ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

TRẦN THỊ YẾN

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM TRƯỚC SINH CỦA PHỤ NỮ MANG THAI

VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI NĂM 2021 KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƯỢC HỌC

HÀ NỘI - 2022

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

TRẦN THỊ YẾN

THỰC TRẠNG TRẦM CẢM TRƯỚC SINH CỦA PHỤ NỮ MANG THAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI NĂM 2021

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH DƯỢC HỌC

Khóa: QH.2017Y Người hướng dẫn: 1. THS. MẠC ĐĂNG TUẤN 2. BS CKII. NGUYỄN THỊ MINH THANH

HÀ NỘI - 2022

LỜI CẢM ƠN

Em xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, các Phòng, Ban liên quan của

Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội đã đào tạo, hỗ trợ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến hai người Thầy hướng dẫn: ThS.Mạc Đăng Tuấn – Giảng viên bộ môn Y Dược cộng đồng và Y dự phòng, Trường Đại học Y Dược – ĐHQGHN và BS CKII. Nguyễn Thị Minh Thanh – Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, hướng dẫn em từ những ngày đầu của quá trình học tập và nghiên cứu cũng như đồng hành, động viên em trong cuộc sống để em có thể hoàn thiện được nghiên cứu này.

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến hai người thầy ThS. Nguyễn Xuân Bách, TS.BS. Nguyễn Thị Phương Lan – Giảng viên Trường Đại học Y Dược – Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô đã xây dựng và thiết kế dự án nghiên cứu, luôn hướng dẫn em tận tình, góp ý kiến và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình em học tập và cho em những kinh nghiệm quý báu.

Em xin chân thành cảm ơn Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đã đồng ý để em được phép tiến hành đề tài tại bệnh viện. Bên cạnh đó, em xin cảm ơn đội ngũ cán bộ nhân viên trong bệnh viện đã hỗ trợ hết mình, tạo điều kiệu cho em thu thập các thông tin cần thiết để có thể hoàn thành nghiên cứu.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới 282 thai phụ đã cung cấp những

thông tin quý báu để em hoàn thành khóa luận này.

Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè, những người đã luôn cùng đồng hành, ủng hộ, động viên, cổ vũ em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường.

Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2022

Sinh viên

Trần Thị Yến

CHÚ GIẢI CHỮ VIẾT TẮT

TCTS : Trầm cảm trước sinh

EPDS : Thang đo trầm cảm Edinburgh Postnatal

Depression Scale

WHO : Tổ chức Y tế Thế giới

The World Health Organization

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ........................................................ 3 1.1. Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu ............................................ 3 1.2. Phương pháp chẩn đoán trầm cảm ....................................................... 4 1.3. Thực trạng trầm cảm ở phụ nữ mang thai trên thế giới và tại Việt

Nam ................................................................................................... 12 1.4. Hạn chế từ các nghiên cứu trước........................................................ 17

CHƯƠNG II: THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ................................................. 19 2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................... 19 2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ...................................................... 19 2.3. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................ 19 2.4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu ................................................................. 19 2.5. Biến số, chỉ số nghiên cứu ................................................................. 20 2.6. Quy trình và kỹ thuật thu thập số liệu ................................................ 20 2.7. Xử lý và phân tích số liệu .................................................................. 21 2.8. Đạo đức trong nghiên cứu khoa học .................................................. 21

CHƯƠNG III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................. 22 3.1. Đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên cứu ................................... 22 3.2. Tỷ lệ và triệu chứng trầm cảm trước sinh ở thai phụ ......................... 26 3.3. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh .............................. 29

CHƯƠNG IV: BÀN LUẬN .......................................................................... 34 4.1. Tỷ lệ trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai .................................. 34 4.2. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai

............................................................................................................ 36

KẾT LUẬN .................................................................................................... 41

KIẾN NGHỊ ................................................................................................... 42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Thang đánh giá trầm cảm Hamilton Depression (HAMD) phiên bản 17 đề mục .......................................................................................................... 7

Bảng 1.2: Bảng tổng hợp một số thông tin về chuẩn hóa thang đo EPDS ..... 10

Bảng 1.3: Một số yếu tố liên quan tới trầm cảm trước sinh............................ 15

Field Code Changed

Formatted: Font: (Default) Times New Roman, 14

Bảng 3.2: Đặc điểm chung của gia đình đối tượng nghiên cứu ...................... 23

Bảng 3.3: Đặc điểm thai sản ........................................................................... 24

Bảng 3.4: Đặc điểm mối quan hệ với chồng/người yêu ................................. 25

Bảng 3.5: Các triệu chứng trầm cảm ............................................................... 27

Bảng 3.6: Mối liên quan giữa đặc điểm cá nhân của thai phụ và trầm cảm trong khi mang thai ................................................................................................... 29

Bảng 3.7: Mối liên quan giữa đặc điểm của người chồng và trầm cảm ở phụ nữ trong khi mang thai ......................................................................................... 30

Bảng 3.8: Mối liên quan giữa hành vi của người chồng và trầm cảm ở phụ nữ trong khi mang thai ......................................................................................... 31

Bảng 3.9: Mối liên quan giữa gia đình và trầm cảm ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai ................................................................................................................... 32

Bảng 3.10: Mối liên quan giữa đặc điểm thai sản và trầm cảm ở phụ nữ trong thời kỳ mang thai ............................................................................................. 33

Bảng 4: Tỷ lệ thai phụ có biểu hiện trầm cảm trước sinh trên thế giới ……... 34

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm trước sinh ở thai phụ ..................... 26

Biểu đồ 3.2: Phân bố điểm theo thang điểm EPDS ........................................ 26

ĐẶT VẤN ĐỀ

Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, đặc trưng bởi sự buồn chán, mất hứng thú hoặc niềm vui, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập trung [1]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) - Trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây ra tình trạng khuyết tật và là nguyên nhân thứ tư

gây gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Ước tính hiện nay có tới 350 triệu người, tương đương 4,4% dân số trên toàn thế giới chịu ảnh hưởng từ căn bệnh trầm cảm [2].

Trên thế giới, tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai và sau sinh khá phổ biến. Nghiên cứu của Dadi và các cộng sự năm 2020 cho thấy tỷ lệ trầm cảm trước sinh (TCTS) trên toàn cầu dao động từ 15% đến 65% [3]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, trầm cảm trong thời kỳ mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến cả người mẹ và trẻ sơ sinh, gây ra tình trạng sinh non, sinh nhẹ cân [3-6]. Bà mẹ bị trầm cảm thường có những cảm xúc tiêu cực như lo âu, buồn phiền, dễ cáu gắt, nghiêm trọng hơn có thể xuất hiện ý định tự tử hoặc tự hủy hoại bản thân [7].

Theo nghiên cứu của Mai Thị Huệ năm 2020 và Trần Thơ Nhị năm 2018, Việt Nam là nước có thu nhập trung bình, do đó tỷ lệ trầm cảm trước sinh tại Việt Nam dao động từ 5-25% [8,9]. Một số nghiên cứu khác tại Việt Nam về trầm cảm trước sinh có thể kể đến như nghiên cứu của Đàm Như Bình và Trần Thị Trúc Phương năm 2021 [4]. Tuy nhiên, tỷ lệ trầm cảm trước sinh mà các nghiên cứu kể trên công bố vẫn có sự chênh lệch khá cao, bên cạnh đó kết quả thu được về các yếu tố liên quan đến tỷ lệ TCTS trầm cảm trước sinh cũng chưa thực sự đồng bộ.

Mặc dù đã được tìm hiểu từ khá lâu và được nhiều tổ chức, cá nhân khẳng định rằng trầm cảm trước sinh gây ra nhiều ảnh hưởng không tốt lớn đối với thế hệ trẻ em sau này. Tuy nhiên, trầm cảm trước sinhTCTS vẫn chưa được tiếp cận chính xác do có nhiều biểu hiện tương đồng với thay đổi cảm xúc do hormone trong thai kỳ. Cho đến nay, trầm cảm trước sinhTCTS vẫn chưa được chú ý nhiều, đặc biệt ở các nước có thu nhập thấp và trung bình [10].

1

Từ những lý do trên, tôi đã tiến hành nghiên cứu với chủ đề: “Thực trạng trầm cảm trước sinh của phụ nữ mang thai và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2021.” nhằm có cái nhìn toàn diện hơn, góp phần cải thiện sức khỏe cho người phụ nữ và thế hệ trẻ em trong tương lai.

Mục tiêu nghiên cứu:

1. Khảo sát thực trạng trầm cảm trước sinh của phụ nữ mang thai

tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2021.

2. Xác định một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh của phụ

nữ mang thai tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2021.

2

CHƯƠNG 1:

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu

1.1.1. Khái niệm về trầm cảm

Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn chán, mất hứng thú hoặc niềm vui, ngủ không yên giấc hoặc chán ăn, cảm giác mệt mỏi và kém tập trung [1].Ở mức độ nghiêm trọng, căn bệnh này có thể khiến con người nảy sinh ý định tự tử.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), trầm cảm là nguyên nhân hàng đầu gây tàn tật trên toàn thế giới và là nguyên nhân chính gây ra gánh nặng bệnh tật toàn cầu. Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị hiệu quả cho bệnh trầm cảm nhẹ, vừa và nặng. Tuy nhiên phần lớn người dân ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình không được điều trị và tiếp cận các phương pháp này.

1.1.2. Khái niệm trầm cảm trước sinh

Trầm cảm trước sinh (TCTSAD), hay còn được gọi là trầm cảm chu sinh,

là chứng trầm cảm xảy ra ở phụ nữ xảy ra trong thời kỳ mang thai.

Trầm cảm trước sinh là một vấn đề về tâm thần và sức khỏe cộng đồng. Có nhiều di chứng bất lợi đã được chỉ ra như: giảm sự gắn kết giữa người mẹ và thai nhi, bất lợi đối với thai nhi ( nhẹ cân, sinh non hoặc kém phát triển so với tuổi thai) [11].

Giống như trầm cảm sau sinh, trầm cảm trước sinh khá phổ biến. Theo thống kê của viện nghiên cứu Mỹ, trong suốt thời kì mang thai, cứ 10 thai phụ thì có ít nhất 1 trường hợp mắc trầm cảm. Các nghiên cứu của Ấn Độ đã báo cáo tỉ lệ TCTS từ 9,18% -65,0% [12]. Theo một số nghiên cứu khác chỉ ra, con số này khoảng 21,5% [6,13]. Tuy nhiên, vấn đề này thường khó nhận ra và gần như không được chú ý đến bởi những biểu hiện giống như thay đổi cảm xúc do hormone trong thai kỳ.

3

1.2. Phương pháp chẩn đoán trầm cảm

1.2.1. Chẩn đoán lâm sàng

Hiện nay, có hai hệ thống chẩn đoán được áp dụng phổ biến trong việc chẩn đoán rối loạn tâm thần: Hệ thống chẩn đoán của Hiệp hội Tâm thần Mỹ (DSM-IV) và Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).

a. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh trầm cảm nặng theo DSM-IV

DSM là Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM) do Hiệp hội Tâm thần học Hoa Kỳ tạo ra. Đây là công cụ chẩn đoán và phân loại các rối loạn tâm thần được xây dựng từ năm 1952, tới nay đã có tổng cộng năm phiên bản: DSM-I (1952), DSM-II (1968), DSM-III (1980), DSM-IV (1994) và DSM-V (2013).

Ấn bản thứ tư của Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM-IV) là hướng dẫn được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới với những mô tả rối loạn trầm cảm điển hình (Major Depressive Disorder: MDD). Theo bảng phân loại này, một người được chẩn đoán là bị trẩm cảm khi xuất hiện ít nhất 5 trên 9 triệu chứng sau kéo dài trong vòng 2 tuần trở lại đây:

Tâm trạng buồn bã, chán nản (depressive mood).

(1) (2) Giảm hứng thú hoặc niềm vui trong hầu hết các hoạt động (loss

of interest in mostactivities).

(3) Giảm cảm giác thèm ăn (appetite), giảm hay tăng cân một cách

đáng kể mà không phụ thuộc vào chế độ ăn.

(4) Rối loạn giấc ngủ (sleep disturbance). (5) Quá kích động hoặc quá chậm chạp. (6) Mệt mỏi hoặc cảm giác mất năng lượng. (7) Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi quá mức (feelings of worthlessness

guilt).

(8) Giảm khả năng suy nghĩ, tập trung, thiếu quyết đoán. (9) Suy nghĩ thường xuyên về cái chết, có ý định tự tử nhiều lần

(suicidal thoughts and ideation).

4

b. Bảng phân loại Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10) của WHO

ICD 10 là Bảng phân loại Quốc tế về bệnh tật và nguyên nhân tử vong do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chủ trì sửa đổi, bổ sung phiên bản sửa đổi lần thứ 10 ban hành năm 1990 và cập nhật lần cuối vào năm 2019.

Trong Bảng phân loại Bệnh Quốc tế lần thứ 10 (ICD 10: International Classification of Diseases), trầm cảm được xếp ở mục F.32 thuộc phần Rối loạn khí sắc. Tiêu chuẩn chẩn đoán các giai đoạn trầm cảm dựa vào ba triệu chứng đặc trưng và bảy triệu chứng phổ biến [14]:

- Ba triệu chứng đặc trưng bao gồm:

Khí sắc trầm.

  Mất quan tâm thích thú.  Mệt mỏi và giảm năng lượng.

- Bảy triệu chứng phổ biến bao gồm:

       Suy giảm khả năng tập trung, chú ý Kém tự tin, suy giảm lòng tự trọng, khó đưa ra quyết định. Xuất hiện cảm giác tội lỗi, không xứng đáng. Suy nghĩ bi quan, u ám về tương lai. Nảy sinh ý định hủy hoại bản thân hoặc tự sát. Rối loạn giấc ngủ, mất ngủ hoặc ngủ nhiều. Thay đổi khẩu vị, tăng/giảm cân không phụ thuộc vào chế độ ăn.

Ngoài ra, bệnh nhân mắc trầm cảm sẽ xuất hiện một số triệu chứng cơ thể/ triệu chứng sinh học như: giảm khả năng tình dục, táo bón, các triệu chứng lo âu, rối loạn thần kinh thực vật [14,15]. Trong trường hợp trầm cảm nặng, bệnh nhân có thể xuất hiện hoang tưởng tự buộc tội, hoang tưởng về những tai họa sắp xảy ra hoặc ảo thanh với những lời kết tội, phỉ báng, ảo khứu với mùi

thịt thối rữa [9,14,15].

Tùy thuộc vào số lượng của các triệu chứng kể trên, Bảng phân loại Bệnh Quốc tế ICD 10 chia giai đoạn trầm cảm thành bốn mức độ như sau: giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0), giai đoạn trầm cảm vừa (F32.1), giai đoạn trầm cảm

5

nặng không có các triệu chứng loạn thần (F32.2), giai đoạn trầm cảm nặng với các triệu chứng loạn thần (F32.3) [16].

1.2.2. Chẩn đoán bằng thang đo trầm cảm

Chẩn đoán trầm cảm thông qua thăm khám trực tiếp là phương pháp

hiệu quả nhất. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi sự thăm khám trực tiếp từ các bác sỹ chuyên khoa, đồng thời khó thực hiện trên số lượng bệnh nhân lớn. Do đó, các thang đo sàng lọc trầm cảm tại cộng đồng sẽ là giải pháp hữu ích cho vấn đề này. Dưới đây là một số thang đo trầm cảm thường được sử dụng:

1.2.2.1. Thang đánh giá trầm cảm chung

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp chẩn đoán và điều trị dành cho người mắc bệnh trầm cảm. Trong đó các thang đánh giá trầm cảm được phát triển và sử dụng rộng rãi. Mỗi thang đo đều có hướng dẫn cụ thể, áp dụng cho từng đối tượng và phù hợp với đặc điểm của từng quốc gia. Một số thang đo phổ biến thường được dùng để sàng lọc và chẩn đoán trầm cảm là:

a. Thang đánh giá trầm cảm Beck Depression Inventory (BDI)

Thang thánh giá Beck Depression Inventory (BDI) được Aaron T. Beck và các cộng sự nghiên cứu, xây dựng vào năm 1961 với ba phiên bản lần lượt là: Bản đánh giá BDI gốc (1961), Bản đánh giá BDI-1A (1978) và Bản đánh giá BDI-II (1996). Việc sửa đổi thang đo này dựa trên tiêu chuẩn chẩn đoán DSM-IV [9]. Theo kết quả tổng hợp từ hơn 2000 nghiên cứu tại 28 quốc gia, bản đánh giá này có thể mang đến hiệu quả cao về mặt lâm sàng và cận lâm sàng.

Bảng hỏi gồm 21 câu hỏi được đánh số từ 1 đến 21, trong đó các đề mục từ 1 đến 13 đánh giá các triệu chứng về mặt tâm lý, các đề mục còn lại đánh giá triệu chứng trên cơ thể. Mỗi câu hỏi có 4 lựa chọn được ấn định điểm từ 0 đến 3, bệnh nhân sẽ khoanh vào lựa chọn thể hiện cảm xúc của bản thân trong 2 tuần gần đây. Với tổng điểm từ 0 đến 63 điểm, số điểm càng cao thì trầm cảm càng nặng, cụ thể các mức: 0-13 điểm (không trầm cảm), 14-19 điểm (trầm cảm nhẹ), 20-28 điểm (trầm cảm vừa), 29-63 điểm (trầm cảm nặng) [9].

6

Ngoài ra còn có phiên bản rút gọn dành gồm 13 đề mục được thiết kế để dành cho các nhân viên y tế chăm sóc sức khỏe ban đầu. Việc sử dụng thang đánh giá BDI cần được thực hiện bởi bác sĩ tâm thần hoặc nhà tâm lý lâm sàng.

b. Thang đánh giá trầm cảm Hamilton Depression (HAMD)

Thang đánh giá trầm cảm của Hamilton (HAMD) hay có tên gọi khác là Hamilton Depression Rating Scale (HDRS) được ra đời vào năm 1960. Đây là một công cụ đo lường mức độ trầm cảm chung mà không nhằm mục đích chẩn đoán.

Thang đánh giá trầm cảm này có nhiều phiên bản khác nhau, phiên bản gốc được công bố năm 1960 có 21 đề mục, tới năm 1967 đã được lược bớt còn 17 đề mục và được sử dụng cho đến ngày nay. Các đề mục được giữ lại gồm:

Bảng 1.1: Thang đánh giá trầm cảm Hamilton Depression (HAMD) phiên bản 17 đề mục

STT Triệu chứng STT Triệu chứng

1. Khí sắc trầm 10. Lo âu (triệu chứng tâm lý)

2. Cảm giác tội lỗi 11. Lo âu (triệu chứng cơ thể)

3. Tự sát 12. Triệu chứng cơ thể (dạ dày- ruột)

4. Mất ngủ (lúc ban đầu) 13. Triệu chứng cơ thể chung

5. Mất ngủ (vào giữa đêm) 14. Triệu chứng sinh dục

6. Mất ngủ (về sáng) 15. Nghi bệnh

7. Công việc và hoạt động 16. Sút cân

8. Chậm chạp 17. Mất sự thấu hiểu

9. Kích động

7

Ngoài 17 đề mục nêu trên, có 4 đề mục với những triệu chứng ít gặp hơn

đã được Hamilton loại bỏ là:

(18) Những biến động trong ngày

(19) Giải thể nhân cách, tri giác sai thực tại

(20) Triệu chứng hoang tưởng

(21) Triệu chứng ám ảnh cưỡng bức

Phiên bản 17 đề mục được tác giả Hamilton coi như vĩnh viễn gồm những đề mục đại diện tốt nhất cho triệu chứng học của rối loạn trầm cảm. Mỗi đề mục của thang đánh giá được cho điểm từ 0 đến 2 hoặc từ 0 đến 4, điểm tổng cộng của phiên bản 17 đề mục là từ 0 đến 52. Bác sĩ lâm sàng sẽ cho điểm dựa trên dữ liệu của cuộc tiếp xúc với người bệnh. Dựa vào kết quả số điểm, bác sĩ có thể xác định tình trạng và mức độ rối loạn trầm cảm của người bệnh.

c. Thang đánh giá lo âu Zung (SDS)

Thang đánh giá trầm cảm Zung là thang đánh giá gồm 20 đề mục được sử dụng trong các nghiên cứu dịch tễ học. Mỗi câu hỏi có 4 lựa chọn, với tổng điểm từ 0 đến 80, điểm càng cao thì mức đột trầm cảm càng nặng. Các mức độ trầm cảm theo thang điểm này lần lượt là: dưới 40 điểm là bình thường, từ 41- 50 điểm là trầm cảm nhẹ, từ 51-60 điểm là trầm cảm vừa, từ 61-70 điểm là trầm cảm nặng, từ 71- 80 điểm là trầm cảm rất nặng [9].

Một hạn chế của thang đánh giá này là cách trả lời câu hỏi dễ gây nhầm lẫn cho bệnh nhân (không bao giờ, đôi khi, phần lớn thời gian, luôn luôn). Bên cạnh đó, thang điểm này có thể bỏ sót trầm cảm ở người già nếu trầm cảm biểu hiện bằng các triệu chứng trên cơ thể. Do đó, thang đánh giá Zung không được đánh giá cao trong nghiên cứu hay đánh giá lâm sàng trầm cảm ở người già.

d. Thang đánh giá trầm cảm Montgomery-Asberg (MADRS)

Thang đánh giá trầm cảm Montgomery-Asberg (MADRS) có độ nhạy đặc biệt được sử dụng trong việc đo lường thay đổi các triệu chứng sau thời gian điều trị. Thang MADRS đánh giá dựa trên quá trình phỏng vấn lâm sàng từ các câu hỏi chung tới các câu hỏi chi tiết.

8

Thang gồm 10 câu hỏi, mỗi câu có 6 mức độ đánh giá các triệu chứng trầm cảm như buồn chán, rối loạn giấc ngủ, sự bi quan và ý tưởng tự sát. Thang này không đánh giá các triệu chứng cơ thể, do đó được sử dụng nhiều trong việc đánh giá nhóm quần thể trẻ tuổi và hạn chế với nhóm quần thể người già.

e. Thang đánh giá trầm cảm ở cộng đồng (PHQ-9)

Bảng câu hỏi sức khỏe bệnh nhân (PHQ) là phiên bản tự quản lý của công cụ chẩn đoán PRIME-MD cho các rối loạn tâm thần phổ biến. Thang điểm gồm 9 câu hỏi, mỗi câu hỏi gồm 4 lựa chọn được cho điểm từ 0 đến 3. Các mức độ trầm cảm tương ứng với số điểm: từ 5-9 điểm là mức độ nhẹ, từ 10-14 điểm là mức độ trung bình, từ 15-19 điểm là mức độ vừa và từ 20-27 điểm là trầm cảm nặng [17].

f. Thang đánh giá lo âu- trầm cảm- stress (DASS 21, DASS 42)

Thang đánh giá lo âu- trầm cảm- stress (DASS) là một bảng câu hỏi tự quản lý, được xây dựng để đánh giá mức độ của ba trạng thái cảm xúc: lo lắng, trầm cảm và stress [18]. Thang đánh giá này gồm có hai phiên bản: DASS 21 gồm 7 mục và DASS 42 gồm 14 mục. Mỗi câu hỏi sẽ có 4 sự lựa chọn, tương ứng là số điểm từ 0 đến 3. Kết quả đánh giá sẽ lấy tổng các mục nhân với hệ số hai. Điểm số của từng bệnh nhân có thể được đánh giá bằng cách quy đổi điểm số z và so sánh với các quy chuẩn có trong Sổ tay DASS: điểm z dưới 0,5 thì nằm trong giới hạn bình thường, điểm z từ 0,5-1,0 là mức độ nhẹ, điểm z từ 1,0-2,0 là mức độ trung bình, điểm z từ 2,0-3,0 là nghiêm trọng và điểm z lớn hơn 3,0 được coi là lo lắng/ trầm cảm/ stress [19].

1.2.2.2. Thang đánh giá trầm cảm trong thời kỳ mang thai

Các thang đo BDI, HAMD hay Zung-SDS kể trên đều là những công cụ hữu ích để đo những triệu chứng chung của bệnh trầm cảm và rối loạn tâm thần. Tuy nhiên khi nghiên cứu trên đối tượng đặc biệt như phụ nữ trong thời kỳ mang thai thì những nghiên cứu trên đều có mặt hạn chế nhất định. Một số triệu chứng trầm cảm trong các thang đo này rất dễ nhầm lần cũng như khó phân biệt với những thay đổi tâm sinh lý ở các bà mẹ trong thời kỳ mang thai. Vì vậy,

9

thang đo trầm cảm Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS) được đưa vào sử dụng.

Thang đo này được Cox J và các cộng sự xây dựng và công bố vào năm 1987 [20]. Đây là công cụ sàng lọc trầm cảm được sử dụng phổ biến nhất trong trong chăm sóc chu sinh [21]. Thang đo gồm 10 câu hỏi, tìm hiểu về tâm trạng

của phụ nữ trong vòng 7 ngày bao gồm: tâm trạng phiền muộn, cảm giác tội lỗi, lo âu và ý tưởng tự sát. Mỗi câu hỏi gồm 4 lựa chọn trả lời, tính theo thang điểm từ 0 đến 3. Tổng điểm từ 0 đến 30 điểm, điểm càng cao thì mức độ trầm cảm càng nặng [9,22].

Với các giá trị giới hạn từ 10 trở lên và 13 trở lên được sử dụng để xác định những người có thể bị trầm cảm [21]. Mỗi quốc gia, khu vực khác nhau thì điểm cắt giới hạn cũng sẽ thay đổi [4,9]. Dưới đây là bảng tổng hợp thang đo EPDS và xác định điểm cắt theo từng quốc gia [9]:

Bảng 1.2: Bảng tổng hợp một số thông tin về chuẩn hóa thang đo EPDS

Cỡ mẫu Thời gian đo

Tên quốc gia thực hiện nghiên cứu Năm thực hiện Điểm cắt được khuyến nghị

Australia [9] 1999 n=113 9/10 16-24 tuần thai và 6 tuần sau sinh

2015 n=749 28 tuần thai 9/10 Trung Đông và Nam Á [23]

Trung Quốc [24] 2019 n=996 Trên 12 tuần thai 9/10

Việt Nam [1] 2019 n=1337 9/10 Dưới 24 tuần thai và 30-34 tuần thai

Việt Nam [8] 2020 n=1260 Tất cả các tuần thai 9/10

Việt Nam [22] 2021 n=291 Trên 28 tuần thai 9/10

10

Cỡ mẫu Thời gian đo

Tên quốc gia thực hiện nghiên cứu Năm thực hiện Điểm cắt được khuyến nghị

Ethiopia [25] 2020 n=916 Trên 12 tuần thai 11/12

Italy [26] 2021 n=1471 11/12 9 tháng mang thai và 9 tháng sau sinh

Nigeria [27] 2022 n=1745 Dưới 20 tuần thai 11/12

Ấn Độ [28] 2015 n=100 Tất cả các tuần thai 12/13

Ấn Độ [29] 2017 n=302 Tất cả các tuần thai 12/13

Australia [30] 2018 n=17.564 Tất cả các tuần thai 12/13

Singapore [31] 2018 n=610 5-12 tuần thai 12/13

Ethiopia [13] 2019 n=317 Tất cả các tuần thai 12/13

Ireland [32] 2019 n=5000 Tất cả các tuần thai 12/13

Bangalore [33] 2019 n=280 Dưới 24 tuần thai 12/13

Malaysia [34] 2019 n=911 Trên 28 tuần thai 12/13

Canada [35] 2020 n=1987 Dưới 35 tuần thai 12/13

Nam Phi [36] 2020 n=649 Tất cả các tuần thai 12/13

New Zealand [37] 2020 n=5568 Trên 28 tuần thai 12/13

Pakistan [38] 2021 n=200 Trên 28 tuần thai 12/13

Việt Nam [4] 2021 n=310 Trên 28 tuần thai 12/13

11

Bảng 1.2 cho thấy điểm cắt dao động từ 9/10 đến 12/13 và có sự khác nhau giữa các nước; trong đó tại Việt Nam điểm cắt 9/10 được sử dụng nhiều nhất. Ngoài ra còn có, giới hạn tối ưu của tiếng Đan Mạch là từ 11 điểm trở lên, tiếng Anh là từ 13 điểm trở lên (đối với bệnh nhân trầm cảm nặng), tiếng Pháp điểm giới hạn 10,5 là tối ưu [39-41]. Thang đo EPDS phiên bản tiếng Việt sử dụng sàng lọc nguy cơ trầm cảm ở tất cả phụ nữ mang thai 3 tháng cuối, với điểm cắt ≥ 13 điểm được xem là có nguy cơ TCTS [4]. Một nghiên cứu tổng hợp các nội dung chuẩn hóa và điểm cắt phân biệt trầm cảm do Bộ Y tế Australia thực hiện và đưa ra khuyến nghị về điểm cắt 9/10 là phù hợp nhất để phát hiện trầm cảm ở nhóm đối tượng nghiên cứu là người Việt Nam [42].

Hiện nay trên thế giới có tổng cộng 23 bản dịch của EPDS đã được kiểm tra, sửa đổi hoặc dịch lại. Thang đo đã được chuẩn hóa và xác định điểm cắt phù hợp với từng quốc gia, khu vực trên thế giới như Anh, Australia, Thụy Điển, Chile, Canada, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp, Trung Quốc, Nam Phi, Brazil, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Đức và Việt Nam [9,43].

1.3. Thực trạng trầm cảm ở phụ nữ mang thai trên thế giới và tại

Việt Nam

1.3.1. Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai

1.3.1.1. Trên thế giới

Theo Hiệp hội Sản phụ khoa Hoa Kỳ, tỉ lệ TCTS là từ 10-16%. Ở các nước đang phát triển, tỷ lệ na là 15,6% [8,9,22], con số này có thể lên tới trên 20% ở các nước có thu nhập trung bình hoặc thấp [22,30,44]. Tỷ lệ trầm cảm trong thai kỳ đã được báo cáo là 7,4% trong ba tháng đầu và từ 12,0-12,8% trong ba tháng tiếp theo [45]. Một nghiên cứu khác cũng chỉ ra, tỷ lệ trầm cảm ở ba tháng đầu của thai kỳ là 27,2%; ba tháng giữa là 21,7% và ba tháng cuối là 25,4% [46]. Con số này thậm chí cao hơn tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai trong năm đầu tiên sau khi sinh.

Trong các phân tích đa biến, các yếu tố có liên quan đáng kể đến trầm cảm trước sinh là trình độ học vấn, thu nhập và hỗ trợ xã hội. Theo một nghiên cứu trên 5.337 phụ nữ mang thai ở tuổi thai 24-26 tuần cho kết quả tỷ lệ trầm

cảm là 12%. Trong số đó, phụ nữ đang đi làm có các triệu chứng trầm cảm có 12

tỷ lệ 8%, thấp hơn nhiều so với các bà nội trợ (19%), phụ nữ đã nghỉ làm (14%) và sinh viên (14%) [47].

Tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai cũng thay đổi theo mỗi khu vực, quốc gia. Theo nghiên cứu của Shakeel và cộng sự năm 2015 trên 749 thai phụ cho thấy tỷ lệ trầm cảm trong khi mang thai ở Trung Đông (19,5%), ở Tây Âu

(8,6%), Nam Á (17,9%) và ở khu vực khác (11,3%) [9,23].

Ngoài ra, tỷ lệ trầm cảm ở phụ nữ mang thai cũng khác nhau tùy theo độ tuổi, đối tượng, kinh tế gia đình hoặc theo đặc thù riêng của nơi tiến hành nghiên cứu. Một số nghiên cứu chỉ ra, đối tượng ở tuổi vị thành niên có xu hướng trầm cảm cao hơn các lứa tuổi khác [24].

1.3.1.2. Tại Việt Nam

Hiện tại ở Việt Nam, hầu hết các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc khảo sát trầm cảm ở phụ nữ sau sinh. Việt Nam là nước có thu nhập trung bình, do đóTại Việt Nam, tỷ lệ thai phụ có biểu hiện TCTS dao động từ 5-25% [8,9]. Tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, tỷ lệ này lần lượt là 6,6% và 13% [7].

Nghiên cứu của Đàm Như Bình và Nguyễn Hữu Trung tại Bệnh viện Phụ sản Thành phố Cần Thơ năm 2021 đã chỉ ra tỷ lệ trầm cảm trong ba tháng cuối thai kỳ khá cao với lỷ lệ 27,1% [22].

Theo nghiên cứu, tỷ lệ trầm cảm trước sinh tại Việt Nam không chỉ có sự khác biệt giữa các tỉnh, thành phố mà còn khác nhau giữa các độ tuổi của thai phụ. Trong đó, nhóm tuổi 25-34 chiếm tỉ lệ trầm cảm cao nhất (73,5%), kế đến là nhóm < 25 tuổi chiếm 16,5% và thấp nhất là nhóm 35 tuổi chiếm 10,1% [22]. Do đó, trong cùng điều kiện kinh tế, xã hội, đối tượng mang thai ở tuổi dưới 20 có tỷ lệ trầm cảm trước sinh cao hơn các nhóm tuổi khác.

1.3.2. Hậu quả của trầm cảm trong thời kỳ mang thai

Trầm cảm trong thời kỳ mang thai gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới cả

thai phụ và thai nhi.

Phụ nữ mang thai bị trầm cảm thường có diễn tiến nặng hơn những phụ nữ không mang thai, nguyên nhân bởi sự xuất hiện trạng thái lo âu rõ rệt, xuất hiện các cơn hoảng loạn, có ý định tự hủy hoại bản thân hoặc tự tử [4]. Họ

13

thường bị tăng cân chậm và ít quan tâm hơn tới việc khám thai. Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu đã báo cáo phụ nữ bị trầm cảm trong khi mang thai có nguy cơ bị trầm cảm sau sinh cao hơn [7,48]. Nghiên cứu về trầm cảm sau sinh tại Bệnh viện tỉnh Nam Định đã chỉ ra những người mắc trầm cảm trước sinh có nguy cơ trầm cảm sau sinh cao gấp 2.3 lần những người có nền tảng sức khỏe tốt [49].

Ngoài việc ảnh hưởng đến sức khỏe người mẹ, trầm cảm trước sinh cũng gây ra rất nhiều những tác động tiêu cực đến thai nhi. Nghiên cứu của Sigalla và cộng sự năm 2017 tiến hành trên phụ nữ mang thai ở châu Phi đã chỉ ra rằng các triệu chứng trầm cảm khi mang thai ở người mẹ có liên quan tới tình trạng sinh non và sinh nhẹ cân, gây ra bệnh tật ở bà mẹ và trẻ sơ sinh [45,50]. Trong một phân tích tổng hợp trên cơ sở dữ liệu PubMed và PsychInfo, tìm thấy được 50 báo cáo công bố về sinh non và 33 báo cáo về tình trạng nhẹ cân ở trẻ, trong số đó có một nửa ghi nhận mối liên quan với trầm cảm trước sinh [5]. Về trọng lượng, trẻ em sinh ra có mẹ bị trầm cảm có nguy cơn nhẹ cân cao gấp 3 lần ở tháng thứ 3 và cao gấp 4 lần ở tháng thứ 6 so với nhóm trẻ có mẹ không bị trầm cảm. Về chiều cao, trẻ em của nhóm bà mẹ trầm cảm có nguy cơ bị chiều cao thấp hơn 3,3 lần ở tháng thứ 3 và tháng thứ 6 khi so với nhóm trẻ của bà mẹ không bị trầm cảm[9]. Trẻ khi sinh ra có tính khí thất thường, khả năng tập trung kém và dễ mắc các bệnh mãn tính khi về già [51].

Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, những người mẹ bị trầm cảm thường ít tương tác với con mình. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới suy nghĩ, nhận thức

và kỹ năng giao tiếp của trẻ [9,50]. Những hậu quả kể trên về lâu dài sẽ gây ra những hệ lụy không tốt về tâm sinh lý, nhân cách và trí tuệ ở trẻ. Trong trường hợp nghiêm trọng, một số bà mẹ trầm cảm có cảm giác sợ khi ở với con một mình, lo ngại về khả năng chăm con của bản thân, từ đó xuất hiện ý nghĩ hủy hoại con mình [9].

1.3.3. Các yếu tố liên quan

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến trầm cảm trong quá trình mang thai, bao gồm: độ tuổi của thai phụ, lo âu trong khi mang thai, tiền sử trầm cảm, mối

14

quan hệ trong gia đình,… Dưới đây là một số yếu tố liên quan tới trầm cảm trong khi mang thai [9]:

Bảng 1.3: Một số yếu tố liên quan tới trầm cảm trước sinh

Yếu tố cá nhân Yếu tố gia đình Yếu tố văn hóa, xã hội

 Thiếu sự hỗ trợ xã  Yếu tố nhân khẩu xã  Bạo lực gia đình hội . hội:

- Bạo lực tinh thần - Bạo lực thể xác - Bạo lực tình dục  Quan niệm trọng nam khinh nữ, bất bình đẳng giới.  Mâu thuẫn gia đình

 Thiếu sự hỗ trợ gia - Tuổi - Trình độ học vấn thấp - Thu nhập thấp - Nghề nghiệp đình  Lo âu, stress trong  Kỳ thị và định kiến xã hội với người bị trầm cảm.  Sự yêu thích con mang thai trai

1.3.3.1. Độ tuổi của thai phụ

Các nghiên cứu đã chỉ ra, thai phụ là trẻ vị thành niên có tỷ lệ mắc TCTS cao hơn các nhóm tuổi khác [24]. Theo nghiên cứu của Trần Thị Trúc Phương tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương thu được, thai phụ có nhóm tuổi trên 25 tăng nguy cơ mắc TCTS gấp 3,9 lần [4].

1.3.3.2. Lo âu trong khi mang thai

Mối liên quan giữa mức độ trầm cảm và lo âu trong khi mang thai đã được một số nghiên cứu khẳng định. Theo nghiên cứu của Catherine Lebel năm 2020 đánh giá các triệu chứng lo âu và trầm cảm của những người mang thai trong đại dịch COVID-19 báo cáo, có 37% các triệu chứng trầm cảm

liên quan đến lâm sàng và 57% các triệu chứng lo âu liên quan đến lâm sàng [35]. Từ đó có thể khẳng định rằng, trầm cảm và lo âu thường đi kèm với nhau. Một nghiên cứu khác của Lancaster và cộng sự khẳng định, nguy cơ TCTS ở thai phụ lo âu trong khi mang thai cao hơn so với người không bị lo âu [4,9].

1.3.3.3. Mối quan hệ với gia đình

15

Mâu thuẫn trong mối quan hệ gia đình cũng là một nguyên nhân gây ra trầm cảm trong khi mang thai ở phụ nữ. Thai phụ có mối quan hệ bất hòa với gia đình chồng tăng nguy cơ TCTS gấp 6,3 lần [4]. Nghiên cứu của Lancaster và cộng sự năm 2010 nhấn mạnh chất lượng mối quan hệ giữa vợ-chồng, mẹ chồng-con dâu có khả năng giảm dấu hiệu trầm cảm trong mang thai [4]. Nghiên cứu khác của Niemi và cộng sự năm 2015 cũng chỉ ra mâu thuẫn giữa vợ chồng, mẹ chồng-con dâu sẽ làm tăng nguy cơ trầm cảm cho phụ nữ, đặc biệt là mâu thuẫn giữa vợ và chồng nhưng có sự can thiệp của mẹ chồng hoặc mâu thuẫn giữa mẹ chồng-nàng dâu nhưng có chồng đứng giữa can thiệp sẽ làm cho tình hình trở nên căng thẳng hơn với phụ nữ.

Ngoài ra, phụ nữ cũng gặp tình trạng trầm cảm trong thời kỳ mang thai khi bị bạo lực do chồng/ bạn tình. Nghiên cứu của Lancaster và cộng sự năm 2010 cho thấy những thai phụ bị bạo lực gia đình thì nguy cơ bị trầm cảm cao gấp 2,5 lần [4]. Nghiên cứu của B Mahenge và cộng sự năm 2013 với sự tham gia của trên 1180 thai phụ chỉ ra rằng: những phụ nữ bị bạo lực thể xác và/hoặc bạo lực tình dục do chồng có nguy cơ trầm cảm cao hơn 3 lần so với những người phụ nữ không bị bạo lực trong thời gian mang thai [52]. Điều đáng buồn được chỉ ra trong một nghiên cứu của Trần Thơ Nhị và các cộng sự tại huyện Đông Anh, Hà Nội năm năm 2018 trên 1274 phụ nữ cho kết quả có tới 639 người (50,4%) đã trải qua ít nhất 1 kiểu bạo lực tình cảm bởi người chồng/ bạn

tình của họ. Vấn đề này cũng được đội ngũ trên nghiên cứu vào năm 2019 trên 1337 phụ nữ cho kết quả rằng có hơn 1/3 phụ nữ (35,3%) từng bị ít nhất một hình thức bạo lực khi mang thai và 8,2% trong số đó bị trầm cảm sau sinh [1,53].

Có khoảng 40% phụ nữ bị ít nhất 1 hành vi bạo lực thể xác, tình dục trong khi mang thai bị trầm cảm. Hành vi của người chồng như cờ bạc, uống rượu, không quan tâm đến gia đình, vv đều làm cho phụ nữ trở nên căng thẳng,

lo âu.

1.3.3.4. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội

Trong giai đoạn mang thai, thai phụ không có điều kiện tham gia lao động, điều này làm giảm thu nhập gia đình, tăng nỗi lo về kinh tế. Điều này

16

làm gia tăng tỷ lệ TCTS. Thai phụ có tình trạng kinh tế khó khăn, có lo lắng trong quá trình mang thai, tăng nguy cơ TCTS từ 3,03 lần đến 8,5 lần [4].

Về mặt xã hội, tình trạng trọng nam khinh nữ xảy ra khá phổ biến tại một số nước châu Á, đặc biệt ở các vùng nông thôn như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, … Ở Việt Nam, những người lớn tuổi thường quan niệm rằng sinh con trai

để nối dõi tông đường. Điều này đặt ra áp lực lên người phụ nữ khi phải sinh con trai, gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của người phụ nữ trong thời kỳ mang thai.

1.3.3.5. Có người tâm sự, chia sẻ

Đây có thể là sự chia sẻ từ người thân, gia đình, sự hỗ trợ về thông tin trong chăm sóc thời kỳ mang thai, sự hỗ trợ về vật chất, cảm xúc hay chăm sóc mẹ và bé, … Nghiên tổng hợp từ 20 bài báo của Lancaster và cộng sự năm 2010 đề cập đến mối quan hệ giữa hỗ trợ xã hội và trầm cảm khi mang thai. Trong quá trình mang thai, nếu thai phụ không có người tâm sự, chia sẻ và không nhận được tư vấn từ cán bộ Y tế có nguy cơ TCTS cao gấp 2,7 lần. Nghiên cứu của

Xuehan Dong và cộng sự năm 2013 chỉ ra những phụ nữ không được hỗ trợ từ chồng hoặc bạn tình thì nguy cơ bị trầm cảm trong thai kỳ cao gấp gần 4 lần.

1.4. Hạn chế từ các nghiên cứu trước

Hạn chế đầu tiên được kể đến là việc sử dụng các phương pháp khác nhau giữa các nghiên cứu: sử dụng thang đo khác nhau, điểm cắt khác nhau và

thời điểm, khu vực đo khác nhau. Điều này khiến cho tỉ lệ trầm cảm ở mỗi nghiên cứu có sự chênh lệch và rất khó để đưa ra được tỷ lệ chính xác cho căn bệnh này.

Thứ hai, khi tổng hợp các yếu tố nguy cơ thì phần lớn các nghiên cứu chưa không xử lý tốt trong việc kiểm soát các yếu tố gây nhiễu. Do đó làm hạn chế khả năng hệ thống, phân tích tổng hợp các yếu tố nguy cơ, gây ra sự không đồng nhất giữa các mô hình.

Thứ ba, chỉ một phần nhỏ nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu theo dõi dọc, đa số các nghiên cứu tiến hành theo thiết kế cắt ngang cho nên các kết luận được rút ra chỉ mang tính giả thuyết. Do vậy, nhiều tác giả đưa ra khuyến

17

nghị rằng cần có thêm những nghiên cứu theo dõi dọc đối tượng từ khi mang thai cho đến sau sinh để có thể đưa ra kết luận chính xác. Tuy nhiên, để thực hiện được nghiên cứu như vậy cần có nhân lực, thời gian và nguồn kinh phí cao cho nên việc nghiên cứu vẫn chưa được thực hiện nhiều.

18

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Là các thai phụ đã sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản tại Bệnh

viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 8/2021 đến tháng 11/2021.

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn

Các phụ nữ có thai ở giai đoạn quý 1/quý 2/quý 3 được sử dụng dịch vụ

Tỉnh táo, có khả năng giao tiếp bình thường, có khả năng tham gia phỏng

Đồng ý tham gia nghiên cứu và ký thỏa thuận tham gia nghiên cứu. - chăm sóc sức khỏe tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội trong thời gian nghiên cứu. - vấn từ 15-20 phút. -

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ

Thai phụ không đồng ý tham gia cuộc khảo sát.

Thai phụ có các vấn đề về nhận thức có khả năng ảnh hưởng đến quá

Thai phụ trong thời gian nằm viện nội trú. - - trình phỏng vấn. -

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

 Thời gian nghiên cứu:

Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ 09/08/2021 đến 22/11/2021.

 Địa điểm nghiên cứu:

Bệnh viện Phụ sản Hà Nội.

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang

2.4. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

Cỡ mẫu cần thiết cho nghiên cứu là 268 thai phụ. Cộng 5% cỡ mẫu dự

phòng đối tượng không hoàn thành phỏng vấn, tổng cỡ mẫu là 282 thai phụ.

19

Phương pháp chọn mẫu thuận tiện được áp dụng. Các thai phụ đến khám thai định kỳ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội trong thời gian nghiên cứu được mời vào phỏng vấn cho đến khi đủ cỡ mẫu.

2.5. Biến số, chỉ số nghiên cứu

Các biến số, chỉ số nghiên cứu sau được thu thập:

- Thông tin nhân khẩu học: tuổi, học vấn, nghề nghiệp, nơi ở của thai phụ, tuổi của chồng, học vấn của chồng, nghề nghiệp của chồng, thu nhập trung bình của gia đình, số người trong hộ gia đình.

- Thông tin về sức khỏe tinh thần: sự lo lắng, hoảng sợ, bồn chồn, vui vẻ,

hài hước, hào hứng,…

2.6. Công cụ nghiên cứu

- Phiếu thu thập thông tin: thông tin nhân khẩu học và thông tin sức

Formatted: Heading 3, Left, Indent: First line: 0", Space Before: 12 pt, Numbered + Level: 1 + Numbering Style: 1, 2, 3, … + Start at: 1 + Alignment: Left + Aligned at: 0.25" + Indent at: 0.5", Tab stops: Not at 0.49" + 0.59"

khỏe tinh thần của thai phụ (Phụ lục).

- Sử dụng thang đo dựa theo bộ câu hỏi Edinburgh Postnatal Depression Scale để sàng lọc trầm cảm trước sinh. Nghiên cứu áp dụng thang đo gồm 1014 câu hỏi, tìm hiểu về tâm trạng của phụ nữ trong vòng 7 ngày qua. Từ 14 câu hỏi này, tôi đã lựa chọn ra 10 câu hỏi tiêu biểu, phù hợp để tính mức độ trầm cảm của thai phụ. Mỗi câu hỏi gồm 4 lựa chọn trả lời, tính theo thang điểm từ 0 đến 3, trong đó: câu 2, 3, 6, 8 4, 7 và 9; cách tính điểm cho các đáp án tăng dần từ 0 đến 3 điểm; câu 1, 4, 5, 7, 9, 10 5, 6, 8, 10 và 13 được cho điểm ngược lại từ 3 đến 0 điểm. Tổng điểm từ 0 đến 30 điểm, điểm càng cao thì mức độ trầm cảm càng nặng. Với ngưỡng đánh giá được lựa chọn là 10 điểm:

+ Tổng điểm các câu trả lời < 10 điểm: Không có dấu hiệu trầm cảm

trong thời kỳ mang thai.

+ Tổng điểm các câu trả lời ≥ 10 điểm: Có dấu hiệu trầm cảm trong thời

kỳ mang thai.

2.6.2.7. Quy trình và kỹ thuật thu thập số liệu

20

Số liệu được thu thập thông qua phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi cấu trúc. Bộ câu hỏi được xây dựng gồm 7 phần: 1) Nhân khẩu học; 2) Đặc điểm thai sản; 3) Cảm xúc khi mang thai; 4) Mối quan hệ với chồng/người yêu; 5) Thông tin sức khỏe; 6) Đặc điểm sức khỏe tinh thần; 7) Tình trạng và ý thức sử dụng thuốc. Bộ câu hỏi sẽ được sử dụng bởi nhóm nghiên cứu và các điều dưỡng tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các điều tra viên sẽ được tập huấn và tham gia vào nghiên cứu thử nghiệm bộ công cụ nhằm giúp cho họ có thể thu thập một cách thống nhất và có chất lượng.

Thai phụ khi đến khám thai sản thường quy sẽ được mời tham gia vào nghiên cứu bởi nghiên cứu viên. Sau đó, họ sẽ được mời đến một phòng riêng để đảm bảo sự riêng tư. Họ sẽ được giới thiệu các thông tin cơ bản của nghiên cứu và sẽ được yêu cầu kí vào bản đồng thuận tham gia nghiên cứu nếu họ đồng ý. Sau đó, nghiên cứu viên và điều tra viên sẽ tiến hành phỏng vấn. Mỗi cuộc phỏng vấn sẽ kéo dài 15-20 phút.

2.7.2.8. Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý bằng phần mềm Stata 16.0. Thống kê mô tả và thống kê suy luận được áp dụng. Kiểm định khi bình phương sẽ được tính toán để đánh giá sự khác biệt. Giá trị p < 0,05 được sử dụng đánh giá mức ý nghĩa thống kê.

2.8.2.9. Đạo đức trong nghiên cứu khoa học

Nghiên cứu tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, Trường Đại học Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội và tuyên ngôn Helsinki trong nghiên cứu y học. Tôn trọng quyền con người, các thông tin của đối tượng nghiên cứu sẽ được bảo mật. Các đối tượng nghiên cứu từ chối không tham gia nghiên cứu không bị phân biệt đối xử. Nghiên cứu chỉ nhằm bảo vệ và

nâng cao sức khỏe, không nhằm mục đích nào khác.

21

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm của đối tượng tham gia nghiên cứu 3.1.1. Đặc điểm về nhân khẩu học

3.1.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu

Bảng 3.1: Đặc điểm chung của đối tượng tham gia nghiên cứu

Thông tin chung Số lượng (n=282) Tỷ lệ (%)

Tuổi X̅ ± SD: 30,3 ± 4,88

< 30 tuổi ≥ 30 tuổi 137 145 48,6 51,4

Trình độ học vấn

Trung học phổ thông trở xuống Cao đẳng/trung cấp trở lên 58 224 20,6 79,4

Nghề nghiệp

Lao động chân tay Lao động trí óc 43 239 15,3 84,7

Nơi sinh sống Thành thị Nông thôn 205 77 72,7 27,3

Đang mắc bệnh

Có Không 53 229 18,8 81,2

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của thai phụ là X̅ ± SD: 30,3 ± 4,88; trong đó thai phụ nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 51 tuổi. Trong 282 thai phụ, các

thai phụ có trình độ học vấn từ trung cấp, cao đẳng trở lên chiếm 79,4%. Có sự chênh lệch rõ rệt giữa nhóm thai phụ lao động trí óc (84,7%) và nhóm thai phụ lao động chân tay (15,3%). Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu sinh sống ở thành thị, chiếm 27,3%. Những thai phụ đang mắc bệnh ở thời điểm nghiên cứu có 53/282 thai phụ, chiếm tỷ lệ 18,8%. 22

3.1.1.2. Đặc điểm chung của gia đình đối tượng tham gia nghiên cứu

Bảng 3.2: Đặc điểm chung của gia đình đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung Số lượng (n=282) Tỷ lệ (%)

X̅ ± SD: 33,2 ± 5,54 Tuổi

< 33 tuổi ≥ 33 tuổi 142 140 50,4 49,6

Trình độ học vấn

Trung học phổ thông trở xuống Cao đẳng/trung cấp trở lên 67 215 23,8 76,2

Nghề nghiệp

Lao động chân tay Lao động trí óc 61 221 21,6 78,4

Số người chung sống trong 6 tháng

≤ 2 người > 2 người 60 222 21,3 78,7

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của chồng/người yêu của đối tượng nghiên cứu là X̅ ± SD: 33,2 ± 5,54; trong đó nhỏ nhất là 19 tuổi và lớn nhất là 54 tuổi. Phần lớn chồng/người yêu của đối tượng nghiên cứu có trình độ học vấn từ trung cấp, cao đẳng trở lên, chiếm 76,2%. Các thai phụ có chồng/người yêu lao động ý óc chênh lệch lớn so với những thai phụ có chồng/người yêu lao động chân tay, lần lượt là 78,4% và 21,6%. Những gia đình có thấp hơn 2 thành viên chiếm tỷ lệ 21,3%, trong đó gia đình có nhiều hơn 2 người chiếm tỷ lệ cao 78,7%.

23

3.1.2. Đặc điểm thai sản

Bảng 3.3: Đặc điểm thai sản

Thông tin thai sản Số lượng (n=282) Tỷ lệ (%)

Số con

0 con 1-2 con 129 141 45,7 50,0

> 2 con 12 4,3

Số lần xảy thai, thai lưu

0 lần ≥ 1 lần 218 64 77,3 22,7

Tuần thai

< 12 tuần 12 – 24 tuần > 24 tuần 5 25 252 1,8 8,9 89,3

Lần mang thai này có theo kế hoạch

Có Không 178 104 63,1 36,9

Vấn đề bất thường trong lần mang thai này

Có Không 70 212 24,8 75,2

Nhận xét: Phần lớn thai phụ tham gia nghiên cứu có ít hơn 2 con, chỉ 12 thai phụ đã có 3 con trở lên, chiếm tỷ lệ 4,3%. Số thai phụ mang thai lần đầu

chiếm tỷ lệ cao 77,3%; những thai phụ tham gia nghiên cứu đã từng xảy thai/thai lưu chiếm tỷ lệ 22,7%. Phần lớn các thai phụ tham gia nghiên cứu đang ở 3 tháng cuối thai kỳ, gồm 252 thai phụ chiếm tỷ lệ 89,3%. Các thai phụ hầu hết đều mang thai theo kế hoạch (178 người chiếm tỷ lệ 63,1%). Có 24,8% thai phụ gặp vấn đề bất thường trong lần mang thai này (dọa xảy thai, ra máu kéo

dài, thiếu/dư ối, …)

24

3.1.3. Mối quan hệ với chồng/ người yêu

Bảng 3.4: Đặc điểm mối quan hệ với chồng/người yêu

Thông tin Số lượng (n=282) Tỷ lệ (%)

Chồng/người yêu đáp ứng nhu cầu của thai phụ

Kém Trung bình Tốt 0 48 234 0 17,0 83,0

Mức độ mối quan hệ đáp ứng với kỳ vọng ban đầu của thai phụ

Hầu như không Trung bình Đáp ứng hoàn toàn 5 95 182 1,8 33,7 64,5

Tần suất phát sinh vấn đề

Rất ít Trung bình Rất nhiều 195 82 5 69,1 29,1 1,8

Nhận xét: 83% chồng/người yêu của đối tượng nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của thai phụ. Những mối quan hệ đạt kỳ vọng ban đầu của thai phụ chiếm tỷ lệ 64,5% và mối quan hệ với chồng/người yêu rất ít khi phát sinh vấn đề (195 thai phụ, chiếm tỷ lệ 69,1%).

25

3.2. Tỷ lệ và triệu chứng trầm cảm trước sinh ở thai phụ 3.2.1. Tỷ lệ trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai

24,1%

Trầm cảm

Không trầm cảm

75,9%

Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ có biểu hiện trầm cảm trước sinh ở thai phụ

Nhận xét: Theo tiêu chuẩn đánh giá của thang đo EPDS với điểm cắt 9/10: có 68 trên tổng số 282 thai phụ có biểu hiệnbị trầm cảm trong thời kỳ mang thai, chiếm tỉ lệ 24,1% (Biểu đồ 3.1).

50%

𝐗 ̅ ± SD= 7,0 ± 3,77

40%

133 (47,1%)

30%

20%

81 (28,7%) 60 (21,3%)

10%

140 120 100 80 60 40 20 0

0%

≥ 20 điểm

< 5 điểm 5-9 điểm 10-14 điểm

Số lượng

15-19 điểm Tỷ lệ

7 (2,5%) 1 (0,4%)

Biểu đồ 3.2: Phân bố điểm theo thang điểm EPDS

Nhận xét: Theo thang đo EPDS, số điểm trung bình của các thai phụ tham gia nghiên cứu là 7,0 ± 3,77 điểm, trong đó thấp nhất là 0 điểm và cao nhất là 22 điểm. Các thai phụ có tổng điểm từ 5-9 điểm chiếm tỷ lệ cao nhất

47,1%, tiếp đến là các thai phụ có tổng điểm dưới 5 với 28,7% và tổng điểm từ 10-14 với 21,3% (Biểu đồ 3.2). 26

3.2.2. Triệu chứng trầm cảm trong khi mang thai Dựa theo Bảng Phân loại bệnh tật quốc tế lần thứ 10 (ICD 10), các triệu

chứng trầm cảm ở thai phụ đã được phân loại và mô tả chi tiết như sau:

Bảng 3.5: Các triệu chứng trầm cảm

Các triệu chứng Tỷ lệ (%) Số lượng (n=282)

Cảm thấy như bị chậm lại:

Triệu chứng cơ thể 14 42 109 117 5,0 14,9 38,6 41,5  Hầu như mọi lúc  Nhiều thời điểm  Đôi khi  Hầu như không có

Cảm thấy căng thẳng, tổn thương:

1 8 98 175 0,4 2,8 34,7 62,1  Hầu như mọi lúc  Nhiều thời điểm  Đôi khi  Hầu như không có

Cảm giác lo lắng:

 Thường xuyên  Nhiều lúc  Thỉnh thoảng nhưng không thường

12 31 108 131 4,3 11,0 38,3 46,4 xuyên  Chỉ đôi khi Khí sắc trầm

Cảm giác hoảng sợ, bồn chồn:

182 92 6 2 64,5 32,6 2,1 0,7  Hầu như không  Thỉnh thoảng  Khá thường xuyên  Thường xuyên

Bất chợt cảm thấy hoảng loạn:

1 8 57 216 0,4 2,8 20,2 76,6  Rất thường xuyên  Khá thường xuyên  Không quá thường xuyên  Hầu như không

27

Các triệu chứng Tỷ lệ (%) Số lượng (n=282)

Mức độ thích những điều đã từng thích:

158 85 23 16 56,0 30,1 8,2 5,7  Vẫn nhiều như vậy  Không còn nhiều như vậy  Chỉ còn 1 ít  Dường như không còn

Tần suất có thể cười và thấy những điều hài hước xung quanh:

 Nhiều như tôi có thể  Bây giờ thì không nhiều lắm  Hiển nhiên là không nhiều  Hầu như không

Tần suất cảm thấy vui tươi:

212 58 6 6 1 28 91 162 75,2 20,6 2,1 2,1 0,4 9,9 32,3 57,4  Hầu như không  Không thường xuyên  Đôi khi  Hầu như mọi lúc

Giảm quan tâm, thích thú Không còn hứng thú quan tâm đến ngoại hình:

 Chắc chắn  Tôi không chăm sóc nhiều như đã từng  Tôi có thể chăm sóc ngoại hình như đã từng 53 125 39 65 18,8 44,3 13,8 23,1  Tôi vẫn luôn chăm sóc ngoại hình như bình thường Tần suất có thể ngồi tĩnh lặng và thư giãn:

 Chắc chắn/luôn luôn  Thường xuyên  Không thường xuyên  Không bao giờ 57 110 97 18 20,2 39,0 34,4 6,4

Nhận xét: Từ bảng trên cho thấy, các yếu tố đặc trưng của TCTS ở nhóm đối tượng nghiên cứu là khó tĩnh lặng và thư giãn (40,8%), cảm giác bị chậm lại (19,9%), không còn hứng thú quan tâm đến ngoại hình (18,8%) và có cảm giác lo lắng (15,3%).

28

3.3. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh

3.3.1. Mối liên quan giữa yếu tố cá nhân của thai phụ và trầm cảm trước sinh:

Bảng 3.6: Mối liên quan giữa đặc điểm cá nhân của thai phụ và trầm cảm trong khi mang thai

Trầm cảm

Yếu tố OR p*

Có n (%) Không n (%)

0,409

36 (26,3) 32 (22,1) 101 (73,7) 113 (77,9) 1,3 1 Tuổi của thai phụ < 30 tuổi ≥ 30 tuổi

Nghề nghiệp 0,886

10 (23,3) 58 (24,3) 33 (76,7) 181 (75,7) 1 1,1 Lao động chân tay Lao động trí óc

Trình độ học vấn

0,304 11 (19,0) 47 (81,0) 1 - Trung học phổ thông trở xuống

57 (25,5) 167 (74,5) 1,5

- Cao đẳng/trung cấp trở lên

Mức độ hài lòng với cuộc sống 0,001

23 (41,1) 45 (54,5) 33 (58,9) 181 (80,1) 2,8 1 ≤ 7 điểm > 7 điểm

Đang mắc bệnh 0,322

10 (18,9) 58 (25,3) 43 (81,1) 171 (74,7) 1 1,5 Có Không

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy, mức độ hài lòng với cuộc sống của thai phụ có liên quan đến TCTS. Tỷ số chênh về nguy cơ trầm cảm ở những

29

thai phụ có mức độ hài lòng với cuộc sống dưới 8 điểm so với những thai phụ cho điểm từ 8 trở lên là 2,8 lần.

Bên cạnh đó, những thai phụ có độ tuổi dưới 30 có tỷ số chênh về nguy cơ TCTS gấp 1,3 lần những thai phụ trên 30 tuổi; những thai phụ có trình độ học vấn từ trung cấp/cao đẳng trở lên có tỷ số chênh gấp 1,5 lần những thai phụ

còn lại về nguy cơ TCTS. Tuy nhiên, các yếu tố như độ tuổi, nghề nghiệp, trình độ học vấn của thai phụ và hiện tại thai phụ đang mắc bệnh đều không có ý nghĩa thống kê do p > 0,05; do đó các yếu tố này không liên quan đến TCTS.

3.3.2. Mối liên quan giữa đặc điểm, hành vi của người chồng với trầm cảm trước sinh ở thai phụ:

Bảng 3.7: Mối liên quan giữa đặc điểm của người chồng và trầm cảm ở phụ nữ trong khi mang thai

Trầm cảm

Yếu tố OR p*

Có n (%) Không n (%)

0,031

42 (29,6) 26 (18,6) 100 (70,4) 114 (81,4) 1,8 1 Tuổi của chồng < 33 tuổi ≥ 33tuổi

Nghề nghiệp

0,111

10 (16,4) 58 (26,2) 51 (83,6) 163 (73,8) 1 1,8 Lao động chân tay Lao động trí óc

Trình độ học vấn

0,705

15 (22,4) 53 (24,6) 52 (77,6) 162 (75,4)

1 1,1 - Trung học phổ thông trở xuống - Cao đẳng/trung cấp trở lên

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy, yếu tố liên quan giữa chồng/người yêu và TCTS là độ tuổi của chồng/người yêu thai phụ. Tỷ số chênh về nguy cơ TCTS giữa nhóm đối tượng nghiên cứu có chồng dưới 33 tuổi so với nhóm đối 30

tượng còn lại là 1,8 lần. Những thai phụ có chồng lao động trí óc có tỷ số chênh về nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,8 lần so với nhóm đối tượng khác, tuy nhiên yếu tố này không có ý nghĩa thống kê. Trình độ học vấn của chồng/người yêu thai phụ có chỉ số p lớn hơn 0,05 do đó không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 3.8: Mối liên quan giữa hành vi của người chồng và trầm cảm ở phụ nữ trong khi mang thai

Trầm cảm

Yếu tố OR p*

Có n (%) Không n (%)

Chồng đáp ứng nhu cầu 0,204

15 (31,3) 53 (22,7) 33 (68,7) 181 (77,3) Trung bình Tốt 1,6 1

Mức độ so với kỳ vọng ban đầu của thai phụ 0,000

Kém/Trung bình Tốt 37 (37,0) 31 (17,0) 63 (63,0) 151 (83,0) 2,8 1

Tần suất phát sinh vấn đề 0,034 1

Rất ít Trung bình/Rất nhiều 40 (20,5) 28 (32,2) 155 (79,5) 59 (67,8) 1,8

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy, các yếu tố liên quan gồm tần suất phát sinh vấn đề và mức độ so với kỳ vọng ban đầu của thai phụ. Tỷ số chênh giữa nhóm đối tượng có mối quan hệ phát sinh nhiều vấn đề so với nhóm đối tượng còn lại về nguy cơ TCTS là gấp 1,8 lần. Tỷ số chênh giữa nhóm thai phụ có mối quan hệ đạt kỳ vọng ở mức trung bình/kém so với thai phụ khác là gấp 2,8 lần. Bên cạnh đó, nhóm thai phụ có chồng/người yêu đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống ở mức trung bình có nguy cơ TCTS gấp 1,6 lần những thai phụ khác, tuy nhiên yếu tố này không có ý nghĩa thống kê do chỉ số p thu được lớn hơn 0,05.

31

3.3.3. Mối liên quan giữa gia đình và trầm cảm trước sinh ở thai phụ

Bảng 3.9: Mối liên quan giữa gia đình và trầm cảm ở phụ nữ

trong thời kỳ mang thai

Trầm cảm

Yếu tố OR p*

Có n (%) Không n (%)

0,389

17 (28,3) 51 (23,0) 43 (71,7) 171 (77,0) Số người chung sống trong 6 tháng ≤ 2 người > 2 người 1,3 1

0,447

47 (22,9) 21 (27,3) 158 (77,1) 56 (71,7) Nơi sinh sống Thành thị Nông thôn 1 1,3

0,679

Mức độ được quan tâm, giúp đỡ từ gia đình Thường xuyên Thi thoảng Hiếm khi/Không bao giờ 55 (24,7) 10 (25,0) 3 (15,8) 168 (75,3) 30 (75,0) 16 (84,2) 1,7 1,7 1

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy cả ba yếu tố là số người chung

sống trong gia đình, nơi sinh sống của thai phụ và thai phụ nhận được sự quan tâm, giúp đỡ từ gia đình đều không có ý nghĩa thống kê do chỉ số p đều lớn hơn 0,05. Tỷ số chênh về nguy cơ trầm cảm trước sinh giữa nhóm thai phụ thường xuyên và thi thoảng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ so với nhóm thai phụ hiếm khi/thi thoảng nhận được quan tâm từ gia đình là gấp 1,7 lần. Hai yếu tố số

người chung sống trong 6 tháng dưới 2 người và nơi sinh sống nông thôn đều có tỷ số chênh về nguy cơ TCTS so với nhóm đối tượng khác không đáng kể là 1,3 lần.

32

3.3.4. Mối liên quan giữa đặc điểm thai sản và trầm cảm trước sinh

Bảng 3.10: Mối liên quan giữa đặc điểm thai sản và trầm cảm ở

phụ nữ trong thời kỳ mang thai

Trầm cảm Yếu tố OR p*

Có n (%) Không n (%)

Số con

0,370

36 (27,9) 29 (20,6) 3 (25,0) 93 (72,1) 112 (79,4) 9 (75,0) 1,5 1 1,3 0 con 1-2 con > 2 con

Số lần xảy thai, thai lưu 0,141

57 (26,2) 11 (17,2) 161 (73,8) 53 (82,8) 1,7 1 0 lần ≥ 1 lần

Mang thai lần này 0,337

5 (35,7) 63 (23,5) 9 (64,3) 205 (76,5) 1,8 1 Không mong muốn Mong muốn

Lần mang thai này có theo kế hoạch 0,258

29 (27,9) 39 (21,9) 75 (72,1) 139 (78,1) 1,4 1 Có Không

Vấn đề bất thường trong lần mang thai này 0,049

23 (32,9) 45 (21,2) 47 (67,1) 167 (78,8) 1,8 1 Có Không

Nhận xét: Kết quả phân tích cho thấy, các vấn đề bất thường trong khi mang thai (dọa xảy thai, ra máu kéo dài, …) có liên quan đến trầm cảm trước sinh với tỷ số chênh giữa nhóm đối tượng gặp vấn đề bất thường so với nhóm đối tượng còn lại là 1,8 lần. Các yếu tố đặc điểm thai sản khác như số con, số

lần xảy thai/thai lưu, mức độ mong muốn có con hay lần mang thai này theo kế hoạch hay không không có ý nghĩa thống kê do có chỉ số p lớn hơn 0,05.

33

CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN

4.1. Tỷ lệ trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai

Trong nghiên cứu này, với tổng số 282 thai phụ tham gia nghiên cứu có 68 thai phụ có biểu hiệnmắc trầm cảm trước sinh, chiếm tỷ lệ 24,1%. Tỷ lệ này nằm trong khoảng dao động từ 15% đến 65% theo nghiên cứu của Dadi năm 2020 [3] và trong khoảng từ 5% đến 25% được công bố bởi nhóm nghiên cứu của Mai Thị Huệ năm 2020 [6].

Tuy nhiên, khi so sánh với một số nghiên cứu trên thế giới (Bảng 4) có thể thấy tỷ lệ trầm cảm trước sinh nghiên cứu này thu được có sự chênh lệch so với tỷ lệ trên thế giới đã công bố. Ngoài ra, tỷ lệ trầm cảm mà nghiên cứu thu được cũng cao hơn một tổng hợp từ 173 nghiên cứu và 182 bài báo của tác giả Yin X công bố vào năm 2021 là 20,7% [11]. Sở dĩ có sự chênh lệch trên là do mỗi nghiên cứu thực hiện tại những khu vực có nền văn hóa khác nhau, thời điểm đo trầm cảm khác nhau. Một vài nghiên cứu sử dụng các thang đo trầm cảm khác như thang đo trầm cảm BDI, HAMD và Zung-SDS. Mặt khác, các nghiên cứu cùng sử dụng thang đo trầm cảm EPDS nhưng chọn điểm cắt khác nhau (Bảng 1.2), đối tượng nghiên cứu khác nhau (đối tượng là các thai phụ tới khám tại bệnh viện, trong một khu dân cư hoặc các thai phụ mang thai ở thời điểm nhất định) cũng ảnh hưởng tới sự chênh lệch tỷ lệ kể trên.

Bảng 4: Tỷ lệ thai phụ có biểu hiện trầm cảm trước sinh trên thế giới

Tác giả Địa điểm Năm Tỷ lệ TC

Nisar A [54] Trung Quốc 2020 19,7%

Ayano G [55] Ethiopia 2019 21,3%

Habtamu Belete A [56] Aneded wearda 2019 15,2%

Jairaj C[32] 2019 15,8% Ireland

Cena L [26] 2021 6,4% Italy

Srinivasan N [28] 2015 65% Ấn Độ

Lebel C [35] 2020 37% Canada

NC của chúng tôi Bệnh viện Phụ sản Hà Nội 2021 24,1%

34

Tại Việt Nam, tỷ lệ của nghiên cứu này thu được thấp hơn kết quả nghiên cứu của tác giả Đàm Như Bình (2021) và Trần Thị Trúc Phương (2021) với tỷ lệ lần lượt là 27,1% và 28,7% [4,22]. Nghiên cứu Đàm Như Bình có một số điểm tương đồng khi sử dụng thiết kế nghiên cứu cắt ngang và thang đo trầm cảm EPDS với điểm cắt tại 10 điểm [22]. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu của Đàm Như Bình hướng tới đối tượng là những thai phụ ở 3 tháng cuối thai kì, đây có thể là nguyên nhân của sự chênh lệch tỷ lệ trên do những thai phụ ở thời điểm này rất dễ lo lắng, suy nghĩ về quá trình sinh đẻ cũng như những mối lo trong việc chăm con sau sinh.

Trong nghiên cứu của nhóm tác giả Trần Thị Trúc Phương tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2021, có sự tương đồng với nghiên cứu này khi cùng sử dụng thang đo EPDS làm công cụ [4]. Tuy nhiên Trần Thị Trúc Phương và cộng sự lựa chọn điểm cắt tại 13 điểm để phân loại TCTS. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng hướng tới đối tượng là các thai phụ ở 3 tháng cuối thai kỳ, đây là điểm tương đồng với nghiên cứu của Đàm Như Bình. Một số nguyên nhân khác có thể kể đến cho sự chênh lệch tỷ lệ trên là do vị trí địa lí, văn hóa và nền kinh tế khu vực. Ngoài ra, nghiên cứu của cả hai nhóm tác giả trên cùng thực hiện vào thời gian từ tháng 1 đến tháng 5/2021, đây là thời điểm đại dịch Covid-19 bùng phát đợt 3 tại Việt Nam. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế và sức khỏe của mỗi gia đình, làm tăng nỗi lo và gia tăng tỷ lệ trầm cảm.

Tuy nhiên, tại Việt Nam có hai nghiên cứu về tỷ lệ thai phụ có biểu hiện trầm cảm trước sinh ở thai phụ có kết quả tương đồng với nghiên cứu, lần lượt

là nghiên cứu của Mai Thị Huệ năm 2020 với 24,5%[8] và nghiên cứu của Phạm Thị Thu Phương năm 2021 với 24,0% [57]. Nghiên cứu của Mai Thị Huệ và các cộng sự có khá nhiều điểm tương đồng khi thực hiện tại Việt Nam, hướng tới đối tượng là những thai phụ ở tất cả các tuần thai sử dụng dịch vụ tại các bệnh viện sản và cùng sử dụng thang đo EPDS với điểm cắt tại 10 điểm làm

công cụ sàng lọc trầm cảm trước sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu của Mai Thị Huệ vẫn có một số điểm khác biệt như quy mô, thời gian và mô hình thực hiện nghiên cứu, đây có thể là nguyên nhân cho sự chênh lệch tỷ lệ không đáng kể này cũng như sự khác biệt trong một số yếu tố liên quan.

35

4.2. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh ở thai phụ

4.2.1. Yếu tố cá nhân của thai phụ

Kết quả thu được cho thấy, độ tuổi của thai phụ không liên quan đến TCTS. Kết quả này trái ngược với công bố mà nghiên cứu của Trần Thị Trúc Phương tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương khi khẳng định rằng thai phụ thuộc nhóm tuổi >25 tuổi tăng nguy cơ TCTS gấp 3,9 lần [4]. Một nghiên cứu khác tại Việt Nam của nhóm tác giả Đàm Như Bình cũng chỉ ra nhóm tuổi mẹ từ 25- 34 có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ trầm cảm trong thai kỳ, so với nhóm ≥35 tuổi thì nhóm 25-34 tuổi tăng nguy cơ TCTS lên 4,2 lần [8]. Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng yếu tố tuổi mẹ có liên quan đến TCTS [12,23]. Sở dĩ trong nghiên cứu này, độ tuổi của thai phụ không có ý nghĩa thống kê do độ tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 30 tuổi, trong đó số thai phụ có ít nhất 1 con chiếm phần lớn và có 63,1% thai phụ mang thai theo kế hoạch. Điều này cho thấy hầu hết các thai phụ đã có kinh nghiệm từ trước và chuẩn bị đầy đủ về mặt tâm sinh lý để chào đón thành viên mới trong gia đình.

Một yếu tố khác trong nghiên cứu là nghề nghiệp của thai phụ cũng không có ý nghĩa thống kê, do đó yếu tố này không liên quan tới TCTS ở thai phụ. Một nghiên cứu năm 2019 tại Trung Quốc đã chỉ ra những thai phụ có công việc toàn thời gian có khả năng bị trầm cảm thấp hơn (OR=0,608) [23]. Điều này trái ngược với kết quả mà nghiên cứu thu được. Nguyên nhân có thể kể đến do hầu hết các đối tượng nghiên cứu là lao động trí óc (222 người, chiếm tỷ lệ 78,4%). Đây đều là những công việc ổn định, thu nhập khá cao và có chế độ thai sản hợp lí, do đó giảm nỗi lo về kinh tế gia đình trong khi mang thai và sau sinh.

Kết quả thu được cũng cho thấy rằng trình độ học vấn ở thai phụ không liên quan tới TCTS. Tuy nhiên kết quả này trái ngược với công bố của Mai Thị Huệ năm 2020 khi chỉ ra rằng những phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn có nguy cơ TCTS cao hơn [6]. Đây cũng là điều mà Ying Hu và cộng sự công bố năm 2019 khi khẳng định trình độ học vấn có liên quan đến TCTS [23].

36

Những thai phụ cho điểm hài lòng với cuộc sống ở mức dưới 7 điểm thì có nguy cơ trầm cảm cao hơn gấp 2,8 lần những thai phụ cho điểm từ 7 trở lên. Trong nghiên cứu, những thai phụ cho số điểm dưới 7 thường gặp vấn đề trong mối quan hệ với chồng/người yêu, không nhận được sự quan tâm từ gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và nghề nghiệp, sức khỏe của bản thân. Một nghiên cứu năm 2015 của Srinivasan và cộng sự trên nhóm phụ nữ mang thai tại vùng nông thôn Chennai cũng thu được kết quả tương tự khi chỉ ra rằng điểm trung bình về mức độ hài lòng trong cuộc sống của thai phụ ở phụ nữ bị trầm cảm thấp hơn đáng kể so với những phụ nữ không bị trầm cảm trước sinh [28].

4.2.2. Yếu tố cá nhân của chồng/người yêu thai phụ

Kết quả nghiên cứu cho thấy, những thai phụ có chồng/người yêu dưới 33 tuổi có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,8 lần những thai phụ khác. Điều đáng lo ngại là có ½ đối tượng nghiên cứu có chồng/người yêu dưới 33 tuổi. Trong số 68 thai phụ mắc trầm cảm trước sinh, số thai phụ có chồng dưới 33 tuổi gần gấp 2 số thai phụ có chồng/người yêu trên 33 tuổi.

Hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào chỉ ra độ tuổi của chồng/người yêu thai phụ có liên quan tới trầm cảm trước sinh. Tuy nhiên trong nghiên cứu này, độ tuổi của chồng/người yêu thai phụ cũng là một trong những yếu tố liên quan dẫn tới tình trạng TCTS ở thai phụ. Nguyên nhân có thể kể đến là do những người chồng dưới 33 tuổi hầu như vẫn chưa chín chắn và thực sự tâm lý để

quan tâm về mặt cảm xúc của vợ mình, đặc biệt trong thời kỳ nhạy cảm khi mang thai. Những người đàn ông ở độ tuổi này đều tập trung phần lớn thời gian vào công việc, ít thời gian quan tâm bạn đời. Bên cạnh đó ở độ tuổi này kinh tế chưa vững cũng là một nguyên nhân khiến phụ nữ trầm cảm bởi quá trình mang thai, sinh đẻ và nuôi dạy em bé cần số tiền lớn để chi trả nhiều mặt.

Ngoài ra, trong nghiên cứu này cũng đã chỉ ra nghề nghiệp và trình độ học vấn của chồng/người yêu thai phụ không liên quan đến tỷ lệ TCTS. Nguyên nhân có thể kể đến bởi hầu hết các thai phụ có công việc ổn định, chế độ thai sản phù hợp do đó không phụ thuộc nhiều vào kinh tế của chồng/người yêu, giảm nỗi lo về kinh tế gia đình trong quá trình mang thai.

37

4.2.3. Mối quan hệ với chồng/người yêu của thai phụ

Kết quả nghiên cứu cho thấy, hơn 1/3 thai phụ cảm thấy mối quan hệ hiện tại không đạt kỳ vọng ban đầu của bản thân. Điều này ảnh hưởng không ít đến tâm sinh lý của thai phụ khi thực tế cho thấy, tỷ lệ trầm cảm ở những đối tượng này cao gấp 2,8 lần so với các đối tượng còn lại.

Nghiên cứu thu được kết quả có gần 1/3 số thai phụ đang trong mối quan hệ có tần suất gặp vấn đề trung bình tới thường xuyên. Những thai phụ trong mối quan hệ gặp nhiều vấn đề có nguy cơ trầm cảm cao hơn gấp 1,8 lần. Kết quả này tương đồng với một phân tích năm 2018 về dữ liệu phổ biến từ năm 2000-2018 trên 161 quốc gia và khu vực, do WHO thay mặt cho nhóm công tác Liên ngành của Liên hợp quốc về bạo lực đối với phụ nữ thực hiện, cho thấy gần 1/3 hoặc 30% phụ nữ trên toàn thế giới đã bị bạo lực thể chất và/hoặc tình dục. Theo phân tích của WHO năm 2013 cũng đã chỉ ra rằng phụ nữ từng bị bạo lực do bạn tình có nguy cơ bị trầm cảm cao gấp đôi [58]. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng những thai phụ trong mối quan hệ hôn nhân không thuận lợi có liên quan tới trầm cảm trước sinh ở phụ nữ mang thai [29,59,60].

Tại Việt Nam, nghiên cứu của Đàm Như Bình và cộng sự năm 2021 cũng đã chỉ ra nhóm thai phụ thỉnh thoảng mâu thuẫn với chồng tăng tỷ lệ trầm cảm lên tới 3,97 lần [22]. Ngoài ra, nghiên cứu của Trần Thị Trúc Phương năm 2021 cũng đã chỉ ra các xung đột trong mối quan hệ sẽ làm tăng nguy cơ TCTS gấp 8,5 lần [4]. Điều này tương đồng với kết quả nghiên cứu đã đạt được khi lần nữa khẳng định mối liên quan chặt chẽ giữa những xung đột trong mối quan hệ và tỷ lệ trầm cảm trước sinh.

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, phụ nữ nhấn mạnh đến các hành vi như: họ cảm thấy bị bỏ qua, bị từ chối hỗ trợ và bị kiểm soát bởi chồng/ người yêu. Các nghiên cứu về bạo lực gia đình tại Việt Nam đã ghi nhận về tình trạng căng thẳng trong hôn nhân, trong đó người chồng sử dụng và duy trì quyền lực của nam giới để kiểm soát vợ mình thông qua các hành vi bạo lực thể xác/tinh thần mà bỏ qua các nhu cầu của vợ [61].

38

4.2.4. Đặc điểm gia đình của thai phụ

Kết quả thu được cho thấy, yếu tố nơi sinh sống của gia đình không ảnh hưởng tới tỷ lệ TCTS ở thai phụ. Tỷ số chênh về nguy cơ TCTS giữa nhóm thai phụ sống ở nông thôn so với nhóm thai phụ sống ở thành phố là gấp 1,3 lần. Tuy nhiên kết quả này trái ngược so với kết quả nghiên cứu của Mai Thị Huệ

khi khẳng định sống ở nông thôn có nguy cơ bị TCTS thấp hơn [6]. Một nghiên cứu trước đây của Habtamu Belete A và cộng sự cũng phát hiện ra rằng phụ nữ thành thị bị TCTS cao hơn gấp 7 lần so với những người khác [56]. Nguyên nhân có thể kể đến là do một số vùng nông thôn tại Việt Nam vẫn còn chênh lệch về sự yêu thích giới tính thai nhi, tạo áp lực về cả tinh thần lẫn kinh tế khiến thai phụ lo lắng hơn cả trong quá trình mang thai. Bên cạnh đó, các thai phụ trong nghiên này hầu hết sống ở thành thị và có trình độ học vấn trung cấp/cao đẳng trở lên, do đó sẽ giảm nỗi lo kinh tế cũng như có thể chuẩn bị tốt hơn cho quá trình mang thai.

Có thể thấy, mức độ được quan tâm chăm sóc từ gia đình, bạn bè và mọi người không liên quan đến TCTS ở thai phụ. Tuy nhiên nghiên cứu của Trần Thị Trúc Phương tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương năm 2021 thu được kết quả

ngược lại khi công bố rằng thiếu người tâm sự làm tăng nguy cơ TCTS gấp 2,7 lần [4]. Theo nghiên cứu khác của Đàm Như Bình đã chỉ ra, việc thai phụ ít được gia đình quan tâm có liên quan đến TCTS (OR=4,29) [8]. Nguyên nhân có thể kể đến do nhóm đối tượng trong nghiên cứu này có độ tuổi trung bình là 30, có công việc ổn định và học vấn cao, do đó hầu hết đã chuẩn bị đầy đủ về

mặt tâm sinh lý trong quá trình mang thai và nuôi con.

4.2.5. Đặc điểm thai sản

Kết quả nghiên cứu thu được, yếu tố đã từng sảy thai/thai chết lưu không liên quan đến TCTS ở thai phụ. Điều này trái ngược với kết quả Biaggi A và các cộng sự công bố năm 2016 khi chỉ ra các biến chứng thai kỳ trong quá khứ và sảy thai có liên quan đến TCTS [43].

Bên cạnh đó, số con trong gia đình không liên quan đến TCTS ở thai phụ. Tỷ số chênh về nguy cơ TCTS giữa nhóm chưa có con và nhóm thai phụ có 3 con trở lên so với nhóm thai phụ có từ 1-2 con lần lượt gấp 1,5 và 1,3 lần.

39

Nguyên nhân cho sự chênh lệch trên là do những thai phụ chưa có con sẽ lo lắng hơn trong quá trình sinh đẻ và cách nuôi dạy con sau sinh, trong khi đó những thai phụ đã có 2 con sẽ lo lắng hơn về mặt kinh tế khi nuôi dạy các con, do đó tăng nguy cơ TCTS ở thai phụ.

Trong nghiên cứu này, yếu tố mang thai theo kế hoạch không liên quan

đến tỷ lệ TCTS ở thai phụ. Điều này trái ngược với kết quả mà Đàm Như Bình thu được khi khẳng định mang thai ngoài ý muốn có liên quan đến TCTS, cụ thể những bà mẹ mang thai ngoài ý muốn có nguy cơ bị trầm cảm trong ba tháng cuối cao gấp 2,62 lần những bà mẹ mang thai có chủ đích [8]. Ngoài ra, nghiên cứu của Bereket Duko năm 2019 [12] và Beyene GM [13] năm 2021 cũng đã khẳng định rằng mang thai ngoài ý muốn có liên quan đến trầm cảm trước sinh với tỷ số chênh lần lượt là OR=7,12 và OR=2,99.

Nghiên cứu này thu được kết quả với những thai phụ có gặp vấn đề bất thường trong lần mang thai này như dọa xảy, ra máu kéo dài, dư/thiếu ối, … có nguy cơ trầm cảm cao gấp 1,8 lần so vỡi những thai phụ khác. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của nhóm tác giả Cindy Shiqi Zhu và các cộng sự năm 2018 khi kết luận rằng tỷ lệ phụ nữ có dấu hiệu trầm cảm và lo lắng ở

nhóm phụ nữ dọa sảy thai cao hơn đáng kể so với những phụ nữ có thai ổn định (trầm cảm: 33% so với không trầm cảm: 17%) và gấp 2,7 lần [31]. Nghiên cứu của Dadi và cộng sự năm 2020 cũng đã chứng minh điều này khi chỉ ra rằng những thai phụ có tiền sử sản khoa xấu có nguy cơ mắc trầm cảm trước sinh cao hơn gấp 2,3 lần [62]. Một nghiên cứu năm 2019 cũng cho thấy sự tương

đồng khi chỉ ra việc gặp tai biến sản khoa làm tăng nguy cơ trầm cảm trước sinh ở thai phụ [63]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Mai Thị Huệ năm 2020 và nghiên cứu của Đàm Như Bình năm 2021 cũng đã chỉ ra rằng những phụ nữ có bất thường về thai nhi có nguy cơ bị trầm cảm trước sinh cao hơn [8,22]. Cụ thể Mai Thị Huệ đã đưa ra kết quả rằng những thai phụ có dấu hiệu bất thường

trong khi mang thai có nguy cơ trầm cảm trước sinh cao hơn gấp 2 lần. Điều này gần như tương đồng với kết quả mà nghiên cứu mà tôi thu thập được. Những cảm xúc như lo lắng, đau khổ có thể tăng lên khi thai phụ lo lắng về tương lai, sức khỏe của đứa trẻ và cảm giác tội lỗi sẽ làm tăng nguy cơ trầm cảm trước sinh.

40

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu trên 282 thai phụ tới khám và sử dụng dịch vụ tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội thời gian từ tháng 8/2021 đến tháng 11/2021, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

Thực trạng trầm cảm trước sinh của phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Phụ

1. sản Hà Nội năm 2021:

- Trầm cảmThai phụ có biểu hiện trầm cảm trong thời kỳ mang thai chiếm

tỷ lệ 24,1%.

- Độ tuổi trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu là 30,3 ± 4,88. Trong tổng số 282 thai phụ, các thai phụ có trình độ học vấn từ trung cấp/cao đẳng trở lên gồm 224 người, chiếm tỷ lệ 79,4%. Có sự chênh lệch rõ rệt giữa nhóm thai phụ lao động trí óc (84,7%) và nhóm thai phụ lao động chân tay (15,3%).

- Một số triệu chứng trầm cảm chính ở đối tượng nghiên cứu là: khó tĩnh lặng và thư giãn (40,8%), cảm giác bị chậm lại (19,9%), không còn hứng thú quan tâm đến ngoại hình (18,8%) và có cảm giác lo lắng (15,3%). 2. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm trước sinh của phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội năm 2021

- Mức độ hài lòng với cuộc sống của thai phụ (OR=2,8; p=0,001). - Độ tuổi của chồng/người yêu (OR=1,8; p=0,031). - Tần suất phát sinh vấn đề với chồng/người yêu (OR=1,8; p=0,034). - Mối quan hệ chỉ đáp ứng kỳ vọng ban đầu ở mức trung bình/kém

(OR=2,8; p=0,0002).

- Trong lần mang thai này có xảy ra vấn đề bất thường dọa xảy thai, ra

máu kéo dài, dư/thiếu ối, … (OR=1,8; p=0,049).

41

KIẾN NGHỊ

Trước tình hình số lượng thai phụ trầm cảm trong quá trình mang thai

cao như hiện nay, tôi đưa ra một số đề xuất:

- Mỗi bệnh viện, cơ sở y tế các tuyến cần quan tâm nhiều hơn trong việc sàng lọc trầm cảm trước sinh để có thể phát hiện và điều trị kịp thời. Bên cạnh đó có thể thiết lập tổ tư vấn tâm lý, tâm lý lâm sàng trong các khoa, phòng công tác xã hội trong các bệnh viện để giúp phụ nữ có thể tiếp cận về tư vấn và sàng lọc trầm cảm một cách dễ dàng. - Nên có thiết kế nghiên cứu theo dõi dọc để đánh giá được chính xác hơn các yếu tố nguy cơ về trầm cảm trước sinh. Ngoài ra cần mở rộng nghiên cứu về nhận thức, thái độ và các hành vi của nam giới về vấn đề trầm cảm ở phụ nữ mang thai.

42

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Biomed Study. 2019; Res Int. Tho Nhi T, Hanh NTT, Hinh ND và cộng sự. Intimate Partner Violence 1. among Pregnant Women and Postpartum Depression in Vietnam: A Longitudinal 2019:4717485. doi:10.1155/2019/4717485

Organization WH. Depression and other common mental disorders: 2. global health estimates. 2017. https://apps.who.int/iris/handle/10665/254610

Dadi AF, Miller ER, Bisetegn TA và cộng sự. Global burden of antenatal 3. depression and its association with adverse birth outcomes: an umbrella review. BMC Public Health. 2020; 20(1):173. doi:10.1186/s12889-020-8293-9

4. Trần Thị Trúc Phương, Hồng TMX. Khảo sát tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan trên phụ nữ mang thai ở 3 tháng cuối thai kỳ tại Bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Tạp chí Y học Việt Nam. 2021; 504(2)

5. Accortt EE, Cheadle AC, Dunkel Schetter C. Prenatal depression and adverse birth outcomes: an updated systematic review. Matern Child Health J. 2015; 19(6):1306-37. doi:10.1007/s10995-014-1637-2

6. Beyene GM, Azale T, Gelaye KA và cộng sự. Depression remains a neglected public health problem among pregnant women in Northwest Ethiopia. Arch Public Health. 2021; 79(1):132. doi:10.1186/s13690-021- 00649-6

7. Alvarado-Esquivel C, Sifuentes-Alvarez A, Salas-Martinez C. Depression in teenager pregnant women in a public hospital in a northern mexican city: prevalence and correlates. J Clin Med Res. 2015; 7(7):525-33. doi:10.14740/jocmr2156w

Hue MT, Nguyet Van NH, Nha PP và cộng sự. Factors associated with 8. antenatal depression among pregnant women in Vietnam: A multisite cross- sectional survey. Health Psychol Open. 2020; 7(1):2055102920914076. doi:10.1177/2055102920914076

Nhị TT. Thực trạng trầm cảm và hành vi tìm kiếm hỗ trợ ở phụ nữ mang 9. thai, sau sinh tại huyện Đông Anh, Hà Nội. Luận án tiến sĩ Y tế công cộng. Trường đại học Y Hà Nội; 2018.

10. Luong-Thanh BY, Nguyen LH, Murray L và cộng sự. Depression and its associated factors among pregnant women in central Vietnam. Health Psychol Open. 2021; 8(1):2055102920988445. doi:10.1177/2055102920988445

11. Pasricha M, Kochhar S, Shah A và cộng sự. Sense of Coherence, Social Support, Maternal-Fetal Attachment, and Antenatal Mental Health: A Survey of Expecting Mothers in Urban India. Front Glob Womens Health. 2021; 2:714182. doi:10.3389/fgwh.2021.714182

12. Arora P, Aeri B. Burden of antenatal depression and its risk factors in Indian settings: A systematic review. Review Article. Indian Journal of Medical Specialities. 2019; 10(2):55-60. doi:10.4103/injms.Injms_36_18

13. Duko B, Ayano G, Bedaso A. Depression among pregnant women and associated factors in Hawassa city, Ethiopia: an institution-based cross- sectional study. Reprod Health. 2019; 16(1):25. doi:10.1186/s12978-019- 0685-x

giới TcYtT. “Rối loạn khí sắc”, Phân loại bệnh Quốc Tế Lần thứ 10 về 14. các Rối loạn Tâm thần và Hành vi, Mô tả lâm sàng và nguyên tắc chỉ đạo chẩn đoán. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 1992.

15. Nguyễn Viết Thiêm, Bưởi LT. “Rối loạn cảm xúc”, Bệnh học Tâm thần Phần Nội sinh, Tập bài giảng Sau Đại học. Trường Đại học Y Hà Nội. 2001.

16. Chao RCL, Manita J. DSM‐IV‐TR: Diagnostic and Statistical

Manual of Mental Disorders. The Encyclopedia of Cross‐Cultural Psychology. 2013; 1:445-447.

17. Kroenke K, Spitzer RL, Williams JB. The PHQ-9: validity of a brief depression severity measure. J Gen Intern Med. 2001; 16(9):606-13. doi:10.1046/j.1525-1497.2001.016009606.x

18. Sarıçam H. The psychometric properties of Turkish version of Depression Anxiety Stress Scale-21 (DASS-21) in health control and clinical samples. 2018;

19. Parkitny L, McAuley J. The depression anxiety stress scale (DASS). J Physiother. 2010; 56(3):204.

20. Cox JL, Holden JM, Sagovsky R. Detection of postnatal depression. Development of the 10-item Edinburgh Postnatal Depression Scale. Br J Psychiatry. 1987; 150:782-6. doi:10.1192/bjp.150.6.782

21. Levis B, Negeri Z, Sun Y và cộng sự. Accuracy of the Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS) for screening to detect major depression among pregnant and postpartum women: systematic review and meta-analysis of individual participant data. Bmj. 2020; 371:m4022. doi:10.1136/bmj.m4022

22. Đàm Như Bình, Trung NH. Tỷ lệ trầm cảm trong ba tháng cuối thai kỳ và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Phụ sản TP. Cần Thơ. Y Học TP Hồ Chí Minh 2021; 25(1)

23. Shakeel N, Eberhard-Gran M, Sletner L và cộng sự. A prospective cohort study of depression in pregnancy, prevalence and risk factors in a multi-ethnic population. BMC Pregnancy Childbirth. 2015; 15:5. doi:10.1186/s12884-014- 0420-0

24. Hu Y, Wang Y, Wen S và cộng sự. Association between social and family support and antenatal depression: a hospital-based study in Chengdu, China. BMC Pregnancy Childbirth. 2019; 19(1):420. doi:10.1186/s12884-019- 2510-5

25. Dadi AF, Miller ER, Woodman R và cộng sự. Antenatal depression and its potential causal mechanisms among pregnant mothers in Gondar town: application of structural equation model. BMC pregnancy and childbirth. 2020; 20(1):168-168. doi:10.1186/s12884-020-02859-2

26. Cena L, Mirabella F, Palumbo G và cộng sự. Prevalence of maternal antenatal and postnatal depression and their association with sociodemographic and socioeconomic factors: A multicentre study in Italy. J Affect Disord. 2021; 279:217-221. doi:10.1016/j.jad.2020.09.136

27. Adeoye IA, Sogbesan A, Esan O. Prevalence, associated factors and perinatal outcomes of antepartum depression in Ibadan Nigeria. BMC Pregnancy Childbirth. 2022; 22(1):219. doi:10.1186/s12884-022-04549-7

chennai. Diagn 2015; Clin Res. J 28. Srinivasan N, Murthy S, Singh AK và cộng sự. Assessment of burden of depression during pregnancy among pregnant women residing in rural setting of 9(4):Lc08-12. doi:10.7860/jcdr/2015/12380.5850

29. Shidhaye P, Shidhaye R, Phalke V. Association of gender disadvantage factors and gender preference with antenatal depression in women: a cross- sectional study from rural Maharashtra. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol. 2017; 52(6):737-748. doi:10.1007/s00127-017-1380-2

30. Ogbo FA, Eastwood J, Hendry A và cộng sự. Determinants of antenatal depression and postnatal depression in Australia. BMC Psychiatry. 2018; 18(1):49. doi:10.1186/s12888-018-1598-x

31. Zhu CS, Tan TC, Chen HY và cộng sự. Threatened miscarriage and depressive and anxiety symptoms among women and partners in early

Journal of Affective Disorders. 2018; 237:1-9. pregnancy. doi:https://doi.org/10.1016/j.jad.2018.04.012

32. Jairaj C, Fitzsimons CM, McAuliffe FM và cộng sự. A population survey of prevalence rates of antenatal depression in the Irish obstetric services using the Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS). Arch Womens Ment Health. 2019; 22(3):349-355. doi:10.1007/s00737-018-0893-3

33. Sheeba B, Nath A, Metgud CS và cộng sự. Prenatal Depression and Its Associated Risk Factors Among Pregnant Women in Bangalore: A Hospital Based Prevalence Study. Frontiers in public health. 2019; 7:108-108. doi:10.3389/fpubh.2019.00108

34. Nasreen HE, Rahman JA, Rus RM và cộng sự. Prevalence and determinants of antepartum depressive and anxiety symptoms in expectant mothers and fathers: results from a perinatal psychiatric morbidity cohort study in the east and west coasts of Malaysia. BMC psychiatry. 2018; 18(1):195-195. doi:10.1186/s12888-018-1781-0

35. Lebel C, MacKinnon A, Bagshawe M và cộng sự. Elevated depression and anxiety symptoms among pregnant individuals during the COVID-19 pandemic. J Affect Disord. 2020; 277:5-13. doi:10.1016/j.jad.2020.07.126

36. Redinger S, Pearson RM, Houle B và cộng sự. Antenatal depression and anxiety across pregnancy in urban South Africa. J Affect Disord. 2020; 277:296-305. doi:10.1016/j.jad.2020.08.010

37. Kim Y, Bird A, Peterson E và cộng sự. Maternal Antenatal Depression and Early Childhood Sleep: Potential Pathways Through Infant Temperament. J Pediatr Psychol. 2020; 45(2):203-217. doi:10.1093/jpepsy/jsaa001

38. Tariq N, Naeem H, Tariq A và cộng sự. Maternal depression and its correlates: A longitudinal study. J Pak Med Assoc. 2021; 71(6):1618-1622. doi:10.47391/jpma.352

39. Barnett B, Matthey S, Gyaneshwar R. Screening for postnatal depression in women of non-English speaking background. Archives of women's Mental Health. 1999; 2(2):67-74.

40. Smith-Nielsen J, Matthey S, Lange T và cộng sự. Validation of the Edinburgh Postnatal Depression Scale against both DSM-5 and ICD-10 diagnostic criteria for depression. BMC Psychiatry. 2018; 18(1):393. doi:10.1186/s12888-018-1965-7

Psychiatry. properties. 1998; 41. Guedeney N, J F. Validation study of the French version of the Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS): new results about use and psychometric 13(2):83-9. Eur doi:10.1016/s0924-9338(98)80023-0

42. Marshall J, Bethell K. Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS): Translated Versions–Validated. Perth, Western Australia: Department of Health, Government of Western Australia. 2006;

43. People MHCaY. Edinburgh Postnatal Depression Scale (EPDS). Muticultural Health Communication Service. 2019.

44. Biaggi A, Conroy S, Pawlby S và cộng sự. Identifying the women at risk of antenatal anxiety and depression: A systematic review. J Affect Disord. 2016; 191:62-77. doi:10.1016/j.jad.2015.11.014

45. Howdeshell KL, Ornoy A. Depression and Its Treatment During Pregnancy: Overview and Highlights. Birth Defects Res. 2017; 109(12):877- 878. doi:10.1002/bdr2.1080

46. Lima MdOP, Tsunechiro MA, Bonadio IC và cộng sự. Sintomas depressivos na gestação e fatores associados: estudo longitudinal. Acta Paulista de Enfermagem. 2017; 30:39-46.

J Pregnancy Child Health. 47. Field T. Prenatal Depression Risk Factors, Developmental Effects and Interventions: A Review. 2017; 4(1)doi:10.4172/2376-127x.1000301

48. Greenberg PE, Fournier AA, Sisitsky T và cộng sự. The economic burden of adults with major depressive disorder in the United States (2005 and 2010). J Clin Psychiatry. 2015; 76(2):155-62. doi:10.4088/JCP.14m09298

49. Lê Thị Thúy, Đinh Thị Phương Hoa, Ngọc PTB. Trầm cảm sau sinh và các yếu tố liên quan ở bà mẹ có con dưới 6 tháng tuổi đang điều trị tại Bệnh viện tỉnh Nam Định. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng. 2018; 1(1):60-65.

50. Weobong B, ten Asbroek AH, Soremekun S và cộng sự. Association of antenatal depression with adverse consequences for the mother and newborn in rural Ghana: findings from the DON population-based cohort study. PLoS One. 2014; 9(12):e116333. doi:10.1371/journal.pone.0116333

51. Keyes CL, Goodman SH. Women and depression: A handbook for the social, behavioral, and biomedical sciences. 2006.

52. Mahenge B, Likindikoki S, Stöckl H và cộng sự. Intimate partner violence during pregnancy and associated mental health symptoms among pregnant women in Tanzania: a cross-sectional study. Bjog. 2013; 120(8):940- 6. doi:10.1111/1471-0528.12185

53. Tho Tran N, Nguyen HTT, Nguyen HD và cộng sự. Emotional violence exerted by intimate partners and postnatal depressive symptoms among women in Vietnam: A prospective cohort study. PLoS One. 2018; 13(11):e0207108. doi:10.1371/journal.pone.0207108

54. Nisar A, Yin J, Waqas A và cộng sự. Prevalence of perinatal depression and its determinants in Mainland China: A systematic review and meta- analysis. J Affect Disord. 2020; 277:1022-1037. doi:10.1016/j.jad.2020.07.046

55. Ayano G, Tesfaw G, Shumet S. Prevalence and determinants of antenatal depression in Ethiopia: A systematic review and meta-analysis. PLoS One. 2019; 14(2):e0211764. doi:10.1371/journal.pone.0211764

56. Habtamu Belete A, Alemayehu Assega M, Alemu Abajobir A và cộng sự. Prevalence of antenatal depression and associated factors among pregnant women in Aneded woreda, North West Ethiopia: a community based cross- sectional study. BMC Res Notes. 2019; 12(1):713. doi:10.1186/s13104-019- 4717-y

57. Phương PTT. Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2020;

58. Research SaRHa. Violence against women Prevalence Estimates, 2018. 2021. Global, regional and national prevalence estimates for intimate partner violence against women and global and regional prevalence estimates for non- partner sexual violence against women

https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/violence-against-women

59. Ali NS, Azam IS, Ali BS và cộng sự. Frequency and associated factors for anxiety and depression in pregnant women: a hospital-based cross-sectional study. ScientificWorldJournal. 2012; 2012:653098. doi:10.1100/2012/653098

60. George C, Lalitha AR, Antony A và cộng sự. Antenatal depression in coastal South India: Prevalence and risk factors in the community. Int J Soc Psychiatry. 2016; 62(2):141-7. doi:10.1177/0020764015607919

61. Minas H, Edington C, La N và cộng sự. Mental Health in Vietnam. 2017:145-161.

62. Dadi AF, Wolde HF, Baraki AG và cộng sự. Epidemiology of antenatal depression in Africa: a systematic review and meta-analysis. BMC Pregnancy and Childbirth. 2020; 20(1):251. doi:10.1186/s12884-020-02929-5

63. Tsakiridis I, Bousi V, Dagklis T và cộng sự. Epidemiology of antenatal depression among women with high-risk pregnancies due to obstetric complications: a scoping review. Archives of Gynecology and Obstetrics. 2019; 300(4):849-859. doi:10.1007/s00404-019-05270-1

PHỤ LỤC: PHIẾU PHỎNG VẤN SẢN PHỤ

STT Câu hỏi Trả lời

A. THÔNG TIN CHUNG

1 ……………….. Năm sinh của chị (dương lịch)

2 ……………….. Năm sinh của chồng/người yêu chị (dương lịch)

3 Trình độ học vấn của chị

1=Tiểu học hoặc ít hơn 2=Trung học cơ sở 3=Trung học phổ thông 4=Cao đẳng/trung cấp 5=Đại học/Sau đại học

4 Trình độ học vấn của chồng/người yêu chị

1=Tiểu học hoặc ít hơn 2=Trung học cơ sở 3=Trung học phổ thông 4=Cao đẳng/trung cấp 5=Đại học/Sau đại học

5 Nghề nghiệp của chị

1=Tự do 2=Nông dân/Công nhân 3= Buôn bán 4=Nhân viên văn phòng 5=Thất nghiệp 6=Khác:…………………….

6 Nghề nghiệp của chồng/người yêu chị

1=Tự do 2=Nông dân/Công nhân 3= Buôn bán 4=Nhân viên văn phòng 5=Thất nghiệp 6=Khác:…………………….

7 Nơi sinh sống của chị 1= Thành thị 2= Nông thôn

……………………… người 8

Trong hộ gia đình của chị có bao nhiêu người ăn và ở chung trong 6 tháng qua?

…………….. điểm 9

Hiện tại, chị đang hài lòng với cuộc sống của mình ở mức độ nào? Cho điểm từ 0 đến 10 (0=Hoàn toàn không hài lòng, 10=Hoàn toàn hài lòng)

B. ĐẶC ĐIỂM THAI SẢN

Chị có bao nhiêu con? …………… con 1

…………… 2 Đứa con mang thai lần này của chị là con thứ mấy

……………… lần 3 Chị mang thai lần này là lần thứ mấy?

……………. Tuần 4 Chị đang mang thai tuần thứ bao nhiêu

1= Không theo kế hoạch 5 Lần mang thai này có theo kế hoạch của chị không? 2= Theo kế hoạch

6 Trong quá trình mang thai lần này, chị có gặp bất thường gì không? (Có thể chọn nhiều đáp án)

1= Nhiễm khuẩn toàn thân 2= Stress tinh thần 3= Bất thường thai 4= Ra máu kéo dài 5= Dọa sảy thai 6= Khác: ……………………… 7= Không gặp vấn đề gì

7 Hiện tại chị có đang mắc bệnh gì không?(Có thể chọn nhiều đáp án)

1= Đái tháo đường 2= Tăng huyết áp 3= Phổi tắc nghẽn mạn tính 4= Tuyến giáp 5= Viêm gan 6= Khác: ……………………….

C. MỐI QUAN HỆ VỚI CHỒNG/NGƯỜI YÊU

1

1= Kém 2= Trung bình 3= Tốt Nói chung, chồng/người yêu của chị đáp nhu cầu của chị trong cuộc sống như thế nào (cả về tinh thần, vật chất, quan hệ vợ chồng, …)?

2

Mối quan hệ của chị đáp ứng kỳ vọng ban đầu của chị ở mức độ nào? 1= Hầu như không 2= Trung bình 3= Đáp ứng hoàn toàn

3 Mối quan hệ của chị có phát sinh nhiều vấn đề không?

4 Khi chị cần giúp đỡ, chị có dễ dàng tìm được người giúp đỡ không? 1= Rất ít 2= Trung bình 3= Rất nhiều 1= Thường xuyên 2= Thi thoảng 3= Hiếm khi

D. SỨC KHỎE TINH THẦN

1 Trong 7 ngày qua, tần suất chị thấy căng thẳng hay tổn thương

1= Hầu như mọi lúc 2= Nhiều thời điểm 3= Đôi khi 4= Hầu như không có

2 Trong 7 ngày qua, mức độ chị thích những điều chị đã từng thích? 1= Vẫn nhiều như vậy 2= Không còn nhiều như vậy 3= Chỉ còn 1 ít 4= Dường như không còn

3

Trong 7 ngày qua, chị có thể cười và thấy những điều hài hước của sự việc xuất hiện xung quanh chị 1= Nhiều như tôi có thể 2= Bây giờ thì không nhiều lắm 3= Hiển nhiên là không nhiều 4= Hầu như không

4 Trong 7 ngày qua, mức độ xuất hiện ý nghĩ lo lắng

1= Thường xuyên 2= Nhiều lúc 3= Thỉnh thoảng nhưng không thường xuyên 4= Chỉ đôi khi

5 Trong 7 ngày qua, tần suất chị cảm thấy vui tươi

1= Hầu như không 2= Không thường xuyên 3= Đôi khi 4= Hầu như mọi lúc

6 Trong 7 ngày qua, tần suất chị có thể ngồi tĩnh lặng và thư giãn

1= Chắc chắn/luôn luôn 2= Thường xuyên 3= Không thường xuyên 4= Không bao giờ

7 Trong 7 ngày qua, tần suất chị cảm thấy như bị chậm lại

1= Hầu như mọi lúc 2= Nhiều thời điểm 3= Đôi khi 4= Hầu như không có

8 Trong 7 ngày qua, chị có cảm giác hoảng sợ, bồn chồn

1= Hầu như không 2= Thỉnh thoảng 3= Khá thường xuyên 4= Thường xuyên

9 Trong 7 ngày qua, chị không có hứng thú quan tâm đến ngoại hình

1= Chắc chắn 2= Tôi không chăm sóc nhiều như đã từng 3= Tôi có thể chăm sóc ngoại hình như đã từng 4= Tôi vẫn luôn chăm sóc ngoại hình như bình thường

10 Trong 7 ngày qua, tần suất chị bất chợt cảm thấy hoảng loạn

1= Rất thường xuyên 2= Khá thường xuyên 3= Không quá thường xuyên 4= Hầu như không