Nelson Mandela- một vị anh hùng tài ba đã lãnh đạo
nhân dân Nam Phi thoát khỏi ách nô lệ. Ông đã phát biểu rằng: "Giáo dục là vũ khí
mạnh nhất mà bạn có thể dùng để thay đổi thế giới”, ông hiểu rõ rằng, khi nhận
thức của người dân còn thấp, nền giáo dục chưa đạt hiệu quả cao thì khi một cuộc
cách mạng diễn ra thì kết quả đi tới thành công là con số không, nếu có thì cũng chỉ
là thành công mang tính nhất thời, không bền vững, không kéo dài được lâu. Cho
nên, chỉ có đầu tư vào giáo dục thì mới thay đổi được nhận thức của người dân và
mang lại cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Ở nước ta cũng vậy, trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ông cha ta đã sớm có ý thức
về “tầm quan trọng của giáo dục” và quan niệm rằng: “giáo dục - đào tạo là nhân
tố cốt yếu, động lực thúc đẩy đất nước phát triển”. Chính vì vậy, ngay từ thời Lê,
Thân Nhân Trung đã khẳng định: “Hiền tài là nguyên khí của đất nước. Nguyên khí
thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao; nguyên khí suy thì thế nước yếu mà xuống
thấp. Bởi vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc gây dựng
người tài, kén chọn kẻ sĩ, bồi đắp nguyên khí là việc làm đầu tiên” [17, tr.84].
Kế thừa và phát huy truyền thống trọng giáo dục, trọng nhân tài của ông cha ta, kể từ khi nước nhà ra đời cho đến nay, Đảng ta luôn quan tâm tới giáo dục và
1
khẳng định: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” vì sự phát triển đi lên của đất nước (trích trong Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII), bởi lẽ: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam” [10, tr.77]. Cùng với vai trò quan trọng đó, Đảng đã xác định 3 mục tiêu tiên quyết của
sự nghiệp giáo dục đó là: “nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài” trong đó, phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu có ý nghĩa hàng đầu.
Trung du và Miền núi phía Bắc Việt Nam nằm ở phía Bắc của đất nước, là
nơi sinh sống tập trung của các dân tộc thiểu số với trình độ phát triển khác nhau và
có vị trí quan trọng đối với lịch sử của dân tộc. Trong thời kì đổi mới, cùng với
nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trên địa bàn của khu vực đã đóng góp hết
sức mình vào công cuộc đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu mà miền Bắc
đạt được trong thời kì này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đóng góp
không hề nhỏ của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa miền Bắc nói chung và giáo dục ở
các tỉnh Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng.
Hơn nửa thế kỷ qua, nền giáo dục nước ta nói chung và thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, đặc biệt là sau công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước và đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa 1986 thì sự nghiệp giáo dục
nước ta cũng đang có những bước phát triển quan trọng cả về chất và lượng. Những
thành tựu đó góp phần vào việc “nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo
nguồn lực có chất lượng cao cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới toàn diện
đất nước”. Mặc dù đạt được nhiều kết quả tốt như vậy nhưng nền giáo dục Việt
Nam đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập như: “cơ sở vật chất - kĩ thuật còn lạc
hậu, chưa đảm bảo, thiếu; chất lượng giáo dục còn kém, nhu cầu học tập cũng như
điều kiện để phát triển giáo dục giữa các vùng miền có sự chênh lệch lớn, sự mất
cân đối về tình hình biết đọc, biết viết, tình hình đi học, trình độ học vấn, trình độ
khoa học kĩ thuật, số lượng giáo viên còn thiếu v.v…”, đặc biệt ở khu vực Trung du
và Miền núi phía Bắc còn tồn tại khá rõ nét so với các vùng miền khác trong cả
nước.
Trước những thành tựu và thách thức nói trên, yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục nước ta nói chung và cả ngành giáo dục của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng là cần nắm rõ thực trạng giáo dục của từng vùng, miền và của cả nước để kịp thời đưa ra các giải pháp mang tính chất đột phá cả về quy mô cũng như chất
lượng giáo dục.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục trong giai đoạn 1986 đến nay, cùng với số liệu đề cập khá rõ ràng của Tổng cục thống kê Việt Nam
2
qua các năm nhưng vẫn chưa có một công trình sử học nào trình bày một cách có hệ
thống, toàn diện thực trạng của giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Việt Nam trong giai đoạn (1989 – 2009).
Với lý do đó, tác giả đã chọn “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và
Miền núi phía Bắc (1989 – 2009)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của sự nghiệp giáo dục trong quá
trình phát triển của đất nước nên vấn đề giáo dục luôn là đề tài nhận được sự quan
tâm, chú ý của nhiều tác giả, các công trình nghiên cứu khai thác ở các khía cạnh
khác nhau đã được thực hiện, đặc biệt là từ sau năm 1986. Một số công trình nghiên
cứu về giáo dục Việt Nam đã được thực hiện như:
Cuốn sách: “Tổng kết đánh giá 15 năm đổi mới giáo dục (1986 – 1996)” của
Bộ Giáo dục và Đào tạo được ban hành năm 1996. Công trình này tập hợp những báo cáo của các địa phương sau 10 năm tiến hành đổi mới giáo dục và được trình
bày một cách cụ thể và có hệ thống.
Cuốn sách “Giáo dục Việt Nam 1945-2005, tập I” của Bộ Giáo dục và Đào
tạo xuất bản năm 2000. Công trình đã mô tả bức tranh về hoạt động giáo dục của cả
nước từ bậc mầm non cho tới đại học theo từng giai đoạn lịch sử; quá trình xây
dựng và phát triển của giáo dục ở từng vùng tự do, tạm chiến, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số; những đóng góp của công tác giáo dục đối với cuộc kháng chiến của
dân tộc; các cuộc cải cách giáo dục trong lịch sử. Ngoài ra, công trình còn đề cập
đến sự hình thành, phát triển của ngành giáo dục ở các tỉnh, thành phố trong cả
nước theo từng giai đoạn lịch sử. Tuy nhiên, nội dung trình bày mang tính chất khái
lược giáo dục của các vùng miền trong cả nước là chủ yếu chứ không cụ thể của
một vùng miền nào đó. Chính vì vậy, lượng thông tin về tình hình giáo dục của các
địa phương ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc giai đoạn từ năm 1989 đến
năm 2009 rất hạn chế.
Cuốn sách: “Giáo dục Việt Nam 1945 – 2010” của tác giả Phạm Minh Hạc được xuất bản năm 2000. Cuốn sách gồm 2 tập giúp chúng ta có được một cái nhìn
tổng quát về quá trình xây dựng, từng bước trưởng thành của nền giáo dục nước nhà; đồng thời nêu được những nét đặc trưng của sự nghiệp giáo dục của các tỉnh thành qua các thời kì lịch sử.
Cuốn sách: “Sơ thảo giáo dục Việt Nam (1945-1992)” của Bộ Giáo dục và
3
Đào tạo xuất bản năm 2005 đã đề cập có hệ thống, chi tiết các ngành học diễn ra từ
năm 1945 đến 1995. Trong từng ngành học, cuốn sách trình bày về: lịch sử hình
thành, cách thức tổ chức quản lí, chương trình học, loại hình đào tạo cũng như những đóng góp của từng ngành học đối với xã hội; vấn đề giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực cho đất nước, vấn đề hợp tác trong lĩnh vực giáo dục v.v… Tuy
nhiên, công trình cũng mới dừng lại ở mức độ khái quát về giáo dục của cả nước nói
chung nên giáo dục ở miền núi phía Bắc nói riêng không trình bày cụ thể, rõ nét.
Cuốn sách: “50 năm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo (1945-1995)”
của Bộ giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2006. Công trình mô tả bức tranh tương
đối toàn diện về sự phát triển của ngành giáo dục Việt Nam từ khi nước ta giành
được độc lập, tự do năm 1945 đến những năm bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước năm 1995. Đồng thời, công trình cũng mô tả một cách khá chi tiết và có hệ thống từ các ngành học cho đến việc xây dựng, phát triển giáo dục ở các
vùng trong cả nước.
Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu có đề cập tới giáo dục ở các
tỉnh miền núi phía Bắc đã được xuất bản như: Cuốn sách “Một số vấn đề kinh tế - xã
hội các tỉnh miền núi phía Bắc” của Viện Dân tộc học xuất bản năm 2007. Công
trình đã tổng hợp các bài viết của nhiều nhà khoa học, trong đó đề cập đến nhiều nội
dung: dân cư và lao động; phát huy các thế mạnh để phát triển kinh tế, thế yếu của
các tỉnh miền núi phía Bắc; phát triển văn hóa và giáo dục, kết hợp phát triển kinh
tế với củng cố quốc phòng ở các tỉnh miền núi. Cuốn sách cũng nêu lên thực trạng,
khó khăn, tiềm năng của các tỉnh miền núi phía Bắc; đề ra các biện pháp nhằm xây
dựng, phát triển miền núi trên các lĩnh vực, trong đó có giáo dục.
Cuốn sách Lịch sử giáo dục Việt Nam (năm 2008), Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm, Hà Nội của tác giả Bùi Minh Hiền đã trình bày có hệ thống các giai đoạn
phát triển của giáo dục Việt Nam, đồng thời cũng xác định mục tiêu, định hướng
nhằm phát triển giáo dục Việt Nam trong thời kì mới.
Ở Việt Nam xu hướng nghiên cứu về thực trạng, thành tựu, hạn chế, những biện pháp, đề xuất cải tổ, đưa ra các định hướng là một xu hướng chung được giới nghiên cứu lựa chọn nhiều để làm đề tài nghiên cứu của mình. Trong suốt chiều dài
lịch sử của sự nghiệp giáo dục nói chung và từ sau khi đổi mới đất nước 1986 đến năm 2000 nói riêng, trên các tạp chí văn hóa - xã hội và giáo dục đề cập khá nhiều, với mật độ bài viết dày đặc, có thể kể đến các tạp chí như: Tạp chí giáo dục, Tạp chí
nghiên cứu lịch sử, Tạp chí khoa học hay Tạp chí khoa học xã hội… Các bài viết về
4
giáo dục trên các tạp chí này có giá trị to lớn như một công trình khảo cứu góp một
phần tư liệu chuyên sâu về giáo dục Việt Nam từ khi cả nước bước vào thời kì đổi
mới đất nước.
Có thể thấy rằng, các công trình nghiên cứu về lịch sử ngành giáo dục nói
chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn khá ít nói riêng là
những nguồn tư liệu quan trọng giúp tác giả có thể tìm hiểu, nghiên cứu, sử dụng để
thực hiện đề tài: “Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
(1989 – 2009)” của mình. Tuy nhiên tính đến hiện tại, vẫn chưa có một công trình
nghiên cứu nào thuộc mã ngành Lịch sử Việt Nam, trình bày một cách có hệ thống
về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 - 2009).
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là thực trạng giáo dục ở khu vực Trung
du và Miền núi phía Bắc từ 1989 đến 2009.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, khóa luận cần tập trung vào những
nhiệm vụ sau: những yếu tố tác động tới nền giáo dục của khu vực: tình hình kinh tế
- xã hội; chủ trương của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục và quá trình thực hiện
chủ trương trên được áp dụng ra sao để thấy được thực trạng giáo dục của khu vực,
từ đó nhận xét thành tựu và hạn chế của giáo dục trong những năm thực hiện đổi
mới toàn diện đất nước, đặc biệt từ năm 1989 trở đi khi hệ thống giáo dục phổ
thông thống nhất 12 năm trên toàn quốc. Đồng thời, chỉ ra được một số tác động của
giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 –
2009).
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt nội dung: Khóa luận tập trung nghiên cứu những yếu tố tác động đến giáo dục; thực trạng của giáo dục; những thành tựu, hạn chế của giáo dục; tác động của giáo dụ đến khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 - 2009.
Về không gian: Khóa luận nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở khu vực
Trung du và Miền núi phía Bắc, theo quy định của Tổng cục Thống kê gồm có 13 tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Thái, Cao Bằng, Hà Bắc, Hòa Bình, Lào Cai,
5
Quảng Ninh, Lai Châu, Sơn La, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Yên Bái.
Về mặt thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009.
Năm 1989 là thời điểm quan trọng đối với lịch sử Việt Nam kể từ sau ngày
nước nhà thống nhất, 2 miền Nam, Bắc sum họp một nhà. Lúc này nền kinh tế Việt
Nam đã chuyển hẳn từ chế độ “quan liêu bao cấp” sang cơ chế thị trường. Đồng
thời, sau khi nước nhà thống nhất đến năm 1989, thì hệ thống giáo dục phổ thông 12
năm trên toàn quốc mới được thống nhất, mà trước đó giáo dục hai miền Nam, Bắc
khác nhau: từ năm 1954, ở miền Bắc, Nhà nước áp dụng hệ thống giáo dục phổ
thông 10 năm, còn ở miền Nam là 12 năm.
Năm 2009 là năm đất nước hoàn thành những nội dung cơ bản của chiến
lược phát triển giáo dục trong thời kì đổi mới và đề ra những định hướng, biện pháp phát triển cho ngành giáo dục giai đoạn 2009 - 2020. Đồng thời cũng là năm mà
Tổng cục thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư đã thực hiện Tổng điều tra dân số và
nhà ở Việt Nam năm 2009, trong đó có chuyên khảo giáo dục Việt Nam - đó là
nguồn tài liệu thống kê hữu ích cho việc nghiên cứu.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng gồm có nguồn tư liệu gốc và các nguồn tư
liệu khác cụ thể như sau:
Nguồn tư liệu gốc quan trọng và sử dụng chủ yếu nhất trong khóa luận chính
là các tư liệu, số liệu được khai thác từ Niên giám thống kê của Tổng cục Thống kê
qua các năm như 1989, 1992, 1995, 2000, 2009…; Chuyên khảo giáo dục Việt Nam
lấy 15% số liệu mẫu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 và
từ hai cuộc tổng điều tra trước đó là 5% năm 1989 và 3% năm 1999 của Tổng cục
thống kê. Nguồn tài liệu này cho ta biết những số liệu chính xác và bao quát nhất về tình hình giáo dục cả nước. Dựa vào đó tác giả có cơ sở để phục dựng lại bức tranh về thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009.
Bên cạnh nguồn tư liệu gốc, khóa luận đã khai thác và sử dụng các tư liệu, văn kiện của Đảng trong những năm như: 1991 - 1995; 1996 - 2000; 2001 - 2005, 2006 - 2010. Nguồn tài liệu này cho tác giả biết các chủ trương, chính sách của
Đảng đối với kinh tế - xã hội cũng như những đường lối, chủ trương về giáo dục
6
nước ta từ sau đổi mới đến nay.
Nguồn tư liệu tiếp theo đó là các công trình (sách, báo, báo cáo đánh giá,
tổng kết…) của các nhà nghiên cứu, các tổ chức đã được công bố liên quan trực tiếp tới giáo dục cũng như các mặt khác như kinh tế - xã hội. Qua các nguồn tư liệu này,
tác giả có cái nhìn sâu sắc, thấu đáo hơn về quá trình chuyển mình của đất nước trên
các lĩnh vực.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các luận văn, luận án cùng với các tạp chí, tác
phẩm, bài viết của nhiều tác giả viết có liên quan đến đề tài.
Trên cơ sở các nguồn tư liệu đa dạng và phong phú nêu trên, đã góp phần rất
lớn cho tác giả trong việc thực hiện đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của Đảng. Lịch sử và lôgic và hai phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong quá trình nghiên cứu và trình bày khóa luận. Ngoài ra, tác giả còn
sử dụng phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, thống kê, vẽ biểu đồ, so
sánh,…để làm rõ thực trạng và nhận xét về giáo dục ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc trong những năm 1989 – 2009.
5. Đóng góp của khóa luận
Thứ nhất, khóa luận phác họa lại có hệ thống bức tranh thực trạng giáo dục ở
khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc từ năm 1989 đến năm 2009.
Thứ hai, khóa luận góp phần tìm hiểu những thành tựu, hạn chế của giáo dục
Việt Nam nói chung và giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói
riêng.
Thứ ba, khóa luận góp phần thấy được tác động của giáo dục đến kinh tế - xã
hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 – 2009).
Cuối cùng, khóa luận góp phần bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu lưu trữ nhằm phục vụ quá trình nghiên cứu, giảng dạy và đánh giá, tổng kết về lịch sử Việt Nam trong giai đoạn tiến hành đổi mới cũng như lịch sử giáo dục Việt Nam nhất là giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc thời kì sau đổi mới.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, tài liệu tham khảo của khóa luận thì khóa
7
luận được cấu trúc thành 2 chương:
Chương 1: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989- 1995)
8
Chương 2: Giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996- 2009).
Chƣơng 1
GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1989 - 1995)
1.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc trong những năm 1989 - 1995
Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc tính đến năm 1991 có 13 tỉnh, bao
gồm Hà Giang, Quảng Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Phú, Cao Bằng, Bắc Thái, Lạng
Sơn, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái, Sơn La, Lào Cai, Hà Bắc. Tổng dân số trung
bình cả nước là 67774,1 nghìn người, trong đó dân số trung bình khu vực là
11565,8 nghìn người [21, tr.9]. Vùng tập trung chủ yếu là dân tộc ít người như: Tày,
Nùng, Dao, Thái, Mường…Đây không chỉ là nơi có vị trí chiến lược cách mạng
quan trọng trong lịch sử đất nước mà nơi đây còn là vùng giàu tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái phong phú và đa dạng giúp phát triển nền kinh tế -
xã hội. Sau khi đất nước tiến hành đổi mới năm 1986, được sự quan tâm sát xao của
Đảng cùng với đó là mọi nỗ lực cố gắng của nhân dân các địa phương trên địa bàn
của khu vực, đã đạt được những thành tựu vượt bậc trên nhiều lĩnh vực trong đó
phải kể đến đó là giáo dục.
1.1.1. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trước năm
1989
Tính đến năm 1989, nước ta đã đi qua 3 cuộc cải cách giáo dục: cuộc cải
cách lần thứ nhất diễn ra bắt đầu từ năm 1950, mục đích nhằm xây dựng một nền
giáo dục của dân và vì dân; lần thứ 2 bắt đầu từ 1956, nhằm hướng tới đào tạo ra
những thế hệ thanh niên có đủ năng lực và phẩm chất tốt, có cả đức và tài; và cuộc
cải cách lần thứ 3 bắt đầu từ 1979, đã tiến hành cải cách toàn diện về mục tiêu, nội
dung, nguyên lý, phương pháp và cơ cấu hệ thống giáo dục, đào tạo; đặc biệt trong
thời gian này hệ thống giáo dục phổ thông 12 năm đã được hình thành trong cả nước. Qua các đợt cải cách giáo dục nói trên, mỗi cuộc cải cách đổi mới giáo dục thì đều có nội dung, tính chất phù hợp với xu thế phát triển của đất nước nói chung và thế giới nói riêng, đã phản ánh kết quả khả quan cả về thành tựu cũng như hạn
chế của công tác giáo dục nước nhà.
Xét về mặt bằng chung của cả nước thì tỉ lệ biết chữ đã tăng lên đáng kể và tỉ
9
lệ mù chữ đã dần giảm xuống ở mức tương đối, nhờ vậy phần nào đã xóa bỏ nạn mù
chữ, nâng cao dần trình độ dân trí cho người dân được thể hiện rõ qua bảng số liệu
dưới đây:
Bảng 1: Tổng số ngƣời mù chữ từ 10 tuổi trở lên qua 2 đợt tổng điều tra
dân số của nƣớc ta năm 1979, 1989
Đơn vị: nghìn người (%)
Năm 1979 Năm 1989
Biết chữ Mù chữ Biết chữ Mù chữ
Nam 16086 (90%) 1620 (10%) 19854 (93%) 15337 (7%)
Nữ 15816 (84%) 1817 (19%) 20512 (84%) 3854 (16%)
Tổng số 31902 (85%) 5437 (15%) 40366 (88%) 5391 (12%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê: Tổng điều tra dân số Việt Nam, “Kết quả điều
tra mẫu” năm 1979, 1989.
Nhưng điều đáng lo ngại ở đây là mặc dù tổng số người mù chữ trong cả
nước không lớn nhưng phần đông trong số họ lại sinh sống tập trung ở những vùng
xa xôi, hẻo lánh ở miền núi cao. Do vậy, tỷ lệ biết chữ của khu vực còn thấp so với
các vùng khác trong cả nước. Chẳng hạn, ở Hà Giang, Tuyên Quang, tổng số người mù chữ trong độ tuổi 15 – 35 chiếm 34% nhưng con số tương tự ở những huyện
vùng cao của tỉnh này đều trên 50% rất nhiều, Ở Tuyên Quang có nhiều xã trắng về
giáo dục, số người mù chữ còn lớn.
Trong năm học đầu tiên sau khi đất nước thống nhất 1975 – 1976, quy mô
học sinh trong cả nước là 10.831 nghìn học sinh tham gia học tập ở cả ba cấp học.
Đến năm 1985 – 1986 số học sinh tham gia học tập của cả nước đã lên đến 12.034
nghìn học sinh [19, tr.307]. Tuy nhiên ở khu vực miền xuôi, trẻ em trong độ tuổi
đến trường tham gia học tập đạt khoảng 98% thì ở Miền núi, trung du chỉ đạt 80%. Số trẻ em trong độ tuổi đi học tập trung nhiều ở đồng bằng chiếm 70%, còn miền núi phía Bắc, mới có từ 50 – 60% số trẻ em đi học. Ở vùng cao, biên giới phía Bắc tỷ lệ này còn thấp hơn (từ 20 -30%), nhiều xã chỉ có đến lớp 2 từ nhiều năm nay.
Đáng chú ý nhất là học sinh bị lưu ban còn chiếm tỉ lệ cao” [26, tr.3].
Tỷ lệ học sinh lưu ban, bỏ học giữa các địa bàn, khu vực khác nhau cũng có
sự chênh lệch. Ở những tỉnh thuộc khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa do điều
10
kiện khó khăn về mọi mặt nên tỷ lệ này còn khá cao. Trái lại, ở những tỉnh, thành
phố nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì tỷ lệ này chỉ duy trì ở mức thấp
hơn. Điều này đã được minh chứng qua một số tỉnh, thành phố điển hình như tại Hà Nội “tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học lần lượt là 4,77% và 4,17%. Ngược lại ở các
tỉnh miền núi như Hà Tuyên tỷ lệ này lần lượt là 8,65% và 25,79%, tại Lai Châu là
11,83%, và 30,36%” [20, tr.417].
Tại một số tỉnh, nhiều trường đã hoàn thành chương trình phổ cập giáo dục
tiểu học và đang đi vào giai đoạn phổ cập giáo dục cấp trung học cơ sở thì ở một số
địa bàn thuộc các tỉnh thuộc khu vực Miền núi, trung du do điều kiện kinh tế - xã
hội còn khó khăn, vì vậy công việc phổ cập giáo dục tiểu học của vùng còn hạn chế.
Điển hình ở một số tỉnh thuộc vùng miền núi, các tỉnh khu vực phía Bắc dao động
trong khoảng 20 – 30%. Cũng có những xã trẻ em chưa học qua lớp 2 [4, tr.17]. Ở tỉnh Yên Bái vào những năm 1987 – 1988, học sinh cấp II bỏ học trên 22,4%.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật có những bước tiến lớn trong việc xây dựng, sửa
chữa, nâng cấp và bảo vệ. Tính đến năm 1985 các tỉnh của khu vực đã có hàng vạn
trường được xây dựng, rải khắp địa bàn của cả nước. Ở tỉnh Lạng Sơn trong năm
học 1985 – 1986 đã có “17 trường cấp III ở tất cả các huyện, thị. Các xã đều có
trường phổ thông cơ sở, trên địa bàn tỉnh có 9 trường phổ thông lao động, 3 trường
dân tộc nội trú ở các huyện, 1 trường phổ thông lao động, 1 trường văn hóa tại tỉnh”
[1, tr.222]. Tuy nhiên cơ sở vật chất, hệ thống trường, lớp nói chung sau năm 1975
vẫn còn nghèo nàn và thiếu thốn như hệ thống trường, lớp học kiên cố chưa có
nhiều chủ yếu được xây dựng một cách tạm bợ, vật liệu xây dựng nên chủ yếu được
làm từ tre, nứa, lá; số phòng, lớp học thiếu, trong khi đó số lượng học sinh ngày một
tăng qua các năm, vì vậy học sinh phải học gộp hoặc tăng ca, có nơi còn một số
trường học ba ca/ một ngày, lớp học thiếu ánh sáng, kích thức bàn ghế không tương
xứng với người học…; cơ sở kĩ thuật phục vụ quá trình học tập của học sinh cũng
như quá trình dạy học của giáo viên không được đảm bảo, còn thiếu thốn, nơi có ít
dụng cụ thí nghiệm thì lại chưa dùng tốt, chưa bảo quản tốt.
Chất lượng giáo dục còn kém, cách khá xa so với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội. Ở các tỉnh, huyện miền núi xa xôi hẻo lánh thì nhiều khi số lượng
sách giáo khoa thậm chí không có đủ cho học sinh, thiết bị dạy và học còn thiếu nhiều, nội dung chương trình mang tính truyền thống, nặng về lý thuyết hơn là thực tiễn, số lượng giáo viên căn bản còn thiếu trầm trọng, trình độ chưa cao,… do vậy
11
chất lượng giáo dục thấp hơn nhiều so với các vùng khác của cả nước, có những lúc
chất lượng giáo dục không bao giờ vượt qua mức 30%, chỉ đạt tầm 25 cho đến 30%
[17, tr.210].
Trong kí ức của mình, nhà giáo ưu tú Cao Văn Tư - nguyên Giám đốc Sở
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Lào Cai đã chia sẻ như sau: “những năm 80 và 90, đời
sống kinh tế - xã hội ở Lào Cai rất khó khăn, gây trở ngại lớn cho sự nghiệp giáo
dục. Ngày đó, số người mù chữ toàn tỉnh chiếm tới 52% dân số, tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi ra lớp mới đạt 35,7%, đặc biệt toàn tỉnh có tới 14 xã trắng về giáo dục.
Nhiều trường tiểu học ở vùng cao chỉ có lớp 1, lớp 2, rất ít trường hoàn chỉnh tới
lớp 5. Bên cạnh đó, cơ sở vật chất trường, lớp học hết sức thiếu thốn, chủ yếu là nhà
tranh, vách đất, bàn ghế được ghép từ những thanh tre, nứa, vầu. Nhưng khó khăn
nhất vẫn là số lượng đội ngũ giáo viên, bởi những năm 80 có nhiều giáo viên bỏ việc, chuyển vùng”[34].
Tựu chung lại, trước năm 1989 tình hình giáo dục của khu vực đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần
phải khắc phục. Năm 1975, nước ta hoàn thành thống nhất đất nước, tuy nhiên do
hoàn cảnh chiến tranh trước và sau đó là chiến tranh Biên giới phía Bắc năm 1979,
một số hệ thống trường lớp xây dựng trong thời kì trước đã bị phá hủy, không được
cải tạo hoặc xây dựng lại do vậy không đáp ứng được nhu cầu học tập của học sinh
đặc biệt là khi số lượng học sinh ngày càng tăng lên qua các năm, nó đã ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng dạy và học. Ở các vùng sâu, vùng xa của khu vực do điều
kiện kinh tế còn nghèo nàn, đời sống người dân vô cùng khổ cực cũng tác động một
phần không nhỏ tới giáo dục, tình trạng lưu bạn, bỏ học diễn ra, công tác vận động
học sinh đến trường còn nhiều khó khăn, số lượng trường lớp, giáo viên, trang thiết
bị cũng như chính sách thu hút đầu tư còn nhiều hạn chế…
1.1.2. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong
những năm 1989 – 1995
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến lớn, sau gần 5 năm thực hiện đường lối đối mới (1986 – 1990), nước ta đã đạt được một số thành tựu cơ bản nhưng vẫn trong tình trạng lạc hậu, nghèo nàn. Trước tình hình
12
đó, yêu cầu bức thiết đặt ra đối với lĩnh vực kinh tế - xã hội là phải cần phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới, nhằm mục đích phát huy những mặt mạnh, khắc phục những yếu kém, hoàn thành mục tiêu chiến lược đề ra. Trước những yêu cầu đó, tại Đại hội lần thứ VII (1991) Đảng ta đã tổng kết, đánh giá những kết quả mà giai đoạn trước đạt được, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm
vụ cho kế hoạch 5 năm tiếp theo (1991 – 1995). Tiếp đó, Đảng ta luôn bổ sung, thay
đổi chính sách để phù hợp với tình hình mới. Mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 tiếp theo được Đảng xác định cần: “vượt qua thử thách, ổn định và phát triến
kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội,
đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay” [9].
Để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng ta đã vạch ra định hướng chiến lược
cho khu vực như sau: “Khu vực Trung du và Miền núi chuyển sang kinh tế hàng
hóa, phát huy thế mạnh của vùng như thế mạnh lâm nghiệp; hình thành vùng
chuyên canh cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả, gắn với công nghiệp chế biến,
phát triển chăn nuôi, khai khoáng. Đẩy mạnh việc khai thác khoáng sản và thủy
năng, hình thành những trung tâm công thương nghiệp và đô thị gắn với các tổ hợp kinh tế lãnh thổ: than ở Đông Bắc, hóa chất, phân bón, luyện kim, điện ở Tây Bắc
và trung du phía Bắc, thủy điện và khai khoáng ở Tây Nguyên.
Riêng đối với khu vục miền núi, Nhà nước hỗ trợ về đầu tư, mở mang giao
thông vận tải, bảo vệ môi trường, tài trợ cho y tế, giáo dục và đào tạo cán bộ người
dân tộc, đồng thời thực hiện chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, tiền lương...
để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”[8]. Mục đích cuối cùng nhằm thúc đẩy kinh
tế vùng phát triển.
Về chính sách xã hội, ta chủ trương thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên
cả ba mặt: “quy mô, cơ cấu và sự phân bố dân số; giảm tỷ lệ tăng dân số mỗi năm
khoảng 0,4 - 0,6 phần nghìn. Hướng giải quyết việc làm là sử dụng tối đa tiềm năng
lao động; chú trọng phát triển những ngành thu hút nhiều lao động như nuôi trồng
chế biến nông - lâm - thuỷ sản, hàng xuất khẩu...Người lao động chủ động tìm và
tạo ra việc làm” [11].
Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nêu trên, khu vực đã có một
số chuyển biến rõ nét:
Về kinh tế: Với sự cố gắng, nỗ lực vươn lên không chỉ ở ban lãnh đạo, mà điều trọng tâm là ở nhân dân, họ đã cùng nhau vượt qua những khó khăn, thử thách, nhằm phát huy được những thế mạnh của khu vực mình, tạo ra sự tăng trưởng
nhanh trong đời sống kinh tế, xã hội của vùng.
Ở một số địa phương đã xây dựng được các khu công nghiệp lớn, cùng với
đó là sự xuất hiện của thị trấn, thị xã mọc lên ngày càng nhiều. Nhiều gia đình từ
13
đồng bằng đã di cư lên miền núi sinh sống và lao động, họ đã đưa kỹ thuật canh tác
mới vào sản xuất như thâm canh tăng vụ và một số ngành nghề tiểu thủ công. Dân
cư của khu vực dần tiếp cận được những thành tựu của khoa học - kỹ thuật.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế - xã hội tại địa bàn của khu vực còn rất
thấp. Kinh tế phát triển chậm chạp, tình trạng tự do di chuyển định cư vẫn chưa
được khắc phục; đại bộ phận dân cư trong vùng còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn
trong đời sống sinh hoạt thường ngày; tình trạng nghèo đói, không được đi học do
vậy nạn mù chữ chiếm số lượng lớn; bệnh dịch chưa được đẩy lùi, nhiều tiêu cực xã
hội phát sinh.
Trên địa bàn các tỉnh thành đã xuất hiện các khu kinh tế phát triển theo
hướng quốc doanh đặc biệt là ở lĩnh vực nông nghiệp và lâm nghiệp, tuy nhiên năng
suất còn thấp, chất lượng hiệu quả không cao; người dân địa phương thậm chí còn thiếu đất để canh tác trong khi đó tình trạng bao chiếm đất đai lại diễn ra phổ biến,
đất chưa được sử dụng còn nhiều, tình trạng này đã gây ra mâu thuẫn; nạn chặt phá,
khai thác rừng diễn ra bừa bãi và nghiêm trọng…
Cơ sở hạ tầng đặc biệt là đường giao thông đi lại ở miền núi, nhất là ở các
vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh hệ thống đường qua lại chưa đảm bảo và còn trắc
trở, nhiều tuyến đường chưa thông suốt và nối liền giữa các tỉnh, các vùng với nhau
vì vậy đã kìm hãm việc giao lưu, trao đổi qua lại với nhau.
Các điểm công nghiệp có quy mô tương đối lớn trong vùng đã được hình
thành, hoạt động trên các lĩnh vực khai khoáng, than, công trình thủy điện, hóa chất,
chế biến lâm sản,... Tuy nhiên, chúng lại hoạt động một cách biệt lập, chưa lôi cuốn
cả vùng phát triển.
Về xã hội: Cơ cấu dân cư có nhiều biến đổi, tính đến năm 1995 dân số trung
bình của khu vực là 9522,9 người [20].
Bảng 2: Cơ cấu dân số của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
1991- 1995
Đơn vị %
1991 1994 1995 1992 1993
Đông Bắc 11,68 11,66 11,67 11,67 11,67
Tây Bắc 2,8 2,85 2,86 2,83 2,84
14
Nguồn: [22]
Cơ cấu dân số qua các năm có nhiều thay đổi, tiểu vùng Đông Bắc có xu
hướng giảm, so với năm 1991 thì tới năm 1995, cơ cấu dân số của tiều vùng giảm 0,1%, trong khi đó, tiểu vùng Tây Bắc thì cơ cấu dân số có xu hướng tăng, so với
năm 1991 thì năm 1995 cơ cấu dân số của tiểu vùng tăng 0,6%, nguyên do của thực
trạng này là do tình trạng du canh du cư, du canh định cư của những người miền
xuôi lên khu vực miền núi sinh sống và lập nghiệp diễn ra phổ biến.
Cơ cấu lực lượng lao động: Xét trong 7 vùng kinh tế của cả nước thì “Miền
núi và Trung du phía Bắc có tỷ lệ người tham gia lao động với dân số toàn vùng cao
nhất (năm 1995 là 70,37%); thấp nhất là vùng Đông Nam Bộ chỉ đạt 62,45%” [20,
tr.38]. Nhưng chính tỷ lệ này cũng phản ánh sự phát triển của từng khu vực, tùng
vùng. Số lượng người tham gia lao động của vùng cao nhất cả nước nhưng chất lượng người lao động lại không cao đã làm ảnh hưởng một phần không nhỏ tới sự
phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Nhìn chung, đường lối do Đại hội VII đề ra trong kế hoạch 5 năm (1991 –
1995) đã đạt được một số kết quả đáng khen ngợi, các mục tiêu chủ yếu của kế
hoạch đã được thực hiện vượt mức. Đất nước đã ra khỏi tình trạng khủng hoảng, trì
trệ về kinh tế, tạo tiền đề để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: “đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nhưng thực tế nước ta vẫn đang ở trình độ
phát triển thấp về kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.3. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trong 10 năm đầu đổi mới
Cùng với đường lối đổi mới về kinh tế - xã hội của Đảng thì chủ trương đổi
mới giáo dục cũng được đề cập khá rõ trong giai đoạn này. Lúc này, ngành Giáo
dục nước ta đang trong lúc thực hiện Nghị quyết 14 (1979) của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương khoá IV về “cải cách giáo dục”. Một số việc đang triền
khai như: chuyển giáo dục phổ thông sang hệ thống 12 năm thống nhất trong cả
nước. Nghị quyết 14 (1979) đã vạch ra những quan điểm, mục tiêu dài hạn cho giáo dục ở nước ta, tuy nhiên, Nghị quyết 14 (1979) chưa nêu được các điều kiện thuận lợi cũng như mọi biện pháp khả thi để hoàn thành các mục tiêu đó, đồng thời quan niệm về giáo dục còn bị hạn chế bởi cách nhìn trước đây. Sau Đại hội VI (tháng
15
12/1986) của Đảng, để cuộc “cải cách giáo dục” đáp ứng được yêu cầu nói chung, chúng ta đã tiến hành điều chỉnh mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa cũng như đổi mới về quan điểm và cách làm giáo dục.
Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, nền giáo dục nước ta đứng trước thực
trạng: “Suy giảm số lượng và suy thoái về chất lượng trong giáo dục phổ thông; thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo và việc làm trong giáo dục chuyên nghiệp;
mạng lưới không hợp lý và thiếu mối quan hệ chặt chẽ giữa đào tạo với nghiên cứu,
sản xuất, việc làm trong giáo dục đại học; đội ngũ giáo viên yếu về chất lượng và
thiếu động lực làm việc; tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn; tổ chức
quản lý và pháp chế chưa thích hợp; hệ thống giáo dục đào tạo chưa phù hợp với xã hội đang chuyển đổi”[3].
Trước thực trạng trên, vấn đề đặt ra cho giáo dục lúc này là cần khắc phục
những yếu kém đó, đổi mới phải làm sao cho hệ thống giáo dục góp phần đắc lực phục vụ sự nghiệp “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Ngay từ đầu của thời kì đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời thay đổi tư
duy và cách làm giáo dục, đề ra những chủ trương thích hợp trong giai đoạn chuyển
đổi. Định hướng cụ thể đó là: "xây dựng ngành giáo dục mầm non, nâng cao chất
lượng nuôi dạy trẻ em, phát triển lớp mẫu giáo xóa bỏ nạn mù chữ lại số địa
phương, hoàn thành phổ cập cấp I cho trẻ em, phổ cập cấp II nơi có điều kiện, bước
mở rộng giáo dục phổ thông trung học nhiều hình thức đẩy mạnh nghiệp giáo dục
miền núi"[7, tr.33].
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (1991) đã
chỉ rõ: “Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của
sự phát triển. Trước mắt phải phổ cập cấp 1 nâng cao dân trí, đào tạo nghề cho
phần lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo nghề cho phần
lớn thanh niên, tăng nhanh số công nhân lành nghề, đào tạo cán bộ nhiều trình độ,
đặc biệt là cán bộ quản lý và kinh doanh, chuyên gia khoa học và công nghệ, chú ý
phát triển bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Đổi mới nhanh cơ chế quản lý giáo dục, đào tạo khoa học, công nghệ phù hợp với nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN gắn chặt với sự phát triển các lĩnh vực này với sản xuất và các mục tiêu kinh tế xã hội. Một mặt Nhà nước tăng đầu tư, mặt khác có
chính sách để toàn dân, các thành phần kinh tế cùng làm và đóng góp vào sự nghiệp này. Hầu hết các nước, trước sự nghiệp phát triển của lực lượng sản xuất, đều phải tiến hành cải cách giáo dục để có đội ngũ lao động có trí tuệ thích ứng với
16
bước tiến của khoa học công nghệ. Chúng ta phải có tổng kết cuộc cải cách giáo
dục vừa qua để có chủ trương phù hợp cho thời gian tới. Đó là vấn đề chiến lược
đồng thời cũng là vấn đề bức xúc cần giải quyết”[7, tr.121-122].
Mục tiêu phát triển giáo dục nhằm: “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri thức và có tay nghề, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Nhà trường đào tạo thế hệ trẻ
theo hướng toàn diện và có năng lực chuyên môn sâu, có ý thức và khả năng tự tạo
việc làm trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần"[7, tr. 122].
Nhiệm vụ của giáo dục 5 năm tới (1991 - 1995) là: “Tiếp tục đổi mới, ổn
định phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Coi trọng chất lượng
giáo dục chính trị, đạo đức cho học sinh và sinh viên; hiện đại hóa môi trường nội
dung, phương pháp giáo dục; dân chủ hóa nhà trường và quản lí giáo dục; đa dạng hóa loại hình đào tạo và loại hình trường lớp, từng bước hình thành những trường
bản công, dân lập, tư thục (dạy nghề), phát triển loại hình vừa học vừa làm. Mở
rộng đào tạo nghề, bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ, kinh doanh,
về quản lí kinh tế, xã hội và nhiều công nhân lành nghề”[7, tr.66].
Về giáo dục phổ thông: “Tập trung thực hiện chương trình phổ cập giáo dục
cấp 1 và chống mù chữ, phát triển cấp 2, cấp 3 phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế.
Củng cố và phát triển trường phổ thông trẻ em có tật…Tăng cường đầu tư cho giáo
dục ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các trường nội trú, quy hoạch đào
tạo cán bộ và tri thức người dân tộc” [13, tr194].
Quan điểm chỉ đạo sự nghiệp phát triển giáo dục đào tạo trong giai đoạn này
đã được Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương khóa VII diễn ra vào
tháng 01/1993, ra Nghị quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo” nêu
lên 4 quan điểm chỉ đạo đó là:
“ + Giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là
quốc sách hàng đầu, phải coi đầu tư giáo dục và đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển; huy động toàn xã hội góp sức xây dựng giáo dục.
+ Giáo dục phải nhằm nâng cao dân chí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
17
nhân tài, hình thành những con người có chất lượng mới, những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo. Phải mở rộng quy mô, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục.
+ Giáo dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với
xu thế tiến bộ của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học hỏi và học thường xuyên suốt đời.
+ Đa dạng hóa hình thức giáo dục đào tạo, đảm bảo công bằng xã hội
trong giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí; người sử dụng lao
động thông qua đào tạo phải đóng góp chi phí cho đào tạo; Nhà nước có
chính sách bảo đảm cho người nghèo và các đối tượng chính sách đều được
đi học” [13, tr194].
Như vậy, chủ trương lớn, bao trùm, chi phối toàn bộ quá trình đổi mới giáo
dục - đào tạo nước ta trong hơn 10 năm qua là “chuyển đổi hệ thống giáo dục quốc
dân từ mục tiêu phục vụ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN” [13, tr 95].
Với những quan điểm chỉ đạo trên, có thể khẳng định Đảng thật sự quan tâm
và chú trọng đến sự nghiệp giáo dục của đất nước, không chỉ riêng một khu vực nào
đó mà là công tác chiến lược cho từng địa bàn và của cả nước.
1.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1989 –
1995)
Thực hiện các mục tiêu và phương hướng về giáo dục mà Đảng và Nhà nước
ta đề ra qua các kì Đại hội, được áp dụng chung trong cả nước; cùng với đó là tác
động không nhỏ của kinh tế - xã hội của khu vực trong giai đoạn này. Đồng thời,
năm 1989 – 1995 là thời kì đang tiến hành đổi mới toàn diện giáo dục phổ thông ở
các cấp học thì giáo dục trên địa bàn các tỉnh thành của khu vực có những nét
chuyển biến mới.
1.2.1. Về mở rộng quy mô hệ thống giáo dục các cấp
Về quy mô trường, lớp học các cấp
Mẫu giáo: số lượng trường, lớp học ngày càng tăng lên qua các năm cho thấy dấu hiệu huy động học sinh đến lớp ngày càng tăng. Tính đến năm học 1991 –
1992, số lượng trường, lớp học của khu vực đã tăng lên đáng kể, lần lượt là 968 trường, 9151 lớp học. Trong đó, tỉnh Vĩnh Phú là nơi có số lượng trường lớp nhiều nhất, ngược lại Hà Giang, một tỉnh miền núi xa xôi, số lượng trường lớp còn hạn
chế chỉ có tất cả 4 trường mầm non với 47 lớp học. Đến năm học 1995 – 1996 thì đã
18
tăng lên 1055 trường với 12031 lớp học đáp ứng số lượng học sinh ngày một tăng.
Tuy nhiên, trong số các tỉnh của khu vực số lượng trường, lớp tăng lên thì có những
tỉnh lại thu hẹp số trường lớp, điển hình là Lạng Sơn và Yên Bái.
Tiểu học và Trung học cơ sở: tổng số trường tính đến năm học 1991 – 1992
của khu vực là 3798 trường phổ thông cơ sở, trung học là 250 trường. Đến năm học
1995 – 1996, số lượng tăng lên tương ứng là 4360 và 283. Mỗi năm số lượng trường
lớp một tăng ở mức tương đối, đặc biệt ở cấp phổ thông tiểu học tăng 562 trường so
với năm 1991. Trường học được xây dựng khang trang với số lớp và phòng học
tăng đáng kể.
Bảng 1. Số lớp học phổ thông năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 –
1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Tổng số Phổ thông cơ Phổ thông cơ sở Phổ thông trung
sở cấp I cấp II học
1991 – 1992 65935 51384 12564 1988
1995 – 1996 88876 66064 19222 3590
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê năm 1992, 1995
Số trường, lớp ở cấp Tiểu học chiếm số lượng nhiều nhất so với các cấp học
khác của khu vực, năm học 1991 – 1992 chiếm tới 78% , trong khi đó cấp Trung
học cơ sở (19,1%) và Trung học phổ thông (21,1%) chiếm tỉ lệ thấp. So sánh với
các vùng khác trong cả nước thì số lượng trường, lớp của khu vực ở thời điểm này
đạt mức cao, trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long có tổng số trường, lớp học cao
nhất cả nước, Tây Nguyên thấp nhất.
Trung học chuyên nghiệp: số lượng trường học nhiều nhất nhì cả nước, tính
đến năm học 1991 – 1992 khu vực có tất cả 57 trường, tuy nhiên sự phân bố không
đều, có tỉnh lại không có trường trung học chuyên nghiệp nào điển hình là tỉnh Yên
Bái và Hòa Bình, trái lại ở tỉnh Vĩnh Phú lại có tới 10 trường.
Đại học và Cao đẳng: càng lên trình độ cao thì số lượng trường càng ít, tính
đến năm học 1991 – 1992, khu vực có tất cả 11 trường. Nếu so quy mô trường học
của khu vực với các khu vực khác ở miền Bắc nói chung thì số lượng trường tập
19
trung nhiều nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng với 43 trường, phân bố thưa dần
thậm chí không có cơ sở nào ở các tỉnh miền núi cao, nơi điều kiện còn nhiều khó
khăn, học sinh không có điều kiện đến trường, nhận thức còn chưa cao.
Về số lượng học sinh, giáo viên của các cấp
Quy mô đào tạo ngày một tăng lên, có thể nói trong những năm 1991 số
lượng học sinh tăng lên rất nhiều so với trước. Năm học 1991 - 1992 cả nước là
12371,4 nghìn người, trong đó khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc là 2008,9
nghìn người thì đến năm 1995 -1996 cả nước đã lên tới 15561,0 nghìn người, thì
khu vực chiếm tới 2769,9 nghìn người, tăng 761 nghìn người so với trước.
Khi số lượng trường lớp học xây dựng ngày càng nhiều qua các năm thì
chứng tỏ một điều rằng số lượng học sinh tăng qua các năm, khi số lượng học sinh
tăng thì đòi hỏi số lượng giáo viên dạy cũng phải tăng lên để có thể đáp ứng nhu cầu
dạy và học của học sinh. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với nhau,
khi cầu tăng thì cung tăng.
Mầm non: số lượng trẻ em đến lớp từ sau khi thực hiện chủ trương cải cách
giáo dục thì hầu như trẻ em đều được đến trường, và số lượng giáo viên dạy trẻ tăng
dần qua các năm, điển hình là từ năm 1991 trở đi.
Bảng 2. Số lƣợng học sinh và giáo viên mẫu giáo năm học 1991 – 1992 và
năm học 1995 – 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Năm Học sinh Giáo viên
1991 – 1992 227594 11043
1995 – 1996 313999 14267
*Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám Thống kê năm 1991, 1995
Nhìn chung số lượng học sinh và giáo viên của khu vực tăng đáng kể qua các
năm, và ở mức tương đối cao, trong đó, khu vực Đồng bằng sông Hồng số lượng
này đạt mức cao nhất cả nước lần lượt là 391226 học sinh và 19874 giáo viên. Cho
thấy rằng số lượng học sinh tập trung đông đúc ở đồng bằng, nơi có điều kiện thuận
lợi cả về mặt tự nhiên và kinh tế - xã hội. Tại khu vực số lượng học sinh và giáo
20
viên thưa thớt dần, điển hình nhất là tỉnh Hà Giang, một tỉnh thuộc miền núi xa xôi,
số lượng học sinh và giáo viên ở mức thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực cũng
như với các tỉnh khác trong cả nước, lần lượt là 2175 học sinh và 71 giáo viên. Như
vậy, điều này cũng đáng nói lên là tình trạng dân cư nước ta phân bố không đồng
đều, mất cân đối giữa các vùng trong cả nước.
Phổ thông: ở Phổ thông cơ sở cấp I, học sinh đến trường ở mức cao nhất so
với các cấp học khác, càng lên cấp học cao hơn thì số lượng học sinh giảm dần. Tuy
nhiên kể từ năm 1991 trở đi, số lượng học sinh đi học ở các cấp đã tăng lên qua các
năm so với giai đoạn trước đó.
Bảng 3. Học sinh phổ thông năm học 1991 – 1992 và năm học 1995 –
1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Đơn vị: Nghìn người
Năm Tổng Phổ thông cơ sở Phổ thông cơ sở Phổ thông trung
cấp I cấp II học
1991 – 1992 2008,9 1543,9 392,5 72,5
1995 – 1996 2769,9 1899,0 711,4 159,6
*Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1992,1995
So sánh số học sinh phổ thông giữa các cấp có sự chênh lệch nhau lớn, số
lượng học sinh Tiểu học năm học 1991 - 1992 chiếm tới 76,9%, trong khi đó, ở cấp
THCS chỉ chiếm 19,5% và cấp THPT chiếm 3,6%. Đến năm 1995, số lượng học
sinh có sự xê dịch nhẹ, học sinh cấp THCS và THPT đã tăng lên so với năm học
trước đó, đó là điều đáng mừng, khi dần dần học sinh qua cấp học I để học lên trình
độ nhận thức cao hơn của các cấp học sau đó. Trong đó, cấp Tiểu học chiến 68,8%,
cấp Trung học cơ sở chiếm 25,7%, Trung học phổ thông là 5,8%. Giữa các tỉnh của khu vực, số lượng học sinh có sự chênh lệch lớn, đặc biệt ở vùng núi cao, trong đó điển hình là tỉnh Hà Giang số lượng học sinh đi học ở các cấp thấp nhất so với các
tỉnh khác. Điều này đặt ra đòi hỏi chủ trương của Đảng cần tập trung hơn vào khu vực còn nhiều khó khăn để có những bước chuyển biến tích cực hơn nữa. Mặc dù so
với giai đoạn trước thì có tăng nhưng không đáng kể.
Như vậy, nhìn chung số học sinh ở cả 3 cấp phổ thông đã phát triển theo xu
21
hướng tăng, năm sau tăng cao hơn năm trước, đặc biệt từ năm 1992 trở đi. Tuy
nhiên, số học sinh phổ thông chỉ phát triển ở cấp TH, THCS đến THPT số học sinh
bỏ học nhiều không theo học tiếp. Đây là biểu hiện không tốt trong giáo dục. Trình độ dân trí không tương ứng với tỷ lệ dân số ở từng độ tuổi và như vậy để nâng cao
trình độ dân trí phổ cập trung học cơ sở phải có một sự phấn đấu tích cực mới đạt
được.
Số học sinh trung học chuyên nghiệp, học nghề và học sinh đại học, cao
đẳng: Học sinh phổ thông sau khi tốt nghiệp trung học sẽ tiếp tục theo học ở các
dạng đào tạo nghề chuyên môn. Đây là sự phân luồng đào tạo nghề cho thanh niên
và lực lượng lao động xã hội phục vụ trong các lĩnh vực của xã hội sau này. Từ năm
1989 đến năm 1995, quy mô số lượng học sinh trung học chuyên nghiệp có tăng
nhưng không đều, còn chậm, trong đó năm 1991 là 20113 người, đến năm 1995 số học sinh mới tăng lên 21042 người, tuy nhiên giữa các tỉnh của khu vực số lượng
học sinh trung học chuyên nghiệp ở nhiều tỉnh giảm lớn nhưng cũng có một vài tỉnh số lượng học sinh tăng lên tuy nhiên không nhiều. Bắc Thái1 là một điển hình, số học sinh trung học chuyên nghiệp năm 1992 là 4250 người, đến năm 1995 đã giảm
đi còn 3300 người. Trước kia một vài tỉnh như Lào Cai, Hòa Bình số học sinh trung
học chuyên nghiệp thậm chí chưa có số liệu, tuy nhiên đến năm 1995 thì đã có vài
trăm người đi học. Còn ở cấp học đại học và cao đẳng, quy mô học sinh đại học,
cao đẳng tăng dần lên hàng năm, năm 1991 số học sinh đại học và cao đẳng của khu
vực là 6307 người, thì đến năm 1995 đã tăng lên 10842 người.
Qua phân tích trên cho thấy xu thế của xã hội về việc chọn nghề của thanh
niên sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông chỉ muốn vào học đại học, cao đẳng,
học không muốn học các trường trung học chuyên nghiệp. Nếu không vào học đại
học chính quy các trường công lập thì họ sẽ vào học các trường dân lập, hoặc học
hệ không chính quy, họ không muốn vào học các trường dạy nghề.
Nguyên nhân của thực trạng đó bắt nguồn từ nhận thức chưa đúng của xã hội, học cho rằng bậc đại học, cao đẳng mới có thể xin được việc làm tốt, nhiều cơ hội đến , mặt khác những chính sách về lao động, tiền lương…đã tác động lớn trong việc chọn ngành nghề của thanh niên. Đây cũng là một yếu tố tác động đến sự phân
1 Năm 1996, tỉnh Bắc Thái tách ra thành 2 tỉnh là: Bắc Kạn và Thái Nguyên
22
bố lực lượng lao động của xã hội, chính vì vậy cần phải có kế hoạch đào tạo nhằm mục đích đảm bảo tỷ lệ cân đối giữa các bậc học, giữa các cơ cấu thành phần lao động xã hội. Và để chuẩn bị cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải
có công tác tuyên truyền, hướng nghiệp để phân luồng học sinh chuẩn bị thi tốt
nghiệp.
Để đáp ứng yêu cầu dạy và học của học sinh thì số lượng giáo viên giảng dạy
trực tiếp của các cấp bậc cũng đã tăng qua từng năm so với giai đoạn trước 1989.
Bảng 4. Giáo viên trực tiếp giảng dạy phổ thông năm học 1991 -1992 và
năm học 1995 - 1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Đơn vị: người
Năm học Tổng Phổ thông cơ Phổ thông cơ Phổ thông cơ
sở cấp I sở cấp II sở cấp III
1991 – 1992 79217 50458 23119 5640
1995 – 1996 99099 62926 29610 6563
*Nguồn: Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1992,1995
Trong tổng số giáo viên trực tiếp giảng dạy cho các lớp thì, đội ngũ giáo viên
tập trung nhiều nhất ở phổ thông cơ sở cấp I và quy mô phát triển tương đối ổn
định, số lượng đó gấp 2 lần so với các cấp II và gấp 9 lần so với cấp III. Nguyên
nhân là do số lượng học sinh ở các cấp cũng chênh lệch nhau khá lớn vì vậy mà số
lượng giáo viên cũng có sự chênh lệch giữa các cấp cũng như giữa các tỉnh trong
vùng, ở vùng trung du số lượng giáo viên và học sinh bao giờ cũng cao hơn ở các
tỉnh miền núi, tính đến năm 1995 tỉnh Hà Bắc, Vĩnh Phú thì số giáo viên trực tiếp
giảng dạy của các cấp chiếm tỉ lệ gấp bốn lần so với các tỉnh ở miền núi như Lào
Cai, Lai Châu. Trong đó, ở cấp tiểu học đã chiếm quá nửa số lượng giáo viên
…Như vậy chứng tỏ học sinh ở cấp tiểu học phát triển đều hơn và thực tế, phần lớn
ở lứa tuổi này học sinh được đi học, nhưng sang cấp THCS thì tỷ lệ này giảm đi và
lên cấp THPT lại càng giảm nhiều. Do đó, số lượng giáo viên cũng phụ thuộc vào
số lượng học sinh, trước tình hình đó yêu cầu đặt ra là cần phải thay đổi chính sách phát triển giáo dục các cấp của vùng để có sự phân bố đều của quá trình dạy và học ở các tỉnh trong vùng.
Ở cấp Trung học chuyên nghiệp và Đại học, Cao đẳng số lượng giáo viên
của khu vực giảm, tuy nhiên, giữa các tỉnh trong vùng lại có bước chuyển biến như sau: ví dụ năm 1991 số lượng giáo viên của tỉnh Yên Bái ít chỉ có 68 giáo viện hệ đại học, cao đẳng thì đến năm 1995 đã tăng lên 97 người, đổi lại các tỉnh trước kia
23
số lượng giáo viên nhiều thì nay số lượng giảm xuống, ví dụ Bắc Thái năm 1991 là
1299 người thì đến năm 1995 đã giảm xuống còn 889 người. Điều đó, cho thấy sự
phân bố giáo viên của khu vực đã từng bước được phân bố dải đều khắp các tỉnh chứ không tập trung ở một tỉnh vào đó.
Như vậy, qua những phân tích trên ta có nhận xét chung từ năm 1992 trở đi
quy mô giáo viên tăng dần lên cùng với số lượng học sinh phổ thông tăng. Những
năm về sau tỷ lệ tăng của giáo viên tương đối ổn định, đáng chú ý hơn là từ năm
1992 trở đi quy mô giáo viên cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông, hàng năm
tăng lên đáng kể. Nguyên nhân có thể kể đến đó là do Đảng đã quan tâm đặc biệt tới
giáo dục, đưa ra các chính sách cụ thể cho ngành giáo dục như thực hiện chính sách
phổ cập tiểu học, chính sách phát triển giáo dục vùng miền núi, tăng ngân sách cho
các tỉnh các chế độ phụ cấp giảng dạy cho giáo viên. Đồng thời, kinh tế đất nước phát triển, giáo dục được quan tâm cho nên đội ngũ giáo viên hàng năm tăng dần và
tương đối ổn định.
1.2.2. Một số chuyển biến về chất lượng giáo dục ở các cấp học
Học sinh - chủ nhân tương lai của đất nước, người quyết định đến vận mệnh
của đất nước cho nên việc đầu tư cho giáo dục chính là nguồn đầu tư đem lại lợi
nhuận có thể nói là cao nhất cho đất nước, do vậy Đảng và Nhà nước ta luôn chú
trọng, quan tâm sát sao tới nền giáo dục của nước nhà. Trong những năm trở lại
đây, giáo dục của khu vực đã có những khởi sắc so với giai đoạn trước, tỷ lệ học
sinh đến trường ngày càng nhiều và chất lượng cũng khá hơn; tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp của các cấp học so với tổng số học sinh dự thi đạt kết quả đáng khen ngợi.
Bảng 5. Học sinh tốt nghiệp phổ thông năm học 1991-1992 và năm học
1995-1996 của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
Đơn vị: %
Năm Phổ thông tiểu học
Phổ thông trung học cơ sở Phổ thông trung học
1991 – 1992 94,5 94,8 95,6
1995 – 1996 95 96,4 94,2
Nguồn: Tổng cục Thống kê, “Niên giám thống kê năm 1992,1995”
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy rõ tỷ lệ học sinh tốt nghiệp phổ thông qua các năm của khu vực tăng dần, mặc dù phần trăm gia tăng không nhiều chỉ 1, 2 %
24
nhưng cũng đã phần nào cho thấy giáo dục của vùng đã được chú trọng và quan tâm
sát sao hơn, chất lượng được cải thiện. So với các vùng khác trong cả nước thì tỷ lệ
tốt nghiệp của vùng cũng đạt mức tương đối cao trong đó, Đồng bằng sông Hồng có tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông cao nhất, còn so với tỷ lệ chung của cả nước thì tỷ lệ phần
trăm tốt nghiệp của vùng cao hơn so với cả nước. Để đạt được những kết quả đáng
mừng đó trước tiên là nhờ vai trò của các thầy cô luôn tận tâm, tận huyết với nghề,
luôn truyền cảm hứng cho các em học tập, đặc biệt là sự nỗ lực vươn lên, chăm chỉ
và cố gắng từ chính các em học sin, các em đã gạt bỏ mọi khó khăn để phấn đấu đạt kết quả cao nhất.
1.3. Nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
(1989 – 1995)
1.3.1. Thành tựu
Từ năm 1986, thực hiện chủ trương của Đảng đề ra các địa phương trong cả nước đã đạt nhiều kết quả đáng mừng. Diện mạo cuộc sống của người dân ở khu
vực đã thay đổi hơn trước; đời sống của người dân từng bước được cải thiện và dần
đi vào ổn định, trình độ dân trí ngày được nâng… Hệ thống cơ sở như đường giao
thông, thủy lợi được xây dựng ở khắc các địa phương. Những thành tựu đạt được đó
đã phần nào đánh giá được đường lối đúng đắn của Đảng, nó như một nguồn ánh
sáng mới dẫn đường, chỉ lối cho nhân dân thực hiện. Cùng với những bước tiến mới
của nền kinh tế thì sự nghiệp giáo dục từ chỗ còn yếu kém đã bị tác động mạnh
khiến giáo dục được nâng lên tầm cao hơn, chất lượng và hiệu quả hơn.
Trong phương hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm (1991 - 1995), Đảng đã
nêu rõ: “Công tác giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ phải được coi là khâu
quan trọng” đây chính là tiền đề để đưa giáo dục của các tỉnh thoát khỏi tình trạng
lạc hậu, kém phát triển. Quán triệt đường lối đó, lãnh đạo các tỉnh, phòng giáo dục
của tỉnh đã xây dựng kế hoạch cũng như chương trình giáo dục cho tỉnh nhà theo
chỉ thị của Bộ Giáo dục. Tuy điều kiện, hoàn cảnh của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc còn nhiều khó khăn, nhưng chính sự quyết tâm, nỗ lực của các cấp, các ngành cho tới nhân dân địa phương, sau quá trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới giáo dục ở các tỉnh của khu vực đã hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của Bộ
Giáo dục địa phương đề ra và đạt được thành tích đáng khen ngợi. Tỉnh Tuyên Quang là một điển hình, ngành giáo dục của tỉnh đã tích cực huy động trẻ đến lớp ở các độ tuổi, đặc biệt là trẻ 5 tuổi ở các xã, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa gắn
nhóm trẻ lớp mẫu giáo với các trường cấp I, trường cấp II. Đến thời điểm tháng
25
12/1992, toàn tỉnh có 479 nhóm trẻ với 5.040 cháu và 362 lớp mẫu giáo với 8.573
cháu. Đến năm 1995, toàn tỉnh có 505 nhóm trẻ, 27 trường Mầm non [6, tr.721]. Ở
tỉnh Lào Cai “với sự phối hợp, vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở, ngành Giáo dục và đào tạo tỉnh đã bắt tay ngay vào thực hiện nhiệm vụ phát triển
trường, lớp ở các bậc học, tăng nhanh tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi ra lớp và duy
trì tỷ lệ chuyên cần. Do đó, đến năm học 1993 - 1994, toàn tỉnh có thêm 10 xã khôi
phục được trường, lớp và đến năm 1995 thì không còn xã trắng về giáo dục” [6,
tr.692].
Về quy mô trường lớp, số học sinh đi học: trường lớp được xây dựng ngày
càng nhiều, khang trang và phân bố giải khắp đáp ứng nhu cầu đi học của học sinh,
từ năm 1989 số lượng học sinh của khu vực là 1.811.675 người, đến năm 1995 tăng
lên 2.548.732 người, như vậy từ năm 1989 – 1995 số lượng học sinh của khu vực tăng 737.057 người, tương đương với 1,4 lần. Sau ngày 01/10/1991 tỉnh Yên Bái
được tái lập tách ra từ tỉnh Hoàng Liên Sơn, với quy mô 342 trường, 4563 lớp,
124647 học sinh, học viên; phát triển thêm 35 trường, 1308 lớp, 2112 học sinh, học
viên; tăng 29% so với năm 1975 – 1976 (trước khi hợp nhất 3 tỉnh) [6, tr.769].
Có thể thấy rằng quy mô giáo dục phổ thông ở các tỉnh đã tăng lên nhanh, đó
là điều phấn khởi, biểu hiện rõ quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục, kinh tế -
xã hội của khu vực Trung du và Miền núi. Mặt khác chứng tỏ chính sách di dân,
điều hòa dân cư giữa các vùng trong nước đã có kết quả khích lệ.
Về cơ sở vật chất - kĩ thuật: được đầu tư, Sở Giáo dục và Đào tạo các tỉnh đã
dành vốn cũng như huy động sự đóng góp của nhân dân để vừa xây dựng, vừa tu
sửa trường lớp, trang bị những thiết bị của quá trình giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu
của thầy và trò với mục tiêu cuối cùng là nâng cao trình độ dân trí…
Về chất lượng giáo dục và đào tạo: Từ năm 1992 trở đi, kinh tế - xã hội của
khu vực phát triển mạnh nhờ vậy mà quá trình đầu tư vào giáo dục cũng phát triền
tốt hơn: các lớp học, cấp học, số lượng học sinh tăng nhiều hơn nhờ các chính sách huy động học sinh đến lớp cùng với đó là quy mô và chất lượng giáo viên cũng tăng lên rõ rệt nhờ có quá trình tập huấn nhằm bồi dưỡng kiến thức cũng như kĩ năng nghiệp vụ cho giáo viên, chính sách trợ cấp giáo viên, chính sách khen thưởng kịp
thời cho học sinh… Mục đích là nhằm đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục vụ cho công cuộc đi lên xây dựng đất nước. Điển hình ở tỉnh Tuyên Quang “đến năm 1990, tỉnh đã có 145/145 xã, phường, cả 6/6 huyện, thị trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia về
phổ cập giáo dục tiểu học; tiếp đó, tháng 8/1995, Tuyên Quang đã là tỉnh thứ 9 và là
26
tỉnh miền núi đầu tiên đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học” [6, tr.723].
Để có được những thành tựu kể trên là kết quả của nhiều yếu tố phối kết hợp
lại với nhau như: truyền thống hiếu học của dân tộc ta từ xưa đến nay, toàn dân đã ý thức rõ vai trò của giáo dục đối sự phát triển toàn diện con người. Đồng thời, trong
giai đoạn này tình hình chính trị đã ổn định, nền kinh tế - xã hội của khu vực có
những chuyển biến tích cực, Đảng quan tâm đặc biệt tới đến giáo dục; sự tâm huyết
với nghề của các nhà giáo không ngại khó, ngại khổ trong giai đoạn vừa qua…Tất
cả những lí do cơ bản nêu trên đã tạo đà cho bước tiến mới của ngành giáo dục của địa bàn cũng như cả nước.
1.3.2. Hạn chế
Nhìn chung, trong những năm đầu của thập kỷ 90, sự nghiệp giáo dục của
khu vực đã dần hồi phục trở lại, song vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục.
Ở các cấp, ngành học: ngành mầm non, cơ sở vật chất còn thiếu nhiều, không đáp ứng được hết yêu cầu của học sinh, đồ chơi cho các em nhỏ không có nhiều,
lương giáo viên mẫu giáo thấp thậm chí không đủ sống do vậy nhiều giáo viên phải
bỏ nghề; tỷ lệ trẻ em đúng tuổi tham gia học tập ít. Ngành học chưa có các biện
pháp để có thể thu hút, lôi cuốn học sinh đến trường, tỉ lệ này chiếm đa số ở các
vùng nông thôn do điều kiện không thuận lợi, đặc biệt là ở vùng núi cao, vùng xa
xôi hẻo lánh. Đối với ngành phổ thông, số học sinh bỏ học ngày càng nhiều và
chiếm tỷ lệ tương đối cao, như ở tỉnh Lạng Sơn trung bình số học sinh bỏ học của
các cấp học như sau: Cấp tiểu học: 10%, Cấp trung học cơ sở: 15%, Cấp trung học
phổ thông: 12%. Đặc biệt vùng miền núi cao, có nơi học sinh bỏ học tới 20%.
Bất bình đẳng trong giáo dục theo giới tính và cả theo nông thôn/thành thị tại
khu vực đều có nhiều bất cập, khu vực là nơi bất bình đẳng giáo dục có sự chênh
lệch lớn nhất trong cả nước, trong đó tỉ lệ mù chữ của nữ giới chiếm tỉ lệ cao nhất
cả nước.
Mặt khác, chất lượng toàn diện của học sinh còn tương đối thấp, số lượng và chất lượng giáo viên ở các tỉnh vùng cao, vùng xa còn thiếu và ở trình độ thấp, chưa đạt yêu cầu. Ở tỉnh Lai Châu: “tỉ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 96%, trung học cơ sở đạt 88%, trung học phổ thông đạt 71%, bổ túc văn hóa đạt 61%. Giáo viên
tiểu học thiếu trầm trọng, giáo viên dưới chuẩn nhiều: tiểu học 70%, mầm non 69%. Công tác xóa mù chữ, phổ cập tiểu học đạt tỷ lệ thấp 50%” [6, tr.188].
Cơ sở vật chất - kĩ thuật của trường còn tạm bợ, không đảm bảo, thiếu thốn
27
nhiều, nhiều cơ sở không được tái thiết lại, thiếu phòng, lớp học, học sinh phải học
gộp và tăng ca, sách giáo khoa, tài liệu phục vụ học sinh học còn thiếu; thiếu trang
thiết bị kĩ thuật, đội ngũ giáo viên không đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
1.3.3. Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền
núi phía Bắc (1989 - 1995)
Giáo dục và kinh tế là hai lĩnh vực riêng biệt nhưng giữa chúng có mối quan
hệ qua lại mật thiết với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Kinh tế tiến bộ thì giáo
dục mới tiến bộ được, nền kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không phát
triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau” [16, tr 337-338]. Giáo dục tạo nên
nguồn lực người, yếu tố tác động nhất đến quá trình kinh tế, một nền kinh tế chỉ trở
nên vững mạnh và tăng tiến liên tục nếu nó chứa một hệ thống giáo dục có đường lối chính sách, cơ chế tiến bộ, phát triển cân đối về số lượng và chất lượng. Trái lại,
giáo dục muốn phát triển theo xu hướng tiến bộ thì lại cần có chỗ dựa và được sự hỗ
trợ của một nền kinh tế vững mạnh với nền sản xuất hiện đại và tiên tiến. Tựu
chung lại, quan hệ tương hỗ giữa kinh tế, giáo dục đã tác động mạnh mẽ lẫn nhau,
tác động đến tình hình đất nước trong tiến trình lịch sử, trong đó, khu vực Trung du
và Miền núi phía Bắc giai đoạn 1989 – 1995 có sự chuyển biến rõ rệt so với thời kì
trước đổi mới.
Nhìn chung, tình hình kinh tế của khu vực tăng trưởng hơn giai đoạn trước,
làm cho cuộc sống của người dân dần đi vào ổn định hơn. Chính vì vậy, nhờ có sự
tăng trưởng về mặt kinh tế mà các nguồn lợi đầu tư vào sự nghiệp giáo dục ngày
càng nhiều khiến cho nền giáo dục của vùng ngày càng đi lên, có sự tăng trưởng cả
lượng và chất, đáp ứng nhu cầu của người dân với mong muốn nâng cao trình độ
nhận thức cho người dân, đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề, những lao động có kĩ
năng vào làm việc trong các lĩnh vực, từ đó thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của vùng
ngày một ổn định và phát triển. Kinh tế, giáo dục phát triển giúp xóa đòi giảm nghèo của khu vực, trình độ dân trí cao khiến cơ hội việc làm ngày càng được mở rộng hơn, mức thu nhập của người lao động cũng ngày một tăng, khắc phục được những yếu kém trước đây mà khu vực gặp phải.
Tuy nhiên, xét ở khía cạnh nào cũng vậy, đều có hai mặt, do vậy ở khu vực trong giai đoạn này bên cạnh những tích cực đạt được thì còn tồn tại nhiều hạn chế, kinh tế - xã hội và giáo dục của khu vực phát triển không đồng đều. Nếu so với giai
đoạn trước thì tốc độ tăng kinh tế có tăng nhưng chưa nhiều, còn thấp, giáo dục
28
tăng, giảm không đều, còn yếu kém về mọi mặt. Các điểm, khu công nghiệp được
đặt hay việc đầu tư cho giáo dục chỉ ở những vùng trọng điểm của khu vực, còn ở
những vùng sâu, vùng xa, miền núi cao điều kiện còn khó khăn lại chưa được quan tâm, đây là một trong những bất cập của nền giáo dục, kinh tế - xã hội miền núi so
với đồng bằng, giữa nông thô/thành thị. Đây chính là một trong những hạn chế cần
khắc phục ở giai đoạn sau, để Đảng có cái nhìn đúng đắn, đưa ra đường lối chỉ đạo
chiến lược trong giai đoạn tiếp theo nhằm phát huy mặt mạnh, khắc phục những
thiếu sót còn tồn tại, đáp ứng sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tiểu kết chƣơng 1:
Chương 1 đã tập trung vào một số vấn đề về chủ trương, đường lối của Đảng
và Nhà nước về sự nghiệp giáo dục và thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và
Miền núi phía Bắc.
Qua quá trình nghiên cứu, tổng hợp, phân tích và tìm hiểu tác giả đã góp phần làm rõ hơn thực trạng giáo dục của khu vực trong quá trình thực hiện chủ
trương, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng. Bởi chỉ có phát triển sự nghiệp giáo
dục mới có thể thúc đẩy nền kinh tế, xóa đói giảm nghèo tại các địa phương của
vùng.
Mặc dù trước năm 1989 và sau đó đến năm 1995 việc triển khai và thực hiện
Nghị quyết về cải cách, đổi mới giáo dục đã đạt được kết quả khả quan, tình trạng
mù chữ đã có xu hướng giảm, chất lượng giáo dục dần được tăng lên do vậy cuộc
sống của người dân cũng dần được thay đổi diện mạo. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh
không đi học còn cao, có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương, một số địa phương
đã xóa được nạn mù chữ cho người dân, đạt được phổ cập giáo dục tiểu học nhưng
trong số đó ở những vùng miền núi cao, vùng sâu, vùng xa thì giáo dục vẫn chưa
được quan tâm, nạn thất học vẫn còn nhiều.
Vì vậy mà từ giai đoạn 1996- 2009, các tỉnh Miền núi và Trung du phía Bắc
đã “đẩy mạnh triển khai và vận dụng sáng tạo và có hiệu quả các chủ trương cũng như các chính sách đổi mới giáo dục của Đảng vào địa phương. Chất lượng giáo dục ngày càng cao, đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt, bên cạnh đó vẫn mắc phải một số hạn chế nhất định, cần phải nhanh chóng khắc phục để thực hiện
29
mục tiêu mà Đại hội Đảng đề ra, tiến tới xây dựng mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.
Chương 2
GIÁO DỤC Ở KHU VỰC TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC (1996 -
2009)
2.1. Những nhân tố tác động đến giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc (1996- 2009)
Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc trong giai đoạn này bao gồm 14
tỉnh với 2 tiểu vùng, tiểu vùng Đông Bắc bao gồm: “Hà Giang, Cao Bằng, Lào Cai,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh; tiểu vùng Tây Bắc bao gồm: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Tính đến
năm 2000, tổng dân số trung bình của nước ta là 77685,5 nghìn người, trong đó khu
vực là 11240,1 nghìn người” [24].
2.1.1. Tình hình kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc
trong những năm 1996 – 2009
Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII (tháng 6/1991), Đại hội VIII
(tháng 6/1996) của Đảng đã khẳng định những nhiệm vụ, mục tiêu do Đại hội VII
đề ra đã hoàn thành ở mức cơ bản và bắt đầu chuyển sang giai đoạn mới giai đoạn:
“đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Nhiệm vụ đề ra tại Đại hội
Đảng của các khóa VIII (1996), IX (2001), X (2006) tiếp tục đưa ra các quan điểm cũng như xác định mục tiêu cơ bản của thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa cho
tới những năm 2010 của cả nước, trong đó có khu vực Trung du và Miền núi phía
Bắc.
Về quan điểm: “Phát triển hiệu quả kinh tế nhanh và bền vững, chủ động
phát huy nội lực, đồng thời kết hợp thu hút các nguồn lực bên ngoài, các nguồn tài
trợ quốc tế, gia tăng hơn nữa sự trợ giúp từ Trung ương cho đầu tư phát triển, nhất
là kết cấu hạ tầng và đào tạo nguồn nhân lực. Tập trung đầu tư vào những ngành, lĩnh vực, sản phẩm có lợi thế so sánh, cạnh tranh, tạo ra mũi đột phá để lôi kéo từng tiểu vùng và cả vùng cùng phát triển.
+ Phải giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế gắn đi đôi với xây
dựng và củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên từng địa bàn khu vực, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
+ Phát triển kinh tế đi liền với rút ngắn khoảng cách chênh lệch mức sống so
với các vùng khác, bảo đảm công bằng xã hội, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
30
các dân tộc, nâng cao dân trí, thực hiện tốt chính sách dân tộc, xóa đói giảm nghèo,
hoàn thành định canh, định cư, đẩy lùi các tệ nạn xã hội; đào tạo nguồn nhân lực,
nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
+ Thu hút một số bộ phận dân cư ra biên giới định canh, định cư lâu dài, xây
dựng tuyến biên giới hòa bình, hữu nghị, cùng phát triển với các nước bạn láng
giềng.
+ Bảo vệ môi trường sinh thái, đặc biệt là phát triển và bảo vệ rừng đầu
nguồn của lưu vực sông Ðà, sông Hồng, sông Lô, sông Cầu,... để bảo vệ nguồn
nước cho các công trình thủy điện lớn của quốc gia, đồng thời góp phần quan trọng
phòng tránh lũ và cân bằng nguồn nước cho đồng bằng sông Hồng”[11, tr 256].
Về mục tiêu: “Phát triển kinh tế - xã hội vùng Trung du và Miền núi Bắc Bộ
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện xóa đói giảm
nghèo, rút ngắn khoảng cách về mức sống và tiến bộ xã hội so với các vùng khác trong cả nước; khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng về đất đai, rừng, khí hậu,
tiềm năng thủy điện, tài nguyên khoáng sản, lợi thế về cửa khẩu, du lịch để phát
triển các ngành kinh tế; xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội đáp ứng yêu cầu phát
triển; thực hiện tốt chính sách dân tộc, hoàn thành định canh, định cư, đưa dân trở
lại biên giới, khắc phục tình trạng di dân tự do; bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số; gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia”[11,
tr237].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ
ngày 19/4/2001 đến ngày 22/4/ 2001 đã đưa ra định hướng phát triển theo vùng
trong cả nước, trong đó có định hướng khu vực nông thôn trung du, miền núi như
sau: “Phát triển mạnh cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc và công nghiệp chế biến.
Bảo vệ và phát triển vốn rừng. Hoàn thành và ổn định vững chắc định canh, định
cư. Bố trí lại dân cư, lao động và đất đai theo quy hoạch đi đôi với xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội để khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Phát triển kinh tế trang trại. Giảm bớt khoảng cách phát triển với nông thôn đồng bằng. Có chính sách đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội ở các vùng sâu, vùng xa, biên
giới, cửa khẩu” [11, tr225].
Trong 10 năm tới, khu vực Trung du và Miền núi Phía Bắc cần đẩy mạnh
vào các chiến lược quan trọng như: “Phát triển mạnh cây công nghiệp, cây ăn quả,
31
cây dược liệu, cây đặc sản, chăn nuôi đại gia súc gắn với chế biến. Tạo các vùng
rừng phòng hộ đầu nguồn sông Đà, rừng nguyên liệu công nghiệp, gỗ trụ mỏ. Xúc
tiến nghiên cứu và xây dựng thủy điện Sơn La. Phát triển công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nông sản, lâm sản, chú trọng chế biến xuất khẩu. Hình thành
một số cơ sở công nghiệp lớn theo tuyến đường 18 gắn với vùng kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ. Phát triển nhanh các loại dịch vụ, chú trọng thương mại. Nâng cấp các
tuyến đường trục từ Hà Nội đi các tỉnh biên giới, hoàn thành các tuyến đường vành
đai biên giới và các đường nhánh. Phát triển thủy lợi nhỏ gắn với thủy điện nhỏ, giải quyết việc cấp nước sinh hoạt và điện cho đồng bào vùng cao. Phát triển các đô thị
trung tâm, các đô thị gắn với khu công nghiệp. Nâng cấp các cửa khẩu biên giới và
phát triển kinh tế cửa khẩu. Thực hiện tốt chính sách dân tộc, định canh, định cư
vững chắc, ổn định và cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc” [11, tr258].
Tiếp tục Chiến lược 10 năm 2001 - 2010 và các nghị quyết của Bộ Chính trị
khoá IX về phát triển các vùng. Trong đó khu vực Trung du và Miền núi Bắc Bộ
“cần tập trung mọi nỗ lực phát triển kinh tế nhanh và bền vững, gắn chặt với việc
bảo đảm an ninh, quốc phòng. Phát triển mạnh thuỷ điện, công nghiệp khai khoáng,
sản xuất vật liệu xây dựng và khai thác có hiệu quả quỹ đất trồng cây công nghiệp,
cây ăn quả xuất khẩu và trồng rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến có
công nghệ hiện đại. Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa dân tộc. Chú trọng mở
rộng quan hệ thương mại với các nước láng giềng. Phát triển hài hoà giữa các tiểu
vùng, giữa các tầng lớp dân cư và giữa đồng bào các dân tộc” [2].
Thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng nói chung và theo kế hoạch
cho từng khu vực nói riêng, thì kết quả cũng như một số mặt chưa đạt được của khu
vực Trung du và Miền núi phía Bắc như sau:
Kinh tế tăng trưởng cao và liên tục. Về nông nghiệp, nhờ việc áp dụng những
thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất mà nền kinh tế của vùng đã từng bước
thay đổi diện mạo, đời sống được cải thiện hơn trước rất nhiều, vấn đề lương thực, thực phẩm được giải quyết, tình trạng nghèo đói dần được xóa bỏ trên địa bàn của khu vực đến tận vùng xâu vùng xa. Để có được bước tiến như vậy là do nhận thức của người dân đã thay đổi trong phương thức phát triển nền nông nghiệp với việc
loại bỏ phương thức cách tác cũ, lạc hậu mà thay vào đó là phương thức canh tác mới như thâm canh tăng vụ, chăn nuôi lớn, trồng các loại cây như: cây công nghiệp, cây ăn quả… Đặc biệt, các vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn trong vùng đã
32
được hình thành.
Về công nghiệp và dịch vụ: Do sự phát triển của ngành nông nghiệp đã thúc
đẩy quá trình ra đời các cơ sở chế biến và sản xuất công nghiệp, bước đầu có sự gắn kết giữa các ngành lại với nhau. Sản phẩm nông, lâm, công nghiệp làm ra ngày càng
nhiều đã tác động đến quá trình giao lưu, mở rộng thị trường do vậy ngành dịch vụ
cũng có bước phát triển vượt trội so với giai đoạn trước. Quá trình mở cửa giao lưu
giữa các nước được thông thương, giúp tăng trưởng kinh tế.
Cơ sở vật chất - hạ tầng: Hệ thống đường giao thông, công trình thủy điện,
hệ thống thủy lợi cung cấp nước trong nông nghiệp, đường ống dẫn nước sạch cho
sinh hoạt, mạng thông tin liên lạc, các trạm y tế... ngày càng được đầu tư hiện đại
hơn và từng bước mở rộng mạng lưới khắp địa bàn của vùng. Điều đó đã góp phần
làm khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc khoác trên mình một diện mai phát triển mạnh và mới.
Tổng quan thì ở giai đoạn này, nền kinh tế của khu vực đã có những bước
tiến hơn so với giai đoạn trước, ở một khía cạnh sâu hơn thì đây vẫn là vùng kinh tế
phát triển chậm và mức thu nhập còn thấp. “Năm 2002 GDP toàn vùng chỉ chiếm
6,5% so cả nước, trong khi dân số chiếm 13,3%; GDP bình quân đầu người chỉ
bằng 50% bình quân cả nước (riêng Tây Bắc chỉ bằng 37,5%); tỷ lệ hộ nghèo cao,
chiếm 15,2% trong khi cả nước là 12%, điển hình như Lai Châu còn 37%, Bắc Kạn
26,05%...” [38].
Về nông nghiệp: sản xuất diễn ra trên quy mô nhỏ lẻ, năng suất chưa cao,
chất lượng còn kém, do vậy mà các sản phẩm chưa có sức cạnh tranh so với các sản
phẩm khác. Tỉ lệ đói nghèo trong vùng còn cao, nhất là ở vùng núi cao Tây Bắc.
Về công nghiệp và dịch vụ: Các cơ sở sản xuất, chế biến công nghiệp phân
bố không đều, có nơi thì tập trung số lượng lớn, có nơi thì lại không có cơ sở nào, ở
các địa phương thuộc vùng trung du thì có cơ sở, còn ở miền núi thì hầu như không
có. Do vậy cần có sự bố trí các cơ sở công nghiệp một cách hợp lí, tránh sự phát triển không tương xứng giữa các tỉnh thành của vùng. Các cơ sở chế biến, sản xuất công nghiệp của vùng còn ở quy mô khá nhỏ bé, do vậy không đủ sức để có thể tác động vào sự chuyển biến của nền kinh tế. Về dịch vụ, quá trình giao lưu chưa
được mở rộng sâu mà mới chỉ phát triển ở các điểm đông dân cư, điều kiện tự nhiên thuận lợi, các khu đô thị, thị trấn, nơi giáp gianh các cửa khẩu quốc tế…
Về cơ sở vật chất – hạ tầng: Hệ thống giao thông ở miền núi, nông thôn
33
chưa thông suốt, bị chia cắt nhiều, không đảm bảo khiến cho quá trình giao lưu kinh
tế trong vùng với các địa phương khác gặp nhiều khó khăn, thậm chí vào mùa mưa
nhiều đường ở nông thôn còn không thể đi lại được. Hệ thống thủy lợi dẫn nước cho nông nghiệp cũng như các nguồn nước sạch cung ứng cho sinh hoạt của người dân
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cho nhân dân, thậm chí nhiều nơi ở vùng cao của
các tỉnh như: Cao Bằng; các huyện Ðồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang hàng năm
vẫn xảy ra tình trạng không có nước cho người dân sinh hoạt hàng ngày…Các trang
thiết bị, dụng cụ, thuốc thang ở các trạm y tế trên địa bàn còn thiếu thốn và hạn chế
Tệ nạn xã hội: Ở các vùng gần biên giới diễn ra tình trạng buôn bán ma túy
lớn và nghiêm trọng, tình trang di dân tự do diễn ra phổ biến…
Nguyên nhân của tình trạng trên bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên của khu
vực, nơi có địa hình bị chia cắt, đồi núi hiểm trở, thiên tai thường xuyên xảy ra như: sạt sở, lụt lội, hạn hán, đất đai canh tác ít lại không màu mỡ; cơ sở hạ tầng – vật
chất còn hạn chế, trình độ dân trí và học vấn của người dân còn lạc hậu, thấp;
phương thức canh tác sản xuất còn lạc hậu, các chính sách phát triển kinh tế - xã hội
còn nhiều hạn chế như phân bố không đều, đặc biệt vùng nhận được vốn đầu tư ít
hơn bởi điều kiện phát triển của vùng chưa thực sự thuận lợi; chưa có các cơ chế,
chính sách thu hút nguồn vốn đầu tư cũng như thu hút được nguồn nhân lực có chất
lượng và tay nghề cao từ các vùng miền khác của cả nước cũng như từ bên ngoài
nhập cư vào, cán bộ cốt cán còn thiếu về lượng và chất lượng chưa đảm bảo…
2.1.2. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về giáo dục trước yêu cầu đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cùng với việc tiến hành đổi mới về kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn
này, đưa nước ta đi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế
thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước, do vậy yêu cầu đặt ra cho nền giáo dục
lúc này là cũng cần có những bước đổi mới để phát triển toàn diện hơn trên tất cả
các mặt, đáp ứng những yêu cầu mà Đảng đã vạch ra cho công cuộc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cùng với những bước chuyển mình trong kinh tế - xã hội của khu vực sau 10 năm đổi mới, thì sau 10 năm (1986 – 1996) đó nền giáo dục cũng có những chuyển biến tích cực, đạt nhiều thành tựu to lớn, nhưng bên cạnh đó vẫn còn
tồn tại những hạn chế, bất cập.
Năm 1996, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII diễn ra, Đảng đã quyết
định: “đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu dân giàu, nước
34
mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để hoàn thành mục tiêu trên thì: “phát huy
nguồn lực con người được coi là nhân tố quyết định, trong đó giáo dục - đào tạo
được xem là quan trọng nhất. Với ý nghĩa đó, để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương đã phân tích thực trạng giáo dục và
đào tạo nước ta qua các giai đoạn, trên cơ sở đó đề ra Nghị quyết về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và nhiệm vụ đến năm 2000” [15].
So với những chủ trương chỉ đạo phát triển giáo dục ở chặng đường đầu của
thời kỳ quá độ thì vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước do Hội nghị
lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1996), Đảng đã thay đổi
nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của giáo dục trong thời kì này là nhằm: “xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc: công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân
tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá
nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, có kĩ
năng thực hành giỏi; có tác phong công nghiệp, có tính tổ chức và kỉ luật; có sức
khỏe” .
Để hoàn thành những nhiệm vụ, mục tiêu đề ra, cần: “Thực sự coi giáo dục –
đào tạo là quốc sách hàng đầu.
+ Giáo dục – đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn
dân. Mọi người đi học thường xuyên, học suốt đời.
+ Phát triển giáo dục – đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
những tiến bộ khoa học – công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả
ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả. Thực hiện giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học lí luận gắn với thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
+ Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học
tập. Đảm bảo điều kiện cho những học sinh giỏi phát triển tài năng.
+ Giữ vai trò nòng cốt của nhà trường công lập đi đôi với đa dạng hóa các
loại hình giáo dục – đào tạo. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có
35
điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mần non, phổ
thông trung học, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học. Mở rộng các hình
thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện đại hóa hình thức giáo dục” [13, tr195 - 196].
Nghị quyết Trung ương 2 đã đề ra mục tiêu phát triển giáo dục - đào tạo đến
năm 2000 đó là “thực hiện giáo dục toàn diện cả về đức, trí, thể, mĩ ở tất cả các bậc
học. Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, khả năng tư duy sáng tạo và
năng lực thực hành”. Cụ thể là: “Phát triển bậc học mần non phù hợp với điều kiện
và yêu cầu của từng nơi. Bảo đảm hầu hết trẻ em 5 tuổi được học chương trình mẫu
giáo lớn, chuẩn bị vào lớp 1; Phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước, phần lớn học
sinh tiểu học được học đủ 9 môn theo chương trình quy định. Phổ cập trung học cơ
sở ở các thành phố, đô thị, các vùng kinh tế trọng điểm và những nơi có điều kiện; Thanh toán nạn mù chữ cho những người trong độ tuổi 15 – 35, thu hẹp diện mù
chữ ở các độ tuổi khác, đặc biệt chú ý vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn
để tất cả các tỉnh đều đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập tiểu học trước
khi bước sang thế kỉ XXI; Tăng quy mô học nghề bằng mọi hình thức để đạt 22 –
25% đội ngũ lao động được qua đào tạo vào năm 2000. Kế hoạch đào tạo nghề phải
theo sát chương trình kinh tế - xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi cơ
cấu lao động, cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Tăng
cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng một số trường
trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu công nghiệp, khu chế
xuất, có tính đến nhu cầu xuất khẩu lao động; Nâng quy mô giáo dục đại học, cao
đẳng lên 1,5 lần so với năm 1995 với cơ cấu đào tạo hợp lí, theo sát nhu cầu của sự
phát triển. Tiếp tục sắp xếp lại các trường đại học. Xây dựng một số trường trọng
điểm. Xây dựng một số trường cao đẳng cộng đồng ở các địa phương để đào tạo
nhân lực tại chỗ; Mở rộng các hình thức học tập thường xuyên, đặc biệt là hình thức
học từ xa. Tăng cường đào tạo và bồi dưỡng các bộ lãnh đạo, cán bộ quản lí các cấp
các ngành; Đối với miền núi, vùng sâu, vùng khó khăn, xóa điểm trắng về giáo dục ở ấp, bản. Mở thêm các trường dân tộc nội trú ở cụm xã, các huyện, tạo nguồn cho các trường chuyên nghiệp và đại học để đào tạo cán bộ cho các dân tộc, trước hết là
giáo viên, cán bộ ý tế, cán bộ lãnh đạo và quản lí” [13, tr196 – 197].
2.2. Thực trạng giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc (1996 – 2009)
36
2.2.1. Tình hình biết đọc biết viết
Tỷ lệ biết đọc, biết viết của khu vực là 87,3% thấp nhất so với cả nước; giữa
nam và nữ, giữa nông thôn và thành thị thì tỷ lệ này có khoảng cách chênh lệch lớn nhất. Trong khi đó, Đồng bằng sông Hồng chính là vùng có tỷ lệ cao nhất tới
(97,1%). Còn về tỷ lệ biết chữ giữa thành thị và nông thôn của khu vực thì lại chiếm
tỷ lệ cao nhất cả nước: 11,6%.
Bảng 6: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết theo giới tính,
thành thị/nông thôn và các vùng kinh tế - xã hội, 2009
Đơn vị tính: Phần trăm %
Chênh lệch Nơi cư trú/các vùng kinh tế - Tổng Thành thị Nông thôn thành thị - nông xã hội thôn
Toàn quốc 93,5 97,0 92,0 5,0
Nam 95,8 98,0 94,8 3,2
Nữ 91,4 96,0 89,3 6,7
Các vùng kinh tế - xã hội:
Trung du và Miền núi phía 87,3 97,0 85,3 11,6
Bắc
Đồng bằng sông Hồng 97,1 98,7 96,5 2,2
Bắc Trung Bộ và Duyên hải 93,9 96,4 93,1 3,2
miền Trung
Tây Nguyên 88,7 96,2 85,5 10,7
Đông Nam Bộ 96,4 97,6 94,7 2,9
Đồng bằng sông Cửu Long 91,6 94,0 90,9 3,1
*Nguồn: [25, tr27]
Nguyên nhân của thực trạng trên xảy ra ở tại khu vực là do điều kiện giữa thành thị và nông thôn phát triển không đồng đều. Tuy nhiên, trong những năm trở
37
lại đây sự chênh lệch về tỷ lệ biết chữ giữa thành thị và nông thôn của khu vực cũng
đã giảm đáng kể: 11,7 phần trăm (97,0% ở thành thị và 85,3% ở nông thôn), kết quả
đó là nhờ có chính sách phổ cập giáo dục tiểu học và xóa nạn mù chữ.
Tỷ lệ biết đọc, biết viết ở hai giới của khu vực gần bằng nhau Nam: 92,0%,
Nữ: 82,8% [25] điều đó chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng về giới trong lĩnh vực giáo
dục của khu vực đã dần được xóa bỏ. Tuy nhiên, ở nông thôn thì phụ nữ của khu
vực có tỷ lệ biết đọc biết viết vẫn ở mức thấp nhất so với nam và nữ ở các vùng
khác trong cả nước, tại các tỉnh như “Lai Châu (29,2%), Điện Biên (25,9%), và Sơn
La (22,9%). (tỷ lệ biết đọc biết viết của nam cao hơn của nữ tới 20 điểm phần trăm
so với cả nước là 4,4%)” [25].
100
80
60
40
94.9 91.6 88.9 86.7 87.1 88.7
90
90.4 89.2
85.3
20
71.4
0
15- 19 20- 24 25- 29 30- 34 35- 39 40-44 45- 49 50-54 55- 59 60- 64 65+
94.9 91.6 88.9 86.7 87.1 88.7
90
90.4 89.2 85.3 71.4
Tỉ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên
Hình 1: Tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên theo nhóm tuổi của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009
*Nguồn: Số liệu Tổng cục thống kê, năm 2009 [25, tr75]
Nhìn vào bảng số liệu ta dễ nhận thấy, tỷ lệ biết đọc, biết viết đã được cải
thiện đáng kể trong thời gian vừa qua, điều đặc biệt là càng ở nhóm tuổi trẻ thì tỷ lệ biết chữ ở mức độ tốt hơn. Nếu, so sánh với các vùng khác trong cả nước thì khu
vực có tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết theo nhóm tuổi vẫn thấp nhất,
thì Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ cao nhất cả nước.
2.2.2. Tình hình đi học
Khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc là nơi sinh sống tập trung của các
38
dân tộc ít người, địa hình đi lại khó khăn và điều kiện kinh tế thấp hơn so với các
vùng khác. Do vậy, tỷ lệ chưa đi học cao nhất cả nước và cao hơn mức đi học chung
của cả nước (là 10,4 phần trăm), tỉ lệ đang đi học 24,8%, tỉ lệ đã thôi học là 64,8%. Đổi lại khu vực Đồng bằng sông Hồng là vùng có tỷ lệ chưa đi học thấp nhất
(2,2%).
Bảng 7: Tỷ trọng dân số từ 5 tuổi trở lên chia theo tình hình đi học,
thành thị/nông thôn và khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009
Đơn vị tính: Phần
trăm
Nơi cư trú/khu vực kinh tế - xã Đang đi Đã thôi học Chưa bao giờ đi
hội học học
Toàn quốc 24,7 70,2 5,1
Thành thị 25,7 71,6 2,6
Nông thôn 24,3 69,5 6,2
24,8 64,8 10,4 Trung du và Miền núi phía Bắc
*Nguồn: [25, tr63]
Số liệu trên cho thấy tỷ trọng dân số chưa bao giờ đi học ở khu vực nông
thôn cao gấp đôi so với khu vực thành thị (6,2% so với 2,6%).
Đặc biệt, tỷ trọng chưa đi học của nữ ở khu vực cao hơn nam tới hơn 2 lần
(tương ứng là 14,1 và 6,6 điểm phần trăm). Như vậy đã có sự bất bình đẳng giới
trong lĩnh vực giáo dục tại khu vực, người phụ nữ luôn bị thiệt thòi hơn nam giới về
hưởng thụ giáo dục. Trong khi đó, tại Đông Nam Bộ thì ngược lại, tỷ lệ chưa đi học
của nữ lại chiếm tỉ trọng cao hơn so với nam, tuy nhiên tỷ lệ này không đáng kể
(3,7% so với 2,4%). Đó là sự chênh lệch về giới, còn giữa nông thôn và thành thị thì
tỉ lệ chưa bao giờ đến trường ở nông thôn lớn gấp gần 5 lần so với thành thị (tương
39
ứng 11,9% so với 2,4%).
Đơn vị: %
100
92.8
88.9
88.2 89.7 90.3 89.2
85.3
86.5 85.2 86.2
90
84.5
80
71.3
70
60
48.2 46.7
50
40
28.7
30
20
14.8
11.1
13.3 12.9 11.3 10 9.6 10.8
8.4 7
10
7.3 3.9 5.1
2.5 1.5
1
6.5 0.7
0.5 0.3 0.1 0.02 0
0
0
5_9
65+
10_ 14
15_ 19
20_ 24
25_ 29
30_ 34
35_ 39
40_ 44
45_ 49
50_ 54
55_ 59
60_ 64
92.8 88.9 48.2
7
2.5 1.5
1
0.5 0.3 0.1 0.02
0
0
tỉ lệ đang đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên
0.7 7.3 46.7 84.5 86.5 85.2 86.2 88.2 89.7 90.3 89.2 85.3 71.3
tỉ lệ đã thôi học của dân số từ 5 tuổi trở lên
6.5 3.9 5.1 8.4 11.1 13.3 12.9 11.3 10
9.6 10.8 14.8 28.7
tỉ lệ chưa bao giờ đến trường của dân số từ 5 tuổi trở lên
Hình 2: Tình hình đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên theo nhóm tuổi của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009
*Nguồn: Số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2009 [25, tr75]
Biểu đồ đã cho ta thấy tỉ lệ đang đi học của dân số từ 5 tuổi trở lên có xu
hướng giảm dần theo nhóm tuổi, nhóm tuổi từ 5-14 tuổi tỉ lệ đi học khá cao, tuy
nhiên bắt đầu từ nhóm tuổi 20 trở về giảm mạnh thậm chí không còn ai đi học, độ
tuổi từ 20 - 24 chỉ chiếm 7% đi học. Tỉ lệ đã thôi học chiếm tỉ lệ nhỏ, nhóm tuổi 5 - 9 chỉ chiếm 0,7%, tuy nhiên từ nhóm tuổi 20 trở về sau, tỉ lệ thôi học lại tăng nhanh ví dụ từ nhóm 20 - 24 chiếm tới 84,5% thôi học. Tỉ lệ chưa bao giờ đến trường ở nhóm tuổi từ 5 – 14 tuổi có tỉ lệ thấp hơn so với các nhóm tuổi từ 20 tuổi trở đi có
xu hướng tăng.
40
Năm 1998, Luật Giáo dục Việt Nam được ban hành đã quy định “hệ thống giáo dục phổ thông của Việt Nam được phân chia thành 3 cấp và ngoài phân cấp giáo dục phổ thông 12 năm thì còn có trình độ giáo dục đại học và sau đại học”.
Bảng 9: Tỷ lệ nhập học đúng tuổi chia theo các cấp học của khu vực
Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009
Đơn vị: %
Khu vực kinh tế - xã hội Tỉ lệ nhập học đúng tuổi
Tiểu học THCS THPT Cao đẳng và ĐH
Trung du và Miền núi phía Bắc 92,0 77,2 48,6 5,7
*Nguồn: [25, tr40]
Số liệu cho thấy, tỉ lệ nhập học đúng tuổi của khu vực khá cao đạt tới 92,0%,
phản ánh xu thế phổ cập giáo dục tiểu học ở khu vực, tuy nhiên so với các vùng
khác trong cả nước thì tỉ lệ nhập học đúng tuổi vẫn thấp nhất. Về giáo dục cấp THCS, mức độ nhập học đúng tuổi đạt 77,2%. Trình độ càng cao thì khoảng cách chênh lệch về phổ cập giáo dục, tỷ lệ nhập học đúng tuổi giữa các cấp càng lớn, cụ
thể: ở cấp THCS, mức chênh lệch với cấp tiểu học là 14,8 điểm phần trăm; ở cấp
THPT, mức chênh lệch là 43,4 điểm phần trăm và ở trình độ cao đẳng và đại học,
mức chênh lệch là 86,3 điểm phần trăm. “Ở cấp Tiểu học, 4 tỉnh của khu vực có tỷ
lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (81,2%), Điện Biên (82,8%), Hà Giang
(84%), Sơn La (86%). Ở cấp THCS, 3 tỉnh của khu vực có tỷ lệ nhập học đúng tuổi
thấp nhất là Lai Châu (50,9%), Hà Giang (51,7%) và Điện Biên (60%). Ở cấp
THPT, 3 tỉnh có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp nhất là Lai Châu (20%), Hà Giang
(25,7%). Ở các cấp Cao đẳng và Đại học, 4 tỉnh có tỷ lệ nhập học đúng tuổi thấp
nhất là Lai Châu (1%), Lạng Sơn (1,2%), Cao Bằng (1,3%) và Hà Giang
(1,4%)”[12]. Điều này cho thấy, tỉ lệ nhập học đúng tuổi cấp THCS và cấp THPT là
vấn đề đáng quan tâm của khu vực.
2.2.3. Trình độ giáo dục đạt được
Trong Tổng điều tra dân số và nhà ở 2009, trình độ học vấn được phân bố
theo 5 nhóm.
Bảng 10: Trình độ học vấn cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 5 tuổi trở
lên của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc, 2009
Đơn vị tính: %
Trung du và Miền núi phía Bắc
41
Chưa đi học 10,3
Chưa tốt nghiệp tiểu học 22,7
Tốt nghiệp tiêu học 25,6
Tốt nghiệp trung học cơ sở 23,1
Tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên 18,3
*Nguồn: [25, tr48]
Mặc dù trình độ học vấn cao nhất đã đạt của dân số từ 5 tuổi trở lên của khu
vực trong giai đoạn này có tỉ lệ chưa đi học ở mức cao nhất cả nước (10,3%), trong
đó khu vực Đồng bằng sông Hồng tỉ lệ này ở mức thấp nhất chỉ chiếm 2,2%. Nhưng
một điểm đáng chú ý là trình độ học vấn của khu vực nếu so sánh với cả nước thì
trình độ đạt mức trung bình, không phải cao cũng không phải ở mức thấp nhất.
Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là nơi có nền kinh tế phát triển mạnh, tình
hình xã hội ổn định thì giáo dục cũng ở mức vượt trội hơn, số người tốt nghiệp
THPT trở lên chiếm tương ứng chiếm 30,1% và 27,2% dân số của vùng. Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên là hai vùng có tỷ trọng những người chưa tốt nghiệp
tiểu học cao nhất (các con số tương ứng là 32,8% và 25,7% dân số của vùng; đây
cũng là những vùng có tỷ trọng tốt nghiệp trung học phổ thông trở lên thấp nhất,
đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (10,7%).
Bảng 11: Chỉ số vùng về trình độ học vấn cao nhất đã đạt đƣợc của dân số từ 5
tuổi trở lên theo giới tính, thành thị/nông thôn của khu vực, 2009
Đơn vị: %
Trung du và Miền núi phía Bắc Nam Nữ Thành thị Nông
thôn
Tỷ lệ dân số chưa tốt nghiệp tiểu học 22,8 22,6 14,3 24,3
Tỷ lệ dân số tốt nghiệp tiểu học 26,6 24,5 16,6 27,3
Tỷ lệ dân số tốt nghiệp trung học cơ sở 24,1 22,2 20,1 23,7
Tỷ lệ dân số tốt nghiệp trung học phổ thông 20,0 16,5 46,6 12,8
trở lên
*Nguồn: [25, tr52]
42
Trình độ học vấn giữa nam và nữ của khu vực chỉ chênh nhau 2 điểm phần trăm, tuy nhiên hiện nay sự chênh lệch dần được rút ngắn khoảng cách, sự bất bình
đẳng về giới dần được xóa bỏ hẳn so với những năm về trước. Giữa thành thị và
nông thôn thì tỷ trọng những người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên tương ứng là 46,6%, cao hơn 33,8 điểm phần trăm so với nông thôn (12,8%),
nguyên nhân là do điều kiện của mỗi vùng phát triển không giống nhau, ở nông
thôn còn nhiều khó khăn, trong khi đó, thành thị điều kiện về mọi mặt đã phát triển
hơn, đồng thời, tại đây có nhiều khu sản xuất và chế biến công nghiệp, các khu chế
xuất… đã thu hút nhiều lực lượng lao động đến tập trung sinh sống và làm việc ở đó.
Trung du và Miền núi phía Bắc có trình độ chuyên môn kĩ thuật thấp so với
cả nước “chỉ có 1,8% tốt nghiệp cao đẳng, 2,7% tốt nghiệp đại học và 0,1% tốt
nghiệp thạc sỹ trở lên”, do điều kiện tham gia vào quá trình giáo dục của khu vực còn nhiều hạn chế, tuy nhiên khu vực vẫn chưa phải là nơi có trình độ chuyên môn kĩ thuật thấp nhất mà là vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Trong khi đó, Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ là hai vùng có trình độ cao nhất cả nước.
Bảng 12: Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất đã đạt đƣợc của dân
số từ 15 tuổi trở lên của khu vực, 2009
Đơn vị: %
Trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất Trung du và miền núi phía Bắc
đã đạt được
Sơ cấp 2,4
Trung cấp 6,4
Cao đẳng 1,8
Đại học 2,7
Trên đại học 0,1
*Nguồn: [25, tr58]
Tuy nhiên, tỷ lệ dân số có trình độ cao đẳng trở lên ở khu vực chiếm (1,8%) cao hơn so với phía Nam, đặc biệt cao hơn cả vùng Đông Nam Bộ. Nguyên nhân
43
xuất phát từ sự khác biệt về giáo dục của nước ta trước và sau khi kết thúc chiến tranh ở hai miền Nam – Bắc năm 1975.
Bảng 13: Chỉ số vùng về trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao nhất đã
đạt đƣợc của dân số từ 15 tuổi trở lên theo giới tính, thành thị và nông thôn của khu vực, 2009
Đơn vị: %
Trung du và Miền núi phía Bắc Nam Nữ Thành thị Nông thôn
Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp sơ cấp nghề 3,1 1,7 5,9 1,6
7,1 5,7 17,3 4,1
Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp
Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp cao đẳng 1,4 2,1 4,5 1,2
Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp đại học 3,1 2,3 10,7 1,1
Tỷ lệ dân số đã tốt nghiệp sau đại học 0,1 0,1 0,4 0,01
Nguồn: Tổng cục thống kê: [25, tr87]
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng, tỷ lệ giữa nam và nữ có sự
chênh lệch lớn về trình độ ở tất cả các cấp, trừ mức cao đẳng: “tỷ lệ tốt nghiệp cao
đẳng của nữ là 2,1%, cao hơn so với tỷ lệ 1,4% của nam; tỷ lệ dân số nông thôn tốt
nghiệp cao đẳng thấp hơn 2 lần so với thành thị và thấp hơn tới 9 lần ở trình độ đại
học”. Như vậy, càng lên trình độ cao hơn thì sự chênh lệch nhau càng rõ rệt và ở
điều kiện đầy đủ như ở thành thị thì bao giờ tỉ lệ đỗ tốt nghiệp ở các mức như cao
đẳng, đại học cũng cao hơn so với ở khu vực nông thôn.
2.3. Một số nhận xét về tình hình giáo dục ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc (1996 - 2009)
2.3.1. Thành tựu
Thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về giáo dục, cùng với đó là tác động của nền kinh tế - xã hội tới khu vực trong giai đoạn này thì sự nghiệp giáo dục cả nước nói chung và ở khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc nói riêng, nhìn một cách tổng quát thì giáo dục của khu vực đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn, tạo nên bước chuyển mình tích cực của khu vực: quy mô trường lớp ngày càng
mở rộng, chất lượng giáo dục cao hơn trước, nạn mù chữ được xóa bỏ, toàn vùng đã đạt phổ cập giáo dục tiểu học và nhiều địa bàn đang thực hiện phổ cập THCS, các trường học được mở rộng đặc biệt trường dân tộc nội trú mọc lên ngày một nhiều ở
44
những địa bàn vùng cao…
Về quy mô giáo dục: “từ các trường dân tộc nội trú cho đến trường bán trú
dân nuôi phát triển rộng khắp, hệ thống cơ sở giáo dục đa dạng với đầy đủ các cấp, bậc học về cơ bản đáp ứng nhu cầu của việc dạy và học”. Tính đến năm 2000, tất cả
các xã trên địa bàn của tỉnh Lai Châu đều có trường Tiểu học, trong đó hầu hết là
trường Tiểu học toàn cấp. Số lượng các trường THCS và THPT ngày càng phát
triển, mỗi huyện, thị có từ 1-2 trường THPT; trường THPT Chuyên của tỉnh cũng
được thành lập. Hệ thống trường DTNT có ở tất cả các huyện, các trường dân nuôi ngày càng phát triển. Số học sinh huy động đến trường hàng năm tăng 11,5%. Hệ
thống GDTX đang trên đà phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh, cán bộ,
nhân dân các dân tộc. Ở tỉnh Lạng Sơn, chỉ trong vòng vài năm trở lại đây từ năm
2006 - 2009, số lượng trường lớp ở Lạng Sơn đã tăng lên nhanh chóng, (từ 580 trường lên 638 trường, tăng 58 trường) tạo điều kiện cho các em học sinh được học
lên cao, nâng cao dân trí.
Bên cạnh việc tăng về quy mô, số lượng, chất lượng giáo dục ở vùng sâu,
vùng xa, vùng gần biên giới có bước chuyển biến tích cực, không chỉ thực hiện
được công bằng trong giáo dục được đảm bảo mà còn “đáp ứng được nhu cầu học
tập ngày càng tăng của nhân dân; nâng cao được trình độ nhận thức và kĩ năng nghề
nghiệp của người lao động, góp phần đáp ứng yêu cầu cung cấp một nguồn nhân lực
có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Tỉnh Tuyên
Quang, đến năm 1996 - 1997, số học sinh tiểu học trong độ tuổi 6 - 14 tuổi đạt tỷ lệ
97%, so với năm học 1992 – 1993 tăng 21,6%. Số học sinh tốt nghiệp tiểu học được
huy động không hạn chế vào học THCS, đạt tỷ lệ 97,2%. Tỷ lệ lưu ban trong giai
đoạn này giảm đáng kể. Bậc tiểu học gần như không có học sinh lưu ban, bậc THCS
và THPT, tỷ lệ này luôn ở dưới mức 1%. Tỷ lệ tốt nghiệp các cấp luôn đạt trên
90%. Tỷ lệ trúng tuyển ĐH, CĐ liên tục tăng lên, năm sau cao hơn năm trước: năm
2006 đạt 10,65%, năm 2007 đạt 14,59%, năm 2008 đạt 16,01% và năm 2009 đạt
16,81%. Cho thấy tỉ lệ dân số biết chữ và được đến trường cũng như đi học đúng độ đuổi đã có chuyển biến tích cực hơn so với giai đoạn trước và không dừng ở mức độ biết chữ mà còn nâng cao trình độ của mình ở các cấp bậc cao hơn. Ở tỉnh Lào Cai
giáo dục có những bước khởi sắc rõ nét. “Năm 2000, Lào Cai hoàn thành phổ cập
giáo dục tiểu học - chống mù chữ; năm 2005 đạt chuẩn giáo dục tiểu học đúng độ tuổi; năm 2007 đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở”. Ở tỉnh Lai Châu, “tính đến năm 2009, học lực của các cấp từ mầm non đến giáo dục trung học, giáo dục thường
45
xuyên - chuyên nghiệp có sự cải thiện hơn trước; tỷ lệ huy động trẻ đúng tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; trẻ hoàn thành chương trình Tiểu học và nhập học đúng tuổi vào
cấp 2 đạt 96,3%; học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở đạt 98,8%; kết quả tốt nghiệp
THPT đạt 92,14%, bổ túc THPT đạt 57,99%” [6; tr.191]. Ở tỉnh Lạng Sơn “tỷ lệ học sinh bỏ học đã giảm xuống; ở cấp tiểu học giảm 0,08%, THCS giảm 1,22%,
THPT giảm 3,21%, GDTH giảm 2,31%. Tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng lên theo từng
năm, tỷ lệ học sinh yếu kém giảm xuống. Tỷ lệ biết chữ trong độ tuổi 15 – 35 đạt
94,25%. Tháng 10/2008, tỉnh đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi”..
Công tác quản lí giáo dục có bước chuyển biến tích cực, tập trung vào người
đứng đầu là việc làm trọng tâm; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất,
tập trung vào nâng cao chất lượng giáo dục đầu ra của tỉnh; chủ động chọn lựa các
phương pháp dạy học mới nhằm tăng hiệu quả học tập.
Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục tăng nhanh về số lượng và chất lượng dần đáp ứng yêu cầu phát triển của ngành giáo dục. “Tính đến năm 2009, ở
tỉnh Lai Châu tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn các cấp học, ngành học cao:
giáo viên mầm non 99,7% (trên chuẩn 144,2%); giáo viên bậc phổ thông 95,48%
(trên chuẩn 25%)” [6; tr.192]. Ở tỉnh Lạng Sơn, thì “tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn là
99,85%, trên chuẩn là 45,59%”.
Cơ sở vật chất - kĩ thuật có nhiều thay đổi, khang trang, sạch đẹp hơn, trang
thiết bị trường học đầy đủ, hiện đại hơn. ở tỉnh Tuyên Quang, “từ năm 2006 – 2009
nhờ có số tiền lớn của tỉnh cấp để mua các trang thiết bị, đồ dùng dạy học trang bị
phòng học cho các trường chuẩn bị đạt chuẩn; mua sắm, cung cấp giấy, vở, sách
giáo khoa cho học sinh vùng đặc biệt khó khăn…phục vụ cho giáo dục của tỉnh.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng được quan tâm lớn, ở tỉnh Thái
Nguyên, tính trung bình mỗi năm, Sở giáo dục và Đào tạo dành từ 3 – 5 tỷ đồng để
nối mạng và trang bị máy tính, máy chiếu cho các trường. Giáo viên ở hầu hết các
trường đã sử dụng CNTT trong việc soạn và giảng bài” [6, tr.607].
Có được những bước tiến như vậy là sự kết hợp hài hòa của nhiều nhân tố, trong đó yếu tố tác động mạnh từ sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực, đời sống của nhân dân được cải thiện, vốn đầu tư cho ngành giáo dục, chính sách vận động thu hút học sinh đến trường, chính sách ưu tiên, đãi ngộ của ban lãnh đạo các
46
địa phương đã góp phần thúc đẩy giáo dục của khu vực, nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài, đáp ứng nguồn lao động chất lượng cao cho đất nước trong thời kì mới.
2.3.2. Hạn chế
Mặc dù giáo dục ở khu vực trong giai đoạn này đã có những bước đi đầu tiên
quan trọng, đạt thành tích to lớn. Nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều hạn chế.
Nền giáo dục có sự biến động về quy mô giáo dục khá rõ nét, chưa ổn định.
Trong thời gian đầu chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế
thị trường đã làm thay đổi suy nghĩ của mỗi gia đình, cá nhân, họ cho rằng việc
chuyển đổi cơ chế nền kinh tế không cần đòi hỏi phải có kiến thức, họ cho rằng
“học để làm gì?” học cũng như không. Do vậy một số học sinh bỏ học, về sau khi
nền kinh tế ổn định, nền sản xuất công nghiệp phát triển đòi hỏi người lao động phải
có trình độ kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp thì nhu cầu học tập mới tăng lên.
Song việc tăng quy mô giáo dục phổ thông ở nước ta vẫn chưa tương ứng phù hợp với mức tăng dân số và so với khu vực cũng như trên thế giới. Nước ta phấn đấu
đến năm 2000 mới đạt được phổ cập tiểu học trong toàn dân, như vậy trình độ dân
trí còn thấp.
Mặt khác, chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các tỉnh của khu vực, một
số nơi gần biên giới, vùng sâu, vùng xa xôi hẻo lánh, giáo dục còn nhiều yếu kém:
“theo điều tra sơ bộ năm 1999, ở các huyện Hoàng Su Phì và Bắc Quang, tỉnh Hà
Giang số người mù chữ là 64%, số dân chỉ học hết cấp I là 28%, riêng dân tộc Cơ
ho ở Hà Giang chưa có ai học đến trung học chuyên nghiệp, các huyện Trùng
Khánh, Quảng Hòa của Cao Bằng có số người mù chữ chiếm tới 20%, số học sinh
học hết cấp I là 36,7%, học hết cấp III chỉ có 13,3%. Những số liệu trên nói chung
chỉ thể hiện ở diện rộng, còn đi vào từng làng bản ở vùng sâu, vùng cao, thì tỷ lệ mù
chữ này còn cao hơn rất nhiều, chẳng hạn số người H’Mông còn mù chữ ở Sơn La là 86,93% - 96%”2. Nguyên nhân là do “đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, họ chưa có điều kiện để trang bị cho con em mình tới trường; địa
hình của khu vực không thuận lợi, xa xôi do vậy mà việc đi lại cũng bất tiện. Một phần cũng xuất phát từ đặc điểm dân cư, dân cư của khu vực chủ yếu là người dân tộc thiểu số, giao tiếp với nhau bằng tiếng dân tộc, cho nên nhiều gia đình cho rằng chỉ cần biết chữ là được, ở nhà đi cày, đi cấy, làm nương rẫy còn có miếng cơm mà
2 Số liệu điều tra của Viện CNXHKH, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tháng 3-1999
47
ăn…do vậy, họ cũng không có hứng thú trong việc đến trường học và học lên cao. Vì vậy, tỷ lệ học sinh mù chữ và có trình độ học vẫn thấp là điều tất yếu”.
Bên cạnh đó, việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ dạy ở một số
nơi vẫn chưa đáp ứng được, còn nghèo nàn, thiếu thốn: “Bảng, đồ dùng trực quan, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, bút, mực… còn thiếu rất nhiều; đội ngũ giáo
viên vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Theo số liệu điều tra năm 1997
của tỉnh Sơn La thì sự thiếu hụt về giáo viên ở ba huyện: huyện Mường La thiếu
241 người, huyện Mai Sơn thiếu 97 người, huyện Phù Yên thiếu 56 người. Ở tỉnh
Lai Châu vẫn còn thiếu 700 giáo viên tiểu học [14, tr23]; một số bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục ở vùng sâu, vùng xa còn hạn chế về trình độ, năng lực;
một số cấp ủy, chính quyền cơ sở chưa thực sự quan tâm đúng mức đến công tác
giáo dục; sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác giáo dục có nơi chưa
chặt chẽ còn lỏng lẻo; công tác xã hội hóa giáo dục hiệu quả chưa cao, bất bình đẳng về giáo dục theo giới tính và theo thành thị, nông thôn vẫn còn...” Vì vậy, để
tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện theo hướng bền vững thì rất cần có
sự chung tay nỗ lực, sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa của các cấp, các ngành, của nhà
trường, gia đình và toàn xã hội đối với công tác giáo dục.
2.3.3 Tác động của giáo dục đến kinh tế - xã hội ở khu vực Trung du và Miền núi
phía Bắc (1996 - 2009)
Bước vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với các chủ trương,
đường lối chiến lược cả về kinh tế - xã hội và giáo dục mà Đảng đưa ra, toàn dân đã
tuân theo thực hiện. Nhờ những nỗ lực, cố gắng không chỉ từ lãnh đạo các tỉnh mà
cả nhân dân địa phương của khu vực đã hoàn thành và nhiều mục tiêu còn vượt
mức, đưa địa phương ngày càng phát triển giàu đẹp. Với những tiềm năng, thế
mạnh của khu vực thì việc khai thác các thế mạnh này đã đem lại hiệu quả kinh tế
cao làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh cả về quy mô và tốc độ, nền kinh
tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ
trọng ngành nông nghiệp. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được nâng cấp,
đảm bảo giao thông đi lại thông suốt giúp cho việc giao lưu với các địa phương trong vùng cũng như với các vùng khác trong cả nước dễ dàng hơn, góp phần tăng hiệu quả kinh tế, đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện. Đời sống văn hóa
tinh thần của nhân dân ngày càng phong phú, bản sắc văn hóa truyền thống của dân
tộc được giữ gìn và phát huy, các vấn đề về an sinh xã hội được bảo đảm. Nhờ có sự phát triển về kinh tế mà giáo dục ở các địa phương của khu vực ngày càng được
quan tâm, giáo dục được cải thiện với trình độ ngày càng được nâng lên đáng kể, số
48
vốn đầu tư cho giáo dục ngày một tăng và được ưu tiên hàng đầu nhằm “nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” bởi nguồn lực này sẽ tác động vào
nền kinh tế- xã hội tạo nên sự phát triển liên tục và bền vững. Trong bối cảnh giáo dục chung của cả nước, giáo dục Trung du và Miền núi phía Bắc đã đạt được một số
thành tựu về phổ cập giáo dục phổ thông, đào tạo được nguồn lao động có chất
lượng, trình độ và tay nghề cao vào làm việc trong các ngành nghề, có nhiều cơ hội
việc làm với mức lương tốt khiến cho đời sống của người dân được cải thiện, ổn
định. Tuy nhiên, Trung du và Miền núi phía Bắc vẫn là vùng trũng giáo dục khi mặt bằng chung vẫn thấp thua nhiều mặt so với các vùng khác trong cả nước do điều
kiện của khu vực vẫn còn khó khăn, sự bất bình đẳng giới trong giáo dục có giảm
nhưng vẫn còn tồn tại ở một số địa phương và so với cả nước thì vẫn còn lớn, đặc
biệt ở phụ nữ. Bên cạnh đó, nền kinh tế của khu vực cũng còn những hạn chế, so với các vùng khác trong cả nước hiệu quả kinh tế của vùng còn thấp, có sự chênh
lệch lớn giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi. Việc tập trung khai
thác quá mức các nguồn tài nguyên cũng dẫn đến cạn kiệt nền cần có những định
hướng mới. Tổng quan, với những tiềm năng mà khu vực đang có thì sự phát triển
cả về kinh tế - xã hội và giáo dục trong giai đoạn này đã tác động tích cực tới khu
49
vực, ngày một đưa khu vực đi lên, góp phần vào sự nghiệp đi lên xây dựng đất nước của toàn nhân ta.
Tiểu kết chƣơng 2 :
Nhìn chung nội dung đổi mới sự nghiệp giáo dục của Đảng đề ra đã được thực hiện trên các địa phương của Trung du và Miền núi phía Bắc trong thời gian qua,
đều đạt mục tiêu đề ra và phát huy hiệu quả chất lượng giáo dục nhằm tạo được sự
chuyển biến nhận thức về sự nghiệp giáo dục trong nhân dân. Các chủ trương về đổi
mới giáo dục được thực hiện hiệu quả đã giúp trình độ dân trí được của nhân dân
được nâng cao, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, đáp ứng yêu cầu
đi lên xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, chất lượng giáo dục của vùng còn chưa thực sự nổi bật so với các vùng miền
khác trong cả nước, nguyên nhân là do điều kiện của vùng còn nhiều khó khăn hơn.
Chính vì thế trong thời gian tới, cần đẩy mạnh hơn nữa việc phối hợp giữa lãnh đạo địa phương, cán bộ ngành và người dân nhằm tiếp tục phát huy và nâng cao hiệu
quả giáo dục trên các địa bàn của khu vực để góp phần vào sự nghiệp đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước, một đất nước phát triển mạnh và toàn diện để
50
sánh vai với các cường quốc năm châu.
KẾT LUẬN
Từ nội dung trình bày trong khóa luận trên, chúng ta đã phần nào thấy được bức tranh giáo dục của khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc sau 20 năm đổi mới
từ 1989 đến 2009 và có thể tóm tắt và rút ra kết luận như sau:
1. Bước vào thời kì đổi mới đất nước năm 1986, “thực hiện các chủ trương
đổi mới về giáo dục và đào tạo của Đảng qua Nghị quyết các Đại hội VI, VII, VIII,
IX, X”: Giáo dục khu vực Trung du và Miền núi phía Bắc đã đạt được nhiều thành
tựu đáng khích lệ, quy mô giáo dục ở các bậc học ngày càng ổn định và phát triển.
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ đã đạt được hiệu quả tích cực,
sâu sắc; chất lượng giáo dục toàn diện ở các tỉnh của khu vực có nhiều chuyển biến
tích cực: tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kề, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tăng đều theo từng năm. Để có được những thành quả trên là do: (1) Đường lối đúng đắn của
Đảng và Nhà nước về giáo dục nhờ đó mà truyền thống hiếu học của nhân dân ta
được phát huy, nhu cầu tham gia vào quá trình học của nhân dân không ngừng tăng
lên; (2) Nhân dân đã đóng góp nhiều sức lực, tiền của để xây dựng trường lớp và
chăm lo sự nghiệp giáo dục; (3) Đội ngũ cán bộ từ quản lí, giáo viên cho tới các em
học sinh đã có những cố gắng rất lớn, gắn bó với trường, với lớp, tinh thần ham học
hỏi, chịu vượt gian khó vì sự nghiệp trồng người.
2. Bên cạnh những mặt ưu điểm đạt được giáo dục của vùng cũng đứng trước
những khó khăn như hệ thống cơ sở vật chất - kĩ thuật như trường, lớp, phòng học,
phòng thí nghiệm, thực hành còn thiếu do đó chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng. Số
phòng học chưa đáp ứng so với nhu cầu, đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy mặc
dù đủ chuẩn nhưng chất lượng giảng dạy lại chưa cao, nguyên nhân là do đại bộ
phận đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên chưa được đào tạo chuẩn và bồi dưỡng tốt,
còn nhiều bất cập so với yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay. Đời sống của cán bộ,
giáo viên gặp rất nhiều khó khăn, có giáo viên phải bỏ nghề, cán bộ thì rời ngành… Quy mô giáo dục tiểu học, trung học và bổ túc vẫn chưa bắt kịp yêu cầu phát triển của vùng. Như vậy, so với yêu cầu phát triển chung của đất nước, thì nền giáo dục của vùng vẫn còn nhiều yếu kém. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất phát từ
những khó khăn chung của cả nước trong thời gian này, sự phát triển chậm về kinh tế đã làm cho ngân sách giáo dục bị hạn chế, dẫn tới khó khăn cho giáo dục của khu vực nói riêng và cả nước nói chung.
3. Hiện nay, sự nghiệp giáo dục của vùng đang đứng trước những thách thức
51
lớn, yêu cầu đặt ra là phải vừa phát triển nhanh về quy mô giáo dục nhưng đồng
thời lại gấp rút nâng cao chất lượng, trong khi đó khả năng và điều kiện đáp ứng
yêu cầu còn nhiều hạn chế. Như vậy từ sau Đại hội VI đến nay, với chủ trương đổi mới của Đảng, giáo dục của khu vực đã có bước phát triển mới, đạt nhiều thành tựu
quan trọng, song cũng tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục sớm. Trong những
năm tới, vấn đề giáo dục đang đặt ra như là một tất yếu khách quan, đòi hỏi ngành
giáo dục cả nước nói chung và các tỉnh của khu vực nói riêng, phải nỗ lực cố gắng
đẩy mạnh cải cách để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo của vùng góp phần vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh của nước
52
Việt Nam ta.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Ban khoa giáo trung ương (2002), Giáo dục và đào tạo trong thời kì đổi mới chủ
trương thực hiện đánh giá, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về phương hướng, nhiệm
vụ phát triển KT-XH 5 năm 2006 - 2010 tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1992), Nhận định của Dự án điều tra tổng thể ngành
giáo dục và phân tích nguồn nhân lực- VIE 89/022, do UNDP, UNESCO, Bộ
Giáo dục và Đào tạo tiến hành, 1990-1992)
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1995), Giáo dục và đào tạo ở Việt Nam, NXB giáo dục,
Hà Nội.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Tổng kết và đánh giá đổi mới giáo dục và đào
tạo (1986- 1998), Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo dục Việt Nam 1945- 2010, NXB giáo dục,
Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ
4 khóa VII (về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo), NXB Sự thật,
Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 35 (2001), Nxb
Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 60, Nxb Chính trị
quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
12. Phạm Minh Hạc (2000), Giáo dục Việt Nam 1945 - 2010, T.1, NXB Giáo dục,
53
Hà Nội.
13. Bùi Minh Hiền (2008), Lịch sử giáo dục Việt Nam, NXB ĐH Sư phạm, Hà Nội.
14. Lê Du Phong - Hoàng Văn Hoa (1998), Phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân
tộc và miền núi theo hướng CNH, HĐH, NXB CTQG, Hà Nội.
15. Nghị quyết Trung ương 2, Khóa VII số 02 – NQ/HNT ngày 14/12/1996 về
định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000.
16. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, Tập 8, NXB Chính trị Quốc Gia, H. 1996. tr
337-338).
17. Đỗ Văn Ninh (2001), Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, NXB Văn hóa Thông
Tin, Hà Nội.
19. Nguyễn Thị Thái (2009), Sơ lược lịch sử giáo dục Việt Nam và một số nước trên
thế giới, NXB Hà Nội, Hà Nội.
20. Tổng cục thống kê (1989), Niên giám thống kê 1987, NXB Thống kê, Hà Nội.
21. Tổng cục thống kê (1993), Niên giám thống kê năm 1992, NXB Thống kê, Hà
Nội.
22. Tổng cục thống kê (1996), Niêm giám thống kê năm 1995, NXB Thống kê, Hà
Nội.
23. Tổng cục Thống kê (2000), Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam 1999: Kết
quả điều tra mẫu, NXB Thế giới.
24. Tổng cục thống kê (2001), Niên giám thống kê năm 2000, NXB Thống kê, Hà
Nội.
25. Tổng cục thống kê (2009), Chuyên khảo “Giáo dục ở Việt Nam: Phân tích các
chỉ số chủ yếu” PDF, Hà Nội.
26. Số liệu thống kê giáo dục năm học 1977 – 1978 của Bộ giáo dục, Hồ sơ 18834, Mục lục 03, quyển 4, Phông phủ thủ tướng, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
27. V.I.Lênin (1987), Toàn tập, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, tập 45, tr. 428
28. Viện Dân Tộc Học (1993), Những biến đổi về kinh tế- văn hóa ở các tỉnh miền
núi Phía Bắc, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Tài liệu Internet:
54
29. Báo Cứu quốc, số 58, ngày 4-10-1945, cpv.org.vn,
https://tennguoidepnhat.net/2012/08/10/chong-nan-that-hoc/, 20h11, 23/10/2018.
30. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị BCH T Đảng lần thứ IX “Kết luận số 14-KL/T ngày 26/7/2002, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương (khoá IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khoá VIII,
phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến
năm 2005 và đến năm 2010”,15/1/2018,
http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-
trung-uong/khoa-ix/ket-luan-so-14-kltw-ngay-2672002-hoi-nghi-lan-thu-sau-
ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-ix-ve-tiep-tuc-thuc-hien-nghi-quyet-652,
15h10, 20/1/2019.
31. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, “Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến
năm 2000”, 12/12/2018, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-
ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-viii/nghi-quyet-hoi-nghi-lan-thu-hai-
ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-viii-ve-dinh-huong-chien-luoc-phat-
trien-giao-duc-666,19h30, 10/1/2019.
32. Trần Nam Bình, Đổi mới giáo dục tại Việt Nam: Một vài nhận định từ quan
điểm chính sách kinh tế, Số 6- tháng 11/2015,
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai6/200506_TNBinh.htm, 11h00, 8/2/2019.
33. Cổng thông tin điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/lich-su-dang/books-
310520153565356/index-41052015349445663.htm, 9h5, 22/11/2019.
34. Tô Dung, “Bức tranh tươi sáng của ngành giáo dục”
http://www.baolaocai.vn/ky-niem-25-nam-tai-lap-tinh-lao-cai-1101991-
1102016/buc-tranh-tuoi-sang-cua-nganh-giao- ducz78n20161001102651616.htm, 14h17, 01/2/2016.
35. Nguyễn Đắc Hưng (2010), “Giáo dục Việt Nam - những thành tựu và thách
thức”, Báo Đảng Cộng sản Việt Nam điện tử ngày 11/11/2010.
36. Viện dân tộc học, “Những biến đổi kinh tế - văn hóa ở các tỉnh Miền núi phía
Bắc”, 30/11/2015, https://tailieu.vn/doc/ebook-nhung-bien-doi-ve-nen-kinh-te-
55
van-hoa-o-cac-tinh-mien-nui-phia-bac-phan-1-1807596.html, 10h, 20/12/2019.
37. http://www.baomoi.com/giao-duc-viet-nam-nhung-thanh-tuuva-thach-
thuc/c/5182681.epi). 20h30, 19/2/2019.
38. http://hocday.com/ 10h, 12/10/2019.
39. http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Chuyen-gia-Giao-duc/Toan-van-De-cuong-
56
cai-cach-giao-duc--Hoang-Tuy-post117816.gd, 20h10, 28/11/2019.