ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

---------***----------

NGÔ MINH TÙNG

THỰC TRẠNG LO ÂU VÀ TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN TẠI KHOA KHÁM CHỮA BỆNH THEO YÊU CẦU VÀ QUỐC TẾ BỆNH VIỆN E NĂM 2021

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH Y ĐA KHOA

HÀ NỘI – 2022

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

THỰC TRẠNG LO ÂU VÀ TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN TẠI KHOA KHÁM CHỮA BỆNH THEO YÊU CẦU VÀ QUỐC TẾ BỆNH VIỆN E NĂM 2021

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH Y ĐA KHOA

KHÓA: QH.2016.Y

Người hướng dẫn:

1. ThS. MẠC ĐĂNG TUẤN

2. ThS. BSNT. NGUYỄN VIẾT CHUNG

HÀ NỘI – 2022

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này, tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:

Ban Giám hiệu, Thầy cô Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành khoá luận này.

Tôi xin bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Viết Chung, ThS. Mặc Đăng Tuần – những người thầy đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp dỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian thực hiện và hoan thành khoá luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, cán bộ nhân viên tại Khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu Bệnh viện E đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và thu thập số liệu cho nghiên cứu này.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới những người thân trong gia đình. Những người bạn thân thiết của tôi, những người đã cùng chia sẻ khó khăn, dành cho tôi những lời động viên, chia sẻ quý bầu trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2022

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Ngô Minh Tùng, sinh viên khoa QH.2016.Y, ngành Y đa khoa, Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoạn:

1. Đây là luận văn do bản thân tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. BSNT. Nguyễn Viết Chung, ThS. Mạc Đăng Tuấn

2. Công trình này không trùng lặp với bất kì nghiên cứu nào đã được công bố tại

Việt Nam.

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày 19 tháng 05 năm 2022

Tác giả

NGÔ MINH TÙNG

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Bảng câu hỏi đánh giá thang điểm GERD-Q. ............................................ 9

Bảng 1.2. Bảng đánh giá kết quả của thang điểm GERD-Q. .................................... 10

Bảng 1.3. Kết quả nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự ........ 13

Bảng 1.4. Kết quả nghiên cứu của Zhi Xiang On và các cộng sự ............................ 14

Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu.............................................................. 15

Bảng 3.1: Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu .......................................... 19

Bảng 3.2: Đặc điểm dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại của đối tượng nghiên cứu ...... 20

Bảng 3.3: Đặc điểm về hôn nhân của đối tượng nghiên cứu .................................... 20

Bảng 3.4: Đặc điểm về nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu ............................... 20

Bảng 3.5: Đặc điểm về tần suất tập luyện thể thao của đối tượng nghiên cứu. ........ 22

Bảng 3.6: Đặc điểm về các triệu chứng lâm sàng ..................................................... 23

Bảng 3.7: Kết quả thang điểm GERD-Q của đối tượng nghiên cứu. ........................ 23

Bảng 3.8: Đặc điểm kết quả nội soi ( giai đoạn bệnh) của đối tượng nghiên cứu .... 24

Bảng 3.9: Đặc điểm về thời gian mắc bệnh của đối tường nghiên cứu. ................... 24

Bảng 3.10: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo giới tính ............................... 26

Bảng 3.11: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo việc sử dụng BHYT. ........... 27

Bảng 3.12: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo bệnh lý nền ......................... 27

Bảng 3.13: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thu nhập hàng tháng............ 27

Bảng 3.14: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo giới tính. ...................... 28

Bảng 3.15: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo việc sử dụng BHYT. .... 28

Bảng 3.16: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo bệnh lý nền. ................. 28

Bảng 3.17: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo thu nhập hàng tháng .... 29

Bảng 3.18: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo triệu chứng đau ngực .......... 29

Bảng 3.19: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo kết quả nội soi. .................... 29

Bảng 3.20: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thời gian mắc bệnh. ............ 30

Bảng 3.21: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo điểm GERD-Q. ................... 30

Bảng 3.22: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo triệu chứng đau ngực. .. 30

Bảng 3.23: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo kết quả nội soi.............. 31

Bảng 3.24: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo thời gian mắc bệnh. ..... 31

Bảng 3.25: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo điểm GERD-Q. ............ 31

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới .............................................. 19

Biểu đồ 3.2: Phân bố thu nhập của đối tượng nghiên cứu. ....................................... 21

Biểu đồ 3.3: Phân bố về việc sử dụng BHYT của đối tượng nghiên cứu ................ 21

Biểu đồ 3.4: Phân bố về bệnh lý nền của đối tượng nghiên cứu. .............................. 22

Biểu đồ 3.5: Phân bố mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thang điểm HADS

................................................................................................................................... 24

Biểu đồ 3.6: Phân bố mức độ trầm cảm của người bệnh theo thang điểm HADS. .. 25

Biểu đồ 3.7: . Phân bố đối tượng nghiên cứu theo các nhóm lo âu, trầm cảm. ........ 26

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHYT : Bảo hiểm y tế

BN : Bệnh nhân

ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu

GERD : Gastroesophageal Reflux Disease

GERD-Q : Gastroesophageal Reflux Disease Questionnaire

HADS : Hospital Anxiety and Depression Scale

RL : Rối loạn

WHO : World health Organization

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1

Chương 1 TỔNG QUAN .......................................................................................... 3

1.1. Rối loạn lo âu, trầm cảm ................................................................................... 3

1.1.1. Lo âu ........................................................................................................... 3

1.1.2. Trầm cảm .................................................................................................... 4

1.2. Khái niệm, triệu chứng, chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày thực quản. .......... 5

1.2.1. Định nghĩa .................................................................................................. 5

1.2.2. Dịch tễ học bệnh trào ngược Dạ dày thực quản ........................................ 6

1.2.3. Nguyên nhân ............................................................................................... 6

1.2.4. Chẩn đoán bệnh GERD .............................................................................. 6

1.3. Các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ................................................................................................................ 10

1.3.1. Nguyên nhân gây ra lo âu, trầm cảm ....................................................... 10

1.3.2. Dịch tễ học rối loạn lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ............................................................................................................ 10

1.3.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ............................................................................................................ 11

1.4. Giới thiệu một số thang đo lường lo âu, trầm cảm và thang đánh giá lo lắng và trầm cảm bệnh viện (HADS) ............................................................................. 11

1.5. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam .. 13

1.5.1. Trên thế giới ............................................................................................. 13

1.5.2. Tại Việt Nam. ............................................................................................ 14

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................ 15

2.1. Đối tượng nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu: ............................. 15

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: ............................................................................. 15

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu: ............................................................................... 15

2.1.3. Thời gian nghiên cứu: .............................................................................. 15

2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu .................................................. 15

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: ................................................................................. 15

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: ........................................................ 15

2.2.3. Các biến số nghiên cứu: ........................................................................... 15

2.3. Công cụ nghiên cứu ........................................................................................ 17

2.4. Phương pháp thu thập số liệu ......................................................................... 17

2.5. Phương pháp phân tích số liệu ........................................................................ 17

2.6. Các sai số và cách khắc phục .......................................................................... 17

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu .............................................................................. 18

2.8. Hạn chế của nghiên cứu .................................................................................. 18

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................... 19

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: ................................................... 19

3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu .......................................... 19

3.1.2. Đặc điểm của bệnh trào ngược dạ dày thực quản ................................... 23

3.2. Xác định tỉ lệ lo âu, trầm cảm của người bệnh GERD tại bệnh viện E năm 2021 ....................................................................................................................... 24

3.3. Xác định một số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm của người bệnh GERD tại Bệnh Viên E năm 2021 ..................................................................................... 26

3.3.1. Phân bố mức độ lo âu và trầm cảm ở người bệnh GERD theo đặc điểm cá nhân ............................................................................................................... 26

3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở người bệnh GERD theo đặc điểm của bệnh GERD. ................................................................................................. 29

CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN ........................................................................................ 32

4.1. Đặc điểm của người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E năm 2021. ........................................... 32

4.1.1 Tuổi. ........................................................................................................... 32

4.1.2. Giới. .......................................................................................................... 32

4.1.3. Thời gian mắc bệnh .................................................................................. 33

4.1.4. Đặc điểm lâm sàng. ................................................................................. 33

4.1.5. Mức độ nặng trào ngược dạ dày thực quản theo phân loại LA ............... 34

4.1.6. Mức độ nặng trào ngược dạ dày thực quản theo điểm GERD ................. 34

4.2. Xác định tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E năm 2021. .......... 35

4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu, trầm cảm của người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại Khoa Khám chữa bệnh theo yêu cầu và Quốc tế Bệnh Viện E năm 2021. .................................................................................................. 37

4.3.1. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu ........................................... 37

4.3.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm. ................................... 39

4.3.3. Mối liên quan giữa các đặc điểm của bệnh trào ngược dạ dày thực quản với tình trạng lo âu, trầm cảm. ........................................................................... 40

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 43

KHUYẾN NGHỊ ...................................................................................................... 44

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 45

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 49

ĐẶT VẤN ĐỀ

Theo Liên quốc, ước tính khoảng 25%, dân số thế giới bị gánh nặng về sức khỏe tâm thần, là một trong ba lý do chính làm tăng gánh nặng kinh tế ở các nước trên thế giới [7].

Vấn đề sức khỏe tâm thần ở Việt Nam không nằm ngoài tình hình chung của

toàn cầu Kết quả điều tra quốc gia năm 1999-2000 cho thấy tỉ lệ mắc 10 bệnh tâm thần phổ biến là 15%, trong đó có trầm cảm và lo âu [8]. Gần đây một số nghiên chu ở quy mô nhỏ hơn cho thấy tỉ lệ rối loạn tâm thần khoảng 20-30% [8]. Nghiên cứu của Trường Đại học Y tế công cộng về “Gánh nặng bệnh tật và chân thương ở Việt Năm 2008 " cho kết quả nhóm bệnh chấn thương, tâm thần kinh và bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây nên gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam [9].

Trào ngược dạ dày thực quản (GERD) là 1 bệnh rất phổ biến trên thế giới

cũng như ở Việt Nam. Bệnh lý này xảy ra khi dịch và thức ăn trong dạ dày trảo ngược vào thực quản gây triệu chứng khó chịu hoặc gây biến chứng [1]. Đây là bệnh ít gây tử vong, có thể gây ra các triệu chứng ảnh hưởng lớn đến chất lượng sống [2], hoặc có thể gây ra các biến chứng: như hẹp thực quản do loét, Barrett thực quản [3].

Tỉ lệ mắc GERD khác nhau ở từng khu vực, tại Việt Nam hiện chưa có số

liệu chính thức, theo tác giả Lê Văn Dũng tỉ lệ viêm trào ngược dạ dày thực quản tại khoa thăm dò chức năng Bệnh Viện Bạch Mai là 7.8% [4], theo Quách Trọng Đức và Trần Kiểu Miên nội soi với triệu chứng đường tiêu hóa trên thì 15,4% có viêm trợt thực quản [5].

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có tác động mạnh mẽ đến chất

lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội hàng

ngày và thể chất và tình cảm của người bệnh. GERD cũng cản trở giấc ngủ và công

việc lành mạnh. GERD là một rối loạn tiêu hóa ảnh hưởng đến cơ vòng thực quản

dưới, gây ra các triệu chứng khó chịu như ợ chua, nóng rất sau xương ức, nuốt đau, nuốt khó, ho kéo dài nặng hơn là đau ngực và khó thở về đêm các triệu chứng trên

không chỉ gây ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng cuộc sống của bệnh nhân mà lâu dài còn gây ra các ảnh hưởng về mặt tâm lý như lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân mắc GERD. Nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) sử dụng thang điểm HADS để đánh giá tình trạng lo âu trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ

1

dày thực quản ở 2 nhóm bệnh nhân không đau ngực và có đau ngực kết quả cho thấy tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản có đau ngực cao hơn đáng kể ở người không có triệu chứng đau ngực [10]. Nghiên cứu của Zhi Xiang

On và các cộng sự về mối liên quan giữa bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD)

với chất lượng giấc ngủ, trầm cảm và lo lắng đàn ông Úc, kết quả cho thấy tỉ lệ lo âu

ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản là 20.7% cao hơn nhiều so với người không

bị trào ngược dạ dày thực quản 9.7% và tỉ lệ trầm cảm thực sự người bệnh trào ngược dạ dày thực quản là 30.5% gấp 2.15 lần so với tỉ lệ trầm cảm thực sự ở người không

bị trào ngược dạ dày thực quản (14.2 %) [11]. Qua những nghiên cứu trên ta thấy

được sự ảnh hưởng một cách rõ rệt của bệnh GERD tới tâm lý của người bệnh gây ra các rối loạn lo âu và trầm cảm. Tại Việt Nam các nghiên cứu về tình trạng lo âu và

trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản còn rất hạn chế. Cần có một

nghiên cứu về mối quan hệ giữa tình trạng lo âu và trầm cảm và người bệnh trào

ngược dạ dày thực quản.

Từ những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Thực trạng lo âu và

trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E, năm 2021” với 2 mục tiêu:

1. Xác định tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E, năm 2021.

2

2. Xác định một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E, năm 2021.

Chương 1 TỔNG QUAN

1.1. Rối loạn lo âu, trầm cảm

1.1.1. Lo âu 1.1.1.1. Đặc điểm lo âu

Lo âu là một trạng thái căng thăng tâm xúc lan tỏa hết sức khó chịu nhưng thường mơ hồ, bằng qua kèm theo nhiều triệu chứng cơ thể như cảm giác trong rỗng ở thượng vị, siết chặt ở ngực, hồi hộp và mồ hôi, đau đầu, run, khô miệng đau cơ, kèm sự bứt rứt bắt an đứng ngồi không yên [12]. Theo U.Baumann, lo âu một hiện tượng phản ứng cảm xúc tự nhiên tất yếu của con người trước những khó khăn, thử thách đe dọa của tự nhiên, xã hội mà con người phải tìm ra các giải pháp để vượt qua, vươn tới, tồn tại [13].

Lo âu có hai thành phần chính: Các biểu hiện báo trước của cảm giác cơ thể (khô miệng, đánh trống ngực...) và trải nghiệm cảm giác khiếp sợ. Lo âu cũng ảnh hưởng lên tư duy,phân tích, tri giác và học tập. Có sự liên quan giữa lo âu và hoạt động trí óc và cơ thể). Lúc ban đầu, khi lo âu vừa mới được khuấy động lên thể hoạt động được cải thiện tốt lên: đó là thời kỳ hoạt bát, và khi lo âu trở nên quá mức làm hao tổn nhiều năng lượng thì chuyển sang thời kỳ suy yếu, làm giảm khả năng của các động tác vận động khéo léo léo và các nhiệm vụ trí tuệ phức tạp. Bệnh nhân có lo âu lâm sàng bị các ảnh hưởng này. Lo âu trở thành lo âu lâm sàng khi nó xuất hiện không có liên quan tới một mối đe dọa rõ ràng nào, mức độ lo âu không cân xứng với bất kì một mối đe dọa nào để có thể tồn tại hoặc kéo dài. Khi mức độ lo âu gây trở ngại rõ rệt các hoạt động, lúc đó được gọi là lo âu bệnh lý [14].

Lo âu bệnh lý không có chủ đề rõ ràng mang tính chất vô lý, mơ hồ, thời gian thường kéo dài, lập đi lập lại với nhiều rối loạn thần kinh thực vật như thở gấp, mạch nhanh, chóng mặt, khô miệng, vã mồ hôi, lạnh chân tay, run xảy, bất an. Việc điều trị cần được lựa chọn thích hợp cho từng trường hợp [12] .Còn lo âu bình thường có chủ đề, nội dung rõ ràng như ốm đau, công ăn việc làm, diễn biển nhất thời khi có các sự kiện trong đời sống tác động đến tâm lý của chủ thể, hết tác động thể lo âu cũng không còn, và thường không có hoặc rất ít triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật [12] [13].

Cần chú ý, lo âu cũng có thể là một biểu hiện hay cặp của nhiều nổi loạn tâm thần và cơ thể khác. Lo âu có thể là một thành phần của các bệnh này, có thể do sự điều trị hoặc xuất phát từ nhận định tiêu cực của người bệnh về tiênn lượng bệnh của mình [12]

3

Rối loạn lo âu: Là rối loạn (RL) đặc trưng bởi các cơn lo âu kéo dài, bao gồm:

- RL lo âu đám đông: Bệnh nhân rất sợ bất kỳ tình huống nào mà có thể xtôi

xét trước đám đông

- RL căng thẳng sau sang chấn: Bệnh nhân có các giấc mơ lập đi lập lại về các

sự kiện gây sang chấn, kéo dài ít nhất một tháng.

- RL hoảng sợ: Bệnh nhân có các cơn hoảng loạn đột ngột, lập đi lập lại kéo

dài một vài tháng.

- Chứng sợ khoảng trống: Bệnh nhân luôn sợ và tránh né các nơi và tỉnh huống

khó tẩu thoát khi bị tấn công

- RL lo âu toàn thế. Lo âu quá mức, xuất hiện hầu như mọi ngày trong vòng 6

tháng

- RL ám ảnh- cưỡng bức: Bệnh nhân có các suy nghĩ ám ảnh (không loại bỏ đi được) như nghỉ bệnh, sự bẩn dẫn đến hành vi cưỡng bức (lập đi lập lại) như rửa tay, kiểm tra đi kiểm tra lại... [12]

1.1.1.2. Biểu hiện lâm sàng

Các biểu hiện của lo âu thường rất đa dạng phức tạp, có lúc xuất hiện một cách tư phát không rõ nguyên nhân, hoàn cảnh rõ rệt. Các triệu chứng thường rất thay đổi, nhưng phổ biến là bệnh nhân cảm thấy sợ hãi, lo lắng về bất hạnh tương lại, dễ cáu, khó tập trung tư tưởng, công thông văn động, bồn chồn đứng ngồi không yên, đau căng đầu, đầu óc trống rỗng, run rầy, không có khả năng thư giãn, hoạt động quá mức thần kinh tự trị như và mồ hôi, mạch nhanh hoặc thở gấp, hồi hộp, đánh trong ngực, khó chịu vùng thượng vị, chồng mặt, khô mồm [15] [16].

1.1.2. Trầm cảm 1.1.2.1. Đặc điểm của trầm cảm

Trầm cảm là một rối loạn thuộc nhóm rối loạn khi sắc thể hiện sự ức chế của

cảm xúc, tư duy và vận động [17] [12]. Theo ICD-10 [18], một giai đoạn trầm cảm điển hình gồm các triệu chứng chính như khi sắc trầm, mất mọi quan tâm thích thú. giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động, cùng với các triệu chứng phổ biến khác như giảm sút sự tập trung và chú ý, giảm sút tính tự trọng và lòng tin, những ý tưởng bị tội và không xưng đáng, nhìn vào tương lai ảm đạm và bị quan, ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát, rối loạn giấc ngủ, ăn ít ngon miệng.

4

Để chẩn đoán xác định trầm cảm cần phải có tối thiểu 2 trong các triệu chứng chính cộng thêm 2 trong số các triệu chứng phổ biến khác. Phải có ở nhất 2 tuần để làm chẩn đoán và cũng có thể cần thời gian ngắn hơn nếu các triệu chứng nặng bất thườnng và khởi phát nhanh.

Phân biệt các mục đỏ trầm cảm nhẹ, vừa và nặng đưa vào một sự cân nhắc lâm sàng phức tạp. Năng suất của các hoạt động xã hội nghề nghiệp là yếu tố chỉ điểm cho việc xác định các mức độ nặng, nhẹ vừa của trầm cảm.

1.1.2.2. Biểu hiện lâm sàng

Trầm cảm là một giai đoạn rối loạn khí sắc, có 1 đặc điểm biểu hiện quá

trình ức chế toàn bộ hoạt động tinh thần. Cảm xúc, tư duy và vận động

- Cảm xúc buồn rầu: Người bệnh buồn rầu, nhìn mọi vật xung quanh một

cách bị quan ảm đạm.

- Tư duy châm chạp:. Người bệnh suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng không

nhanh chóng, tự cho mình là thấp kém, có hoang tương bị tội, hoang tương tự buộc tội. hoang tưởng nghị bệnh, hội chứng Cotard và có ý nghĩ hay hành vi tự sát. -Vận động ức chế: Người bệnh ít hoạt động, ít nói, sừng số đó dẫn, thườnghay ngồi lâu trong một tư thế với nét trầm ngầm suy nghĩ [18].

Tiêu chuẩn chấn đoàn con trầm cản hậu Cần có một trong hai triệu chứng

sau:

- Trạng thái trầm cảm

- Mất quan tâm hoặc thích thú với hầu hết hoặc tất cả các công việc thường

nhật

Kèm 5/7 triệu chứng sau, tất cả ít nhất kéo dài 2 tuần lễ.

- Giảm cân hoặc tăng cân quá mức

-Mất ngủ hoặc ngủ nhiều

-Kích động loạt chậm chạp tâm lý vận động

- Mệt mỏi hoặc mất sinh lực

-Cảm giác không đang giá hoặc cảm giác có tội không dùng hoặc quá mức

-Giảm khả năng suy nghĩ hoặc tập trung bất định.

- Ý tưởng tài diễn về cái chết hoặc tự tử [18].

Theo ICD-10, sự hồi hợp các triệu chứng là phổ biến, trầm cảm cùng tồn tại

với lo âu là thường gặp nhất [18].

1.2. Khái niệm, triệu chứng, chẩn đoán bệnh trào ngược dạ dày thực quản.

1.2.1. Định nghĩa

Trào ngược dạ dày thực quản là hiện tượng một phần dịch dạ dày đi ngược

5

lên thực quản qua cơ thắt thực quản duới, quá trình này có hoặc không có triệu

chứng nhưng phản lớn chủng gây ra các triệu chứng ợ chưa, nóng rát sau xương ức, đau ngực, nuốt khó.... Viêm thực quan trào ngược là hiện tượng tổn thương thực quân gây ra do chất trào ngược.

1.2.2. Dịch tễ học bệnh trào ngược Dạ dày thực quản

Đây là bệnh lý phổ biến trên thế giới, ở Mỹ 10-20%, ở Thụy sĩ 5%, Phần Lan

27%-30%. Pháp 27.1%, Thụy Điển 25% [19] [20] [21]. Ở Châu Á GERD ít gặp hơn, ở Nhật 16,3%, Dài Loan 5%, Ấn Độ 7.5%, Trung Quốc 0,5%, Malaysia 3%, Hàn Quốc và Dài Loan 3,4-9% [21] [22]. Tỷ lệ lưu hành của những triệu chứng trào ngược gia tăng hàng năm trung bình khoảng 5% ở Bắc Mỹ, 27% ở Châu Âu, ở Châu Á, một nghiên cứu từ Singapore cho thầy tu lệ hiện mắc của GERD đang gia tăng từ 5,5% ở năm 1994 tăng lên 10.4% ở năm 1999 [22] bệnh GERD trước đây không phổ biến ở Châu Á nhưng bảy giờ lại trở thành 1 bệnh quan trọng trong vùng [3]. Hai triệu chứng điển hình của GERD cũng gặp ở tỉ lệ cao trong dân số: ở Mỹ 44% người lớn có triệu chứng nóng rát ít nhất 1 lần trong 1 tháng, 14% có nóng rất ít nhất 1 lần mỗi tuần, và 7% có nông rất mỗi ngày [23].

Ở Việt Nam, theo thống kê của tác giả Lê Văn Dũng tiến hành tại khoa thăm dò chức năng bệnh viện Bạch Mai năm 2001 cho thấy tỉ lệ viêm thực quản do trào ngược khoảng 7,8%. Tuổi và giới: Bệnh hay gặp ở nam nhiều hơn nữ, lứa tuổi gặp nhiều nhất là 40- 49 tuổi. Chế độ sinh hoạt: Hút thuốc lá, uống rượu, cà phê, dùng các thuốc chống viêm không steroid, các thuốc chẹn kênh canxi,... có thể tạo nên cơ hội dễ nảy sinh GERD. Đặc biệt những người nghiện thuốc, ngoài hiện tượng giảm cơ thắt thực quản còn thấy tình trạng tăng áp lực trong khoang bụng tương ứng với lúc hít mạnh hoặc ho [4]

Bệnh thực quán trào ngược là tập hợp tất cả các triệu chứng và hậu quả ở

thực quản do trào ngược gây ra.

1.2.3. Nguyên nhân

Hiện nay, nguyên nhân gây bệnh vẫn còn chưa tỏ song người ta tìm thấy một số yếu tố nguy cơ sau: - Yếu tố gen: người ta nhận thấy ở một số gia đình có nhiều người cùng bị

bệnh TNDDTQ

- Giải phẫu học, một số bệnh nhân có TQ ngắn, khỏi u TQ, thoát vị cơ - Tuổi hay gặp nhiều ở người trên 40 - Giới: nam tập nhiều hơn nữ - Chế độ sinh hoạt hút thuốc là, uống rượu, cà phê, dùng các thuốc chống

viêm không steroid, các thuộc chọn kênh canxi,... đều ảnh hưởng đến khả năng trào ngược dạ dày TQ - Béo phì

6

1.2.4. Chẩn đoán bệnh GERD 1.2.4.1. Lâm sàng

Hội chứng của bệnh GERD có triệu chứng rất đa dạng, từ những tổn thương rất nhẹ không có triệu chứng, không có biến chứng cho tới những trường hợp viêm thực quản có biến chứng về giải phẫu và chức năng. - Các triệu chứng điển hình [24] [25]

+ Nóng rất sau xương ức: bệnh nhân có cảm giác nóng rát sau xương ức. lan lên trên, xuất hiện sau ăn, khi năm ngứa hoặc khi cúi. Triệu chứng đau tăng lên khi có kết hợp các yếu tố như ăn no, uống bia rượu, cà phê. Triệu chúng cũng có thể giảm khi dùng các thuốc trung hòa acid, ngôi hay đứng dày. Nóng rát sau bữa ăn và đêm phải thức dậy nhiều lần thường xảy ra ở những người có viêm thực quan nặng +Ợ chua: bệnh nhân có cảm giác chua miệng khi ợ, thường xuất hiện sau ăn,

khi nằm hoặc vào ban đêm, khi thay đổi tư thế. Ợ chua thưởng vào ban đêm kèm với cơn ho, khó thở. Dịch acid trào ngược lên họng gây nên. - Các triệu chứng không diện hình: [24] [25] + Nuốt khó: khó khăn khi nuốt, cảm thấy vướng thường do co thắt, phù nề hoặc do hẹp thực quản. + Nuốt đau: là hiện tượng đau khi nuốt thường gắn liền với viêm thực quản nặng và thưởng báo hiệu là biến chứng ở thực quản

- Các triệu chứng ngoài cơ quan tiêu hóa: [24] [25]

+ Đau ngực giống như cơn đau thắt ngực nhưng ở đây cơn đau không điển hình. Đặc điểm là đau rút sau xương ức, lan lên vai, sau lưng, lên cung răng. Các triệu chứng xảy ra không theo quy luật, ngắt quãng, không liên quan đến bữa ăn, lao động nặng hoặc gắng sức, đáp ứng kém với các thuốc giãn mạch. Các triệu chứng này tuy do trào ngược nhưng cũng nên làm các thâm dò chức năng khác để chẩn đoán phân biệt với bệnh lý động mạch vành, các rối loạn chức năng vận động TQ.

+ Ho kéo dài là triệu chứng hay gặp về đường hô hấp của GERD, nguyên nhân có thể do hít phải chất trào ngược

+ Khó thở về ban đêm do acid dạ dày gây ra co thắt đường thở. Thường xảy ra ở những trường hợp GERD nặng, biểu hiện có thể chít hẹp, phù nề phế quản

+ Các triệu chứng tại họng: Sự rối loạn âm thanh xuất hiện với tần suất tương đối cao, biểu hiện như khàn giọng, khó phát âm kèm theo co thắt từng lúc. Viêm họng phát triển theo kiểu mạn tính, tái phát.

+ Các triệu chứng ở mũi: Đau như có dị vật mà không giải thích được làm bệnh nhân lo lắng, biểu hiện dị cảm mũi xảy ra khi nuốt nước bọt.

Với hai triệu chứng nóng rất sau xương ức và ở chùa hay gặp với tỷ lệ cao có

giá trị giúp chân đoán lâm sàng tới khoảng 90% các trường hợp. Trong các trường hợp này nên tiến hành điều trị theo phác đồ chuẩn. * Theo tiêu chuẩn Rome III: thời gian xuất hiện các triệu chứng kéo dài ít

7

nhất 12 tuần trong 6 tháng (không cần liên tục), ít nhất 1 lần trong tuần [26]. 1.2.3.2. Cận lâm sàng. a. Nội soi

Được chỉ định để tránh bỏ sót chẩn đoán các bệnh có triệu chứng thực quản, xác định biến chứng và đánh giá thất bại điều trị. Các triệu chứng báo hiệu như khó nuốt, nuốt đau, ăn mau no, giảm cân hay chảy máu nên xtôi xét chỉ định nội soi. Các cách phân loại tổn thương thực quản do GERD trên nội soi:

● Phân loại của Savary – Miller: [27].

+ Độ 1: Có 1 vài đám xung huyết hay trợt loét nông nằm riêng rẽ về một phía theo chu vi thực quản + Độ 2: Có các đám xung huyết hay trợt loét nông nằm gần nhau nhưng ranh giới còn rõ rang nhưng không chiếm toàn bộ chu vi thực quản + Độ 3: Các đám xung huyết hay trợt loét nông chiếm toàn bộ chu vi thực quản nhưng không làm teo hẹp thực quản. + Độ 4: Loét thực sự và gây hẹp.

● Phân loại theo Los Angeles: [22] [21]

+ Độ A: Có một hoặc nhiều tổn thương không kéo dài quá 5mm, không kéo dài giữa hai đỉnh nếp niêm mạc. + Độ B: Có một hoặc nhiều tổn thương kéo dài quá 5mm, không kéo dài giữa hai đỉnh nếp niêm mạc + Độ C: Có một hoặc nhiều tổn thương niêm mạc nối liền giữa hai hay nhiều nếp niêm mạc, nhưng không xâm phạm quá 75% chu vi ống thực quản. + Độ D: Có một hoặc nhiều tổn thương niêm mạc xâm phạm quá 75% chu vi ống thực quản.

b. Đo độ pH hoặc theo dõi pH – trở kháng

Được chỉ định để định lượng tình trạng tiếp xúc acid, hiện tượng trào ngược, và mối tương quan giữa trào ngược với triệu chứng ở những bệnh nhân có các triệu chứng dai dẳng mặc dù đã điều trị thuốc ức chế acid ( đặc biệt là trường hợp nội soi không thấy tổn thương ) hoặc những bệnh nhân có các triệu chứng không điển hình. Xác định pH – trở kháng cũng có thể xác định hiệu quả của thuốc ức chế acid ở những bệnh nhân GERD và các triệu chứng đang diễn ra.

c. Đo áp lực thực quản, đặc biệt là đo áp lực nhu động thực quản (HRM, có thể xác

định các quá trình cơ học góp phần gây ra các triệu chứng dai dẳng [24].

d. Đo pH thực quản liên tục 24 giờ

Nhiều chuyên gia cho rằng những bất thường về pH thực quản 24 giờ có thể được coi như là tiêu chuẩn vàng để chân đoàn TNDDTQ. Phương pháp này theo dõi tổng số lần acid trào ngược lên TQ. Tuy nhiên rất khó phân biệt được những trào ngược sinh lý với trào ngược bệnh lý, ngưỡng giữa binh thường và không bình thưởng lại cho kết qua không rõ ràng.

8

e. Chụp xạ hình thực quản

Cho bệnh nhân cống 0,5mCi Tecnexi 99 – Phyton Sau những khoảng thời gian nhất định người ta xác định một độ tập trung ở 13 dưới thực quan. Độ nhạy của phương pháp này thấp hơn so với do pH TQ 24h. Tuy nhiên nó có ưu điểm là một phương pháp đơn giản hơn, hầu như không gây tấn thương. Mặc dù vậy nó không cho biết mối liên quan với triệu chứng lâm sàng như là đo pH TQ và vì thế không ưu tiên lựa chọn đầu tiên trong chẩn đoán.

1.2.3.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán đánh giá trên lâm sàng Bộ câu hỏi GERD Q đã được Việt hóa do công ty Astra-Zeneca cung cấp. Bảng Việt hóa này đã được xác định là đảm bảo được ý nghĩa của bảng GERD Q gốc bằng tiếng Anh khi kiểm tra bằng phương pháp dịch ngược. Theo thiết kế nghiên cứu đa trung tâm Diamond về bảng câu hỏi GERD Q do John Dent và cộng sự đã dàng trên tạp chí Scandinavian Journal of Gastroenterology 2008 với 1 bộ câu hỏi gồm 6 câu ( 4 câu về triệu chứng, 2 câu về tác động của bệnh trên bệnh nhân) do bệnh nhân tự điền và bác sỹ kiểm tra lại. Các trả lời được thiết kế theo thang điểm các lựa chọn ("không bao giờ", "1 ngày”, “2- 3 ngày" và "4- 7 ngày"), độ nhạy của GERD Q là 65% và độ đặc hiệu là 71% cho chẩn đoán GERD [28]. Hãy nhớ lại các triệu chứng trong 7 ngày vừa qua và chọn câu trả lời đúng nhất.

Bảng 1.1. Bảng câu hỏi đánh giá thang điểm GERD-Q.

1, Bạn có triệu chứng nóng rát giữa ngực, sau xương ức mấy ngày trong tuần? D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm ) A, 0 ngày ( 0 điểm )

2, Bạn có triệu chứng ợ nước chua hoặc thức ăn từ dạ dày lên cổ họng hoặc miệng mấy ngày trong tuần?

3, Bạn có triệu chứng đau ở vùng bụng trên mấy ngày trong tuần?

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm ) A, 0 ngày ( 0 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm )

4, Bạn có triệu chứng buồn nôn mấy ngày trong tuần? C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm )

A, 0 ngày ( 3 điểm ) B, 1 ngày ( 2 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

5, Bạn thấy khó ngủ vào ban đêm do cảm giác nóng rát sau xương ức và/hoặc ợ mấy ngày trong tuần?

B, 1 ngày ( 2 điểm ) A, 0 ngày ( 3 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

6, Ngoài các thuốc trong đơn bác sĩ kê, bạn phải uống thêm một số loại thuốc khác như Phosphalugel, Maalox... mấy ngày trong tuần? B, 1 ngày ( 1 điểm )

A, 0 ngày ( 0 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

9

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm ) A, 0 ngày ( 0 điểm )

Bảng 1.2. Bảng đánh giá kết quả của thang điểm GERD-Q.

Chẩn đoán % Khả năng viêm thực quản Tổng điểm Điểm ô C ( Điểm tác động)

0 – 2 0

3 – 5 6 – 8 ≥ 9 13,2 12,3 40

< 3 ≥ 3 Khả năng GERD thấp Khả năng GERD cao GERD nhẹ GERD nhẹ GERD nặng

1.3. Các yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

1.3.1. Nguyên nhân gây ra lo âu, trầm cảm

Giống như các rối loạn tâm thần khác, mặc dù nhiều nghiên cứu đã cung cấp

một số dữ liệu nhưng cho đến nay khoa học vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây ra stress, lo âu, trầm cảm. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố liên quan đến các rối loạn đó. Bao gồm các yếu tố sau [7, 31, 46]:

Các đặc điểm cá nhân: tuổi, giới tính, cân nặng, tình trạng bệnh tật, tính

cách, suy nghĩ, trình độ học vấn, lối sống…

Gia đình: di truyền, số người trong gia đình, mối quan hệ giữa các thành viên

trong gia đình, tình trạng về kinh tế, vật chất…

Môi trường xã hội: an ninh trật tự, tình hình chính trị, văn hoá, kinh tế… - Nơi làm việc: các mối quan hệ trong công việc, văn hoá tổ chức, môi trường làm việc, cơ sở vật chất, trang thiết bị, khối lượng công việc, các nguy cơ gặp phải trong công việc, vị trí, chức danh…

Môi trường tự nhiên: thiên tai, thời tiết, tiếng ồn, nhiệt độ, giao thông, bụi, sự

ô nhiễm…

1.3.2. Dịch tễ học rối loạn lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Các triệu chứng của GERD dường như là một gánh nặng cho bệnh nhân về

sức khỏe thể chất, tình cảm và xã hội [2].

10

GERD cũng là một trong những vấn đề chính của đường tiêu hóa trên (GI); 10% đến 20% dân số báo cáo các triệu chứng của GERD mỗi tuần. Từ năm 2005 đến năm 2010, GERD dựa trên các triệu chứng phổ biến trong số 5,2% đến 8,5% dân số ở Đông Á. Ở Iran, tỷ lệ này phổ biến trong khoảng 6,3% đến 18,3% dân số, vì Iran là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á có phần lớn các nghiên cứu về tỷ lệ GERD đã được

thực hiện. Tại Pakistan, các nghiên cứu tại bệnh viện cho thấy GERD phổ biến ở 22,2% và 24,0% dân số trong hai nghiên cứu địa phương khác nhau [3].

Tại Việt Nam chưa có nghiên cứu thống kê tỉ lệ rối loạn lo âu ở người bệnh

trào ngược dạ dày thực quản

1.3.3. Những điều kiện gây rối loạn tâm thần ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) có tác động mạnh mẽ đến chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe, ảnh hưởng đến các hoạt động xã hội hàng ngày và thể chất và tình cảm của người bệnh. GERD cũng cản trở giấc ngủ và công việc lành mạnh. GERD là một rối loạn tiêu hóa ảnh hưởng đến cơ vòng thực quản dưới, gây ra các triệu chứng khó chịu như ợ chua hoặc khó tiêu axit [29].

GERD và các biến chứng của nó, bao gồm cả Barrett thực quản và ung thư biểu mô tuyến của thực quản, đang ngày càng phổ biến trên toàn thế giới [30]. Các triệu chứng của GERD gây khó chịu và thậm chí có thể mở rộng từ các triệu chứng chính thông thường là nôn trớ và viêm da mủ [29]. Mối liên quan giữa GERD và sức khỏe tâm lý đã được xác định trong nhiều nghiên cứu [31], [32]. Một kết nối chặt chẽ có thể tồn tại giữa đường tiêu hóa và não. Ví dụ, sự xuất hiện của cảm xúc đau khổ và căng thẳng có thể ảnh hưởng đến chức năng , dẫn đến các bệnh. Tương tự, căng thẳng có thể ảnh hưởng đến tinh thần và cảm xúc. Mức độ nghiêm trọng của rối loạn chức năng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm lý, làm thay đổi nhận thức về đau do hoạt động trên trục ruột-não, cũng áp dụng cho GERD.

Hơn nữa, các yếu tố tâm lý làm tăng khó khăn trong điều trị rối loạn chức năng, dẫn đến kết quả kém [31]. Tuy nhiên, không có mối liên quan đáng kể nào giữa mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng của GERD và những bất thường về sinh lý bệnh được xác định bằng đo pH và đo thực quản 24 giờ. Điều này ủng hộ quan điểm cho rằng các triệu chứng GERD bị ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố tâm lý [33]. Theo hiểu biết tốt nhất của chúng tôi, một số ít được xuất bản Các báo cáo toàn cầu thiết lập mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý, bao gồm trầm cảm và lo âu, và các triệu chứng GERD cho đến nay và kết quả của những nghiên cứu đó không nhất quán [30].

Cần có một bức tranh rõ ràng về mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý và GERD để có thể xác định và tiến hành điều trị thích hợp ở bệnh nhân GERD, vì các yếu tố tâm lý có thể làm tăng các triệu chứng của GERD cùng với việc làm xấu đi kết quả của liệu pháp và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Do đó, nghiên cứu này tập trung vào việc xác định tỷ lệ trầm cảm và lo âu ở bệnh nhân GERD.

11

1.4. Giới thiệu một số thang đo lường lo âu, trầm cảm và thang đánh giá lo lắng và trầm cảm bệnh viện (HADS)

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều bộ công cụ được sử dụng để nghiên cứu,

đánh giá các vấn đề sức khoẻ tâm thần (SKTT). Có thể kể đến một số bộ công cụ được sử dụng nhiều trong nghiên cứu khoa học như bộ câu hỏi đánh giá cảm nhận về stress (PSS 10), thang đánh giá về stress (GHO 12), thang tự đánh giá lo âu của Zung (SAS), thang đánh giá lo âu của Beck (BAI), thang đo đánh giá trầm cảm của Beck (BDI), thang đánh giá trầm cảm và lo âu (AKUADS), thang đánh giá stress, lo âu, trầm cảm của Lovibond (DASS 21 và DASS 42), thang đánh giá lo lắng và trầm cảm bệnh viện (HADS) của Zigmond and Snaith.

Thang đo lo âu và trầm cảm của bệnh viện (HADS) được Zigmond và Snaith [34] xây dựng cách đây 30 năm để đánh giá sự lo lắng và trầm cảm trong một nhóm bệnh nhân nói chung. Dần dần nó đã trở thành một công cụ phổ biến, cho thực hành và nghiên cứu lâm sàng [35].

Ưu điểm của thang điểm HADS là tính đơn giản, nhanh chóng và dễ sử dụng. Rất ít người gặp khó khăn khi hoàn thành nó, trên giấy hoặc điện tử. Nó đánh giá cả lo lắng và trầm cảm, thường cùng tồn tại . Các bác sĩ lâm sàng không nhận biết được lo âu, vì vậy cần được chủ động tìm kiếm . Lo lắng thường xảy ra trước trầm cảm để đối phó với các tác nhân gây căng thẳng, và việc xác định nhân viên có mức độ lo lắng cao hoặc gia tăng trước khi bị trầm cảm cho phép các bác sĩ sức khỏe nghề nghiệp tư vấn về các biện pháp can thiệp sớm khi nhân viên vẫn đang làm việc và có khả năng tránh được việc nghỉ ốm. Điều này sẽ bị bỏ sót khi sử dụng bảng câu hỏi chỉ dành cho bệnh trầm cảm như Bảng câu hỏi về sức khỏe bệnh nhân (PHQ9). HADS tập trung vào các triệu chứng phi thể chất để nó có thể được sử dụng để chẩn đoán trầm cảm ở những người có sức khỏe thể chất kém. Bất kỳ sự chồng chéo nào, ví dụ như suy giảm khả năng tập trung thứ phát sau đau hơn là trầm cảm, thường dễ tách biệt trên cơ sở cá nhân. HADS không bao gồm tất cả các tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh trầm cảm (Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần, Ấn bản thứ tư / thứ năm (DSM IV / V) hoặc tất cả các tiêu chí được Đơn vị phát triển công việc và sức khỏe. Quốc gia về bệnh trầm cảm và dài hạn yêu cầu Kiểm tra sàng lọc khi vắng mặt ốm đau. Đối với điều này, các câu hỏi bổ sung về sự thèm ăn, giấc ngủ và ý nghĩ tự làm hại / tự tử phải được đặt ra. Tất nhiên, việc đánh giá rủi ro đối với hành vi tự làm hại hoặc tự sát cần được thực hiện trong những trường hợp thích hợp [35].

Bảng câu hỏi bao gồm bảy câu hỏi cho lo lắng và bảy câu hỏi cho trầm cảm, và mất 2–5 phút để hoàn thành. Mặc dù các câu hỏi về lo âu và trầm cảm được xen kẽ trong bảng câu hỏi, nhưng điều quan trọng là chúng phải được chấm điểm riêng biệt.

12

Tại Việt Nam thang đo này được mua bản quyền và dịch sang tiếng Việt bởi Khoa nghiên cứu y học hành vi thuộc Trường Đại Học New South Well, Úc. Thang điểm HADS đã được nhiều nghiên cứu đánh giá về tính giá trị, độ tin cậy và khẳng định có thể áp dụng tại Việt Nam, không có sự khác biệt về mặt văn hoá.

Từ những lý do trên, chúng tôi đã chọn thang đo HADS để sử dụng cho

nghiên cứu của mình.

Về thang HADS trong nghiên cứu này sử dụng 14 câu hỏi đánh giá mức độ

lo âu. Trong đó 7 câu đánh gia mức độ lo âu, 7 câu đánh giá mức độ trầm cảm. Mỗi câu có 4 mức độ trả lời tương ứng với điểm 0,1,2,3. Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi, theo các mức độ: Từ 0 đến 7 điểm: bình thường; từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu, trầm cảm; từ 11 đến 21 điểm: lo âu, trầm cảm thực sự.

1.5. Một số nghiên cứu về stress, lo âu, trầm cảm trên thế giới và tại Việt Nam

1.5.1. Trên thế giới

Nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) sử dụng thang điểm HADS để đánh giá tình trạng lo âu trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở 2 nhóm bệnh nhân không đau ngực và có đau ngực. Trong nghiên cứu cắt ngang này, 258 bệnh nhân liên tiếp được chẩn đoán GERD được bao gồm từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 đến ngày 30 tháng 7 năm 2019. Trong số 258 người tham gia, 112 người báo cáo lo lắng về đau ngực [10]. Biểu hiện lâm sàng của trào ngược dạ dày thực quản được đánh giá trên bảng câu hỏi về triệu chứng trào ngược dạ dày thực quản. Trong bảng câu hỏi này, các triệu chứng thực quản và ngoài thực quản liên quan đến GERD đã được đánh giá. Thang điểm Likert năm mục được sử dụng để phân loại tần suất và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng. GERD được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng, chẳng hạn như chứng pyrosis (tức là ợ chua) và nôn trớ, theo tiêu chuẩn Montreal. Một bảy mục, đã được xác nhận bởi Yang XJ trong nghiên cứu của mình, bảng câu hỏi GERD được sử dụng để chẩn đoán GERD, và phần cắt 12 được khuyến nghị cho độ đặc hiệu là 84% và độ nhạy là 82% [36]. Các triệu chứng trầm cảm và lo lắng được đánh giá bằng Thang điểm Lo lắng / Trầm cảm của Bệnh viện (HADS), có các đặc tính đo lường tâm lý mạnh mẽ, ngắn gọn và dễ thực hiện. HADS bao gồm 14 mục được chia thành hai thang điểm 21 cho lo lắng và trầm cảm, và điểm ≥ 8 được coi là bất thường đối với lo âu hoặc trầm cảm. Kết quả khi nghiên cứu 258 bệnh nhân.

Bảng 1.3. Kết quả nghiên cứu của Saleh Mohammad Channa và các cộng sự

Điểm HADS

HADS trầm cảm HADS lo âu HADS lô âu và trầm cảm GERD không đau ngực (n=146) 52 (35.6%) 35 (23.9%) 30 (24.7%) GERD có đau ngực (n=112) 55 (49.1%) 54 (48.2% 40 (35.2%)

Từ nghiên cứu của Saleb Mohammad Channa và các cộng sự ta thấy rằng tỉ

13

lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản có đau ngực cao hơn đáng kể ở người không có triệu chứng đau ngực.

Nghiên cứu của Zhi Xiang On và các cộng sự về mối liên quan giữa bệnh

trào ngược dạ dày thực quản (GERD) với chất lượng giấc ngủ, trầm cảm và lo lắng đàn ông Úc [11]. Trong nghiên cưu này nghiên cứu 1612 người trong đó 1391người không mắc GERD (86.3%) và 221 người mắc GERD Kết quả:

Bảng 1.4. Kết quả nghiên cứu của Zhi Xiang On và các cộng sự

Mắc GERD (n= 221)

Không lo âu Lo âu thực sự 161 (79.3%) 42 (20.7%) Mắc GERD (n= 221)

Không trầm cảm Có triệu chứng trầm cảm Trầm cảm thực sự Không mắc GERD( n=1391) 1159 (90.6%) 121 (9.4%) Không mắc GERD( n=1391) 1079 (81.2 %) 61 (4.6%) 189 (14.2%) 132 (62.9%) 14 (6.7%) 64 (30.5%)

Từ kết quả nghiên cứu của Zhi Xiang On ta thấy được tỉ lệ lo âu ở người

bệnh trào ngược dạ dày thực quản là 20.7% cao hơn nhiều so với người không bị trào ngược dạ dày thực quản 9.7%. Tỉ lệ trầm cảm thực sự người bệnh trào ngược dạ dày thực quản là 30.5% gấp 2.15 lần so với tỉ lệ trầm cảm thực sự ở người không bị trào ngược dạ dày thực quản (14.2%).

1.5.2. Tại Việt Nam.

Hiện nay tại Việt Nam có nhiều nghiên cứu về tình trạng lo âu và trầm cảm

14

trên các đối tượng khác nhau như học sinh, sinh viên, bệnh nhân mắc các bệnh mãn tính, người làm trong các ngành nghề khác nhau..Nhưng chưa có một nghiên cứu nào về tình trạng lo âu và trầm cảm trên người bệnh trào ngươc dạ dày thực quản.

Chương 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu, địa điểm và thời gian nghiên cứu:

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu: +) Tiêu chuẩn lựa chọn mẫu nghiên cứu: tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E

Hồ sơ bệnh án ghi rõ ràng, đầy đủ thông tin cần nghiên cứu.

+) Tiêu chuẩn loại trừ mẫu nghiên cứu:

- Không đáp ứng các tiêu chuẩn trên.

- Hồ sơ bệnh án không rõ ràng, không nằm trong thời gian nghiên cứu.

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu:

Nghiên cứu được tiến hành tại Khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc

tế Bệnh Viện E năm 2021

2.1.3. Thời gian nghiên cứu: - Thời gian làm nghiên cứu: từ tháng 9/2021 – 12/2021

- Thời gian thu thập số liệu: từ tháng 9/2021 – 12/2021

2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:

Nghiên cưu mô tả cắt ngang

- Cỡ mẫu: Chọn toàn bộ bệnh án đủ tiêu chuẩn nghiên cứu trong thời gian

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: trên

- Phương pháp chọn mẫu: chọn theo phương pháp chọn mẫu không xác suất,

chọn mẫu thuận tiện 57 bệnh nhân cho nghiên cứu.

2.2.3. Các biến số nghiên cứu:

Bảng 2.1. Các chỉ số và biến số nghiên cứu

Mục tiêu Biến số Định nghĩa Phân loại biến

Tuổi Định lượng

15

Đặc điểm cá nhân của ĐTNC Giới tính Tuổi dương lịch, lấy 2021 trừ đi năm sinh của ĐTNC Là giới nam hay nữ Định tính

Dân tộc Tôn giáo Nơi ở hiện tại

Định tính Tình trạng hôn nhân

Nghề nghiệp Định tính

Định tính Thu nhập hàng tháng

Bảo hiểm y tế Định tính

Định tính Tần suất luyện tập thể thao

Định tính

Định tính

Đặc điểm về bệnh GERD của ĐTNC

Định tính

Triệu chứng đau ngực Kết quả nội soi, Giai đoạn bệnh Thời gian mắc bệnh Bệnh lý nền Định tính

Mức độ lo âu Định tính

Mức độ trầm cảm Định tính Xác định tỉ lệ lo âu và trầm cảm của người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại bệnh viện E năm 2021

Định tính

Định tính Giới tính Nhóm mức nhập hàng tháng

Bảo hiểm y tế Định tính

Bệnh lý nền Định tính

16

Xác định một số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại bệnh viện E năm 2021 Định tính Triệu chứng đau ngưc Định tính Dân tộc của ĐTNC Tôn giáo của ĐTNC Định tính Nơi ở hiện tại của ĐTNC Định tính Là chưa kết hôn/kết hôn/ly thân, ly dị hay goá bụa Là CBCNV/ hưu trí/ công nhân, nông nhân hay nghề tự do Là thu nhập hàng tháng của ĐTNC(triệu VNĐ/ tháng) Là việc có hay không có sử dụng BHYT của ĐTNC Là số lần tập thể thao trong tuần của ĐTNC(thường xuyên, thỉnh thoảng, không bao giờ) Là có hoặc không có triệu chứng đau ngực Là trào ngược LA độ A, B, C hoặc D Là thời gian mắc bệnh của ĐTNC Là Có hoặc không có Mức độ lo âu theo thang điểm HADS (bình thường, có triệu chứng lo âu, lo âu thực sự. Mức độ trầm cảm theo thang điểm HADS (bình thường, có triệu chứng trầm cảm, trầm cảm thực sự. Nam hoặc nữ Nhóm mức thu nhập ≤6 triệu hoặc >6 triệu Nhóm có hoặc không có BHYT Nhóm có hoặc không có bệnh lý nền Nhóm có hoặc không có triệu chứng đau ngực

Định tính

Định tính Kết quả nội soi, giai đoạn bệnh Thời gian mắc bệnh

Điểm GERD-Q Định tính Nhóm trào ngược LA độ A, B, C hoặc D Nhóm thời gian mắc bệnh ≤12 tháng hoặc >12 tháng Nhóm <9 điểm hoặc nhóm ≥9 điểm.

2.3. Công cụ nghiên cứu

Sử dụng thang HADS trong nghiên cứu này sử dụng 14 câu hỏi đánh giá

mức độ lo âu. Trong đó 7 câu đánh gia mức độ lo âu, 7 câu đánh giá mức độ trầm cảm. Mỗi câu có 4 mức độ trả lời tương ứng với điểm 0,1,2,3.

Kết quả được phân tích theo tổng điểm các câu hỏi, theo các mức độ:

- Từ 0 đến 7 điểm: bình thường. - Từ 8 đến 10 điểm: có thể có triệu chứng của lo âu, trầm cảm. - Từ 11 đến 21 điểm: lo âu, trầm cảm thực sự.

2.4. Phương pháp thu thập số liệu

Bộ câu hỏi được phát cho ĐTNC tự điền dưới sự hướng dẫn của nhà nghiên cứu đảm tính trung thực, khách quan. Sau khi điền xong nhà nghiên cứu tiến hành thu lại câu trả lời của ĐTNC.

2.5. Phương pháp phân tích số liệu

Thông tin được làm sạch và mã hoá. Số liệu được nhập bằng phần mềm SPSS

20.0.

Phân tích số liệu bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0. Cả thống kê mô tả và thống kê suy luận được thực hiện. Thống kê mô tả các biến định lượng bao gồm trung bình, trung vị và độ lệch chuẩn, thống kê mô tả các biến định tính bao gồm tỉ lệ phần trăm. Thống kê suy luận cho biến định lượng được sử dụng để so sánh sự khác biệt giữa các nhóm. Mức ý nghĩa thống kê p<0.05 được sử dụng trong thống kê và suy luận.

2.6. Các sai số và cách khắc phục

- Việc thu thập thông tin chủ yếu qua bộ câu hỏi được thiết kế sẵn nên có thể gặp phải sai số bởi các nguyên nhân:

- Đối tượng hiểu sai ý của câu hỏi.

17

- Điền phiếu hộ.

- Sai số nhớ lại.

- Đối tượng nghiên cứu không nhiệt tình tham gia nên có thể trả lời sai sự thật.

- Sai số trong quá trình nhập liệu. Các biện pháp khắc phục sai số:

- Đối với các sai số trong quá trình điều tra, biện pháp hạn chế sai số được áp dụng: xin ý kiến chuyên gia, chuẩn hoá bộ câu hỏi thông qua điều tra thử.

- Với các sai số trong quá trình nhập liệu, bộ số liệu được nhập lại 10% số phiếu nhằm kiểm tra thông tin nhập một cách kĩ lưỡng nhất, hạn chế sai số một cách tối đa.

2.7. Đạo đức trong nghiên cứu

- Đề tài nghiên cứu được Hội đồng Y đức của Bệnh viện E, Hội đồng khoa học của Trường Đại học Y Dược - Đại học Quốc Gia Hà Nội thông qua và cho phép tiến hành tại Bệnh viên E.

- Nghiên cứu nhằm mục đích làm nguồn tư liệu phục vụ nghiên cứu khoá luận của bản thân và là tài liệu tham khảo cho các sinh viên của Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội trong quá trình đào tạo, nghiên cứu khoa học.

- Nghiên cứu có sự tham gia tự nguyện của đối tượng nghiên cứu.

- Trước khi tham gia, đối tượng nghiên cứu được cung cấp rõ ràng, đầy đủ thông tin liên quan đến mục tiêu và nội dung nghiên cứu.

- Đối tượng nghiên cứu có quyền từ chối hoặc rút lui khi tham gia nghiên cứu.

- Thông tin cá nhân của đối tượng nghiên cứu được bảo mật.

- Trung thực trong xử lý số liệu.

- Đảm bảo trích dẫn chính xác về nguồn tài liệu tham khảo.

2.8. Hạn chế của nghiên cứu

- Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang nên chỉ cho thấy được tình trạng lo âu, trầm cảm của người bệnh GERD tại một thời điểm và không thể chứng minh được mối quan hệ nhân quả.

- Kết quả thu được từ thang đo không có ý nghĩa chẩn đoán xác định lo âu, trầm cảm mà chỉ đóng vai trò sàng lọc ban đầu các đối tượng có biểu hiện của lo âu, trầm cảm.

18

- Nghiên cứu viên chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thu thập và phân tích kết quả.

Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu:

3.1.1. Đặc điểm cá nhân của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1: Phân bố nhóm tuổi của đối tượng nghiên cứu

Số lượng (n) 16 12 14 15 57 Tỉ lệ (%) 28,1 21 24,6 26,3 100

Nhóm tuổi ≤ 30 tuổi 31-40 tuổi 41-50 tuổi >50 tuổi Tổng số X± SD (GTNN – GTLN) 41,9±13,7(22-78)

Nhận xét:

Bảng 3.1 cung cấp thông tin về độ tuổi người mắc GERD tham gia nghiên cứu. Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 41,86 tuổi (SD=13,65), tuổi nhỏ nhất là 22 tuổi và lớn nhất là 78 tuổi. Nhóm có độ tuổi ≤ 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là 28,1%, sau đó là nhóm có độ tuổi >50 tuổi chiếm tỉ lệ là 26,3%, nhóm có độ tuổi 41-50 tuổi chiếm tỉ lệ 24,6% và chiếm tỉ lệ thấp nhất là nhóm 31-40 tuổi tương ứng 21%.

Biểu đồ 3.1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo giới

43,9%

56,1%

Nữ

Nam

19

Nhận xét:

Biểu đồ 3.1 cho thấy, trong tổng số 57 người bệnh GERD tham gia nghiên

cứu thì nam chiếm đa số với tỉ lệ 56,1%, nữ chiếm 43,9%.

Bảng 3.2: Đặc điểm dân tộc, tôn giáo, nơi ở hiện tại của đối tượng nghiên cứu

Số lượng (n) Tỉ lệ (%) Đặc điểm

51 6 89,5 10,5

53 1 3 93 1,7 5,3

Dân tộc (n=57) Kinh Khác Tôn giáo (n=57) Không Phật giáo Thiên chúa giáo Nơi ở hiện tại (n=57)

12 15 30 57 Xã Thị trấn Thành phố Tổng số 21,1 26,3 52,6 100

Nhận xét: Qua bảng 3.2 chúng ta thấy đa số người bệnh GERD tham gia nghiên cứu là người dân tộc Kinh chiếm 89,5%, hầu như không theo tôn giáo nào chiếm 93%, số ít theo Phật giáo (1,7%) và Thiên chúa giáo (0,28%). Các người bênh GERD đa phần sống ở Thành phố với tỉ lệ 52,6%, ở thị trấn là 26,3 % và ở xã là 21,1 %.

Bảng 3.3: Đặc điểm về hôn nhân của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm Số lượng(n) Tỉ lệ (%)

Tình trạng hôn nhân (n=57)

10 46 1 0 57 17,5 80,7 1,8 0 100 Độc thân Có gia đình Ly thân, ly dị Góa Tổng số

Nhận xét:

Bảng 3.3 cung cấp thông tin về tình trạng hôn nhân của ĐTNC. Người bệnh GERD tham gia nghiên cứu có gia đình chiếm tỉ lệ cao nhất là 80,7%, tiếp theo đó là độc thân chiếm 17,5% và thấp nhất là ly dị chiếm 1,8%.

Bảng 3.4: Đặc điểm về nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu

20

Tỉ lệ (%) 35,1 14,0 31,6 19,3 100 Nghề nghiệp CBCNV Hưu trí Công nhân, nông dân Nghề tự do Tổng số Số lượng(n) 20 8 18 11 57

Nhận xét:

Bảng 3.4 cung cấp thông tin về nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu. Trong đó chiếm tỷ lệ cao nhất là cán bộ công nhân viên (CBCNV) với tỉ lệ là 35,1%, tiếp theo là Công nhân, nông dân với tỉ lệ 31,6%, sau đó là nghề tự do chiếm 19,3%. Thấp nhất là hưu trí với 14%.

Biểu đồ 3.2: Phân bố thu nhập của đối tượng nghiên cứu.

33,3%

≤6 triệu

67,7%

>6 triệu

Nhận xét:

Biểu đồ 3.2 cung cấp cho chúng ta thông tin về đặc điểm thu nhập của đối tượng nghiên cứu. Trong số người bệnh GERD tham gia nghiên cứu có 38 người tương ứng với tỷ lệ 66,7% có thu nhâp trên 6 triệu/tháng và có 19 người tương ứng với 33,3 người có thu nhập nhỏ hơn hoặc bằng 6 triệu.

21

Biểu đồ 3.3: Phân bố về việc sử dụng BHYT của đối tượng nghiên cứu

10,5%

Có BHYT

Không có BHYT

89,5%

Nhận xét:

Biểu đồ 3.3 cung cấp cho chúng ta thông tin về việc sử dụng BHYT của đối tượng nghiên cứu. Đa số người bệnh GERD tham gia nghiên cứu có BHYT chiếm 89,5%. Chỉ có 10,5% số người không có BHYT.

Bảng 3.5: Đặc điểm về tần suất tập luyện thể thao của đối tượng nghiên cứu.

Số lượng (n) Tỉ lệ (%)

36.8 21

50.9 29

12.3 7

100 Tần suất tập luyện thể thao Thường xuyên ( ≥3 lần/tuần) Thỉnh thoảng (1-2 lần/tuần) Không bao giờ ( 0 lần/ tuần) Tổng số 57

Nhận xét:

Bảng 3.5 cung cấp thông tin về tần suất tập luyện thể thao của ĐTNC. Trong đó, đa số người tham gia nghiên cứu có thỉnh thoảng tập thể dục chiếm 50,9%, tiếp theo là thường xuyên chiếm 36,8% và không bao giờ tập luyện thể thao chiếm tỉ lệ thấp nhất với 12,3%.

22

Biểu đồ 3.4: Phân bố về bệnh lý nền của đối tượng nghiên cứu.

12,3%

Có bệnh lý nền

87,7%

Không có bệnh lý nền

Nhận xét:

Biểu đồ 3.4 cung cấp thông tin về bệnh lý nền của ĐTNC. Trong đó có

12,3% ĐTNC có bệnh lý nền và 87,7% ĐTNC không có bệnh lý nền.

3.1.2. Đặc điểm của bệnh trào ngược dạ dày thực quản

Bảng 3.6: Đặc điểm về các triệu chứng lâm sàng

Đặc điểm Số lượng (n=57) Tỉ lệ (%)

Nóng rát sau xương ức 44 77,2

Ợ chua 41 71,9

Đau ngực 11 19,3

Nuốt khó 3 5,3

Nuốt đau 2 3,5

Nôn 1 1,8

Nhận xét:

Bảng 3.6 cung cấp thông tin về các triệu chứng lâm sàng của người bệnh

GERD. Trong đó đa số người bệnh GERD có triệu chứng nóng rát sau xương ức(77,2%) và ợ chua(71,9%). Tiếp theo đó là đau ngực 19,3% và các triệu chứng khác như nuốt khó, nuốt đau và nôn.

Bảng 3.7: Kết quả thang điểm GERD-Q của đối tượng nghiên cứu.

Tổng điểm GERD-Q Số lượng (n=57) Tỉ lệ %

≤ 2

0

0

23

45.6

3 – 7

26

8 – 10

45.6 0

C < 3 C ≥ 3

26 0

≥ 11

3.5 5.3

C < 3 C ≥ 3

2 3

Nhận xét:

Sau khi đánh giá bằng bộ câu hỏi GerdQ, có 45.6% số bệnh nhân có điểm từ 3 – 7, khả năng bị GERD thấp. Có 45.6% số bệnh nhân có điểm từ 8 – 10 và 3.5% số bệnh nhân có điểm từ 11 – 18 có điểm tác động < 3, khả năng bị GERD nhẹ. Có 5.3 % bệnh nhân có điểm từ 11 – 18 và điểm tác động > 3, khả năng bị GERD nặng.

Bảng 3.8: Đặc điểm kết quả nội soi ( giai đoạn bệnh) của đối tượng nghiên cứu

Số lượng (n) Tỉ lệ (%)

96,5 3,5 0 0 100 Kết quả nội soi (giai đoạn bệnh) LA độ A LA độ B LA độ C LA độ D Tổng số 55 2 0 0 57

Nhận xét:

Đa số ĐTNC mắc bệnh GERD ở giai đoạn LA độ A chiếm 96,5% và chỉ có

3,5% mắc bệnh GERD ở giai đoạn LA độ B. Không ghi nhận trường hợp người bệnh ở giai đoạn LA độ C và LA độ D.

Bảng 3.9: Đặc điểm về thời gian mắc bệnh của đối tường nghiên cứu.

Thời gian mắc bệnh ≤ 12 tháng > 12 tháng Tổng số Số lượng (n) 20 37 57 Tỉ lệ (%) 35.1 64.9 100

Nhận xét:

Đa số người bệnh GERD tham gia nghiên cứu có thời gian mắc bệnh >12 tháng chiêm tỉ lệ 64,9% và có 35,1% số người bệnh có thời gian mắc ≤ 12 tháng.

3.2. Xác định tỉ lệ lo âu, trầm cảm của người bệnh GERD tại bệnh viện E năm 2021

Biểu đồ 3.5: Phân bố mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thang điểm

24

HADS

17,5%

Không lo âu

57,9%

24,6%

Có triệu chứng lo âu

Lo âu thực sự

Nhận xét:

Biểu đồ 3.5 cung cấp cho ta thông tin về mức độ lo âu của ĐTNC. Trong số

57 người tham gia nghiên cứu: có 10 người tương ứng với tỉ lệ 17,5% người bệnh GERD tham gia nghiên cứu lo âu thực sự, có 14 người tương ứng với tỉ lệ 24,6% người bệnh GERD có triệu chứng lo âu và có 33 người ứng với tỉ lệ 57,9% người bệnh bình thường.

Biểu đồ 3.6: Phân bố mức độ trầm cảm của người bệnh theo thang điểm

HADS.

21,1%

Không trầm cảm

54,4%

Có triệu chứng trầm cảm

24,5%

Trầm cảm thực sự

25

Nhận xét:

Biểu đồ 3.6 cung cấp cho ta thông tin về mức độ trầm cảm của ĐTNC. Trong

số 57 người bệnh GERD tham gia nghiên cứu, có 12 người tương ứng với tỉ lệ 21,1% số người bệnh GERD có trầm cảm thực sự, có 14 người tương ứng với tỉ lệ 24,5 % số người cố triệu chứng trầm cảm và có 31 người tương ứng với tỉ lệ 54,4% số người bình thường.

50,00%

47,40%

45,00%

40,4%

40,00%

35,00%

30,00%

25,00%

20,00%

15,00%

10,00%

7,0%

5,00%

0,00%

Có ít nhất 1 rối loạn

Có 1 rối loạn

Có 2 rối loạn

Biểu đồ 3.7: . Phân bố đối tượng nghiên cứu theo các nhóm lo âu, trầm cảm.

Nhận xét:

Trong số 57 đối tượng tham gia nghiên cưu, tỉ lệ người bệnh GERD có ít

nhất một biểu hiện rối loạn tâm thần (lo âu, trầm cảm) là 27 người bệnh chiếm 47,4% trong đó: có duy nhất một biểu hiện hoặc lo âu hoặc trầm cảm có 4 người bệnh chiếm 7%, có hai biểu hiện là 23 người bệnh chiếm tỉ lệ 40,4%.

3.3. Xác định một số yếu tố liên quan đến lo âu, trầm cảm của người bệnh GERD tại Bệnh Viên E năm 2021

3.3.1. Phân bố mức độ lo âu và trầm cảm ở người bệnh GERD theo đặc điểm cá nhân

Bảng 3.10: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo giới tính

Đặc điểm cá nhân Lo âu p

Số BN % Không lo âu % Số BN

26

Giới 0,057 POR (KTC 95%) 2,91 (0,96-8,89) Nam Nữ 17 7 53,1 28,0 15 18 46,9 72

Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân Nam(53,1%) cao hơn

so với nhóm bệnh nhân nữ(28%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở bệnh nhân Nam cao gấp 2,91 lần so với nhóm bệnh nhân nữ song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)

Bảng 3.11: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo việc sử dụng BHYT.

Đặc điểm cá nhân Lo âu p

Số BN % Không lo âu % Số BN

BHYT 0,689 POR (KTC 95%) 0.7 (0.13-3.81) Có Không 21 3 41.2 50 30 3 58.8 50

Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có BHYT(41,2%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không có BHYT(50%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở bệnh nhân có BHYT chỉ bằng 0,7 lần so với nhóm không có BHYT song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.12: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo bệnh lý nền

Đặc điểm cá nhân Lo âu p

Số BN % Không lo âu % Số BN

0,439 POR (KTC 95%) 2.0 (0.40-9.91) Có Không 4 20 57.1 40 3 30 42.9 60

Bệnh lý nền Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền(57,1%) cao hơn so

với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền. Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở bệnh lý nền cao gấp 2 lần so với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.13: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thu nhập hàng

tháng

Đặc điểm cá nhân Lo âu p

Số BN % Không lo âu % Số BN`

0,569 POR (KTC 95%) 1.38 (0.45-4.19) ≤6 triệu >6 triệu 9 15 47.4 39.5 10 23 52.6 60.5

27

Thu nhập hàng tháng Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có thu nhâp ≤6 triệu/tháng(47,4%)

cao hơn so với nhóm bệnh nhân có thu nhập >6 triệu/tháng(39,5%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có thu nhâp ≤6 triệu/tháng cao gấp 1,38 lần so với nhóm bệnh nhân có thu nhập >6 triệu/tháng song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.14: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo giới tính.

Đặc điểm cá nhân p

Trầm cảm % Số BN Không trầm cảm Số BN %

Giới 0,198 POR (KTC 95%) 2,02 (0,69-5,89) Nam Nữ 17 9 53,1 36,0 15 16 46,9 64,0

Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có trầm cảm ở nhóm bệnh nhân Nam(53,1%) cao hơn so với

nhóm bệnh nhân nữ(36%). Nguy cơ có ở bệnh nhân Nam cao gấp 2,02 lần so với nhóm bệnh nhân nữ song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.15: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo việc sử dụng

BHYT.

Đặc điểm cá nhân p

Trầm cảm % Số BN Không trầm cảm Số BN %

BHYT 1,0 POR (KTC 95%) 0,82 (0,15-4,46) Có Không 23 3 45,1 50,0 28 3 54,6 50,0

Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có BHYT(45,1%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không có BHYT(50%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở bệnh nhân có BHYT chỉ bằng 0,82 lần so với nhóm không có BHYT song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.16: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo bệnh lý nền.

Đặc điểm cá nhân p

Trầm cảm % Số BN Không trầm cảm Số BN %

0,691 POR (KTC 95%) 1,70 (0,34-8,39) Có Không 4 22 57,1 44,0 3 28 42,9 56,0

Bệnh lý nền Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền(57,1%) cao

28

hơn so với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền(44%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở bệnh lý nền cao gấp 1,70 lần so với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.17: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo thu nhập hàng tháng

Đặc điểm cá nhân p

Trầm cảm % Số BN Không trầm cảm Số BN` %

0,188 POR (KTC 95%) 2,108 (0.69-6,46) ≤6 triệu >6 triệu 11 15 57,9 39.5 8 23 42,1 60.5

Thu nhập hàng tháng Nhận xét:

Tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có thu nhâp ≤6 triệu/tháng

(57,9%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân có thu nhập >6 triệu/tháng(39.5%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có thu nhâp ≤6 triệu/tháng cao gấp 2,11 lần so với nhóm bệnh nhân có thu nhập >6 triệu/tháng song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

3.3.2. Phân bố mức độ rối loạn tâm thần ở người bệnh GERD theo đặc điểm của bệnh GERD.

Bảng 3.18: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo triệu chứng đau ngực

Lo âu p Đặc điểm của bệnh

0,039 POR (KTC 95%) 5,0 (1,16-21,51) Có Không Số BN 8 16 % 72,7 34,8 Không lo âu % 27,3 65,2 Số BN 3 30

Triệu chứng đau ngực Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có đau ngực (72,7%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân không có đau ngực(34,8%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở bệnh nhân có đau ngực cao gấp 5 lần so với nhóm bệnh nhân không đau ngưc và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Bảng 3.19: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo kết quả nội soi.

Đặc điểm của bệnh Lo âu p

POR (KTC 95%) 0,173

Số BN % 40 100,0 22 2 Không lo âu % 60 0 Số BN 33 0 LA độ A LA độ B

Kết quả nội soi Nhận xét:

29

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân trào ngược độ B(100%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân trào ngươc độ A(40%). Song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.20: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo thời gian mắc bệnh.

Lo âu p Đặc điểm của bệnh

Số BN 7 % 35,0 Không lo âu % 65,0 Số BN 13 0,424 Thời gian mắc bệnh POR (KTC 95%) 0,63 (0,21-1,95)

17 45,9 20 54,1 ≤12 tháng >12 tháng

Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤12 tháng(35%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh >12 tháng (45,9%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤12 tháng chỉ bằng 0,63 lần so với nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh >12 tháng, song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.21: Mức độ lo âu của người bệnh GERD theo điểm GERD-Q.

Lo âu p Đặc điểm của bệnh

0 POR (KTC 95%) 0,083 (0,02-0,31) <9 ≥9 Số BN 9 15 % 23,7 78,9 Không lo âu % 76,3 21,1 Số BN 29 4

Điểm GERD-Q Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9

(23,7%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q ≥9 (78,9%).Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 chỉ bằng 0,083 lần nguy cơ có biểu lo âu ở nhóm bệnh nhân có GERD-Q≥9 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Bảng 3.22: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo triệu chứng đau

ngực.

p Đặc điểm của bệnh

0,044 95%) 4,15 (0,97-17,74) Trầm cảm % 72,7 39,1 Số BN 8 18 Không trầm cảm POR (KTC Số BN 3 28 % 27,3 60,9 Có Không

Triệu chứng đau ngực Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có đau

30

ngực(72,7%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân không có đau ngực(39,1%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở bệnh nhân có đau ngưc cao gấp 4,15 lần so với nhóm bệnh nhân không có đau ngực và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

Bảng 3.23: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo kết quả nội soi

Đặc điểm của bệnh p

95%) 0,204

LA độ A LA độ B Trầm cảm Số BN % 43,6 100,0 24 2 Không trầm cảm POR (KTC Số BN 31 0 % 56,4 0

Kết quả nội soi Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân trào ngược độ

A(43,6%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân trào ngược độ B(100%) và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.24: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo thời gian mắc bệnh.

p Đặc điểm của bệnh

Trầm cảm % 35,0 Số BN 7 Không trầm cảm POR (KTC Số BN 13 % 65,0 0,237 Thời gian mắc bệnh 95%) 0,51 (0,17-1,57)

19 51,4 18 48,6 ≤12 tháng >12 tháng

Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh ≤12 tháng(35%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh >12 tháng(51,4%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở bệnh nhân thời gian mắc bệnh ≤12 tháng chỉ bằng 0,51 lần so với nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh >12 tháng và sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Bảng 3.25: Mức độ trầm cảm của người bệnh GERD theo điểm GERD-Q.

p Đặc điểm của bệnh

0 95%) 0,067 (0,016-0,28) <9 ≥9 Trầm cảm % 26,3 84,2 Số BN 10 16 Không trầm cảm POR (KTC Số BN 28 3 % 73,7 15,8

Điểm GERD-Q Nhận xét:

Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q

31

<9 (26,3%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q ≥9 (84,2%).Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 chỉ bằng 0,067 lần nguy cơ có biểu lo âu ở nhóm bệnh nhân có GERD-Q≥9 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm của người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E năm 2021.

4.1.1 Tuổi. Tổng số người bệnh GERD tham gia nghiên cứu là 57 người với độ tuổi trung bình là 41,9±13,7, tuổi nhỏ nhất là 22 và tuổi lớn nhất là 78. Người bệnh GERD tham gia nghiên cứu có tỉ lệ phân bố khá đều giữa các nhóm tuổi, trong đó cao nhất là nhóm tuổi dưới 30 tuổi với tỉ lệ 28,1%, tiếp theo đó là đến nhóm có độ tuổi trên 50 tuổi với tỉ lệ 26,3% và nhóm có độ tuổi từ 41-50 tuổi với tỉ lệ 24,6% và cuối cùng là nhóm có độ tuổi từ 31-40 tuổi với tỉ lệ 21%. Như vậy tuổi bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với một số nghiên cứu trong nước. Đoàn Thị Hoài [14] tuổi trung bình là 40±10,4, Nguyễn Thị Hòa Bình [37] lứa tuổi mắc bệnh nhiều là 30 - 49, Nguyễn Cảnh Bình và cộng sự [38] tuổi trung bình là 42.75±11,07 ( bệnh GERD được chẩn đoán từ triệu chứng ở nóng), Trần Việt Hùng [39] tuổi trung bình là 43,04±13,22, Tạ Long và Đào Văn Long đã ghi nhận thông tin của 2117 bệnh nhân [40] được chân đoán GERD qua bộ câu hỏi, tuổi trung binh là 44±14. Nhưng khi so sánh với các nghiên cứu ở ngoài nước chúng tôi thấy không phù hợp với nghiên cứu của M.E. Numans và N.G. Dewit [41], tuổi trung bình là 48±15.2. T. Scholten tuổi trung bình 52,6 ± 13,8. L BGerson và cộng sự tuổi trung bình: 55,4 ± 14,2. H.El-serag và cộng sự tuổi thường gặp là 60 - 69 [42]. Tuổi trong nhóm bệnh của chúng tôi nhỏ hơn so với một số nghiên cứu ở ngoài nước có thể do

- Điều kiện sống, sinh hoạt ở các nước Phương Tây khác. - Chọn mẫu bệnh nhân vào nghiên cứu khác nhau. - Kinh tế phát triển khá nên bệnh có điều kiện đi kiểm tra sức khỏe khi có triệu

chứng nhiều hơn.

- Theo hội nghị Châu Á thái bình dương GERD đang gia tăng ở Châu Á và lứa

tuổi ngày càng thấp hơn [43]

4.1.2. Giới.

32

Trong nghiên cứu của chúng tôi Nam(56,1%) chiếm tỉ lệ cao hơn nữ (43,9%). Điều này giống với một số nghiên cứu về GERD là bệnh thường gặp ở nam nhiều hơn [41] M.E.Numans nghiên cứu theo bằng câu hỏi Carlson dent nam chiếm 53%, Marc Nobon nam chiếm 53%. Ting Kin Chuung và cộng sự tỉ lệ nam nữ 47/19. L.B.Gerson và cộng sự nam chiếm 74%, T. Scholten; nam chiếm 54,3"%, Dương Minh Thắng; nam chiếm 74,4%, Lê Văn Dũng, nam chiếm 30%. Lê Thị Hoa: nam chiếm 60%. Trần Việt Hùng; nam chiếm 57,3%, Quách Trong Đức, Trần Kiều Miền nam nữ 2,6/1 [41] [44] [45] [39].

Khác với 1 số nghiên cứu trong nước. Tạ Long và Đào Văn Long [20] với số lượng bệnh nhân ở cả 3 miền cho thấy nữ chiếm 55%, Đoàn Thị Hoài [46] nữ chiếm 57,5%, Amstrong và cộng sự (24) nữ chiếm 56,9%, X-Q Ma ở Thượng Hải Trung Quốc nữ chiếm 55,4 % [47]. A.Ruigo'mez [48] nữ chiếm 53.49%

- Điều này có thể do đặc thù của từng địa phương ( sinh hoạt, ăn uống, môi

trường sống, tuổi thọ của nam hoặc nữ khác nhau...).

- Cách chọn mẫu nghiên cứu theo chẩn đoán ban đầu khác nhau.

- Thiết kế nghiên cứu khác nhau.

- Mẫu nhỏ, hoặc mẫu lớn

4.1.3. Thời gian mắc bệnh Theo nghiên cứu của chúng tôi thời gian mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản dưới 1 năm chiếm tỉ lệ 35,1%, Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trong nước, nghiên cứu của Đặng Thị Thu Hiền cho thấy thời gian mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản < 1 năm chiếm tỉ lệ cao nhất 44%; nghiên cứu của Trần Việt Hùng [39], thời gian mắc bệnh dưới 1 năm cũng chiếm đa số nhưng tỉ lệ gặp thì thấp hơn 43,9%. Không tương đồng với nghiên cứu của Dương Minh Thắng là 94,4% [49].

Có sự khác biệt này là do tác giả nghiên cứu trên nhóm bệnh nhân cao tuổi, do đó nhóm có thời gian mắc bệnh chiếm tỉ lệ cao hơn cả, một phần do cách chọn mẫu vào nghiên cứu và tùy vào từng vùng địa lý.

4.1.4. Đặc điểm lâm sàng. Trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh trào ngược dạ dày thực quản có nhiều triệu chứng cơ năng nhưng không có triệu chứng đặc hiệu.

- Nóng rát: Là tiêu chuẩn chọn bệnh nhân vào nghiên cứu vì vậy tỉ lệ nóng rát sau xương ức của chúng tôi là 77,2%, triệu chứng điển hình của trào ngược, trong 57 bệnh nhân nghiên cứu có 44 bệnh nhân có tổn thương thực quản. Theo Da Silva E.P nghiên cứu trên 218 bệnh nhân có viêm thực quản trên nội soi, thấy sự hiện diện của triệu chứng nóng rát không dự đoán được tổn thương ở nội soi, chỉ có khoảng 50-60% những bệnh nhân có triệu chứng này là có viêm thực quản qua nội soi, nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi có 90% có tổn thương thực quản [50].

Một số nghiên cứu khác thấy tỉ lệ nóng rát như Quách Trọng Đức, Hồ Xuân Linh triệu chứng nóng rát chiếm 44%. Nguyễn Tuấn Đức thấy triệu chứng nóng rất chiếm 57.5%, nhưng nghiên cứu của Đoàn Thị Hoài thì triệu chứng nóng rát chi chiếm 15,1% [46]

33

- Triệu chứng ợ chua: đây là 1 trong 2 triệu chứng quan trọng nhất để chẩn đoán GERD trên lâm sàng, một số nghiên cứu ở Châu Á đã sử dụng triệu

chứng nóng rát và hoặc ợ chua như là một chẩn đoán GERD, hai triệu chứng này khi chiếm ưu thế có thể hình thành nền tảng cho chẩn đoán GERD chính xác. Trong nghiên cứu của chúng tôi ợ chua chiếm tỉ lệ 71,9% phủ hợp với nghiên cứu của Marcellus Simadibrata sử dụng bằng GERD-Q 2011: 65% có ợ chua từ 4-7 ngày trong tuần [51], nhưng nghiên cứu của Đoàn Thị Hoài cho thấy ợ chua chiếm tỉ lệ 87,7% [46], Wong.W.M và cộng sự: ợ chua 81.6% [52]. Sự khác biệt này có thể do mẫu của chúng tôi quá nhỏ.

- Triệu chứng đau ngực trong nghiên cứu của chúng tôi là 19,3%. Kết quả này thấp hơn nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) với tỉ lệ đau ngực là 43,75% [10]. Sự khác biệt này có thể do cách thiết kế nghiên cứu khác nhau.

- Các triệu chứng khác như đau thượng vị gặp tỉ lệ 9%, nuốt khó 5%, nuốt đau

4% ..... các triệu chứng này không phù hợp với 1 số nghiên cứu:

Nghiên cứu của Wong W.M và cộng sự có tỉ lệ đau thượng vị là 50% [52], Hội nghị toàn cầu GERD đã nhận định rằng đau thượng vị có thể là triệu chứng chủ yếu của GERD.

4.1.5. Mức độ nặng trào ngược dạ dày thực quản theo phân loại LA

Theo nghiên cứu của chúng tôi 100% là mức độ nhẹ, trong đó 96% được

chẩn đoán độ A, độ B là 4%; không gặp biến chứng (Ung thư thực quản, hẹp thực quản, thoát vị hoành, hay những biến chứng khác). Nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt với một số nghiên cứu: Theo Đoàn Thị Hoài [46] Độ A 67.7%, Độ B 19,3%. Độ C 6,5%. Độ D 6,5%, Nghiên cứu của Quách Trọng Đức và cộng sự [5] độ A 65,3%, độ B 28%, độ C 5,9%, độ D 0.8% loét thực quản 1,4% và thực quản Barrett 1.6%. Da Silva E.P và cộng sự [50] nghiên cứu trên 218 bệnh nhân có viêm thực quản trên nội soi, phân loại LA độ A 114(52,3%), độ B 77 (35,3% ), độ C 24(11,0%), độ D 3(1.4%) , Ho Khek Yu và cộng sự [53] phần lớn bệnh nhân nội soi chẩn đoán GERD có mức độ nhẹ. Noriaki Furukawa và cộng sự [54] tỉ lệ chung của viêm thực quản ở 6010 bệnh nhân Nhật Bản là 16,3%, trong đó A và B là 14,2%. C và D là 20%. Nhóm nghiên cứu GERD ở Trung quốc trong 102 bệnh nhân GERD độ A 32( 49.23%), B (38.10%), C5 (7,97%), D4(6.35%), Barrett thực quản có 2 bệnh nhân, hẹp thực quản có 1 bệnh nhân, nhưng nghiên cứu này không phát hiện ca biến chứng do trào ngược dạ dày thực quản nào.

Tổn thương thực quản theo phân loại LA qua nội soi cho thấy ở những

nghiên cứu của Việt Nam cũng như châu Á có tỉ lệ tổn thương mức độ nhẹ là cao nhất, tổn thương độ C và D cũng như những biến chứng như loét, Barrett thực quản, hẹp thực quản thì gặp với tỉ lệ thấp khác với các nghiên cứu ở châu Âu là thường gặp độ C, D và gặp các biến chứng nhiều hơn.

34

4.1.6. Mức độ nặng trào ngược dạ dày thực quản theo điểm GERD

GERD Q là 1 công cụ đơn giản và đã được chứng minh hỗ trợ giúp chẩn

đoán GERD chính xác; đánh giá tác động của triệu chứng; theo dõi đáp ứng điều trị tiên đoán được viêm trợt và tăng tiết acid bất thường dựa vào tổng số điểm triệu chứng lâm sàng và các triệu chứng đã ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày, GERD Q có thể giúp các bác sĩ xác định bệnh nhân bị GERD nhẹ hay nặng để quyết định phương thức điều trị cho bệnh nhân [55].

Tỷ lệ bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi có điểm GERQ trên 8 là khá cao 54,4%, dưới 8 là 45,6%. Điểm GERD-Q trung bình là 7,71 ± 1,92, điểm GERD Q thấp nhất là 3 và cao nhất trong nhóm là 12 điểm. Phần lớn bệnh nhân có điểm GERD Q nằm trong khoảng từ 8-10 điểm (45,6%) và 3-7 điểm (45,6%), so bệnh nhân có điểm GERD-Q > 10 chiếm tỉ lệ thấp nhất 8,8%; dưới 2 điểm không có bệnh nhân nào.

Nghiên cứu của tác giả Đặng Thị Thu Hiền [56] cho thấy 82% bệnh nhân có

điểm GERD 8-10; 18 % bệnh nhân có điểm GERD > 10.

Jonasson và cộng sự (2013) khảo sát trên 169 bệnh nhân có triệu chứng của GERD thấy GERD Q trung bình là 9,6 ± 3,0 và 75% trong số họ có điểm GERD Q ≥ 8 [28], nhóm các bệnh nhân có viêm thực quản trong nghiên cứu của Pique và cộng sự ( 2016) cũng có điểm GERD Q trung bình lên tới 8,7 ± 3,1 [57]. Ngay cả một nghiên cứu gần đây ở châu Á của tác giả Gong và cộng sự năm 2019 trên 149 đối tượng người Hàn Quốc có triệu chứng gợi ý GERD cũng cho thấy phổ điểm GERD Q từ 3 – 15 điểm và điểm GERD Q trung bình là 8 điểm, trong đó 56,4% bệnh nhân có GERD Q ≥ 8 [58].

Theo bảng điểm GERD Q thì mức điểm ≥ 8 kết hợp với điểm tác động ≥ 3 điểm thì khả năng cao bệnh nhân bị GERD nặng, điểm GERD Q ≥ 8 và điểm tác động < 3 tương ứng với viêm thực quản mức độ nhẹ, điểm GERD Q thấp thì khả năng GERD càng thấp. Nghiên cứu của chúng tôi thấy các bệnh nhân chủ yếu có điểm GERD Q từ 0 – 7 và điểm tác động < 3, đây là những đối tượng trong nhóm có khả năng bị GERD thấp. Có tới 100% bệnh nhân trong số này (điểm GERD Q tử 0 – 7) có kết quả nội soi là viêm thực quản độ A, đồng nghĩa với việc phần lớn đối tượng trong nhóm khả năng bị GERD thấp theo bảng phân loại dựa trên điểm GERD Q thì mức độ viêm thực quản cũng nhẹ (LA A). Điều này cũng phù hợp với những quan điểm từ đồng thuận Lyon gần đây cho rằng viêm thực quản độ A ít đặc hiệu cho GERD [59].

4.2. Xác định tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E năm 2021.

Thang đo lo âu và trầm cảm của bệnh viện (HADS) được Zigmond và Snaith

35

[1] xây dựng cách đây 30 năm để đánh giá sự lo lắng và trầm cảm trong một nhóm bệnh nhân nói chung. Dần dần nó đã trở thành một công cụ phổ biến, cho thực hành và nghiên cứu lâm sàng.

Tại Việt Nam thang đo này được mua bản quyền và dịch sang tiếng Việt bởi Khoa nghiên cứu y học hành vi thuộc Trường Đại Học New South Well, Úc. Thang điểm HADS đã được nhiều nghiên cứu đánh giá về tính giá trị, độ tin cậy và khẳng định có thể áp dụng tại Việt Nam, không có sự khác biệt về mặt văn hoá.

Thực trạng lo âu

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 17,5% người bệnh GERD tham gia nghiên

cứu có mức độ lo âu thực sự, 24,6% người bệnh có triệu chứng lo âu và 57,9% người bệnh không có biểu hiện lo âu. Qua đó ta thấy rằng tổng số người bệnh có các biểu hiện của lo âu là 42,1% và có 57,9% số người bệnh không có biểu hiện lo âu

Tỉ lệ lo âu trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) với tỉ lệ lo âu là 34,8% [10]. Các tác giả sử dụng thang điểm HADS để đánh giá tình trạng lo âu trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản ở 2 nhóm bệnh nhân không đau ngực và có đau ngực. Trong nghiên cứu cắt ngang này, 258 bệnh nhân liên tiếp được chẩn đoán GERD được bao gồm từ ngày 1 tháng 1 năm 2019 đến ngày 30 tháng 7 năm 2019. Trong số 258 người tham gia, 112 người báo cáo lo lắng về đau ngực. Sự chênh lệch giữa 2 kết quả nghiên cứu có thể giải thích ở nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự tiến hành nghiên cứu trên nhóm người sống trong hai môi trường có điều kiện sống và làm việc khác nhau về nhiều mặt như kinh tế, văn hóa, chính trị cũng như về đời sống xã hội của đối tượng tại các địa điểm khác nhau.

Điều này cũng tương tự với nghiên cứu của Nghiên cứu của Zhi Xiang On và

các cộng sự kết quả tỉ lệ lo âu trên đối tượng nghiên cứu này là 20,7% [11]. Trong nghiên cứu này về mối liên quan giữa bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) với chất lượng giấc ngủ, trầm cảm và lo lắng đàn ông Úc. Trong nghiên cưu này nghiên cứu này tác giả dùng bảng câu hỏi GERD-Q thang điểm Beck, trong nghiên cứu này có 1612 người trong đó 1391người không mắc GERD (86.3%) và 221 người mắc GERD. Sự chênh lệch này có thể giải thích là do sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu của chúng tôi lấy cả 2 giới tính còn nghiên cứu của Zhi Xiang On nghiên cứu trên đối tượng là đàn ông Úc. Có sự khác nhau về điều kiện môi trường sống và làm việc giữa 2 đối tượng nghiên cứu và cách thiếu kế nghiên cứu và sử dụng thang đo đánh gia lo âu và trầm cảm giữa 2 nghiên cứu là khác nhau.

Thực trạng trầm cảm

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 21,1% người bệnh GERD tham gia nghiên

36

cứu có mức độ trầm cảm thực sự, 24,5% người bệnh có triệu chứng trầm cảm và 54,4% người bệnh không có biểu hiện trầm cảm. Qua đó ta thấy rằng tổng số người bệnh có các biểu hiện của trầm cảm là 45,6% và có 54,4% số người bệnh không có biểu hiện trầm cảm.

Tỉ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi khá tương đồng so với nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) với tỉ lệ trầm cảm là 41,8% [10]. Sự chênh lệch không đáng kể giữa 2 kết quả nghiên cứu có thể giải thích ở nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự tiến hành nghiên cứu trên nhóm người sống trong hai môi trường có điều kiện sống và làm việc khác nhau về nhiều mặt như kinh tế, văn hóa, chính trị cũng như về đời sống xã hội của đối tượng tại các địa điểm khác nhau.

Tỉ lệ trầm cảm trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của

Nghiên cứu của Zhi Xiang On và các cộng sự có tỉ lệ trầm cảm là 37,2% [11]. Trong nghiên cứu này về mối liên quan giữa bệnh trào ngược dạ dày thực quản (GERD) với chất lượng giấc ngủ, trầm cảm và lo lắng đàn ông Úc. Trong nghiên cưu này nghiên cứu này tác giả dùng bảng câu hỏi GERD-Q thang điểm Beck, trong nghiên cứu này có 1612 người trong đó 1391người không mắc GERD (86.3%) và 221 người mắc GERD. Sự chênh lệch này có thể giải thích là do sự khác nhau về đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu của chúng tôi lấy cả 2 giới tính còn nghiên cứu của Zhi Xiang On nghiên cứu trên đối tượng là đàn ông Úc. Có sự khác nhau về điều kiện môi trường sống và làm việc giữa 2 đối tượng nghiên cứu và cách thiếu kế nghiên cứu và sử dụng thang đo đánh gia trầm cảm và trầm cảm giữa 2 nghiên cứu là khác nhau.

Như vậy qua các nghiên cứu về tình trạng biểu hiện trầm cảm, trầm cảm của người bệnh GERD tham gia nghiên cứu đã cho thấy tỉ lệ trầm cảm và trầm cảm trên nhóm bệnh nhân này tại Việt Nam có tỉ lệ cao hơn so với các nghiên cứu trên thế giới. Qua đó cho thấy sự cần thiết phải có biện pháp hỗ trợ tâm lý cho người bệnh GERD tại Việt Nam từ phía các bác sĩ, các nhân viên y tế và mọi người xung qunh họ và quan trọng hơn nữa là từ chính bản thân người bệnh GERD.

4.3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu, trầm cảm của người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại Khoa Khám chữa bệnh theo yêu cầu và Quốc tế Bệnh Viện E năm 2021.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cho kết quả tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm

37

4.3.1. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu bệnh nhân Nam giới(53,1%) cao hơn khá nhiều so với tỉ lệ có biểu hiện lo âu, ở nhóm bệnh nhân nữ (28%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân nam cao gấp 2.91 lần so với nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân Nam giới. Kết quả nghiên cứu trong bài khá tương tự với kết quả nghiên cứu của Pham Phương Mai năm 2018 về nghiên cứu tình trạng stress lo âu và trầm cảm ở trẻ vị thành niên bị viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính [60] và nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng lo âu và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 [61] cũng cho tỷ lệ lo âu trên nam giới cao hơn nữ giới.

Điều này không giống so với một số nghiên cứu về lo âu trên các nhóm đối tượng khác nhau thường cho kết quả nữ có nguy cơ lo âu trên các nhóm bệnh nhân, họ cũng đưa ra lý do là nữ giới thường nhậy cảm và rất dễ bị tổn thương tâm lý hơn so với nam giới. Nhưng trên nhóm bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản có những đặc điểm khác như tỉ lệ nam mắc bệnh GERD nhiều hơn so với nữ do dùng nhiều rượu bia, thuốc lá, ăn đồ ăn cay, nóng và có nhiều bệnh lý nền hơn so với nữ. Đó có thể là nguyên nhân lý giải cho kết quả ở trên. Song sự khác biệt giữa tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân nam giới và nữ giới trong nghiên cứu này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có BHYT thì tỉ lệ lo âu là 45,1% thấp hơn tỉ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân không có BHYT (50%) và nguy cơ lo âu ở nhóm bệnh nhân có BHYT chỉ bằng 0,82 lần nhóm không có BHYT . Điều này khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng lo âu và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 cũng có kết quả tương tự với tỉ lệ lo ở nhóm không có BHYT (14,6%) cao hơn nhóm không có BHYT. Điều này có thể giải thích là do việc có BHYT giúp bệnh nhân GERD giảm bớt được gánh nặng tài chính một phần nào đó, yếu tố khả năng tài chính của bệnh nhân là một yếu tố rất quan trọng tác động đến quá trình và khả năng điều trị bệnh GERD của người bệnh. Song sự khác biệt tỉ lệ lo âu giữa nhóm có và không có BHYT trong nghiên cứu này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Theo tổng cục thống kê thu nhập bình quan đầu người của người lao động

Việt Nam năm 2021 là 5,7 triệu đồng. Vì vậy chúng tối tiến hành nghiên cứu sự lo âu trên 2 nhóm bệnh nhân GERD có thu nhập dưới 6 triệu đồng và trên 6 triệu đồng và kết quả cho thấy rằng. Tỉ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân có thu nhập dưới 6 triệu (47,4%) cao hơn tỉ lệ lo âu ở nhóm có thu nhập trên 6 triệu (39,5%) và nguy có biểu hiện lo âu ở nhóm có thu nhập dưới 6 triệu cao gấp 1,38 lần nguy cơ lo âu ở nhóm có thu nhập trên 6 triệu. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Lưu Thị Liên về tình trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế huyện Sóc Sơn Hà Nội năm 2019, thấy rằng những nhân viên y tế có thu nhập dưới 5 triệu đồng (28,72%) có tỉ lệ lo âu cao hơn nhóm có thu nhập trên 5 triệu (21,56%) [62]. Có thể nhận thấy thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng đến sự biểu hiện lo âu trên người bệnh GERD song sự khác biệt tỉ lệ giữa 2 nhóm thu nhập trên của chúng tôi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Tương tự với các yếu tố trên, trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra

38

rằng bệnh lý nền trên nhóm bệnh nhân mắc GERD cũng là một yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ lo âu trên nhóm bệnh nhân này. Tỉ lệ lo âu trên nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền (57,1%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền (40%) và nguy cơ biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền cao gấp 2 lần so với nhóm không có bệnh lý nền. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu Zhi Xiang On và các cộng sự [11]. Có thể thấy rằng bệnh lý nền là một yếu tố tác động

đến tâm lý của người bệnh GERD làm tăng sự biểu hiện lo âu trên nhóm bệnh nhân này. Song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Như vậy đối với các yếu tố cá nhân như giới tính, việc có hay không có BHYT, bệnh lý nền, thu nhập theo tháng trong nghiên cứu này cho kết quả như nam có tỉ lệ lo âu cao hơn nữ, và BHYT, bệnh lý nền, thu nhập theo tháng là các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ lo âu trên nhóm bệnh nhân GERD song sự khác biệt trên không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

4.3.2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm.

Trong nghiên cứu của chúng tôi, cho kết quả tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân Nam giới(53,1%) cao hơn khá nhiều so với tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân nữ (36%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân nam cao gấp 2.02 lần so với nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân Nam giới. Kết quả nghiên cứu trong bài khá tương tự với kết quả nghiên cứu của Pham Phương Mai 2018 về nghiên cứu tình trạng stress, lo âu và trầm cảm ở trẻ vị thành niên bị viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính [60] và nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng trầm cảm và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 cũng cho tỷ lệ trầm cảm trên nam giới cao hơn nữ giới [61].

Có sự khác biệt so với một số nghiên cứu về trầm cảm trên các nhóm đối

tượng khác nhau thường cho kết quả nữ có nguy cơ trầm cảm trên các nhóm bệnh nhân khác, Có thể lý giải là do là nữ giới thường nhậy cảm và rất dễ bị tổn thương tâm lý hơn so với nam giới, dễ bị tác động bởi các yếu tố của môi trường xung quanh. Nhưng trên nhóm bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản có những đặc điểm khác như tỉ lệ nam mắc bệnh GERD nhiều hơn so với nữ do dùng nhiều rượu bia, thuốc lá, ăn đồ ăn cay, nóng và có nhiều bệnh lý nền hơn so với nữ. Đó có thể là nguyên nhân lý giải cho kết quả ở trên. Song sự khác biệt giữa tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân Nam giới và nữ giới trong nghiên cứu này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm bệnh nhân có BHYT thì tỉ lệ trầm

39

cảm là 45,1% thấp hơn tỉ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân không có BHYT (50%) và nguy cơ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có BHYT chỉ bằng 0,82 lần nhóm không có BHYT . Điều này khá phù hợp với kết quả nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng trầm cảm và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 [61] cũng có kết quả tương tự với tỉ lệ lo ở nhóm không có BHYT (12,2%) cao hơn nhóm không có BHYT. Điều này có thể giải thích là do việc có BHYT giúp bệnh nhân GERD giảm bớt được gánh nặng tài chính một phần nào đó, yếu tố khả năng tài chính của bệnh nhân là một yếu tố rất quan trọng tác động đến quá trình và khả năng điều trị bệnh GERD của người bệnh. Song sự khác biệt tỉ lệ trầm cảm giữa nhóm có và không có BHYT trong nghiên cứu này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Theo tổng cục thống kê thu nhập bình quan đầu người của người lao động Việt Nam năm 2021 là 5,7 triệu đồng. Vì vậy chúng tối tiến hành nghiên cứu sự trầm cảm trên 2 nhóm bệnh nhân GERD có thu nhập dưới 6 triệu đồng và trên 6 triệu đồng và kết quả cho thấy rằng. Tỉ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có thu nhập dưới 6 triệu (57,1%) cao hơn tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có thu nhập trên 6 triệu (44%) và nguy có biểu hiện trầm cảm ở nhóm có thu nhập dưới 6 triệu cao gấp 1,7 lần nguy cơ trầm cảm ở nhóm có thu nhập trên 6 triệu. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Lưu Thị Liên về tình trạng stress, lo âu và trầm cảm của nhân viên y tế huyện sóc sơn hà nội năm 2019 [62] rằng những nhân viên y tế có thu nhập dưới 5 triệu đồng (19,68%) có tỉ lệ trầm cảm cao hơn nhóm có thu nhập trên 5 triệu (13,17%). Có thể nhận thấy thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng đến sự biểu hiện trầm cảm trên người bệnh GERD song sự khác biệt tỉ lệ giữa 2 nhóm thu nhập trên của chúng tôi không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Tương tự với các yếu tố trên, trong nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra

rằng bệnh lý nền trên nhóm bệnh nhân mắc GERD cũng là một yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ trầm cảm trên nhóm bệnh nhân này. Tỉ lệ trầm cảm trên nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền (57,9%) cao hơn so với nhóm bệnh nhân không có bệnh lý nền (39,5%) và nguy cơ biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có bệnh lý nền cao gấp 2,1 lần so với nhóm không có bệnh lý nền. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Zhi Xiang On và các cộng sự [11]. Song sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Như vậy đối với các yếu tố cá nhân như giới tính, việc có hay không có BHYT, bệnh lý nền, thu nhập theo tháng trong nghiên cứu này cho kết quả như nam có tỉ lệ biểu hiện trầm cảm cao hơn nữ, và BHYT, bệnh lý nền, thu nhập theo tháng là các yếu tố nguy cơ làm tăng tỉ lệ lo âu trên nhóm bệnh nhân GERD song sự khác biệt trên không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

4.3.3. Mối liên quan giữa các đặc điểm của bệnh trào ngược dạ dày thực quản với tình trạng lo âu, trầm cảm. Đối với tình trạng biểu hiện lo âu.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự liên quan giữa triệu chứng

40

đau ngực trên nhóm bệnh nhân GERD với tỉ lệ biểu hiện lo âu cụ thể tỉ lệ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có đau ngực (72,7%) cao hơn so với tỉ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân không có đau ngực (34,8%). Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm có đau ngực cao gấp 5 lần so với nhóm không có đau ngực và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết qủa nghiên cứu tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) cho kết quả tỉ lệ lo âu ở nhóm có đau ngực (48,2%) cao hơn so với nhóm không có đau ngực (23,9%) [10]. Có thể thấy rõ ràng tác động của đau ngực đến biểu hiện lo âu của bệnh nhân GERD cơn đau của bệnh không dữ dội, cấp tính như trong các bệnh tim mạch, hô hấp khác

nhưng các cơn đau kéo dài dai dẳng tác động rất lớn tới tâm lý của người bệnh GERD.

Đối với yếu tố kết quả nội soi thì trong số 57 bệnh nhân có tới 55 bệnh nhân có trào ngược LA độ A và chỉ có 2 bệnh nhân có kết quả trào ngược LA độ B. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân có kết quả trào ngược LA độ B (100%) cao hơn so với tỉ lệ trào ngược LA độ A (40%). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) có sự khác biệt lớn có thể do chủ yếu đối tượng nghiên cứu là nhóm bệnh nhân trào ngược độ A (96,5%) và độ B (3,5%). Nhưng cũng không thể phủ nhận được giai đoạn bệnh GERD càng nặng thì mức độ lo âu không tăng. Thời gian mắc bệnh càng dài có thể do điều trị không có kết quả do người bệnh không tuân thủ chế độ ăn và uống thuốc theo lời bác sĩ lâu dần bệnh sẽ tiến chứng nặng hơn và dẫn tới các biến chứng nặng nề hơn cho bệnh nhân.

Đối với nhóm yếu tố thời gian mắc bệnh thì trong nghiên cứu của chúng tôi

cho kết quả như sau tỉ lệ lo âu ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh GERD trên 12 tháng (45,9%) thì tỉ lệ lo âu cao hơn so với nhóm có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng (35%). Nguy cơ lo âu ở nhóm có thời gian mắc bệnh trên 12 tháng thì cao gấp 1,6 lần so với nhóm có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng. Kết quả này cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng trầm cảm và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 [61] cũng có kết quả tỉ lệ lo âu ở nhóm có thời gian chẩn đoán trên 6 tháng (19,7%) cao hơn tỉ lệ lo âu có thời gian chân đoán dưới 6 tháng (9,2%).

Đối với nhóm theo thang điểm GERD-Q thì Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện lo

âu ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 (23,7%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q ≥9 (78,9%).Nguy cơ có biểu hiện lo âu ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 chỉ bằng 0,083 lần nguy cơ có biểu lo âu ở nhóm bệnh nhân có GERD-Q≥9 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả cho thấy rằng có mối quan hệ giữa các mức độ của thang điểm GERD-Q ứng với mức độ và giai đoạn bệnh GERD đến sự biểu hiện lo âu trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.

Đối với tình trạng biểu hiện trầm cảm.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có sự liên quan giữa triệu chứng

41

đau ngực trên nhóm bệnh nhân GERD với tỉ lệ biểu hiện trầm cảm cụ thể tỉ lệ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có đau ngực (72,7%) cao hơn so với tỉ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân không có đau ngực (39,1%). Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm có đau ngực cao gấp 4,2 lần so với nhóm không có đau ngực và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết qủa nghiên cứu tương tự với kết quả nghiên cứu của tác giả Saleh Mohammad Channa và các cộng sự (2019) [10] cho kết quả tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có đau ngực (49,1%) cao hơn so với nhóm không có đau ngực (35,6%). Có thể thấy rõ ràng tác động của đau ngực đến biểu hiện trầm cảm của bệnh nhân GERD cơn đau của bệnh không dữ dội, cấp tính như trong các

bệnh tim mạch, hô hấp khác nhưng các cơn đau kéo dài dai dẳng tác động rất lớn tới tâm lý của người bệnh GERD.

Đối với yếu tố kết quả nội soi thì trong số 57 bệnh nhân có tới 55 bệnh nhân có trào ngược LA độ A và chỉ có 2 bệnh nhân có kết quả trào ngược LA độ B. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỉ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có kết quả trào ngược LA độ B (100%) cao hơn so với tỉ lệ trào ngược LA độ A (40%). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) có sự khác biệt lớn có thể do chủ yếu đối tượng nghiên cứu là nhóm bệnh nhân trào ngược độ A (96,5%) và độ B (3,5%). Nhưng cũng không thể phủ nhận được giai đoạn bệnh GERD càng nặng thì mức độ trầm cảm không tăng. Thời gian mắc bệnh càng dài có thể do điều trị không có kết quả do người bệnh không tuân thủ chế độ ăn và uống thuốc theo lời bác sĩ lâu dần bệnh sẽ tiến chứng nặng hơn và dẫn tới các biến chứng nặng nề hơn cho bệnh nhân.

Đối với nhóm yếu tố thời gian mắc bệnh thì trong nghiên cứu của chúng tôi

cho kết quả như sau tỉ lệ trầm cảm ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh GERD trên 12 tháng (45,9%) thì tỉ lệ trầm cảm cao hơn so với nhóm có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng (35%). Nguy cơ trầm cảm ở nhóm có thời gian mắc bệnh trên 12 tháng thì cao gấp 1,6 lần so với nhóm có thời gian mắc bệnh dưới 12 tháng. Kết quả này cũng tương tự với kết quả nghiên cứu của Trương Thị Phương về tình trạng trầm cảm và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại BV K năm 2013 [61] cũng có kết quả tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có thời gian chẩn đoán trên 6 tháng (19,7%) cao hơn tỉ lệ trầm cảm có thời gian chân đoán dưới 6 tháng (9,2%).

Đối với nhóm theo thang điểm GERD-Q thì Tỉ lệ bệnh nhân có biểu hiện

42

trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 (23,7%) thấp hơn so với nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q ≥9 (78,9%).Nguy cơ có biểu hiện trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q <9 chỉ bằng 0,083 lần nguy cơ có biểu trầm cảm ở nhóm bệnh nhân có GERD-Q≥9 và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Kết quả cho thấy rằng có mối quan hệ giữa các mức độ của thang điểm GERD-Q ứng với mức độ và giai đoạn bệnh GERD đến sự biểu hiện trầm cảm trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.

KẾT LUẬN

để xác đình tình trạng lo âu, trầm cảm của 57 người bệnh trào ngược dạ dày thực quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E và một số yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy:

Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng thang đo HADS được Zigmond và Snaith

1. Tỉ lệ lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E năm 2021

- Đối với tình trạng lo âu: tỷ lệ có biểu hiện lo âu là 42,1%. Trong đó nhóm bệnh nhân lo âu thực sự là 17,5% và có triệu chứng lo âu chiếm 24,6%. - Đối với tình trạng trầm cảm; tỷ lệ có biểu hiện của trầm cảm là: 45,6%.

Trong đó nhóm bệnh nhân có trầm cảm thực sự là 21,1% và có triệu chứng của trầm cảm chiếm 24,5%.

- Tỉ lệ người bệnh GERD có ít nhất một rối loạn tâm thần là 47,4%, cụ thể: nhóm có cả 2 biểu hiện lo âu và trầm cảm chiếm 40,4% và nhóm có 1 biểu hiện chiếm 7%.

2. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng lo âu và trầm cảm ở người bệnh trào ngược dạ dày thực quản quản tại khoa khám chữa bệnh theo yêu cầu và quốc tế bệnh viện E Dấu hiệu lo âu ở người bệnh có mối liên quan với các yếu tố là:

- Tình trạng đau ngực với tỉ lệ lo âu ở nhóm có đau ngực cao hơn nhóm không

có đau ngực.

- Thang điểm GERD-Q với tỉ lệ lo âu ở nhóm có điểm GERD-Q < 9 thấp hơn

nhóm có điểm GERD-Q≥9. Dấu hiệu trầm cảm ở người bệnh có mối liên quan với yếu tố là:

- Tình trạng đau ngực với trầm cảm ở nhóm có đau ngực cao hơn nhóm không

-

43

có đau ngực. Thang điểm GERD-Q với tỉ lệ trầm cảm ở nhóm có điểm GERD-Q < 9 thấp hơn nhóm có điểm GERD-Q ≥ 9. Các yếu tố chưa tìm thấy sự liên quan đến tình trạng lo âu và trầm cảm là: Giới tính, việc sử dụng BHYT, bệnh lý nền, thu nhập hàng tháng, kết quả nội soi, thời gian mắc bệnh.

KHUYẾN NGHỊ

Từ những kết quả của nghiên cứu, chúng tôi đưa ra những khuyến nghị sau

- Nên sử dụng các công cụ như thang đo HADS, để phát hiện các vấn để tâm lý

trên bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản

- Nên kết hợp các can thiệp diều trị tâm lý song song với điều trị thể chất trên bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản, góp phần làm tăng chất lượng cuộc sống cho người bệnh

- Đánh giá thang điểm GERD-Q trên bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản từ đó cần lưu ý với nhóm bệnh nhân có điểm GERD-Q cao và nhóm bệnh nhân có tình trạng đau ngực

- Tiếp tục phát triển các nghiên cứu tìm hiểu các giải pháp can thiệp hiệu quả

44

về tâm lý xã hội trên bệnh nhân trào ngược dạ dày thực quản

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nimish Vakil, M.D., F.A.C.G., Sander V. van Zanten, et al (2006). The

Montreal Definition and Classification of Gastroesophageal Reflux Disease: A Global Evidence- Based Consensus". American Journal of Gastroenterology101, pp.1900-1920., . 2. Muramatsu. A, T. Azuma, T. Okajima, et al (2004). "Evaluation of treatment for

gastro-oesophageal reflux disease with a proton pump inhibitor, and relationship between gastro-oesophageal relux disease and Helicobacter pylori infection in Japan Aliment Pharmacol Ther 20, pp.102-106., . 3. Khean-Lee Gob (2011). “Gastroesophageal Reflux Disease in Asia: A historical

perspective and present challenges” Journal of . Gastroenterology and Hepatology 26 Suppl. 1, pp. 2-10., . 4. Lê Văn Dũng (2001). Nhận xét hình ảnh nội soi - mô bệnh học thực quản ở

những bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng trào ngược dạ dày - thực quản. Luận văn thạc sỹ y học, Trường ĐH Y Hà Nội., .

5. Quách Trọng Đức. Trần Kiều Miên (2005). - Viêm trào ngược dạ đến thực quan trên nội soi ở bệnh nhân Việt Nam có biểu hiện Dyspepsia. Tần suất. Đặc điểm lâm sàng và Nội soi Y Học TP.Hồ Chí Minh Tập 9 Phụ bản số 1/2005, tr 35-39., .

6. World Health Organization (1946), 1948, New York, truy cập ngày, tại trang web https://www.who.int/about/who-we-are/frequently-asked-questions., . 7. Cẩm nang bệnh, truy cập ngày 26/04/2020, tại trang web http://www.camnangbenh.com/stress/., .

8. Jean Marc Olivé (2008), Bài bình luận nhân ngày sức khoẻ tâm thần thế giới

10/10/2008, truy cập ngày 11/11/2013, tại trang web http://www.wpro.who.int/vietnam/mediacentre/releases/2008/10102008/vi/in dex.html., . 9. Đại học Y tế Công cộng (dự án VINE) (2011), Gánh nặng bệnh tật và chấn thương ở Việt Nam 2008, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 48-50., .

10. Mohammad S., Chandio B., Soomro A.A., et al. (2019). Depression and Anxiety in Patients with Gastroesophageal Reflux Disorder With and Without Chest Pain. Cureus, 11(11), e6103.

11. On Z.X., Grant J., Shi Z., et al. (2017). The association between

gastroesophageal reflux disease with sleep quality, depression, and anxiety in a cohort study of Australian men. J Gastroenterol Hepatol, 32(6), 1170–1177. 12. Trần Đình Xiêm (1995), Các rối loạn khí xác và rối loạn lo âu. Tâm thần học, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh., .

13. Nguyễn Việt Thiêm (2000), Bài giảng chuyên để tâm thần. Đại học Y Hà Nội., . 14. Burows G. Judd F. (1999), “Anxiety disorder”, Foundation of Clinical Psychiatry Australia, p. 128-148., .

45

15. Guze S.B., Goodman D W. (1979), Anxiety, Neurosis, Psychiatric Diagnosis., . 16. Tiller J.W.G (1990), Anxiety; perception and respiration, University of Otago Press, New Zealand., .

17. Nguyễn Việt (1984), Loạn thần hưng trầm cảm. Tâm thần học. Nhà xuất bản Y

học, . 18. WHO (1992), Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi, Viện sức khỏe tâm thần trung ương., . 19. Changcheng Wang MD, Richard H. Hunt, MD, FRCP, FRCPC, AGAF (2008).

“Medical Managtôient of Gastroesophageal Reflux Disease”. Gastroenterol Clin N Am 37, pp.879-899., . 20. Đào Văn Long (2009), “ Những tiếnbộ trong chẩn đoán và điều trị GERD”, Hội thảo khoa học tại ĐBSCL., . 21. Richter Joel. E. (2009). “Gastroesophageal reflux disease”.Text Book of

Gastroenterology edited by Tadataka Yamada, MD. fifth Edition, volume 1 pp. 772-795., . 22. Richter Joel. E. MD. Facp. Macg (2007). “The many manifestations of

Gastroesophageal Reflux Disease Presentation Evaluation, and Treatment.” Gastroenterol Clin N Am 36, pp.577-599., . 23. Harding Susan. M. MD (2007). “Gastroesophageal Reflux During sleep” Sleep Med Clin 2. pp.41-50., . 24. Ngô Quý Châu (2016). “Cẩm nang điều trị nội khoa, tập 1”. NXB Đại học Huế, tr 791 - 796., . 25. Nguyễn Thị Lan Anh (2009). “Bệnh dạ dày và cách điều trị”. NXB Lao Động, tr 67 - 68., . 26. Douglas A. D. (2006) Rome III: The new criteria. Chinese Journal of Digestive Diseases; vol 7; 181-185, . 27. Block Berthold, M.D. Guido Schachschal, M.D. Hartmut Schmidt, M.D (2004). “A Training Manual”. Endoscopy of the Upper GI Tract, pp.62-72., . 28. Jonasson C, Wernersson B, Hoff D A, et al (2013). “Validation of the GerdQ

questionnaire for the diagnosis of gastro-oesophageal reflux disease”. Aliment Pharmacol Ther, 37 (5), 564-572., .

29. Vakil N, Zanten SV, Kahrilas P, Dent 1, Jones R. Global Consensus Group: The Montreal definition and classification of gastroesophageal reflux disease: a global evidence-based consensus. Am J Gastroenterol. 2006, 101:1900-1920., . 30. Choi IM, Yang II, Kang SJ, et al.: association between anxiety and depression

and gastroesophageal reflux disease: results from a large cross sectional study. I 8. Neurogastroenterol Motil. 2018, 24-593-602. 10.5056/nm18069, .

31. Van Oudenhove L, Crowell MD, Drossman DA, et al.: Biopsychosocial aspects of functional gastrointestinal disorders. Gastroenterology. 2016, 150:1355- 1367., . 32. ee SP., Sung IK, Kim JH, Lee SY, Park HS, Shim CS: The effect of toiotional

stress and depression on the prevalence of digestive diseases. Neurogastroenterol Motil. 2015, 21:273 282 10 505/14116., . 33. Kamolz T, Velanovich V: Psychological and toiotional aspects of

gastroesophageal reflux disease, Dis Esophagus. 2002, 15:199-203. 10.1046/j.1442-2050.2002.00261x, .

46

34. The Hospital Anxiety and Depression Scale (HADS) was developed 30 years ago by Zigmond and Snaith to assess listening and depression in a general

population of patients. Gradually it became an instrumental variable, for practice and clinical research., . 35. Zigmond A.S. and Snaith R.P. (1983). The hospital anxiety and depression scale. Acta Psychiatr Scand, 67(6), 361–370. 36. Zhang L, Tu L, Chen 1, et al.: Health-related quality of life in gastroesophageal

reflux patients with noncardiac chest pain: Tôiphasis on the role of psychological distress. World J Gastroenterol. 2017, 23:127-134. 10.3748/wig.v23.11.127, .

37. Nguyễn Thị Hòa Bình (2006) "Nhận xét sự bận và GERD tại bệnh viện Đứng Để Top chí khoa học. Tiêu hóa Việt Nam. Phụ trường số 322006, tr38-39., . 38. Nguyễn Cảnh Bình, Mai Hồng Bảng, Lê Ngọc Hà et al(2008). “Nghiên cửu phương pháp nội soi và chụp xạ hình đa đày thực quan ở bệnh nhân có bệnh trào ngược dạ dày thực quan" Tạp chí khoa học Tiêu Hóa Việt Nam, tập II1,85 13-2008, tr832-834., .

39. Trần Việt Hùng (2008). “Nghiên cứu hình ảnh nội soi thực quản trước và sau nhuộm màu bằng Lugol 5% ở bệnh nhân cô bệnh trào ngược dạ dày thực quản”. Luận văn Thạc sĩ học, Trường Đại Học Y Hà Nội., . 40. Tạ Long, Đào Văn Long, Trần Kiều Miên, Lê Thành Lý và Đỗ Văn Đăng

(2008) “Khảo sát dịch tế học sẽ triệu chứng và mô hình chân đoàn điều trị bệnh trào ngược dạ dày thực quản". Tạp chí khoa học Tiêu Hóa Việt Nam Tập III- số 13-2008, tr818-822., . 41. Numans. M. E., N. J. De Wit (2003). “Reflux symptoms in general practice:

diagnostic evaluation of the Carsson- Dent gastro-oesophageal reflux disease questionaire”. Aliment Pharmacol Ther 17, pp.1049-1055., .

42. Serag. H. EL, C. Hill, R. Jones (2008). “Systtôiatic review: the epidtôiiology of gastro-oesophageal reflux disease in primary care, using the UK General Practice Research Database”. Aliment Pharmacol Ther 29. pp.470-480., . 43. Kwong Ming Fock, Nicholas J Talley, Ronnie Fass, et al (2002). “Asia Pacific consensus on the managtôient of gastroesophageal reflux disease Update”. Journal of Gastroenterology and Hepatology 23, pp.8-22., .

44. Mare Nocon, Joachim Labenz, Daniel Jaspersen, et al (2007). “Association of body mass index with heartburn, regurgitation and esophagitis: Results of the Progression of stroesophageal Reflex Disease study”. Journal of Gastroenterology and Hepatology 22 pp.1728-1731., .

45. Lê Thị Hoa (2007), “Đặc điểm làm sàng, nội soi, mô bệnh học và hiệu quả điều trị bằng Esomeprazole ở bệnh nhân viêm thực quản do trào ngược”. Luận văn thạc sỹ y học, Học Viện Quân Y., .

46. Đoàn Thị Hoài (2006). "Nghiên cứu đặc điểm làm sàng, hình ảnh nội soi - mô bệnh học và đo pH thực quân liên tục 24h trong bệnh trào ngược dạ dày thực quản”. Luận văn thạc sỹ y học. Trường ĐH Y Hà Nội., . 47. Ma.X.-Q., Y.Cao, R.Wang, X.Yan, et al (2009). “Prevalence of, and factors

47

associated with gastroesopphageal reflux disease: a population-based study in Shanghai, China”. Disease of the Esophagus 22, pp.317-322., .

48. Ruigomez. A, L. A. Garcia Rodriguez, M.-A. Wallander. S. et al (2004).

“Natural history of gastro-oesophageal reflux disease Diagnosed in general practice”. Aliment Pharmacol Ther 20. pp.751-760., .

49. Dương Minh Thắng T L (2001). “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi, mô bệnh học của bệnh trào ngược dạ dày thực quản”. Luận văn thạc sĩ y học, Học viện Quân Y., . 50. Da Silva E P, Nader F, Quilici F A, et al (2003). “Clinical and endoscopic

evaluation of gastroesophageal reflux disease in patients successfully treated with esomeprazole”. Arq Gastroenterol, 40 (4), 262-267., . 51. Simadibrata M (2009). “Dyspepsia and gastroesophageal reflux disease (GERD): is there any correlation?”. Acta Med Indones, 41 (4), 222-227., . 52. Wong W M, Lai K C, Hui W M, et al (2004). “Pathophysiology of

gastroesophageal reflux diseases in Chinese--role of transient lower esophageal sphincter relaxation and esophageal motor dysfunction”. Am J Gastroenterol, 99 (11), 2088-2093., . 53. Ho K Y (2008). “Gastroesophageal reflux disease in Asia: a condition in evolution”. J Gastroenterol Hepatol, 23 (5), 716-722., . 54. Furukawa N, Iwakiri R, Koyama T, et al (1999). “Proportion of reflux

esophagitis in 6010 Japanese adults: prospective evaluation by endoscopy”. J Gastroenterol, 34 (4), 441-444., .

55. Bồ Kim Phương (2012). “Nghiên cứu ứng dụng bảng GERD-Q trong chẩn đoán và theo dõi đáp ứng điều trị bệnh trào ngược dạ dày – thực quản”. Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, 16 44 - 48, .

56. Đặng Thị Thu Hiền (2014). “Đối chiếu tổn thương thực quản qua nội soi với bộ câu hỏi GERD Q để đánh giá mức độ hội chứng trào ngược dạ dày thực quản”. Luận văn Thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Hà Nội., . 57. Piqué N, Ponce M, Garrigues V, et al (2016). “Prevalence of severe esophagitis

in Spain. Results of the PRESS study (Prevalence and Risk factors for Esophagitis in Spain: A cross-sectional study)”. United European Gastroenterol J, 4 (2), 229-235., .

58. Gong E J, Jung K W, Min Y W, et al (2019). “Validation of the Korean Version of the Gastroesophageal Reflux Disease Questionnaire for the Diagnosis of Gastroesophageal Reflux Disease”. J Neurogastroenterol Motil, 25 (1), 91-99., . 59. Gyawali C P, Kahrilas P J, Savarino E, et al (2018). “Modern diagnosis of

GERD: the Lyon Consensus”. 67 (7), 1351-1362., . 60. Nguyễn Thị Phương Mai (2019). “ Nghiên cứu tình trạng stress, lo âu, trầm

cảm ở trẻ vị thành niên bị viêm loét dạ dày tá tràng mạn tính”. Luận văn thạc sĩ y học, Trường đại học Y Hà Nội., .

61. Trương Thị Phương (2014). “ Mô tả tình trạng lo âu và trầm cảm của bệnh nhân ung thư điều trị tại bệnh viện K năm 2013 và một số yếu tố liên quan”. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường đại học Y Hà Nội., . 62. Lưu Thị Liên (2020). “ Thực trạng và các yếu tố liên quan đến, stress, lo âu,

48

trầm cảm của nhân viên y tế thuôc trung tâm y tế huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, năm 2019”. Khóa luận tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Trường đại học Y Dược Quốc Gia Hà Nội., .

PHỤ LỤC

THỰC TRẠNG LO ÂU VÀ TRẦM CẢM Ở NGƯỜI BỆNH TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN

Giới thiệu: Xin Anh/chị, tên tôi là………………………, hiện đang là sinh viên tại Đại học Y Dược, ĐHQGHN. Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu nhằm tìm hiểu về mối liên quan giữa các yếu tố cá nhân và yếu tố liên quan đến đặc điểm của bệnh trào ngược dạ dày thực quản đối với một số rối loạn tâm thần thường gặp trong người bệnh GERD. Nghiên cứu này nhằm mục đích cung cấp thêm thông tin cho việc xác định, đánh giá tình trạng sức khỏe tâm thần hiện nay của người bệnh GERD, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp dự phòng về một số rối loạn tâm thần. Mọi thông tin Anh/Chị cung cấp sẽ được bảo mật và chỉ sử dụng với mục đích nghiên cứu trong đề tài này.

Rất mong Anh/chị đồng ý tham gia nghiên cứu.

Thời gian phát vấn khoảng 20 - 25 phút.

Rất mong sự hợp tác và giúp đỡ của Anh/chị!

Điều tra viên: .....................................................................................................

Ngày phát vấn: …../……/201….

Địa điểm phát vấn:.............................................................................................

A. THÔNG TIN CHUNG VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Anh/chị cung cấp thông tin bằng cách khoanh tròn hoặc tự điền thông tin vào mỗi câu trả lời tương ứng.

STT Câu hỏi Câu trả lời

1

Anh/chị sinh năm nào?

2 Giới tính

1. Nam 2. Nữ

3 Dân tộc

49

1. Kinh 2. Khác (ghi rõ)

…………….

4 Tôn giáo

1. Không 2. Phật giáo 3. Thiên Chúa giáo 4. Khác (ghi rõ): ……………..

5 Nơi ở hiện tại

1. Xã 2. TT huyện, thi trấn 3. Thành phố 4. Khác (ghi rõ):

……………….

6 Tình trạng hôn nhân

1. Độc thân 2. Có gia đình 3. Ly thân, ly dị 4. Góa

7 Nghề nghiệp

1. CBCNV 2. Nội trợ, hưu trí 3. Nông dân 4. Công nhân 5. Nghề tự do, buôn bán 6. Thất nghiệp 7. Khác (ghi rõ):

……………….

8 Trình độ học vấn

1. Trên đại học 2. Đại học/ Cao đẳng 3. Trrung cấp chuyên

nghiệp 4. THPT 5. THCS 6. Biết đọc biết viết 7. Không biết chữ

9 ………………………(VNĐ)

Thu nhập hàng tháng (VNĐ)

50

10 Bảo hiểm y tế 1. Có

2. Không

11

Tần suất luyện tập thể dục thể thao

1. Thường xuyên 2. Thỉnh thoảng 3. Không bao giờ

12

Khả năng chi trả viện phí 1. Đủ khả năng 2. Không đủ khả năng

13

Tuân thủ chế độ ăn uống của bác sĩ 1. Có 2. Không

14

Kết quả nội soi (giai đoạn bệnh)

1. LA độ A 2. LA độ B 3. LA độ C 4. LA độ D

15 Thời gian mắc bệnh

1. ≤ 12 tháng 2. > 12 tháng

16

1. Có 2. Không

Bệnh lý nền( Tiểu đường, cao HA, tim mạch, phổi mạn tính…)

Triệu chứng lâm sàng cơ năng:

Nóng rát sau xương ức Ợ chua Đau ngực Nuốt khó Khác

B. THANG ĐIỂM GERD-Q Tham khảo Bộ câu hỏi dùng để chẩn đoán, xác định khả năng mắc bệnh trào ngược dạ dày thực quản GERD-Q, cụ thể như sau:

Hãy nhớ lại các triệu chứng trong 7 ngày vừa qua và chọn câu trả lời đúng nhất.

1, Bạn có triệu chứng nóng rát giữa ngực, sau xương ức mấy ngày trong tuần? D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm ) A, 0 ngày ( 0 điểm )

2, Bạn có triệu chứng ợ nước chua hoặc thức ăn từ dạ dày lên cổ họng hoặc miệng mấy ngày trong tuần?

51

A, 0 ngày ( 0 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

3, Bạn có triệu chứng đau ở vùng bụng trên mấy ngày trong tuần?

4, Bạn có triệu chứng buồn nôn mấy ngày trong tuần? C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm )

A, 0 ngày ( 3 điểm ) B, 1 ngày ( 2 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 1 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

5, Bạn thấy khó ngủ vào ban đêm do cảm giác nóng rát sau xương ức và/hoặc ợ mấy ngày trong tuần?

B, 1 ngày ( 2 điểm ) A, 0 ngày ( 3 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 0 điểm )

6, Ngoài các thuốc trong đơn bác sĩ kê, bạn phải uống thêm một số loại thuốc khác như Phosphalugel, Maalox... mấy ngày trong tuần? B, 1 ngày ( 1 điểm )

A, 0 ngày ( 0 điểm ) B, 1 ngày ( 1 điểm ) C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm )

C, 2 hoặc 3 ngày ( 2 điểm ) D, 4 đến 7 ngày ( 3 điểm ) A, 0 ngày ( 0 điểm )

Chẩn đoán Tổng điểm % Khả năng viêm thực quản Điểm ô C ( Điểm tác động)

0 – 2 0

3 – 5 6 – 8 ≥ 9 13,2 12,3 40

< 3 ≥ 3 Khả năng GERD thấp Khả năng GERD cao GERD nhẹ GERD nhẹ GERD nặng

C. SỨC KHỎE TINH THẦN

Bộ câu hỏi này giúp người thầy thuốc biết bạn cảm thấy như thế nào. Đọc mỗi câu, đánh dấu “X” vào câu trả lới miêu tả đúng nhất bạn cảm thấy như thế nào trong suốt TUẦN VỪA RỒI. Bạn không cần phải suy nghĩ nhiều khi trả lời. Trong bản câu hỏi này, những câu trả lời tự phát sẽ quan trọng hơn

Hầu như mọi lúc 3 A Tôi thấy căng thẳng hay tổn thương:

Nhiều thời điểm 2

Đôi khi 1

Hầu như không có 0

52

D Tôi vẫn thích những điều tôi đã từng thích:

Vẫn nhiều như vậy 0

Không còn nhiều như vậy 1

Chỉ còn một ít 2

Dường như không còn 3

Vẫn khảm cảm thấy tối tệ như vậy 3 A Tôi có cảm giác hoảng sợ nếu điều gì đó khủng khiếp xảy ra:

Vâng, nhưng không quá tồi tệ 2

Một ít, nhưng nó không làm tôi lo lắng 1

Dường như không có 0

Nhiều như tôi có thể luôn luôn 0 D Tôi có thể cười và thấy những điều hài hước của sự việc:

Bây giờ thì không nhiều lắm 1

Hiển nhiên là không nhiều 2

Hầu như không 3

Thường xuyên 3 A Thường xuất hiện ý nghĩ lo lắng:

Nhiều lúc 2

Thỉnh thoảng nhưng không thường xuyên 1

Chỉ đôi khi 0

3 D Tôi cảm thấy vui tươi: Hầu như không

Không thường xuyên 2

Đôi khi 1

Hầu như mọi lúc 0

Chắc chắn 0 A Tôi có thể ngồi tĩnh lặng và thư giãn:

Thương xuyên 1

53

Hầu như mọi lúc 3 D Tôi cảm thấy như là tôi chậm lại:

Nhiều thời điểm 2

Đôi khi 1

Hầu như không có 0

A Tôi có cảm giác hoảng sợ như là “ những con bướm” trong dạ

dày: Hầu như không 0

Thỉnh thoảng 1

Khá thường xuyên 2

Thưởng xuyên 3

Chắc chắn 3 D Tôi không có hứng thú với ngoại hình:

Tôi không chăm sóc nhiều như đã từng 2

Tôi có thể chăm sóc như đã từng 1

Tôi chăm sóc như đã từng 0

Rất nhiều 3 A Tôi thấy bồn chồn như là tôi phải di chuyển:

Khá nhiều 2

Không quá nhiều 1

Hầu như không 0

Nhiều như tôi đã từng 0 D Tôi tìm thấy sự vui thích trong các sự việc:

Ít hơn tôi đã từng 1

Hiển nhiên là ít hơn tôi đã từng 2

Ít hơn rất nhiều 3

Rất thường xuyên 3 A Tôi bất chợt cảm thấy hoảng loạn:

Khá thường xuyên 2

Không quá thường xuyên 1

Hầu như không 0

Thường xuyên 0 D Tôi có thể thích 1 cuốn sách, chương trình TV/ radio hay:

54

Đôi khi 1

Không thường xuyên 2

55

Rất hiếm khi 3