BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

(cid:2) (cid:3) (cid:4)

(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7)(cid:8)(cid:0)(cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:0)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:0)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7)(cid:8)(cid:0)(cid:2)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:7)(cid:0)

THẠCH THỊ LON

HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT

MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN

CỦA MA VĂN KHÁNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

Hậu Giang - 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

(cid:2) (cid:3) (cid:4)

(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7)(cid:8)(cid:0)(cid:9)(cid:10)(cid:11)(cid:12)(cid:0)(cid:13)(cid:14)(cid:11)(cid:15)(cid:0)(cid:16)(cid:14)(cid:17)(cid:0)(cid:2)(cid:3)(cid:4)(cid:5)(cid:6)(cid:7)(cid:8)(cid:0)(cid:2)(cid:14)(cid:10)(cid:18)(cid:7)(cid:0)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHUYÊN NGÀNH VĂN HỌC

HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG TIỂU THUYẾT MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN

CỦA MA VĂN KHÁNG

Giảng viên hướng dẫn:

Sinh viên thực hiện:

THẠCH THỊ LON

TS. NGUYỄN LÂM ĐIỀN

MSSV: 1056010055

Lớp: ĐH Ngữ văn K3

Hậu Giang - 2014

LỜI CẢM ƠN (cid:2)(cid:3)(cid:4)

Được học tập trên giảng đường Đại học Võ Trường Toản là niềm vui và

niềm tự hòa đối với tôi. Trong bốn năm qua tôi đã được học hỏi đúc kết được kinh

nghiệm từ thầy cô và bạn bè. Tôi tin nó là hành trang quý báu để cho tôi bước vào

môi trường một cách vững chắc và tự tin hơn.

Trong quá trình tìm hiểu và thực hiện đề tài Hình ảnh người phụ nữ trong

tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, tôi đã gặp nhiều khó khăn,

nhưng nhờ nhiệt tình giúp đỡ của thầy Nguyễn Lâm Điền, để tôi có thể hoàn thành

khóa luận văn đúng hạn. Tôi xin kính gửi đến thầy lời cảm ơn chân thành và sâu sắc

nhất.

Tôi cũng xin cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Thầy cô khoa Khoa học cơ bản,

Thư viện trường Đại học Võ Trường Toản, Thư viện Thành phố Cần Thơ cùng gia

đình, bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành khóa luận đúng hạn.

Trân trọng cảm ơn!

Sinh viên thực hiện

Thạch Thị Lon

LỜI CAM ĐOAN (cid:2)(cid:3)(cid:4)

Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, các số liệu thu thập

kết quả phân tích trong luận văn là trung thực, đề tài không trùng với bất cứ đề tài

nghiên cứu nào.

Sinh viên thực hiện

Thạch Thị Lon

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 1

3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 3

4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................. 4

5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG

VÀ MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN ....................................................................... 5

1.1. Những nét chính về nhà văn Ma Văn Kháng ................................................... 5

và tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ....................................................................... 5

1.1.1 Cuộc đời ...................................................................................................... 5

1.1.2. Quá trình sáng tác văn chương của Ma Văn Kháng .................................. 5

1.2. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ................................................................ 9

1.2.1.Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn ............................... 9

1.2.2. Hoàn cảnh sáng tác .................................................................................. 12

1.2.3. Những giá trị nội dung và nghệ thuật ...................................................... 13

CHƯƠNG 2: NHỮNG PHẨM CHẤT CAO QUÝ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ

CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN ................... 18

2.1. Những phẩm chất cao quý và những hạn chế của người phụ nữ ................... 18

2.1.1. Sự đảm đang tháo vát .............................................................................. 18

2.1.2. Ý thức nếp nhà ......................................................................................... 25

2.1.3. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc ............................................................ 34

2.2. Những hạn chế của người phụ nữ................................................................... 44

2.1.1. Dễ bị tác động của lối sống thực dụng .................................................... 44

2.2.2. Sự so đo, tính toán về đời sống cá nhân ................................................. 48

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ

TRONG MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA MA VĂN KHÁNG ................ 54

3.1.Nghệ thuật giới thiệu và xây dựng nhân vật .................................................... 54

3.1.1. Giới thiệu nhân vật .................................................................................. 54

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng ngoại hình .............................................................. 58

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật .............................................................. 61

3.2.1. Miêu tả trạng thái tình cảm nhân vật ....................................................... 61

3.2.2. Miêu tả những xung đột mâu thuẫn của nhân vật .................................... 65

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu .................................................. 68

3.1.1. Sử dụng ngôn ngữ .................................................................................... 68

3.3.2.Giọng điệu................................................................................................. 71

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 77

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Chiến tranh qua đi, đất nước từng bước đổi thay và phát triển. Tiểu thuyết

sau 1975 cũng dần chuyển mình vận động để kịp với thời đại, nhằm tạo nên một vị

trí xứng đáng trên văn đàn Việt Nam.

Ma Văn Kháng là một nhà văn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt

Nam thời kì đổi mới văn học. Một trong những đóng ấy là sự đổi mới về cái nhìn,

giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật. Ông đã đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết,

tìm cho mình hướng đi trong quá trình sáng tác.

Vào những năm 80 của thế kỉ 20, nhiều sáng tác của Ma Văn Kháng đã

“nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” từ đó tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi

trên các diễn đàn văn học. Ông cũng là trong số những nhà văn Việt Nam sáng tác

thành công ở hai thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Qua từng tiểu thuyết, truyện

ngắn Ma Văn Kháng không ngừng tìm kiếm những cách thể hiện mới. Thời gian và

kinh nghiệm nghệ thuật đã tôi luyện ngòi bút Ma Văn Kháng đã giúp ông gặt hái

được những thành tựu đáng kệ.

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn đã được bạn đọc và đặc biệt các nhà

nghiên cứu quan tâm đánh giá cao cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Mùa lá

rụng trong vườn tạo cho tôi nhiều ấn tượng sâu sắc khi đến với tác phẩm mà đặc

biệt là hình ảnh người phụ nữ được nhà văn miêu tả trong tác phẩm này. Với lẽ trên

tôi chọn vấn đề Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

của Ma Văn Kháng để làm luận văn tốt nghiệp.

2. Lịch sử vấn đề

Ma Văn Kháng là một trong những nhà văn có đóng góp đáng kể vào công

cuộc đổi mới văn xuôi giai đoạn sau 1975. Một trong những đóng góp ấy là sự đổi

mới về cái nhìn, giọng điệu ngôn ngữ nghệ thuật. Ông “đã cố gắng đổi mới tư duy

nghệ thuật tiểu thuyết, tìm hướng đi mới trong lao động sáng tạo nghệ thuật.”

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn đã thật sự gây chú ý, quan tâm đặc biệt

của đông đảo đọc giả cũng như giới phê bình văn học và đã trở thành hiện tượng

văn học một thời. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn đã tạo ra cuộc tranh luận sôi

1

nổi làm đời sống văn học đương đại trở nên phong phú và đa dạng hơn.

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn xuất hiện. Câu lạc bộ báo Người Hà Nội

và xuất bản Phụ nữ phối hợp tổ chức, các nhà văn, nhà lý luận văn học đã có nhiều

ý kiến đánh giá về những thành công cũng như những hạn chế của tác phẩm. Lại

Nguyên Ân khẳng định: “Mùa lá rụng trong vườn đang hướng tới vấn đề cốt yếu”;

Vân Thanh đã đưa ra nhận xét: “Có thể có lúc mới cũ, tốt xấu, tạm thời hòa hoãn

với nhau, nhưng rồi tự nó sẽ phá tung ra, làm đảo lộn những cái đã có. Rồi lại sẽ

dần ổn định, hoặc cái tốt, cái mới thắng, hoặc cái xấu, cái cũ tạm thời chiếm ưu

thế, nhưng xu hướng tất yếu là hướng đi lên của cái mới, cái tốt.” [18; tr.278]

Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

nhưng bàn về hình ảnh người phụ nữ chỉ điểm xuyết ở một vài phương diện… Tiêu

biểu là những ý kiến sau: Vân Thanh cho rằng “ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng

trong vườn tác giả đã hết lòng ngợi ca phụ nữ bình thường nhưng có tấm hồn trong

trẻo và cao đẹp.”[18; tr.278 – 279]

Trần Đăng Xuyền khẳng định: “Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng

cũng phản ánh một hiện tượng xã hội có tính chất xã hội khá phổ biến trong đời

sống gia đình hiện nay. Đó là tình trạng giữa người vợ và người chồng không tạo

nên một hệ thống tâm lý sinh hoạt phù hợp giữa hai cá tính. Cá tính đã không làm

cho phong phú thêm lại gây trở gại cho nhau. Đặc biệt là tình trạng người chồng

không trở thành người bạn thân tình, người phụ trách tinh thần cho vợ…” [22;

tr.277]

Trần Cương đã viết về vẻ đẹp của người phụ nữ: “Mùa lá rụng trong vườn

Lý người con dâu đẹp người, sắc sảo, đã đảm đang quán xuyến công việc kinh tế

gia đình, lẽ ra vẫn có thể là người dâu hiền, người vợ tốt đẹp như chị có văn hóa

hơn, biết kiềm chế bản năng, và nếu như Đông, người chồng, biết chăm lo, khuyến

khích những mặt tốt đẹp của chị? Cừ - cái mầm cây sớm bị thúi chột ấy, nếu biết

cách cứu chữa ngay từ đầu thì kết cục xảy ra đâu đến nông nổi như vậy? Còn

Đông, nếu như Đông không đơn giản cứng nhắc mà linh hoạt, sắc sảo như Luận ở

vị trí thứ bặc trong gia đình của mình thì chắc chắn Lý cũng khôn bỏ nhà mà đi”.

[1; tr.282]

Trần Cương cho rằng tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng

các nhân vật như chị Hoài, Phượng, Vân… tuy tác giả dành số trang ít hơn, nhưng

2

lại là những trang cảm động, Nâng niu trân trọng và đồng cảm sâu xa từ trong mỗi

việc làm, mỗi ý nghĩ, mỗi hành vi nho nhỏ ở những nhân vật này, ngòi bút của tác

giả đã tỏ ra tinh tế và điều đó làm gia tăng thêm chất nhân văn vốn đã là nền tản

của tác phẩm này.” [1; tr.282]

Nguyễn Văn Lưu cũng nhận xét: “nếu Lý chỉ biết khao khát tầm thường,

tham lam qua quắt thì Phượng hiện lên đằm thắm, dịu dàng, giàu lòng yêu thương,

biết hy sinh nhường nhịn, biết chịu đựng chia sẻ. Phượng tự nhiên như một truyền

thống vững chắc, một sức mạnh vốn có. [9; tr.284]

Nguyễn Văn Lưu cũng nêu lên những suy nghĩ của mình về hình ảnh của

người phụ nữ: “Trong tiểu thuyết này nhà văn đã đưa ra được những hình ảnh rất

đẹp của truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc. Chị Hoài, Phượng, Vân, bà lang

Chí…là những tấm lòng trong sáng ngọt ngào, ấm áp, chan chứa nghĩa tình (…)

[9; tr.284]

Nguyễn Văn Lưu lại một nữa khẳng định: “Mùa lá rụng trong vườn đem lại

một nhận thức mới, cấp bách. Nó đi được vào dòng chính của đời sống, sự sáng tạo

văn học. Nhà văn cuối cùng phải trả lời được những vấn đề của đời sống tinh thần,

của tâm lý và đạo đức. Nói được những vấn đề bức thiết của cơ chế kinh tế - xã hội

là rất cần thiết. Tiếp theo đó, cần phải đi sâu vào lòng người, phải khám phá “cơ

chế đời sống”, “cơ chế tâm lý và đạo đức” của con người. Ma Văn Kháng biết

chọn đối tượng phán ánh, dựng được những hình tượng sinh động với ngòi bút khá

tinh tế (…). Trong hướng văn đi phản ánh những vấn đề vừa bản chất vừa cấp thiết

của đời sống, tham gia tích cực vào việc giải quyết đời sống. Mùa lá rụng là một

thành công, một đóng góp đáng ghi nhận.” [9; tr.285]

Những bài viết, phê bình và nhận định về tiểu thuyết Mùa lá tụng trong vườn

của Ma Văn Kháng, viết về hình ảnh người phụ nữ trong xã hội đương thời, đó là

điều kiện thuận lợi để chúng tôi nghiên cứu và thể hiện đề tài hình ảnh người phụ

trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, tiếp cận với đề tài

này với kiến thức có hạn người nghiên cứu chỉ mong muốn góp một ý tưởng nhỏ để

làm nổi bật về Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

của Ma Văn Kháng.

3. Mục đích nghiên cứu

3

Với đề tài này chúng tôi hướng đến những mục đích sau:

Chỉ ra được những thành công của nhà văn Ma Văn Kháng trong việc khám

phá và thể hiện hình ảnh người phụ nữ.

Qua những nhân vật nữ trong tiểu thuyết này để chỉ ra được những phẩm

chất tốt đẹp cũng như những hạn chế của người phụ nữ trước đời sống xã hội có

những biến động.

Khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn Ma Văn Kháng ở thể loại tiểu

thuyết nhất là việc xây dựng nhân vật nữ.

4. Phạm vi nghiên cứu

Người nghiên cứu chỉ tập trung khảo sát hình ảnh người phụ nữ ở một số tiểu

thuyết này.

Ngoài ra, chúng tôi còn nghiên cứu hình ảnh người phụ nữ ở một số tiểu

thuyết khác của các nhà văn cùng thời để làm nổi bật so sánh, đối chiếu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Để làm được những mục đích mà đề tài đã đặt ra chúng tôi sử dụng phương

pháp sau:

Với phương pháp hệ thống, chúng tôi nghiên cứu hình ảnh người phụ nữ

trong mới quan hệ với những nhân vật khác, đồng thời nhìn nhận đánh giá người

phụ nữ trong những phương diện khác nhau của đời sống được đặt ra trong tiểu

thuyết Mùa lá rụng trong vườn.

Với phương pháp so sánh, chúng tôi nhằm so sánh hình ảnh người phụ nữ

trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn với hình ảnh người phụ nữ ở một số tiểu

thuyết khác của nhà văn cùng thời để trên cơ sở đó làm nổi bật lên nét đặt sắc của

Ma Văn Kháng khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ.

Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các thao tác phân tích, chứng minh để góp

4

phần làm rõ những vấn đề đã đặt ra.

CHƯƠNG 1: NHỮNG NÉT CHÍNH VỀ NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG VÀ MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN

1.1. Những nét chính về nhà văn Ma Văn Kháng

và tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

1.1.1 Cuộc đời

Nhà văn Ma Văn Kháng sinh ngày 1 tháng 12 năm 1936 tại làng Kim Liên,

Đống Đa, Hà Nội tên thật là Đinh Trọng Đoàn. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam (1974). Từ tuổi thiếu niên Ma Văn Kháng đã tham gia quân đội và được đi học

ở khu xá Trung Quốc. Sau đó, ông học tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp đại

học, Ma Văn Kháng lên dạy học ở tỉnh Lào Cai, từng là hiệu trưởng Trường trung

học. Về sau Tỉnh ủy điều ông về làm thư ký cho Bí thư Tỉnh ủy, rồi làm phóng viên,

phó Tổng biên tập báo của Đảng bộ Tỉnh. Ông khá am hiểu về phong tục tập quán

của bà con dân tộc miền núi Tây Bắc.

Ma Văn Kháng được dùng là bút danh đã nói lên sự gắn bó và tình yêu của

ông đối với mảnh đất tỉnh Lào Cai. Ông từng hoạt động trên 20 năm, nơi mà ông

coi như quê hương thứ hai của mình. Sau khi đất nước thống nhất, từ năm 1976 đến

nay ông về công tác ở Hà Nội, từng làm Tổng biên tập, Phó giám đốc Nhà xuất bản

Lao động. Từ tháng 3 – 1995 ông là Ủy viên Ban chấp hành, Ủy viên Đảng đoàn

Hội Nhà văn khóa 5, Tổng Biên tập tạp chí Văn học nước ngoài của Hội.

Tiểu thuyết Ma Văn Kháng quả là một hiện tượng nổi bật trong văn học năm

1990, tuy một giọng điệu nhưng không nhàm tẻ”.

Trong khi nhiều trang miêu tả một cách hào phóng mặt tích cực phấn chấn,

hào hứng thì cái xấu, cái xấu tuy chưa phải là bản chất của cuộc sống, nhưng rồi

năm tháng nó lên dần lên dần, đã làm cho bao con người lương thiện, tuyệt vọng.

Ma Văn Kháng đã lôi ra ánh sáng sự thật tối tăm oan khổ đối với tấm lòng nhân

hậu.

1.1.2. Quá trình sáng tác văn chương của Ma Văn Kháng

Quá trình sáng tác của Ma Văn Kháng được hai làm hai giai đoạn

Giai đoạn trước 1975 chủ yếu viết về đề tài đấu tranh cách mạng ở miền núi

5

các dân tộc ít người.

Giai đoạn này Ma Văn Kháng chủ yếu viết về các dân tộc miền núi, các cuộc

đấu tranh để bảo vệ quyền sống cho mọi người ở vùng đặc biệt khó khăn và hiểm

trở. Nhà văn luôn hướng về vùng biên ải, và những cuốn tiểu thuyết đầu tiên được

đặt tên “Vùng biên ải”. Ngoài ra ông còn sáng tác rất nhiều truyện ngắn mà tiêu

biểu như: Giàng tả”, “Vệ sĩ của Quan Châu”, “Ông lão gác vườn và con chó

Phúm”, “Người thợ bạc ở nơi phố cũ”, “Mã Đại Câu”, “Người quét chợ Mường

Cang”, “Móng vuốt thời gian”, Thím Hoong”. Do đó, tác giả đã rất thành công khi

nói về nhân vật Giàng Tà, Giàng Tà là một người có lai lịch phức tạp. Hắn rất trung

thành với người chủ của mình, người chủ tàn ác và thâm độc, xấu xa, nhưng thật

chất Giàng Tà cũng có những điểm tốt có lúc theo giúp bộ đội ta.

Trong thời đại phong kiến, mọi sự hồn nhiên, ngây thơ, vô ý thức, cả lòng tốt

lẫn tàn bạo đều hoặc bị đè bẹp, bị chà đạp, bị vùi dập về thân phận nhỏ bé của người

dân tộc miền núi. Vùng biên ải vốn dĩ là vùng đất dữ dội. Dữ dội vì đó là nơi diễn ra

liên miên, “những cuộc đấu tranh, sát phạt tàn hại giữa các bầy đoàn, phe cánh. Bản

tính tàn bạo, rừng rú, bản năng đao phủ luôn luôn được dung dưỡng, buông phóng

phục vụ cho những cuộc sát phạt, tàn hại lẫn nhau ấy. Cho nên, đất biên ải càng trở

nên dữ dội, bạo liệt nhưng ta vẫn thấy những con người lương thiện, được hạnh

phúc khi được làm người, Ma Văn Kháng là nhà văn có những trang viết hay nhất

về cái bạo liệt, dữ dội của miền biên ải ấy.

Ở tác phẩm viết về đời sống của con người miền núi, tác giả đã khơi gợi cho

chúng ta sự cảm thông sâu sắc, sự căm thù bọn thực dân cướp nước, bọn lang bạo,

xấu xa tàn ác, cảm thông với số phận có cuộc sống lầm than của quần chúng nhân

dân bị áp bức bốc lột. Sáng tác của Ma Văn Kháng gợi dậy ở người đọc tình cảm

xót xa, vừa giận, vừa thương, xót xa những kiếp người không được làm người,

thương cho sự hoang sơ mông muội và giận thay cho sự tàn bạo, man rợ mang

“hình sắc của thời mới khai thiên”. Những chặng đường lịch sử giải phóng của các

anh hùng dân tộc đầy khó khăn, cùng với thời điểm đó là những tác phẩm xuất hiện

cùng thời đã phần nào phản ánh được cuộc đấu tranh của nhân dân với những nội

dung luôn nói về chiến tranh để giải phóng dân tộc như: Đất nước đứng lên

(Nguyên Ngọc), Sống mãi với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Người mẹ cầm sung

(Nguyễn Thi), Hòn đất (Anh Đức). Trong những năm tháng kháng chiến không chỉ

6

riêng người con ra chiến trường mà chúng ta vẫn thấy được lòng yêu quê hương dân

tộc mãnh liệt, của những hình ảnh người phụ nữ, những người đảm đang lo việc

nhà. Họ đã góp một phần sức nhỏ của mình cho đất nước cho nhân dân.

Sau năm 1975 ông tập trung viết về cuộc sống thời ở đô thị.

Sau chiến thắng năm 1975, Ma Văn Kháng là một trong những cây bút viết

về sự đổi mới của nền kinh tế thị trường, ông đã chứng kiến những gì diễn ra xung

quanh mình. Ông đã đưa những cái thường ngày vào văn xuôi mà không giới hạn ở

mức độ miêu tả đời sống thành thị hôm nay với những eo sèo, phức tạp, xen lẫn yếu

tố tiêu cực và tích cực. Những tác phẩm đó đã mang lại nhiều ý nghĩa về đời sống

hằng ngày. Nhà văn đặt mình là người kể chuyện để kể về những chuyện eo sèo

thường ngày và từ đó làm nổi bật sự lạc điệu, trật khớp đang diễn ra ở mỗi ngõ

ngách, mỗi “góc sân nhỏ” nhằm gợi dậy ở ta những ấn tượng về sự phi lí, bất ổn

trong quan hệ đời sống của con người hôm nay. Đó là nội dung mang nhiều ý nghĩa

xã hội và toát lên vẻ nổi bật về đời sống của người dân ở thành thị của nhà văn Ma

Văn Kháng, và chủ yếu ông viết về sự thay đổi của xã hội, mặt đạo đức và những

nền nếp truyền thống khi hội nhập nền kinh tế thị trường. Ma Văn Kháng là nhà văn

được mệnh danh là người khuấy động văn học Việt Nam hiện đại, kém ít tuổi so với

Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải nhưng cũng thuộc nhóm đại biểu tinh anh của

Nhà văn học một thời, xứng đáng là một trong những ngọn cờ tiên phong đổi mới.

Từ sau năm 1976 toàn thắng về ta, đất nước thống nhất, dư âm chiến tranh

còn vang vọng văn học còn tiếp tục gần mười năm nữa nhưng vẫn mờ nhạt theo

năm tháng.

Từ năm 1986 trở đi khi đất nước khởi xướng chủ trương mở rộng giao lưu

đổi mới tư duy, văn học cũng đổi mới tư duy. Khi cuộc sống đã trở lại đời thường,

mỗi người bắt đầu có dịp chăm lo cho bản thân, gia đình con cái, lặp nghiệp thì

cảnh sử cũng hết và văn học sử thi nhạt dần chuyển sang văn học đạo đức, thế sự và

đời tư.

Từ đề tài chiến tranh còn ám ảnh lâu dài thì cách nhìn đã thay đổi: Truyện

ngắn Nguyễn Minh Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu thay vào đó là khuynh hướng

“phi sử thi hóa”, có nghĩa là mặt trái của đời sống được phơi bày nhiều hơn, sự tha

hóa nhân cách, số phận bi kịch, tâm trạng lo lâu, khắc khoải. Giọng điệu ngợi ca, ru

vỗ êm ái, ngọt ngào được thay thế dần bằng giọng điệu mỉa mai, phê phán, tự vấn.

7

Thay vào chỗ trung tâm của những chiến sĩ, anh hùng năm xưa là những hình ảnh

của những con người thực dụng, những người tẻ nhạt, tầm thường. Tính chất khai

sáng nằm ngay trong phương châm nhìn thẳng vào sự thật. Phi sử thi hóa có nghĩa

là văn học trở về với con người cá thể, quan tâm tới cá nhân, đề tài cái tôi, ý thức

chủ thể, con người thân phận, cảm hứng đạo đức, tự vấn lương tâm, nỗi buồn… Tất

cả đều là biểu hiện của ý thức cá nhân, sự phân hóa giữa người giàu và người

nghèo.

Ma Văn Kháng được coi là người đi tiền trạm cho đổi mới văn học, Mưa

mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn (1985) là những tác phẩm có tính chất mở

đường. Lúc này cùng lúc Nguyễn Khải viết Gặp gỡ cuối năm (1982) và Thời gian

của người (1985) như hành trình của sự tìm kiếm khám phá mới. Nhà văn Ma Văn

Kháng lặng lẽ dấn bước trên con đường mới đã chọn với những quyết tâm mạnh

mẽ. Thực ra từ tác phẩm Mùa mùa hạ đã có sự bất thường, tác phẩm không có được

kết thúc có hậu như kiểu truyền thống. Hai nhân vật chết vì bạo bệnh, một hy sinh

khi lấy thân mình che chắn cho con đê, cả hai ấp ủ bao khát vọng đẹp đẽ về cuộc

sống mà phải đột ngột ra đi trong cái oán uất, day dứt. Đó là lý do cho cảnh tác

phẩm “nằm đắp chiếu” ở nhà xuất bản một thời gian. Khi ra đời, cuốn tiểu thuyết

đã gây nhiều sóng gió, Viện văn học tổ chức tọa đàm về tác phẩm để thống nhất

đánh giá. Cuốn tiểu thuyết tiếp theo Mùa lá rụng trong vườn đã tiếp tục gây sự chú

ý cho bạn đọc, lại có những trái khuấy. Cái mới chịu dễ dàng được chấp nhận vì

những quan niệm cũ kĩ, nhưng rồi tác phẩm cũng vượt qua được thử thách ban đầu

và được chuyển thể kịch bản điện ảnh, những va chạm, những hành trình viết càng

làm dày dạn thêm một ý chí như sự trải nghiệm cần thiết. Năm 1989, cuốn tiểu

thuyết Đám cưới không có giấy giá thú được mạnh dạn tung ra và đã gây sốc mạnh

trong dư luận.

Từ năm 1986 trở đi, sự đổi mới văn xuôi đã diễn ra ở bề sâu, Lê Lựu Thời xa

vắng đã đưa ra một mẫu người tha hóa. Giang Minh Sài là người có đời sống tâm

hồn trải qua bao thăng trầm, đau đớn là một sản phẩm của tình huống đặc sắc tiếng

nói đồng tình rất cao, Nguyễn Khắc Trường vạch trần tâm địa đen tối độc ác của

bọn tội phạm đội lốt Cộng sản ở nông thôn Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990),

vấn đề được Ma Văn Kháng khơi gợi ở Côi cút giữa cảnh đời như sự lên án bọn

cường hào nhân danh quyền ủy thế đã xô đẩy, dồn ép, vùi dập con người vào hoàn

8

cảnh ngặt nghèo, khốn khó. Sự đồng thanh ấy phản ánh cảm hứng sự thật, khát

vọng dân chủ như một nhu cầu khấn khiết. Nguyễn Huy Thiệp hưởng ứng và tiếp

sức tố cáo cho sự xói mòn phong hóa xã hội suy bại trong quan hệ gia đình. Những

vấn đề trong Tướng về hưu, Không có vua, Huyền thoại phố phường, Những người

thợ xẻ (từ năm 1987) cũng được Ma Văn Kháng xới lên từ Mùa lá rụng trong vườn,

sự băng hoại đạo đức truyền thống trong gia đình do tác động tiêu cực của xã hội.

Và cuốn tiểu thuyết Trăng soi sân nhỏ cũng được giới nhà lý luận văn học quan

tâm. Qua đó Ma Văn Kháng cho rằng “văn chương là chuyện đời thông qua việc

đào bới bản thể của mình ở chiều sâu tâm hồn, chứ đâu phải là đi hớt lấy cái váng

nổi trên mặt của ngoại vật”. Trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn cho ta thấy

người phụ nữ luôn muốn thoát khỏi của cuộc sống nề nếp truyền thống hướng về sự

mới mẻ trong thời hội nhập, một cuộc sống tự do, ồn ào và vui vẻ nhộn nhịp, không

còn thấy sự hà khắc của người xưa nữa. Và tác giả đã cho thấy xã hội thối nát đã

cướp đi những phẩm chất tốt đẹp của con người, đã làm hủy hoại bao nhiêu thân

phận của người phụ nữ không cho họ quyền sống nhưng ở với tầm cao mà mọi

người không thể quay lại được, làm băng hoại về đạo đức của tất cả mọi người, văn

hóa truyền thống cũng từ đó mất dần về tính trang nghiêm của xã hội xưa giờ đây

chỉ còn là những phàm tục, không có đạo đức, sống tàn nhẫn với nhau, ghanh ghét

và luôn đề phòng nhau trong mọi tình huống

Hai cuốn tiểu thuyết mới Bóng đêm và Bến quê, tiểu thuyết ra đời cách đây

không lâu nhưng đông đảo bạn đọc đón nhận, với tác phẩm này nói về hình ảnh con

người hiệp sĩ tức là người hùng mới trong sự nghiệp an ninh, bảo vệ đời sống cho

người dân. 1.2. Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

1.2.1.Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

Tác phẩm kể về một ngôi nhà khá lặng im với những hàng cây, tránh xa

những nơi ồn ào đó là nhà ông cụ Bằng. Ông cụ là người muốn giữ truyền thống về

văn hóa, đạo đức nên đã dạy các con nên giữ lại những gì được cho là tốt đẹp nhất,

giữ gìn đó là nền tảng của văn hóa, vì thế ông luôn dạy các con phải giữ nề nếp

truyền thống ấy bởi đó là cái đẹp cái quý người Việt Nam chúng ta, ông luôn nhắc

nhở con cháu sống anh em hòa thuận, ông là người giữ lửa cho nền văn hóa nước

nhà bởi ông đã chảy qua mấy chục năm những phong thái ung dung làm gương cho

9

các con của mình. Vì thế, trong một gia đình đó có năm người con, người nào cũng

đẹp người đẹp nết, năm hòn ngọc quý, Tường là người anh cả đã hy sinh ở chiến

trường, Đông là một anh trung tá an phận với cuộc sống đơn giản không lo toan

không chạy đua với cuộc sống thành thị, không lo lắng về cuộc sống nhìn cuộc đời

một cách phiến diện, có thể nói Đông sống an nhàn thủ thường hưởng thụ sau bao

năm đi chiến tranh cực nhọc về với gia đình cuộc sống và những chuyện va chạm

với xã hội thì Đông không màn đến mà chỉ màn đến sống vui vẻ không suy nghĩ

đến những chuyện phức tạp mà luôn nghĩ đơn giản và công việc chính của Đông chỉ

mỗi tổ tôm tổ tép không ai có cuộc an nhàn như Đông. Luận là một nhà báo, nhạy

bén trước những diễn biến của xã hội và có suy nghĩ chín chắn trước mọi tình

huống là người biết lo cho gia đình luôn tìm ra cách giải quyết mọi việc một cách

tốt nhất để mọi người có cuộc sống tốt hơn còn đối với vợ con, Luận hết mực yêu

thương. Luận là một con người sống có trách nhiệm với gia đình, Luận luôn chia sẻ

những gánh nặng cùng người vợ của mình, muốn giữ hạnh phúc gia đình và luôn

quan tâm, lo lắng cho người khác anh cũng là am hiểu về xã hội đang có những diễn

biến mà con người không thể nào đoán trước được, vì do hội nhập kinh tế nên con

người có những đổi mới từ tích cách đến đạo đức và cũng rất hiểu về tính cách của

từng thành viên trong gia đình, còn Cừ là một con người đã có mầm hư hỏng từ

nhỏ, có lối sống thực dụng, coi đồng tiền là trên hết quên cả tình nghĩa anh em, với

một người có lối như vậy cho nên những gì mà ông, bà Bằng dạy đều coi như vô

nghĩa coi đó là đạo đức giả. Khi vào bộ đội Cừ luôn kêu than để nhận được tiền từ

cha mẹ, khi vào cơ quan làm việc Cừ đã trốn cơ quan cùng một người phụ nữ trốn

ra nước ngoài. Khi đến miền đất hứa Cừ mới tỉnh ngộ và nhận ra sai lầm của mình

Cừ cần lắm những câu hà khắc của ông Bằng nhưng khi nhận ra giá trị tinh thần thì

đã quá muộn, muốn sữa lại lỗi lầm của mình cũng không còn cơ hội, Cừ đã viết thư

cho ông cụ Bằng về cách dạy con cổ hủ và lỗi thời của ông đã làm cho ông nhận ra

sai lầm của mình trong việc dạy con, không ngờ những gì mà ông muốn giữ thì lại

cho là hà khắc không phù hợp với cuộc sống hiện tại. Những lời nói đó đã làm cho

ông thất vọng, tất cả ông chỉ muốn các con sống nên coi giá trị tinh thần là quan

trọng anh em hòa thuận nhưng không ngờ cách dạy con như thế làm cho con oán

hận mình. Cần là một nhân vật đại diện cho thế hệ trẻ nên Cần cùng Vân đấu tranh

cho tình yêu của mình bất chấp phản đối của gia đình. Họ luôn mong có cuộc sống

10

hạnh phúc bên người yêu của mình, khi xưa tình cảm con người không được chọn

lựa mà theo sự sắp đặt của gia đình, nhưng với thời hội nhập kinh tế thì con người

có quyền quyết định cuộc đời và tình cảm của họ và Cần đã khéo léo từ chối sự mai

mối của người chị dâu mà thông báo sẽ cưới một cô học chung với Cần. Trong tiểu

thuyết này, chúng ta không thể nào không kể đến những người phụ nữ, Phượng là

một người phụ nữ hiền lành, chịu thương chịu khó, bao dung, vị tha, yêu thương

chồng con, cô luôn bết quan tâm mọi người xung quanh hết lòng giúp đỡ khi họ gặp

những khó khăn trong đời sống, cô là người luôn giữ nề nếp truyền thống từ cách cư

xử, cách nói chuyện với người lớn, đối với gia đình nhỏ của mình họ xuất phát từ

tình cảm yêu thương của hai con người tự nguyện sống biết quan tâm chăm sóc cho

nhau và chia sớt những gánh nặng trong cuộc sống hằng ngày, Phượng hiền lành

chất phác không khoa trương không tính toán và đanh đá cô sống luôn quan tâm đến

cung bặc cảm xúc của các thành viên trong gia đình, cô không học cách đua đòi cho

dù nền kinh tế hội nhập mang lại nhiều mặt xấu cho xã hội đối với cô không hề tác

động, bởi cô không thích cuộc sống bon chen mà cứ bình thản mà sống và đúng với

truyền thống coi giá trị tinh thần tình nghĩa anh em là trên hết.

Hoài là một nhân vật xuất hiện vào chiều ba mươi Tết, chị là một người phụ

nữ mộc mạc giản trị coi trọng tình nghĩa, luôn yêu thương mọi người xung quanh,

quan tâm giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, chị là một người đảm đang biết chia sẻ với

các thành viên trong gia đình, coi trọng tình cảm tình nghĩa anh em và luôn chị sẵn

sằng chia sẻ khi họ cần đến sự giúp đỡ mà không hề lưỡng lừ, chị là một người đảm

đang và luôn quan tâm đến cuộc sống của các thành viên trong gia đình, đối với

cuộc sống thời kinh tế khó khăn nhưng chị vẫn muốn góp một phần sức nhỏ của

mình cho gia đình, chị là một người giản dị không thích cuộc chạy đua bon chen với

những người xung quanh không thích sự ồn ào của xã hội mà chị cứ lặng lẳng mà

sống và đặc biệt hơn chị nhận ra con người của Lý có sự thay đổi trong tâm hồn. Đó

cũng là một nhân vật nhiễm bởi lối sống thành thị, muốn mình hơn tất cả mọi

người, một người luôn tháo vát đảm đang thích sai khiến người khác dám đứng mũi

chịu sào, đi lấy một người chồng bằng lòng với cuộc sống tự do không bon chen với

ai không hề lo lắng mà buông xuôi theo số phận, đó là Lý. Lý là một người xinh đẹp

và hấp dẫn đã không ít người để ý tới cô, cô đã chạy theo những dục vọng thấp hèn,

đồng tiền đã làm cho cô quên đi tình nghĩa thiêng liêng mà bất cứ ai trong chúng ta

11

mong muốn có được. Do đó, dẫn đến Lý sai rồi lại càng sai trượt ngã bởi lối sống

xô bồ, đã có lúc Lý bơ vơ một mình trong căn buồng trống vắng cần có người chia

sẻ an ủi, động viên là Lý có thể vượt qua. Nhưng người chồng vô tâm đến vô lo đã

không làm được điều ấy đã không là bờ vai để nâng đỡ chia sớt những nỗi đau. Vì

thế, Lý đã bỏ nhà ra đi khi mọi người trong nhà đã không làm chỗ dựa cho cô.

Phượng với Lý hoàn toàn trái ngược nhau, Phượng biết lo nghĩ cho mọi người xung

quanh, còn Lý là một người so đo, tính toán luôn tìm đủ mọi cách để đạt mục đích

của mình mà bất chấp mọi thủ đoạn. Một năm đã trôi qua căn nhà tưởng đâu êm ấm

nhưng không ai ngờ rằng đó là vùng chứa nhiều sóng gió của gia đình được gọi là

truyền thống mẫu mực nhưng là nơi chứa đựng những con người tính cách khác

nhau hòa quyện vào nhau tạo nên một không khí ngột ngạt trong xã hội đương thời.

Ta có thể thấy rằng tất cả đều do nền kinh tế thị trường làm cho người bị tha hóa về

mặt đạo. Kết thúc truyện cũng là vào dịp Tết khi mọi người nhận được lá thư của

Lý với sự ăn năn hối lỗi của mình và muốn quay về với gia đình để được đoàn tụ

cùng với mọi người. Tác phẩm là một chuông cảnh báo đối với gia đình Việt Nam

chúng ta. Qua đó, tác giả phê phán xã hội đương thời đã không chăm lo đến đời

sống của người mà bắt họ chạy theo những đồng tiền, làm tha hóa về mặt đạo đức

cũng như văn hóa của người Việt.

1.2.2. Hoàn cảnh sáng tác

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của nhà văn Ma Văn Kháng được hoàn

thành vào tháng 12 năm 1982 và được xuất bản lần đầu năm 1985.

Lấy bối cảnh một gia đình truyền thống vào những năm 80 của thế kỉ XX,

khi đất nước mở ra trang lịch sử mới đã bắt đầu có những bước chuyển mạnh mẽ

sau chiến tranh. Tác giả đã phản ánh hiện thực xã hội lúc bấy giờ có nhiều thay đổi

xấu có, tốt có tất cả đang hòa lẫn vào nhau làm cho con người không phân biệt được

đâu là tốt, đâu là xấu. Vì thế, tác phẩm ra đời là hồi chuông cảnh báo cho con người

Việt Nam, những gia đình còn giữ nếp truyền thống, muốn giữ lại những gì được

cho là tốt đẹp, tích cực thì chúng ta nên phát huy, còn cái được cho là lỗi thời tiêu

cực thì nên loại bỏ, nếu chúng ta cố gắng giữ lại thì cũng không có ý nghĩa gì mà

trái lại còn làm ảnh hưởng mọi người trong xã hội đương đại.

Nền kinh tế thị trường bên cạnh đem đến sự phùng hoa cho đời sống xã hội.

Cho người trong hoàn cảnh đó không những làm con người bị tha hóa về mặt đạo

12

đức ảnh hưởng đến văn hóa. Con người muốn phá vỡ cái nề nếp kiểu gia đình

truyền thống ấy, cái cũ kĩ nhưng tất cả đã làm ảnh hưởng to lớn của nó tới gia đình

là tế bào của xã hội, nếu như việc quản lý gia đình tốt thì xã hội mới phát triển, còn

nếu như ta lơ là trong việc bảo vệ hạnh phúc gia đình và thì con người luôn có lối

sống tha hóa về nhân cách cũng như đời sống của các thành viên trong gia đình sẽ

bị lung lay bởi vì một người phụ nữ không tài giỏi, không làm trọn trách nhiệm của

một người vợ, người mẹ thì ắt hẳn gia đình và cuộc sống không được êm ấm và xã

hội sẽ chậm phát. Nếu xã hội phát triển thì đời sống của con người sẽ được đảm bảo

và có cuộc sống tốt hơn.

Với Mùa lá rụng trong vườn đã nhận được giải thưởng loại B của Hội nhà

văn Việt Nam sau 1986

1.2.3. Những giá trị nội dung và nghệ thuật

1.2.3.1. Giá trị nội dung

Tác phẩm ra đời lúc đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ sau chiến tranh và

đi vào hội nhập nền kinh tế thị trường có nhiều cơ hội và thách thức. Và cũng từ đó

đã đem lại những mặt tiêu cực trong đời sống xã hội, làm tha hóa về mặt đạo đức,

luân lý xã hội của mọi người, văn hóa truyền thống, họ chỉ coi đó là những ràng

buộc, những tôn nghiêm trật tự mà họ không thể phá vỡ được. Với tác phẩm Mùa lá

rụng trong vườn tác giả cho ta thấy được giá trị về nề nếp truyền thống, ông mượn

hình ảnh nhân vật cụ Bằng để nói lên giá trị truyền thống của nước ta sau khi đất

nước hoàn toàn giải phóng đi vào những bước đổi mới về mặt kinh tế thị trường từ

đó kéo theo những lối hư tật xấu đang hoành hành đối với đời sống của người dân.

Sống với cuộc sống tranh đua bon chen đấu tranh với nhau để có cuộc sống tốt hơn,

do đó đã khiến cho họ không phân biệt được đâu là tốt đâu là xấu thiện và cái ác

đang hòa lẫn vào nhau, nhưng ta thấy cũng có một số người lại muốn giữ những nền

nếp truyền thống ấy, chẳng hạn như ông Bằng. Bởi ông cho rằng xã hội xưa luôn có

nhiều đức tính tốt đẹp, con người hiền lành sống không bon chén người khác, mà

luôn giữ cho mình đạo đức sống biết quan tâm mọi người xung quanh, có việc khó

khăn cùng nhau chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau để cùng vượt qua khó khăn do cuộc

sống đem lại, họ sống không hề bon chen nhau, mà trái lại càng yêu thương và đùm

bọt lẫn nhau, nhưng với cuộc sống do nền kinh tế thị trường đem lại, trong nhịp

sống đầy hối hả con người dường như đã quên đi đạo đức tốt ấy, họ sống luôn có

13

những bon chen, ganh ghét lẫn nhau, sống chỉ nghĩ cho bản thân mà không hề nghĩ

đến những người gặp khó khăn cần chúng ta chung tay góp sức, điển hình là nhân

vật Lý luôn mong muốn cho những người mà cô ghét luôn nguyền rủa họ.

Và nhân vật Lý trong tác phẩm là người đại diện cho con người có lối sống

hiện đại cô muốn phá bỏ cái cũ để tìm cho mình cuộc sống mới tốt hơn, cô luôn

nghĩ cho mình làm sao để có cuộc sống ổn định vào thời nền kinh tế khó khăn này.

Vì thế ta thấy Lý là một người luôn so đo, tính toán về đời sống cá nhân, được mọi

người trong nhà khen cô là một người đảm đang, chu đáo, tháo vát, Về công việc,

Lý năng nổ thích sai khiến người khác, luôn cho mình là người hơn người khác dám

một mình đứng mũi chịu sào, đó thể hiện một người muốn tự mình loại bỏ cái lối

sống đã quá cũ không còn phù hợp với hiện tại. Tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn

đã được dựng thành phim điện ảnh với độ dài hơn mười tập cũng đủ để phán ánh

cuộc sống ở xã hội đương thời không chăm lo đến đời sống của mọi người để họ

làm những không nên làm, khi đó ta thấy cái xã hội không chú trọng đến cách thức

mà chỉ chú trọng đến thành quả vì thế để đạt hiệu quả tốt nhất thì phải bất chấp mọi

cách thức và có cách thức đã đi ngược lại với đạo lý truyền thống. Sống với thời hội

nhập thì đồng tiền là trên hết, do đó nó đã lối cuốn con người vào những lối sống

dục vọng thấp hèn và đó cũng là thói hư tật xấu của con người sống trong xã hội có

nhiều biến động như vậy, xã hội đã không quan tâm đời sống của họ, vì thế họ có

thể làm những điều mà mình thích và cũng không có ai cấm cản được. Vì thế nó đã

phá vỡ cái được cho là truyền thống tốt đẹp nó làm suy bại về mặt đạo đức, văn hóa

xã hội. Xã hội có những thô bạo thế nhưng ta vẫn thấy còn có rất nhiều người tốt

đang len lỏi trong xã hội đương thời, người lương thiện biết hy sinh cho người khác,

nó được thể hiện qua nhân vật Hoài, Phượng, Vân, bà lang Chí… Tất cả những

nhân vật đó họ có một tâm hồn trong sáng, giàu lòng thương người, luôn cho những

người có số phận không may mắn, mong muốn lấy phần sức nhỏ của mình để chia

sẻ với người khác để họ có cuộc sống tốt hơn.

Các nhân vật đó là người đại diện cho truyền thống, là người phụ nữ Việt

Nam chịu thương chịu khó, giàu đức hy sinh, vị tha, bao dung biết nhường nhịn

những người xung quanh để có mối quan hệ tốt đẹp với tình làng nghĩa xóm. Tác

phẩm ra đời như một hồi chuông cảnh báo đối với những gia đình mà còn giữ nề

nếp truyền thống, giữ lại những giá trị tốt đẹp theo kiểu xưa, nhưng đối với thời hội

14

nhập kinh tế thị trường đầy cơ hội và thách thức thì tất cả không còn phù hợp với xã

hội truyền thống, cũ kĩ hiện đang thay đổi và đang dần mang bộ mặt mới vào cuộc

sống. Xã hội đã không quán xuyến được cuộc sống của mọi người, phó mặc cho họ

làm những chuyện không làm chủ được bản thân.

Trong xã hội vẫn còn pha tạp giữa người tốt và người xấu khiến cho chúng ta

không phân biệt được. Ngoài mặt, họ rất tốt nhưng trong thâm tâm họ luôn đầy

những thủ đoạn. Đồng tiền đã làm cho con người bị tha hóa về mặt đạo đức, có thể

nói đồng tiền quan trọng hơn tình cảm gia đình. Vì thế, tác phẩm là bài học kinh

nghiệm để chúng ta khắc phục không để cho đồng tiền sai khiến mà đánh mất cả

người thân bạn bè và cả tương lai của chúng ta, ta nên trân trọng những gì mà mình

đang có. Nên kế thừa những gì được cho tốt đẹp, kế thừa và phát huy phải có chọn

lọc những gì được cho là tốt đẹp và thời hiện đại cũng thế chúng ta không nên đi

quá những qui luật của xã hội. Qua đó, tác giả cũng phê phán xã hội đương thời đã

không chăm lo đến đời sống của nhân dân, không dẫn dắt họ vào những cuộc sống

tốt đẹp mà để cho họ bị đồng tiền đưa đẩy họ vào đời sống sai lầm.

Tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình dài hơn mười tập, nó

xoay quanh nói về gia đình, gia đình là tế bào của xã hội và những ý thức của người

phụ nữ Việt Nam

1.2.3.2. Giá trị nghệ thuật

Qua tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, ta thấy tác giả thành công trong việc

xây dựng hình tượng nhân vật. Hình ảnh chị Hoài xuất hiện vào chiều ba mươi tết,

nhưng đặc biệt nhất là Lý, đó là nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm, một người luôn

có nhiều biến động nhất, là một người tốt nhưng song song đó còn có những thói hư

tật xấu mà chưa bộc lộ ra nhưng rồi đến cuối cùng cũng phải bộc lộ. Ngoài ra, tác

giả còn sử dụng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật; nhân vật Luận là đại diện cho

trí thức bởi thế tất cả tình huống xảy ra Luận đều suy ngẫm để đưa ra cách giải

quyết tốt nhất, những nhân vật đó luôn nghĩ về mặt tích cực trong cuộc sống.

Nghệ thuật xây dựng ngoại hình nhân vật: Trong tiểu thuyết Mùa lá rụng

trong vườn ta thấy nhiều nhân vật có ngoại hình và tính cách khác nhau, được thể

hiện nhiều cung bậc và sắc thái khác nhau của từng nhân vật. Từng nhân vật, ngoại

hình được miêu tả hết sức cẩn thận những nhân vật chính diện hay phản diện, có

những điểm chung hay khác nhau ở một góc độ hay một khía cạnh nào đó để cho

15

người đọc cảm nhận theo cách nghĩ của mình, nhìn ngoại hình thì ta có thể thấy

được con người đó có suy nghĩ như thế nào. Lý là người thích ăn diện, thích làm

thay đổi và luôn coi mình hơn người khác về mọi mặt, luôn khinh rẻ mọi người

xung quanh, cô luôn hạnh phúc khi thấy không ai bằng mình. Còn Phượng ăn mặc

giản dị, không thích bon chen với người khác, cô là người đại diện cho truyền thống

đại diện cho người phụ nữ Việt Nam, Phượng là người hết mực yêu thương và chăm

lo cho gia đình và biết quan tâm người khác.

Đối thoại, được tác giả sử dụng ngôn ngữ giao tiếp giữa các nhân vật với

nhau trong tác phẩm để làm rõ một số vấn đề, vấn đề được mọi người nói xung

quanh về chủ đề ngày tết, lúc mọi người sum vầy bên nhau, hỏi thăm sức khỏe, sự

nghiệp và chia sẻ về những khó khăn trong đời sống từ đó đưa ra những ý kiến để

mọi người cùng tranh luận làm cho bầu không khí thêm sinh động hơn.

Độc thoại nội tâm nhân vật, con người luôn có nhiều suy nghĩ trăn trở những

lúc khó khăn mà chúng ta không thể giải quyết được từ đó làm cho con người luôn

băn khoăn về những hướng để giải quyết mọi chuyện một cách tốt nhất. Và chúng ta

cũng thấy tác giả còn cho các nhân vật hành động theo mục đích, suy nghĩ của cá

nhân mình, nhưng những hành động đó vẫn nằm trong khuôn khổ giới hạn nó chưa

đi sâu và quá đà của từng nhân vật, tác giả vẫn còn hạn chế về hành động của các

nhân vật.

Ngôn ngữ giản dị, đưa lời ăn tiếng nói hằng ngày vào trong tác phẩm vì thế khi đọc

tiểu thuyết thì chúng ta có thể hiểu rằng tác phẩm nói về vấn đề gì? Để từ đó đưa ra

nhận xét của mình.

Giọng điệu văn xuôi của Ma Văn Kháng đa thanh biến qua theo điểm nhìn

trần thuật của tác giả. Khi nói về cái hùng, cái lý tưởng còn có giọng điệu trữ tình

lãng mạn pha trộn. Bên cạnh đó còn nổi lên một giọng điệu xót xa, ngậm ngùi gắn

với cảm hứng bi kịch và giọng suy tưởng.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các thủ pháp nghệ thuật như: Trần thuật, tổ

chức tác phẩm… Ma Văn Kháng luôn có những đổi mới, đổi mới toàn diện và sâu

sắc trên những khuynh hướng sáng tạo nghệ thuật về thi pháp và phong cách nghệ

thuật.

Nghệ thuật của Ma Văn Kháng được Phong Lê nhận định; “Ma Văn Kháng

lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu, tốt lành. Có thể nói đó là

16

một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa. Cái hiệu quả thanh lọc này vốn giành cho nghệ

thuật; và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời

mới có thể làm nổi.

Với những thủ pháp nghệ thuật tác giả đã tái hiện lại cuộc sống của con

người vào thời điểm kinh tế khó khăn, nhưng do sự mở rộng giao lưu kinh tế thì kéo

theo những cái xấu cái ác làm cho con người không biết như thế nào. Tác phẩm ra

đời đã phản ánh phần nào cuộc sống của họ, con người sống ở môi trường nào thì

thích nghi ở trường đó và con người cũng thế khi sống ở thời kì đất nước chuyển

17

mình thì con người cũng theo đó mà sống.

CHƯƠNG 2: NHỮNG PHẨM CHẤT CAO QUÝ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN

2.1. Những phẩm chất cao quý và những hạn chế của người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn

2.1.1. Sự đảm đang tháo vát

Đối với người phụ nữ công việc nội trợ đã là một phần quan trọng của xã hội

xưa cũng như hiện tại, bởi chúng ta thấy ngoài công việc nhà nước thì việc bếp núc

đã trở đã thứ thiết yếu không thể bỏ qua. Trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn

của Ma Văn Kháng cho ta thấy được qua nhân vật Lý, Lý là một người đảm đang

chăm lo cho từng thành viên trong gia đình. Đặc biệt, Lý là một cô gái đẹp lại khéo

tay, công việc nào cũng không gây cho khó khăn với cô, bởi vậy ta thấy khi Tết đến

biết bao nhiêu công việc bận rộn cần có một bàn tay khéo léo, biết sắp xếp công

việc. Do đó, Lý đã đáp ứng được yêu cầu đó, những đoạn văn tác giả miêu tả sự

đảm đang của Lý từ việc đi mua các thực phẩm chuẩn bị cho ngày Tết cổ truyền của

dân tộc ta: “Phượng này, đây là hai trai Lúa mới về. Tranh nhau mãi với chúng nó

mới có được đấy! Thằng cứ đem một giành từ Nhà máy Rượu về. Tớ phải mua

ngay: “Để tao hai chai trả công tao đi liên hệ Hứ, để cho giám đốc! Giám đốc đâu

có cái lí ăn tranh của công dân. Đưa đâu!” cái xúp lơ này để xào với thịt bò. Măng

lưỡi lợn đây, ngâm luôn đi. Miến Việt đấy, khéo gẫy. Còn đây thịt để gói bánh. Cô

rửa lâu chưa? Đậu xanh thế nào sao rồi?.” [8; tr.13]. Tất cả công việc đó đều do

một tay Lý sắp xếp lo tất cả mọi thứ trong gia đình chỉ có Lý mới có khả năng quán

xuyến công việc một cách tốt nhất. Lý năng nổ am hiểu về tất cả mọi thứ từ cái nhỏ

nhặt cho đến chuyện lớn trong gia đình đó là vật dụng cần thiết và cũng không thể

thiếu trong những ngày Tết: “Này, trông miếng thịt có ngon không? Có tay trong

cũng có khác chứ. Để tôi lọc thăn để làm mọc. Ba cân rưỡi, giá cung cấp. Chưa đầy

chục bạc, không cho không! Hai cái làn đã rỗng không. Trên mặt bàn, dưới nền đá

hoa là bức tranh tĩnh vật ngổn ngang, mầu mỡ, đầy phong vị ngày Tết (…) Đấy,

không nhắc lại quên. Phiếu được một trăm lá, có một người ở Sở đi Liên Xô tham

quan, tôi gửi cho thằng Dư rồi. Tôi sẽ mua ngoài bù vào. Gì nữa nhỉ? Khéo ăn phải

cháu lú. À, hung lìu, cà ri, sáng mai cô nhắc tôi mua nhé. Đấy xuýt nữa lại quên, ớt

18

! sáu hào một quả đấy ! Còn để ở xí nghiệp, mai đem về. Ông Đông nhà này ấy à,

bữa nào mà không có ớt là phàn nàn suốt buổi, ăn ớt cứ ngon như ăn kẹo.” [8;

tr.13-14]

Tất cả mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay cô đảm nhận, cô để ý đến

những cái nhỏ nhặt và sở thích của từng thành viên trong gia đình. Do đó, ta thấy

được Lý là một nhân vật rất chu đáo luôn quan tâm mọi việc diễn ra xung quanh

mình với tính năng nổ được các thành viên khen cô là người năng nổ tháo vát:

“Trời, chị Lý bàn tay của chị là bàn tay vàng. Trông chị lọc thịt kia: Lưỡi dao bào

mảnh như lá lúa, sục vào tản thịt, rạch rạch, tở lát dà, gọn như xén, trông có cả mỡ,

cả nạc, ướp muối tiêu nước mắm (…) Tất cả, vừa nãy, còn ngổn ngang thốn, mẹt,

nồi niêu, gạo, đỗ, lá, lạt, giờ đã tròn chịa ba chục cái bánh gói không khuôn mà

chiếc nào cũng giống chiếc nào, cao thanh, vuông góc, đều như đúc.” [8; tr.29–30].

Điều này cho thấy Lý là một người sắc sảo, dứt khoát, không đắn đo khi làm một

việc gì đó, cứ theo từng nhát, một mạch, những công việc đó chị không hề được

một ai dạy bảo mà đó là bản năng của người một người phụ nữ đảm đang biết lo

cho gia đình.

Sau một ngày làm việc cực nhọc thì giờ đây mọi thứ dưới bàn tay của người

phụ nữ đảm đang đã đâu vào đó không hề sai sót gì, về mọi thứ để được một cái Tết

thật đầy đủ và ấm cúng thì Lý đã cố gắng trong việc bếp núc của mình chỉ trong

vòng nột thời gian ngắn thì tất cả mọi thứ đã hoàn toàn đâu vào đấy: “Một ngày

ngắn ngủi qua, toàn bộ công việc chủ yếu của cái Tết lớn đã đâu vào đó. Phượng

như cái bóng bám theo Lý, lúc nắm đỗ, lúc bổ củi, lúc rửa rau, khi bóc tỏi. Phượng

là một cái tay cái chân của Lý, nhất nhất mọi việc đều thực hiện theo sự chỉ đạo của

Lý. Cạnh Lý Phượng càng lúc càng thấy mình lóng ngóng, tuềnh toàng, nhạt nhẽo

thế nào.” [8; tr.30] Tất cả những việc đó chỉ có những người khéo tay hiểu tất cả

mọi thứ như nằm lòng mới có thể làm được. Đó thể hiện sự chu đáo của người phụ

nữ Việt Nam của chúng ta, họ có thể làm được mọi thứ, và tất cả đều nằm trong sự

kiểm soát của Lý từ việc làm các món ăn đến việc mua sắm trong những ngày Tết.

Một người luôn bận rộn với công việc bếp núc, cô ta say sưa làm việc và

luôn chỉn chu trong từng cái nhỏ nhất. Vì thế, công việc vẫn không thể nào hết

được, mặc dù đã có Phượng cùng làm, nhưng vẫn không sao rảnh rỗi: “Lý cười nức

nẻ. Công việc hòa quyện hai người. Chuyện tâm tình quấn quýt say sưa mà Lý vẫn

19

không sao nhãng mảy nay công việc.

Thôi, thổi lửa cho nồi bánh đi, Phượng ! Nhớ đun đều. Nghe lạch cạch là

cho nước vào thêm. Đặt cái chậu thau nước lên nắp thùng này cho nó nóng (…) Lý

kéo cái thớt đại gỗ nghiến ra bếp, đặt miếng thịt bò định thái để nấu sốt vang, sực

nhớ lại bỏ đó rồi chạy vào nhóm bếp dầu rán mỡ. Phượng nhấp nhổm quanh thùng

bánh.”[8; tr.32]. Tất cả đã nói lên không khí ngày Tết thật bận rộn, không có thời

gian nghỉ ngơi của những người phụ nữ, luôn nghĩ cho gia đình của mình cũng như

muốn cho cái Tết truyền thống được ấm cúng bên những người thân và gia đình. Và

chúng ta không chỉ thấy ở tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của tác giả, mà chúng

ta vẫn còn thấy trong truyện ngắn của nhà văn cũng đều xuất phát từ những dịp Tết

để chứng tỏ người phụ nữ họ đảm đang, tháo vát luôn lo lắng cho gia đình trong

những ngày đặt biệt này. Đây cũng là ngày để cho các chị em phụ nữ trổ tài năng

khiếu nấu ăn của mình. Không chỉ đảm đang trong việc bếp núc người phụ nữ còn

chịu thương chịu khó trong công việc nặng nhọc. Đó là những người phụ nữ dám

nghĩ dám làm, mạnh mẽ, họ làm theo lí trí và con tim của mình mách bảo.

Qua đó, cây bút Ma Văn Kháng không chỉ miêu tả thành công về cuộc sống

đời thường qua tiểu thuyết mà còn thành công trong lĩnh vực truyện ngắn, ông miêu

tả rất thành công về hình ảnh người phụ nữ trong thời buổi kinh tế khó khăn, nhưng

vẫn luôn nghĩ cho gia đình và con thơ có những buổi sinh hoạt trong ngày Tết thật

vui vẻ bên gia đình

Hầu như trong hội nhập kinh tế thì con người luôn có nhiều thay đổi, nhiều

vấn đề xảy ra, nhưng cho dù thế nào ta vẫn thấy được tính cách của người phụ nữ

Việt Nam sự chịu thương chịu khó luôn hy sinh cho gia đình, bao dung, vị tha luôn

chăm chút từng cái nhỏ nhặt nhất mà không ngại khó khăn lúc nào cũng nghĩ đến

gia đình là tất cả, cho dù đó là điều nhỏ nhặt của cuộc sống đời thường: “Hăm ba

tháng chạp ông táo chậu trời, Lý thắp hương trên bàn thờ, làm mâm cỗ nhỏ, nói

đùa: tôi cung đốn chu đáo để ông Táo lên báo cáo với Giời toàn những việc tốt đẹp

của gia đình ta nhé.” [8; tr.40]. Đây không phải mê tín dị đoan mà đó đã trở thành

phong tục tập quán của người Việt Nam, cứ mỗi lần Tết đến vào ngày hai mươi ba

Tết đưa ông Táo về trời để báo cáo những việc tốt của mỗi người trong gia đình, sau

đó các chị em phụ nữ luôn có nhiều công việc trong những ngày gần Tết và trong

Tết: “Bấy giờ, ở dưới bếp là hai chị em dâu Lý – Phượng. Hai người đang tíu tít

20

nấu nướng, sữa soạn cho bữa cỗ tất niên đêm ba mươi.

Lý như biến đổi thành một phụ nữ khác, trẻ ra đến hơn chục tuổi, kể từ

gương mặ đến âm điệu giọng nói. Trưa nay, lúc Lý đi làm đầu rồi đèo cây quất năm

trăm đồng về!” [8; tr.53]. Không những thế, chúng ta còn thấy tài quán xuyến gia

đình của Lý đã làm cho mọi người phải nể bởi: “Căn bếp nhỏ náo động trong bếp

trật tự đến kì lạ. Từ trước tới giờ, mình Lý lo toan việc cơm nước cho cả gia đình.

Ông cụ Bằng và Luận từ ngày chuyển ngành làm nhà báo ở thành phố, ăn cơm

chung với gia đình Lý. Lý quán xuyến mọi chi tiêu trong gia đình lớn này. Bà quản

gia thật là một người có tài nội trợ, gia chánh, nữ công. Và bây giờ bà om sòm, vui

vẻ sai phái, cắt đặt, thúc giục và cùng làm mọi việc với Phượng.

Căn bếp xếp gọn gàng, đồ nào thứ nấy, không thiếu thốn, chấp vá. Dao to,

dao nhỏ, hơn chục con đã thuê mài tinh tươm từ nửa tháng nay; Thịt gà luộc chặt

dao phay lưỡi sáng rợn, nhát nào đứt nhát ấy, thẳng như kẻ chỉ. Hạt tiêu, hành mỡ,

cà ri, hùng lìu, mì chính, bột canh, nước mắm các loại đã sẵn sàng. Và các món

sào, nấu, luộc, rán, quay… theo thứ tự đã định, lần lượt hiện ra cái mâm đồng đánh

sáng choang, với những bát đĩa sứ Giang tây trắng bóng, viền chỉ vàng, cao quý

như những đồ mỹ nghệ. Những thứ ấy bà Bằng để lại, Lý thu vén cất giữ ở cái kho

nhỏ trên gác, cạnh buồng mình – cái kho chỉ có Lý mới có chìa khóa.

Một bàn tay thao vát, chăm chỉ và hết sức khéo léo đã cái gia đình có ba

người đàn ông bẩm sinh vốn phóng coi nhẹ và xa vời chuyện cơm nước này.” [8;

tr.54 -55].

Người con gái lúc nào cũng nghĩ đến những đều nhỏ nhặt và chi tiết. Vì thế,

trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn ta thấy được sự tỉ mị khôn khéo ấy qua bàn

tay của Lý muốn làm cho buổi cúng cơm gia đình có phần hấp dẫn hơn. Do đó, cô

làm những bông hoa để trên đĩa men: “Lý cười, cắt khoanh giò, xắt hình nan hoa,

đặt lên hai cái đĩa men, sắp vào mâm, đứng dậy bẻ lưng rồi ngồi xuống bốc tỏi

cùng Phượng.” [8; tr.57]. Đến lúc thì mọi thứ đã sẵn sàng cho việc cúng tất niên và

tất bật làm ra để chúng ta thưởng thức những sản phẩm đặc biệt mà không ai có thể

có được sự ấm áp của gia đình trong ngày Tết chẳng hạn: “Lúc này ngã chiều. Hai

mâm cỗ đã sắp sẵn, chỉ còn hai bếp dầu đang đun sôi mọc, nồi vây. Hai người phụ

nữ đang lau bát đĩa, bỗng cùng ngẩng lên, Luận đứng ở bếp lúc nào, đang hít hít.

Chút nữa được ăn cỗ của chị Lý thật bằng ăn yến của vua rồi. Nấu ăn ngon

21

nhất Hà Nội này là chị Lý đấy, chị Lý ạ.

Chị đặt chồng bát xuống, mồm cười tung tóa.” [8; tr.60].

Vào chiều ba mươi Tết người phụ nữ xuất hiện đó là chị Hoài, vì thế mọi

người trong nhà đều xôn xao ra đón và trò chuyện với nhau để hỏi thăm sức khỏe,

đến nổi quên cả việc cúng tất niên và Lý đã nhắc khéo ông cụ Bằng để cúng những

thứ mà Lý đã chuẩn bị sẵn chỉ còn có mỗi việc là cúng gia tiên: “Câu chuyện của

người phụ nữ nông thôn có vẻ kề cà đã đưa cuộc gặp gỡ ra khỏi những chấn động

tình cảm bất thường. Và Lý đã hí húi xếp xong mâm cúng, nhẩy tứ cái ghế đẩu

xuống, xoa xoa hai bàn tay rất ý tứ trước ông Bằng:

Ông ạ, con đề nghị thế này, hàn huyên còn nhiều chuyện, lát nữa tha hồ.

Giờ, mời ông lại khấn cho lễ cúng gia tiên bắt đầu ạ.” [8; tr.65].

Khi Tết đến, Lý đã chuẩn bị rất nhiều món ăn để cho thấy được sự ấm cúng

của gia đình. Vì thế, ta thấy được sự khéo léo và tháo vát của Lý đã có một bàn thức

ăn thật thịnh soạn: “Thật là một mâm cỗ quá ư thịnh soạn vào cái thời điểm đất

nước còn rất nhiều khó khăn sau hơn ba mươi năm chiến tranh và so với đồng

lương có hạn của cán bộ, công nhân, viên chức lúc này.

Tràn trề lên mặt bàn, chạm cả vào cành quất Lý cố tình để sát vào mâm cổ

cho bữa ăn thêm đẹp, thêm sang, là la liệt bát đĩa ngồn ngộn các món ăn. Ngoài các

món thường thấy ở Tết như gà luộc, giò, chả, nem, măng hầm chân giò, miến nấu

lòng gà, xúp lơ sào thịt… món nào cũng mang dấu ấn tài hoa của người chế biến –

là các món khác thường như gà quay ướp với hùng liu, vịt tần sen, chả chìa, mọc,

vây…

Đặc sắc nhất, mà có lẽ Lý muốn bộc lộ khiếu năng, cùng tấm lòng mình

nhiều nhất ở đó, là các món vịt tần, vây và mọc, nhất là các món mọc. Chị đã rất tỉ

mỉ, và kĩ tính hết sức khi chế biến món này. Miếng thăn được chọn lựa, giã thật

nhuyễn nhừ thay cho giò sống, được chính tay chị trộn với mọc nhĩ, nấm hương, rồi

nặn thành từng viên tròn trĩnh. Nồi nước dùng đảm bảo phải trong veo. Và chính

tay chị vớt, chia đều ra bát nhỏ.” [8; tr.68]. Đó là năng khiếu của người phụ nữ Việt

Nam, họ không những nấu ăn ngon mà còn giỏi chế biến các món ăn cho đẹp mắt.

Lý chăm lo cho gia đình từng chút một và luôn quan tâm đến những sở thích của

mọi người và Lý luôn mãn nguyện với những việc mình đã làm cho họ. Đôi khi chỉ

22

được một lời khen từ chú Luận, Lý coi đó là niềm tự hào của bản thân mình.

Không chỉ trong những ngày Tết chúng ta thấy sự đảm đang của Lý mà trong

cuộc sống đời thường ta cũng thấy cô luôn chăm chỉ từng chi tiết. Khi Phượng

muốn làm bánh trôi nước, Lý đã nhanh nhảy lấy từ tay Phượng về phía mình:

“Phượng ! Cô làm bánh trôi nước đấy à? Để đấy tớ xem nào. Sao lại xay bột khô,

hả đồ khỉ. Lần sau nhớ xay bột ướt nhé. Đưa phích nước đây. Pha thêm nước lã

vào. Nóng già thôi, để tớ ngào cho.

Lý xô vào buồng, như một hơi gió, lại nhe một xoáy lốc bất thình lình, giằng

cái xoong bột, đổ nước, thọc tay vào bóp, ngào (…) Thôi được rồi đấy – Lý rửa tay

– Bột này phải để độ năm tiếng cho nó nở hết. Rồi tớ sẽ bảo cách. Bánh trôi, bánh

chay là thứ bánh dễ làm nhất.” [8; tr.113 -114]. Đó là một người phụ nữ hầu như

chuyện gì cũng biết làm, không có gì gây khó khăn đối với cô, cô giống như người

rất rành về việc đó vậy và luôn chỉ từng chi tiết để cho cô em dâu sau này còn biết

làm một nồi bánh hấp dẫn và ngon hơn.

Lý là một người đảm đang. Bởi thế, ta thấy tất cả mọi thứ từ những ngày Tết

cho đến cuộc sống đời thường những món ăn đều do một tay Lý làm. Sau khi công

việc ngào bột đã đâu vào đó thì hai chị em dâu đã dẫn nhau đi tới những hàng bún

nổi tiếng, nơi đó chỉ giành cho những người hạng sang mới có thể ăn được. Khi ăn

xong hai người tiếp tục công việc của mình: “Về tới nhà, Lý lăn ra giường, đòi

uống nước. Uống hết hai cốc nước lọc, Lý chồm dậy: “Để đấy, tao không khiến mày

sờ vào”. Một mình Lý xắt đường phèn, nặn bánh. Ngón tay Lý véo, nặn, xoay nhoay

nhoáy núm bột. Mắt Lý đau đáu cuốn hút. Lý trộn đường, vừng, đậu làm nhân bánh

chay. Lý thái dừa nhỏ mướt như sợ miến. Lý kêu: Hương bưởi đâu, không mua à?

rồi chạy lên buồng lấy một cái lọ nhỏ xuống, mở nắp đã thơm ngào ngạt cả buồng.

Lý thả vào nồi nước sôi cuộn rồi ghé lưng nằm xuống giường, đưa cánh tay

đè hai con mắt.

Chắc Lý mệt, ngủ. Phượng ngó vào nồi nước. Những viên bánh chính nổi lờ

đờ. Bỗng Lý chồm dậy, oang oang:

Phải ba chìm bảy nổi mới vớt được, Phượng. Bánh chay vớt ra phải đổ nước

bột đao vào ngay, không là nó vỡ nước, rồi rắc hương bưởi lên.” [8; tr.117 – 118].

Sự sẻ chia của Phượng với mẹ con Cừ được thể hiện ở thái độ lo lắng về người em

dâu đầy bất hạnh này. Khi gặp được mẹ con cô Cừ, Phượng nhận ra rằng đây là

23

những con người có số phận không may mắn và Phượng đã giúp ba mẹ con họ. Khi

thấy như thế cô đau lòng và chị thể hiện sự cảm thông của mình đối với mẹ con Cừ,

chị đã nấu mì cho họ ăn để cho họ có thế qua khỏi cơn đói: “Thôi, cô và hai cháu

lên được tới đây là mừng lắm rồi. Chúng tôi ở bên này cũng sốt ruột lắm về tình

hình cô ở dưới đó. Khó khăn gì rồi cũng tìm cách gỡ được. Ở đây, đã có các bác.

Giờ, đi đầu mệt, ba mẹ con nghỉ đi tôi nấu nồi mì ăn cho đỡ đói đã nhé.

Phượng nhóm bếp dầu, đặt nồi.” [8; tr.146]. Thể hiện sự cảm thông của

mình giành cho người em dâu đã chịu không biết bao nhiêu đau khổ và chị đã giúp

mẹ con Cừ bằng tấm lòng của mình.

Khi nói về sự đảm đang tháo vát thì chúng ta không thể nào quên được hình

ảnh của Lý, nhưng ta cũng thấy ngoài Lý còn có người em dâu đó là Phượng.

Những hình ảnh người phụ nữ đảm đang lại xuất hiện ở cuối tác phẩm, nhưng lần

này không phải là Lý mà trái lại là Phượng, cô là một con người luôn quan tâm

người, chia sẻ mọi thứ Tết năm nay Lý đã bỏ nhà ra đi nên mọi việc vào những

ngày Tết cô phải chăm lo trong việc nấu nướng, cô phải sắm mọi thứ như: “Hoa,

cây quất, nào mứt, nào bánh còn có cả pháo nữa.” [8; tr. 272]. Tất cả lại do một tay

cô đảm nhận công việc chính cho gia đình, những cảnh tượng ấy lại làm cho

Phượng nhớ về cái Tết năm trước, một cái Tết đầy vui vẻ khi có sự chỉ dẫn của Lý.

“Ba mươi Tết, ngay từ sáng, Phượng vào bếp.

Nấu nướng cỗ bàn mấy ngày Tết cho gia đình, đó là việc của Phượng. Từ

lâu, chị đã trở thành người nội trợ và hơn thế nữa, chị đã là linh hồn của cuộc sống

ở căn nhà này, nơi hoàn toàn chỉ có tình yêu thương chi phối các quan hệ hằng

ngày.

Bé Nga giúp mẹ rửa rau, vo gạo, tỉa hoa su hào, đu đủ ngâm dấm ớt, vừa

làm chỉ từ cố nhớ lại từng cử chỉ, từng lời dặn của Lý.” [8; tr.275]. Chúng ta thấy

sự đảm đang tháo vát của con người Việt Nam, một mặt là do họ được cha mẹ dạy

từ bé như bé Nga con của Phượng trong truyện, Vì thế, khi lớn lên việc bếp núc Nga

sẽ thành thạo, đó là sự dạy bảo của người xưa, như những người bà, người mẹ, để

truyền cho con cháu sau này còn biết chăm lo cho gia đình bên chồng và gia đình

nhỏ của mình nữa. Tất cả ta thấy Lý là một điển hình trong việc bếp núc, cô rành

24

từng thứ một, so với giới trẻ hiện nay Lý là người phụ nữ lý tưởng đáng được khen.

2.1.2. Ý thức nếp nhà

Có thể nói đây là những gì phụ nữ Việt Nam luôn gìn giữ, người đời thường

nhắc tới làm thế nào có cuộc sống ổn định, làm thế nào để giữ nét truyền thống của

người xưa để lại cho đến hiện nay và tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn

Kháng đã phần nào phản ánh về nếp nhà của người phụ nữ trong xã hội đang thay

đổi từng ngày, mà muốn giữ cái nề nếp truyền thống ấy thì rất khó đối với con

người đang sống trong thời hội nhập kinh tế như hiện nay.

Một người luôn coi nề nếp gia phong đó là cụ Bằng ông muốn giữ lại tất cả

để thấy được con người xưa và con người hiện nay có khác nhau hay không hay họ

vẫn có những điểm chung: “Một người coi nề nếp gia đình luôn đặt lên hàng đầu về

cái đạo đức cũng cái lối sống của mọi người trong xã hội và cả trong gia đình ông

cụ Bằng chẳng hạn: nó từ ông Bằng tỏa ra, từ khung cảnh nếp sống của cái gia

đình vốn coi trọng tinh thần, đạo đức tỏa ra, nhuần thấm với mọi người, củng cố và

nhân lên, kể từ khi Lý về làm dâu, sống ở đây hai chục năm, và Phượng, sau gần

chục năm trời công tác ở tỉnh lẻ, giờ mới được chuyển về sống với chồng ở căn nhà

này, trong thành phố này.

Sự kinh nể phản ánh một nề nếp gia giáo cổ truyền, hai cách bức, đã trở nên

lạc lỏng và hiếm hoi những ngày này, được tạo ra từ chính bản thân ông Bằng. Con

người là phong cách. Ông Bằng là vậy: Đĩnh đạc, khoan hòa, mực thước, cận trọng

đến khắt khe. Ông sống cố định với những chuẩn mực đã được xác định, và luôn

gắng sức tạo nên sự ổn định trong tâm tưởng bằng một bảng lĩnh kiên nghị, có ý

thức, ngay từ khi còn là một viên chức bưu điện trẻ, sau đó là nhà giáo, nhà báo, từ

khi chưa có dấu hiệu lão hóa và xuất hiện căn bệnh mùa thu của người đời – bệnh

cao huyết áp.

Sự kinh trọng có sắc thái dè dặt của con dâu, tuy vậy cũng còn là một sự tế

nhị một cách né tránh của những phật lòng, bất ý thường hay đột ngột xảy ra ở tuổi

già, có thể xảy ra những chuyện bất hòa vô cớ trong gia đình và tổn thương đến một

cơ thể già nua đã sơ cứng các động mạch và trái tim đã quá mệt mỏi sau hơn bảy

chục năm thời liên lạc làm việc.” [8; tr.17]. Ông Bằng là người luôn giữ nề nếp gia

đình, đồng thời cũng là người được mọi người cho rằng là người cổ hủ sống ở hội

nhập nhưng lại khá khắc nghiệt với con cháu trong gia đình, ông là người muốn giữ

25

hòa khí mong muốn các con sống hòa thuận với nhau trong những bất hòa, bất ổn

của cái xã hội hiện tại: “Những ngày gần đây đã xuất hiện của sự lủng củng, bất

hòa, bất ổn trong mối tương giao, khiến các thành viên tinh ý phải phấp phỏng lo

sợ về một cuộc khủng hoảng khó tránh khỏi đang nhãn tiền. Gia đình, giọt nước của

biển cả, cá thể của xã hội, liệu có vững vàng trong cuộc sống xây dựng đang có

nhiều khó khăn, lắm bê bối này.” [8;tr. 18]. Một gia đình đang có nguy cơ tan vỡ

bởi đồng tiền chi phối con người, đồng thời cũng là những tính cách khác nhau của

các thành viên trong gia đình đi theo chiều hướng xấu, tình cảm anh em cũng thế.

Xã hội đang biến động, những điều được dự đoán là do lối sống đã đem đến cho con

người những thói hư tật xấu vào xã hội đầy phức tạp. Con cái phải biết chăm lo cho

gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, khi có chồng thì phải yêu thương chồng con và cả

cha mẹ chồng. Vì thế, ta thấy cách đối xử của Phượng đối với ông cụ Bằng đúng và

hợp với đạo lý ông cha ta truyền lại: “Ông xơi nước ạ - Phượng nâng chén trà hai

tay, nhỏ nhẹ.” [8 ;tr.18]. Đó là đạo hiếu làm con mà tất cả mọi người cần phải noi

theo, về cách cư xử cũng như cách nói năng của chúng ta đối với người lớn tuổi

cũng như tác phẩm này đề cặp tới “kính trên dưới nhường” đó là đạo lý của người

Việt Nam chúng ta, ta hãy phát huy cái truyền thống ấy.

Vì thế, ta thấy trong cảnh sinh hoạt nhất là vào những dịp Tết họ mua sắm

đủ các loại thực phẩm đem về làm mâm cỗ để thờ cúng ông bà tổ tiên, đó là phong

phục của người Việt Nam, ngày Tết là ngày sum hợp của gia đình, vì thế lúc nào

cũng có tiếng cười vui vẻ, tràn ngập niềm vui, niềm hạnh phúc đó là những hạnh

phúc của con người trong xã hội. Do đó: “Từ ngữ có giá trị tự thân và cùng với

chúng là giọng nói, là một giọng nói trầm trầm trong khung cảnh một chiều áp Tết,

đã khiến cho những câu nói của ông Bằng giống như một gia điệu buồn, để lại

những vang hưởng bùi ngùi và xao xuyến trong căn phòng, do vậy không khí ngày

Tết nhất đang tíu tít, hào hứng, bỗng như mất đi một cái sinh khí hồ hởn, phấn

chấn, kể cả khi ông Bằng đi tắm và hai người phụ nữ hai làn hàng Tết nặng xuống

bếp.” [8; tr.23]. Niền vui đang có nhưng lại vụt mất bổng lại một thứ gì đó làm cho

không khí ngày Tết mất đi niềm vui chỉ động lại những nỗi buồn trong lòng người

cha đã bảy mươi lăm chỉ vì đứa con hư hỏng và cái xã hội đương thời có nhiều mặt

xấu khiến cho con người không thể chấp nhận, một xã hội chỉ vì đồng tiền mà quên

cả tình cảm gia đình, đạo đức của con người bị tha hóa như nhân vât Cừ sống theo

26

lối sống hiện đại mà quên đi chuẩn mực đạo đức của xã hội là đứa con bất hiếu,

sống chỉ nghĩ cho bản thân mình mà không nghĩ cho đấng sinh thành, công ơn

dưỡng dục, mang nặng đẻ đau thẳng thắn đối đáp khi có những chuyện làm cho Cừ

không hài lòng: “Một lần ba cụ mắng nó, đại để là đánh nó không biết sinh dưỡng,

mang nặng đẻ đau, nuôi nấng, ba mớm của cha mẹ. Anh có biết nó trả lời như thế

nào không? “ Thôi đừng đạo đức giả nữa, Tôi có khiến các người cho tôi ra đời

đâu!” [8; tr.28]. Theo như truyền thống thì con cái phải nghe lời cha mẹ không làm

cho cha mẹ buồn và lo lắng về mình, bởi họ đã sinh ra chúng ta, chúng ta phải biết

nâng niu những gì mà cha mẹ đã cho mình. Không nên làm cha mẹ phải khóc vì

mình, nhưng trong tác phẩm ta lại thấy rõ bộ mặt của con người trong buổi giao thời

họ luôn làm theo những gì họ thích, họ cho là đúng mà không màng đến những

người xung quanh. Rõ ràng những lối sống theo kiểu truyền thống, họ cho là quá cổ

hủ cần đổi mới, cũng xuất phát từ người con hư hỏng của cụ Bằng: “Rõ ràng có một

lối sống đang có nguy cơ hình thành: Coi tất cả chuẩn mực đạo đức là đạo đức giả,

vô bổ, vô lý, coi tất cả các quan hệ tình cảm thiêng liêng với tổ quốc, gia đình, bố

mẹ, anh chị em là vô nghĩa.” [8; tr.28]. Đó là những gì con người sống thiếu trách

nhiệm với gia đình, luôn làm cho những người thân lo lắng cho mình, không cho họ

có cuộc sống ấm êm khi tuổi đã về xế chiều.

Ngày Tết là ngày của mọi người từ xa về hợp với gia đình, ngoài ra chúng

còn thăm hỏi những họ hàng thân thích với mình và cũng là ngày tụ hợp bạn bè của

những người hưu như ông Bằng: “Ngoài cổng có tiếng mở khóa và lao xao tiếng

cười. Mấy bóng áo choáng đi qua vườn cây, rồi có một tiếng rao mừng, chào đón.

Các tổ hưu đã đến hợp buổi cuối năm.” [8; tr.39].

Nhiệm vụ của người con dâu trưởng đối với xã hội ngày xưa thì như thế coi

đó là nhiệm vụ thiêng liêng, nhưng đối với Lý coi đó là sự ràng buộc không cho họ

được quyền tự do, nên Lý luôn từ chối cô coi đó không phải nhiệm vụ của mình,

phải công nhận Lý đảm đang tháo vát những thức ăn trong ngày Tết cô đã mua đầy

đủ chỉ việc đi thăm hỏi họ hàng thì cô từ chối kịch liệt cô cho rằng mình không phải

là dâu trưởng mà dâu trưởng là chị Hoài chứ không phải chị: “Kệ, tớ không đi ! Đồ

ăn thức uống tớ đã chuẩn bị đủ. Ba ngày Tết, ông nào bà nào cứ việc bóc hành ăn

với thịt mỡ, dưa hành, thịt gà, thịt đông đấy. Tớ có kế hoạch của tớ. Khác đi, chứ cứ

một kiểu mãi à? Lúc nào cũng một kiểu một điệu nhạc thì ớn lạnh xương sườn lắm.

27

Mà Phượng này, ra riêng, tôi với cô xin phép đi chơi hội hè cho sướng cái thân. Tội

đếch gì. Khổ mãi rồi ! Cái già nó xồng xộc đến sau lưng rồi còn gì.” [8; tr.39]. Đó

là cách nghĩ của con người thời hội nhập không chịu đi thăm họ hàng. Vì thế, Lý

cho đã quá cổ hủ rất quen thuộc chỉ một nhịp điệu nhạc nên Lý cảm thấy chán ngán

nên cô muốn thay đổi về mọi mặt, cô coi đó không cùng nhịp sống với mình. Do đó,

Lý muốn thay đổi cuộc sống cô muốn làm những gì mình thích mà không màng đến

trách nhiệm của một người dâu trưởng. Cô đã đẩy trách này cho một người mà

không có liên quan đến cuộc sống và sinh hoạt đối với gia đình này đó là chị Hoài,

hồi xưa có thể nói chị Hoài là người dâu trưởng nhưng Tường đã hy sinh nên Hoài

đã đi thêm bước nữa. Vì vậy, ta không thể coi Hoài là dâu trưởng nhưng với tấm

lòng vị tha và yêu thương con người nên Hoài đã làm tròn trách nhiệm của dâu

trưởng của mình như \ lúc xưa hay cũng như hiện nay.

Trong cuộc sống luôn có nhiều thay đổi, vì thế ta thấy cuộc sống của ông

Bằng đã trải qua bao nhiêu khó khăn gian khổ để nuôi các con người lớn khôn đã có

lúc lão buồn tủi về sự nghèo nàn của mình, hai vợ chồng điều gán nhịn nhục sống

qua ngày, khi đó ông thấy có nhiều người tốt lắm, nhưng cũng không hiếm kẻ xấu

đang len lỏi trong xã hội đen tối, một con người đầy nghị lực, ý chí phấn đấu của

ông Bằng đã làm cho chúng ta cảm động, khó khăn không lùi bước mà trái lại càng

làm cho ông vững bước đi tiếp, đoạn văn cho thấy sự ung dung đó của cụ Bằng:

“Ung dung tự tại, ý chí nghị lực một cách thâm trầm, cốt cách ấy càng cố định về

sau đoạn trường mấy chục năm đã trải, gieo neo không ít, cơ cực đã nhiều.” [8;

tr.42]. Dù ở xã hội nào thì ông Bằng vẫn giữ cốt cách ấy cho tới già, ông giữ lại tất

cả và truyền lại cho con cháu một phong thái tự tin bước vào đời sống hằng ngày.

Cho dù cuộc sống có nhiều biến đổi nhưng phong thái đó, vẫn không đổi thay.

Trong xã hội chúng ta cũng thấy có rất nhiều người tốt nhưng đâu đó ta vẫn

thấy cũng không ít kẻ xấu, vì thế đã trải qua biết bao nhiêu khổ cực đã niếm đủ bao

đau thương để nuôi các con thì giờ đây ông đã yên tâm phần nào về con cái của

mình. Ông không ham muốn những đồng tiền bất chính, ông muốn hai bàn tay trắng

dựng nên cơ đồ, ông rời xa cái lối sống xô bồ của thành thị đã làm mất nhân tính

của con người, dù khó khăn nhưng ông không hề than trách về bất cứ điều gì, điềm

tĩnh suy nghĩ đưa ra cách giải quyết tốt nhất. Trải qua bao thăng trầm nhưng ông

vẫn một tư thế không khuất phục, ông lấy cái truyền thống để so sánh với cái xã hội

28

hiện tại để từ đó lấy cái cớ để dạy các con sau này, như chúng ta thấy mấy chục năm

va chạm với xã hội để cho các con noi theo như: “Mấy chục năm, tiếp xúc va chạm

không ít. Bạn tốt lắm, kẻ xấu cũng chẳng hiếm. Lúc thênh thang vui vẻ, khi thì tủi hổ

nhục nhã, niếm trải đủ vành. Hành trình trên cõi đời này như thế không còn ít ỏi

năm tháng, nay có thể yên tâm củng cố cốt cách tinh thần riêng: Lấy sự bình ổn,

cân bằng làm căn bản, dùng thiện tâm để đối xử, bằng sự giúp cho đời để hiện diện.

Con cái được nuôi dưỡng trong tinh thần luôn tu rèn bổn phận, thực bất cầu bão,

cư bất cầu an, coi trọng đạo lý, rời xa phù phiếm, kết hợp đạo đức cộng sản và tinh

hoa của cha ông. Gặp khi trắc trở thì kiên trì, nhận nãi, không nao nung ngã lòng,

bởi hiểu: Có thành công của kẻ tiểu nhân, có thất bại của kẻ quân tử.” [8; tr.42].

Đó là ý thức gìn giữ nếp nhà của ông cha ta ngày xưa.

Ông cha thường nói: “Tố nhân, bất khả hữu khinh ngạo thái. Nhiên, bất khả

vô khinh ngạo cốt.” Tức là: “Làm người không nên có cái dáng khinh ngạo, nhưng

lại không thể không có cốt cách khing ngạo.” [8; tr.44]. Chúng ta không nên khinh

những người nghèo khổ hơn mình mà hãy giúp đỡ họ, nhưng trong cái xã hội ấy

được mấy ai có suy nghĩ như cụ Bằng, đã là người thì ắt hẳn sẽ có những người lợi

dụng lúc họ không để ý để cướp đoạt của cải vật chất của người khác, bởi xã hội

bấy giờ đồng tiền là trên hết, luôn đưa đẩy con người vào những lối sống thực dụng.

Chiến tranh qua đi, đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, hàng loạt những

tác phẩm ca ngợi cuộc kháng chiến chống thực dân đã được mọi người chú tâm vào

ngợi ca anh hùng dân tộc mà quên đi các mối quan hệ gia đình, anh em: “Nhưng

hình như có một thời kì người ta có cái ảo tưởng là coi nhẹ các quan hệ gia đình.

Các quan hệ cha con, vợ chồng, anh em… hình như không gì bàn bạc nữa.” [8;

tr.49]. Trong khi đó ta thấy xã hội có nhiều biến động đặt biệt là các quan hệ gia

đình đang từng ngày có nhiều thay đổi cần đến ngòi bút của các nhà văn để phản

ánh cuộc sống cũng như tính cách của con người trong xã hội hiện nay. Với nhà

văn, ông muốn xây dựng lại con người cũng như quan hệ của từng gia đình:

“Khuynh hướng củng cố gia đình, gia tộc, theo con, nó thể hiện một sự phản ứng,

chống lại cái vô đạo lý lúc này hình như có hơi nhiều lên. Không hiểu vì không khí

Tết nhất gợi nhớ không mà sao con thấy sao lúc này cái ý nghĩa thiêng liêng của

gia đình, tổ tiên lại gia tăng đến mức kì lại thế. Gia đình, hình như là cố thủ bảo vệ

phẩm giá. Con thấy thế này: Xã hội đang có sự bước chuyển, cái xấu xa tồi tệ có cơ

29

hoành hành dữ. Con người đang đứng trước sự lựa chọn: Trở nên trở tốt đẹp và có

thể phải sự khổ sở về vật chất hay là điều giả, tàn bảo và sống sung sướng về mặt

vật chất.” [8; tr.48]. Để củng cố về mặt đạo đức cũng như lối sống đang làm cho

con người mất phương hướng không biết đâu là tốt đâu là xấu nên những nề nếp về

đạo đức chúng ta cũng phải giữ lại. Vì đó, nó có thể đánh giá về một phẩm chất con

người, ông né tránh thực tế, cái đẹp lấn ác cái xấu. ông cố tình quên đi cái xấu mà

hướng về cái tươi mới trong cuộc đời.

Chiều ba mươi Tết hình ảnh chị Hoài xuất hiện, đó là con người giàu lòng

thương người, luôn chia sẻ những khó khăn trong đời sống mong đem lại niềm hy

vọng cho người khác, đối xử tốt với mọi người trong gia đình, luôn gắn bó yêu

thương cha chồng và những đứa em khi gặp khó khăn, mặc dù cô không còn quan

hệ gì với gia đình ông cụ Bằng, nhưng những tình cảm đó vẫn đọng lại trong chị.

Chị đã có gia đình riêng nhưng tình cảm ấy chị vẫn hướng về người chồng đã hy

sinh ở ngoài chiến trường, một gia đình nề nếp gia phong mà không nơi đâu có

được, tình cảm ấy chị nghiêng về một phía. Khi Hoài xuất hiện đã làm cho mọi

người trong gia đình bất ngờ, không dám tin, bởi ai cũng nghĩ chị Hoài đã có gia

đình khác, có những suy nghĩ riêng, những lo toan riêng trong cuộc sống mà quên

đi nơi đầy đau khổ này.

Mặc dù, mọi người vẫn muốn níu kéo chị ở lại, vì mọi thứ giờ đây đã thay

đổi, với những tình cảm đã in sâu vào trong tâm hồn chị, Hoài vẫn muốn quay về

gia đình xưa nơi mà chị đã một thời sống ở đây, một người tưởng đâu đã cắt đứt

giây liên hệ nhưng vẫn chia sẻ buồn vui với cái gia đình này: “Đưa mắt nhìn

Phượng, Luận nhận ra Phượng buộc khỏi tay chị Hoài. Phượng cúi mắt chớp chớp

vì một cảm kích bất ngờ. Người phụ nữ tưởng đã cắt hết mối quan hệ với gia đình

này, vẫn giao cảm, vẫn chia sẻ buồn vui và cùng tham dự cuộc sống của gia đình

này.” [8; tr.64]. Một con người biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn mà ít có người phụ

nữ nào như vậy, không một ai làm được như chị Hoài. Có thể nói họ có gia đình

riêng thì những mưu kế sinh nhai không còn tâm lý nào để nghĩ đến gia đình không

liên quan với mình, nhưng đối với chị thì khác, chị vẫn thư từ qua lại để hỏi thăm

sức khỏe mọi người, do đó ta thấy một người con dâu hiếu thảo hết lòng vì gia đình

mà không mong được hưởng lợi ích gì từ gia đình. Hoài xuất hiện đã làm cho bầu

không khí ngày Tết bỗng trở nên rộn ràng hơn. Đã đến lúc cúng, ông cụ Bằng đã

30

chuẩn bị trang phục chỉnh chu, kể cả việc đi đứng cũng được chỉnh tề, người xưa họ

luôn chú ý đến từng chút một mọi thứ phải chu tất đâu vào đấy: “Ông Bằng đã

xuống hết bậc. Đã đến lúc phải xuống cúng, cũng là lúc ông nghe thấy xôn xao tin

chị Hoài lên. Ông cố đi cho ngây ngắn. Trông ông cao, gầy hơn mọi ngày, nhưng

trang trọng, chỉnh tề hơn, mặc dầu vẫn là bộ comle đen, kẻ sọc mờ, cài khuy chéo.

Có lẽ do gương mặt ông ánh cái cảm xúc của con người trước ngưỡng cửa cảu năm

mới, do mắt đã qua khỏi căn bệnh, sáng dậy, át đi vẻ già nua, tàn lụi và nỗi buồn ưu

tư còn ghi vết ở trên trán, và nếp da xẹ ở hai bên cằm.” [8; tr.64 -65]. Đã từ lâu việc

thờ cúng ông bà tổ tiên đã trở thành phong tục không thể thiếu của con người Việt

Nam. Vì thế, ta thấy thường ngày ba mươi Tết họ mới nghỉ ngơi, trong ngày cúng

tất niên mọi người lại được quay quần bên nhau, những thứ không thể thiếu trong

ngày Tết đó là, hương khói những cái bánh trưng bánh giầy xếp cạnh mâm ngũ quả,

chén rượu xinh xắn được đặt trên bàn thờ. Tác giả xây dựng thành công nhân vật

ông Bằng, ông là người đại diện cho lối sống theo kiểu truyền thống luôn chú trọng

đến những việc nhỏ nhặt nhất của mọi thành viên trong gia đình, những phong tục

tập quán ấy ông muốn truyền lại cho các con, và sau này còn phải theo lối đó mà

phát triển nhưng chỉ: “Trong giây lát, nhập vào dòng cảm xúc tri ân tổ tiên và

những người đã khuất, ông Bằng lâng lâng trong những hoài niệm hư ảo, thoát

trần. Nhưng, ông chỉ ở trong dòng tình cảm lững lờ trong giây phút. Quá khứ không

cắt khỏi cái hiện tại. Tổ tiên không tách rời con cháu. Tất cả liên kết thành một

mạch bền chặt thủy chung. Bởi vậy, ông lại trở về những người đang sống, với

những người đang sống. Mắt ông bỗng cay xè. Lòng ông lại bồn ngộn. Và ông vội

cúi xuống, bật trên đôi môi những lời cầu khấn thành kín và run rẩy.

Hôm nay ngày ba mươi tháng Chạp năm Bính Tuất, buổi tất niên, con cùng

các nam tử, nữ tử, tôn tử.” [8 ;tr.67]

Khi cùng gia đình cúng tất niên Hoài luôn là người quan tâm mọi người từ

việc làm cho tới cuộc sống đời thường, cũng như cuộc sống của mẹ con cô Cừ, đó

là nét đẹp của người phụ nữ ta, những cái đẹp luôn được phát huy. Thờ cúng ông bà

đó cũng được xem là ý thức nếp nhà, đó là nề nếp gia phong là tôn ti trật tự mà con

người coi đó là cái tốt cái đẹp cái đáng để cho chúng ta quý trọng. Tết đã đem lại

cho con người không khí vui tươi, đầm ấm thấm thiết, kéo con người lại gần với

nhau hơn: “Ông Bằng ngồi, hai tay chấp trước bụng, giữa cái không khí tà tà của

31

những bữa ăn đang huyên náo dần. Một hớp rượu, một bát mọc, nửa bát vây, đã no

ứ lên rồi. Phần nữa, không ăn được vì cảm động vì bồn chồn. Gia đình và sự sum

họp đêm giao thừa, có gì đầm ấm, thiết tha hơn. Kỳ diệu thay thời khắc này. Thiêng

liêng thay cái tế bào xã hội nhỏ nhoi này. Nhỏ nhoi vậy mà là nền móng, mà kết hợp

trong nó bao quan hệ. Tình cha con, vợ chồng, anh em, những quy tắc luân lý thành

văn, bám rể sâu vào huyết mạch, tâm cảm, giằng như mọi người trong những giao

kết, liên hệ vừa nghiêm chỉnh vừa thân mật.” [8; tr.73]. Những thứ nhỏ nhoi nhất về

mối quan hệ tình nghĩa cha con, anh em vợ chồng, những nguyên lý của đời sống

điều được đề cặp tới, bám thật chặt thật sâu về mối quan hệ của con người trong cái

xã hội hiện tại, không khí huyên náo nhưng lại làm cho con người nhớ về quá khứ

đến nao lòng của cụ Bằng. Sự lo lắng bồn chồn của người già, mong nhớ con của

mình ở xa không biết có hưởng cái Tết nguyên vẹn như ở nhà mình hay không, hay

chỉ một mình nơi đất khách quê người. Vì thế, ta luôn thấy trong mắt ông Bằng có

những nỗi buồn rầu nhưng lại cố tình che đi nỗi buồn đó.

Cái nề nếp gia đình được ông cha truyền lại nhưng mà chúng ta cần phải cẩn

trọng trong những ngày Tết và chúng ta coi đó để làm gương. Ngoài phụ nữ ý thức

được cách thức dọn dẹp của gia đình mà không cần ai nhắc nhở như: “Vẫn là hăm

ba cúng ông táo, đêm ba mươi cúng tất niên, hái cành lộc. Vẫn là ngày mồng một

he hé cửa đón đợi người xông nhà, dặn dò nhau ý tứ kiêng cữ cho dòng cả năm dài.

Ngày đầu xuân, cơm nguội không rang để đời cho khỏi khô khan, nhà không quét

cho tài lộc khỏi thất tán. Vẫn là không khí mới mẻ, hơi bở ngỡ, trịnh trọng. Vẫn là

gương mặt cởi mỡ, chan hòa giữa khung cảnh trời đất đẹp vì niềm phấn chấn của

con người giao hòa. Lời chúc mừng tựu trung vẫn mang sắc thái tinh hoa của người

dân tộc, phản chiếu những khát vọng hào hòa của con người về một đời sống no đủ,

ấm áp và cao đẹp giữa các quan hệ gia đình, đồng bào, bạn bè, thầy trò.” [8; tr.18].

Năm cũ đã qua năm mới lại đến mọi thứ lại bắt đầu lại từ đầu, vì thế họ đã chuẩn bị

chu tất mong cho năm mới có nhiều may mắn hơn, có nhiều sung túc hơn, gia đình

dồi dào sức khỏe, gia đình ấm no, gắn kết lại tình nghĩa làng xóm, bạn bè của mình

và yêu thương những người xung quanh biết chia sẻ và quan tâm nhau trong thời kì

khó khăn và biến động này. Trong khi Phượng là người đại diện cho phụ nữ truyền

thống cố giữ gìn nếp nhà thì Lý hoàn toàn trái ngược lại cô muốn làm thay đổi cái

cho là cổ hủ ấy học theo kiểu phương Tây, bởi hội nhập kéo theo những thói hư tật

32

xấu vào xã hội mà lối sống làm cho con người tha hóa về mặt đạo đức: “Lý ngông

ngược hết mức. Đang phởn, Lý bất chấp mọi đạo lý, chạm phải một bà già, mình

trái mà Lý lại mắng té tát, gọi bà mụ phò. Lý mua rau, mua thịt, đành hanh kẻ cả,

như ăn cướp của người ta, người ta vứt tạch xuống đất.” [8; tr.117]. Đó là hành

động vô giáo dục, bởi Lý từ nhỏ đã không được đi học nên không biết cách cư với

mọi người, một con người không nói lý lẻ, không nhận sai về mình, cô không

thương xót với những người già nua, không quan tâm người khác cô chỉ biết mình

phải hơn người, không chịu thua bất kì một ai, nhưng với luân lý truyền thống của

Việt Nam nào phải thế, họ luôn dạy bảo con cháu phải biết yêu thương người lớn,

kính trên nhường dưới, sống phải biết kính trọng mọi người như thế họ mới kính

trọng lại mình. Còn Phượng cô không chịu được những hành động mà người chị

dâu đối xử với mọi người như cô là một người hiền lành không hề nghĩ đến lợi ích

cá nhân mà cô luôn giúp đỡ mọi người bằng khả năng của mình có thể, đó là một

đức tính tốt chúng ta hãy theo gương cô mà sống, sống chan hòa với mọi người

không hơn thua với một ai.

Sống thời hội nhập tất cả mọi thứ được nghĩ thoáng hơn, nhưng với ông bằng

vẫn muốn giữ những giá trị truyền thống ấy, nhưng đôi khi những giá trị truyền

thống khiến cho Cừ không thể nào chấp nhận được, bởi cách đó đã quá hà khắc đối

với đứa trẻ đang sống trong xã hội có nhiều đổi mới. Cừ đã nói ra những điều ấp ủ

trong lòng từ bấy lâu nay chưa được thổ lộ về cách dạy con của cụ Bằng: “Mỗi gia

đình có nề nếp riêng, một kiểu cách quan hệ riêng. Nói ví dụ, có những gia đình

mâm cơm bưng lên, ai có mặt thì ăn, ai chưa có mặt thì ăn sau; ở gia đình ta thì

khác. “Ngày hai bữa cơm sum họp…”. Ba nói vậy và nói những cái quy định ấy là

nề nếp văn hóa. (Thú thật, lúc đói hoa cả mắt mà phải chờ trực ở mâm cơm, con rất

oán ba, lớn hơn, con cho ba là cổ hủ). Con đã thấy cố gắng duy trì cái nề nếp có

hàng trăm điều nhỏ nhặt ấy mà cốt lõi là xây dựng gia đình hòa thuận, tôn ti trật tự,

trên kính dưới nhường, trọng nghĩa khinh tài, hướng về sự phát triển đạo đức tinh

thần là chủ yếu…

Con đã sống trong cái nề nếp đó với tất cả những sung sướng và phiền hà do

nó gây ra, cũng như con được hưởng tình thương yêu và sự hà khắc – yêu cho vọt

của ba mẹ.” [8; tr.170]. Đó là những lời của người con trai khi không chịu được sự

nghiêm khắc của ông bà Bằng, với những luật lệ đã khiến cho con người cảm thấy

33

ngán, muốn thoát đi cái được cho là lạc hậu, quá điều nhỏ nhặt ấy đã làm cho con

người muốn phá vỡ cái ràng buộc con người, thoát li cái cổ hủ mà đón nhận cái xã

hội mới, nhưng không phải cái nào cũng bỏ hết mà chúng ta phải chọn lọc những

cái gọi là có ít cho xã hội, cái tốt, cái đẹp mà chúng ta cần phải phát huy chứ không

thể nào giữ mãi cái lối sống chỉ một nốt nhạc đó, như vậy họ sẽ cảm thấy ghét cái

cũ kĩ mà phải đấu tranh giành quyền cho riêng mình: “Văn hóa dân tộc của mình đủ

sức làm con người lớn lên, đủ sức tỉnh ngộ của kẻ lầm lạc.” [8; tr.177]. Chính cái

văn hóa hà khắc của ông Bằng ngày nào thì giờ đây đã làm cho Cừ thức tỉnh. Bởi

cái nề nếp và quy tắc mà ông đặt ra, nhưng chúng ta hãy nghĩ cho đúng thì cụ Bằng

cũng vì muốn con tốt, sống có đạo đức với mọi người.

2.1.3. Khát vọng tình yêu và hạnh phúc

2.1.3.1. Khát vọng tình yêu “Đố ai được sống mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào”.

Tình yêu luôn là đề tài muôn thuở được mọi người đề cập cho dù ở thế hệ nào đi

chăng nữa, nhưng không phải ai cũng được suôn sẻ trong tình yêu, họ luôn gặp

nhiêu trắc trở. Như chúng ta biết trong giai đoạn chiến tranh họ yêu nhau nhưng lại

không dám nói ra sự thật, vì tình yêu thật thường không có một kết thúc có hậu.

Tình yêu xưa luôn bị cha mẹ cấm cản và có quan niệm cha mẹ đặt đâu con ngồi đó,

nên họ rất đau khổ, đồng thời họ chỉ tập trung vào tình yêu và đất nước. Trong tình

yêu, họ luôn gặp trắc trở từ nhiều phía có thể do gia đình, đôi khi do đôi phương có

nhiều thay đổi, nhưng nếu họ yêu nhau thật lòng thì có thể vượt cái rào cản đó để

tìm đến niềm hạnh phúc bến đỗ. Nhưng trong tác phẩm này ta thấy những mong

ước về tình yêu của người con gái đối với một anh sĩ quan đã khắc sâu vào trái tim

của cô, mong ước làm vợ một anh trung tá sĩ quan để có cuộc sống hạnh phúc, ấm

no. Đó cũng là những khát vọng của biết bao nhiêu người phụ nữ trong xã hội

đương thời. Điển hình trong tác phẩm có nhân vật Lý cô đã yêu thầm một anh sĩ

quan trẻ, cô bất chấp những phản đối của ông chú bà thím mà làm theo tiếng gọi của

trái tim mình. Vì thế với sự xuất hiện của Đông đã làm thay đổi hoàn toàn trong con

nguời Lý: “Một ngày kia, trước mặt có thiếu nữ xuất hiện một chàng sĩ quan, mũ

đính sao vành vàng, lưng kênh kênh khẩu K.54. Thành phố vừa đón các chiến sĩ từ

vùng kháng chiến về giải phóng. Vợ chồng viên ba tàu bay đã đi tếch vào Nam.

Nghe ngon nghe ngọt, ông chú bà thím rục rịch ra đi. Lý đã không nghe theo lời

mơn trớn, vỗ về và dò dẫm của ông bà chủ tiệm may “ Mon tailleur”. Lý theo tiếng

34

gọi của trái tim thiếu nữ. Trong cái thiện cảm và kính trọng của thành phố với

những chiến sĩ giải phóng của mình, cô mến rồi yêu tha thiết ngay anh đại úy quân

đội nhân dân Việt Nam nọ sau vài lần đến nhờ lowve một cái gấu quần, lộn cổ một

cái áo sơ mi. Tình yêu giữa cô gái nữ sinh tập sự tập may với anh bộ đội gốc trai

thành ra đi chín năm, giờ được lon quan ba, được hình thành ngay khi thành phố

sạch bóng quân thù được hai tháng.” [8; tr.91]. Cô khao khát về một tình yêu mãnh

liệt bất chấp mọi dư luận của xã hội, cô làm những gì mình thích, những gì cho là

đúng và có hạnh phúc nào hơn khi có được người mình yêu, mãn nguyện sống bên

người mình yêu và thề nguyền hy sinh vì người mình yêu. Vì thế khi: “Lấy Lý,

Đông mãn nguyện. Lý xinh đẹp, ít học nhưng thông thạo thực tiễn và đảm đang. Lấy

Đông, Lý cũng mãn nguyện, cái mộng thành vợ sĩ quan như cô nữ sinh Đồng Khánh

áo hoa hiên có một thời vớ vẫn, lưu giữ trong tâm trí Lý bị những cảm quan mới mẻ

và thực tế của cuộc sống tan loãng.” [8; tr.92]. Và như thế mộng thành vợ sĩ quan

đã trở thành hiện thực một giấc mơ của Lý cũng giống như bao nhiêu người phụ nữ

khác. Và vì cuộc sống, vì dân tộc nên Đông đã đi kháng khiến để lại người vợ mà

anh từng yêu thương mãnh liệt. Trong cuộc sống ai cũng trải qua một lần dang dở

trong tình yêu thì họ mới biết được thứ quan trọng của tình yêu, mỗi người ở mỗi

nơi, nhưng trái tim của họ vẫn luôn hướng về nhau họ đã mong từng giây từng phút

để được sống với người mình yêu. Cũng như Lý đã khao khát một tình yêu thật sự,

tình yêu có thể làm cho con người nhận nhiều đau khổ phải tốn biết bao nhiêu nước

mắt, buồn sầu nhưng ta vẫn thấy họ vẫn yêu một cách mãnh liệt đấy thôi không hề

hối hận khi đã chọn một ai đó làm người yêu và người đó phải sống với mình đến

suốt cuộc đời.

Chuyện tình cảm thì luôn có nhiều biến đổi, bởi thế có những người yêu

nhau lắm thì cắn nhau đau, yêu nhiều lắm nhưng lại là sự đau khổ, đôi khi hạnh

phúc mỉm cười với họ, nhưng cũng có những người khổ đau mà họ phải gánh,

những nỗi đau mà họ không thể phản kháng lại được họ chỉ biết chấp nhận số phận.

Vì thế, không phải ai cũng được hưởng trọn vẹn cái gọi là hạnh phúc đó, như Đông

không hề quan tâm đến những cung bặc cảm xúc của Lý, không hề nghĩ đến người

vợ cần có sự chia sẻ niềm vui nỗi buồn cùng mình mà tối ngay chỉ có mỗi cái là tổ

tôm, mà phó mặc những ham muốn tối tăm từ trong con người Lý. Lý đã không

chịu được sự vô tâm của người chồng như ngày nào mà mình hằng yêu mến, Lý sa

35

ngã cùng với tay trưởng phòng xí nghiệp thói hóa, bởi những lời ngon ngọt khen chị

là người xinh đẹp nên đã phải lòng rất nhiều người đàn ông, đẹp đến nỗi ai nhìn

thấy Lý cũng phải yêu: “Vả chăng có đôi ba anh chàng si tình bị vẻ đẹp cái thời gái

một con của chị hấp dẫn, tỏ ra quyến luyến chị thì chị cũng vô tình không để tâm

tới, hoặc vì bận rộn mà không có sự cảm nhận tin tưởng (…). Lý nhận được lá thư

của rất nhiều người đàn ông đã tỏ tình với cô, nhưng cô để ngoài tai và coi đó là trò

chơi và cô đã đem ra cho mọi người cùng xem: “Có một ông thiếu tá nào đó gửi

cho chị một lá thư dài: Tôi yêu cô, từ lâu rồi, mặc dù biết rằng… đã muộn, đã lỡ.”

[8; tr.93]. Nhưng tình yêu mà Lý giành cho chồng chị đã không màn đến những lời

ông bướm của người đàn ông nào khác, cô vẫn một lòng chung thủy với người

chồng của mình và muốn nuôi con ăn học cho tới nơi tới chốn, cô luôn ý thức rằng

mình là người có chồng, có nhiệm vụ phải lo cho chồng con hết mực yêu thương và

không hề nghĩ đến những việc làm có lỗi với chồng, đó là đức tính của người phụ

nữ chúng ta.

Con người dám hy sinh về tình yêu của mình, luôn quan tâm đến cuộc sống

của đối phương nhưng sự quan tâm ấy đã đặt không đúng chỗ, vì tình yêu đó chỉ

trong vô vọng. Đã có rất nhiều nhà văn thể hiện sự khao khát trong thời đại, đã có

rất nhiều tác phẩm viết về tình yêu: Bến không chồng của Dương Hướng, Ăn mày dĩ

vãng của Chu Lai, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân… Và Ma Văn Kháng đã dành

nhiều thời gian đã miêu tả sự khao khát về tình yêu lứa đôi của nhân vật Lý. Lý

luôn mong người chồng hiểu những gì mà cô đang nghĩ còn Đông hầu như không

hề quan tâm đến người vợ của mình có những ước muốn gì trong cuộc đời, đối với

người phụ nữ thì việc chia sẻ với những lo toan trong cuộc sống rất cần thiết, và Lý

muốn người chồng hiểu và quan tâm mình hơn: “ Cảm lạnh chứ ốm lăn ra đấy cũng

chẳng được một lời hỏi thăm của ông đâu.” [8; tr.97]. Đông là một người chồng vô

tâm đến vô lo mọi thứ trong nhà, xã hội luôn có nhiều biến động, nhưng đối với

Đông chỉ nghĩ đơn giản một nhịp điệu mà không hề tranh đua bon chen với một ai,

mà chỉ biết suốt ngày tổ tôm không hề lo đến tài chính của gia đình mình, luôn nhìn

cuộc sống theo hướng đơn giản nhất. Không chỉ riêng mình Lý luôn mong muốn có

người chồng yêu thương mình, khi tuổi đã về chiều thì con người cũng có những

nhu cầu có người làm bạn khi tuổi già, cũng như ông Bằng muốn có người bạn tâm

sự, để khỏi cảm thấy cô đơn, con tim của ông luôn nghĩ về bà lang Chí: “Lại như

36

những lần trước, vào tới buồng, bà Chí treo cái ô, đặt làn, lại hai tay làm những

việc trong nội thất và thành thạo một cách tự nhiên. Người phụ nữ cũng như ông

Bằng, khát khao một tình bạn, khi tuổi đã xế tà. Ông muốn có bạn tâm tình, mong

có người đỡ đần. Bà, thêm tấm lòng từ mẫu lương y, đỡ nâng người khác như nhu

cầu thiết thân.” [8; tr.160]. Với việc làm của bà không khác những người trong gia

đình, bà xem đây là người thân của mình và bà xem ông Bằng là người để cho bà

nương tựa trong những quãng đường còn lại của cuộc đời mình, chia sẻ cho nhau

những buồn vui trong đời sống hằng ngày, ông cảm thấy bình yên thật sự khi tìm

thấy người cùng cảnh như mình: “Ông đã tìm được sự yên ổn, có lẽ sự yên ổn còn

toát ra từ bà bạn già cùng đi, người hàng xóm ngày xưa, bà lang nhân từ, người

bạn chi kỉ của ông. Hai người đã nhích lại gần nhau, nhờ vào cuộc trẩy hội mùa

xuân và sâu xa, cả hai điều hiểu: nhờ tấm lòng, sự chấp nối của chị Hoài. Đến hội

Đền Hùng thì họ cảm thông về mọi phương diện. Hướng về lịch sử, cả hai đều bồi

hồi những cảm nghĩ yêu thương đất nước trong những ngày gian khó tràn trề cảm

hứng, cả hai lắm lúc như trẻ thơ, ngẩn ngơ trong hoài cảm tri ân và trước sự trán

lệ, huy hoàng của nền văn hóa dân tộc.” [8; tr.161]. Tác giả chỉ dành ít trang về sự

miêu tả cho nhân vật bà lang Chí nhưng cũng cho thấy được tất cả các đức tính

cũng như nhân cách của bà. Ông đã cho thấy con người nhân hậu bao dung, qua

ngòi bút của tác giả thấy được sự khát khao về tình yêu đang mãnh liệt trong bà

cũng như đối với cụ Bằng. Khi hai người ở bên nhau luôn giành cho nhau những gì

ngọt ngào và quan tâm đỡ đần cho nhau, trước bà lang Chí ông Bằng coi mình như

một đứa trẻ cần đến sự nâng niu của một vòng tay ấm chăm sóc cho mình: “Lại như

bao lần, ông trên chiếc ghế gần cửa sổ và bà Chí lại bắt đầu công việc của một bà

lang nhân hậu, Bà nhỏ nhắn, da trắng, phúc hậu, dịu dàng. Từng cử chỉ của bà,

như từ tâm hồn tỏ ra, là sự dịu dàng thân ái.” [8; tr.161]. Một người dịu dàng

nhưng lại là một chuỗi của sự bất hạnh, đáng lý người phụ nữ phải được hưởng cái

tình yêu và những hạnh phúc trong cuộc đời, một người đàn bà có đầy đủ các đức

tính ấy lại chịu đau buồn. Bà có ba đời chồng, nhưng không hề có người con để

chăm sóc khi tuổi về già, ba người chồng của bà đều hy sinh ở mặt trận để lại cho

bà những đau khổ và bơ vơ một mình. Đối với con người chúng ta cuộc đời ai cũng

thế cũng mong có một người luôn yêu thương, đùm bọc trong thời gian của cuộc

đời ai cũng có quyền hưởng được nó, nhưng bà lang Chí lại khác bà phải sống chuỗi

37

dài của sự đau thương mất mát mà đối với ai cũng không thể làm được. Người

chồng của bà đã hy sinh vì đất nước và cũng vì hạnh phúc của mọi người. Không

chỉ riêng với bà mà còn có rất nhiều người phụ nữ khác không may mắn như bà,

nhưng họ không than thở vì đó là sự hy sinh cao cả: “Đời bà là một chuỗi mất mát

và thiệt thòi (…) Nhưng, đau thương đã chắt lọc, kết tinh lại thành sự yêu thương

của kẻ khác.” [8; tr.161]. Sự hy sinh thầm lặng của tất cả mọi phụ nữ, đau khổ lắm

đấy, nhưng vì tương lai của đất nước mà cố gắng mỉm cười để che sự đau khổ của

mình. Hai người tha thiết được ở bên nhau lắm, mong được hạnh phúc bên nữa kia

của mình, khát khao có một người an ủi lúc về già, ông muốn sống chung với bà

lang Chí với thế giới đầy màu sắc của cuộc sống đẹp đến lạ lùng, vì thế ông cụ

Bằng muốn thốt lên những gì mà ông muốn nói với bà: “Bà lang Chí đôn hậu, nhân

ái, cao quý ơi, thế giới đẹp nhờ bàn tay của bà ! Ông muốn kêu lên như vậy mà sau

những nấn ná, đắn đo, ông quyết định sẽ nói với bà cái điều hễ trọng này; người

già đang đông lên trên thế giới này, người già phải tìm đến nhau, bà ơi…” [8;

tr.162]. Trong tình yêu ai cũng mong muốn được thế, nhưng do có nhiều lý do mà

họ không đến được với nhau, tình yêu đẹp khi chúng ta biết trân trọng và biết cách

bảo vệ, yêu một người khó nhưng muốn giữ lại một người bên cạnh lại càng khó

hơn, vì thế những gì cụ Bằng muốn nói nhưng rồi lại thôi, bởi ông biết tình yêu lúc

về già là tình yêu không có thật họ chỉ chăm sóc lẫn nhau. Vì thế, ông luôn đắn đo

cân nhắc về những tình cảm mà mình đang mong đợi hay không, dẫu biết người phụ

nữ mình rất cần đến họ nhưng sao càng vơi càng thấy xa vời vợi không chạm đến

được: “Tình cảm sâu xa luôn luôn chỉ hướng con người.” [8; tr.163]. Đúng vậy tình

cảm luôn làm cho người nghĩ đến nhau trong những lúc yếu lòng nhất. Do đó, tình

cảm luôn làm cho con người không chấp nhận được sự thật phũ phàng, yêu nhau ai

cũng mong được sống với người mình yêu nhưng đâu phải ai cũng thế, khi họ đến

được với nhau họ cũng trải qua không biết bao nhiêu khó khăn buồn lòng và những

lời ra tiếng vào mới được trọn vẹn bên nhau, nhưng nếu họ không có trí để vượt lên

thì họ sẽ không được hạnh phúc mĩ mãn mà toàn thấy bóng tối không lối thoát. Và

những chuyện đau lòng hầu như người phụ nữ điều gánh chịu, đàn ông gây ra biết

bao nhiêu niềm đau và nỗi buồn cho người phụ nữ: “Khổ, thân phận đàn bà chúng

mình. Mênh mông mặt nước cánh bèo. Tránh sao khỏi sớm chiều đầy vơi.” [8;

tr.216]. Những nỗi buồn không bao giờ tránh khỏi của người phụ nữ chúng ta,

38

nhưng ta vẫn thấy sự cam chịu đến lạ lùng, khổ cực thế nào họ cũng chịu được. Lý

đã sa ngã bởi lối sống hưởng lạc, khi ấy cô chỉ cần có một bờ vai để chia sẻ, chăm

sóc và an ủi thì Lý có thể vượt qua, nhưng người chồng vô tâm đến vô lo đã không

làm được điều đó, đã phó mặt mọi thứ mà chỉ nghĩ cho riêng mình.

Sống trên đời này ai cũng có quyền sống và quyền được yêu, quyền được

hưởng hạnh phúc từ chính người yêu của mình, họ cần lắm một bờ vai để nương tựa

mỗi khi có những điều bất chắc trong cuộc sống, họ cần có người bên cạnh để an ủi,

những lúc tuyệt vọng nhất có người họ làm chỗ dựa vững bước cho mình cần lắm

những tâm sự của người yêu, cần một vòng tay ấm áp để ôm lấy mỗi khi mình có

chuyện buồn, nhưng không phải ai cũng làm được điều đó mà đôi khi họ lại là gánh

nặng cho mình, đem lại những phiền muộn mà trong tất cả mọi người phụ nữ hiện

nay không muốn nhìn thấy cảnh đau lòng đó. Với tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn

của Ma Văn Kháng đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ với bao cung

bặc cảm xúc, Lý là nhân vật tiêu biểu dám chống đối lại những luật lệ, giáo điều

truyền thống của dân tộc ta để có cuộc sống tự do tự tại cho riêng mình.

2.1.3.2. Khát vọng hạnh phúc

Hạnh phúc gia đình là điều mà biết bao nhiêu người phụ nữ mơ ước, nhưng

liệu họ có được như mong ước của mình hay không. Mùa lá rụng trong vườn đã cho

thấy được họ luôn khao khát có một gia đình hạnh phúc, không cần đến sự giàu

sang họ chỉ cần người ấy yêu thương họ bằng cả tái tim của họ, nhưng ta có thể

nhận thấy không chỉ đối với các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn mà hiện tại

cũng thế, muốn có hạnh phúc gia đình thì thật là khó khăn đặc biệt khi ở hội nhập

kinh tế lại càng khó khăn hơn, tất cả đã làm thay đổi quan niệm sống theo kịp với

thời đại. Tác phẩm nói về gia đình nhưng là một gia đình có nhiều sóng gió, nhưng

ta vẫn thấy được tính cách của người phụ nữ, khi đất nước có nhiều chuyển biến thì

nhu cầu hạnh phúc về gia đình con người lại được nâng cao. Chính vì thế, chúng ta

thấy Lý luôn khao khát có một cuộc sống thật hạnh phúc bên người chồng và người

con thân yêu của mình. Hạnh phúc gia đình là mỗi người luôn quây quần bên nhau,

con cháu vâng lời cha mẹ, anh em hòa thuận sống chan hòa với mọi người. Ông

Bằng là người muốn giữ tất cả những điều đó: “Ôi, cái gia đình gồm hai ông bà xưa

nay không hề có điều tiếng, với năm anh con trai, năm hòn ngọc quý, anh là liệt sĩ,

anh đóng trung tá, anh làm nhà báo, anh đi du học nước ngoài…. Anh nào cũng

39

đẹp người đẹp nết, cùng mấy cô con dâu cán bộ nhà nước, cô nào cũng đảm, cũng

dễ nom, ưa nhìn, cái gia đình đáng tự hào về sự hòa mục, tiêu biểu cho các quan hệ

của con người trong xã hội mới.” [8; tr.18]. Đó có thể là gia đình hạnh phúc nhất

mà chúng ta khao khát có được nó, một gia đình có những đứa con ngoan ngoãn ăn

học và có nghề nghiệp, biết cách cư xử với mọi người, vì thế đó là một gia đình

hạnh phúc ấm êm, vui vẻ cùng với các cô con dâu luôn đảm đang vui vẻ, một gia

đình trong xã hội ai cũng mong có được, đó là tiêu biểu cho mối quan hệ của đời

sống con người, nhưng đặc biệt nó đại diện cho kiểu gia đình truyền thống, cho đạo

đức và lối sống của mỗi con người. Một gia đình thật đáng tự hào về sự hòa bình,

quan hệ với mọi người xung quanh, họ luôn quan tâm lẫn nhau trong khi gặp khó

khăn, mọi người coi đó là tấm gương để chúng ta noi theo về cách cư xử của mọi

người trong xã hội. Con người ai cũng có quyền được hạnh phúc từ chính tình yêu

của mình, đôi khi tình yêu làm cho chúng ta có nhiều bất ngờ, đó là khi hai người

từng nghĩ về nhau và luôn khao khát được như thế, họ luôn nghĩ và yêu thầm đối

phương nhưng ngại là họ không dám nói ra, khi đến một lúc nào đó người con gái

đã nhận ra tình cảm chân thật của người con trai giành cho mình, chao ôi, người con

gái ấy đã không biết yêu người con trai từ khi nào mà đến khi được con trai tỏ tình

thì cô rất hạnh phúc: “Cô mình này – Anh nói – đôi tay em đẹp quá. Em có bằng

lòng làm vợ anh không?” (…). “Cô mình có nhớ anh không.” [8; tr.83]. Và cô đã

bật khóc khi ấy, cô khóc trong sự sung sướng và hạnh phúc, thế nhưng người con

gái đã chờ đợi người yêu của mình quay về, khi yêu ai cũng mong được sống với

người mình yêu, thế nhưng vì đất nước vì dân tộc nên cô đã đợi người yêu người

của cô quay về, tuy hai người xa cách nhau nhưng tình cảm, con tim vẫn luôn

hướng về với nhau, tình yêu là muôn vạn cảm xúc. Vì thế, yêu con người cũng trở

nên vui tươi hơn nhưng đối với chị Hoài cô luôn mong muốn từng giây từng phút để

được sống bên cạnh với người yêu của mình, thế nhưng trớ trêu hạnh phúc chỉ mỉm

cười trong một thời gian ngắn ngủi, cô chưa kịp đón nhận hạnh phúc đó thì lại nhận

được sự đau lòng. Đau lòng vì người con trai đã hy sinh bỏ lại sau lưng kỉ niệm

những lời cầu hôn hôm nào. Chính vì thế, tình cảm chị đã chôn vùi sâu tận đáy

lòng, không nguôi ngoai mỗi khi nhắc tới chị lại buồn rầu, vì người đó chị đã yêu

hết lòng mình. Nhưng kỉ niệm đó chị không muốn nhắc đến, sự phô bày. Vì như thế

chị sẽ đau lòng thêm: “Nhưng, hình như không quen phô bày quá lâu kỉ niệm riêng,

40

chị liền quay mặt nhìn lại Lý và vỗ nhẹ vào thân cây vải đứng bên cạnh, giọng hửng

lên.” [8; tr.84]. Tất cả những kỉ niệm của cô với chồng đã trồng và chăm sóc nó,

nhưng chỉ trong chốc lát thân cây đã lớn nhiều, việc đó đã khiến cho chị nghĩ đến

ngày xa cách chồng mình, chỉ trong nháy mắt đã chín năm trôi qua. Những nổi niềm

lại ùa bên chị, chị nghe nhói buốt trong con tim mình, phải chi không vì đất nước vì

dân tộc thì họ đã có cuộc sống hạnh phúc bên nhau, mà xã hội đã không cho phép

như vậy, lấy hạnh phúc của mình để trao cho người khác đó không chỉ riêng đối với

chị Hoài mà hầu như tất cả người phụ nữ trong xã hội đều như thế, họ đã hy sinh

hạnh phúc của mình, trong lòng vẫn đau đấy, nhưng lương tâm họ không thể không

nghĩ tới đại cuộc. Do đó, ta thấy họ đau, buồn nhưng vẫn không hề than thở.

Cuộc sống thì chúng ta ai cũng muốn có hạnh phúc riêng của mình, nhưng

hạnh phúc nhất là được cùng người yêu mình có một gia đình nho nhỏ, đầy tiếng

cười của trẻ thơ, có thể chúng ta không cần bất cứ thứ gì chỉ cần có một gia đình êm

ấm biết yêu thương, chăm sóc cho nhau không cần sự giàu sang, vì sự giàu sang sẽ

đem cho con người những lối hư tật xấu. Chính vì thế, hạnh phúc chỉ đơn giản là

nhìn những đứa con yêu của mình ngày càng khôn lớn, con cháu hiếu thảo, xây

dựng được một gia đình êm ấm. Hạnh phúc khi chúng ta góp sức ít ỏi cho đất nước,

trong tác phẩm ta thấy hạnh phúc khi họ tìm đến với nhau, biết quan tâm cho nhau,

luôn là người hiểu cho nhau trong mọi hoàn cảnh, gia đình nhỏ của Luận và Phượng

được vun đắp bằng tình cảm, nơi đó họ tìm thấy nhau, thấy được niềm vui trong

cuộc sống, họ luôn quan tâm và chia sẻ cho nhau những gì tốt đẹp nhất, cuộc sống

giản dị không bon chen với ai, người phụ nữ giàu lòng vị tha, luôn quan tâm những

người xung quanh, cuộc sống gia đình của họ không có sự ồn ào, sống vui vẻ bên

nhau: “Căn buồng có một không hài hòa hiếm có như thế

Nơi đây, họ sống cần kiệm, giản dị mà không thô sơ, nghèo nàn. Phượng

không tài hoa, khéo léo như Lý – Luận cũng không câu nể đến mức phải bỏ việc

xách nước cho vợ tắm và coi đó là đạo đức tuyệt đỉnh của người chồng. Đây là vũ

trụ thu nhỏ, ở đó sống hai con người hiểu nhau, tôn trọng nhau và dìu dắt nhau. Ở

đây có cả hạnh phúc chăn gối thân mật không suông sã, thô bạo. Ở nơi đây, chị là

sự dịu dàng, êm ái, bản năng nhân từ, tinh tế, bền bỉ, sâu kín. Anh thông minh,

khách quan, ý chí, duy ngã, mạnh mẽ. Chị cụ thể hơn, anh trừu tượng hơn. Trên cái

nền chung, hai người đắp đổi, bù trừ cho nhau, tạo nên một mối liên hệ bền vững

41

hơn tất cả các hợp đồng, khế ước ràng buộc, chi phối; tới mức tình trạng tình thân

người này quyết định âm điệu cuộc sống của người kia.” [8; tr.124]. Đó là con

người luôn hiểu và tôn trọng cho nhau, hạnh phúc nhất khi được người chồng yêu

thương, tôn trọng trong gia đình luôn có sự thông cảm, điều đó chúng ta có thế thấy

người chồng luôn lo lắng yêu thương vợ con là điều mọi người phụ nữ mơ ước,

Phượng và Luận họ xây dựng gia đình bằng tất cả tấm lòng yêu thương của người

chồng và sự vun đắp của người vợ, do đó cuộc sống của họ không nghèo nàn,

không giàu sang nhưng chính nơi đây đã làm cho hạnh phúc hơn cả sự giàu sang

nhưng luôn có nhiều phiền muộn trong cuộc sống, không giàu nhưng hạnh phúc đó

là đều mọi người mong ước có được. Có đôi lúc họ nhìn cuộc sống lắm phức tạp có

nhiều biến đổi và Luận không ngoại lệ, đã có những lúc Luận cảm thấy mệt mỏi với

cuộc sống hiện tại mà xã hội đem lại, có nhiều lúc anh nhìn cuộc đời có nhiều bi

kịch và những lúc ấy anh chia sẻ với anh không ai khác là một người vợ luôn hiểu

chuyện chia sẻ cùng anh, lúc xã hội có nhiều biến cố những câu nói mà anh thường

nói: “Đời phức tạp ghê lắm”. “Khi nói câu ấy, người ta như vượt lên tầng cao, nhìn

cuộc sống một cách bao quát. Cuộc sống vốn là đối tượng suy nghĩ, tác động của

người anh. Và chị được an ủi, khích lệ rất nhiều sao những trò chuyện với anh.

Cuộc sống muôn vẻ, chị là một vẻ đẹp chín chắn, chị sẽ kiên trì nhận nãi như vẫn

hằng sống, không ai có thể đưa chị chệnh ra khỏi cuộc sống ấy.

Phượng đã kiên nhẫn. Chín năm xa chồng, sống ở một huyện miền núi heo

hút làm một công việc không phù hợp với trình độ, năng lực, chắt chiu nuôi con và

mẹ già. Trong chị, dường đã xuất hiện khả năng tiềm chế và nhận nãi. Đó là một

trong những nét đặc sắc trong tính cách của chị.” [8; tr.124]. Đây chính là người

phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó, hy sinh vì chồng con, vì yêu chồng nên cô

đã khổ sở trong việc nuôi con khôn lớn cùng với người mẹ già, khi trong thời kì

kinh tế khó khăn như thế này, nhưng với tấm lòng nhân hậu, vị tha. Cô coi cuộc

sống có nhiều sắc màu, muôn hình vạn trạng vì thế cô vượt qua cuộc sống nghèo

nàn đợi người chồng quay về sum họp với gia đình nhỏ của mình.

Với cái xã hội có nhiều mặt trái như vậy không làm cho Phượng chệch ra

khỏi cuộc sống, với lòng thương chồng con vô bờ bến, cô khác với Lý, cô giản dị

đơn sơ nhưng giàu tình cảm biết yêu thương luôn lo nghĩ cho mọi người mà không

nghĩ đến bản thân mình, trong gia đình nhỏ của mình cô luôn tôn trọng người chồng

42

và ý thức được về nhiệm vụ của mình, có thể nói đó là niềm hạnh phúc khi cô được

chia sớt một phần gánh nặng trong cuộc sống xã hội hiện nay. Không những thế với

tình yêu và sự hiểu nhau, họ còn thông cảm cho nhau khi đối phương có sự thiếu sót

hay làm chuyện có lỗi với mình. Trong thời kì khó khăn như hiện nay thì mọi người

chỉ mong được hạnh phúc cho dù là hạnh phúc nhỏ nhoi nhất, với tình yêu thương

họ có thể tha thứ cho nhau mà không có chút ngần ngại nào, đó là tấm lòng cao

thượng của một người đàn ông đi bộ đội bỏ lại người vợ và đứa con, nhưng khi về

thì người ấy có thêm ba đứa con với chồng sau. Ông không hề trách người vợ của

mình trái lại ông còn thương người vợ của mình nhiều hơn: “Tôi vẫn thương bà ấy,

chứ tôi không giận. Hoàn cảnh nước mình nó đã như vậy, biết làm gì được !”. Anh

trào nước mắt, ngay lúc ấy muốn quỳ xuống chân ông, lạy ông, Em ạ, dân mình khổ

quá. Những chuyện tình xưa như Tống Trân – Cúc Hoa, Phạm Công – Cúc Hoa…

truyện nào cũng đẫm nước mắt cơ cực ! Cơ cực quá ! trong hoàn cảnh ấy, con

người muốn được lớn lau, cao thượng lắm, em ạ.” [8; tr.135]. Đó là tình yêu cao

thượng của người chồng đối với người vợ của mình, sự hy sinh cao cả để đổi lại

hạnh phúc, do đó hãy làm theo những gì con tim mach bảo, vì thế họ sẽ cảm thấy

hạnh phúc khi chính họ đã tìm được đối tượng mà mình yêu, đến lúc đó mình mới

cảm nhận tình yêu thật sự giữa người với người, cảm giác được che chở, được bảo

vệ của người mình yêu không thể diễn tả được, khi ấy con người chúng ta có thể

được hưởng trọn niềm hạnh phúc của người con trai trao tặng mình. Trong tác phẩm

ta thấy con người hòa cùng với nhau, hiểu nhau và yêu say đắm, tác giả đã cho ta

thấy ở hai tuyến nhân vật Phượng và Luận họ yêu nhau tha thiết và đến với nhau

bằng tình yêu chân thành: “Phượng à, có nhà thơ nói: tình yêu là cái phép lạ hằng

ngày. Anh không biết các tộc họ thế nào. Nhưng nghĩ dân tộc mình là dân tộc thật

sự có cái đẹp lạ hằng ngày đó. Dân tộc sống có nghĩa, có tình yêu sâu sắc, một tình

nghĩa gừng cay muối mặn, tao khang, vì đã qua lửa đạn, gian truân. Em cứ nghĩ mà

xem: không có lòng nhân hậu, vị tha, sự hy sinh và nhẫn nại thì sao mà có tình yêu

được ! Bây giờ, trong những ngày đất nước đang khó khăn này, nghĩ sâu về điều đó,

anh thấy như được bồi bổ thêm sức mạnh.” [8; tr.136]. Tình yêu và niềm hạnh phúc

lúc nào họ cũng nhận được, đó là sự hy sinh của người phụ nữ, họ làm những tốt

đẹp nhất giành cho mình, Cũng chính vì vậy, khi có tình yêu họ coi đó là một phép

lạ đã đem họ lại bên mình những người phụ nữ luôn hiểu và thông cảm cho mình,

43

đó là một phép lạ thật kì diệu.

Tác phẩm thấy sự khao khát được hạnh phúc đến mãnh liệt của các nhân vật,

hạnh phúc không phải ai cũng có được có đôi khi họ phải đánh đổi bằng cả cuộc đời

họ mới có hạnh phúc. Trong tác phẩm, Phượng là người nhận được hạnh phúc trọn

vẹn, nhưng trước khi nhận được hạnh phúc cô đã chín năm đợi chồng của mình về

đoàn tụ với gia đình, được hạnh phúc nhờ sự kiên nhẫn một lòng chung thủy đợi

chồng trở về với mẹ con cô.

2.2. Những hạn chế của người phụ nữ

2.1.1. Dễ bị tác động của lối sống thực dụng

Chiến tranh đi qua, đất nước đang có những đổi mới mạnh mẽ, sự hợp tác

kinh tế thị trường đã làm ảnh hưởng đến nhân cách của mỗi con người, nhân dân

trong xã hội coi vật chất hơn tình cảm gia đình. Trong tác phẩm Mùa lá rụng trong

vườn của Ma Văn Kháng đã phần nào phản ánh giá trị cuộc sống mà con người

trong xã hội đương đại từng bước ăn sâu vào tâm hồn của họ, mà chưa tìm ra lối

thoát. Đặc biệt, nó đang len lỏi trong nhân cách của các nhân vật. Tác giả đã miêu tả

thành công nhân vật Lý, Lý là một người dễ bị tác động bởi lối sống thực dụng của

xã hội hiện tại đang từng bước phá hoại đạo đức của con người, cô xem đồng tiền là

trên hết mà không màng đến tình cảm gia đình, trong khi gia đình là nơi gìn giữ cái

phẩm giá con người. Đối với Lý lúc nào cũng nghĩ đến tiền, bởi đồng tiền đem lại

sự giàu sang, để cuộc sống của họ được đảm bảo, được sung sướng, những chúng ta

sử dụng vạn năng này sao cho phù hợp, đúng thời điểm thì đó mới có ích cho mình.

Tất cả những đồ vật trong xã hội cái gì cũng thế, thường vào dịp Tết tất cả quà cáp,

bánh mứt, kẹo đều tăng giá. Vì thế, đồng tiền không có giá trị, tất cả mọi người chỉ

nghĩ đến việc kiếm tiền, vì tiền có thể mua được mọi thứ: “Thật là ăn tiền, ăn tiền !

Chết thôi. Tiền ! Tiền ! Tiền là trên hết.”[8; tr.13].

Đồng tiền có thể đem lại cuộc sống sung sướng nhưng cũng có thể làm cho

con người điên đảo vì chúng, vì muốn có được nó thì con người bất chấp mọi thủ

đoạn, bởi lối sống của xã hội hiện tại đã quá lệ thuộc vào đồng tiền, Vì thế, ta thấy

trong xã hội có nhiều thói hư tật xấu, có thể là cho tình cảm anh em có nguy cơ bị

rạng nứt, nó đang đe dọa đến sống của con người, nó đã ăn sâu vào tâm hồn của mọi

tầng lớp nhân dân, do đó đồng tiền là mối đe dọa lớn nhất của xã hội hiện nay.

Với xã hội có nhiều biến đổi thì cơ hội tìm việc làm cũng khó khăn hơn, bởi

44

mọi thứ đều được đánh đuổi bằng tiền, nếu như không có tiền thì chúng ta thấy, họ

rất khó kiếm việc làm, có thể nói là đúc lót cho họ mới có thể tìm kiếm công việc

nhanh chóng và phải có sự quen biết, mời họ vào ăn Tết để họ cảm thấy sự đối xử

của mình như thế sẽ nhanh chóng sắp xếp cho chúng ta một công việc phù hợp với

năng lực, vì thế chúng ta thấy: “Ông ạ, dẫu sao nước cờ cao vẫn nhún nhường. Con

định thế này. Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác của Phượng, tối ba mươi Tết

này, cả nhà sum họp, ta mời tay tổ chức xí nghiệp Phượng tới, mời nó ăn, cho nó

thấy gia đình ta. Mình đâu có phải loại hèn kém, muốn đè ép là được.” [8; tr.21]. Vì

sống trong kinh tế hội nhập, kinh tế có nhiều cơ hội và thách thức. Do đó, con người

luôn có nhiều thách thức, bởi nếu họ không có đồng tiền thì bị sa thải mà giành cho

những người có tiền và mời họ ăn bữa tiệc thật xứng đáng với vị trí của mình. Đã

không ít lần Lý giúp trưởng phòng để đạt mục đích của mình mà đi buôn lâụ, nhưng

với cái tài của Lý, đó là chuyện trong tầm tay của cô. Lý là một người năng nổ tháo

vát dám đứng mũi chịu sào, do đó cô đã thách thức với tay trưởng phòng, nếu cô có

thể bán số vật tư này trong vòng một tháng thì phải tăng lương cho mình: “Lão

giám đốc bảo tao: “Cô Lý, xem ra cô là người năng động, coi kho phi đi, tôi điều cô

sang chạy vật tư, ưng không?”. Được, tao bảo ông làm quyết định đi. Thử tay nghề

nhau một tháng nhé. Tốt, phải tăng lương đấy. Tao sang, một tháng, bao nhiêu ách

tắc, lưu cữu, cứ là bay. Bột nhẹ có rồi, kếp có rồi, sắt thép có rồi, nhưng nằm chết

di ở Cảng đã nữa năm nay. Để tôi giải quyết. Đưa hai nghìn đây. Tao chỉ đóng một

tiếng, năm ô tô tải đến, đích thân tao xuống Cảng. Một tuần sau, kho xí nghiệp đếch

còn chỗ nào nhét nữa”. [8; tr.30 - 31]. Chính vì vậy, lối sống thực dụng đã là con

người quên đi giá trị tinh thần. Họ có cuộc sống tốt nhờ đồng tiền. Nhưng để đến

khi một lúc nào đó, họ cảm thấy giá trị tinh thần vẫn tốt hơn. Con người coi đồng

tiền là tất cả chỉ vì đồng tiền mà họ có thể bất chấp mọi thủ đoạn để có đồng tiền, có

cuộc sống tốt nhất, cũng như tay trưởng phòng vật tư của Lý làm việc hắn giàu có,

nhưng sự giàu có ấy không phải là tiền tự tay kiếm được bằng mồ hôi nước mắt của

mình, mà đó là nhờ buôn lậu để có được, thứ mà trong cuộc sống của con người

thiếu nó con người sẽ không tài sống, bởi đồng tiền vật để trao đổi, nhưng trước khi

trao một vật gì đó thì trước tiên phải đảm bảo trong túi mình có tiền. Vì vậy, nó đã

làm cho con người bị sa ngã về mặt đạo đức lẫn tinh thần, do đó thứ mà để có cuộc

sống tốt anh ta đã đi trái triều của đạo đức luân lý xã hội, đôi khi con người không

45

phải sống theo lối khép kín mình lại, sống không nên keo kiệt mà làm công việc

không tốt, vì công việc lúc nào cũng có người làm tốt xí nghiệp đó mới phát triển

tốt, vì thế cho nên Lý đã đứng ra điều hành công việc một cách nhanh chóng chỉ cần

bỏ ra vài ngàn đồng và những câu nịnh nọt là được: “Ông ơi, ông phải nịnh nọt

quân của ông, phải biết ra lệnh, lại phải biết bưng phở cho họ xơi. Đời phải biết

nịnh nọt cưng chiều nhau chứ. Nịnh phải đúng chỗ mới là xấu.” [8; tr.31]. Do đó,

con người nghe những lời ngon ngọt sẽ làm theo lời của kẻ xấu, kẻ chỉ biết lợi dụng

sức lực của người khác để đem lợi ích cho mình mà phó mặc sự sống của họ. Với

lối sống của xã hội hiện tại đang len lỏi giữa người tốt với kẻ xấu nó đang hoành

hành từng ngày, tuổi trẻ thì phá phách đủ đều, làm cho chúng ta sống mà không

phân biệt được đâu là tốt đâu là xấu, khi đất nước hội nhập với nền kinh tế thì cũng

từ đó mà xin ra nhiều vấn đề nhức nhối cho xã hội, luôn có nhiều cơ hội và cũng là

những thách thức để cho nhân dân ta phải đối mặt với đầy đủ các mặt xấu. Do đó,

xã hội đã hình thành một lớp trẻ làm hủy hoại đạo đức truyền thống mà ông cha để

lại cho chúng ta. Mọi người nên phát huy những giá trị của truyền thống, nhưng

cũng phải né tránh những mặt tiêu cực. Thế nhưng, có một số muốn giữ lại. Vì thế,

đã làm xã hội có nhiều biến động đến thế: “Trẻ con hư quá: Bố già về mổ gà ăn

mừng đi nhé ! Hành quán ăn uống cà phê phỡn cũng lắm quá.”

Thành phố hình như đã hình thành một tư sản mới, chúng đang phách,

khuynh đảo xã hội ba ạ. Rồi phải dẹp thôi”. [8; tr.45]. Xã hội có nhiều biến động và

thử thách, nhưng sống ở xã hội hiện đại phải nghĩ thoáng hơn, vì không ai có thể

chấp nhận một xã hội có hàng trăm điều nhỏ nhặt, đồng tiền đã lôi cuốn Lý vào

những dục vọng thấp hèn, cũng vì vậy mà Lý bị sa ngã, do lối sống phóng khoáng

và trò chơi xa xỉ đã làm cho Lý trượt ngã, đó cũng là do đồng tiền đem lại cho con

người: “Anh ở cạnh nhà Lý, anh đã viết thư cho Lý. Giờ, em là vợ của anh, Lý à. Lý

kêu thất thanh, ông ta cười, biết ngay thanh anh ta. Đúng, là anh ta, anh trưởng

phòng xấu trai, kệnh cỡm, hay trúng xổ số, giầu có, hay cho Lý vay tiền, đã cùng Lý

đi chơi tết, chơi hội, có nhiều sách phương tây, hay cho Lý xem ảnh và đã có lần kể

cho Lý nghe cái tục đổi vợ đổi chồng hiện đại trên kia.” [8; tr.141]. Chính đồng tiền

đã làm thay đổi hoàn toàn về đạo đức và nhân cách của một con người, đã lôi cuốn

bởi cái lối sống hiện tại, một lối sống có thể thay đổi vợ chồng lúc nào mà không

cần nghĩ tình cảm gắn bó sâu nặng của con người, có thể nói bỏ là bỏ mà không hề

46

nghĩ đến nghĩa tình tào khang, không tiếc thương chút nào, nhưng cái lối sống ấy đã

làm cho con người có nhiều mặt xấu, và vẫn thấy ở con người Lý đang len lỏi giữa

cái tốt và cái xấu, đã có những lúc dục vọng thấp hèn lôi cuốn chị, chị đã vượt qua

nhữngluật lệ đạo đức, cái nề nếp của xã hội để có được niềm vui mà người chồng

không thể đem lại cho chị, nhưng khi chị thu mình trong cái đạo đức, luân lý của

truyền thống mà chị cảm thấy vui vẻ nhưng cũng do chính nhu cầu sống của mọi

người coi trọng đồng tiền. Vì thế, đồng tiền đã làm cho cô sa ngã, nhưng đến khi cô

thức tỉnh đã biết mình sai, nhưng cố chữa thế nào thì cũng không trở lại được, bởi

con người đã một lần sai thì có thể người không ai tin mình nữa, đã có những lúc

chị thức tỉnh muốn tránh xa cái lối sống xa hoa phù phiếm đó, luôn có nhiều động

như thế: “Đã có những phút đòi vượt ra khỏi vòng cương tỏa, nhưng đã xảy ra sự

thu mình tự nguyện, trở về yên vui trong những nề nếp, chuẩn mực ổn định. Những

ngày ấy chợt ấm chợt lạnh như tiết tháng tư, cảm xúc không xác định. Như chiều

nay, anh ta nói: “Lý nói câu cuối cùng đi: đi Sài Gòn hay không đi? Để có còn đặt

vé máy bay. Ông giám đốc bảo: tùy phòng sắp xếp: Xí nghiệp đang cần nhựa cao

su, phụ tùng các loại máy, hóa chất, nhưng đi cả tháng trời biền biệt với anh ta ?

Con mắt có lẹo của anh ta nheo nheo đầy ẩn ý. Hứa hẹn những cuộc tiêu pha thỏa

thích, hay nhắc nhở những món nợ của Lý vay phải trả. Đời đã vay thì phải trả.

Nhưng, anh ta cười rất lẳng: Tiền của tôi giống như tiền của Lý thôi !”. [8; tr.143].

Đó là sự đối lặp trong con người Lý đã có lúc Lý muốn trở lại của con người của

ngày xưa, với những niềm vui của cuộc sống, nơi đó có gia đình, anh em đầy đủ

tiếng cười, nhưng vì đồng tiền đã làm chị hoa mắt với những mong ước cuộc sống

sung sướng hưởng thụ, cô thích làm cho mình phải hơn người khác, cô là một người

thích sai khiến người khác, dám đứng mũi chịu sào tháo vát năng nổ trong công

việc, vì cuộc sống mà con người không phân biệt được đâu là trắng đâu là đen, tốt

xấu đan xen với nhau, nhưng chúng ta có thể thấy được đó là do cuộc sống đã đưa

đẩy con người. Vì thế, Lý đã chọn con đường ra đi để mong có cuộc sống tốt hơn.

Trong tác phẩm, tác giả đã cho các nhân vật nhận ra lỗi lầm của mình một

cách dễ dàng, nhân vật Cừ là một người chỉ nghe qua lời kẻ của các thành viên

trong gia đình, nhưng điều đó cũng cho thấy được con người sống mà khinh rẻ giá

trị tinh thần mà đề cao giá trị vật chất bất chấp mọi thủ đoạn để có được nó, nhưng

nhận được sự cô đơn trong cuộc sống có thể sẽ bị bế tắc không lối thoát: “Mỗi

47

người chỉ có thể thuộc một dân tộc nhất định, từ trong tâm hồn. Con người sống có

hai nhu cầu: Vật chất và tinh thần. Phá vỡ đạo đức thì gặp hung bạo. Khinh rẻ giá

trị tinh thần thì đời trống rỗng, hoang tàn.” [8; tr.176]. Thường con người coi giá

trị tinh thần để có cuộc sống tốt và luôn quan tâm người khác, giá trị tinh thần là do

con người tạo nên, nếu như họ coi giá trị của đồng tiền là trên hết thì suốt cuộc đời,

sống với nhiều mưu mô sảo trá, luôn nghĩ đến những đều mà họ có thể kiếm được

tiền một cách nhanh nhất và có thể làm bằng mọi giá và không trừ một thủ đoạn nào

để có được, coi rẻ giá trị tinh thần thì cuộc sống bị cô đơn nhạt nhẽo. Đã có những

người có lối sống ích kỉ, chỉ vì hoàn cảnh mà đưa con người vào lối sống chỉ nghĩ

cho bản thân mà phó mặc tất cả, có quan niệm về đạo lý con người ấp ủ về cuộc

sống no đủ của mình mà trượt ngã, và rồi thế nào cũng nổi loạn, con người khinh

thường cái giá trị nhân văn luôn tôn sùng lối sống vị kỉ: “Có một số người do hoàn

cảnh ngang trái, từ nhỏ ấp ủ những quan niệm sai về đạo lý rồi cứ trượt ngã mãi,

cuối cùng thế nào cũng nổi loạn, phủ nhận những tình cảm nhân văn tôn sùng lối vị

kỉ. Cuối cùng của nổi loạn là bế tắc ! Hóa ra, vật chất không làm yên ổn họ được.

Đã là con người thì phải làm cái gì thiêng liêng để vì nó mà sống!.” [8; tr.178].

Chúng ta cũng không thể chỉ nghĩ về vật chất mà bỏ mặc tất cả. Vì thế hãy làm

người tốt luôn quan tâm đến người khác để thấy được cuộc sống đẹp biết bao khi

con người biết chia sẻ với nhau.

Qua tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, tác giả đã cho ta

thấy lối sống của con người trong thời kì kinh tế hội nhập có nhiều cơ hội nhưng

cũng có không ít những thách thức đối với con người, đó là hồi chuông cảnh báo

của tác giả đối với chúng ta. Vì cuộc sống, chúng ta hãy trân trọng những gì mình

đang có đừng để cuộc sống trở nên đơn điệu nhạt nhẽo, mà hãy sống và biết quan

tâm người khác không nên khinh rẻ giá trị đạo đức mà ông cha ta để lại, dù có ở

thời điểm nào cũng phát huy nó, không nên như nhân vật Cừ và Lý họ là người có

cuộc sống thực dụng. Vì thế, họ phải trả giá rất đắt, Lý đã bỏ nhà đi, Cừ đã tìm đến

cái chết để chuột lại lỗi lầm của mình, bởi do lối sống bế tắc không lối thoát.

Những ai coi giá trị đồng tiền là trên hết quên những tình cảm anh em thì hãy

cố sửa lại lỗi lầm của mình, bởi vì không có gì tốt hơn bằng tình cảm gia đình, anh

em hòa thuận cùng nhau phấn đấu, đó mới đúng là mục tiêu của chúng ta đang cố

sống cho tới hiện nay.

48

2.2.2. Sự so đo, tính toán về đời sống cá nhân

Với cuộc sống của xã hội hiện nay có nhiều biến động đã làm cho con người

có nhiều thay đổi, thay đổi về mặt cảm xúc, tình thân, tình cảm, hầu như họ sống

chỉ nghĩ cho bản thân của họ có cuộc sống tốt hay không, không hề quan tâm đến

những cảm xúc của những người khác, có phải đó là do sự hội nhập kinh tế của con

người đem lại cho con người đổi thay chưa từng thấy, nó đã thay đổi một cách nhảy

vọt mà chúng ta không kịp nhận nó, ông cha đã từng dạy con người không nên sống

một mình mà sống phải biết quan tâm người khác, luôn cảm thông cho họ khi gặp

khó khăn, chia sẻ những điều mình có được đó là nét văn hóa truyền thống của dân

tộc Việt Nam ta.

Trong thời đại nào cũng vậy, ta thường thấy cuộc sống khó khăn đem lại sự

ganh ghét đố kị lẫn nhau, giàu có lại càng muốn giàu hơn, do đó họ bất chấp mọi

thủ đoạn để họ có được những thứ họ cần mà coi thường tình cảm gia đình, anh em

và đôi khi họ đánh đổi cả tương lai bởi sự so đo, tính toán của từng cá nhân.

Trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn tác giả khắc họa thành công tính

cách của nhân vật Lý với đầy đủ những ham muốn và so đo, tính toán, giành quyền

lợi cho mình mà bất chấp mọi thứ. Vì muốn có cuộc sống sung sướng cơm no áo

ấm, muốn quản lý cả gia đình nhưng với lòng ích kỉ và những tính toán với người

thân trong gia đình, người ta nhìn rõ bộ mặt của Lý. Đã có nhiều lần tranh cãi giữa

chị với các thành viên trong gia đình, đã có lúc chị bảo thằng Cừ ích kỉ nhưng chị

cũng không ngoại lệ. Những người ích kỉ như nhau họ điều hiểu và chỉ điểm đó rõ

hơn: “Quá rõ rồi còn gì. Thứ nhất nó ăn cắp trứng gà của thằng Dư con tôi. Thứ

nhì, nó đi nước ngoài về, không cho tôi đến một cái mà xoa, mà tôi thì nuôi dạy nó

tốn không ít công của. Thứ ba, nó bán len cho tôi. Len nó đem từ Tây về ấy, đắt hơn

bán cho người khác.” [8; tr.34].

Nếu như Lý quá bức mạng về những thứ mà Cừ đem về không chia một thứ

gì cho cô thì cũng nhịn không nên soi mói, chúng ta nên để họ thấy được sự thiếu

sót của mình, người đời thường nói “một câu chín câu lành” vì thế không nên đem

ra nói trước mặt mọi người, nếu đó là người muốn giữ hòa khí cho gia đình và cũng

không muốn so đo. Nhưng do thời điểm kinh tế có nhiều diễn biến, đời sống có

nhiều khó khăn đồng tiền là trên hết, vì thế con người muốn là của cho để họ không

49

phải tốn chi phí về khoảng nào đó của cuộc sống và là những thứ nhỏ nhặt nhất.

Có thể nói Lý là một người phụ nữ đảm đang, dám đứng mũi chịu sào, năng

nổ tháo vát, nhưng có đôi lúc Lý đanh đá đến tàn nhẫn cư xử thô lỗ của người vô

đạo đức thiếu văn hóa, cô luôn giành cho gia đình những điều kiện tốt nhất, một tay

cô chăm sóc gia đình mà không cần đến sự giúp đỡ của người khác, cô hy sinh

nhiều cho gia đình, nhưng đổi lại là sự tin tưởng của mọi người đối với chị, chúng

ta thường thấy con người có nhiều sắc thái tình cảm thì họ luôn có nhiều biến đổi

khiến cho người ta không thể nào tin tưởng được, do đó sự hy sinh của mình cho

gia đình là vô bổ cô muốn mình làm chủ của chính căn nhà đó, nhưng sự xuất hiện

của Phượng là rào cản khiến cho cô không thể đứng vững trong căn nhà đó được,

bởi sự thơ ngây của Phượng đã làm cho ông Bằng đặc hết niềm tin và sự tin tưởng

khi trao cho Phượng sổ tiết kiệm và làm chủ căn nhà đó, Lý cảm thấy hụt hẫng khi

mình là con dâu trưởng lại không hưởng được thứ gì, và Lý luôn lo sợ người khác

sẽ giành hết tất cả các vật dụng trong nhà. Vì vậy, Lý đã tâm sự với người chị dâu

đó là Hoài: “Thế thì chị không biết rồi – Lý trợn mắt – Sổ tiết kiệm này. Lại còn

nhẫn, xuyến của bà cụ. Bán đi thì cũng vẫn còn. Chị thấy buồng cụ không ? Toàn

những thứ đồ đáng tiền cả đấy – Lý thở đánh thượt – Thật khổ nhất ở cái nhà này là

em. Đứng mũi chịu sào, trăm cái tội cái nợ trên đầu em hết, chị tính, Tết vừa rồi,

tiêu phá tốn kém bạc nghìn chứ ít à. Rồi bây giờ, cái Phượng nó lại về đây. Em bảo

nó: Ăn chung là dứt khoát không nên rồi, Nhưng ăn riêng, ở nhà riêng vậy cũng

phiền lắm. Mình ngộ may có được cái này cái khác thiên hạ người ta nói ra nói

vào.” [8; tr.87]

Qua đoạn này ta thấy con người thật của Lý đó là một con người có nhiều

biến đổi hay so đo với người khác, đã từ lâu Lý không chịu thua ai, với những gì mà

ông Bằng giành cho cô con dâu theo Lý thì đó là không công bằng, bởi vì mọi việc

lớn nhỏ trong nhà điều do một tay có sắp đặt, cực nhọc Lý chịu đựng, nhưng hưởng

lại không có phần, đó là những nguyên nhân làm cho Lý nanh ác hơn. Tất cả do

đồng tiền đem lại, đã làm hủy hoại nhân cách của một con người, lối sống thực

dụng đã làm chia rẻ con người vào một khuôn khổ mà lâu nay chưa từng thấy,

chúng ta có thể sống thiếu tiền, nhưng chúng ta không thể nào sống thiếu đi tình

thân, vì đó là cái thiêng liêng nhất mà không phải ai muốn có được. Nhưng sống

trong xã hội họ mong có cuộc sống no đủ vợ chồng con cháu hòa thuận vui vẻ là

50

được, khi gặp khó khăn thì họ chia sớt nỗi buồn đau, và cùng nhau phấn đấu.

Nhưng đối với cụ Bằng luôn gặp nhiều sóng gió, bởi trong gia đình luôn có người

tính toán một cách kĩ lượng chỉ muốn giành riêng mình mà không muốn chia sớt với

bất kì ai, họ đã ăn riêng, nhưng lại thấy sự đau buồn hơn khi thấy những việc làm

của Lý, đó chưa kể đến việc có thức ăn cũng phải giấu đi vì sợ mọi người ăn hết

phần của mình: “Họ đã ăn riêng từ hôm chị Hoài về. Ông Bằng ăn với vợ chồng Lý

– Đông. Cái sự tất nhiên nó phải vậy, nó nên vậy, mà cúng lắm điều buồn phiền.

Bởi vì, cái bếp còn dùng chung. Bữa cơm, nhà nào ăn gì, nó bầy ra cả đấy. Lý có

cái đùi gà, miếng thịt bò, khúc ba tê, cứ phải giấu giấu giếm giếm, nghĩ mà não cả

lòng. Người phiền muộn trong việc này là Phượng và ông Bằng. Ông Bằng bỏ bữa

luôn, dự cảm thấy việc chia rẽ đau lòng hơn sẽ có lúc xảy ra. Tuần lẽ sau, Phượng

đã chuyển việc nấu nướng, ăn uống lên buồng ở nhường lại cái bếp cho chị Lý. Nhà

chỉ có hai người lớn, ăn uống cũng tiện.” [8; tr.121]. Tất cả đã làm cho người cha

già buồn hơn khi chứng kiến cảnh đau lòng này, ông là người muốn giữ hòa khí gia

đình nhưng không ngờ các con lại có những hành động chia rẽ tình cảm gia đình

như vậy. Ông thừa hiểu tính cách của con dâu mình, một người chưa bao giờ đặc

mình vào tình huống của người khác mà suốt ngày chỉ muốn hơn mọi người, có thể

Lý không bao giờ nghĩ cho người khác có cuộc sống như thế nào mà chỉ nghĩ cho

bản thân có cuộc sống tốt nhất, cô luôn nghĩ cho lợi ích của mình mà mặt cho người

khác có cuộc sống thế nào, tác giả đã miêu tả nhân vật Lý hoàn toàn không có lòng

thương người cô ham muốn, giành giật về phía mình mà phó mặc cho những người

thân đau khổ, cũng không màn. Vì thế, khi thấy mẹ con Cừ Lý tức giận sợ vợ Cừ

cướp mất mọi thứ từ trong tay cô: “Còn cái gì hả ! Tỉnh chưa? Giỏng tai mà nghe

tôi hỏi. Tại sao ông để cho vợ con thằng Cừ chiếm buồng của ông cụ? Cả buồng

khách, chiếu nhà Phượng nó trải đầy sàn, nó rắp chiếu cái buồng nhãn tiền mà

chịu, hả? Đống đồ chơi của thằng Dư con tôi đâu hết rồi? Trời ơi, có ai ngu dại

đến như thế không? Không hiểu tôi ăn phải bùa mê thuốc lú nào mà lại đâm đầu lấy

ông, hả ông Đông?.” [8; tr.194]. Lý đã nỗi cáu với Đông vì sợ mọi người sẽ tranh

giành mọi thứ. Vì thế, khi đi công tác về Lý bất ngờ khi thấy mẹ con Cừ ở trong

nhà, đúng là một người tính toán một việc nhỏ nhặt cũng xé thành to. Khi đó, ta

thấy đồ chơi của thằng Dư hiện giờ Dư lớn và cũng không sử dụng đến món đồ chơi

đó nên đem cho con cháu, dù gì con của Cừ cũng là con cháu trong nhà không cần

51

khắt khe đến thế, đó là tính cách của người phụ nữ muốn tranh quyền đoạt lợi mà

không nghĩ đến những người khác, họ là người thân trong gia đình nên có sống

trong căn nhà đó nếu như ông Bằng cho phép mà cần đến sự đồng ý của Lý, nhưng

tất cả cô làm chỉ vì người con đi du học ở nước ngoài.

Vì lợi cá nhân mà Lý đã làm cho gia đình có nhiều sóng gió đến thế, cô

không chịu khuất phục một ai, cô muốn mọi người vào nhà này thì phải xin phép

cô, bởi cô là người dựng nên, thế nhưng không chỉ đơn thuần là xin phép cho dù có

nói với Lý đi chăng nữa thì cũng chưa chắc cô đã đồng ý cho mẹ con Cừ bước vào

căn nhà này, đơn giản là Cừ không hề làm gì cho ngôi nhà này, cầu cho Cừ đừng

phá nhà là đằng khác.

Tất cả những việc làm của Lý điều xuất phát từ lợi cá nhân, mà không nghĩ

đến những người trong gia đình, có thể họ sẽ bị tổn thương do những lời nói và

hành động của Lý, vì sao lại là con người như thế, đó là cuộc sống và những so đo,

tính toán để cô có cuộc sống tốt, mặt khác cô không muốn chia sẻ những gì mà cô

cố gắng làm mới có được lại bị người khác cướp đi, con người có suy nghĩ như thế

là một con người vô đạo đức, vô lý: “Khổ, sao cứ cưa quậy, vùng vẩy cả khi có

cuộc sống yên ổn. Bản chất con người là thế chăng? Ừ, thì xa rời đạo lý thì biến

thành quỹ sa tăng ngay. Nhưng, chị ấy thật ra đã có gì đáng gọi là vô luân ? Nếu có

sai lầm nặng, trực cảm, giờ đây cũng không ân hận áy náy như ông thường trực

đánh máy trong giờ hành chính từng áy náy.” [8; tr.224]. Xã hội đã làm cho con

người bị tha hóa về mặt đạo đức, nền kinh tế thị trường đã làm băng hoại chuẩn

mực đạo lý của con người, truyền thống con người Việt Nam luôn yêu thương nhau,

dù ở hoàn cảnh nào “thương người như thể thương thân” không vì chút lợi lộc mà

bán rẽ lương tâm. Trong tác phẩm ta thấy Ma Văn Kháng đã khắc họa thành công

ngoại hình nhân vật, qua đó ta có thể đoán được người phụ nữ đẹp và có nhiều biến

động luôn bị lôi cuốn vào dục vọng thấp hèn coi đồng tiền là tất cả quan trọng mạng

sống của họ, có những suy nghĩ tiêu cực và lúc nào cũng muốn mình ơn người khác,

luôn có nhiều tính toán, so đo với những người trong gia đình, bịa đặt vu khống

người khác một cách nanh ác mà không cần nghĩ đến cảm giác của họ. Ôi cái ngôi

nhà xa dần thành phố tưởng đâu là nơi chứa đầy hạnh phúc, niềm vui, nhưng thật

không ngờ nơi đây lại chứa nhiều sóng gió đến thế. Tác phẩm ra đời đã phản ánh

gia đình của người Việt Nam, những ai còn muốn giữ nề nếp gia phong, đạo đức

52

truyền thống, đó chỉ là sự khổ đau giằng xé lẫn nhau, vì lợi ích đã tìm đủ mọi cách

để chiếm các vật dụng trong nhà mà đáng lý ra không nhất thiết phải làm như thế,

đó là lối sống ích kỉ, chỉ muốn một mình sống, một mình ấm no, mà không hề chia

sẻ với người khác, mặc dù họ còn nhiều khó khăn cầm đến sự giúp đỡ của người

53

thân trong gia đình.

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH ẢNH NGƯỜI PHỤ NỮ

TRONG MÙA LÁ RỤNG TRONG VƯỜN CỦA MA VĂN KHÁNG

3.1.Nghệ thuật giới thiệu và xây dựng nhân vật

3.1.1. Giới thiệu nhân vật

Qua tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng cho ta thấy được

nghệ thuật giới thiệu nhân vật đơn giản, nhưng hàm chứ nhiều ý nghĩa để cho chúng

ta rút ra những bài học kinh nghiệm về cuộc sống cũng như cách cư xử với mọi

người. Đặc biệt khi đất nước đang có sự chuyển mình mạnh mẽ, nhà nước có chính

sách chủ trương hội nhập kinh tế.

Qua đó đã kéo theo những thói hư tật xấu cho con người, đã làm băng hoại

về đạo đức và nhận thức của mọi người trong xã hội. Như chúng ta thấy lâu nay mọi

người đang có cuộc sống tốt đẹp, biết quan tâm và chia sẻ với những người xung

quanh, nhưng do nền kinh tế thị trường đem lại đã làm cho con người bị trao đảo,

không phân biệt được đâu là tốt đâu là xấu. Khi đó tác giả đã giới thiệu nhân vật Lý

với những vẻ đẹp và tính cách của Lý. Lý là một người phụ nữ xinh xắn dịu dàng,

khi được mọi người khen trong cô tan hết cơn bực nhọc, chị cười vui vẻ: “Phượng

lại một lần chói lóa vì những mảng màn đối lập, nóng ấm ở cái áo len khuôn bó

thân hình Lý và Lý lại một lần hiện ra dưới một sắc hình khác hẳn thường ngày, Lý

trẻ trung, mới mẻ, Lý rực rỡ, lập dị, lạ mắt vô cùng”. [8; tr.7- 8].

Tác giả đã cho thấy con người của Lý với những vẻ đẹp của tự nhiên không

ai có thể có được. Một trong số những người phụ nữ hiếm ai có vẻ đẹp mặn mà như

Lý, tuy cô đã có gia đình nhưng vẻ đẹp đó vẫn không hề phai nhạt theo năm tháng

mà ngày càng đẹp hơn, vẫn trẻ trung, sắc sảo, rực rỡ khiến cho mọi người phải ganh

tị với vẻ đẹp của cô, từ nhỏ cô đi theo ông chú bà thím ở cửa hiệu may “Mon

tailleur” sống ở thành phố. Từ đó, cô học may cùng với gia đình. Vì thế, khi thấy

cuộc sống no đủ của nữ sinh trường Đồng Khánh, cô đã ước ao có một cuộc sống

no đủ, khao khát có một tình yêu mãnh liệt, mong muốn có được một người chồng

là người sĩ quan để đảm bảo cuộc sống sau này và hai người đã yêu nhau tha thiết:

“Sau vài lần đến nhờ lowe một cái gấu quần, lộn cổ hộ một cái áo sơ mi”.

54

[8; tr.91].

Tình yêu của họ đã bắt đầu từ đó, nhưng khi họ sống với nhau mới nhận ra

mặt xấu, cô luôn năng nổ trong công việc, tháo vát, lo lắng cho gia đình yêu thương

chồng con. Do nhiễm lối sống thành thị nên cô luôn có những hành động và lời nói

chu chát khi có những chuyện khiến cô không hài lòng, cô lo lắng cho gia đình

nhưng cũng là một người luôn tính toán, so đo với tất cả mọi người trong gia đình,

cô không hề thua kém ai, thích sai khiến người khác, muốn mọi người lệ thuộc vào

chị. Cô đẹp đã làm cho biết bao người si tình, bởi vẻ đẹp tự nhiên: “Vả chăng có

đôi ba anh chàng si tình bị vẻ đẹp cái thời gái một con của chị hấp dẫn, tỏ ra quyến

luyến chị nhưng chị cũng vô tình không để tâm tới”. [8; tr.93]

Cô là một người xinh đẹp, mà còn có tài nấu ăn ngon, mỗi khi Tết về cô mua

sắm không hề tiết tay, đặt biệt là việc làm mới cho bản thân mình đã biến đổi hoàn

toàn không còn ai nhận ra cô xinh đẹp nay càng xinh đẹp hơn: “Lý biến đổi thành

một phụ nữ khác, trẻ ra đến hơn chục tuổi, kẻ từ gương mặt đến âm điệu.” [8; tr.53]

Cũng do tính cách và hoàn cảnh đời sống, đồng tiền đã làm cho chị bị sa ngã.

Tất cả mọi thứ đã làm cho cô bị trượt ngã theo lối sống xa xỉ của tay trưởng phòng

xí nghiệp, cô không phân biệt được đâu là người tốt hay người xấu trong xã hội này,

chị càng trở nên độc đoán hơn, ngày càng đanh đa, cô sống không có tình nghĩa gì

với những người xung quanh. Lý sống chỉ nghĩ đến vật chất mà không nghĩ đến tình

cảm gia đình anh em chị chỉ muốn sống cho riêng mình được âm no, mà phó mặc

tất cả mọi chuyện diễn ra kề mình. Tác giả đã cho ta thấy ở nhân vật Lý luôn có

nhiều biến đổi chỉ coi đồng tiền là trên hết, ngoài việc chăm lo cho gia đình thì cô

trở nên đanh đá mà còn làm cho mọi khinh ghét cô, bởi trong cô luôn có nhiều sắc

thái tình cảm. Cô không những đẹp mà còn đảm đang, tháo vát nhưng trái lại cô lại

là một người phụ nữ ẩn chứ nhiều suy nghĩ, muốn thoát cái giá trị truyền thống mà

hướng lại nền kinh tế thị trường đem lại với những lối sống đầy phức tạp như hiện

nay.

Trái ngược hoàn toàn với Lý là một người phụ nữ luôn biết yêu thương

chồng con, hết mực vì gia đình. Trong khi đó, con người sống cùng thời khi đất

nước có nhiều chuyển biến như thế, nhưng họ vẫn sống tốt, sống không bon chen

với ai. Đó là Phượng, một người phụ nữ luôn yêu thương mọi người xung quanh,

Phượng xinh đẹp nết na thùy mị, Phượng học đại học chuyên ngành kế toán, nhưng

55

do hoàn cảnh sống nên cô đã sống ở tỉnh lẽ miền núi heo hút, làm những công việc

không phù hợp với trình độ và năng lực của mình, làm việc cực nhọc để lo cho mẹ

già và con thơ, cuộc sống đầy khó khăn, nhưng cô vẫn giữ nề nếp truyền thống, yêu

thương mọi người xung quanh. Cô luôn hết lòng vì gia đình, chị đã nhẫn nại, kiên

trì đợi chồng về: “Cuộc sống vốn là đối tượng suy nghĩ, tác động của anh. Và chị

được an ủi, được an ủi khích lệ rất nhiều sau những lần trò chuyện với anh. Cuộc

sống muôn vẻ, chị là một vẻ đẹp chín chắn, chị sẽ kiên trì nhẫn nại như vẫn hằng

sống, không ai có thể đưa chị chệch ra khỏi cuộc sống ấy.

Phượng đã kiên nhẫn. Chín năm xa chồng, sống ở một huyện miền núi heo

hút làm một công việc không phù hợp trình độ, năng lực, chắc chiu nuôi con và mẹ

già. Trong chị, dường như đã xuất hiện khả năng tiềm chế và nhẫn nại. Đó là một

trong những nét đặc sắc nhất trong tính cách của chị.” [8; tr.124]

Cô hết lòng vì chồng vì con, yêu thương mọi người, có khó khăn cùng chồng

chia sẻ để có thể vượt qua những gian truân trong cuộc sống đang có nhiều biến đổi

như hiện nay, trong chị bao nhiêu gánh nặng đã đè lên vai chị, chị vẫn không nản

mà chị vẫn cứ tiếp tục cuộc sống đầy khó khăn do xã hội hiện đem lại. Trong khi

đó, chị không hề than thở dù chỉ một lời, mà cắn răng chịu đựng để mong có cuộc

sống tốt và hạnh phúc bên người chồng của mình, điều này có thể thấy được đức

tính của người phụ nữ Việt Nam sự chịu thương chịu khó, hy sinh, bao dung, vị tha.

Sau khi về sống chung cùng chồng Phượng đã xin được việc làm trong một xí

nghiệp, nơi đây cô đã làm một công việc phù hợp với trình độ và năng lực của

mình, không những thế cô còn làm rất tốt về phần công việc đã được giao.

Cùng với những đức tính đó, Phượng được mọi người xung quanh quý mến

với đồng nghiệp chia sẻ cho nhau về những kỉ niệm vui và nỗi buồn cùng nhau, nói

chuyện cởi mở mà cô không bao giờ thu mình nhỏ lại với các đồng nghiệp. Đó là

một người phụ nữ với đầy đủ tính cách đáng để cho chúng ta noi theo về cách cư xử

cùng cách ăn nói nhỏ nhẹ của Phượng.

Cùng với đó là một người phụ nữ hiện vào chiều ba mươi Tết. Tuy nhiên, cô

là một người đơn sơ giản dị mộc mạc, xinh đẹp mộc mạc, là một người cũng luôn lo

lắng cho gia đình này đó chị Hoài, một người con dâu tưởng đâu đã cắt đứt mối

tương giao nhưng không ngờ lại là người luôn dõi theo nhịp sống của gia đình đầy

sóng gió này, lúc đầu Hoài là cô gái xung phong. Sau đó, cô gặp Tường là chiến sĩ

56

hai người yêu nhau nên thành nghĩa vợ chồng, khi Tường đã hy sinh ở ngoài mặt

trận Hoài đã tái giá và về quê sống cùng người chồng, sau đó cô là một người nông

dân, cô cùng chồng làm vườn trồng rẫy, nhưng chị cũng làm việc ở hợp tác xã. Do

đó, ta có thể thấy chị là một người con dâu hiếu thảo luôn yêu thương cha chồng và

các em, sẵn sàng giúp đỡ nếu mọi người gặp khó khăn, trong thời buổi kinh tế có

nhiều biến đổi hiếm có người giữ được đạo hiếu làm con, nhưng đối với Phượng và

chị Hoài họ vẫn là người con hết lòng vì gia đình, mong muốn cho mọi người sống

hòa thuận với nhau. Đó là người phụ nữ luôn coi trọng giá trị truyền thống giá trị

tinh thần và quan hệ với mọi người, với nền kinh tế có nhiều biến đổi cũng không

làm cho họ bị chệch ra khỏi cuộc sống.

Khi kể về người phụ nữ chúng ta không thể không kể đến bà lang Chí, một

người phụ nữ luôn chịu nhiều thiệt thòi, đời bà là một chuỗi những mất mác, bà là

một nhân hậu, khi bà qua nhà cụ Bằng những công việc như thường ngày bà vuốt

mắt cho ông Bằng: “Lại như những lần trước, vào tới buồng, bà Chí treo cái ô, đặt

làn, lại hai tay làm những việc trong nội thất một cách thành thạo và tự nhiên (….).

Bà, thêm tấm lòng từ mẫu lương y, đỡ nâng người khác như một như cầu thân

thiết.” [8; tr.160]

Đó là người phụ nữ luôn quan tâm người khác, yêu thương chia sẻ chăm sóc

lẫn nhau, khuôn mặt đầy phúc hậu, vị tha, con người nhỏ nhắn, da trắng mịn, tất cả

tác giả cho ta thấy được những hình ảnh người phụ nữ luôn có nhiều sắc thái tình

cảm và cũng có nhiều cung bậc cảm xúc. Đây là những người phụ nữ tiêu biểu cho

của con người Việt Nam nói chung cũng như người phụ nữ Việt Nam nói riêng, về

tính cách của tất cả mọi người phụ nữ trong xã hội. Những người phụ nữ sống có

tình có nghĩa, họ luôn chia sẻ cho nhau, đó là người giàu lòng thương người như

Phượng, Hoài, bà lang Chí …..Vì thế, là những người đại diện cho tất cả người phụ

nữ Việt Nam.

Khi nói đến người phụ nữ chúng ta cũng không thể quên nhân vật vợ Cừ, vợ

Cừ là một công nhân làm trong xí nghiệp dệt chiếu, cô là một người có số phận

không may mắn, bất hạnh trong cuộc sống, có chồng cũng không. Lúc trước đã khổ

nay còn khổ hơn khi bên cô có hai đứa con, nhưng người chồng đã không lo được

cuộc sống cho ba mẹ con cô mà trái lại đã bỏ cô và trốn đi biệt tích, nhưng với tình

cảm giành cho chồng cô một mình nuôi hai đứa con không lớn, dù ở hoàn cảnh nào

57

thì cô vẫn muốn nuôi con khôn lớn. Bởi đó, là tình yêu của cô giành cho Cừ. Đó là

người phụ nữ hy sinh vì chồng vì con và cô nhận thấy đó là nghĩa vụ cao cả mà cô

phải có trách nhiệm với chúng nó. Do đó, cô đã không than một lời nào về cuộc

sống của ba mẹ con, mà trái lại cô càng thương chúng nhiều hơn. Tình cảm thiêng

liêng của người mẹ giành cho các con của mình, dù cho ở hoàn cảnh nào thì con vẫn

là con của mình, mình phải có trách nhiệm lo cho các con. Qua đó, ta thấy hình ảnh

của vợ Cừ cũng đã phản ánh được giá trị của cuộc sống, hình ảnh bà Bằng. cho dù

bà có dạy bảo Cừ như thế nào Cừ vẫn không nghe, nhưng tấm lòng thương con nên

bà chỉ biết im lặng, chịu đựng, đó là một trong những đức tính của người phụ nữ

chúng ta, khó khăn không ngại chỉ mong có cuộc sống tốt hơn. Đồng thời, ta thấy

họ là những người mẹ người vợ đảm đang, chăm sóc con cái, yêu thương đùm bọc.

Với cách giới thiệu nhân vật đã phần nào cho ta thấy được con người cũng

như tính cách của người phụ nữ trong xã hội lúc bây giờ, họ là những người đảm

đang, tháo vát. Bên cạnh đó cũng có những có số phận không may mắn, có người

chỉ vì lối sống mà làm trái ngược lại với lương tâm của mình. Do đó, dẫn đến con

người bị sa ngã do cuộc sống đem lại.

3.1.2. Nghệ thuật xây dựng ngoài hình nhân vật

Trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng đã cho ta thấy

được ngoại hình của tùng nhân vật, kèm theo đó là những tính cách nổi bật nhằm

thể hiện con người luôn có nhiều biến động của cuộc sống, do nền kinh tế thị trường

đem lại, có lúc cuộc sống có nhiều khó khăn, chính con người tạo ra mà không biết

được những hậu quả do chính con người tạo ra. Đặc biệt, người phụ nữ có nhiều

trạng thái trong cuộc sống, nhiều suy nghĩ, và cung bậc cảm xúc. Đó là nhân vật Lý,

Lý là người phụ nữ năng nổ, tháo vát, lanh lợi, xinh đẹp lại chu đáo với các thành

viên trong gia đình, có lúc cô đanh đá, lúc nào cũng muốn hơn người mà không cần

nghĩ cảm xúc của mọi người xung quanh.

Về ngoại hình được tác giả miêu tả rất sinh động, một vẻ đẹp của trời ban

phú, đó là vẻ đẹp tự nhiên không ai có thể có sánh bằng: “Người phụ nữ vừa xong

xóc tóc mắng yêu ông chồng ngộc nghệch, vừa đưa tay bứt mạnh hàng khuy, mở

bưng cái áo măng tô san khoác ngoài, vứt lên lưng ghế, rồi ngửa đầu lắc lắc mái

tóc uốn điện đã duỗi dài trong một điệu bộ con gái hết sức trẻ trung. Tóc chị rậm,

đen, đầy sinh lực, rất hợp với vóc người tầm thước, đậm đà, nở nang, cân đối cùng

58

với khuôn mặt tròn đã định hình ở tuổi bốn mươi, nhưng còn giữ nguyên vẻ tươi

mát và duyên dáng; hai con mắt lá dăm dài, long lánh dưới cặp mày rặm, đen

nhánh, cái mũi hơi hớt lên đem lại dáng nhẹ nhõm, thơ ngây cho khuôn mặt và

khiến đôi gò má cao không trở nên lộ liễu; cái cằm lẹm phía trái, một nốt ruồi to

đậu ngay đó, tạo nên cái đặc sắc riêng khiến khuôn mặt trở nên dễ nhớ, không có

lẫn với nhiều khuôn mặt khác.” [8; tr.6]

Với vẻ đẹp như Lý đã dự đoán được tính cách cũng như cuộc sống của cô, đó

là vẻ đẹp không có sự pha lẫn với bất cứ thứ gì và với ai, từ lúc Lý là con gái cô đã

đẹp nay càng đẹp và mặn mà hơn, đẹp nhất của thời gái một con ở tuổi bốn mươi.

Vì thế, cô đã làm cho biết bao nhiêu anh chàng si tình vì cô. Lý là một người đảm

đang, tháo vát, lo lắng cho gia đình, hết lòng yêu thương chồng con, nhưng cùng

với vẻ đẹp đó thì cho ta thấy cô là người thích làm mới mình, cô là một con người

thích làm đẹp, khi được mọi người khen mình đẹp chị đã quên đi con bực nhọc mà

trái lại: “Chị cười nhon nhẻn, nhìn xuống ngực, ngắm hai bên sườn áo và người

như bùng nổ trong cơn bồng bột dội lên bất ngờ. Cái áo đẹp thế kia chứ ! Áo kền

mũ ! Vải téc len, màu sô cô la, cao sang từ chất vải tới màu sắc, kiểu cách”. [8;

tr.7]

Đó là cái đẹp của người phụ nữ, người đẹp mặc trang phục nào cũng thấy

đẹp như chúng ta thấy Lý không những cô mặc đẹp mà còn thấy sang trọng từ màu

sắc đến chất liệu vải điều phù hợp với cô. Nhưng cũng chính vì thế mà cô có nhiều

biến đổi trong cuộc sống và cách cư xử của cô đối với mọi người.

Trái với vẻ đẹp trầm trồ của Lý mà thay bằng vẻ đẹp đơn sơ, giản dị, ít có

nhiều biến đổi trong cuộc sống, mà là một sự chịu đựng đến không thể ngờ của

nhân vật Phượng: “Phượng tiều tụy trên xanh xao quá. Tất cả khó nhọc đã phản

ánh trên khuôn mặt Phượng gầy guộc và ở cái áo vá, hai gấu quần rách xơ.”

[8; tr.180]

Tất cả đã phản ánh lên khuôn mặt của ngườ phụ nữ luôn chịu đựng tròn cuộc

sống của nền kinh tế trường đem lại cho con người, chị không có vẻ đẹp mặn mà

như Lý, nhưng chị là một người có sức chịu đựng gánh vát trách nhiệm trên đôi vai

của chị mà không hề than thở dù chị một lời, chị là một người giàu lòng thương

người, luôn chia sẻ với mọi người, nhân hậu, tình yêu đơn sơ nhưng chứa đầy tình

cảm của một con người. Tuy khó nhọc, nhưng trong chị vẫn hằng lên nụ cười để

59

không cho mọi người thấy mình đang sống trong sự thiếu thốn, dù có khó khăn thì

chị vẫn luôn tươi cười. Đó là những gì mà một con người đơn sơ đang ấp ủ, đang

sống từng ngày, nhưng trái lại họ giàu lòng tình thương đối với tất cả mọi người.

Ma Văn Kháng đã miêu tả Phượng với một nét đẹp giản dị, sống luôn kính trọng

người lớn, hiếu thảo với cha mẹ chồng, không cho họ phải lo lắng cho mình, đó là

những gì mà người phụ nữ này sống.

Vào chiều ba mươi Tết xuất hiện một người phụ nữ đó là Hoài với một vẻ

đẹp đơn sơ, giản dị, mộc mạc nhưng lại chứa nhiều tình cảm, luôn yêu thương mọi

người, Hoài được tác giả miêu tả với một vẻ đẹp đằm thắm, mặn mà, mà không cần

đến son phấn đó là một vẻ đẹp tự nhiên, thùy mị , nết na: “Trước hai cánh cổng sắt

là một người phụ nữ nông thôn trạc năm mươi, người thon gọn trong cái áobong

trần hạt lựu. Chiếc khăn nâu thắt ôm một khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm

thắm và cái miệng tươi. Người phụ nữ đeo một cái tay nải nặng, dáng đi bộ từ ga

lửa về, không có vẻ ngơ ngác lạ lẫm, nhưng con mắt đẫm nỗi buồn”. [8; tr.61- 62]

Ngoại hình đã nói lên tính cách của con người, Hoài là người có vẻ đẹp đằm

thắm dịu dàng, con người thon gọn nết na, thùy mị và lúc nào miệng cũng tươi,

Hoài là một người phụ nữ nông thôn nhưng chị lại có một vẻ đẹp không chê vào

đâu được, nhưng hằng sâu trong tâm hồn chị là một nỗi buồn không biết thổ lộ với

ai, có lẻ đó là một nỗi buồn nhớ về nguời chồng đã hy sinh của mình. Tuy chị là

một người nông thôn nhưng trong chị luôn có một tình yêu thương tha thiết đối với

mọi người, luôn chia sẻ khi họ gặp khó khăn. Chính vì lẻ đó, nên chị được mọi

người quý mến. Hoài và Phượng là hai con người có tấm lòng nhân hậu, vị tha, bao

dung, luôn chia sớt cùng với mọi người, coi niềm vui của họ là niềm vui của mình.

Khi kể đến ngoại hình chúng ta không thể nào kể đến bà lang Chí với vẻ đẹp

hiền hòa: “Bà nhỏ nhắc, da trắng, phúc hậu, dịu dàng.” [8; tr.161]. Đây là vẻ đẹp

của người phụ nữ Việt Nam. Ngoại hình đã phần nào nói lên sự chịu đựng của

người phụ nữ này, con người nhỏ bé đã chịu biết bao nhiêu buồn vui trong cuộc

sống, nhưng ta vẫn thấy ở con người bà sự dịu dàng, hiền lành nhân từ.

Ngoài những nhân vật tiêu biểu tuy tác giả không miêu tả trực tiếp về ngoài

hình, nhưng qua những lời đối thoại cũng cho ta thấy được một vẻ đẹp dịu dàng, dễ

thương mộc mạc giản dị và tác giả giành cho nhân vật Vân. Trong tác phẩm, cô là

một người hiền lành nết na, làm trong xí nghiệp Giặt – Nhuộm - Là, và đặc biệt cô

60

là người chung thủy với tình yêu, cuộc sống không làm cho cô bị sa ngã.

Ma Văn Kháng đã miêu tả thành công ngoại hình của nhân vật, ông đã khắc

sâu về tính cách cũng như tâm hồn của họ, những người phụ nữ họ đẹp, hy sinh, vị

tha, bao dung, yêu thương mọi người, họ đảm đang, tháo vát, đám đứng mũi chịu

sào, luôn lo lắng cho gia đình, nhưng cũng có người phụ nữ họ đẹp người nhưng

tính cách của họ có nhiều biến đổi, chạy theo những lối sống thành thị đem lại, đồng

tiền đã lôi cuốn họ. Nhưng lại có những người cho dù cuộc sống có nhiều biến động

thì họ vẫn không thay đổi họ được, bởi họ biết và họ cần tình cảm gia đình và luôn

trân trọng nó để sau này không phải hối hận, họ đẹp không có nghĩa là phải làm mới

bản thân để nhận được chỉ là những lời khen vô bổ cái mà họ cần chính là tình cảm

và cách cư xử của con người đối với con người.

3.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật

3.2.1. Miêu tả trạng thái tình cảm nhân vật

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng cho ta thấy được

luôn có nhiều sắc thái tình cảm, vui có buồn có, hạnh phúc, đau khổ và muốn lắm

một tình yêu chia sẻ của người chồng giành cho mình. Trong tác phẩm có những đôi

vợ chồng họ hạnh phúc, họ mãn nguyện nhưng cũng có cặp vợ chồng luôn có nhiều

sóng gió chẳng hạn như gia đình nhỏ của Đông và Lý.

Khi còn thời con gái Lý đã nhiễm bởi lối sống thành thị và đặc biệt hơn khi

Lý ở gần với gia đình viên ba tàu bay, đã chứng kiến cảnh cứ mỗi sáng sớm, nữ sinh

trường Đồng Khánh trong cái tà áo dài hoa hiên xuống phố tìm đến những hàng

bún, hàng phở nổi tiếng. Do đó, đã đánh thức trong tâm trí của Lý, cô mong muốn

có một cuộc sống đầy đủ, ấm no, không phải lo về cái ăn cái mặc. Vì thế, đã hình

thành trong người chị cái mộng làm vợ sĩ quan để đảm bảo cuộc sống sau này và

không lâu cái mộng thành vợ sĩ quan đã trở thành hiện thực khi: “Một ngày kia,

trước mặt cô thiếu nữ xuất hiện một anh sĩ quan, mũ đính sao vành vàng, lưng kênh

kênh khẩu K.54 (…) Lý đã không nghe lời mơn trớn, vỗ về và dọa dẫm của ông bà

chủ tiệm may “Mon tailleur”. Lý làm theo tiếng gọi của trái tim thiếu nữ. Trong cái

thiện cảm và kính trọng của người thành phố với chiến sĩ giải phóng mình, cô cảm

mến rồi yêu tha thiết ngay một anh đại úy quân đội nhân dân Việt Nam nọ sao vài

lần đến nhờ lowe hộ cái gấu quần và lộn một cái áo sơ mi. Tình yêu giữa cô nữ sinh

61

tập thợ may với anh bộ đội gốc trai thành phố ra đi kháng chiến chín năm, giờ đóng

lon quan ba, được hình ngay sau khi thành phố sạch bóng quân thù được hai tháng.

Nhưng phải tới năm 1960, họ mới tổ chức đám cưới”. [8; tr.91]

Đó là niềm khao khát mong muốn có được tình yêu của một cô gái, nhưng

không chỉ đối với Lý mà đó còn đối với tất cả người phụ nữ, khi anh sĩ quan xuất

hiện đã làm cho Lý rung động mà bất chấp những lời nói của ông chú bà thím mà

cô làm theo tiếng gọi của trái tim mình, khi gặp Đông, Lý rất hạnh phúc và họ đã rất

hạnh phúc khi được sống bên nhau: “Lấy Lý, Đông mãn nguyện, Lý xinh đẹp, ít học

nhưng thông thạo thực tiễn và đảm đang. Lấy Đông, Lý cũng mãn nguyện, cái mộng

thành vợ sĩ quan như cô nữ sinh Đồng Khánh áo hoa hiên có một thời vớ vẫn, lưu

giữ trong tâm trí Lý bị những cảm quan mới mẻ và thực tế của cuộc sống tan

loãng”. [8; tr.92]

Hai người đều rất mãn nguyện về cuộc hôn nhân mà hai người đã lựa chọn,

một người vợ xinh đẹp, thông minh lanh lợi, đảm đang, tháo vát, biết lo lắng cho

gia đình. Còn đối với Lý lấy Đông biến cái mộng thành vợ sĩ quan đã trở thành hiện

thực, mỗi lần khi nhắc đến Đông cô đều rất hãnh diện, vì có một người chồng có thể

đảm bảo cuộc sống cho cô sau này. Nhưng, niềm hạnh phúc ấy chỉ trong chốc lát,

thay vào đó là những lời chỉ trích mắng chồng của Lý, khi Đông trở về với hình hài

của một người bình thường, Lý không cảm thấy hạnh phúc, khi không được che chở

từ người chồng của mình, mỗi khi người chồng làm phật ý hay khi cô giận chồng vô

tâm không lo cho gia đình và những câu thường nói: “Không hiểu sao mình lại lấy

ông Đông nhỉ?”. [8; tr.11]

Đây là những lời tự trách bản thân của nhân vật Lý, khi thấy mình đã không

còn có người để làm chỗ dựa cho mình, cô cảm thấy lấy Đông là một sự sai lầm

nhất trong cuộc đời của cô, nơi đây ta không cảm nhận được sự tôn trọng của hai vợ

chồng. Do đó, những tình cảm yêu thương, giờ đây đã không còn mà chỉ là những

lời trách móc, mắng Đông chứ tình cảm thì đã không còn mà đã rạn nứt từ khi Đông

trở về bỏ mặc tất cả không lo lắng cho gia đình và vợ con.

Trái ngược lại hoàn toàn với gia đình Đông và Lý, là một gia đình hạnh

phúc, thấy được tình yêu thật sự từ hai người họ, nơi đó là một vũ trụ tình yêu của

hai người. Và, họ đã cảm nhận được tình yêu mà hai người giành cho nhau, đó là

Luận và Phượng hai người yêu nhau tha thiết và bằng tình yêu thật sự chứ không vì

62

muốn được cuộc sống sung sướng như Lý mà đây là tình yêu xuất phát từ trái tim,

họ là hai con người hòa quyện vào nhau, họ luôn chia sẻ và tôn trọng nhau, trong

cuộc sống của hai người không có sự chanh đua bon chen với cuộc sống mà xã hội

đem lại mà đây là tình yêu và cuộc sống của hai con người nâng đỡ nhau: “Đây là

vũ trụ thu nhỏ, ở đó sống hai con người hiểu nhau, tôn trọng nhau và dìu dắt nhau.

Ở đây có cả hạnh phúc chăn gối thân mật không suông sã, thô bạo. Ở nơi đây, chị

là sự dịu dàng, êm ái, bản năng nhân từ, tinh tế, bền bỉ, sâu kín. Anh thông minh,

khách quan, ý chí, duy ngã, mạnh mẽ. Chị cụ thể hơn, anh trừu tượng hơn. Trên cái

nền chung, hai người đắp đổi, bù trừ cho nhau, tạo nên một mối liên hệ bền vững

hơn tất cả các hợp đồng, khế ước ràng buộc, chi phối nhau; tới mức tình trạng tinh

thần người này quyết định âm điệu sống của người kia”. [8; tr.124]

Họ đã sống bằng tình cảm chân thật của hai con người, hiểu và luôn tôn

trọng nhau, có thể nói họ là hơi thở của nhau, bởi vì nhịp sống của người này sẽ

quyết định âm điệu hay nhịp sống của người kia. Đó là khoảng thời gian hạnh phúc

của vợ chồng này.

Đã có những lúc Luận đã khơi dậy trong khoảng thời gian hai người yêu

nhau để chứng minh tình yêu vững bền và hạnh phúc của anh đối với người vợ thân

yêu của mình: “Chị nhớ thời gian gần đây, ở những phút gần chị, anh hỏi chị: vì

sao em yêu anh, chị nói đùa: vì anh hay lý sự. Chị đã nói mà chưa hết. Anh gắn liền

với cái cao đẹp trong cuộc sống bằng tất cả lý trí và tâm hồn, anh truyền đạt tất cả

những thu nhận của mình với mọi người xung quanh”. [8; tr.136]

Dù đời sống có nhiều phức tạp đi chăng nữa, mọi người coi đồng tiền là trên

hết, nhưng đối với Phượng và Luận chỉ có hạnh phúc mới đem lại niềm vui cho họ,

sống bằng tình nghĩa rừng cay muối mặn, tào khang, luôn chia sẻ và dìu dắt qua

những năm tháng gian khó họ vẫn một lòng chung thủy, thái độ dửng dưng trước

thực tế của cuộc sống, họ không bị đồng tiền sai khiến, không coi vật chất là tất cả

mà chỉ cần có cuộc sống hạnh phúc đó là niềm vui lớn nhất đối với họ.

Ngoài ra, chúng ta thấy tình cảm có nhiều diễn biến mà một trong chúng ta

không thể nào dự đoán trước được, có những người họ khao khát có được tình yêu,

nhưng một người đã có rồi thì lại làm ngơ, nhưng cũng có người họ trong thời gian

yêu nhau để đi đến hôn nhân họ chảy qua bao nhiêu sóng gió mới được sống cùng

nhau, nên càng trân trọng nhau hơn, lại có người tìm được bến đỗ hạnh phúc của

63

mình nhưng chỉ hưởng trong giây lát rồi lại vụt mất, họ cảm thấy khi đã sống chung

với nhau thì có rất nhiều mặt không là của chung như gia đình của Lý. Do đó, chị

Hoài cũng là trong những trường hợp tương tự, chị đã có một thời gian hạnh phúc,

nhưng hạnh phúc chỉ mỉm cười với chị chỉ trong thời gian ngắn ngủi, rồi bị dập tắt

khi Tường đi ra mặt trận từ đó chị đã không còn cảm nhận được hạnh phúc từ người

chồng mà chị đã hết lòng yêu và muốn sống chung, chị đã rất sung sướng và hạnh

phúc khi được Tường cầu hôn: “Cô mình này – Anh nói – đôi tay em đẹp quá. Em

có bằng lòng làm vợ anh không?” (…). “Cô mình có nhớ anh không”. [8; tr.83]

Cùng với niềm hạnh phúc ấy chị đã nhận được sự đau lòng, bởi vì người con

trai mà chị đã hết lòng yêu thương nay đã hy sinh ở mặt trận bỏ lại sau lưng bao

nhiêu kỉ niệm đẹp. Vì vậy, chị rất đau buồn và chôn vùi tình cảm vào tận đáy lòng

mình. Chị còn vương vấn về tình yêu mà một thời chị đã tìm được hạnh phúc của

mình. Trong tình yêu lúc nào cũng thế luôn có niềm vui nhưng cũng không ít nỗi

buồn mà bất kì ai yêu cũng đều như thế, bởi tình yêu có nhiều cung bặc cảm xúc lúc

vui lúc buồn, làm cho con người khổ sở về tình yêu.

Về tình yêu thì không có ai yêu nồng nàn như nhân vật Cần cùng với Vân, họ

đến với nhau bằng tình yêu trong sáng, xuất phát từ hai trái tim, họ luôn một lòng

chung thủy, giữ đúng lời hẹn với người mình yêu, nhưng chúng ta thấy trong tình

yêu đều có hai mặt của nó không có cặp đôi nào yêu mà không cách trở, kể cả Cần

và Vân cũng vậy, họ lúc nào cũng có nhiều sóng gió nhiều vấn đề xảy ra để cho

chúng ta nhận lấy sự buồn rầu: “Anh em nghe nói… nhà định mối cho anh một cô…

rất giầu, rất xinh”. [8; tr.264]

Đó là sự đau buồn của một người con gái khi nghe được tin như thế, không

làm gì khác hơn nếu đó là sự thật, chỉ có sự chúc phúc cho người yêu và nhận lại sự

đau khổ cho mình. Nhưng với tình yêu mà Cần giành cho Vân tuy chưa có nhiều

thời gian để có tình yêu sâu lắng như Phượng và Luận, nhưng cũng là khoảng thời

gian để chứng minh tình yêu sâu lắng của Cần giành cho Vân: “Anh kéo Vân sát

mình. Anh và Vân, hai người chưa có được tình yêu sâu lắng như Phượng và Luận.

Thời gian đã có, nhưng chưa dài và thử thách chưa phải đã quyết liệt. Họ đang

bước vào tình yêu và còn đang lâng lâng vì sự tráng lệ, huyền ảo của nó”. [8;

tr.264]

Qua tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng cho chúng ta thấy

64

được trạng thái tình cảm của các nhân vật luôn có nhiều biến đổi. Trong đó, có

những người lúc đầu tưởng đâu tìm được hạnh phúc cho bản thân, nhưng càng về

sau cuộc đời của họ nhiều thay đổi mà trong chính bản thân mình cũng không nhận

ra sự thay đổi đó, nhưng nào có ai hay biết chính sự hủy hoại này làm chúng ta phải

nhận lấy sự đau khổ. Nhưng, cũng có người hạnh phúc đã thật sự mỉm cười với họ

khi được sống với một người luôn hiểu và thông cảm cho mình, ở đó không có chỗ

giành cho sự khổ đau mà đó là tiếng cười vui vẻ trong ngày tháng hạnh phúc. Vì

vậy, chúng hãy luôn trân trọng những gì mình đang có được và hãy ra sức bảo vệ,

khi chúng đang mỉm cười với mình.

3.2.2. Miêu tả những xung đột mâu thuẫn của nhân vật

Cuộc sống có nhiều biến đổi, do lối sống và tính cách của con người, cuộc

sống trong xã hội hiện tại thì khó có thể tránh khỏi những mâu thuẫn, những xung

đột của các thành viên trong gia đình, không chỉ riêng với các thành viên trong gia

đình mà họ xảy ra những mâu thuẫn với những người xung quanh. Nhưng tính cách

và xung đột đó ta thấy đã hình thành ở nhân vật Lý, Lý là một người phụ nữ đảm

đang, tháo vát, nhưng bên cạnh sự đảm đang tháo vát đó Lý là một người luôn so

đo, tính toán với các thành viên trong gia đình nên dẫn đến cuộc xung đột không

đáng có.

Trước tiên là cuộc xung đột của hai vợ chồng Lý và Đông, vì đời sống mà

người chồng không hề quan tâm sắc thái tình cảm của chị, suốt ngày chỉ đi tổ tôm.

Do đó, dẫn đến cuộc xung đột không đáng có, cô lúc nào cũng la, mắng yêu chồng

của mình, vì chuyện của mẹ con Cừ mà Lý cãi nhau với Đông, đó là do sự tính toán

của Lý mà dẫn đến cuộc xung đột của cô với Đông. Khi Phượng mất xe đạp Lý đã

nói với Đông đó là mưu đồ của Luận và cô em dâu: “Ông ơi, còn ngu đến bao giờ

mới thôi ! Đó là cái mưu đồ của thằng Luận và cô em dâu quý hóa của ông đấy,

ông ạ [8; tr.196]. Vì vậy, đã xảy ra sự xô xác giữa hai con người sống không có

điểm chung, không có chung mục đích. Do đó, họ xảy ra xô xác đó là chuyện bình

thường. Và một lần nữa, khi Lý xúc phạm đến tình cảm của ông Bằng với bà lang

Chí và Đông đã vát Lý với những lời nói tựa như đe dọa “tôi cắm cô xúc phạm đến

ông lão với bà lang Chí.

Với sự tính toán, so đo lúc nào cũng muốn giành tất cả về phần mình, khi cô

đi Sài Gòn về thấy mẹ con Cừ, Lý đã buông ra những lời nói chanh chua khiến cho

65

người khác phải đau lòng, cô không những xung đột với người chồng của mình mà

còn có tất cả các thành viên trong gia đình chẳng hẳn vợ của Cừ, khi cô chưa biết

đầu đuôi câu chuyện thì đã nói ra: “Thôi thế vợ Cừ trúng số nhé, không phải than

thân trách phận nữa nhé. Thật là ăn mày được ăn sôi gấc, mèo mù vớ cả rán chưa !

Rõ là sự tự dưng nhé!.” [8; tr.190]

Đó là những lời nói ẩn chứa ý nghĩa trách móc của một con người luôn có

nhiều biến động trong cuộc sống, vì cô muốn tất cả mọi phải lệ thuộc vào mình, nên

khi nghe Cừ ra nước ngoài thì biết họ sẽ giàu có nên không cần đến người chị dâu

này. Nhưng đó là suy nghĩ của Lý, trong tính cách cũng như trong suy nghĩ thì họ

không bao giờ nghĩ mình sẽ hơn người khác. Khoe khoang những của cải vật chất

để cho mọi người trong gia đình lại không nhìn mặt nhau. Vợ Cừ là một cô gái hiền

lành không đua đòi bon chen với ai. Chỉ vì, cuộc sống chật vật một mình cô không

thể nào nuôi nỗi hai người con thơ của mình, nên mới tìm đến căn nhà của người

chồng để nương tựa chứ trong suy nghĩ cô chưa từng nghĩ đến việc sẽ giành tất cả

về phía của mình.

Cuộc sống là như vậy, luôn có sự chanh đua bon chen nhau để có được cuộc

sống no đủ, hạnh phúc, viên mãn, nhưng đối với xã hội hiện tại thì con người luôn

có nhiều biến động trong cuộc sống của nền kinh tế thị trường đem lại, họ đã có

nhiều thứ. Nhưng cuộc sống có nhiều biến động nên họ cần hơn về giá trị vật chất

mà lãng quên đi tình cảm gia đình và dẫn đến cuộc xung đột, mới đó Luận từng

khen chị nấu ăn ngon nhưng đến bây giờ những hình ảnh đã không còn nữa mà nó

xuất hiện trước mặt Luận là “con quỷ sa tăng” đã hiện nguyên hình. Do đó, ta thấy

cuộc xung đột giữa người em với chị dâu: “Lý bỏ tay xoắn tóc, rút hai bàn tay lên

sườn, nét môi vênh cong đầy vẻ thử thách đó và ngực nhô hẳn về phía trước, sẵn

sàng lau vào trận chiến sinh ra tử, nhưng giọng nói đay đả lại trơn tru, mát mẻ vô

cùng. Luận cũng không ngờ sự bùng nổ mâu thuẫn vốn đã ầm ỉ lại là cuộc đụng độ

giữa anh và chị dâu. Anh vốn có thiện cảm với bà chị dâu này, vẫn hằng nghĩ: chị

sống phức tạp, pha trộn cả vẻ đẹp sắc sảo của giới tính lẫn những nét thô kệch do

thiếu văn hóa, nhưng lại cảm động, chấp nhận được.” [8; tr.199]

Từ khi Lý về làm dâu của căn nhà này thì đã từ rất lâu Luận đã có thiện cảm

với người chị dâu, và ngưỡng mộ Lý, bởi sự lo lắng và chăm sóc gia đình của cô,

nhưng do nền kinh tế và hoàn cảnh sống đã dần thay đổi trong suy nghĩ của cô,

66

nhưng đó chúng ta cũng có thể chấp nhận được. Vì, cô là một người ít học, thiếu

nhận thức nên dễ bị tác động của giá trị đồng tiền đã làm cho con người bị mờ mắt

không coi trọng đến tình cảm gia đình, anh em mà cứ người xa lạ không hề có chút

quan tâm lẫn nhau. Nếu như con người có nhận thức thì họ sẽ không bao giờ hành

sự như thế, con người vì mọi thứ mà bất chấp tất cả để đảm bảo cuộc sống của họ

sau này.

Qua đoạn văn ta có thể thấy được con người vì vật chất mà bất chấp tất cả,

hung hăng, coi đó là một trận chiến quyết định cuộc sống của họ.

Những lời cay độc, thâm sâu, nhiều mưu tính toán, so đo của Lý không hề

khiếp sợ ai, mà chị càng làm cho cuộc xung đột đó càng thêm nhân lên hơn, Lý

không sợ bất kì ai, Lý trở nên đanh đá tàn bạo hơn những gì Luận nghĩ: “Mày bỏ

tao ra ! – Nó nhỏ nước bọt ai? Tao phải sòng phẳng với nó. À, cả con vợ thằng

khốn nạn Cừ kia nữa, mày cũng định bênh thằng nhà báo đểu giả kia phải không?

Mày lên đây có giấy tờ gì không? Mày có trình báo ai ở cái nhà này không ? Bỏ tao

ra ! Đồ chó ghẻ có mỡ đằng đuôi ! Nó cậy nó là thằng nhà báo, hả? Chúng mày

không sống nỗi với tao đâu ! Ôi trời ơi, sao thân tôi khổ thế này hả giời.” [8; tr.200]

Đó là những gì mà con người vào thời hội nhập kinh tế vì muốn có cuộc

sống tốt mà không bỏ quên đi giá trị tinh thần, coi vật chất là trên hết, đó là những

lời khiến cho các thành viên phải đau lòng vì tính cách của Lý, bởi một người

không có văn hóa ít học thì chúng ta có thể coi đó không có vấn đề gì. Nhưng, đối

với xã hội hiện đại đã xuất hiện nhiều nhưng có tính cách ngông nguồng của Lý,

đây là những chiều hướng sâu khiến cho mọi người đang lo sợ.

Ngoài những xung đột cùng với các thành viên trong gia đình, mà có đôi khi

trong tâm hồn chị đã có những suy nghĩ đối lặp nhau, tính cách đanh đá, tàn nhẫn

của nhân vật Lý đã có những chuyện làm cho chị suy ngẫm lại về những chuyện đã

là quá khứ, vì thế trong tâm hồn chị có một đối lặp không hề nhỏ trong tâm hồn của

chị: “Lý nói câu cuối cùng đi: đi hay không đi ? Để còn đặt vé máy bay. Ông giám

đốc bảo: tùy phòng sắp xếp: Xí nghiệp đang cần nhựa cao su, phụ tùng các loại

máy, hoa chất, nhưng đi cả tháng trời bền biệt với anh ta ? Con mắt lẹo của anh ta

nheo nheo đầy ẩn ý.” [8; tr.143]

Đó là sự mâu thuẫn đang giằng xé trong tâm hồn của Lý, tất cả là do nền

67

kinh tế đem lại và hoàn cảnh sống, mà con người trở nên đanh đá, tàn nhẫn hơn. Vì

vậy, đã xảy ra cuộc xung đột giữa các thành viên trong gia đình không đang có như

gia đình nhà ông cụ Bằng.

Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn tác giả cho ta thấy được vì cuộc sống

mà con người trở nên ganh ghét nhau, đời sống của thời hội nhập kinh tế đem lại

nhiều khó khăn. Vì thế, những mâu thuẫn xung đột của các thành viên trong gia

đình là không tránh khỏi. Con người vì cuộc sống mà có thể làm tất cả để họ có

cuộc sống ấm no, không biết trân trọng tình cảm gia đình, anh em mà thả nhiên

sống theo những cảm nghĩ của mình mà phó mặc cho tất cả

3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu

3.1.1. Sử dụng ngôn ngữ

Trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn tác giả đã sử dụng ngôn ngữ để

miêu tả những hành động và tính cách của từng nhân vật trong đời sống xã hội hiện

tại. Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học có nhận định về ngôn ngữ trong văn học:

“Ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được dùng trong văn học. Trong ngôn ngữ học,

thuật ngữ này có ý nghĩa rộng hơn, nhằm chỉ một cách bao quát các hiện tượng

ngôn ngữ được dùng một cách chuẩn mực các văn bản nhà nước, trên báo chí, đài

phát thanh, trong văn học và khoa học.” [8; tr.215]

Trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng sử dụng ngôn ngữ

giản dị, đưa lời ăn tiếng nói hằng ngày giàu trong tác phẩm, góp phần làm cho tiểu

thuyết trở nên sinh động và hấp dẫn hơn.

Trong tác phẩm tác giả sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt, nhiều khi nhà

văn sử dụng ngôn ngữ đối thoại để cho các nhân vật đối thoại với nhau đó là cuộc

đối thoại giữa Phượng, Luận và Lý: “Này, có biết ăn thịt mèo không? Có con mèo

hoang bay vào nhà ăn vụng lắm, bắt làm thịt đi. Tớ làm thịt mèo giỏi có tiếng từ hồi

sơ tán đấy.

Phượng rung mình, Lý cười khành khạch, tiếng cười hòa với tiếng pháo từ

xa dội về càng lúc càng dầy Luận nghênh tai nghe, tủm tỉm:

Ngày Tết, ai lại đi ăn thịt mèo. Có cách này chừng phạt mèo hay lắm. Bắt

được cô nàng, ta buột bánh pháo vào đuôi.” [8; tr.33]

Cuộc đối thoại của ba người làm cho không khí ngày Tết càng trở nên sinh

68

động hơn, làm cho người đọc thích thú cảnh ngày Tết.

Tác giả còn sử dụng ngôn ngữ độc thoại để thấy được mâu thuẫn trong con

người Lý về những chuyện mình đã làm khiến cho mọi người không được yên ổn

về cuộc sống và để có thể giúp nhân vật thoát khỏi cuộc sống xô bồ như hiện tại.

Trong suy nghĩ của Lý luôn có những mâu thuẫn về cuộc sống mà chị đang

sống: “Lý nói cuối câu cuối cùng đi, đi Sài Gòn hay không đi ? Để còn đặt vé máy

bay. Ông giám đốc bảo: tùy phòng sắp xếp: Xí nghiệp đang cần nhựa cao su, phụ

tùng các loại máy, hóa chất, nhưng đi cả tháng trời biền biệt với anh ta ? Con mắt

lẹo của anh ta nheo nheo đầy ẩn ý. Hứa hẹn những cuộc tiêu pha thỏa thích, hay

nhắc nhở những món nợ của Lý vay phải trả. Đời vay thì phải trả. Nhưng, anh ta

cười rất lẳng: Tiền của tôi cũng giống như tiền của Lý thôi.” [8; tr.143]

Nhưng, nhiều lần Lý đã thức tỉnh hoàn toàn chị nhận thấy mình đã đi quá xa

so với những gì mà xã hội cho phép, thế nhưng tất cả vẫn như thế, khi không có sự

sẻ chia của người chồng giành cho chị, những lúc đau khổ nhất chỉ cần có sự an ủi,

sẻ chia đề chị có thể vượt qua, nhưng tất cả đã không thể quay lại. Do đó, Lý đã

hoàn toàn mất phương hướng dẫn đến Lý đã sa ngã.

Ngoài ra, trong tác phẩm chúng ta cũng thấy tác giả sử dụng ngôn ngữ để

phản ánh kinh nghiệm sống, trình độ văn hóa, đạo đức của mỗi cá thể.

Ngôn ngữ của Luận, Luận là một nhà báo, anh rất am hiểu và nhảy bén trước

cuộc sống có nhiều biến đổi đang diễn ra, lời đối thoại của Luận là lời tranh luận,

suy tư về cuộc sống, về mối quan hệ gia đình và xã hội.

Luận là một người có lý tưởng, có đức tính tốt đẹp, lời góp ý giành cho Lý,

lời khuyên giành cho Đông và lời an ủi giành cho ông Bằng

Ngôn ngữ không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta, bởi đó là sự giao

tiếp của con người với con người có tính hiệu quả cao, có âm độ, trường độ, âm sắc.

Ngôn ngữ lời nói có biểu hiện sắc thái tình cảm. Do đó, cuộc tranh luận giữa Luận

và Lý có những lúc họ đối thoại để làm tăng thêm giá trị tình cảm của mọi người

trong gia đình. Nhưng, càng về sau cuộc sống có nhiều biến động con người cũng

có nhiều thay đổi, do đó dẫn đến sự xung đột không đáng có của Lý và Luận, khi

Luận nói Lý là “quỷ sa tăng”. Một người thì ngôn ngữ bóng bẫy điêu luyện, hoạt

bát đầy đủ trí thức, còn Lý là một người thô bạo, thiếu đạo đức vô văn hóa, một con

69

người ít học không đủ kiến thức để nhận thức sự việc trong đời sống hằng ngày.

Ngôn ngữ chị Hoài chất phác, thật thà, giàu tình cảm luôn quan tâm với mọi

người xung quanh và chu đáo, ngôn ngữ giản dị có khi cuộc đối thoại với những

người trong gia đình như Luận: “Hơn chục năm nay chị Hoài chưa lên Hà Nội rồi

đấy – Luận nói.

Làm gì ! Đám cưới chú với cô Phượng còn lên dự cơ mà. Mới chín năm thôi.

Bận quá nhà nông chẳng bao giờ hết việc. Ông đâu?

Luận ra vẻ thành thạo:

Tháng này đã cấy đâu chị ? Ông ở trên nhà có lẽ sắp xuống đấy.

Dưng mà còn gỡ khoai tây. Còn họp Đại hội. Định đi từ sớm kia, mà công

kia việc nọ cứ dồn tới.” [8; tr.63]

Chị còn quan tâm đến niềm vui của các cụ già, khi tuổi đã về già cần có

người chăm sóc đỡ nâng, chia sẻ kỉ niệm vui, buồn trong cuộc sống, do đó chị đã

kéo hai người già nhích lại gần nhau hơn: “Còn việc này nữa, chị định nói với Lý,

nhưng nghĩ Lý không chắc hiểu được, nên lại thôi. Cũng đã nói với Đông rồi,

nhưng chú ấy cứ ậm ờ, không hiểu ý thế nào. Đó là chuyện của ông. Ông hồi này

yếu quá. Hằng ngày lên dọn dẹp buồng ông, em phải chú ý làm việc này nhé, chị

thấy ông buồn buồn vì vắng vẻ quá. Bà mất làm ông thiếu một người đỡ nâng, bầu

bạn. Chị dò ý ông, ông có ý ngại. Chị liền qua thẳng nhà bà Chí, ý chị muốn hai

ông bà sống gần gũi với nhau cho có bạn bè lúc già cả, em ạ. Rồi ai cũng vậy thôi.”

[8; tr.71]

Ngôn ngữ của Lý khi đanh đá, chị là một người thiếu đạo đức, vô ý thức và

cũng không phân biệt được giữa cái tốt và cái xấu, chị thẳng thắn chửi mọi người

mà không hề sợ một ai, người lớn trẻ nhỏ cũng không tha, chị đanh đá đến tàn nhẫn:

“Lý ngông ngược hết mức. Đang ăn phở, Lý bất chấp mọi đạo lý, chạm phải một bà

già, mình trái mà Lý lại mắng té tát, gọi bà là mụ phò. Lý mua rau, mua thịt, đành

hanh kẻ cả, như ăn cướp của người ta, người ta vứt sạch xuống đất.” [8; tr 112]

Đó là một con người luôn coi trọng vật chất mà xem nhẹ về mặt tinh thần,

quên đi giá trị thiêng liêng của tình cảm gia đình, anh em. Là một con người không

nói lý lẽ, không nhận sai về mình, Lý không hề thương xót và quan tâm mọi người

xung quanh. Trong xã hội có nhiều biến đổi con người có nhiều sắc thái, những so

đo, tính toán của các thành viên trong gia đình trở nên phổ biến hơn khi Lý nói:

70

“Qua rõ rồi còn gì. Thứ nhất, nó ăn cắp trứng gà của thằng Dư con tôi. Thứ nhì, nó

đi nước ngoài về, không cho tôi một cái mù xoa, mà tôi thì nuôi dạy nó tốn không ít

công của. Thứ ba, nó bán len cho tôi, len nó đem từ Tây về ấy, đắt hơn bán cho

người khác.” [8; tr.34]

Ma Văn Kháng đã sử dụng ngôn ngữ một cách điêu luyện. Nhưng, trong tác

phẩm văn học ông chủ yếu đưa lời ăn tiếng nói sinh hoạt hằng ngày đưa vào tác

phẩm, để người đọc cảm nhận được sự gần gũi của cuộc sống, dễ nhớ. Vì vậy, khi

tác phẩm ra đời đã được mọi đón nhận nhiệt tình, bởi câu chữ dễ nhớ và dễ đi vào

lòng

3.3.2.Giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù văn học, là một trong những yếu tố quan trọng

trong việc sáng tạo nghệ thuật tạo nên một phong cách và cá tính riêng của từng nhà

văn. Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thấy giọng điệu nó biểu thị sắc thái tình

cảm của từng con người, khi chúng ta nói họ có thể dễ dàng nhận ra lời nói và giọng

của mình. Giọng điệu được hiểu nó như một tín hiệu có âm thanh có âm sắc, trường

độ, cao độ… Nó được dùng trong môi trường giao tiếp. Khi chúng ta nói bao giờ

cũng muốn biểu thị một cảm xúc, một ý nghĩa nào đó để cho người nghe có thể hiểu

được những ý mình đang nói. Giọng điệu không chỉ tồn tại như âm thanh có âm sắc

mà nó còn hàm chứa thái độ, tình cảm, ứng xử của người trước hiện thực đời sống.

Khi trở thành yếu tố của văn học thì nó phức tạp hơn so với giọng điệu ở ngoài đời

sống.

Trong cuốn từ điển thuật ngữ văn học có nhiều tác giả cũng quan niệm:

“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của mỗi nhà văn đối

với các hiện tượng được miêu tả, thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi

tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần, thân sơ, thành kính hay

suồng sã, ngợi ca hay châm biếm. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ

cả thị hiếu thẩm mĩ của tác giả.” và rút ra kết luận: “Giọng điệu trong tác phẩm

gắn liền với giọng điệu trời phú của tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ

thuật, phù hợp với đối tượng thể hiện.” [7; tr.134 – 135].

Vì vậy, ta thấy trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng,

cho ta thấy được giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người.

Nhà văn miêu tả nhân vật Lý với nhiều cung bặc sắc thái tình cảm, có đôi lúc

71

Lý hiền lành và luôn lo lắng cho gia đình, giọng điệu nhẹ nhàng khi Đông và Lý

yêu nhau và luôn lo lắng cho gia đình nhỏ của mình, đảm đang tháo vát. Nhưng,

cũng có lúc Lý trở nên đanh đá, tàn nhẫn không quan tâm đến mọi người xung

quanh, Lý không bao giờ đặc mình vào tâm trạng trạng thái của người khác, giọng

điệu ẩn sâu trong lời nói của Lý, khi Lý cho rằng mọi người chiếm tất cả của cải vật

chất của Lý, và những lời nói của Lý khi cần đến sự giàu sang để đảm bảo cuộc

sống sau này: “Còn tôi, tôi không thể sống như thế được ! Tôi cần sung sướng ! Tôi

không chịu thua kém đứa nào ! Tôi cần ti vi, tủ lạnh, xe máy ! Tôi không phải là

vàng để trang trí cho kẻ nào hết, tôi làm ra tôi phải hưởng.” [8; tr.197]

Đó là những gì mà tác giả giành cho nhân vật Lý, có đôi lúc nhà văn cho

thấy giọng điệu nhẹ nhàng, sinh động, bởi giọng nói và thái độ tình cảm của Lý,

nhưng có lúc Lý luôn có nhiều sắc thái tình cảm, nhưng ngược lại hoàn toàn, Lý là

một con người sống không biết chia sẻ cùng ai, và đặc biệt Lý coi thường giá trị

tinh thần mà đề cao giá trị vật chất.

Giọng điệu buồn, trầm lặng được thể hiện ở các nhân vật Phượng, Hoài và

vợ Cừ họ là những người phụ nữ sống trong hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn,

đầy bất hạnh không có cuộc sống yên ổn trong xã hội hiện nay. Nhưng, đối với họ

vẫn tin vào cuộc sống hướng về tương lai sẽ khiến cho con người sẽ sống tốt hơn.

Vì vậy, giọng điệu trong ngôn ngữ của Phượng nhẹ nhàng và sâu lắng, do đó

nhận được sự đồng cảm của nhiều bạn đọc, ở Phượng thấy được tính cách và những

suy nghĩ của con người luôn quan tâm và biết yêu thương người khác. Với những

lời nói và giọng điệu của các nhân vật đã phần nào giúp ta nhận thấy được về giá trị

đạo đức của con người. Nó từ sâu trong tâm hồn đã phản ánh về cuộc sống của con

người.

Bên cạnh, giọng điệu buồn, sâu lắng chúng ta còn thấy nổi lên một giọng

điệu xót xa, ngậm ngùi của các nhân vật, với giọng điệu xót xa khi nhận được lá thư

của Cừ về miền đất hứa và khi nhận ra tội lỗi của mình với người cha thì đã muộn

không còn thời gian quay lại để sửa lại lỗi làm của mình.

Với giọng điệu trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng

cho thấy được thế giới nội tâm nhân vật, đồng thời khi sáng tác với giọng điệu trầm

và buồn trong tác phẩm, đọc giả chỉ đọc một lần có thể hiểu được và nằm lòng các

chi tiết và những diễn biến trong tác phẩm, do đó đã góp phần thành công trong việc

72

sáng tác của nhà văn của thời đại, nhưng chúng ta cũng thấy đôi khi nhà văn cũng

cho chúng ta nhận được nỗi buồn của nhân vật nhưng cũng có khi thấy tìm được

niềm vui trong cuộc sống để họ có thể vượt qua những khó khăn và bất ổn của xã

hội lắm bê bối này.

Qua đó để cho họ thấy được giá trị của cuộc sống, luôn yêu thương và chia

sẻ cho nhau những gì đang diễn ra trong đời sống, muốn họ trân trọng những gì mà

mình đang có không để sau này họ phải hối hận, khi họ coi thường giá trị tinh thần

mà quan trọng và đề cao giá trị vật chất con người chúng ta sẽ không tìm được niềm

73

vui trong cuộc sống.

KẾT LUẬN

Ma Văn Kháng là một cây bút văn xuôi được biết đến vào những đầu thâp kỉ

70 của thế kỉ XX. Vào những năm 1961 – 1980 ông viết về cuộc sống của dân tộc

miền núi, ông ca ngợi những cuộc kháng chiến chiến thắng vẻ vang nhưng cũng đầy

khó khăn. Những năm 80 của thế kỉ XX, ông viết về đời sống thành thị, về gia đình

cũng như về cuộc sống của con người Việt Nam trong thời hội nhập kinh tế thị

trường.

Trong đó, hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm đã góp phần làm nổi bật về

tính cách của con người trong xã hội hiện đại. Nền kinh tế đã làm con người có

nhiều chao đảo về cuộc sống khi xã hội có nhiều biến động như hiện nay.

Qua đó, ta thấy tác phẩm miêu tả về Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết

Mùa lá rụng trong vườn với đức tính và những phẩm chất tốt đẹp nhưng trong họ

cũng còn tồn tại những mặt hạn chế do nền kinh tế thị trường đem lại.

Nhưng hầu như chúng ta thấy họ luôn là người đảm đang, tháo vát, có tài

quán xuyến gia đình, họ luôn năng nổ cũng như việc chăm lo cho các thành viên

trong gia đình, người phụ nữ luôn làm tốt công việc của mình, họ coi giá trị tinh

thần là thiêng liêng nhất không có gì có thể thay thế, làm mọi thứ chỉ vì muốn gia

đình được yên ấm, mọi người sum quầy bên nhau, những lúc khó khăn có thể chia

sẻ cùng nhau để mọi người cùng tìm ra cách giải quyết, cứu giãn được sự việc khi

trong cuộc sống có những thay đổi.

Vì vậy, người phụ nữ luôn ý thức được vị trí của mình trong quan hệ gia đình

và ngoài xã hội, ở ngoài cho dù có làm gì thì đó cũng là công việc, nhưng khi về

đến nhà họ là một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng vì con, họ xuyên năng, cần

cù, mong muốn có được hạnh phúc đó là những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ.

Nhưng, chúng ta cũng có thể thấy khi đất nước mở rộng giao lưu kinh tế đã

kéo theo những mặt tiêu cực trong cuộc sống, lối sống có nhiều biến động, do đó

đời sống của họ trở nên khó khăn đè lên vai người phụ nữ họ gòng gánh khó nhọc,

vất vả gian truân họ vẫn không than thở, đó là đức tính của người phụ nữ Việt Nam,

họ cho ta thấy sự chịu thương chịu khó, hy sinh, bao dung và lòng vị tha hằng sâu

74

trong con người họ.

Do đó, ta thấy người phụ nữ luôn khao khát tình yêu để họ cảm nhận hạnh

phúc trong tình yêu và sự sẻ chia của người yêu. Trong tác phẩm, các nhân vật đôi

khi họ tìm thấy tình yêu thật sự nhưng cũng có người phụ nữ họ tha thiết mong có

được hạnh phúc nhưng hạnh phúc và tình yêu của họ chưa đủ lớn để có thể cùng

nhau trải qua những khó khăn trong cuộc sống, khi cuộc sống có nhiều biến động

người phụ nữ lại không nhận được sự quan tâm, sẻ chia đồng cảm của chồng mà

thay vào đó là sự vô tâm, hờ hững, vì thế họ không bảo vệ được hạnh phúc gia đình.

Bên cạnh đó, một gia đình hạnh phúc như Hoài, vì đất nước xảy ra chiến

tranh nên Hoài đành hy sinh hạnh phúc nhỏ để đổi lấy hạnh phúc lớn của cả dân tộc,

người phụ nữ có được hạnh phúc nhưng chưa bao giờ trọn vẹn.

Nhưng cũng có người phụ nữ họ đã tìm thấy và hạnh phúc, khi tình yêu của

họ xuất phát từ trái tim, họ luôn chia sẻ cảm thông và tôn trọng, dìu dắt nhau để họ

vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, nơi đây họ tìm thấy tình yêu và hạnh

phúc.

Song song với những phẩm chất cao quý thì người phụ nữ cũng có nhiều mặt

hạn chế, nhưng chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy đó là do nền kinh tế thị trường tác

động vào nhận thức của con người. Nên, con người không phân biệt được tốt xấu, ta

thừa hiểu rằng trong xã hội có người tốt nhưng cũng không ít kẻ xấu đang len lỏi

trong chúng ta, lôi cuốn họ vào trò chơi xa xỉ vào những dục vọng thấp hèn. Trong

tác phẩm đã phản ánh những lối sống thực dụng, sự so đo, tính toán của cá nhân con

người.

Qua Hình ảnh người phụ nữ trong tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của Ma

Văn Kháng, tác giả đã cho ta thấy được nghệ thuật đặc sắc trong tiểu thuyết về

giọng điệu, ngôn ngữ. Ma Văn Kháng là ngòi bút điêu luyện nhưng phần lớn ông sử

dụng ngôn ngữ giản dị như lời ăn tiếng nói hằng ngày đưa vào tác phẩm đem lại sự

gần gũi với nhân dân. Trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn với giọng điệu sâu

lắng nhưng cũng có lúc dẫn đến cao trào, nhưng chúng ta thấy phần lớn tác giả sử

dụng giọng điệu trầm buồn để người đọc cảm nhận và đặc biệt không gây sự nhàm

chán đối với đọc giả.

Việc nghiên cứu Hình ảnh người phụ nữ trong tiểu thuyết Mùa lá rụng trong

vườn của Ma Văn Kháng chúng tôi chỉ đề cập đến một số vấn đề như: sự đảm đang,

75

tháo vát, ý thức nếp nhà, khát vọng tình yêu và hạnh phúc, nhưng chúng ta có thể

nghiên cứu ở một khía cạnh khác về hình ảnh của người phụ nữ, do thời gian có hạn

nên chúng tôi chỉ đề cập đến những mặt tích cực và tiêu cực của người phụ nữ, tôi

mong thời gian gần nhất sẽ được nghiên cứu về Hình ảnh người phụ nữ ở một

76

phương diện khác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Cương, (1985) “Mùa lá rụng trong vườn – Một đóng góp mới của Ma

Văn Kháng”, Nhân dân.

2. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp nghiên cứu văn học, Nxb. Khoa học

xã hội, Hà Nội.

3. Phan Cự Đệ (2003), “Tiểu thuyết sử thi trong thế kỉ XX”, tạp chí Nhà văn. 4. Nguyễn Lâm Điền, Trần Văn Minh (2004), Những vấn đề chung về văn học

Việt Nam sau năm 1975, Nxb Đại học Cần Thơ.

5. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục,. 6. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), (2010), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.

7. Trần Bảo Hưng (1984), “Mùa lá rụng trong vườn và những vấn đề đời sống

hôm nay”, Báo phụ nữ Việt Nam, số 17.

8. Ma Văn Kháng (2001), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb trẻ. 9. Nguyễn Văn Lưu (1986), “Bàn thêm về Mùa lá rụng trong vườn”, Báo Văn

nghệ, số 25.

10. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), “Những vấn đề cơ bản của lịch sử văn học Việt

Nam từ thế kỉ XX đến nay được nhìn nhận trên tinh thần đổi mới”, Tạp chí

Cửa Việt.

11. Lê Thành Nghị (1995), “Tiểu thuyết về chiến tranh – mấy ý nghĩ đóng góp

bàn”, Tạp chí Văn nghệ quân đội.

12. Trần Đình Sử(2002), Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học

Việt Nam thê kỉ XX, Nxb Chính trị Quốc gia.

13. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học Sư phạm. 14. Trần Đình Sử - Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam (1987), Lí luận văn học,

tập hai (tác phẩm ăn học),Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Bùi Viết Thắng (1983), “Mấy nhận xét về tiểu thuyết sau 1975 viết về cuộc

kháng chiến chống Mĩ”, Báo Văn nghệ (31). Tr 2

16. Chu Thị Thơm (2003), “Nhà văn Ma Văn Kháng viết tiểu thuyết là một đời

đi săn hổ dữ”, Báo giáo dục thời đại, số 98.

17. Trần Mạnh Thường (chủ biên), (2003), Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế

77

kỉ XX, Nxb Hội nhà văn.

18. Vân Thanh (1996), “Một mảnh trong đời sống hôm nay qua Mùa lá rụng

trong vườn”, Tạp chí Văn học số 3, tháng 5, 6.

19. Xuân Tùng (1999), “Ma Văn Kháng – nhà văn cần có cái tâm”. Báo Hà Nội,

số 17. 20. Hồ Xuân Trường (1991), “Tọa đàm văn học tiểu thuyết và phát triển”, Tạp

chí Cộng sản.

21. Lê Kim Vinh (1998), “Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng”, Tạp chí Văn

học, số 5, tr. 111 – 116.

22. Trần Đăng Xuyền (1985), “Phải chăm lo cho tất cả mọi người”. Báo Văn

nghệ, số 40

78

23. Nhiều tác giả (1996), Tuyển tập 40 tạp chí văn học, Nxb TP Hồ Chí Minh.