ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

VŨ THÁI PHƯƠNG NAM

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS

VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC – ĐHQGHN

NĂM HỌC 2021-2022

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH Y ĐA KHOA

Hà Nội - 2022

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

Người thực hiện: VŨ THÁI PHƯƠNG NAM

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS

VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC – ĐHQGHN

NĂM HỌC 2021-2022

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH Y ĐA KHOA

Khóa: QH.2016.Y

Người hướng dẫn:

1. ThS. Mạc Đăng Tuấn 2. ThS. BSNT. Nguyễn Viết Chung

Hà Nội - 2022

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này, em đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè. Với lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới:

Ban chủ nhiệm, Thầy cô giáo Bộ môn Y Dược Cộng đồng & Y dự phòng, Bộ môn Tâm thần & Tâm lý học lâm sàng, Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Em xin gửi lời cảm ơn tới các Thầy/Cô Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sỹ trong hội đồng khoa học thông qua đề cương, hội đồng khoa học bảo vệ khóa luận đã đóng góp nhiều ý kiến quý báu cho em trong quá trình nghiên cứu, hoàn chỉnh khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành y đa khoa.

Em xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn tới:

ThS. Mạc Đăng Tuấn, người thầy kính yêu đã tận tâm dìu dắt, giúp đỡ,

hướng dẫn em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

ThS. BSNT. Nguyễn Viết Chung, thầy đã luôn quan tâm, hết lòng giúp

đỡ, chỉ bảo ân cần trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cha mẹ, anh chị em trong gia đình, bạn bè đã động viên, chia sẻ với em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2022

Sinh viên

Vũ Thái Phương Nam

LỜI CAM ĐOAN

Em là Vũ Thái Phương Nam, sinh viên khoá QH.2016.Y, ngành y đa

khoa, Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan:

Đây là luận văn do bản thân em trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn

của ThS. Mạc Đăng Tuấn và ThS. BSNT. Nguyễn Viết Chung.

Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được

công bố tại Việt Nam.

Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.

Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết

này.

Hà Nội, ngày 06 tháng 6 năm 2022

Tác giả

Vũ Thái Phương Nam

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1

Chương 1: TỔNG QUAN ............................................................................... 3

1.1. Một số khái niệm ......................................................................................... 3

1.1.1. Khái niệm về trầm cảm ................................................................... 3

1.1.2. Khái niệm về lo âu .......................................................................... 3

1.1.3. Khái niệm về stress ......................................................................... 4

1.2. Rối loạn trầm cảm – lo âu – stress của sinh viên Y Dược .......................... 5

1.2.1. Đặc điểm, dịch tễ ............................................................................ 5

1.2.2. Các yếu tố liên quan ....................................................................... 5

1.2.3. Sơ đồ tổng hợp một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và

stress của sinh viên Y Dược .......................................................... 15

1.2.4. Giới thiệu về thang đo lường trầm cảm, lo âu, stress DASS 21 của Lovibond ....................................................................................... 16

1.3. Các nghiên cứu về trầm cảm – lo âu – stress của sinh viên Y Dược ........ 17

1.3.1. Trên thế giới .................................................................................. 17

1.3.2. Tại Việt Nam ................................................................................. 20

1.4. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu ............................................................ 22

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 24

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu ........................................... 24

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 24

2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ................................................ 24

2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu ............................................ 24

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 24

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu ........................... 24

2.2.3. Công cụ thu thập số liệu ............................................................... 26

2.2.4. Các biến số nghiên cứu ................................................................. 26

2.3. Xử lý số liệu .............................................................................................. 30

2.4. Đạo đức nghiên cứu .................................................................................. 31

2.5. Hạn chế của nghiên cứu, sai số ................................................................. 31

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ 32

3.1. Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Trường Đại học Y

Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022 .................................................... 32

3.1.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu .................................... 32

3.1.2. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022 .................................................... 38

3.2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh

viên trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022 ........... 40

3.2.1. Mối liên quan với biểu hiện trầm cảm của sinh viên .................... 40

3.2.2. Mối liên quan với biểu hiện lo âu của sinh viên ........................... 47

3.2.3. Mối liên quan với biểu hiện stress của sinh viên .......................... 53

Chương 4: BÀN LUẬN ................................................................................. 60

4.1. Thực trạng trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên Trường Đại học Y

Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022 ................................................ 60

4.2. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm, lo âu và stress của sinh

viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022 .......... 64

4.3. Bàn luận về hạn chế của nghiên cứu ......................................................... 71

KẾT LUẬN .................................................................................................... 73

1. Thực trạng trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 - 2022 ................................................................. 73

2. Các yếu tố liên quan đến thực trạng trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm 2021 - 2022 ............................... 73

KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CDC : Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh

ĐHQGHN : Đại học Quốc Gia Hà Nội

SV : Sinh viên

WHO : World Health Organization (Tổ chức Y Tế thế giới)

YTCC : Y tế công cộng

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1. 1. Phân loại thang đánh giá Trầm cảm, lo âu và stress 21................. 16

Bảng 2. 1. Bảng phân bố cỡ mẫu khảo sát theo khối ...................................... 25

Bảng 2. 2. Bảng phân bố tỷ lệ sinh viên tham gia khảo sát theo khối ............ 26

Bảng 3. 1. Bảng phân bố sinh viên theo dân tộc, tôn giáo .............................. 33

Bảng 3. 2. Đặc điểm gia đình của đối tượng nghiên cứu ................................ 35

Bảng 3. 3. Đặc điểm về học tập của đối tượng nghiên cứu ............................ 37

Bảng 3. 4. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress chung của sinh viên ..................... 38

Bảng 3. 5. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với trầm cảm ................ 41

Bảng 3. 6. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với trầm cảm ................. 42

Bảng 3. 7. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với trầm

cảm .................................................................................................................. 44

Bảng 3. 8. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với lo âu ....................... 47

Bảng 3. 9. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với lo âu ........................ 48

Bảng 3. 10. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với lo âu

......................................................................................................................... 50

Bảng 3. 11. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với stress .................... 53

Bảng 3. 12. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với stress ..................... 54

Bảng 3. 13. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với stress

......................................................................................................................... 56

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3. 1. Biểu đồ phân bố sinh viên theo giới tính ................................... 32

Biểu đồ 3. 2. Biểu đồ phân bố sinh viên theo năm học ................................... 32

Biểu đồ 3. 3. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi sinh .................................... 33

Biểu đồ 3. 4. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi ở hiện tại ........................... 34

Biểu đồ 3. 5. Biểu đồ phân bố sinh viên theo cảm nhận tài chính cá nhân .... 34

Biểu đồ 3. 6. Đặc điểm các mối quan hệ của sinh viên với gia đình, bạn bè, xã

hội .................................................................................................................... 36

Biểu đồ 3. 7. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo giới tính ............. 39

Biểu đồ 3. 8. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo năm học ............. 40

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1. 1. Sơ đồ tổng hợp yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress của

sinh viên Y Dược. ........................................................................................... 15

Sơ đồ 2. 1. Sơ đồ nghiên cứu .......................................................................... 29

ĐẶT VẤN ĐỀ

Hiện nay, rối loạn tâm thần là khá phổ biến, gây ảnh hưởng đến 25% dân số thế giới tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời của họ. Các rối loạn tâm thần thường gặp nhất bao gồm trầm cảm, lo âu và stress [1]. Ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 2012, trên thế giới có khoảng 350 triệu người chịu ảnh hưởng của trầm cảm [2]. Từ năm 1990 đến năm 2013, số người bị trầm cảm và/hoặc rối loạn lo âu tăng gần 50% từ 416 triệu lên 615 triệu người [3]. Ước tính đến năm 2030, trầm cảm sẽ là nguyên nhân hàng đầu trong gánh nặng bệnh tật toàn cầu [4]. Rối loạn lo âu và trầm cảm có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khoảng 85% bệnh nhân trầm cảm có các biểu hiện lo âu [5]. Trên thế giới, tỷ lệ trầm cảm và lo âu lần lượt là 4,4% và 3,6%. Ở Việt Nam, tỷ lệ trầm cảm và lo âu là trên toàn dân số là 4,0% và 2,2% [6].

Với sinh viên, lứa tuổi bắt đầu có những thay đổi điều kiện sống, học tập, thay đổi môi trường giao tiếp, môi trường xã hội, ... kết hợp với đặc điểm tâm lý như bồng bột, thiếu kinh nghiệm thì nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress ở nhóm đối tượng này lại càng cao hơn [7]. Một nghiên cứu tại Malaysia năm 2013 trên sinh viên các trường công lập cho kết quả khoảng 23,7% sinh viên bị stress vừa và nặng; 63% sinh viên có dấu hiệu của lo âu ở mức độ vừa, nặng và rất nặng; 39,2% sinh viên có dấu hiệu của trầm cảm ở mức độ vừa, nặng và rất nặng [8]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 trên sinh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy 77% sinh viên có dấu hiệu của stress, 75% sinh viên có dấu hiệu của lo âu và 75% có dấu hiệu trầm cảm ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến rất nặng [9]. Tình trạng rối loạn sức khỏe tâm thần ở sinh viên đang rất cần được quan tâm, trong số đó phải kể đến sinh viên ngành Y Dược – nhóm đối tượng có nguy cơ cao mắc các rối loạn trầm cảm, lo âu, stress. Năm 2015, tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên 8 trường Đại học Y dược Việt Nam là 43,2%, tỷ lệ lệ sinh viên Y dược có ý tưởng tự sát là 8,7%, lên kế hoạch tự sát là 3,9% và thực hiện hành vi tự sát là 0,9% [10].

1

Sinh viên Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) cũng không nằm ngoài nhóm có nguy cơ biểu hiện trầm cảm, lo âu và stress. Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN là trường y đầu ngành của

khu vực phía Bắc, đảm nhiệm việc tuyển chọn và đảo tạo đội ngũ cán bộ y tế chủ yếu cho xã hội, nên môi trường học tập tại trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN rất kỷ luật và nghiêm khắc. Sinh viên Y Dược với khối lượng kiến thức lớn, thời gian học tập dài và các đặc thù của nghề nghiệp như thực hành lâm sàng hay trực tại bệnh viện là một đối tượng cần được đánh giá. Với số lượng không nhỏ các sinh viên ngoại tỉnh học tập tại trường, họ phải đối mặt với môi trường tự lập, phải tự quản lý tài chính, sinh hoạt của bản thân, phải thích nghi với hoàn cảnh sống tập thể. Những yếu tố này có thể gây nên áp lực, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần và học tập của sinh viên. Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng sinh viên Y có tỷ lệ cao các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress trong suốt những năm đại học [11], [12], [13]. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào hoặc trầm cảm hoặc lo âu như nghiên cứu của Đỗ Đình Quyên năm 2007 về trầm cảm ở sinh viên Y tại trường Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Trần Kim Trang năm 2012 về rối loạn lo âu và trầm cảm trên sinh viên trưởng Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và Nguyễn Thị Huyền Anh năm 2017 trên sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội [14], [15], [16]. Gần đây, có nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung năm 2017 về trầm cảm, lo âu và stress nhưng thực hiện trên sinh viên YTCC [17]. Trong khi đó, chưa có nhiều các nghiên cứu đánh giá cùng lúc trầm cảm lo âu và stress trên sinh viên y dược trong cùng một thời điểm. Chính vì vậy, em tiến hành nghiên cứu đề tài: “Thực trạng trầm cảm, lo âu, stress và một số yếu tố liên quan ở sinh viên Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021 - 2022" với 2 mục tiêu cụ thể sau:

1. Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Trường Đại

học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên

2

trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Một số khái niệm 1.1.1. Khái niệm về trầm cảm

Trầm cảm là một trạng thái bệnh lý của cảm xúc, biểu hiện bằng quá trinh ức chế toàn bộ hoạt động tâm thần. Chủ yếu là ức chế cảm xúc, ức chế tư duy và ức chế vận động. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10), trầm cảm đặc trưng bởi khí sắc trầm, mất quan tâm hay thích thú, giảm năng lượng dẫn đến tăng mệt mỏi và giảm hoạt động, tồn tại trong khoảng thời gian cần thiết ít nhất là 2 tuần [18]. Những triệu chứng khác như giảm sự tập trung, giảm tính tự trọng và lòng tự tin, ý tưởng bị tội và không xứng đáng, nhìn vào tương lai ảm đạm bi quan, ý tưởng và hành vi tự hủy hoại hoặc tự sát cũng là các triệu chứng phổ biến. Ngoài ra còn các triệu chứng cơ thể khác như thức giấc sớm hơm ít nhất 2 giờ, trầm cảm nặng lên vào buổi sáng, sút cân (≥ 5% trọng lượng cơ thể so với tháng trước...)

− Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD - 10 (F32.-):

+ Lần đầu tiên xuất hiện ở bệnh nhân các triệu chứng lâm sàng đặc

trưng, phổ biến và sinh học của trầm cảm.

+ Giai đoạn trầm cảm kéo dài ít nhất 2 tuần.

+ Không có đủ các triệu chứng đáp ứng các tiêu chuẩn đối với giai đoạn hưng cảm nhẹ hoặc hưng cảm (F30) ở bất kỳ thời điểm nào trong đời.

+ Giai đoạn này không gắn với việc sử dụng chất tác động tâm thần

(F10 - F19) hoặc bất cứ rối loạn thực tổn nào (F00 – F09).

1.1.2. Khái niệm về lo âu

3

Năm 1621, tác giả Robert Burton đã mô tả các triệu chứng lo âu ở những người lo lắng về xã hội: “Nỗi sợ là nguyên nhân gây ra một số hiệu ứng đáng phàn nàn ở con người, ví dụ như đỏ mặt, xanh xao, run rẩy, đồ mồ hôi; nó còn làm lạnh và nóng đột ngột khắp cơ thể, đánh trống ngực, ngất xỉu.... [19]. Trước đó, Hippocrates đã mô tả một trong các bệnh nhân của ông, những người dường như đã mắc chứng bệnh mà ngày nay chúng ta gọi là "rối loạn lo âu xã hội":

"Anh ta không dám vào nơi làm việc vì sợ rằng mình bị lạm dụng, bị chán ghét, rằng anh ấy phải luôn vượt qua chính mình từ cử chỉ đến lời nói, hoặc sợ mình sẽ bị bệnh; anh ấy nghĩ rằng tất cả mọi người đang quan sát mình".

Ngày nay, Tổ chức Y tế thế giới đã phân loại rối loạn lo âu nằm trong các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và dạng cơ thể [18], là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do một bệnh cơ thể. Đây là rối loạn mà bệnh nhân không thể kiểm soát được, biểu hiện vững chắc, mạn tính và có thể xảy ra dưới dạng kịch phát. Các dạng rối loạn lo âu thường gặp bao gồm rối loạn lo âu lan tỏa (GAD), rối loạn lo âu xã hội (SAD) và ám ảnh sự biệt định [20].

1.1.3. Khái niệm về stress

Năm 1914, W. B. Cannon lần đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ stress trong các nghiên cứu về y sinh học. Tuy nhiên, người có công lớn trong việc đưa ra khái niệm stress một cách khoa học đó là Hans Selye (nhà sinh lý học người Canada). Ông đã sử dụng thuật ngữ stress để mô tả triệu chứng của quá trình thích nghi với mọi loại bệnh tật (GAG) [21]. Ông đã đưa ra định nghĩa: stress là một phản ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những tình huống căng thẳng. Về sau, trong các nghiên cứu của mình, H. Selye nhấn mạnh: Stress có tính chất tổng hợp chứ không phải chỉ thể hiện trong một trạng thái bệnh lý.

Từ phát hiện của H. Selye, rất nhiều nhà khoa học đã đi sâu nghiên cứu về stress. Nhà tâm lý học Richard Lazarus cho rằng: Stress là trạng thái hay cảm xúc mà chủ thể trải nghiệm khi họ nhận ra rằng các yêu cầu và đòi hỏi từ bên ngoài và bên trong có tính chất đe dọa, có hại, vượt qua nguồn lực cá nhân và xã hội mà họ có thể huy động được [21], [22].

4

Như vậy, có thể thấy stress từ các góc độ khác nhau sẽ được hiểu dưới những định nghĩa khác nhau. Trong nghiên cứu này, định nghĩa về stress trên khía cạnh tâm lý của Richard Lazarus được chúng tôi sử dụng để định nghĩa tình trạng stress ở sinh viên do định nghĩa này phù hợp với điều kiện, định hướng và thang công cụ đo lường sử dụng trong nghiên cứu.

1.2. Rối loạn trầm cảm – lo âu – stress của sinh viên Y Dược 1.2.1. Đặc điểm, dịch tễ

Hầu hết các vấn đề về sức khỏe tâm thần xuất hiện vào giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành, vì những người trẻ tuổi hiếm khi nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào cho sức khỏe tâm thần của họ [23]. Hơn nữa, các vấn đề sức khỏe tâm thần ở nhóm người này có liên quan đến tỷ lệ mắc các vấn đề về thể chất và cảm xúc trong một thời gian vừa hoặc dài hạn, bị gạt ra khỏi thị trường lao động, chất lượng giấc ngủ kém hơn và các mối quan hệ bị rạn nứt. Sinh viên đại học là nhóm đối tượng có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress, nó sẽ gây ra căng thẳng về tâm lý và có thể ảnh hưởng đến kết quả học tập của họ. Trên toàn thế giới, người ta ước tính rằng 12% – 50% sinh viên đại học có ít nhất một tiêu chuẩn chẩn đoán cho một hoặc nhiều rối loạn tâm thần [24]. Nguyên nhân của stress trong cuộc sống đại học bao gồm áp lực học tập xuất phát từ các yếu tố như thi cử và khối lượng công việc, thiếu thời gian giải trí, cạnh tranh, lo lắng về việc không đáp ứng được kỳ vọng của cha mẹ, thiết lập các mối quan hệ cá nhân mới và chuyển đến một địa điểm xa lạ; các yếu tố nhân khẩu học như tuổi và giới, cụ thể là nữ; và gánh nặng tài chính.

Trên toàn cầu, các nghiên cứu được thực hiện trên các mẫu sinh viên đại học khác nhau đã xác định được tỷ lệ trầm cảm, lo lắng và căng thẳng từ trung bình đến cao ở nhóm dân số này [25], [23]. Chẩn đoán sớm và kiểm soát các rối loạn tâm lý đem lại kết quả tốt hơn cho bệnh nhân. Vì vậy, cần phải xác định những sinh viên có nguy cơ cao mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần trong cuộc sống đại học. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 sinh viên cho thấy 77% sinh viên có dấu hiệu của stress, 75% sinh viên có dấu hiệu của lo âu và 75% có dấu hiệu trầm cảm ở các mức độ khác nhau từ nhẹ đến rất nặng [9].

1.2.2. Các yếu tố liên quan

5

Để đánh giá chính xác yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên không phải là vấn đề đơn giản. Trên thực tế, một cá nhân bị stress có thể do nhiều yếu tố khác nhau cùng tích hợp lại. Ví dụ như một sinh viên bị stress, nguyên nhân có thể xuất phát từ việc sinh viên này gặp áp lực trong học

tập. Tuy nhiên, áp lực học tập đã có thể không trở thành yếu tố gây stress nếu như phân bổ thời gian sinh hoạt một cách hợp lý hoặc có được sự chia sẻ, động viên của bạn bè, gia đình. Do đó, việc phân chia các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress chỉ mang tính tương đối. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên có thể chia thành yếu tố cá nhân, môi trường học tập và mối quan hệ xã hội.

1.2.2.1. Yếu tố cá nhân

• Tuổi

Những sinh viên có độ tuổi lớn hơn thường có nguy cơ trầm cảm, lo âu

và stress cao hơn.

Nghiên cứu của Wafaa Yousif Abdel Wahed và cộng sự (2016) đã tiến hành điều tra trên 442 sinh viên y khoa từ năm nhất đến năm tư của trường đại học Fayoum, Ai cập và cho thấy stress và lo âu ở mức cao có mối liên quan với các yếu tố tuổi. Những sinh viên trên 20 tuổi có mức độ stress và lo âu cao hơn sinh viên dưới 20 tuổi. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy trầm cảm ở mức cao có liên quan với yếu tố tuổi, mức độ trầm cảm ở những sinh viên trên 20 tuổi cao hơn sinh viên ở lứa tuổi nhỏ hơn [26].

Nghiên cứu của Lu Chen và cộng sự năm 2013 trên trên 5245 sinh viên đại học ở Cáp Nhĩ Tân, Trung Quốc đã cho thấy yếu tố tuổi cá nhân liên quan đến trầm cảm ở sinh viên. Những sinh viên trên 25 tuổi có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,8 lần so với những sinh viên nhỏ hơn 25 tuổi [27].

Nghiên cứu của Khadijah Shamsuddin và cộng sự năm 2013 trên 506 sinh viên tuổi từ 18-24 thuộc 4 trường đại học công lập tại Klang Valley, Malaysia cho thấy mức độ trầm cảm, lo âu và stress ở nhóm sinh viên trên 20 tuổi cao hơn nhóm sinh viên nhỏ tuổi [8].

• Năm học

6

Các nghiên cứu tại Việt Nam đã cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa năm học và trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên. Nguy cơ stress giảm dần theo từng năm học, trừ năm cuối. Nguy cơ lo âu và trầm cảm tăng dần theo các năm, năm sau cao hơn năm trước.

Nghiên cứu Nguyễn Hữu Thụ trên 829 sinh viên từ K50 đến K53 của Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã chỉ ra các nhóm yếu tố đặc điểm cá nhân được xếp hàng thứ 2 trong các nhóm nguyên nhân gây stress ở sinh viên. Tác nhân năm học, là một trong những tác nhân chủ yếu gây nên stress ở sinh viên [28].

Nghiên cứu của Hamza M., Abdulghani sử dụng thiết kế cắt ngang trên tất cả học sinh từ năm 1 đến năm 4 của đại học King Saud, Ả Rập Saudi đã tìm ra năm học là một trong các yếu tố cá nhân liên quan đến stress. Mức độ stress giảm dần theo năm học, ngoại trừ năm cuối. Nguy cơ mắc stress ở sinh viên năm nhất, năm hai, năm ba, năm tư gấp lần lượt 3,96; 2,6; 1,9 và 0,82 lần so với sinh viên năm thứ năm (p<0,0001) [29].

Nghiên cứu cắt ngang của Mohamad Saiful Bahri Yusoff trên sinh viên trường đại học Sains, Malaysia được tiến hành trên 1058 sinh viên y khoa của trường năm 2010. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra yếu tố năm học là yếu tố duy nhất tìm được mối liên quan với stress ở sinh viên y khoa (p<0,05) [30].

Nghiên cứu của Nuran Bayram và cộng sự năm 2008 trên 1617 sinh viên tại Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ ra sinh viên năm thứ nhất và năm hai có mức độ trầm cảm, lo âu và stress cao hơn sinh viên các năm còn lại [31].

Nghiên cứu của Ganesh S., Kumar và cộng sự năm 2012 trên 400 sinh viên y khoa tại Ấn Độ đã cho thấy yếu tố năm học có liên quan chặt chẽ với mức độ trầm cảm ở sinh viên, sự khác nhau giữa mức độ trầm cảm ở sinh viên các năm học khác nhau có ý nghĩa thống kê (p<0,001) [32].

Nghiên cứu của Tabassum Alvi và cộng sự trên 279 sinh viên y khoa đại học y Wah, Pakistan năm 2008 đã chỉ ra năm học là yếu tố liên quan chặt chẽ đến lo âu ở sinh viên [33].

• Giới

Theo nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước, tỷ lệ sinh viên nữ thường

có khả năng bị trầm cảm, lo âu và stress cao hơn so với sinh viên nam.

Theo báo cáo của WHO năm 2015, tỷ lệ trầm cảm chung trong nhóm

7

thanh thiếu niên từ 20 – 24 tuổi là 5,9% ở nữ và 4,2% ở nam [6].

Nữ sinh viên Y khoa tại Brazil năm 2017 có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress cao hơn so với nam sinh viên [34]. Các nghiên cứu trên sinh viên Y tại Hàn Quốc và Ấn Độ cũng cho kết quả rằng sinh viên nữ có nguy cơ bị stress cao hơn sinh viên nam (lần lượt p<0,05 và p<0,01) [11], [35].

Nghiên cứu của Đoàn Vương Diên Khánh trên sinh viên Y tế công cộng trường Đại học Y Dược Huế năm 2016 cho thấy tỷ lệ bị stress của sinh viên nữ cao gấp đôi so với sinh viên nam (OR=2,3; 95%CI: 1,10 – 4,83) [36].

Nghiên cứu của Nuran Bayram và cộng sự năm 2008 trên 1617 sinh viên tại Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ ra yếu tố giới là yếu tố liên quan đến stress và trầm cảm, nhóm sinh viên nữ có mức độ stress, trầm cảm cao hơn so với sinh viên nam [31].

Nghiên cứu của Daniel Eisenberg và cộng sự năm 2007 trên sinh viên các trường đại học công lập của Mỹ đã chỉ ra nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu của lo âu ở nữ sinh viên cao hơn nam sinh viên [37].

• Khu vực sinh sống và nơi ở hiện tại

Những sinh viên sinh sống ở nông thôn thường có nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress cao hơn những sinh viên sống ở thành thị.

Những sinh viên ở trọ thường có khả năng xuất hiện các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress cao hơn các sinh viên ở ký túc xá hoặc ở cùng gia đình. Việc ở trong ký túc xá hay ở cùng gia đình tạo điều kiện cho sinh viên dễ dàng duy trì các nếp sống, thói quen sinh hoạt đều đặn, lành mạnh. Điều này sẽ góp phần giúp sinh viên có được một sức khỏe tinh thần đầy đủ, giảm bớt nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress.

Nghiên cứu của Eisenberg và cộng sự năm 2007 thực hiện trên sinh viên Mỹ đã cho kết quả sinh viên ở ký túc xá có nguy cơ bị lo âu thấp hơn so với sinh viên không sống ở ký túc xá (OR=0,41; 95%CI: 0,21 – 0,78) [37].

8

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Lê Thu Huyền trên sinh viên Y tế công cộng Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 cho thấy sinh viên sống ở nhà trọ và nhà người thân có nguy cơ bị stress cao gấp 4 lần so với sinh

viên sống ở ký túc xá (lần lượt OR=4,2; 95%CI: 1,3 – 13,2 và OR=4,2; 95%CI: 1,2 – 14,1) [38].

Nghiên cứu cắt ngang về một số rối nhiễu tâm lý của sinh viên đại học Y Dược Thành phố HCM của Lê Minh Thuận năm 2011 thực hiện trên sinh viên năm 1 và năm 2 chỉ ra mức độ stress ở sinh viên sống nhà trọ/ thuê cao gấp 2,52 lần so với sinh viên sống với cha mẹ (KTC95% từ 2,22 - 2,83, p<0,001). Rối nhiễu trầm cảm ở sinh viên ở nhà trọ và nhà riêng đều cao gấp lần lượt là 1,56 và 1,21 lần so với ở kí túc xá, nguy cơ trầm cảm ở sinh viên ở với gia đình chỉ bằng 0,77 lần so với sinh viên ở ký túc. Rối loạn lo âu ở sinh viên ở nhà trọ và ở nhà riêng cao gấp lần lượt là 1,9 và 1,17 lần sinh viên ở ký túc xá. Sinh viên ở nhà riêng cũng bị stress nhiều hơn sinh viên ở với cha mẹ là 1,31 lần (KTC 95% 1,21-1,41) p<0,001 [9].

• Tình trạng tài chính

Khó khăn trong tài chính sẽ làm tăng nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress

ở sinh viên.

Nghiên cứu của Eisenberg và cộng sự năm 2007 tại Mỹ đã chỉ ra rằng sinh viên có các trở ngại về tài chính có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần cao hơn so với các sinh không bị trở ngại (OR=1,6 - 9,0) [37].

Nghiên cứu trên sinh viên Y tế công cộng năm 2017 chỉ ra sinh viên có thu nhập bình quân của gia đình (người/tháng) thấp hơn 2 triệu có nguy cơ bị stress và lo âu cao hơn từ 1,6 đến 3,4 lần so với sinh viên ở gia đình có thu nhập bình quân từ 2 triệu trở lên [17].

Nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh trên sinh viên Y học dự phòng năm 2016 cũng chỉ ra rằng sinh viên có kinh tế gia đình mức nghèo có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp 2,5 lần so với sinh viên có kinh tế gia đình không nghèo (OR=2,52; 95%CI:1,44 – 4,23) [43].

1.2.2.2. Yếu tố học tập

• Áp lực học tập

9

Đối với sinh viên Y khoa, áp lực học tập là rất lớn. Họ không chỉ trau dồi kiến thức tại giảng đường mà còn tại bệnh viện hay các cơ sở thực tập. Kiến

thức luôn cập nhật cũng góp phần tạo nên sự quá tải trong học tập của sinh viên Y khoa. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng tăng do cơ hội tìm kiếm được việc làm tốt ngày càng ít, sinh viên Y khoa luôn phấn đấu không ngừng để đạt được thành tích xuất sắc và tự trang bị cho bản thân những kỹ năng tốt nhất phục vụ cho nghề nghiệp tương lai. Tất cả những yếu tố trên đã làm tăng nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên.

Nghiên cứu tại Đại học Y Wah (Pakistan) năm 2008 đã chỉ ra rằng sự không hài lòng với bài kiểm tra và quá tải với lịch kiểm tra có liên quan đáng kể đến nguy cơ bị trầm cảm và lo âu ở sinh viên (p<0.05) [33].

Nghiên cứu cắt ngang của Mohamad Saiful Bahri Yusoff và cộng sự về thực trạng và các nguyên nhân stress của sinh viên trường đại học Sains Malaysia được tiến hành trên 1058 sinh viên y khoa của trường đã chỉ ra nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập (bài thi, lượng bài tập nhiều, thiếu thời gian ôn tập, điểm kém, kỳ vọng cao từ bản thân, thiếu các kỹ năng thực tập y khoa, học chậm, khối lượng bài tập nhiều, không hiểu kiến thức được giảng dạy) là nguyên nhân chính gây nên stress [30]. Nghiên cứu khác trên sinh viên y khoa tiềm năng năm 2013, Yusoff chỉ ra trầm cảm có mối liên quan chặt chẽ với kết quả học tập trên lớp (p<0,001) [46].

Nghiên cứu của Nuran, Bayram và cộng sự năm 2008 trên 1617 sinh viên tại Thổ Nhĩ Kỳ đã chỉ ra yếu tố học tập là yếu tố liên quan đến stress, lo âu và trầm cảm, nhóm sinh viên hài lòng với kết quả học tập của bản thân có điểm trầm cảm, lo âu và stress thấp hơn nhóm sinh viên không hài lòng [31].

Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Minh Trí năm 2013 trên sinh viên Đại học Y Dược Cần Thơ đã chỉ ra rằng áp lực học tập cao làm tăng nguy cơ bị trầm cảm của sinh viên hơn 4 lần (OR=4,35; 95%CI: 3,00 — 6,25) [47].

10

Nghiên cứu của Phan Thị Diệu Ngọc năm 2013 trên sinh viên Đại học Y khoa Vinh đã chỉ ra rằng sinh viên có áp lực học tập cao cũng tăng nguy cơ bị trầm cảm gấp 4,4 lần so với sinh viên không có áp lực học tập (p<0,001) [48].

• Lập kế hoạch học tập

Việc lập kế hoạch học tập thường mang lại tính chủ động cho sinh viên trong việc học và chuẩn bị thi cử. Bên cạnh đó, lập kế hoạch cũng hỗ trợ sinh viên trong việc sắp xếp công việc, thời gian làm việc học tập một cách khoa học hợp lý, mang lại hiệu quả công việc tối ưu. Điều này sẽ mang lại sự tự tin cho sinh viên, làm giảm nguy cơ stress, lo âu và trầm cảm ở sinh viên.

Nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 cũng cho kết quả những sinh viên có kế hoạch học tập theo tuần, tháng hoặc năm thi stress, lo âu, trầm cảm thấp hơn sinh viên không có kế hoạch học tập, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê p<0,001 [49].

• Sự hài lòng với ngành học

Khi một sinh viên không cảm thấy thích ngành mà mình đang học, hứng thú, động lực của họ trong học tập sẽ luôn ở mức thấp. Ở Việt Nam, ngành học của con cái thường được chọn bởi bố mẹ. Việc bị bắt buộc phải học ngành không mình không thích sẽ dẫn đến tác động tâm lý trái chiều, từ đó làm tăng nguy cơ xuất hiện các vấn đề trầm cảm, lo âu và stress trong sinh viên.

Kết quả nghiên cứu của Nuram Bayram và cộng sự năm 2008 đã cho thấy quan hệ chặt chẽ giữa trầm cảm, lo âu và stress với sự hài lòng về ngành học của sinh viên. Trong nghiên cứu này, những sinh viên y khoa không cảm thấy hài lòng với ngành học của bản thân thường có nguy cơ trầm cảm, lo âu và stress cao hơn nhóm cảm thấy hài lòng, thích thú với ngành học (p<0,05) [31].

Nghiên cứu của Lu Chen và cộng sự năm 2013 trên trên 5245 sinh viên Đại học ở Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc đã cho thấy thỏa mãn với ngành học là yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên. Sinh viên không hài lòng với ngành mình đang theo học có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,9 lần so với sinh viên hài lòng với ngành mình đang học [27].

11

Nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung năm 2017 cho thấy sinh viên Y tế công cộng không hài lòng với ngành mình theo học có nguy cơ bị trầm cảm, lo

âu và stress lần lượt cao gấp 2,2 lần; 1,8 lần và 2,6 lần so với sinh viên hài lòng với ngành mình theo học (p<0,05) [17].

1.2.2.3. Yếu tố gia đình, bạn bè, xã hội

• Thu nhập của gia đình

Trong thời buổi kinh tế thị trường hiện nay mức độ ảnh hưởng của thu nhập, tình trạng kinh tế đến sức khỏe tinh thần đang dần tăng lên. Những sinh viên sống trong gia đình nghèo thường phải trưởng thành sớm, phải lo nghĩ, quán xuyến nhiều hơn đến công việc của gia đình, chi tiêu và sinh hoạt hàng ngày của gia đình. Ngược lại, sinh viên sống trong gia đình khá giả ít phải lo nghĩ đến bữa ăn, cái mặc, chi tiêu, sinh hoạt hàng ngày của gia đình. Điều này dẫn đến những sinh viên nghèo, khó khăn thường có nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu của trầm cảm, lo âu và stress cao hơn sinh ở những gia đình khá giả.

Nhóm nguyên nhân về gia đình là nhóm nguyên nhân đứng đầu trong gây nên stress ở sinh viên theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Thụ (2009). Trong nhóm nguyên nhân này, thu nhập của gia đình là tác nhân chính ảnh hưởng đến stress sinh viên [28].

Những sinh viên sống trong gia đình có thu nhập thấp thường có nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu của stress, lo âu và trầm cảm cao hơn so với những sinh viên sống trong gia đình có thu nhập cao [37].

• Mối quan hệ với gia đình

12

Mối quan hệ với gia đình là một cấu phần quan trọng trong sự ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của sinh viên. Sự gắn kết, chia sẻ, quan tâm và chăm sóc của bố mẹ là hết sức quan trọng đối với việc phát triển nhân cách và tâm lý nhất là trong giai đoạn học sinh, sinh viên. Trong giai đoạn này, các em sẽ đối mặt với nhiều vấn đề, khó khăn mới xuất hiện trong cuộc sống. Việc có được sự chia sẻ, hỗ trợ và những lời khuyên bổ ích của gia đình là một trong yếu tố then chốt trong bảo vệ sức khỏe tâm thần cho sinh viên, giảm khả năng xuất hiện của trầm cảm, lo âu và stress. Bên cạnh đó, mâu thuẫn trong gia đình cũng được nhiều nghiên cứu chứng minh là yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tinh thần của sinh viên, làm tăng khả năng mắc trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên.

Nghiên cứu về mối quan hệ với gia đình và lo âu ở sinh viên của Michele M. Carter và cộng sự năm 2001 cho thấy mối quan hệ trái chiều giữa tình trạng lo âu, trầm cảm ở sinh viên và sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ. Những sinh viên nhận được sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ sẽ có ít nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu lo âu và trầm cảm [50].

Nghiên cứu của Phạm Thị Huyền Trang thực hiện trên 404/440 sinh viên trường đại học Y Hà Nội thuộc tất cả các ngành và tất cả các năm học đã chỉ ra mối quan hệ gia đình là các yếu tố liên quan đến stress của sinh viên. Nếu như một sinh viên thường xuyên chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống cũng như học tập với cha mẹ, người thân trong gia đình thì nguy cơ stress chỉ bằng 0,5 lần so với những sinh viên không có sự chia sẻ, tâm sự này với gia đình. Nếu những SV nào thường xuyên xảy ra mâu thuẫn với gia đình thì nguy cơ stress cao hơn 4,6 lần so với những sinh viên không hay mâu thuẫn với người thân trong gia đình [51].

Nghiên cứu của Lu Chen và cộng sự năm 2013 trên 5245 sinh viên đại học ở Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc đã cho thấy mối quan hệ với bố mẹ là yếu tố gia đình liên quan đến trầm cảm ở sinh viên. Những sinh viên có mối quan hệ không tốt với bố mẹ có nguy cơ mắc trầm cảm cao gấp 1,4 lần so với nhóm có mối quan hệ tốt với bố mẹ [27].

• Mối quan hệ với bạn bè

Có mối quan hệ tốt với bạn bè giúp sinh viên có nhiều lựa chọn để chia sẻ các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Mối quan hệ bạn bè tốt cũng là yếu tổ bảo vệ sinh viên trước nguy cơ bị trầm cảm, lo âu và stress.

Theo nghiên cứu của đại học California, mối quan hệ với bạn bè là một trong các nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện các dấu hiệu của lo âu ở sinh viên. Mối quan hệ với bạn bè luôn là mối quan tâm của sinh viên. Dấu hiệu của lo âu xuất hiện khi xảy ra các vấn đề trong mối quan hệ này. Các vấn đề thường bao gồm không có đủ bạn bè, không cùng lớp với bạn bè, gặp áp lực nhóm và xung đột với bạn bè [52].

13

Trong nghiên cứu của mình, Vũ Dũng cũng đã chỉ ra có bạn thân và thường đi chơi với bạn thân là những yếu tố bảo vệ sinh viên trước stress.

Những sinh viên có thói quen đi chơi với bạn thân có nguy cơ stress ở mức cao chỉ bằng 1/3 nhóm còn lại với p<0,01. Nguy cơ stress cao ở nhóm sinh viên không có bạn thân gấp 3 lần nhóm có bạn thân với p=0,05 [42].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền về thực trạng hiện tượng stress trong đời sống của sinh viên trường ĐH KHXH & NV – ĐHQG HCM cũng chỉ ra bất ổn từ các mối quan hệ xã hội là một trong các nguyên nhân hàng đầu khiến sinh viên bị stress. Cụ thể là, những lời nói và thái độ ứng xử của người khác đối với bạn, những rắc rối trong quan hệ với người khác, sự xung đột hiểu lầm trong các quan hệ bạn bè là những nguyên nhân nổi lên hàng đầu [53].

14

Nghiên cứu về trầm cảm của Phan Thị Diệu Ngọc năm 2014 trên 395 sinh viên năm thứ nhất và hai tại Đại học Y khoa Vinh cho thấy sinh viên gặp rắc rối với các mối quan hệ có nguy cơ xuất hiện các dấu hiệu trầm cảm ở mức độ vừa và nặng cao gấp 1,9 lần so với sinh viên không có các rắc tối (p<0,05). Không có người tâm sự làm tăng nguy cơ biểu hiện trầm cảm vừa và nặng lên 3,1 lần so với sinh viên có người thân, bạn bè giúp đỡ (p<0,05) [48].

1.2.3. Sơ đồ tổng hợp một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu và stress

Yếu tố cá nhân

- Đặc điểm nhân khẩu học (Tuổi,

Trầm cảm

giới, năm học, khu vực sinh sống,

Lo âu

- Tình trạng sức khỏe của sinh viên

(thay đổi thói quen ăn ngủ, đã từng

Stress

bị rối loạn lo âu, trầm cảm)

Yếu tố gia đình, bạn bè, xã hội

- Thu nhập của gia đình - Áp lực học tập: Số lượng kỳ thi,

- Mối quan hệ với gia đình bài kiểm tra, số môn học, kết quả

- Mối quan hệ với bạn bè học tập, khối lượng kiến thức,

deadlines, …

của sinh viên Y Dược: tình trạng tài chính) Yếu tố học tập - Lập kế hoạch học tập - Sự hài lòng với học tập

15

Sơ đồ 1. 1. Sơ đồ tổng hợp yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress của sinh viên Y Dược.

1.2.4. Giới thiệu về thang đo lường stress, lo âu, trầm cảm DASS 21 của

Lovibond

Thang đánh giá trầm cảm, lo âu và stress (DASS): Năm 1995, Lovibond S. H và Lovibond P. F tại khoa tâm lý học đại học New South Wales, Australia đã xây dựng nên thang đo đánh giá trầm cảm, lo âu và stress ký hiệu là DASS – 42. Bên cạnh thang đo DASS – 42 còn có một phiên bản rút gọn là DASS – 21 được xây dựng năm 1997. Depression – Anxiety – Stress Scale (DASS 21) là bộ công cụ được sử dụng rộng rãi trong lâm sàng cũng như sàng lọc cộng đồng tại nhiều nước trên thế giới. DASS-21 gồm 21 câu hỏi về 3 vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần là trầm cảm (7 câu hỏi), lo âu (7 câu hỏi) và stress (7 câu hỏi). Mỗi câu hỏi về một triệu chứng tương ứng với tình trạng sức khỏe tâm thần trong vòng 1 tuần qua theo thang điểm từ 0 đến 3 cho mỗi câu trả lời tương ứng tình trạng mà đối tượng cảm thấy trong vòng 1 tuần qua từ “Không đúng với tôi chút nào cả" đến “Hoàn toàn đúng với tôi hoặc hầu hết thời gian là đúng". Đánh giá mức độ có triệu chứng trên cơ sở tính điểm bằng cách tính tổng số điểm của mỗi 7 câu hỏi của từng vấn đề sức khỏe rồi nhân đôi kết quả và so sánh với bảng đánh giá. Tổng điểm dao động từ 0 đến 42 tương ứng với mức độ triệu chứng tăng dần, cụ thể:

Bảng 1. 1. Phân loại thang đánh giá Trầm cảm, lo âu và stress 21

Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress

Bình thường 0 – 9 0 – 7 0 – 14

Nhẹ 10 – 13 8 – 9 15 – 18

Vừa 14 – 20 10 – 14 19 – 25

Nặng 21 – 27 15 – 19 26 – 33

Rất nặng ≥28 ≥20 ≥34

16

Tính phù hợp của các tiểu mục trong mỗi phần ở cả 2 phiên bản DASS – 42 và DASS – 21 đều cao (Cronbach’s Alpha của DASS – Trầm cảm là 0,96 - 0,97, của DASS – Lo lắng là 0,84 – 0,92, của DASS – Căng thẳng là 0,90 -

0,95) [54]. Thang đo DASS 21 ở Việt Nam được chuẩn hóa trên đối tượng là những phụ nữ ở miền Bắc Việt Nam với hệ số Cronbach's Alpha khá cao DASS – Trầm cảm là 0,72, của DASS – Lo lắng là 0,77, của DASS – Căng thẳng là 0,7 [55].

Các nội dung trong thang đo DASS 21 không có ý nghĩa chẩn đoán phân loại người bệnh như các triệu chứng được đưa ra trong hướng dẫn phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD – 10), mà mục đích của nó là đưa ra một thực trạng trong quần thể nghiên cứu, giúp cho nhà nghiên cứu có được cái nhìn tổng quát về tình trạng trầm cảm, lo âu và stress, từ đó có những chính sách cải thiện, nâng cao hiệu suất lao động. Đây cũng là thang đo đồng thời đánh giá được ba loại rối loạn tâm thần phổ biến trầm cảm, lo âu và stress. Đồng thời, thang đo này cũng được sử dụng phổ biến khi đồng thời nghiên cứu cả ba loại rối loạn tâm thần, đặc biệt là ở sinh viên [56], [8], [26], [46]. Bên cạnh đó, thang đo này thích hợp để sàng lọc ở người bình thường và có thể sử dụng bởi các bác sỹ không thuộc chuyên khoa tâm thần. Từ những lý do trên, thang do DASS - 21 đã được chọn sử dụng cho nghiên cứu.

1.3. Các nghiên cứu về trầm cảm – lo âu – stress của sinh viên Y Dược 1.3.1. Trên thế giới 1.3.1.1. Nghiên cứu về trầm cảm ở sinh viên trên thế giới

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của Nuran Bayram và cộng sự năm 2008 thực hiện trên 1617 sinh viên với thang đo DASS - 42, cho kết quả 27,1% sinh viên bị trầm cảm từ mức độ vừa đến rất nặng [31]. Một nghiên cứu khác của Gul Arslan và cộng sự (2009) tiến hành trên 822 sinh viên đại học Osmangazi sử dụng thang đo Beck Depression Inventory (BDI) để do lường trầm cảm cho thấy thực trạng cảm của sinh viên là 21,8% [63].

Ở Malaysia, nghiên cứu của Khadijah Shamsuddin và cộng sự năm 2013 trên 506 sinh viên tuổi từ 18-24 thuộc 4 trường đại học công lập tại Klang Valley, Malaysia đã cho thấy thực trạng trầm cảm ở sinh viên Malaysia như sau 27,5% sinh viên bị trầm cảm ở mức vừa, 9,7% ở mức nặng và rất nặng [8].

17

Ở Trung Quốc, nghiên cứu năm 2013 của Lu Chen đã sử dụng thang đo Beck Depression Inventory (BDI) với giá trị từ 14 trở lên là trầm cảm với 5245

sinh viên đại học ở Cáp Nhĩ Tân Trung Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy 11,7% sinh viên tham gia nghiên cứu biểu hiện trầm cảm. Nghiên cứu cũng chỉ ra các rối loạn trầm cảm được ghi nhận trên 4% sinh viên Trung Quốc [27].

Ở Ai Cập, năm 2016, nghiên cứu của Wafaa Yousif Abdel Wahed và cộng sự sử dụng thiết kế cắt ngang trên 442 sinh viên y khoa từ năm nhất đến năm tư đã chỉ ra thực trạng trầm cảm của sinh viên như sau: 39,8% ở mức bình thường, 37,1% ở mức nhẹ và trung bình, 23,1% ở mức nặng và rất nặng [26].

Tại Ấn Độ, năm 2012, Ganesh S. Kumar và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu trên 400 sinh viên y khoa của trường đại học tại Karnataka nhằm do lường mức độ trầm cảm ở sinh viên. Thông qua thang do BDI, nhóm nghiên cứu chỉ ra rằng 71,3% sinh viên y khoa biểu hiện trầm cảm, trong đó các mức nhẹ, vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 29,8%, 27,8%, 29,3%, 7,5% và 6,7% [32].

1.3.1.2. Nghiên cứu về lo âu ở sinh viên trên thế giới

Rối loạn lo âu là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần mắc nhiều

nhất ở sinh viên với khoảng 11,9% sinh viên mắc rối loạn lo âu [61].

Tại Parkistan, nghiên cứu của Inam và cộng sự năm 2003 trên trên 189 sinh viên y khoa trường đại học Y Ziauddin sử dụng thang đo Aga Khan University Anxiety and Depression Scale (AKUADS) đã chỉ ra 60% sinh viên biểu hiện lo âu và trầm cảm [62].

Tại Thổ Nhĩ Kỳ, nghiên cứu của Nuran, Bayram và cộng sự thực hiện trên 1617 sinh viên với thang đo DASS 42, cho kết quả 47,1% sinh viên bị lo âu từ mức độ vừa đến rất nặng [31].

Ở Malaysia, nghiên cứu của Khadijah Shansuddin và cộng sự năm 2013 trên 506 sinh viên tuổi từ 18-24 thuộc 4 trường đại học công lập tại Khang Valley, Malaysia đã cho thấy thực trạng lo âu ở sinh viên Malaysia như sau 34% sinh viên bị lo âu ở mức vừa, 29% ở mức nặng và rất nặng [8].

18

Tại Parkistan nghiên cứu năm 2010 của Tabassum Alvi trên 279 sinh viên y khoa sử dụng thang đo Beck Anxiety Inventory (BAI) để đo lường mức độ lo âu và cho thấy 47,7% sinh viên biểu hiện lo âu [33].

Ở Ai Cập, năm 2016, nghiên cứu của Wafaa Yousif Abdel Wahed và cộng sự sử dụng thiết kế cắt ngang trên 442 sinh viên y khoa từ năm nhất đến năm tư và chỉ ra thực trạng lo âu của sinh viên như sau: 35,7% ở mức bình thường, 34.4% ở mức nhẹ và trung bình, 29,9% ở mức nặng và rất nặng [26].

Ở Malaysia, nghiên cứu trên 743 sinh viên y khoa tiềm năng của Mohamad Saiful Bahri Yusoff năm 2013 chỉ ra 54,5% sinh viên biểu hiện lo âu từ mức vừa đến rất nặng [46]. Maher Fuad Fuad và cộng sự đã thực hiện nghiên cứu trên 227 sinh viên của trưởng Universiti Putra Malaysia năm 2014 và cho kết quả 52% sinh viên biểu hiện lo âu [56].

1.3.1.3. Nghiên cứu về stress ở sinh viên trên thế giới

Ở Mỹ, Điều tra do Associated Press và (a college TV station) mtvU thực hiện năm 2008 trên sinh viên ở nhiều trường đại học chỉ ra 1 trên 10 sinh viên thường xuyên bị stress, 1 trên 5 sinh viên cảm thấy căng thẳng trong phần lớn thời gian. Tỷ lệ này tăng 20% so với cuộc điều tra 5 năm trước đó [57]. Ở Canada, năm 2014, tổ chức Mental Health Task Force on Graduate Student Mental Health của đại học California Berkey đã khảo sát sinh viên cử nhân của trường và phát hiện 45% sinh viên phải ứng phó với các vấn đề liên quan đến stress trong vòng 12 tháng trở lại đây [58].

Tại Thổ Nhĩ Kỷ, năm 2008, nghiên cứu của Nuran Bayram và cộng sự thực hiện trên 1617 sinh viên với thang do DASS 42, cho kết quả 27% sinh viên bị stress ở mức độ vừa, nặng và rất nặng [31].

Ở Ấn Độ, năm 2014, Lakyntiew Pariat và cộng sự nghiên cứu trên sinh viên sinh viên cử nhân của 5 trường đại học của thành phố Shilong liên quan đến các lĩnh vực: Hội họa, Thương Mại, Khoa Học, sử dụng bộ công cụ Student Stress Scale và chỉ ra 38,9% sinh viên, trong đó 15% nam, còn lại là nữ bị stress ở mức nhẹ, 11,9% nam sinh viên và 6,9% nữ bị stress nặng [59].

19

Ở Malaysia, nghiên cứu của Khadijah Shamsuddin và cộng sự năm 2013 trên 506 sinh viên tuổi từ 18-24 thuộc 4 trường đại học công lập tại Klang Valley, Malaysia. Dựa vào thang đo DASS 21, tác giả đã cho thấy thực trạng stress ở sinh viên Malaysia như sau: 18,6% sinh viên bị stress ở mức vừa, 5,1% ở mức nặng và rất nặng [8]. Cũng ở Malaysia, Mohamad Saiful Bahri, Yusoft

là nhà nghiên cứu với nhiều nghiên cứu về stress ở sinh viên. Năm 2010, ông đã thực hiện nghiên cứu trên 1058 sinh viên y khoa cua trường Universati Sams. Malaysia (USM). Thông qua thang đo 12 items General Health Questionnaire (GHQ-12), nghiên cứu đã chỉ ra 29,6% sinh viên y khoa bị stress [30]. Năm 2013, ông tiếp tục thực hiện nghiên cứu về stress, trầm cảm, lo âu trên 743 sinh viên y khoa tiềm năng và với thang đo DASS 21, nghiên cứu chỉ ra 3,6% sinh viên bị stress ở mức vừa đến rất nặng [46].

Ở Ai Cập, năm 2016, Wafaa Yousif Abdel Wahed và cộng sự thực hiện nghiên cứu trên sinh viên sử dụng thiết kế cắt ngang trên 442 sinh viên y khoa từ năm nhất đến năm tư. Thông qua thang đo DASS 21, nghiên cứu cho kết quả là 37,6 % ở mức bình thường, 31,7% ở mức nhẹ và trung bình, 30,8% ở mức nặng và rất nặng [26].

Ở Ethiopia, nghiên cứu của Leta Melaku và cộng sự tiến hành năm 2015 trên 329 sinh viên y khoa tại đại học Jimma với thang đo GHO-12 và thu được kết quả là 52,4% sinh viên bị stress [60].

1.3.2. Tại Việt Nam 1.3.2.1. Thực trạng trầm cảm ở Việt Nam

Nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 thực hiện điều tra trên 252 sinh viên. Thông qua thang đo DASS-42, tác giả đã cho thấy mức độ trầm cảm nặng ở sinh viên là 2% và mức độ trầm cảm rất nặng là 5% (toàn bộ là nữ sinh viên) [49]. Một nghiên cứu khác của tác giả này về rối nhiễu tâm lý trên sinh viên năm 1 và năm 3 của trường đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ ra mức độ trầm cảm của sinh viên như sau: Mức bình thường là 25%, mức nhẹ đến vừa lần lượt là 20% và 32%, mức nặng là 15% và rất nặng là 10% [28].

Nghiên cứu của Phan Thị Diệu Ngọc năm 2014 trên 395 sinh viên năm thứ nhất và hai tại Đại học Y khoa Vinh đã cho thấy thực trạng rối loạn trầm cảm ở sinh viên nhẹ là 31,2%, vừa 29,8%, và nặng là 4,3% [48].

1.3.2.2. Thực trạng lo âu ở Việt Nam

20

Nghiên cứu về lo âu ở sinh viên Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu là nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011 trên 252 sinh viên. Thông qua thang đo DASS-42, tác giả đã cho thấy mức độ lo âu nặng ở sinh viên là 12% và mức độ

lo âu rất nặng là 11% [49]. Một nghiên cứu khác cũng của tác giả này trên sinh viên năm 1 và năm 3 của trường đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ ra mức độ lo âu của sinh viên như sau: Mức bình thưởng là 25%, mức nhẹ đến vừa lần lượt là 19% và 32%, mức nặng là 13% và rất nặng là 11% [9].

1.3.2.3. Thực trạng stress ở Việt Nam

Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Thụ trên 829 sinh viên trường đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009 cho thấy có khoảng 79% sinh viên ở mức stress nhẹ, 3% sinh viên bị stress ở mức vừa và 18% không bị stress [28].

Tại Đà Nẵng, nghiên cứu của Võ Hoàng Anh và cộng sự trên 200 sinh viên trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng cho thấy 96% sinh viên có biểu hiện của stress [64].

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu của Lê Minh Thuận năm 2011, thực hiện trên sinh viên năm thứ nhất và năm thứ ba của đại học Y Dược Thành phố HCM, sử dụng thang do DASS-42 cho thấy mức độ stress của sinh viên như sau: Mức bình thường là 21%, mức nhẹ đến vừa là 65%, mức nặng và rất nặng lần lượt là 7% và 5% [9].

Nghiên cứu của Phạm Thị Huyền Trang năm 2013 trên 440 sinh viên thuộc tất cả các ngành và tất cả các năm học của trường đại học Y Hà Nội đã chỉ ra 63,6 % sinh viên bị stress trong đó tỷ lệ mắc các triệu chứng về thể chất và tinh thần là 62,2% và 92,4% [51].

Nghiên cứu của Vũ Dũng năm 2015 đo lường mức độ stress bằng thang đo Perceived Stress Scale 10 (PSS 10) trên toàn bộ sinh viên điều dưỡng năm 2 và năm 3 của trường đại học Thăng Long cho thấy điểm trung bình stress là từ 19,49 ±4,5, trong đó 22,8% sinh viên có stress ở mức độ cao [42].

Nghiên cứu của Lê Thu Huyền và cộng sự năm 2010 trên 182 sinh viên y tế công cộng tại đại học Y Dược thành phố Hồ Chi Minh, sử dụng thang đo PSS 10 cho thấy sinh viên y tế công cộng bị stress bệnh lý chiếm tỉ lệ khá cao với 24,2%, trong đó có 2,8% sinh viên bị stress bệnh lý nặng [38].

21

Như vậy, kết quả các nghiên cứu ở Việt Nam với thang đo chủ yếu là DASS đã cho thấy tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên, chủ yếu là sinh viên

y khoa đều vượt mức 65%. Kết quả của các nghiên cứu này rung lên hồi chuông báo động về tình trạng sức khỏe tâm thần đặc biệt là trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Việt Nam, đặc biệt là sinh viên ngành Y.

1.4. Giới thiệu về địa điểm nghiên cứu

Trường Đại học Y Dược là trường Đại học thành viên của ĐHQGHN được Thủ Tướng Chính Phủ thành lập trên cơ sở kế thừa Khoa Y Dược và tiếp nối lịch sử phát triển của Đại học Đông Dương – tiền thân của ĐHQGHN, trong đó có Trường Cao đẳng Y khoa (Ecole supérieure de Médecine - 1906) cũng như để đáp ứng yêu cầu phát triển của ĐHQGHN thành trung tâm đại học đa ngành, đa lĩnh vực theo xu thế hội nhập quốc tế của đất nước.

Với sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực y tế chất lượng cao, bồi dưỡng nhân tài dựa vào nghiên cứu, trên nền tảng khoa học cơ bản vững chắc, công nghệ cao và kinh tế - xã hội mũi nhọn, đóng góp tích cực trong đổi mới hệ thống giáo dục đại học Y, Dược ở Việt Nam. Trường Đại Học Y Dược xác định mục tiêu phát triển thành trường đại học định hướng nghiên cứu, thuộc nhóm đại học tiên tiến trong khu vực, đóng góp vào sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, phát triển nền khoa học sức khỏe của đất nước cũng như góp phần hoàn thiện mô hình đại học đa ngành, đa lĩnh vực, dựa trên nền tảng khoa học cơ bản và công nghệ cao, hội nhập nhanh và toàn diện vào mái nhà chung của ĐHQGHN.

Hiện nay, Trường Đại Học Y Dược ĐHQGHN đã phát triển và tiến hành triển khai giảng dạy cho 6 ngành đào tạo đại học thuộc lĩnh vực Y Dược: bao gồm Bác sĩ đa khoa (hệ 6 năm), Dược học (hệ 5 năm), Răng - Hàm - Mặt Chất lượng cao (hệ 6 năm), Kỹ thuật xét nghiệm y học (hệ 4 năm), Kỹ thuật hình ảnh Y học (hệ 4 năm), Điều dưỡng (Hệ 4 năm).

Về quy mô: hiện có hơn 450 sinh viên theo học 6 ngành. Dự kiến quy mô đào tạo hàng năm của nhà trường sẽ tăng dần từ 450 sinh viên/năm (năm 2020) đến 1000 sinh viên/năm (năm 2025) và trở nên ổn định với quy mô 1500 sinh viên/năm (từ năm 2030) của tất cả các mã ngành.

22

Theo mô hình đào tạo kết hợp – kế tiếp (a+b) đặc thù của ĐHQGHN, trong đó giai đoạn a (2 năm đầu) là thời gian sinh viên học tập tại Trường Đại học Khoa học tự nhiên (ĐHKHTN), giai đoạn b (3 năm đối với ngành Dược

23

học, 4 năm đối với ngành Y đa khoa) là thời gian kế tiếp sinh viên học tại Trường Đại học Y Dược. Sau khi kết thúc hai năm học đầu tại Trường ĐHKHTN, sinh viên trở về Trường Đại học Y Dược tiếp tục học tập khối kiến thức theo khối ngành (M3), nhóm ngành (M4) và kiến thức ngành (M5) do Trường Đại học Y Dược quản lý và tổ chức đào tạo. Sinh viên sẽ học tập các học phần này tại giảng đường, các labo y, dược, Công ty dược phẩm, Trung tâm tiền lâm sàng, Bệnh viện thực hành của Trường Đại học Y Dược do các giảng viên cơ hữu (và kiêm nhiệm) của Trường đảm nhiệm.

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu

➢ Tiêu chuẩn lựa chọn:

Các sinh viên từ năm thứ 1 đến năm thứ 6 thuộc tất cả chuyên ngành (y đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kĩ thuật hình ảnh, xét nghiệm y học, điều dưỡng) đang học tập tại Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội.

Các sinh viên đồng ý tham gia điền vào biểu mẫu trực tuyến sau khi được

giới thiệu và giải thích về nghiên cứu.

➢ Tiêu chuẩn loại trừ:

Sinh viên đã thôi học tại Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà

Nội.

2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

➢ Thời gian nghiên cứu từ tháng 06/2021 đến tháng 06/2022. ➢ Địa điểm thực hiện nghiên cứu tại: Trường Đại học Y Dược – Đại học

Quốc gia Hà Nội.

2.2. Phương pháp nghiên cứu và thu thập số liệu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu nghiên cứu

2.2.2.1. Cỡ mẫu:

- Toàn bộ các sinh viên đang học tập tại Trường Đại học Y Dược – Đại

học Quốc gia Hà Nội đồng ý tham gia vào nghiên cứu.

- Cỡ mẫu được tính theo công thức ngẫu nhiên phân tầng theo 6 khối sinh

24

viên, sử dụng phần mềm WHO Sample Size 2.0:

𝑁ℎ ∑

2𝑃ℎ(1 − 𝑃ℎ) 𝑊ℎ 𝑁ℎ𝑃ℎ(1 − 𝑃ℎ)]

𝐿 ℎ=1

2 𝐿 𝑍1−𝛼/2 ℎ=1 2 [𝑁2𝑑2 + 𝑍1−𝛼/2

𝑛 = ∑

Trong đó: n: cỡ mẫu tối thiểu cần có. α là ý nghĩa thống kê, ở mức α=0,05 thì giá trị Z tương ứng là 1,96. d: Mức độ sai lệch tuyệt đối mong đợi là 0,05 L: số tầng là 6 Ph: Tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu trầm cảm ở từng khối. Lấy Ph chung cả 6 khối bằng 0,396 (tương ứng theo nghiên cứu ở sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội [65])

Nh: Số lượng sinh viên từng khối. Với Nh1=394, Nh2=412, Nh3=341, Nh4=274, Nh5=207, Nh6=57 tương ứng số lượng sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba, năm thứ tư, năm thứ năm, năm thứ sáu.

Wh: Trọng số, với Wh1, Wh2, Wh3, Wh4, Wh5, Wh6 lần lượt là số sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba, năm thứ tư, năm thứ năm, năm thứ sáu. Tính bằng số sinh viên mối khối trên tổng sinh viên 6 khối.

Bảng 2. 1. Bảng phân bố cỡ mẫu khảo sát theo khối

STT Khối sinh viên Giá trị p Giá trị d Trọng số W

Kích thước quần thể (n)

Cỡ mẫu tối thiểu cần thiết 71 Số lượng sinh viên thực tế 163 Năm thứ nhất 394 0,396 0,05 0,234 1

Năm thứ hai 412 0,396 0,05 0,244 74 140 2

Năm thứ ba 341 0,396 0,05 0,202 61 155 3

Năm thứ tư 274 0,396 0,05 0,163 49 176 4

Năm thứ năm 207 0,396 0,05 0,123 37 107 5

Năm thứ sáu 57 0,396 0,05 0,034 10 42 6

Tổng 1685 302 783

25

Cỡ mẫu đã thu thập được là 783 sinh viên

2.2.2.2. Phương pháp chọn mẫu:

Chọn mẫu thuận tiện và chọn toàn bộ sinh viên đủ điều kiện tham gia nghiên cứu, bộ câu hỏi được gửi về tất cả các lớp sinh viên thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu.

Bảng 2. 2. Bảng phân bố tỷ lệ sinh viên tham gia khảo sát theo khối

Sinh viên tham gia khảo sát Khối sinh viên Kích thước quần thể (n) (n) (%)

Năm thứ nhất 394 163 41%

Năm thứ hai 412 140 34%

Năm thứ ba 341 155 45%

Năm thứ tư 274 176 64%

Năm thứ năm 207 107 52%

Năm thứ sáu 57 42 74%

2.2.3. Công cụ thu thập số liệu

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thu thập số liệu khảo sát trực tuyến thông qua mẫu phiếu điện tử được thiết kế bằng Google form tự thiết kế. Khảo sát trực tuyến được thực hiên từ tháng 10/2021 đến hết tháng 01/2022.

2.2.4. Các biến số nghiên cứu

➢ Biến số và chỉ số về nhân khẩu xã hội học của sinh viên:

Các yếu tố cá nhân bao gồm: giới tính, năm học, tôn giáo, dân tộc, nơi

sinh, nơi ở hiện tại, khu vực sinh sống, tình trạng tài chính.

Các yếu tố gia đình bao gồm: tình trạng hôn nhân của bố mẹ, đánh giá về kinh tế gia đình, thu nhập của gia đình, chia sẻ với bố mẹ, mâu thuẫn với gia đình.

Các yếu tố học tập: áp lực học tập, điểm GPA, tình trạng thi lại, số môn

26

thi lại, sự hài lòng với điểm số, vi phạm nội quy nhà trường.

Các yếu tố xã hội bao gồm: có bạn thân/nhóm bạn thân, chia sẻ các vấn đề trong cuộc sống và học tập với bạn thân/nhóm bạn thân, mâu thuẫn với bạn thân/nhóm bạn thân, sự thích nghi với xóm trọ/nhà người quen.

➢ Biến số và chỉ số cho mục tiêu 1: Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021- 2022.

− Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên:

+ Tỷ lệ trầm cảm chung ở sinh viên: Số sinh viên bị trầm cảm/ tổng

số sinh viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ trầm cảm theo năm học: Số sinh viên bị trầm cảm của từng

năm học/ tổng số sinh viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ trầm cảm theo giới: Số sinh viên bị trầm cảm của từng giới/

tổng số sinh viên trong nghiên cứu

− Tỷ lệ lo âu ở sinh viên:

+ Tỷ lệ lo âu chung ở sinh viên: Số sinh viên bị lo âu/ tổng số sinh

viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ lo âu theo năm học: Số sinh viên bị lo âu của từng năm học/

tổng số sinh viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ lo âu cảm theo giới: Số sinh viên bị lo âu của từng giới/ tổng

số sinh viên trong nghiên cứu

− Tỷ lệ stress ở sinh viên:

+ Tỷ lệ stress chung ở sinh viên: Số sinh viên bị stress/ tổng số sinh

viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ stress theo năm học: Số sinh viên bị stress của từng năm học/

tổng số sinh viên trong nghiên cứu

+ Tỷ lệ stress cảm theo giới: Số sinh viên bị stress của từng giới/ tổng

số sinh viên trong nghiên cứu

➢ Biến số và chỉ số cho mục tiêu 2: Xác định một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

− Yếu tố nhân khẩu học của sinh viên:

27

+ Năm học: Tỷ lệ sinh viên theo từng năm/ tổng số sinh viên

+ Giới tính: Tỷ lệ sinh viên theo từng giới/ tổng số sinh viên

+ Nơi sinh: Tỷ lệ sinh viên theo từng nơi sinh/ tổng số sinh viên

+ Tình trạng thu nhập: Tỷ lệ sinh viên theo từng mức thu nhập/ tổng

số sinh viên

+ Đã từng bị rối loạn lo âu trầm cảm: Tỷ lệ sinh viên đã từng bị rối

loạn lo âu trầm cảm/ tổng số sinh viên

− Yếu tố liên quan học tập:

+ Điểm GPA

+ Hài lòng với kết quả học tập: Tỷ lệ sinh viên hài lòng kết quả học

tập/ tổng số sinh viên

+ Tình trạng thi lại: Tỷ lệ sinh viên phải thi lại/ tổng số sinh viên

+ Vi phạm nội quy: Tỷ lệ sinh viên vi phạm nội quy/ tổng số sinh viên

− Yếu tố gia đình, bạn bè và xã hội:

+ Tình trạng hôn nhân bố mẹ

+ Mâu thuẫn với người thân trong gia đình: Tỷ lệ sinh viên có mâu

thuẫn với người thân trong gia đình/ Tổng số sinh viên

+ Bố mẹ bất hòa: Tỷ lệ sinh viên chứng kiến bố mẹ bất hòa/ Tổng số

sinh viên

+ Có bạn thân/ nhóm bạn thân: Tỷ lệ sinh viên có bạn thân/ nhóm bạn

thân/ Tổng số sinh viên

+ Xung đột với bạn bè: Tỷ lệ sinh viên xung đột với bạn bè/Tổng số

sinh viên

+ Khó thích nghi với môi trường sống: Tỷ lệ sinh viên khó thích nghi

28

với môi trường sống / Tổng số sinh viên

2.2.5. Sơ đồ nghiên cứu

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU, STRESS VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC – ĐHQGHN NĂM HỌC 2021-2022

a. Mục tiêu 1: Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên

Trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022.

b. Mục tiêu 2: Mô tả một số yếu tố liên quan đến trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên trường Đại học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

Chọn mẫu thuận tiện, bộ câu hỏi online được gửi về tất cả các lớp sinh viên thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu, cỡ mẫu thu được là 783 đối tượng

Đối tượng nghiên cứu là các SV từ năm thứ 1 đến năm thứ 6 thuộc tất cả chuyên ngành (bác sĩ đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kĩ thuật hình ảnh, xét nghiệm y học, điều dưỡng) đang học tập tại Trường Đại học Y Dược, ĐH Quốc gia Hà Nội.

Nghiên cứu này sử dụng phương pháp thu thập số liệu online thông qua Google form (từ tháng 10/2021 đến hết tháng 01/2022).

Số liệu được thu thập, làm sạch, phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0

Báo cáo kết quả nghiên cứu

29

Sơ đồ 2. 1. Sơ đồ nghiên cứu

2.3. Xử lý số liệu

2.3.1. Công cụ đo lường:

Để đánh giá về trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên em sử dụng thang đo Depression - Anxiety - Stress Scales 21 (DASS 21). Thang đo được dịch ra tiếng Việt và chuẩn hóa qua nghiên cứu bởi Trần Đức Thạch và cộng sự năm 2013. Độ tin cậy của thang đo cũng đã được đánh giá là cho kết quả tốt với chỉ số Cronbach’s alpha là 0,88.

Như đã mô tả chi tiết ở phần tổng quan. Thang đo DASS-21 gồm 21 câu hỏi về 3 vấn đề liên quan đến sức khỏe tâm thần là trầm cảm (7 câu hỏi), lo lắng (7 câu hỏi) và stress (7 câu hỏi). Mỗi câu hỏi tương ứng với mức điểm từ 0 đến 3 từ "Không đúng với tôi chút nào cả" đến "Hoàn toàn đúng với tôi hoặc hầu hết thời gian là đúng". Đánh giá mức độ có triệu chứng trên cơ sở tính điểm bằng cách tính tổng số điểm của mỗi 7 câu hỏi của từng vấn đề sức khỏe rồi nhân đối kết quả và so sánh với bảng đánh giá. Tổng điểm dao động từ 0 đến 42 tương ứng với mức độ triệu chứng tăng dần, cụ thể:

Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress

Bình thường 0 – 9 0 – 7 0 – 14

Nhẹ 10 – 13 8 – 9 15 – 18

Vừa 14 – 20 10 – 14 19 – 25

Nặng 21 – 27 15 – 19 26 – 33

Rất nặng ≥28 ≥20 ≥34

2.3.2. Phương pháp phân tích số liệu:

Thông tin định lượng được làm sạch và mã hóa. Số liệu phân tích bằng

phần mềm SPSS 20.0.

30

Nghiên cứu tập trung xác định tỷ lệ sinh viên có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu, stress và các yếu tố liên quan đến tình trạng này, vì vậy mỗi biến phụ thuộc được chia thành hai nhóm mức độ: 1/ Có dấu hiệu của bệnh, bao gồm tất cả các

kết quả từ mức độ nhẹ đến rất nặng, 2/ Không có dấu hiệu của bệnh, bao gồm các kết quả “bình thường”.

Các yếu tố cá nhân và các yếu tố liên quan đến học tập, gia đình và xã hội được đưa vào phân tích để xem xét mối quan hệ với từng tình trạng trầm cảm, lo âu và stress, sau đó dựa trên tài liệu y văn, nghiên cứu chọn những yếu tố có ý nghĩa thống kê p<0,05.

2.4. Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo và công tác Học sinh sinh viên Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội cho phép thực hiện nghiên cứu.

Trước khi tham gia nghiên cứu, tất cả các đối tượng nghiên cứu sẽ được

cung cấp thông tin rõ ràng liên quan đến mục tiêu và nội dung nghiên cứu.

Đối tượng được thông báo là tự nguyện quyết định tham gia vào nghiên cứu hay không. Các thông tin thu thập được từ các đối tượng chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu, hoàn toàn được giữ bí mật.

Số liệu đảm bảo tính khoa học, tin cậy và chính xác.

2.5. Hạn chế của nghiên cứu, sai số:

Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang nên chỉ cho thấy được nguy cơ biểu hiện tình trạng trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên tại một thời điểm và không thể chứng minh mối quan hệ nhân quả. Nghiên cứu mới chỉ tập trung vào đối tượng là sinh viên trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN.

Kết quả thu được từ thang đo không có ý nghĩa chẩn đoán xác định trầm cảm, lo âu, stress mà chỉ đóng vai trò sàng lọc ban đầu các đối tượng có biểu hiện của trầm cảm, lo âu và stress.

31

Sai số: Sức khỏe tâm thần của sinh viên được xem như là một vấn đề nhạy cảm, đối tượng thường có thể e ngại và cố tình trả lời không đúng sự thật. Bộ câu hỏi online gửi về từng lớp nên chưa kiểm soát được tình trạng điền khảo sát chưa thực sự tập trung, nghiêm túc.

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Mô tả thực trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên Trường Đại

học Y Dược - ĐHQGHN năm học 2021-2022

3.1.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

• Giới tính

43,8% 56,2% Nữ Nam

Biểu đồ 3. 1. Biểu đồ phân bố sinh viên theo giới tính

Nhận xét: Trong số 783 sinh viên, có 440 sinh viên nữ chiếm tỉ lệ 56,2%;

còn lại 343 sinh viên nam chiếm tỉ lệ 43,8%.

• Năm học

22.5% 25 20.8% 19.8% 17.9% 20 13.7% 15

10 5.4%

5

0

Năm nhất Năm hai Năm ba Năm tư Năm năm Năm sáu

Biểu đồ 3. 2. Biểu đồ phân bố sinh viên theo năm học

32

Nhận xét: Đối tượng tham gia khảo sát nhiều nhất là sinh viên năm thứ tư (22,5%), các năm học khác có số sinh viên lần lượt năm thứ nhất, năm hai, năm ba, năm năm, năm sáu là 20,8%; 17,9%; 19,8%; 13,7%; 5,4%.

• Dân tộc, tôn giáo

Bảng 3. 1. Bảng phân bố sinh viên theo dân tộc, tôn giáo

Thông tin nhân khẩu học Số lượng (n) Tỉ lệ (%)

Kinh 686 87,6

Tày 41 5,2

Mường 39 5,0 Dân tộc Nùng 6 0,8

Thái 8 1,0

Khác 3 0,4

Không 724 92,5

Phật giáo 26 Tôn giáo 3,3

Thiên chúa giáo 33 4,2

Nhận xét: Hầu hết sinh viên tham gia vào nghiên cứu là người dân tộc

Kinh (87,6%) và đa số đối tượng nghiên cứu không theo tôn giáo (92,5%).

• Nơi sinh

42%

58% Thành phố Nông thôn

Biểu đồ 3. 3. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi sinh

Nhận xét:

33

Đa số tỷ lệ sinh viên sinh ra ở nông thôn (57,7%).

• Nơi ở hiện tại

60

50

52.7%

40

30

20 21.5%

16.7% 10

9.1%

0

Ký túc xá Sống với bố mẹ Nhà trọ thuê

Nhà họ hàng/người quen

Biểu đồ 3. 4. Biểu đồ phân bố sinh viên theo nơi ở hiện tại

Nhận xét: Hơn một nửa số đối tượng nghiên cứu ở nhà trọ (52.6%), số còn lại sống ở ký túc xá là 16,7% và ở nhà bố mẹ, ở nhà người quen, họ hàng (lần lượt là 21,5% và 9,1%).

• Tài chính bản thân

11.6% Đủ

11.5% 29.6%

47.3% Gần đủ, phải đắn đo khi chi tiêu Không đủ chi phí sinh hoạt Không đủ tiền đóng học phí

34

Biểu đồ 3. 5. Biểu đồ phân bố sinh viên theo cảm nhận tài chính cá nhân

Nhận xét: Về tình hình tài chính của bản thân, phần lớn sinh viên cảm thấy tình trạng tài chính của mình đủ và gần đủ nhưng phải đắn đo khi chi tiêu, tỷ lệ này chiếm lần lượt 29,6% và 47,3%.

3.1.2. Đặc điểm gia đình của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3. 2. Đặc điểm gia đình của đối tượng nghiên cứu

Số lượng (n) Tỷ lệ (%) Đặc điểm

Tình trạng hôn nhân của bố mẹ

752 96 Hiện đang sống với nhau

31 4 Ly thân, ly dị

Tình trạng kinh tế của gia đình

48 6,1 Khá giả/Giàu

708 90,5 Trung bình

16 2,0 Cận nghèo (có sổ chứng nhận)

11 1,4 Nghèo (có sổ chứng nhận)

35

Nhận xét: Trong tổng số 783 sinh viên tham gia nghiên cứu, 96% sinh viên sống trong gia đình với tình yêu thương của cả bố và mẹ, còn lại 4% sinh viên sống trong gia đình tan vỡ do bố mẹ ly dị, ly thân hoặc đã mất. Phần lớn sinh viên nhận thấy thu nhập bình quân của gia đình mình ở mức trung bình (90,5%).

100%

8.5

90%

19.5

31.9

80%

39.7

43.8

50.7

70%

60%

81

82

84,8

50%

91.5

40%

80.5

68.1

30%

60.3

56.2

49.3

20%

Không

10%

19

18

15,2

0%

Khó tìm bạn mới

Có bạn thân

Có nhóm bạn thân

Chứng kiến bố mẹ bất hòa

Mâu thuẫn với bạn thân

Mâu thuẫn trong nhóm

Nhóm thường xuyên chia sẻ với nhau

Xung đột với bố mẹ anh chị em trong gia đình

Khó thích nghi với xóm trọ/nhà người quen

3.1.3. Đặc điểm về các mối quan hệ của đối tượng nghiên cứu

Biểu đồ 3. 6. Đặc điểm các mối quan hệ của sinh viên với gia đình, bạn bè, xã hội

36

Nhận xét: Kết quả bảng trên cho thấy tỷ lệ sinh viên thường xuyên chứng kiến bố mẹ bất hòa khi chiếm 43,8%, trong khi đó, tỷ lệ xuất hiện mâu thuẫn với gia đình không cao, chiếm 39,7%. Về các mối quan hệ xung quanh, tỷ lệ sinh viên gặp khó khăn trong việc thích nghi với môi trường sống trong xóm trọ hoặc nhà người quen/họ hàng chiếm 31,9% và tỷ lệ sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới là khá đồng đều khi lần lượt là 50,7%. Tỷ lệ sinh viên có bạn thân và nhóm bạn thân đạt từ 81-82%. Sinh viên thường có thói quen chia sẻ các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống với nhóm bạn thân (83,8%), các mâu thuẫn về các vấn đề này cũng ít khi nảy sinh trong mối quan hệ với bạn thân/nhóm bạn thân, chỉ chiếm chưa đến 20%.

3.1.4. Đặc điểm về học tập của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3. 3. Đặc điểm về học tập của đối tượng nghiên cứu

Câu hỏi Tỷ lệ (%)

Số lượng (n)

Xuất sắc (3,6 - 4) 32 4,1

Điểm GPA năm vừa qua Giỏi (3,2 - 3,59) 136 17,4

Khá (2,5 - 3,19) 450 57,4

Trung bình (2 - 2,49) 147 18,8

Yếu (<2) 18 2,3

Có 276 35,2

Không 507 64,8 Trong năm học qua, điểm thi có như mong đợi/hài lòng không

Có 97 12,4

Không 686 87,6 Trong năm học qua, bạn phải thi lại môn nào không

Trên hai môn 15 15,5

Nếu có, phải thi lại bao nhiêu môn (n=97) Hai môn 27 27,8

Một môn 55 56,7

Có 7 0,9

Không 776 99,1 Trong năm học qua, bạn vi phạm nội quy nhà trường không

37

Nhận xét: Trong 783 sinh viên tham gia nghiên cứu, đa số có điểm GPA khá (57,4%), còn lại tỷ lệ sinh viên có điểm GPA xuất sắc, giỏi, trung bình, yếu

lần lượt là: 4,1%; 17,4%; 18,8%; 2,3%. Tuy nhiên, tỷ lệ sinh viên hài lòng với điểm thi khá thấp (35,2%), tỷ lệ sinh viên không hài lòng với điểm thi 64,8%. Tỷ lệ sinh viên phải thi lại không cao (12,4%), phần lớn không phải thi lại (87,6%). Trong số các sinh viên phải thi lại, hầu hết chủ yếu thi lại một môn (56,7%). Sinh viên trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN rất chấp hành nội quy nhà trường về học tập và thi cử, tuy nhiên vẫn có một số sinh viên vi phạm nội quy, chiếm tỷ lệ 0,9%, còn lại không vi phạm nội quy chiếm 99,1%.

3.1.5. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên Trường Đại học Y Dược -

ĐHQGHN năm học 2021-2022

Bảng 3. 4. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress chung của sinh viên (n=783)

Đặc điểm Số lượng (n) Tỷ lệ (%)

46,6

Trầm cảm Không Có

53,4

Bình thường Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng 365 202 164 28 24 25,8 20,9 3,6 3,1

40,5

Lo âu Không Có

59,5

Bình thường Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng 317 115 229 74 48 14,7 29,2 9,5 6,1

52

Stress Không Có

48

Bình thường Nhẹ Vừa Nặng Rất nặng 407 198 119 42 17 25,3 15,2 5,4 2,2

Nhận xét:

Kết quả bảng trên chỉ ra tỷ lệ trầm cảm và lo âu trong sinh viên là rất

đáng quan tâm, chiếm tỷ lệ lần lượt là 53,4% và 59,5%.

Tỷ lệ biểu hiện trầm cảm là 53,4%. Trong đó, các mức độ biểu hiện trầm

38

cảm nhẹ, vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 25,8%; 20,9%; 3,6%; 3,1%.

Tỷ lệ xuất hiện các dấu hiệu lo âu là 59,5%. Trong đó, các mức độ biểu

hiện lo âu nhẹ, vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 14,7%; 29,2%; 9,5%; 6,1%.

Tỷ lệ có biểu hiện stress là 48%. Mức độ các dấu hiệu stress nhẹ, vừa, nặng và rất nặng xuất hiện ở lần lượt 25,3%; 15,2%; 5,4%; 2,2% sinh viên tham gia nghiên cứu.

Như vậy, đối với tình trạng xuất hiện các dấu hiệu trầm cảm, lo âu và stress, đa phần sinh viên biểu hiện ở mức nhẹ và vừa. Mức độ nặng và rất nặng cũng được tìm thấy trong khoảng từ 2,2% đến 9,5% sinh viên. Đặc biệt, tỷ lệ sinh viên có dấu hiệu lo âu ở mức độ nặng và rất nặng khá cao (9,5% và 6,1%).

3.1.6. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo giới tính

70

59.3% 60 55.2% 51.7% 48.3% 50 44.8% 40.7% 40

30

20

10

0

Stress Lo âu Trầm cảm

Nam Nữ

Biểu đồ 3. 7. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo giới tính

39

Nhận xét: Từ biểu đồ 3.7, cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress theo giới của đối tượng nghiên cứu. Trong giới nữ, tỷ lệ mắc trầm cảm, lo âu và stress lần lượt là 51,7%, 55,2% và 59,3%. Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress trong giới nam lần lượt là 48,3%, 44,8% và 40,7%.

45.2%

42.1%

47.2%

Stress

52.9%

52.1%

45.4%

71.4%

61.7%

58%

Lo âu

55.5%

63.6%

57.1%

52.4%

48.6%

56.2%

Trầm cảm

58.1%

58.6%

44.8%

0

10

20

30

40

50

60

70

80

Năm 6

Năm 5

Năm 4

Năm 3

Năm 2

Năm 1

3.1.7. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo năm học

Biểu đồ 3. 8. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên theo năm học

Nhận xét: Từ biểu đồ 3.8 cho thấy có sự khác nhau về tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress theo khối học của đối tượng. Đối với trầm cảm, tỷ lệ mắc cao nhất là sinh viên năm hai (58,6%), thấp nhất là sinh viên năm nhất (44,8%). Đối với lo âu, tỷ lệ mắc cao nhất là sinh viên năm sáu với 71,4%, thấp nhất là sinh viên năm ba với 55,5%. Với stress, tỷ lệ mắc cao nhất là sinh viên năm ba (52,9%), thấp nhất là sinh viên năm năm với 42,1%.

3.2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm, lo âu, stress ở sinh viên trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022

3.2.1. Mối liên quan với biểu hiện trầm cảm của sinh viên

40

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với trầm cảm

Bảng 3. 5. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với trầm cảm

Dấu hiệu trầm cảm Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Năm 1 0,86 155 51,2 148 48,8 0,320 và 2 (0,64 – 1,15) Năm học Năm 3, 4, 263 54,8 217 45,2 5 và 6

1,5 Nam 202 58,9 141 41,1 0,006 (1,1 – 1,97) Giới tính

Nữ 216 41,9 224 50,9

0,75 Nông thôn 228 50,4 224 49,6 0,054 (0,56 – 1,0)

Nơi sinh

Thành phố 190 57,4 141 42,6

Đủ hoặc 1,2 103 56,9 78 43,1 0,279 Tình trạng gần đủ (0,86 – 1,68)

tài chính

bản thân Không đủ 315 52,3 287 47,7

1,8 Đã từng bị Có 74 66,1 38 33,9 0,004 (1,2 – 2,8) rối loạn lo

âu, trầm

41

Không 344 51,3 327 48,7 cảm

0,64 Có 240 49,3 247 50,7 0,003 Sự hài (0,48 – 0,86) lòng với

ngoại hình Không 178 60,1 118 39,9

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy các yếu tố cá nhân có liên quan đến

trầm cảm của sinh viên, cụ thể là:

Những sinh viên nam có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn gấp 1,5 lần so với những sinh viên sinh nữ, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,5; 95%CI: 1,1 – 1,97). Bên cạnh đó, những sinh viên hài lòng với ngoại hình của mình ít có nguy cơ bị trầm cảm hơn so với những sinh viên không hài lòng về ngoại hình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,64; 95%CI: 0,48 – 0,86). Tương tự, những sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn gấp 1,8 lần so với những sinh viên chưa từng mắc rối loạn lo âu, trầm cảm, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,8; 95%CI: 1,2 – 2,8). Mặc dù có tồn tại sự chênh lệch giữa tỷ lệ trầm cảm trong các nhóm năm học, nơi sinh, tình trạng tài chính song sự khác biệt này là không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với trầm cảm

Bảng 3. 6. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với trầm cảm

Dấu hiệu trầm cảm Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

42

Yếu 1,32 Điểm → Trung 97 58,8 68 41,2 0,113 (0,93 – 1,87) GPA bình

Khá 320 51,9 297 48,1 → Xuất sắc

0,97 Hài lòng Có 143 51,8 133 48,2 0,515 (0,67 – 1,21) với điểm

thi Không 275 54,2 232 45,8

1,9 Có 65 67,0 32 33 0,004 Tình (1,2 – 3,002)

trạng thi

lại Không 353 51,5 333 48,5

Một đến hai 2,38 56 66,7 28 33,3 0,138 Số môn môn (0,75 – 6,9) thi lại

Trên hai (n=97) 7 46,7 8 53,3 môn

2,2

Vi phạm Có 5 71,4 2 28,6 (0,42 – 11,4) 0,336

nội quy

nhà

Không 413 53,2 363 46,8 trường

43

Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm trong sinh viên phải thi lại cao gấp gần 2 lần so với nhóm sinh viên không phải thi lại, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,9; 95%CI: 1,2 – 3,002).

Bên cạnh đó, nghiên cứu không tìm ra được mối liên quan giữa các yếu tố học tập còn lại như điểm GPA, sự hài lòng với điểm thi, vi phạm nội quy nhà trường với dấu hiệu trầm cảm của sinh viên (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với trầm cảm

Bảng 3. 7. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với trầm cảm

Dấu hiệu trầm cảm Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Yếu tố gia đình

0,46 Ly dị/ ly 11 35,5 20 64,5 0.771 (0,22 – 0,98) hôn Tình

trạng hôn Hiện đang

nhân sống với 407 54,1 345 45,9

nhau

Nghèo/Cận 0,69 12 44,4 15 55,6 0,343 Tình nghèo (0,31– 1,45) trạng thu Trung bình nhập của hoặc khá 406 53,7 350 46,3 gia đình giả/giàu

1,3 Chứng Có 196 57,1 147 42,9 0,063 (0,98 – 1,74) kiến bố

mẹ bất

Không 222 50,5 218 49,5 hòa

44

Xung đột 1,7 Có 191 61,4 120 38,6 0,001 với thành (1,28 – 2,3)

viên

trong gia Không 227 48,1 245 51,9

đình

Yếu tố bạn bè

2

0,001

Có 246 62,0 151 38 (1,52 – 2,7) Khó tìm

bạn mới

Không 172 44,6 214 55,4

0,63 Có 325 51,3 309 48,7 0,014 (0,44 – 0,91) Có bạn

thân Không 93 62,4 56 37,6

0,9 Mâu Có 61 49,2 63 50,8 0,607 (0,6 – 1,3) thuẫn với

bạn thân Không 264 51,8 246 48,2 (n= 634)

0,6 Có 328 51,1 314 48,9 0,006 (0,4 – 0,86) Có nhóm

bạn thân Không 90 63,8 51 36,2

Nhóm 1,13 bạn thân Không 52 53,6 45 46,4 0,59 (0,73 – 1,73) thường

chia sẻ

với nhau Có 276 50,6 269 49,4

45

(n=642)

Mâu 1,56 Có 33 61,1 21 38,9 0,124 thuẫn (0,88 – 2,7)

trong

nhóm Không 295 50,2 293 49,8

bạn thân

Yếu tố xã hội

Khó

1,28 thích Có 144 57,6 106 42,4 0,105 (0,95 – 1,73) nghi với

xóm

trọ/nhà

Không 51,4 48,6 274 259 người

quen

Nhận xét: Với các yếu tố về gia đình, nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm trong nhóm sinh viên có xung đột với thành viên trong gia đình cao gấp 1,7 lần so với nhóm sinh viên không có xung đột với gia đình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,7; 95%CI: 1,28 – 2,3). Ngoài ra, kết quả ở bảng trên cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê thu nhập bình quân của gia đình và sự chứng kiến bố mẹ bất hòa với dấu hiệu trầm cảm của sinh viên (p>0,05).

46

Với các yếu tố về bạn bè, nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới cao gấp 2 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=2; 95%CI: 1,52 – 2,7). Sinh viên có bạn thân ít có nguy cơ trầm cảm hơn so với sinh viên không có bạn thân, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,63; 95%CI: 0,44 – 0,91). Sinh viên có nhóm bạn thân có nguy cơ trầm cảm thấp hơn so với sinh viên không có nhóm bạn thân, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,6; 95%CI: 0,4 – 0,86).

Kết quả từ bảng trên cũng chỉ ra nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự khó khăn trong thích nghi với xóm trọ/ nhà người quen với dấu hiệu trầm cảm của sinh viên (p>0,05).

3.2.2. Mối liên với biểu hiện lo âu của sinh viên

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với lo âu

Bảng 3. 8. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với lo âu

Dấu hiệu lo âu Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Năm 1 1,03 182 60,1 121 39,9 0,80 và 2 (0,77 – 1,39) Năm học Năm 3, 4, 284 59,2 196 40,8 5 và 6

1,11 Nam 209 60,9 134 41,1 0,475 (0,83 – 1,48) Giới tính

Nữ 257 58,4 224 39,1

0,84

Nông thôn 261 57,7 191 42,3 (0,63 – 1,12) 0,238

Nơi sinh

Thành phố 205 61,9 126 38,1

47

Đủ hoặc 353 58,6 249 41,4 Tình trạng gần đủ tài chính 1,17 bản thân Không đủ 113 62,4 68 37,6 0,362 (0,83 – 1,6)

1,38 Đã từng bị Có 74 66,1 38 33,9 0,127 (0,9 – 2,1) rối loạn lo

âu, trầm

Không 392 58,4 279 41,6 cảm

0,78 Có 279 57,3 208 42,7 0,104 Sự hài (0,58 – 1,05) lòng với

ngoại hình Không 187 63,2 109 36,8

Nhận xét: Có sự khác biệt giữa tỷ lệ có dấu hiệu lo âu trong các nhóm như năm học, giới, nơi sinh, tình trạng tài chính bản thân, sự hài lòng với ngoại hình, đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm và các yếu tố thói quen hành vi như tập thể dục, uống rượu bia, hút thuốc lá nhưng sự chênh lệch là rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với lo âu

Bảng 3. 9. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với lo âu

Dấu hiệu lo âu Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Yếu 1,02 → Trung 99 60 66 40 0,9 (0,72 – 1,45) Điểm bình GPA Khá 367 59,5 250 40,5 → Xuất sắc

48

Hài 0,9 Có 160 58 116 42 0,516 lòng (0,67 – 1,2)

với

Không 306 60,4 201 39,6 điểm

thi

0,96 Có 57 58,8 40 41,2 0,872 Tình (0,62 – 1,4)

trạng

thi lại Không 409 59,6 277 40,4

Một đến hai 1,76 51 60,7 33 39,3 0,309 Số môn môn (0,58 – 5,3) thi lại

Trên hai (n=97) 7 46,7 8 53,3 môn

Vi 0,9 Có 4 57,1 3 42,9 0,89 phạm (0,2 – 4,07)

nội quy

nhà Không 462 59,5 314 40,5

trường

49

Nhận xét: Bảng 3.10 cho biết kết quả phân tích giữa một số yếu tố học tập liên quan đến lo âu của sinh viên. Sự chênh lệch giữa tỷ lệ có dấu hiệu lo âu trong các nhóm như điểm GPA, sự hài lòng với điểm thi, tình trạng thi lại, số môn thi lại, vi phạm nội quy nhà trường là rất nhỏ và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với lo âu

Bảng 3. 10. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với lo âu

Dấu hiệu lo âu Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Yếu tố gia đình

0,71 Ly dị/ ly 16 51,6 15 48,4 0,36 (0,35 – 1,4) hôn Tình

trạng hôn Hiện đang nhân sống với 450 59,8 302 40,2

nhau

1,64 Nghèo/Cận 19 70,4 8 29,6 0,242 Tình (0,71 – 3,8) nghèo trạng thu

nhập của Trung bình

gia đình hoặc khá 447 59,1 309 40,9

giả/giàu

1,13 Chứng Có 210 61,2 133 38,8 0,389 (0,85 – 1,5) kiến bố

mẹ bất

Không 256 58,2 184 41,8 hòa

1,36 Xung đột Có 199 64 112 36 0,038 (1,01 – 1,8) với thành

50

viên Không 267 56,6 205 43,4

trong gia

đình

Yếu tố bạn bè

1,73

0,001

Có 262 66 135 34 (1,3 – 2,3) Khó tìm

bạn mới

Không 204 52,8 182 47,2

0,86 Có 373 58,8 261 41,2 0,423 (0,6 -1,2) Có bạn

thân Không 93 62,4 56 37,6

Mâu 0,96 Có 72 58,1 52 41,9 0,846 thuẫn với (0,64 – 1,4)

bạn thân Không 301 59 209 41 (n= 634)

0,69 Có 372 57,9 270 42,1 0,056 (0,47 – 1,01) Có nhóm

bạn thân Không 94 66,7 47 33,3

Nhóm 0,85 bạn thân Không 53 54,6 44 45,4 0,474 (0,55 – 1,3) thường

chia sẻ

với nhau Có 319 58,5 226 41,5

51

(n=642)

Mâu 0,97 Có 31 57,4 23 42,6 0,933 thuẫn (0,55 – 1,7)

trong

nhóm Không 341 58 247 42

bạn thân

Yếu tố xã hội

Khó

1,46 thích Có 164 65,6 86 34,4 0,018 (1,06 – 1,9) nghi với

xóm

trọ/nhà

Không 56,7 43,3 302 231 người

quen

Nhận xét: Bảng 3.11 cho biết kết quả phân tích giữa một số yếu tố gia

đình, bạn bè, xã hội liên quan đến lo âu của sinh viên, cụ thể:

Với các yếu tố về gia đình, nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên có xung đột với thành viên trong gia đình cao gấp 1,36 lần so với nhóm sinh viên không có xung đột với gia đình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,36; 95%CI: 1,01 – 1,8). Ngoài ra, kết quả ở bảng trên cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng hôn nhân của bố mẹ, thu nhập bình quân của gia đình và sự chứng kiến bố mẹ bất hòa với biểu hiện lo âu của sinh viên (p>0,05).

52

Với các yếu tố về bạn bè, nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới cao gấp 1,73 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,73; 95%CI: 1,3 – 2,3). Ngoài ra, kết quả ở bảng trên cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa biểu hiện lo âu với yếu tố có bạn thân, có nhóm bạn thân, mâu thuẫn hay chia sẻ với bạn thân, nhóm bạn thân của sinh viên (p>0,05).

Với yếu tố xã hội, nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ hoặc nhà người quen cao gấp 1,46 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ/nhà người quen, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,46; 95%CI:1,06 – 1,9).

3.2.3. Mối liên quan với biểu hiện stress của sinh viên

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với stress

Bảng 3. 11. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố cá nhân với stress

Dấu hiệu stress Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Năm 1 1,03 147 48,5 156 51,5 0,826 và 2 (0,7 – 1,3) Năm học Năm 3, 4, 229 47,7 251 52,3 5 và 6

0,78 Nam 153 44,6 190 55,4 0,091 (0,6 – 1,04) Giới tính

Nữ 223 50,7 217 49,3

1,34 Nông thôn 231 51,1 221 48,9 0,043 (1,008 – 1,7)

Nơi sinh

Thành phố 145 43,8 186 56,2

1,15 Không đủ 92 50,8 89 49,2 0,388 Tình trạng (0,8 – 1,61) tài chính

53

Đủ hoặc bản thân 284 47,2 318 52,8 gần đủ

1,74

Đã từng bị Có 67 59,8 45 40,2 0,007 (1,16 – 2,6)

rối loạn lo

âu, trầm

Không 309 46,1 362 53,9 cảm

0,79 Có 223 45,8 264 54,2 0,109 Sự hài (0,59 – 1,05) lòng với

ngoại hình Không 153 51,7 143 48,3

Nhận xét: Bảng 3.12 cho biết kết quả phân tích giữa một số yếu tố cá

nhân có liên quan đến stress của sinh viên, cụ thể:

Những sinh viên sinh ra ở nông thôn có nguy cơ bị stress cao hơn gấp 1,34 lần so với những sinh viên sinh ra ở thành phố, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,34; 95%CI: 1,008 – 1,7). Tương tự, những sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị stress cao hơn gấp 1,74 lần những sinh viên chưa từng mắc rối loạn lo âu, trầm cảm, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,74; 95%CI: 1,16 – 2,6). Mặc dù có tồn tại sự chênh lệch giữa tỷ lệ stress trong các nhóm năm học, giới tính, tình trạng tài chính, song sự khác biệt này là không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với stress

Bảng 3. 12. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố học tập với stress

Dấu hiệu stress Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

54

Điểm 1,19 Yếu 85 51,5 80 48,5 0,32 GPA (0,84 – 1,6)

→ Trung

bình

Khá

→ Xuất 291 47,2 326 52,8

sắc

0,8 Hài lòng Có 123 44,6 153 55,4 0,153 (0,601 – 1,08) với điểm

thi Không 253 49,9 254 50,1

1,56 Có 56 57,7 41 42,3 0,041 Tình (1,01 – 2,4)

trạng thi

lại Không 320 46,6 366 53,4

Một đến 1,6 49 58,3 35 41,7 0,401 Số môn hai môn (0,53 – 4,8) thi lại

Trên hai (n=97) 7 46,7 8 53,3 môn

0,43 Vi phạm Có 2 28,6 5 71,4 0,301 (0,83 – 2,23) nội quy

nhà

Không 374 48,2 402 51,8 trường

55

Nhận xét: Bảng 3.13 cho biết kết quả phân tích giữa một số yếu tố học tập liên quan đến stress của sinh viên. Những sinh viên phải thi lại có nguy cơ bị stress cao gấp 1,56 lần so với những sinh viên không phải thi lại, với p<0,05,

sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,56; 95%CI: 1,01 – 2,4). Sự chênh lệch giữa tỷ lệ có dấu hiệu stress trong các nhóm như điểm GPA, sự hài lòng với điểm thi, vi phạm nội quy nhà trường là không lớn và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

• Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với stress

Bảng 3. 13. Mô tả mối liên quan giữa yếu tố gia đình, bạn bè xã hội với stress

Dấu hiệu stress Có Không OR p Yếu tố KTC 95% n % n %

Yếu tố gia đình

Ly dị/ ly 1,47 7 58,3 5 41,7 0,512 hôn (0,46 – 4,67) Tình

trạng hôn Hiện đang nhân sống với 367 48,8 385 51,2

nhau

Nghèo/Cận 0,62 10 37 17 63 0,245 Tình nghèo (0,28 – 1,3) trạng thu

nhập của Trung bình

gia đình hoặc khá 366 48,4 390 51,6

giả/giàu

1,26 Chứng Có 176 51,3 167 48,7 0,104 (0,95 – 1,7) kiến bố

mẹ bất

56

Không 200 45,5 240 54,5 hòa

Xung đột 1,46 Có 167 53,7 144 46,3 0,01 với thành (1,09 – 1,94) viên

trong gia Không 209 44,3 263 55,7 đình

Yếu tố bạn bè

1,52

0,004

Có 211 53,1 186 46,9 (1,14 – 2,01) Khó tìm

bạn mới

Không 165 42,7 221 57,3

0,8 Có 298 47 336 53 0,24 (0,56 – 1,15) Có bạn

thân Không 78 52,3 71 47,7

Mâu 0,87 Có 55 44,4 69 55,6 0,51 thuẫn với (0,59 – 1,3)

bạn thân Không 243 47,6 267 52,4 (n= 634)

0,6 Có 294 45,8 348 54,2 0,008 (0,42 – 0,88) Có nhóm

bạn thân Không 82 58,2 59 41,8

Nhóm 1,19 Không 48 49,5 49 50,5 0,429 bạn thân (0,77 – 1,83) thường

57

chia sẻ Có 246 45,1 299 54,9

với nhau

(n=642)

Mâu 1,2 Có 27 50 27 50 0,51 thuẫn (0,68 – 2,1)

trong

nhóm Không 267 45,4 321 54,6

bạn thân

Yếu tố xã hội

Khó

1,3 thích Có 133 53,2 117 46,8 0,047 (1,004 – 1,8) nghi với

xóm

trọ/nhà

Không 45,6 54,4 243 290 người

quen

Nhận xét: Bảng 3.14 cho biết kết quả phân tích giữa một số yếu tố gia

đình, bạn bè, xã hội liên quan đến stress của sinh viên, cụ thể:

Với các yếu tố về gia đình, nguy cơ có dấu hiệu stress trong nhóm sinh viên có xung đột với thành viên trong gia đình cao gấp 1,46 lần so với nhóm sinh viên không có xung đột với gia đình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,46; 95%CI: 1,09 – 1,94). Ngoài ra, kết quả ở bảng trên cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng thu nhập bình quân của gia đình và sự chứng kiến bố mẹ bất hòa với biểu hiện stress của sinh viên (p>0,05).

58

Với các yếu tố về bạn bè, nguy cơ có dấu hiệu stress trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới cao gấp 1,67 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,52; 95%CI: 1,14 – 2,01). Sinh viên có nhóm bạn

thân ít có nguy cơ stress hơn so với sinh viên không có nhóm bạn thân, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,6; 95%CI: 0,42 – 0,88). Ngoài ra, kết quả ở bảng trên cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa yếu tố có bạn thân với dấu hiệu stress của sinh viên (p>0,05).

59

Theo kết quả từ bảng trên, sinh viên gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ/nhà người quen có nguy cơ stress cao gấp 1,3 lần so với các sinh viên không gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ/nhà người quen, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,3; 95%CI: 1,004 – 1,8).

Chương 4

BÀN LUẬN

Sức khỏe tâm thần được xem là một bộ phận không thể tách rời trong cuộc sống, nó như bộ máy tâm lý hoạt động một cách hoàn toàn phù hợp, có hiệu quả và giúp đối đầu một cách linh hoạt trước những tình huống khó khăn mà vẫn có thể tìm lại được sự cân bằng cho mỗi cá nhân. Các rối loạn sức khỏe tâm thần hay gặp nhất là trầm cảm, lo âu và stress. Sinh viên y khoa là nhóm đối tượng nhạy cảm cần được quan tâm đúng mức về sức khỏe tâm thần.

Trong thời gian từ 10/2021 đến hết tháng 01/2022, nghiên cứu thu thập được thông tin của 783 đối tượng là sinh viên từ năm thứ nhất đến năm thứ sáu của tất cả các chuyên ngành Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội, em phân tích được một số kết quả dưới đây.

4.1. Thực trạng trầm cảm, lo âu và stress của sinh viên Trường Đại học

Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022

4.1.1. Đặc điểm chung của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN

Trong tổng số 783 sinh viên chính quy của trường, tỷ lệ tham gia cao nhất ở nhóm sinh viên năm thứ tư (22,5%), tỷ lệ thấp nhất là nhóm sinh viên năm thứ sáu với 5,4%. Nguyên nhân có thể do số lượng sinh viên không đồng đều giữa các khóa, nhóm sinh viên năm thứ sáu chỉ có một lớp y đa khoa, trong đó các nhóm sinh viên từ năm thứ năm đến năm nhất đều có hai lớp trở lên với các ngành y đa khoa, dược học, răng hàm mặt, kỹ thuật hình ảnh, điều dưỡng, xét nghiệm y học. Nguyên nhân khác có thể do một số sinh viên chưa có ý thức về sức khỏe tinh thần của họ. Họ chưa thấy được tầm quan trọng của sức khỏe tinh thần đối với bản thân và tầm quan trọng của việc có các biện pháp dự phòng về sức khỏe tâm thần đối với họ. Đồng thời, khảo sát thực hiện thông qua mẫu Google form cũng là một trong những yếu tố cần lưu ý trong việc tăng cao tỷ lệ đồng ý tham gia nghiên cứu của đối tượng.

60

Trong nghiên cứu này tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới (56,2%). Tỷ lệ này tương đương với nghiên cứu của Trần Thơ Nhị về trầm cảm trong sinh viên Y Hà Nội đang học năm thứ hai (56,5%) nhưng lại cao hơn nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh về yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần sinh viên Y khoa Việt Nam (49,9%) [65], [10]. Trong nghiên cứu này, hầu hết sinh viên là người dân

tộc Kinh (87,6%) và đa số không theo tôn giáo (92,5%), số liệu này gần tương đương với nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh về yếu tố liên quan đến sức khỏe tâm thần sinh viên Y khoa Việt Nam là 84,5% dân tộc Kinh nhưng lại thấp hơn về tỷ lệ sinh viên không theo tôn giáo (96,2%) [10]. Sự khác nhau này có thể do sự khác biệt về địa lý cũng như phân bố tôn giáo, tin ngưỡng, dân tộc trên đất nước ta. Tỷ lệ sinh viên trong nghiên cứu sống ở nông thôn là 57,7% và ở thành thị là 42,3%. Tỷ lệ này lớn hơn nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh là 54,3% sinh viên sống ở nông thôn và lớn hơn nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung về stress, lo âu, trầm cảm trên sinh viên Y tế công cộng là 54,9% sống ở nông thôn [10], [17]. Sự khác biệt này có thể là do sự khác nhau về cỡ mẫu và cách chọn mẫu nghiên cứu của em.

Nghiên cứu này cũng cho thấy đặc điểm nơi ở hiện tại của sinh viên Y Dược - ĐHQGHN đa số là ở nhà trọ thuê (52,7%), tiếp đến là sống cùng bố mẹ với 21,5% và ở kí túc xá chiếm 16,7%, sinh viên sống ở nhà người quen, họ hàng chiếm số lượng ít (9,1%). Kết quả này gần tương đồng với nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh với đa số sinh viên thuê trọ chiếm 69,9%; 15,1% sinh viên sống ở kí túc xá; 13,9% sinh viên sống ở nhà bố mẹ/họ hàng và kết quả nghiên cứu cũng tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung: 45,4% sinh viên thuê trọ, 19% ở kí túc xá, 24,4% ở nhà riêng và 11,3% ở nhà người thân họ hàng [10], [17]. Tuy nhiên kết quả này lại có sự khác biệt với nghiên cứu của Lê Minh Thuận trên sinh viên Y TP. Hồ Chí Minh là 57% sinh viên ở ký túc xả, 15% sống với cha mẹ và 14% sống ở nhà trọ [9]. Điều này có thể giải thích rằng cơ sở vật chất khác nhau giữa các miền Nam – Bắc dẫn đến sinh viên miền Bắc thích ở nhà trọ hơn, trong khi sinh viên miền Nam thường sống ở kí túc xá hơn.

61

Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng tài chính của bản thân, đa số sinh viên cảm thấy tình trạng tài chính bản thân gần đủ, phải đắn đo khi chi tiêu (47,3%), số sinh viên cảm thấy tài chính bản thân đủ là 29,6%, còn lại cảm thấy không đủ chi phí sinh hoạt và không đủ tiền đóng học phí chiếm tỷ lệ thấp hơn (lần lượt là 11,5% và 11,6%). Nghiên cứu này của em tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung về mức tài chính cá nhân sinh viên Y tế công cộng gần đủ, phải đắn đo khi chi tiêu (45,3%) nhưng lại thấp hơn so với mức đủ là

46,8% [17]. Sự khác biệt này có thể giải thích do sự khác biệt về cách chọn mẫu trong hai nghiên cứu.

4.1.2. Thực trạng trầm cảm của sinh viên

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên trường Đại học Y dược - ĐHQGHN năm 2021 - 2022 là 53,4% trong đó các mức độ từ trầm cảm nhẹ, vừa, nặng, rất nặng lần lượt là 25,8%; 20,9%; 3,6%; 3,1%. Kết quả này gần như tương đương với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Việt Đức trên sinh viên Y Hải Phòng là 54,6% và nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên trên đối tượng sinh viên hệ bác sỹ trường Đại học Y Hà Nội là 48,7% [66], [67]. Tuy nhiên, tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên trong nghiên cứu cao hơn so với tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên Y khoa Việt Nam trong nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh (2015) là 43,2% và của sinh viên chuyên khoa hệ 6 năm trường Đại học Y dược Hải Phòng của Nguyễn Thị Minh Ngọc (2016) là 46% [10], [68]. Và đặc biệt, tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm trong nghiên cứu cao hơn nhiều so với nghiên cứu của WHO (2017) về tỷ lệ trầm cảm chung của người Việt Nam là 4% [6]. Sự khác biệt này có thể giải thích theo 2 yếu tố. Yếu tố thứ nhất do sự khác nhau về tiêu chuẩn để chẩn đoán, nghiên cứu của em tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm được tính dựa vào điểm số, trong khi đó WHO sử dụng tiêu chuẩn chẩn đoán trầm cảm trên lâm sàng. Yếu tố thứ hai là quãng thời gian chịu ảnh hưởng của dịch bệnh Covid – 19: học tập, làm việc bị ngừng lại, chuyển sang hình thức online, lo sợ khi có thể nhiễm bệnh bất cứ lúc nào và đặc biệt là giãn cách xã hội thời gian dài. Ảnh hưởng của sự cô lập xã hội đối với sức khỏe tâm thần được thể hiện rõ qua nhiều nghiên cứu và đã gây ra những lo ngại đáng kể [69], [70]. Giãn cách xã hội liên quan đến cách ly có thể là chất xúc tác cho nhiều rối loạn sức khỏe tâm thần ngay cả ở những người trước đó khỏe mạnh về tinh thần. Các di chứng sức khỏe tâm thần đa dạng, không giới hạn ở các rối loạn căng thẳng cấp tính, cáu kỉnh, mất ngủ, đau khổ về cảm xúc cấu thành nên trầm cảm, lo âu và stress. Độ dài của lockdown là một yếu tố quan trọng trong những hiện tượng này [71].

62

Tỷ lệ trầm cảm chung của sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN (53,4%) nằm trong tỷ lệ mắc chung của sinh viên Y khoa trên thế giới từ 9,3% đến 55,9% [72]. Kết quả nghiên cứu của em tương đương với kết

quả nghiên cứu của Iqbal S trên sinh viên Y khoa ở Ấn Độ là 51,3% và thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của sinh viên Y khoa tại Cameroon là 65,2% nhưng tỷ lệ sinh viên bị trầm cảm mức độ rất nặng (3,1%) trong nghiên cứu của em lại cao hơn so với nghiên cứu tại Cameroon (0,8%) [11], [73]. Cần có những nghiên cứu lâm sàng để đánh giá lại những trường hợp sinh viên bị trầm cảm nặng và rất nặng.

4.1.3. Thực trạng lo âu của sinh viên

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh viên trường Đại học Y dược - ĐHQGHN năm 2021 - 2022 bị lo âu là 59,5%. Trong đó, sinh viên bị lo âu mức độ nhẹ là 14,7%, mức độ vừa là 29,2%, mức độ nặng là 9,5%, mức độ rất nặng là 6,1%. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung trên đối tượng sinh viên Y tế công cộng (2017) là 42% và nghiên cứu của Trần Kim Trang trên đối tượng sinh viên Y năm thứ 2 là 28,8% [17], [16]. Sự khác biệt này có thể là do cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Trong đó, tỷ lệ lo âu ở sinh viên năm thứ sáu là cao nhất (71,4%). Tỉ lệ của sinh viên năm 6 khá cao có thể do ảnh hưởng của quãng thời gian giãn cách xã hội khá dài từ giữa đến cuối năm 2021, lịch học, lịch đi lâm sàng bị dồn xuống kì 2 cộng thêm là sinh viên năm cuối sắp ra trường vẫn còn mơ hồ, chưa rõ định hướng sau tốt nghiệp hoặc đang ôn thi kì thi nội trú nên xuất hiện nhiều lo âu.

63

Tỷ lệ lo âu của sinh viên trong nghiên cứu này cũng cao hơn so với tỷ lệ lo âu của sinh viên Y tại một số nước trên thế giới. Ở Brazil và Malaysia tỷ lệ lo âu của sinh viên lần lượt là 37,2% và 33% [34], [74]. Nhưng bên cạnh đó, tỷ lệ lo âu ở sinh viên trường Đại học Y dược - ĐHQGHN thấp hơn so với một số nghiên cứu như nghiên cứu của Mohamed Fawzy và Sherifa Hamed trên sinh viên Y khoa tại Ai Cập cho thấy tỷ lệ sinh viên Y khoa bị lo âu là 73%, và cũng thấp hơn so với nghiên cứu của Iqbal cũng trên sinh viên Y khoa Ấn Độ là 66,9% [75], [11]. Tuy nhiên, tỷ lệ lo âu ở sinh viên trường Đại học Y dược – ĐHQGHN trong nghiên cứu cao hơn nhiều so với tỷ lệ trên toàn thế giới năm 2013 (dao động từ 0,9% đến 28,3%) [76]. Sự khác biệt này có thể giải thích do thời gian thực hiện nghiên cứu nằm trong khoảng thời gian chịu ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19. Theo các nghiên cứu trên thế giới, trong đó nghiên cứu của Debowska trên sinh viên đại học ở Ba Lan cho thấy tỉ lệ lo âu và stress đều

có ý nghĩa thống kê với các yếu tố liên quan từ trước đại dịch, nhưng ảnh hưởng đại dịch Covid – 19 đóng vai trò quan trọng như là yếu tố làm nặng thêm sự khác biệt này [77]. Điều này cho thấy lo âu là một vấn đề sức khỏe cần được quan tâm và hỗ trợ cho sinh viên Y khoa.

4.1.4. Thực trạng stress của sinh viên

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh viên trường Đại học Y dược - ĐHQGHN năm 2021 - 2022 bị stress là 48%. Trong đó, sinh viên bị stress mức độ nhẹ là 25,3%, mức độ vừa là 15,2%, mức độ nặng là 5,4%, mức độ rất nặng là 2,2%. Kết quả nghiên cứu này cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung trên đối tượng sinh viên Y tế công cộng là 34,4% và nghiên cứu của Vũ Dũng trên sinh viên điều dưỡng năm thứ 2 và 3 là 32% [17], [42]. Tại trường Đại học Y Hà Nội, nghiên cứu của Phạm Thị Huyền Trang năm 2013 cho kết quả sinh viên bị stress là 63,6%, cao hơn rất nhiều so với nghiên cứu của em [51]. Sự khác biệt này có thể do sự khác nhau về điều kiện kinh tế xã hội của đối tượng nghiên cứu và công cụ thu thập số liệu. Kết quả nghiên cứu của em cũng thấp hơn so với các nghiên cứu về stress trên sinh viên của các trường đại học không thuộc khối Y, Dược. Tại trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên, tỷ lễ sinh viên stress ở mức độ căng thẳng và rất căng thẳng lần lượt là 56,5% và 13,3%, một nghiên cứu khác tại trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc Gia Hà Nội cho thấy tỷ lệ sinh viên được phân loại có stress là 68,29% [78], [79].

Tỷ lệ stress của sinh viên Y khoa trong các nghiên cứu trên thế giới khá cao. Tại Brazil, Ai Cập và Thái Lan lần lượt là 49,9%, 59,9% và 61,4% [75], [80], [81]. Sự khác biệt này có thể do khác biệt về chương trình học, văn hóa và điều kiện kinh tế cũng công cụ thu thập số liệu.

4.2. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ trầm cảm, lo âu và stress của

sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm học 2021 – 2022

4.2.1. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên

64

Trong nghiên cứu của em, các yếu tố liên quan đến trầm cảm của sinh viên bao gồm đặc điểm cá nhân, yếu tố học tập và mối quan hệ với bạn bè, gia đình và xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác nhau giữa các khối học không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng trầm cảm ở sinh viên

65

(p>0,05). Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung trên sinh viên Y tế công cộng là sinh viên năm thứ 3 có nguy cơ trầm cảm gấp 1,8 lần so với sinh viên năm thứ nhất và kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên trên sinh viên Đại học Y Hà Nội là sinh viên Y3 có nguy cơ trầm cảm gấp 1,76 lần so với sinh viên Y1 [17], [67]. Sự khác biệt này có thể do sự khác nhau giữa chất lượng đào tạo sinh viên, sự hướng nghiệp cho sinh viên cũng như chất lượng của mỗi sinh viên học tập tại mỗi địa điểm nghiên cứu là khác nhau. Những nghiên cứu có sự khác nhau có ý nghĩa giữa các khối học và nguy cơ trầm cảm có thể do tại thời điểm nghiên cứu, sinh viên khối Y1 đang có góc nhìn tích cực về ngành học đồng thời tâm lý háo hức với môi trường học tập mới do đó có rất ít những suy nghĩ tiêu cực, còn đối với sinh viên khối Y3, sau những trải nghiệm qua các kỳ học phần nào đã thấy những sự thất vọng về ngành học và những hy sinh cần có khi mong muốn trở thành bác sỹ giỏi. Đối với nghiên cứu của em, không có mối liên quan có ý nghĩa giữa các khối học với nguy cơ trầm cảm có thể do các đối tượng nghiên cứu là sinh viên trường Đại học Y dược – ĐHQGHN, với chất lượng giảng dạy và đào tạo tốt, liên tục cập nhật, thay đổi để phù hợp, thích nghi với từng trường hợp cũng như tạo điều kiện học tập cho sinh viên ở những Bệnh viện lớn tuyến trung ương hàng đầu cả nước, do đó tạo được đam mê cho sinh viên với ngành nghề, tích cực học tập, vì vậy tại thời điểm nghiên cứu này cho thấy sự khác nhau giữa các khối học không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng trầm cảm ở sinh viên. Sinh viên nam có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn sinh viên nữ, cụ thể tỷ lệ sinh viên nam có nguy cơ bị trầm cảm gấp 1,5 lần so với sinh viên nữ, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,5; 95%CI: 1,1 – 1,97). Kết quả nghiên cứu này tương đương với nghiên cứu của Maher Fuad trên đối tượng sinh viên Y khoa ở Malaysia năm 2014 cho kết quả sinh viên nữ ít có nguy cơ bị trầm cảm hơn sinh viên nam (OR=0,33; 95%CI: 0,18 – 0,61) [56]. Theo kết quả nghiên cứu, sinh viên hài lòng với ngoại hình của mình ít có nguy cơ bị trầm cảm hơn so với sinh viên không hài lòng với ngoại hình của mình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,64; 95%CI:0,48 – 0,86). Nghiên cứu của em cũng chỉ ra rằng, sinh viên từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp gần 1,8 lần so với sinh viên không bị rối loạn lo âu, trầm cảm trước đó, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê (với OR=1,8; 95%CI:1,2 – 2,8). Kết quả nghiên cứu này tương tự với nghiên cứu của Hà Thị Hạnh khi cho rằng sinh viên từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp hơn 2 lần so với sinh viên không có các rối loạn này trước đó (với OR=2,39; 95%CI: 1,26 – 4,49) [82]. Cần có những sàng lọc ban đầu bằng các trắc nghiệm tâm lý với sinh viên để phát hiện những rối loạn tâm lý và từ đó cung cấp những phương pháp kịp thời cho sinh viên Y khoa.

Học tập là công việc quan trọng đối với sinh viên Y, áp lực học tập trên sinh viên Y là rất lớn khi đây là một trong những lợi thể để xin việc. Điều này đòi hỏi sinh viên Y phải không ngừng nỗ lực, trau dồi kiến thức và cố gắng đạt kết quả cao trong học tập. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự hài lòng với kết quả học tập không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng trầm cảm ở sinh viên (p>0,05). Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên trên sinh viên Y Hà Nội là sinh viên không hài lòng với kết quả học tập có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp 2,07 lần so với sinh viên hài lòng về kết quả học tập và kết quả nghiên cứu của Trần Quỳnh Anh trên sinh viên Y khoa cả nước là 1,62 lần [67], [10]. Nghiên cứu của em cũng chỉ ra rằng, nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm trong sinh viên phải thi lại cao gấp 1,9 lần so với nhóm sinh viên không phải thi lại, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,9; 95%CI:1,2 – 3,002).

66

Trong nghiên cứu này, sinh viên mâu thuẫn với người thân có nguy cơ bị trầm cảm cao hơn gấp 1,7 lần (OR=1,7; 95%CI: 1,28 – 2,3) so với sinh viên không có mâu thuẫn. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Hà Thị Hạnh tại Trường Đại học Y Hà Nội và Trần Quỳnh Anh trên sinh viên Y khoa cả nước là sinh viên bất đồng với cha mẹ có nguy cơ bị trầm cảm lần lượt cao gấp 2 lần và 3 lần so với sinh viên không bất đồng với cha mẹ [82], [10]. Nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung chỉ ra rằng sinh viên không thường xuyên chia sẻ với gia đình có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp 2,1 lần so với những sinh viên thường xuyên chia sẻ với gia đình [17]. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu nước ngoài. Nghiên cứu của Lu Chen (2013) cho thấy những sinh viên có mối quan hệ không tối với bố mẹ có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,4 lần so với nhóm có mối quan hệ tốt với bố mẹ [27]. Nghiên cứu của Kumar và cộng sự năm

2012 trên sinh viên y khoa Ấn Độ cũng cho thấy vấn đề gia đình, đặc biệt là các mâu thuẫn trong gia đình có mối liên quan chặt chẽ với mức độ trầm cảm của sinh viên [32]. Sự tương đồng này cho thấy mối quan hệ với gia đình đóng vai trò hết sức quan trọng quyết định tình trạng trầm cảm ở sinh viên. Việc thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và thiếu sự chia sẻ sẽ làm giảm sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ với sinh viên, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe tâm thần của bản thân sinh viên. Mâu thuẫn giữa sinh viên với gia đình là không thể tránh khỏi nên việc trang bị các kỹ năng nhận biết và kiểm soát cảm xúc của bản thân và những người xung quanh là hết sức cần thiết. Điều này giúp ngăn cản các mâu thuẫn này leo thang, hỗ trợ cho việc giải quyết các mâu thuẫn một cách ổn thỏa nhất. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy nghiên cứu không tìm thấy mối quan hệ có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng hôn nhân của bố mẹ, thu nhập bình quân của gia đình và sự chứng kiến bố mẹ bất hòa với dấu hiệu trầm cảm của sinh viên (p>0,05).

67

Theo nghiên cứu, nguy cơ có dấu hiệu trầm cảm trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới cao gấp gần 2 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=2; 95%CI:1,52 – 2,7). Sự khó khăn trong việc tìm bạn mới có thể là hậu quả của việc cách ly xã hội một thời gian dài do dịch bệnh Covid – 19. Trong một nghiên cứu trên 530 sinh viên y khoa, 234 (44,1%) sinh viên có cảm giác bị xa cách về mặt tình cảm với bạn bè và 202 (38,1%) sinh viên cho thấy cảm giác tuyệt vọng, khó chịu hoặc vô cảm trong thời gian cách ly xã hội [83]. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc có bạn thân có mối quan hệ với tình trạng trầm cảm ở sinh viên. Tỷ lệ sinh viên có bạn thân thì nguy cơ biểu hiện trầm cảm ít hơn tỷ lệ sinh viên không có bạn thân, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,63; 95%CI: 0,44 – 0,91). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ sinh viên có nhóm bạn thân thì nguy cơ biểu hiện trầm cảm ít hơn so với tỷ lệ sinh viên không có nhóm bạn thân, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=0,6; 95%CI: 0,4 – 0,86). Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Phan Thị Diệu Ngọc năm 2014: sinh viên không có người tâm sự làm tăng nguy cơ bị rối loạn trầm cảm vừa và nặng lên 3,1 lần so với sinh viên có bạn bè giúp đỡ (p<0,05) [48]. Điều này cho

thấy tầm quan trọng của việc có bạn bè, nhóm bạn thân trong việc bảo vệ sinh viên khối ngành Y trước các dấu hiệu của trầm cảm.

4.2.2. Một số yếu tố liên quan đến lo âu ở sinh viên

Trong nghiên cứu của em, những yếu tố liên quan đến lo âu của sinh viên bao gồm các mối quan hệ với gia đình, bạn bè, xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác nhau giữa nơi sinh không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng lo âu ở sinh viên (p>0,05). Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên trên sinh viên hệ bác sĩ Y Hà Nội là những sinh viên sinh ra và lớn lên ở nông thôn có nguy cơ bị lo âu cao gần gấp 2 lần so với sinh viên sinh ra ở thành thị [67]. Sự khác biệt này có thể do môi trường học tập xung quanh và cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, không có mối liên quan có ý nghĩa giữa những sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm với nguy cơ bị lo âu (p>0,05). Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên là những sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị lo âu cao gấp hơn 2 lần so với sinh viên không bị rối loạn lo âu trầm cảm từ trước (với OR=2,29; 95%CI: 1,45 – 3,60) [67]và nghiên cứu tại Brazil năm 2014 cho thấy những sinh viên Y khoa có bệnh lý trước khi vào đại học có nguy cơ bị lo âu cao gấp 2,13 lần so với sinh viên không có bệnh lý (95% CI: 1,24 - 3,66) [84]. Sự khác biệt này có thể do cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu.

68

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mâu thuẫn với người thân có liên quan đến tình trạng lo âu của sinh viên, cụ thể nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên có xung đột với thành viên trong gia đình cao gấp 1,36 lần so với nhóm sinh viên không có xung đột với gia đình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,36; 95%CI:1,01 – 1,8). Kết quả này tương tự với nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung là sinh viên có mâu thuẫn thường xuyên với gia đình có nguy cơ bị lo âu gấp 1,7 lần so với sinh viên không có mâu thuẫn thưởng xuyên [17]. Gia đình là nơi sinh viên có thể chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống và nhận lại những lời khuyên của người thân. Những mâu thuẫn và bất hòa sẽ khiến sinh viên gặp khó khăn trong việc chia sẻ với gia đình, từ đó dẫn đến những lo lắng về công việc và cuộc sống không thể giải quyết được. Như đã đề cập ở trên, việc phải cách ly tại nhà quá lâu do Covid –

19 (ở nhà gần như cả ngày, chỉ ra ngoài khi có việc cần thiết) đã phần nào ảnh hưởng đến biểu hiện lo âu của sinh viên, dẫn đến những mâu thuẫn với thành viên trong gia đình. Tương tự, các quy định kiểm dịch nghiêm ngặt và kiểm soát di chuyển cũng có thể đã hạn chế khả năng tiếp cận các cơ sở tư vấn, dẫn đến tình trạng rối loạn lo âu đã được hình thành trước đó trở nên tồi tệ hơn.

Theo nghiên cứu, nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới cao gấp 1,73 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,73; 95%CI: 1,3 – 2,3). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ có biểu hiện lo âu trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ hoặc nhà người quen cao gấp 1,46 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ/nhà người quen, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,46; 95%CI:1,06 – 1,9).

4.2.3. Một số yếu tố liên quan đến stress ở sinh viên

69

Những yếu tố liên quan đến stress của sinh viên Y trong nghiên cứu của em bao gồm đặc điểm cá nhân, mối quan hệ bạn bè, gia đình, xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác nhau giữa giới tính không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tình trạng stress ở sinh viên (p>0,05). Kết quả này trái ngược với kết quả nghiên cứu của của Đoàn Vương Diễm Khánh trên sinh viên Y tế công cộng Đại học Y Dược Huế là sinh viên nữ có nguy cơ bị stress cao hơn so với sinh viên nam (p=0,02) và kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên là sinh viên nữ có nguy cơ bị stress cao gấp gần 2 lần so với sinh viên nam (với OR=1,57; 95% CI: 1,04 - 2,43) [36], [67]. Sự khác biệt này có thể do cách lựa chọn đối tượng nghiên cứu. Theo nghiên cứu, những sinh viên sinh ra và lớn lên ở nông thôn có nguy cơ bị stress cao gấp 1,34 lần so với sinh viên sinh ra ở thành thị, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,34; 95%CI:1,008 – 1,7). Sinh viên khi phải học tập và làm việc xa nhà, ở môi trường thành phố khác với cuộc sống ở nông thôn đã chịu nhiều áp lực, từ đó dẫn đến những stress về cuộc sống. Đặc biệt, trong thời gian thực hiện cách ly tại nhà cũng như sự hạn chế di chuyển do Covid – 19 đã dẫn đến những khó khăn, thiếu thốn trong sinh hoạt, học tập, làm việc mà điều kiện ở nông thôn không được như thành thị, do đó có thể làm nặng thêm tình trạng stress. Nghiên

cứu cũng chỉ ra những sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị stress cao hơn những sinh viên chưa từng mắc rối loạn lo âu, trầm cảm, cụ thể, tỷ lệ sinh viên đã từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm có nguy cơ bị stress cao hơn gấp 1,74 lần so với sinh viên chưa từng mắc rối loạn lo âu, trầm cảm, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,74; 95%CI: 1,16 – 2,6). Mặc dù có tồn tại sự chênh lệch giữa tỷ lệ stress trong các nhóm năm học, tình trạng tài chính song sự khác biệt này là không đáng kể và không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, những sinh viên phải thi lại có nguy cơ bị stress cao gấp 1,56 lần so với những sinh viên không phải thi lại, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,56; 95%CI:1,01 – 2,4). Nghiên cứu cắt ngang của Mohamad Saiful Bahri Yusoff và cộng sự được tiến hành trên 1058 sinh viên y khoa của trường đại học Sains Malaysia đã chỉ ra nhóm nguyên nhân liên quan đến học tập (bài kiểm tra, bài thi, lượng bài tập nhiều, thiếu thời gian ôn tập, điểm kém, kỳ vọng cao từ bản thân, thiếu các kỹ năng thực tập y khoa, học chậm, khối lượng bài tập nhiều, không hiểu kiến thức được giảng dạy) là nguyên nhân chính gây nên stress [46].

70

Trong nghiên cứu này, nguy cơ có dấu hiệu stress trong nhóm sinh viên có xung đột với thành viên trong gia đình cao gấp 1,46 lần so với nhóm sinh viên không có xung đột với gia đình, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,46; 95%CI:1,09 – 1,94). Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoàng Nguyên trên sinh viên hệ bác sĩ Đại học Y Hà Nội cho thấy sinh viên có mâu thuẫn với người thân trong gia đình có nguy cơ bị stress cao gấp gần 3 lần so với những sinh viên không có mâu thuẫn với người thân (với OR=2,49; 95%CI: 1,53 – 4,09). Theo nghiên cứu của Nguyễn Thành Trung thì kết quả này là 1,8 lần (95%CI:1,1 – 2,9) [67], [17]. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra tỷ lệ sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới có nguy cơ bị stress cao hơn 1,52 lần so với sinh viên không gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,52; 95%CI: 1,14 – 2,01). Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy việc có nhóm bạn thân là yếu tố liên quan đến nguy cơ stress của sinh viên. Sinh viên có nhóm bạn thân ít có nguy cơ bị stress hơn so với sinh viên không có nhóm bạn thân

(OR=0,6; 95%CI:0,42 – 0,88). Nhìn chung, việc có nhóm bạn thân là tiền đề cho các mối quan hệ bạn bè, là nơi chia sẻ để giải tỏa áp lực trong cuộc sống. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả các nghiên cứu khác như nghiên cứu của Vũ Dũng năm 2015 và nghiên cứu của Nguyễn Thị Huyền lần lượt trên sinh viên y khoa và sinh viên khoa xã hội [42], [53]. Điều này cho thấy, tình trạng stress ở sinh viên có liên quan đến việc có hay không có bạn bè để chia sẻ.

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nguy cơ bị stress trong nhóm sinh viên gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ hoặc nhà người quen cao gấp 1,3 lần so với nhóm sinh viên không gặp khó khăn trong việc thích nghi với xóm trọ/nhà người quen, với p<0,05, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (OR=1,3; 95%CI:1,004 – 1,8).

4.3. Bàn luận về hạn chế của nghiên cứu

Mặc dù đã cố gắng nhưng nghiên cứu của em cũng không tránh khỏi một

số hạn chế:

Thứ nhất, nghiên cứu sử dụng thang đo DASS – 21 nhằm xác định tỷ lệ sinh viên có các biểu hiện của trầm cảm, lo âu và stress. Giống như các trắc nghiệm tâm lý khác, kết quả thu được từ thang đo không có ý nghĩa chẩn đoán xác định trầm cảm, lo âu, stress mà chỉ đóng vai trò sàng lọc ban đầu các đối tượng có dấu hiệu biểu hiện của trầm cảm, lo âu và stress. Để chẩn đoán chính xác các vấn đề sức khỏe tinh thần, cần có sự thăm khám lâm sàng của các bác sĩ chuyên khoa, tìm hiểu về tiền sử bệnh kết hợp với các thang đo phù hợp.

71

Thứ hai, mặc dù nghiên cứu đã tìm ra một số yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên như các yếu tố cá nhân, học tập, gia đình và xã hội, song do thiết kế sử dụng trong nghiên cứu là cắt ngang nên không thể chứng minh mối quan hệ nhân quả. Các nghiên cứu trong tương lai nếu có điều kiện về nguồn lực nên tiến hành nghiên cứu thuần tập để theo dõi các đối tượng trong suốt giai đoạn học tập, giúp đưa ra những thông tin chính xác giúp cải thiện và nâng cao sức khỏe tâm thần cho sinh viên Đại học Y dược – ĐHQGHN.

72

Thứ ba, bên cạnh những hạn chế trên, nghiên cứu còn có thể gặp phải một số sai số. Sức khỏe tâm thần của sinh viên được xem như là một vấn đề nhạy cảm, đối tượng thường có thể e ngại và cố tình trả lời không đúng sự thật hoặc đối tượng có thể thực hiện điền khảo sát chưa thực sự tập trung. Việc thu thập thông tin trong lớp dễ dàng xảy ra trường hợp sinh viên trao đổi, sao chép kết quả của nhau. Để hạn chế sai số này, em đã cố gắng làm rõ mục đích của nghiên cứu, nhấn mạnh tính khuyết danh và bảo mật thông tin cho đối tượng nghiên cứu cũng như lợi ích mà nghiên cứu mang lại.

KẾT LUẬN

1. Thực trạng stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên Trường Đại học Y

Dược – ĐHQGHN năm học 2021 - 2022

Trong nghiên cứu ở sinh viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN, tỷ lệ lo âu là chiếm cao nhất (59,5%), tiếp theo là trầm cảm (53,4%) và stress (48%).

Trong đó, nữ giới có tỷ lệ có dấu hiệu trầm cảm, lo âu và stress lần lượt là 51,7%, 55,2% và 59,3%. Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress của nam giới lần lượt là 48,3%, 44,8% và 40,7%.

Đối với trầm cảm, tỷ lệ có dấu hiệu cao nhất là sinh viên năm hai (58,6%), thấp nhất là sinh viên năm nhất (44,8%). Đối với lo âu, tỷ lệ có dấu hiệu cao nhất là sinh viên năm sáu với 71,4%, thấp nhất là sinh viên năm ba với 55,5%. Với stress, tỷ lệ có dấu hiệu cao nhất là sinh viên năm ba (52,9%), thấp nhất là sinh viên năm năm với 42,1%.

2. Các yếu tố liên quan đến thực trạng trầm cảm, lo âu, stress của sinh

viên Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN năm 2021 - 2022

Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên bao gồm: giới tính nam (OR=1,5), từng bị lo âu, trầm cảm (OR=1,8), không hài lòng với ngoại hình (OR=1,55), phải thi lại (OR=1,9), xung đột với thành viên trong gia đình (OR=1,7), khó tìm bạn mới (OR=2), không có bạn thân (OR=1,57), không có nhóm bạn thân (OR=1,68).

Các yếu tố liên quan đến lo âu ở sinh viên bao gồm: xung đột với thành viên trong gia đình (OR=1,36), khó tìm bạn mới (OR=1,73), khó thích nghi với xóm trọ/nhà người quen (OR=1,46)

73

Các yếu tố liên quan đến stress ở sinh viên bao gồm: nơi sinh ở nông thôn (OR=1,34), từng bị rối loạn lo âu, trầm cảm (OR=1,74), phải thi lại (OR=1,56), xung đột với thành viên trong gia đình (OR=1,46), khó tìm bạn mới (OR=1,52), không có nhóm bạn thân (OR=1,64), khó thích nghi với xóm trọ/nhà người quen (OR=1,3)

KIẾN NGHỊ

Từ kết quả và bàn luận của nghiên cứu, em đưa ra một số khuyến nghị

như sau:

74

1. Đối với người làm nghiên cứu: - Bộ công cụ mà em sử dụng trong nghiên cứu này nên được tiếp tục sử dụng để đo lường tình trạng và mức độ của các dấu hiệu trầm cảm, lo âu, stress trong quần thể lớn và không phù hợp thực hiện các đo lường lâm sàng. 2. Đối với sinh viên: - Cần tìm hiểu, tham gia các hoạt động xã hội để phát triển kỹ năng mềm, rèn luyện sự tự tin, khả năng giải quyết các khó khăn trong cuộc sống. Điều này cần được lưu ý đặc biệt đối với các sinh viên gặp khó khăn trong việc tìm bạn mới và không có nhóm bạn thân vì tham gia các hoạt động xã hội sẽ tạo điều kiện, cơ hội cho các bạn được giao lưu, kết bạn với nhiều người hơn. - Sinh viên cần tìm hiểu những phương pháp lập kế hoạch học tập, ôn thi hợp lý, tránh tình trạng phải thi lại nhiều, ảnh hưởng đến sức khỏe tâm lý và thời gian khác. - Cần hạn chế những xung đột trong gia đình, trang bị những kĩ năng nhận biết và kiểm soát cảm xúc của bản thân. - Trong nhóm các sinh viên có nguy cơ bị trầm cảm, lo âu, stress, đa số ở mức nhẹ và vừa. Những bạn sinh viên ở mức nhẹ cần có những biện pháp thay đổi lối sống cải thiện sức khỏe tâm thần. Những bạn sinh viên ở mức vừa trở lên cần đến cơ sở y tế khám để có những chẩn đoán lâm sàng chính xác, từ đó đưa ra được những phương pháp điều trị cụ thể.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. World Health Organization, "The World health report 2001: Mental

Health: New understanding, new hope," 2002.

2. World Health Organization, "Key facts of depression," 2016.

leads 3. World Health Organization, "Investing in treatment for depression and [Online]. Available: return," to

anxiety fourfold http://www.who.int/news-room/detail/13-04-2016-investing-in- treatment-for-depression-and-anxiety-leads-to-fourfold-return. [Accessed 12/5/2022].

4. World Health Organization, "Mental health action plan 2013 - 2020".

5. Gorman J.M., "Comorbid depression and anxiety spectrum disorders.,"

Depress Anxiety, pp. 160-168, 1996.

6. World Health Organization, "Depression and other common mental

disorders: Global Health Estimates," 2017.

tuyến]. 2014.

7. Hội tâm lý học xã hội Việt Nam, “Một số đặc điểm tâm lý cơ bản của sinh viên,” Available: [Trực http://hoitamlyhoc.vn/News/60/193/mot-so-dac-diem-tam-ly-co-ban-cua- sinh-vien.aspx. [Đã truy cập 12/5/2022].

8. Shamsuddin and Khadijiah, et al. , "Correlates of depression, anxiety and stress among Malaysian university students," Asian Journal of Psychiatry, pp. 318-323, 2013.

9. Lê Minh Thuận, "Một số rối nhiễu tâm lý của sinh viên Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh," Luận văn Thạc sĩ, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, 2011.

10. Tran Q.A, "Factors associated with mental health of medical students in

Vietnam: A national study," 2015.

11. Iqbal S., Gupta S. and Venkatarao. E., "Stress, anxiety & depression among medical undergraduate students & their socio-demographic correlates.," Indian J Med Res, pp. 354-357, 2015.

12. Basudan S., Binanzan N. and Alhassan A., "Depression, anxiety and stress

in dental students.," Int J Med Educ, pp. 179-186, 2017.

13. Cheung T., Wong S.Y. and Wong K.Y., et al, "Depression, Anxiety and Symptoms of Stress among Baccalaureate Nursing Students in Hong Kong: A Cross-Sectional Study.," International Journal of Environmental Research and Public Health, 2016.

14. Quyen DD, "Depression and stress among the first year medical students in University of medicine and pharmacy Hochiminh city, Viet Nam," College of Public health Sciences, Chulalongkorn University., 2007.

15. Nguyễn Thị Huyền Anh, "Khảo sát tỷ lệ trầm cảm của sinh viên Y4, Y5, Y6 hệ bác sĩ đa khoa Trường đại học y hà nội năm học 2014-2015 và một số yếu tố liên quan," Khóa luận tốt nghiệp ngành Bác sĩ Đa khoa, Đại học Y Hà Nội., 2017.

16. Trần Kim Trang, "Stress, lo âu và trầm cảm ở sinh viên Y khoa," Tạp chí

nghiên cứu Y học, pp. 356-362, 2012.

17. Nguyễn Thành Trung, "Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm và các yếu tố liên quan trong sinh viên cử nhân trường Đại học Y tế công cộng năm 2017 - Khảo sát bằng bộ công cụ DASS 21," Luận văn Thạc sĩ y tế công cộng, Đại học Y tế công cộng, 2017.

18. Tổ chức Y tế Thế giới, "Phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi-Mô tả lâm sàng và các nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán," 1992.

19. Burtom Robert, The Anatomy of Melancholy, London, UK, 1621.

20. Kessler R.C., Mcgonagle K.A. and Zhao. S., et al, "Lifetime and 12 month prevalence of DSM-III-R psychiatric disorders in the United States. Results from the National Comorbidity Survey.," Arch Gen Psychiatry, pp. 8-19, 1994.

21. Võ Văn Bản, Thực hành điều trị tâm lý, Hà Nội: Đại học Y Hà Nội, 2002.

22. Vũ Thị Hậu and Chân Phương, Stress, các biện pháp giảm stress và thư

giãn, Hà Nội: Nhà xuất bản văn hóa thông tin Hà Nội, 2005.

23. D., Sarokhani; A., Delpisheh; Y., Veisani; M.T., Sarokhani; R.E., Manesh; K., Sarokhani, "Prevalence of Depression among University Students: A Systematic Review and Meta-Analysis Study," Depress. Res. Treat, 2013.

24. R. Bruffaerts, P. Mortier, G. Kiekens, R. Auerbach, P. Cuijpers, K. Demyttenaere, J. Green, M. Nock and R. Kessler, "Mental health problems in college freshmen: Prevalence and academic functioning," J. Affect. Disord, 2018.

25. K. Shamsuddin, F. Fadzil, W. Ismail, S. Shah, K. Omar, N. Muhammad, A. Jaffar, A. Ismail and R. Mahadevan, "Correlates of depression, anxiety and stress among Malaysian university students," Asian J. Psychiatry, 2013.

students," [Online].

26. Wahed, W. Y. Abdel, H. and S. Khamis, "Prevalence and associated factors of stress, anxiety and depression among medical Fayoum University Available: 2016. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S2090506816000063. [Accessed 14/5/2022].

27. Chen Lu, "Depression among Chinese University Students: Prevalence

and Socio-Demographic Correlates," PLoS ONE, 2013.

28. Nguyễn Hữu Thụ, "Nguyên nhân stress của sinh viên đại học quốc gia Hà

Nội," Tạp chí Tâm lý học, 2009.

29. Abdulghani and Hamza M., "Stress and Its Effects on Medical Students: A Cross-sectional Study at a College of Medicine in Saudi Arabia," Journal of health, population and nutrition, pp. 516-522, 2011.

30. Yusoff, Mohamad Saiful Bahri, Abdul Rahim and Yaacob, "Prevalence and Sources of Stress among Universiti Sains Malaysia Medical Students," The Malaysian journal of medical sciences, pp. 30-37, 2010.

31. Bayram, Nuran and Bilgen, Nazan, "The prevelance and socio – demographic correlations of depression, anxiety and stress among a group of university students," Social Psychiatry and Psychiatric Epidemiology, pp. 667-672, 2008.

32. Kumar, Ganesh S., Jain, Animesh, Hegde and Supriza, "Prevalence of depression and its associated factors using associated factors using Beck

Depression Inventory among students of a medical college in Karnataka," Indian journal of Psychiary.

33. Alvi and Tabassum, "Depression, Anxiety and Their Associated Factors Among medical students," Journal of the College of Physicians and Surgeons Pakistan, pp. 122-126, 2010.

34. Moutinho I.L.D., Maddalena N. de C.P, Roland R.K. and et al, "Depression, stress and anxiety in medical students: A cross-sectional comparison between students from different semesters.," Rev Assoc Med Bras (1992), pp. 21-28, 2017.

35. Park K.H, Kim D., Kim S.K. and et al, "The relationship between empathy, stress and social support among medical students," Int J Med Educ, pp. 103-108, 2015.

36. Đoàn Vương Diễm Khánh, "Stress và các yếu tố liên quan ở sinh viên khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y Dược Huế.," Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế, p. 66, 2016.

37. Eisenberg, D. and et al, "Prevalence and Correlates of Depression, Anxiety, and Suicidality Among University Students," American Journal of Orthopsychiatry, pp. 534-542, 2007.

38. Lê Thu Huyền và Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, "Tình trạng stress của sinh viên Y tế công cộng Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và các yếu tố liên quan năm 2010," Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, pp. 87-92, 2010.

39. "Anxiety and Depression Assocaition of American (2014), Exercise for Stress and Anxiety," 2014. [Online]. Available: https://adaa.org/living- with-anxiety/managing-anxiety/exercise-stress-and-anxiety. [Accessed 14/5/2022].

40. B. D. Kirkcaldy, Shephard, R. J. and Siefen, R. G., "The relationship between physical activity and self-image and problem behaviour among adolescents," Social Psychiatry and Psychiatric Epidemiology, p. 544– 550, 2002.

41. Taliaferro, L. A. and et al, "Associations Between Physical Activity and Reduced Rates of Hopelessness, Depression, and Suicidal Behavior Among College Students," Journal of American College Health, pp. 427- 436, 2010.

42. Vũ Dũng, "Thực trạng stress của sinh viên điều dưỡng năm thứ 2 và 3 trường Đại học Thăng Long năm 2015 và một số yếu tố liên quan.," Kỷ yếu công trình khoa học Trường Đại học Thăng Long., pp. 177-189, 2015.

43. Trần Quỳnh Anh, "Dấu hiệu trầm cảm ở sinh viên hệ Y học dự phòng trường Đại học Y Hà Nội và một số yếu tố liên quan," Tạp chí Nghiên cứu Y học, pp. 9-16, 2016.

44. Smith C.K., Peterson D.F., Degenhardt B.F. and et al, "Depression, anxiety, and perceived hassles among entering medical students," Psychology Health & Medicine, pp. 31-39, 2007.

45. Shannon E. Ross, "Source of stress among college student," College

student journal, p. 312, 2008.

46. Yusoff and Mohamad Saiful Bahri, "Prevalencea and associated factors of stress, anxiety and depression among prospective medical students," Asia Journal of psychiatry, pp. 128-133, 2013.

47. Nguyễn Hữu Minh Trí và Nguyễn Tấn Đạt, "Trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở sinh viên Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2013," Tạp chí Y học dự phòng, p. 75, 2017.

48. Phạm Thị Diệu Ngọc, "Thực trạng rối loạn trầm cảm và một số yếu tố liên

quan ở sinh viên trường Đại học Y khoa Vinh," 2014.

49. Lê Minh Thuận, "Sức khỏe tâm lý của sinh viên: Nghiên cứu cắt ngang,"

Tạp chí Y học thực hành, pp. 72-75, 2011.

50. MCarter, Michele and et al, "Parental bonding and anxiety: Differences between African American and European American college students," Journal of Anxiety Disorders, pp. 555-569, 2001.

51. Phạm Thị Huyền Trang, "Thực trạng stress trong sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội," Khóa luận tốt nghiệp ngành Bác sĩ Đa khoa, Đại học Y Hà Nội, 2013.

52. Adelman, Howard, Taylor and Linda, "Students and Anxiety Problems*, University of California, Los Angeles," 2015. [Online]. Available: http://smhp.psych.ucla.edu/pdfdocs/anxiety.pdf. [Accessed 13/5/2022].

53. Nguyễn Thị Huyền, "Thực trạng hiện tượng stress trong đời sống của sinh viên trường ĐH KHXH & NV – DHQG HCM," Luận văn thạc sĩ Tâm lý

học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2012.

54. Parkitny, Luke, McAuley and James, "The depression, anxiety, stress scale

(DASS)," Journal of physiotherapy, p. 204, 2010.

55. Thach, Tran Duc, Toan and Fisher, Jane, "Validation of depression, anxiety, stress scale (DASS) 21 as the screening instrument for depression and anxiety in rural community based cohort of Northern Vietnamese women," BMC psychiatry, 2013.

56. Fuad and M. D. Fuad, "Prevalence and risk factors of stress, anxiety and deperession among preclinical medical students in Universiti Putra Malaysia in 2014," 2014. [Online]. [Accessed 13 5 2022].

57. Schuder and Kirtsten, "Statistic on College Students Stress," [Online].

Available: http://stress.lovetoknow.com/Statistics_on_College_Student_Stress. [Accessed 13/5/2022].

58. Henriques and Gregg, "The college student mental health crisis," 2014. https://www.psychologytoday.com/blog/theory- [Accessed

[Online]. Available: knowledge/201402/the-college-student-mental-health-crisis. 13/5/2022].

59. Pariat, Lakyntiew and et al., "College Students: Interrelationship between Stressors and Coping Strategies," IOSR Journal Of Humanities And Social Science, pp. 40-46, 2014.

[Online]. 2015.

60. Melaku, Leta, Mossie, Adualem, Negash and Alemayehu, "Stress among Medical Students and Its Association with Substance Use and Academic Available: Performance," https://www.hindawi.com/journals/jbe/2015/149509/. [Accessed 13/5/2022].

61. Blanco C., "Mental health of college students and their non-college- attending peers: Results from the National Epidemiologic Study on Alcohol and Related Conditions," Arch Gen Psychiatry, pp. 1429-1437, 2008.

62. Inam, S. N. B, Saqib A. and E. Alam, "Prevalence of anxiety and depression among medical students of private university," Journal Pakistan medical association, pp. 44-46, 2003.

63. A. Gul, "Prevalence of depression, its correlates among students, and its effect on health-related quality of life in a Turkish university," Upsala Journal of Medical Sciences, pp. 170-177, 2009.

64. Võ Hoàng Anh, Vũ Duy Ngọc và Nguyễn Thị Mỹ Trang, "Mức biểu hiện stress của sinh viên trường ĐHSP-ĐHĐN," Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học làn 7 đại học Đà Nẵng, pp. 211-215, 2010.

65. Trần Thơ Nhị và cộng sự "Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 - 2017.," Tạp chí Nghiên cứu Y học, pp. 158-165, 2018.

66. Nguyễn Hoàng Việt Đức, "Dấu hiệu trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở một số khối sinh viên đa khoa trường Đại học Y Dược Hải Phòng năm 2015," Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Y Dược Hải Phòng, 2015.

67. Nguyễn Hoàng Nguyên, "Trầm cảm, lo âu và stress ở sinh viên hệ bác sỹ trường ĐHYHN năm học 2018-2019 và một số yếu tố liên quan," 2019.

68. Nguyễn Thị Minh Ngọc, "Trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở sinh viên đa khoa trường Đại học Y dược Hải Phòng năm 2016," Tạp chí Y học dự phòng, 2016.

69. R. De Medeiros, D. Vieira, E. Da Silva, L. Rezende, R. Dos Santos and L. Tabata, "Prevalence of symptoms of temporomandibular disorders, oral behaviors, anxiety, and depression in Dentistry students during the period of social isolation due to COVID-19," J. Appl. Oral Sci, 2020.

70. T. VanderWeele, "Challenges Estimating Total Lives Lost in COVID-19

Decisions," JAMA, p. 445, 2020.

71. K. Usher, N. Bhullar and D. Jackson, "Life in the pandemic: Social

isolation and mental health," J. Clin. Nurs., p. 2756–2757, 2020.

72. L.S, Rotenstein; M.A, Ramos; M., Torre; et al, "Prevalence of Depression, Depressive Symptoms, and Suicidal Ideation Among Medical Students," JAMA, pp. 2214-2236, 2016.

73. S.N, Ngasa; C.B, Sama; B.S, Dzekem; et al, "Prevalence and factors associated with depression among medical students in Cameroon: A cross- sectional study," BMC Psychiatry, 2017.

74. G.G, Gan; H., Yuen Ling, "Anxiety, depression and quality of life of

medical students in Malaysia," Med J Malaysia, pp. 57-61, 2019.

75. M., Fawzy; S.A, Hamed, "Prevalence of psychological stress, depression and anxiety among medical students in Egypt.," Psychiatry Res, pp. 186- 194, 2017.

76. A.J, Baxter; K.M, Scott; T., Vos; et al, "Global prevalence of anxiety disorders: a systematic review and meta-regression.," Psychol Med, pp. 897-910, 2013.

77. A. Debowska, B. Horeczy, D. Boduszek and D. Dolinski, "A repeated cross-sectional survey assessing university students’ stress, depression, anxiety, and suicidality in the early stages of the COVID-19 pandemic in Poland," Psychol. Med, p. 1–4, 2020.

78. Phí Thị Hiếu và cộng sự, "Mức độ stress trong hoạt động học tập của sinh viên trưởng Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên.," Tạp chí Khoa học và Công nghệ, pp. 21-25, 2014.

79. Đặng Đức Nhu, "Thực trạng và các yếu tố liên quan đến stress của sinh viên năm thứ 3 Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015," Tạp chí Y học dự phòng, p. 149, 2016.

80. J.P., Pacheco; H.T., Giacomin; W.W., Tam; et al, "Mental health problems among medical students in Brazil: A systematic review and meta analysis.," Braz J Psychiatry, pp. 369-378, 2017.

81. Saipanish, "Stress among medical students in a Thai medical school.," Med

Teach, pp. 502-506, 2003.

82. Hà Thị Hạnh, "Đặc điểm nhân cách và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sỹ của Trường Đại học Y Hà Nội năm học 2016 – 2017.," Khóa luận tốt nghiệp ngành Bác sĩ Y học Dự phòng, Đại học Y Hà Nội., 2017.

83. Meo SA, Abukhalaf AA, Alomar AA, et al, "Pandemic: impact of quarantine on medical students’ mental wellbeing and learning behaviors," Pak J Med Sci, 2020.

84. A.M, Bassols; L.S., Okabayashi; A.B da, Silva, "First- and last-year medical students: is there a difference in the prevalence and intensity of anxiety and depressive symptoms?," Braz J Psychiatry, pp. 233-240, 2014.

85. Z.A, Mahroon; S.M, Borgan; C., Kamel; et al, "Factors Associated with Depression and Anxiety Symptoms Among Medical Students in Bahrain.," Acad Psychiatry, pp. 31-40, 2018.

86. N., Zhang; C.N.R., Henderson, "Predicting stress and test anxiety among

1st-year chiropratic students.," J Chiropr Educ, 2019.

87. Nguyễn Văn Thiêm, Rối loạn trầm cảm, Bộ môn Tâm thần, Đại học Y Hà

Nội.

88. Đinh Thị Hoa, "Stress, trầm cảm, lo âu và một số yếu tố liên quan ở sinh viên trường Đại học Công Đoàn năm 2021," Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, 2021.

PHỤ LỤC

BỘ CÂU HỎI THU THẬP SỐ LIỆU

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ STRESS Ở SINH VIÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC – ĐHQGHN NĂM HỌC 2021-2022 VÀ

MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN

A. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu:

Nội dung câu hỏi Trả lời

…………………….

STT 1 2 Năm sinh (dương lịch) Giới tính của bạn là gì?

3 Bạn là sinh viên năm thứ mấy?

1. Nam 2. Nữ 1. Năm thứ nhất 2. Năm thứ hai 3. Năm thứ ba 4. Năm thứ tư 5. Năm thứ năm 6. Năm thứ sáu

4 Bạn thuộc dân tộc nào?

5 Bạn theo tôn giáo không?

6 Bạn sinh ra ở đâu?

7 Hiện tại, bạn đang sống ở đâu? 1. Kinh 2. Khác: …………. 1. Không 2. Thiên chúa giáo 3. Phật giáo 4. Khác: …………. 1. Thành phố 2. Nông thôn 3. Nước ngoài 1. Sống với bố mẹ → chuyển

câu 9

2. Ký túc xá → chuyển câu 9 3. Nhà trọ 4. Nhà họ hàng, người quen →

chuyển câu 9

8

Nếu đang ở trọ bạn đang sống cùng ai không?

1. Bạn bè 2. Ở ghép (với người lạ) 3. Người yêu 4. Một mình

9

Bạn có hài lòng về ngoại hình của mình không?

10 Bạn cảm thấy thế nào về tình hình

tài chính của bản thân?

1. Có 2. Không 1. Không đủ tiền đóng học phí 2. Không đủ chi phí sinh hoạt 3. Gần đủ, phải đắn đo khi chi

11 Điểm GPA năm vừa qua của bạn

là?

12 Trong năm học vừa qua bạn phải

thi lại môn nào không?

13 Nếu có bạn phải thi lại bao nhiêu

môn?

tiêu 4. Đủ 1. Xuất sắc (3,6 - 4) 2. Giỏi (3,2 - 3,59) 3. Khá (2,5 - 3,19) 4. Trung bình (2 - 2,49) 5. Yếu (<2) 1. Có 2. Không → chuyển câu 14 1. Một môn 2. Hai môn 3. Trên hai môn 1. Có 2. Không 1. Có 2. Không 1. Tự mình giải quyết, không

cần ai giúp

14 Trong năm học vừa qua điểm thi có như mong đợi (hài lòng) không? 15 Trong năm học vừa qua bạn có vi phạm nội quy nhà trường không? 16 Khi gặp khó khăn trong học tập, cuộc sống bạn thường làm gì? (Chọn nhiều đáp án) 2. Tâm sự/ nhờ giúp đỡ của bố

mẹ anh chị em

3. Tâm sự/ nhờ sự giúp đỡ của

bạn bè, người yêu

4. Đi chùa, nhà thờ 5. Khác (uống rượu bia, hút

17 Bạn có khó khăn trong việc tìm bạn

mới?

18 Bạn có bạn thân không?

19 Trong năm qua, bạn có xung đột

với bạn thân không?

20 Bạn có chơi thân với nhóm bạn nào

không? thuốc,…) 1. Có 2. Không 1. Có 2. Không 1. Có 2. Không 1. Có 2. Không

21 Các bạn có thường xuyên chia sẻ

1. Có 2. Không

các vấn đề trong cuộc sống và học tập không?

22 Các bạn có thường xuyên xảy ra

mâu thuẫn trong nhóm không?

23 Bạn có thấy mình khó thích nghi

1. Có 2. Không 1. Có 2. Không

với môi trường sống trong xóm trọ/ nhà họ hàng?

24 Bạn có thường xuyên tập thể dục hoặc chơi thể thao không? (nhiều hơn 30p)

25 Bạn thường chơi môn nào? (chọn nhiều đáp án)

1. Thỉnh thoảng (1-2 lần/tuần) 2. Thường xuyên (≥ 3 lần/tuần) 3. Không → chuyển câu 26 1. Tập gym 2. Chạy bộ 3. Đá bóng 4. Bóng rổ 5. Khác: ……… 1. Thỉnh thoảng (1-2 lần/ tuần) 2. Thường xuyên (≥ 3 lần/tuần) 3. Không

26 Bạn có thường uống nhiều rượu/bia không (Uống nhiều là từ 330ml bia trở lên hoặc từ 40ml rượu trở lên mỗi lần uống)?

27 Bạn có hút thuốc lá/ thuốc lá điện

tử không?

28 Mức độ hút thuốc lá của bạn như

thế nào? 1. Có 2. Không 1. Thường xuyên (hàng ngày) 2. Thỉnh thoảng (<3 lần trong

29 Bạn đã từng bị rối loạn lo âu/ trầm

cảm chưa? tuần) 3. Hiếm khi 1. Có 2. Không → chuyển phần B

30 Bạn được chẩn đoán tại cơ sở y tế

nào? …………………………………

31 Nếu có, bạn có hài lòng với sự hỗ trợ/ điều trị mình nhận được? 1. Có 2. Không

B. Thông tin chung về gia đình:

Trả lời

STT 1

Nội dung câu hỏi Nhà bạn có mấy anh chị em ruột? (tính cả bạn)

2

Tình trạng hôn nhân của bố mẹ bạn? 1. Một 2. Hai 3. Trên hai 1. Hiện đang sống với nhau 2. Ly dị

7

Bạn cảm thấy tình hình kinh tế của gia đình bạn như thế nào?

8

3. Bố/mẹ đã qua đời 1. Nghèo (có sổ chứng nhận) 2. Cận nghèo (có sổ chứng nhận) 3. Trung bình 4. Khá giả/ Giàu 1. Có 2. Không

9

Bạn có thường xuyên chứng kiến bố mẹ (bất hòa, cãi nhau, xung đột) không? Bạn có xung đột với bố mẹ anh chị em trong gia đình không? 1. Có 2. Không

C. Khảo sát trạng thái tâm thần bằng thang DASS 21

Dưới đây là một số biểu hiện tâm lý thường thấy. Hãy đọc kĩ từng câu và khoanh tròn vào MỘT chữ số biểu thị thích hợp nhất với trạng thái tâm lý của bạn trong 2 tuần gần đây. Và đừng dừng lại quá lâu ở bất kì câu hỏi nào

Mức độ đánh giá:

0 = Không đúng với tôi chút nào cả

1 = Đúng với tôi phần nào, hoặc thình thoảng mới đúng

2 = Đúng với tôi phần nhiều, hoặc phần lớn thời gian là đúng

3 = Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời gian là đúng

STT Câu trả lời

Nội dung câu trả lời

1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3

4 0 1 2 3

5 6 0 1 2 3 0 1 2 3

7 0 1 2 3

Tôi thấy khó mà thoải mái được Tôi bị khô miệng Tôi dường như chẳng có chút cảm xúc tích cực nào Tôi bị rối loạn nhịp thở (thở gấp, khó thở dù chẳng làm việc gì nặng) Tôi thấy khó bắt tay vào công việc Tôi có xu hướng phản ứng thái quá với mọi tình huống Tôi bị ra mồ hôi (chẳng hạn như mồ hôi tay...)

8 9 0 1 2 3 0 1 2 3

10 11 12 13 14 0 1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3

15 16 0 1 2 3 0 1 2 3

17 18 19 0 1 2 3 0 1 2 3 0 1 2 3

20 21 Tôi thấy mình đang suy nghĩ quá nhiều Tôi lo lắng về những tình huống có thể làm tôi hoảng sợ hoặc biến tôi thành trò cười Tôi thấy mình chẳng có gì để mong đợi cả Tôi thấy bản thân dễ bị kích động Tôi thấy khó thư giãn được Tôi cảm thấy chán nản, thất vọng Tôi không chấp nhận được việc có cái gì đó xen vào cản trở việc tôi đang làm Tôi thấy mình gần như hoảng loạn Tôi không thấy hăng hái với bất kỳ việc gì nữa Tôi cảm thấy mình chẳng đáng làm người Tôi thấy mình khá dễ phật ý, tự ái Tôi nghe thấy rõ tiếng nhịp tim dù chẳng làm việc gì cả (ví dụ, tiếng nhịp tim tăng, tiếng tim loạn nhịp) Tôi hay sợ vô cớ Tôi thấy cuộc sống vô nghĩa 0 1 2 3 0 1 2 3