Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********
NGHIÊM THU HẰNG
VĂN HÓA HÀ NỘI QUA GÓC NHÌN
CỦA THẠCH LAM VÀ MARTÍN RAMA
(Khảo sát qua Hà Nội băm mươi sáu phố phường
và Hà Nội, một chốn rong chơi)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI - 2018
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
**********
NGHIÊM THU HẰNG
VĂN HÓA HÀ NỘI QUA GÓC NHÌN
CỦA THẠCH LAM VÀ MARTÍN RAMA
(Khảo sát qua Hà Nội băm mươi sáu phố phường
và Hà Nội, một chốn rong chơi)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
ThS. NGUYỄN PHƢƠNG HÀ
HÀ NỘI - 2018
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự hướng dẫn nhiệt
tình của giảng viên, ThS. Nguyễn Phương Hà, Tổ văn học Việt Nam cùng sự
nhận xét, góp ý của toàn thể các thầy cô khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2.
Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô,
đặc biệt là giảng viên, ThS. Nguyễn Phương Hà đã tận tình hướng dẫn tôi
hoàn thành khóa luận này.
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2018
Tác giả khóa luận
Nghiêm Thu Hằng
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của giảng viên, ThS. Nguyễn Phương
Hà. Đề tài không trùng với kết quả có sẵn của bất kì tác giả nào khác. Nếu sai
tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 30 tháng 4 năm 2018
Tác giả khóa luận
Nghiêm Thu Hằng
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 5
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
6. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
7. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 8
1.1. Tác giả Thạch Lam ..................................................................................... 8
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn học ............................................................... 8
1.1.2. Tập bút kí Hà Nội băm mươi sáu phố phường ..................................... 10
1.2. Tác giả Martín Rama ............................................................................... 11
1.2.1. Cuộc đời ................................................................................................ 11
1.2.2. Tác phẩm Hà Nội, một chốn rong chơi ................................................. 13
1.3. Cảm hứng văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín
Rama ............................................................................................................... 14
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN GÓC
NHÌN VĂN HÓA HÀ NỘI CỦA THẠCH LAM VÀ MARTÍN RAMA . 18
2.1. Kiến trúc cảnh quan Hà Nội ..................................................................... 18
2.2. Nét đẹp trong văn hóa ẩm thực người Hà Nội ......................................... 24
2.3. Nhịp sống người Hà Nội .......................................................................... 35
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
GÓC NHÌN VĂN HÓA HÀ NỘI CỦA THẠCH LAM VÀ MARTÍN
RAMA ............................................................................................................ 42
3.1. Không gian nghệ thuật ............................................................................. 42
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................. 44
3.3. Giọng điệu ................................................................................................ 49
KẾT LUẬN .................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong bối cảnh hiện nay, văn học Việt Nam ngày càng có những
bước phát triển mạnh mẽ, tích cực. Bên cạnh việc phát triển từ nội tại, sự giao
lưu giữa với các nền văn học nước ngoài cũng khiến văn học đa dạng, phong
phú hơn. Đặc biệt với sự xuất hiện nhiều cây bút mới là người nước ngoài, bắt
đầu khai thác những đề tài vốn quen thuộc trong văn học Việt Nam đã đem lại
luồng gió mới cho văn học.
1.2. Hà Nội vốn là mảnh đất địa linh nhân kiệt, có bề dày truyền thống
văn hóa. Hà Nội đi vào trái tim người nghệ sĩ, làm rung lên những cung bậc
cảm xúc diệu kì để họ cho ra đời nhiều kiệt tác. Bạn đọc đã từng quen thuộc
với sáng tác viết về Hà Nội của các tác giả như: Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy
Tưởng, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Băng Sơn, Vũ Bằng, Nguyễn Ngọc
Tiến… Nhà văn Thạch Lam cũng là một trong những tác giả gắn bó với văn
học, văn hóa Hà Nội qua tập bút kí Hà Nội băm mươi sáu phố phường. Ấn
tượng và xúc cảm mà Hà Nội đem đến không chỉ chạm tới trái tim của những
người con sinh sống trên dải đất hình chữ S mà nó còn lôi cuốn một chuyên
gia kinh tế người Uruguay. Sự xuất hiện của Martín Rama với cuốn sách có
nhan đề Hà Nội, một chốn rong chơi đã thu hút nhiều độc giả. Mặc dù sinh
ra và lớn lên ở hai nền văn hóa khác nhau song đều xuất phát từ tình yêu thủ
đô, Thạch Lam và Martín Rama đã đem đến cho người đọc những tác phẩm
có giá trị. Với Hà Nội băm mươi sáu phố phường và Hà Nội, một chốn rong
chơi, người đọc cảm nhận rõ hơn về Hà Nội - thủ đô nghìn năm văn hiến ở
nhiều góc nhìn khác nhau. Hai tác giả với những nhãn quan riêng đã khắc họa
hình ảnh Hà Nội qua thời gian với những góc quay chân thực và sống động.
Hà Nội đẹp, nguyên sơ và cổ kính qua sự trân trọng, ngợi ca của Thạch Lam.
1
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Còn dưới góc nhìn của Rama thành phố không chỉ quyến rũ mà còn đang từng
bước chuyển mình đổi thay.
Nghiên cứu về đề tài Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam
và Martín Rama nhằm thấy được sự vận động của diện mạo văn hóa Hà Nội
xưa và nay, cũ và mới, truyền thống và hiện đại qua ngòi bút của một nhà văn
Việt Nam và một người ngoại quốc. Đồng thời, đây chính là cơ sở giúp mở
rộng kiến thức văn học cho học sinh nhằm đáp ứng yêu cầu dạy học tích hợp
trong nhà trường hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Giữa bộn bề của buổi chợ phiên văn chương, giữa sự náo nhiệt, đông
đúc của các gian hàng lãng mạn, Thạch Lam giống như một lữ khách đặc biệt.
Người con của Tự lực văn đoàn đã không đưa bạn đọc đến những chân trời
phiêu du, bay bổng của tình yêu mơ mộng, của sự thoát li đầy lãng mạn mà
dắt chúng ta đi vào giữa cõi đời rất thực. Cái cốt cách dịu dàng, nhân ái ấy đã
nguyện gắn ngòi bút của mình với những kiếp người đau khổ, trân trọng cuộc
sống nơi trần gian. Nhà văn Nguyễn Tuân từng nhận xét: “Xúc cảm của nhà
văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với
những con người ở tầng lớp dân nghèo. Thạch Lam là một nhà văn quý mến
cuộc sống trang trọng trước sự sống của mọi người xung quanh. Ngày nay
đọc lại Thạch Lam vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác
phẩm có cốt cách và tác phẩm văn học” [7,375].
Từ năm 1939 - 1942, các nhà nghiên cứu như Trương Chính, Vũ Ngọc
Phan đã đánh giá về các tác phẩm của Thạch Lam. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan khẳng định: “Từ Gió đầu mùa đến Sợi tóc, Thạch Lam đã tiến một bước
khá dài trên đường nghệ thuật”.
2
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Sau Cách mạng tháng Tám, có nhiều nghiên cứu về Thạch Lam. Tiêu
biểu phải kể đến đóng góp của tác giả Lê Thị Đức Hạnh trong cuốn Mấy ý
kiến đánh giá Thạch Lam (Tạp chí văn học số 4, năm 1965), Hà Minh Đức
trong cuốn sách Nhà văn và tác phẩm, (Nxb Văn học Hà Nội, 1971). Các nhà
nghiên cứu này khẳng định Thạch Lam là nhà văn lãng mạn có thái độ trân
trọng người nghèo khổ.
Năm 1988, GS. Phong Lê xuất bản Tuyển tập Thạch Lam. Tháng 8
năm 2000, công trình nghiên cứu với nhan đề Thạch Lam của cái đẹp được
biên soạn bởi Hoàng Trần Vũ gồm những bài viết xoay quanh cuộc đời và tác
phẩm Thạch Lam của các nhà phê bình, nhà văn nổi tiếng như: Vũ Ngọc
Phan, Phong Lê, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Thế Lữ, Nguyễn Tuân,…
Ngoài các tuyển tập các bài viết nhỏ, nhiều công trình nghiên cứu về
Thạch Lam. Có thể kể đến luận án PTS của tác giả Phạm Thị Thu Hương với
nhan đề Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong Văn học Việt Nam
giai đoạn 1930 - 1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh; luận án
tiến sĩ của Lê Minh Truyên có tên gọi Thạch Lam với Tự lực văn đoàn;
cuốn sách Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam cuả nhà nghiên cứu
Nguyễn Thành Thi; luận văn thạc sĩ Đặc sắc của ký Thạch Lam của tác
giả Lê Thị Xuân... là những đóng góp không nhỏ về phương diện nội dung
và nghệ thuật trong tác phẩm của Thạch Lam. Qua đó, khẳng định vị trí
của ông trong nền văn học nước nhà.
Nghiên cứu về Thạch Lam, các nhà phê bình không chỉ xoay quanh các
tiểu thuyết, truyện ngắn mà thể loại kí trong sáng tác của ông cũng nhận được
nhiều sự quan tâm. Trong đó phải kể đến tập bút kí Hà Nội băm sáu phố
phường. Đây là một tác phẩm thành công, đáng ghi nhận trên nhiều phương
diện cả về nội dung và hình thức. Lời tựa cuốn sách, tác giả Khái Hưng khẳng
định: “Thạch Lam là người chép sử đặc biệt cho Thăng Long văn vật… Đó là
3
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
lịch sử cuộc sống sinh hoạt hằng ngày của dân thành thị với tất cả những
phong tục, tập quán, với tất cả những cái vui, buồn, cái tức, cái giận nho nhỏ
trong xó tối, không tên, không tuổi, không tiếng tăm lưu lại đời sau” [6,3].
Trong bài viết Thạch Lam người đi tìm cái đẹp trong cuộc sống đời
thường và trong văn chương, TS. Lê Dục Tú cho rằng: “Hà Nội băm mươi
sáu phố phường đã đến với Thạch Lam bằng con mắt trông nhìn và thưởng
thức của một tâm thức Việt Nam: “muốn giao lưu hòa nhập với văn minh
nhân loại luôn nâng niu và bảo tồn truyền thống””. Tâm hồn và tài năng
Thạch Lam hòa quyện với nhau khắc họa nên những giá trị đẹp của văn hóa
Hà Nội.
PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp trong cuốn Tuyển tập kí - tản văn Thăng
Long Hà Nội cũng đánh giá cao và dành những lời ca ngợi, trân trọng cho tập
kí: “Kí Hà Nội của Thạch Lam như đã thâu tóm hết cái hồn cốt của đất kinh
kì - Kẻ Chợ. Nó âm âm trong lối phố, tao nhã, thanh lịch trong các thú chơi,
các thức quà, hòa quyện, luyến quyện trong từng thời khắc giao mùa, trong
nét cười thiếu nữ”.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Thành Thi đã từng nhận xét: “Thạch Lam
cũng đi tìm cái đẹp, nhưng với ông, trong đời sống cái đẹp vốn tiềm tàng,
khuất lấp và trong văn chương cái đẹp là sự sống được cảm thấy”. Từ hiện
thực đời sống, Thạch Lam đã tái hiện vẻ đẹp truyền thống văn hóa chốn kinh
thành Thăng Long đọng lại qua những trang văn.
Khác với tập bút kí của Thạch Lam, Hà Nội, một chốn rong chơi của
Martín Rama là một ấn phẩm mới. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có nhiều
công trình nghiên cứu trọn vẹn nào về cuốn sách này. Báo chí hay các trang
mạng xã hội mới chỉ xuất hiện những bài viết sơ lược về tác phẩm này. Trong
bài viết Lang thang đất Hà thành với Hà Nội, một chốn rong chơi của Bùi
Ngọc Hà trên trang báo mạng baotritre.vn (24/3/2014), tác giả nhận định:
4
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
“Thông qua “Hà Nội một chốn rong chơi , Martin Rama gửi gắm một
thông điệp về sự bảo tồn và gìn giữ những nét đặc trưng của mảnh đất kinh
k ”. Nhà báo Thiên Thanh cũng từng nhận xét về tác phẩm này: “Hà Nội,
một chốn rong chơi chính là bức tranh Hà Nội trong con mắt một người
ngoại quốc đã có nhiều năm tháng sống trên mảnh đất rồng thiêng và gắn bó
với nó như máu thịt. Những độc giả người Việt Nam khi đọc trang sách viết
về Hà Nội quen thuộc có thể thấy những bất ngờ, thú vị mà chỉ những người
ngoại quốc như Martín Rama mới nhìn thấy được. Có lẽ cũng là lí do khiến
cuốn sách này nhận được nhiều yêu mến đến vậy” [12].
Qua việc khảo sát và nghiên cứu về đề tài Hà Nội, chúng tôi nhận thấy
có nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu phố
phường của Thạch Lam song còm mang tính chất khái quát hoặc gợi mở. Với
Hà Nội, một chốn rong chơi của M. Rama, đây được coi là một tác phẩm
mới mẻ với bạn đọc, chưa có nhiều công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu
một cách trọn vẹn mà bước đầu chỉ dừng lại ở tiếp cận tác phẩm. Vì vậy, thực
hiện đề tài Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama (Khảo
sát qua Hà Nội băm mươi sáu phố phường và Hà Nội, một chốn rong chơi),
chúng tôi mong muốn tái hiện lại bức tranh văn hóa Hà Nội xưa và nay qua
cái nhìn độc đáo, khác lạ của một người gắn bó máu thịt với Hà Nội và một
người ngoại quốc yêu mến thủ đô.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, chúng tôi hướng đến những mục đích sau:
- Xác định vị trí của tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu phố phường
trong sáng tác của Thạch Lam, Hà Nội, một chốn rong chơi của Martín
Rama và tài năng của các nhà văn trong việc khám phá, miêu tả, khắc họa vẻ
đẹp văn hóa.
5
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
- Chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt trong cảm hứng văn hóa Hà
Nội của hai tác giả.
- Khẳng định sự ảnh hưởng của giá trị văn hóa thủ đô cũng như nhìn
nhận mối quan hệ giữa văn học và các loại hình nghệ thuật khác như kiến
trúc, nhiếp ảnh, hội họa, ẩm thực,…
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện khóa luận này, chúng tôi hướng đến những nhiệm vụ sau:
Một là, tìm hiểu một số phương diện nội dung thể hiện văn hóa Hà Nội
dưới con mắt của Thạch Lam và Martín Rama (kiến trúc, nét đẹp trong văn
hóa ẩm thực và nhịp sống người Hà Nội).
Hai là, tìm hiểu một số phương diện nghệ thuật thể hiện văn hóa Hà
Nội dưới con mắt của Thạch Lam và Martín Rama (không gian và thời gian
nghệ thuật, ngôn ngữ, giọng điệu).
Ba là, khẳng định giá trị truyền thống văn hóa Hà Nội, sự hòa quyện,
đan xen giữa cái mới - cái cũ, Hà Nội xưa - nay. Qua đó khẳng định tài năng,
tình yêu Hà Nội của hai tác giả Thạch Lam và Martín Rama.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành
- Phương pháp phân tích, bình giảng
6
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
6. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Như tên gọi của đề tài, đối tượng mà chúng tôi hướng đến là Văn hóa
Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama.
- Đề tài nghiên cứu tập trung qua hai tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu
phố phường, Thạch Lam (Nxb Văn học, 2016) và Hà Nội, một chốn rong
chơi, Martín Rama (Nxb Thế Giới, 2015).
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nội dung khóa luận chia
làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung
Chương 2: Một số phương diện nội dung thể hiện văn hóa Hà Nội dưới
con mắt của Thạch Lam và Martín Rama
Chương 3: Một số phương diện nghệ thuật thể hiện văn hóa Hà Nội
dưới con mắt của Thạch Lam và Martín Rama
7
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Tác giả Thạch Lam
1.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn học
Thạch Lam là viên ngọc quí của nhóm Tự lực văn đoàn nói riêng và
nền văn học Việt Nam nói chung. Ông sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà
Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại đã đến kì sa sút. Cha ông là
Nguyễn Tường Nhu, dòng dõi gia đình văn võ kiêm toàn. Ông thông thạo chữ
Hán và chữ Pháp, làm Thông Phán Tòa sứ nên thường được gọi là Thông Nhu
hay Phán Nhu. Mẹ Thạch Lam là bà Lê Thị Sâm, con gái cả ông Lê Quang
Thuật (tục gọi Quản Thuật), người gốc Huế đã ba đời ra Bắc. Ông bà Nhu có
tất cả bảy người con: Tường Thụy, Tường Cẩm, Tường Tam, Tường Long,
Thị Thế, Tường Vinh và Tường Bách. Trừ Tường Thụy, làm công chức, các
người con còn lại đều đã ít nhiều dự vào nghiệp văn chương. Trong số đó, nổi
bật là Tường Tam (Nhất Linh), Tường Long (Hoàng Đạo) và Tường Vinh
(Thạch Lam).
Tháng 7/1917, ông Nhu đi làm thông ngôn ở Sầm Nứa - Lào, ít lâu sau
ốm và qua đời. Kể từ đó, mẹ Thạch Lam phải đưa các con về quê, tần tảo
buôn bán nuôi con. Ở Cẩm Giàng, Thạch Lam học tại trường Nam (tiểu học
Hải Dương, nay là trường tiểu học Tô Hiệu). Đến khi người anh cả là Nguyễn
Tường Thụy ra trường dạy học ở Tân Đệ (Thái Bình), gia đình ông chuyển
theo, lúc ở Hà Nội khi lại về Cẩm Giàng sinh sống.
Là người con có hiếu, muốn sớm đỡ đần cho mẹ, Thạch Lam đã đổi tên
và khai tăng tuổi để học thành chung. Ông thi đỗ vào Cao đẳng Canh Nông ở
8
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Hà Nội. Một thời gian sau vào trường Trung học Albert Sarraut để học thi Tú
tài. Đỗ Tú tài phần thứ nhất, Thạch Lam thôi học để làm báo với hai anh.
Buổi đầu, ông tham gia nhóm Tự lực văn đoàn do anh là Nguyễn Tường Tam
sáng lập, rồi được phân công lo việc biên tập tuần báo Phong hóa và tờ Ngày
nay của nhóm này. Đến tháng 2 năm 1935, Thạch Lam được giao làm Chủ
bút tờ Ngày nay. Năm 1935, Thạch Lam lấy vợ và được người chị Thế
nhường lại căn nhà nhỏ tại đầu làng Yên Phụ, ven Hồ Tây (Hà Nội). Ngày 27
tháng 6 năm 1942, Thạch Lam qua đời do căn bệnh lao phổi, khi ông mới 32
tuổi với nhiều dự định dang dở.
Thạch Lam mất sớm, khi tài năng đang ở độ chín. Sự nghiệp sáng tác
của ông không xếp vào hàng đồ sộ song lại trải rộng ở các thể loại khác nhau.
Hầu hết sáng tác của Thạch Lam được đăng báo trước khi in thành sách, có
thể kể đến một số tác phẩm chính như:
- Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1937)
- Nắng trong vƣờn (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1938)
- Ngày mới (truyện dài, Nxb Đời nay, 1939)
- Quyển sách Hạt ngọc (truyện thiếu nhi, Nxb Đời nay, 1940)
- Theo giòng (tiểu luận, Nxb Đời nay, 1941)
- Sợi tóc (tập truyện ngắn, Nxb Đời nay, 1942)
- Hà Nội băm sáu phố phƣờng (tập bút kí, Nxb Đời nay, 1943)
Tác phẩm của Thạch Lam không nhiều nhưng có giá trị. Văn Thạch
Lam đẹp, tinh tế, con người Thạch Lam hồn hậu, rất mực tài hoa. Đó là lý do
vì sao ông luôn chiếm được cảm tình đặc biệt của người đọc nhiều thế hệ.
Đúng như lời khẳng định của nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan: “Ngay trong tác
phẩm đầu tay, người ta đã thấy Thạch Lam đứng vào một phái riêng. Ông có
một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh, ngòi bút chuyên tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và
rất đẹp. Phải là người giàu tình cảm lắm mới viết được như vậy” [7,4].
9
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
1.1.2. Tập bút kí Hà Nội băm mươi sáu phố phường
Sau khi Thạch Lam qua đời khoảng một năm, nhà xuất bản Đời nay in
cuốn bút kí với nhan đề Hà Nội băm mươi sáu phố phường (1943). Đây là
cuốn sách cuối cùng được in trong đời viết văn của Thạch Lam nhưng lại
mang theo những giá trị tốt đẹp còn đọng mãi với thế hệ sau.
Năm 1943, trong Lời tựa cho bút kí Hà Nội băm mươi sáu phố
phường, Khái Hưng đã viết: “Hà Nội - Thăng Long - chốn cố đô yêu dấu của
chúng ta đã gần hai nghìn năm soi bóng trên dòng sông Nhị. Nó sẽ mãi mãi
soi bóng trong lòng người Việt Nam, khi mà mỗi thời còn có những trang
phong lưu mặc khách đem ghi chép trong văn, thơ, để truyền lại hậu thế cái
đời sống của nó, cái lịch sử của nó. Lịch sử Thăng Long đâu phải chỉ là
những lớp sóng phế hung dồn dập từ đời vua này sang đời vua khác, kế tiếp
nhau mà xây dựng cung điện nguy nga ven hồ Trúc Bạch, bên hồ Hoàn Kiếm?
Nó còn là cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của dân thành thị, với tất cả những
phong tục, tập quán, với tất cả những nhân vật k khôi, với tất cả cái vui, cái
buồn, cái tức, cái giận nho nhỏ và thoáng qua của những tâm hồn nho nhỏ
trong xó tối, không tên, không tuổi, không tiếng tăm lưu lại đời sau” [6,3].
Hà Nội băm mươi sáu phố phường là tập hợp của những bài kí nhỏ,
được Thạch Lam viết theo cảm nghĩ, cảm nhận cá nhân. Giống như tên gọi
của tác phẩm, tập tùy bút chủ yếu nói về chuyện phố, chuyện phường, đời
sống thường ngày của cư dân Hà thành và cả những thức quà riêng mà chỉ
mảnh đất này mới có. Ấy là những mái nhà cổ kính khoác lên mình lối kiến
trúc độc đáo, những biển hàng, con phố quen thuộc đang chuyển mình, là nét
văn hoá ẩm thực tinh tế giữa không gian lúc êm ả, thanh bình, khi rộn rã. Hai
mươi mốt câu chuyện nhỏ là hai mươi mốt bức tranh chan chứa hoài niệm,
khắc họa hình bóng Hà Nội xưa. Người đọc bắt gặp nhiều cảnh đời qua những
mẩu chuyện ngắn xúc động. Họ là những người phụ nữ tần tảo, sống vất vả
10
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
với gánh nặng cơm áo gạo tiền. Bên cạnh đó, thấp thoáng giữa các số phận éo
le, ẩn hiện tình yêu đôi lứa trong sáng và thuần khiết. Tất cả đều là những câu
chuyện về con người Hà Nội, nép mình dưới những khu phố khác nhau, với
những mảnh ghép cuộc đời khác nhau, hiện lên đơn sơ dưới ngòi bút chân
thực của tác giả. Văn hóa Hà Nội đi vào từng trang một cách tự nhiên, mềm
mại, uyển chuyển không khuôn mẫu, gò bó.
Có thể nói đó là những trang tùy bút vượt thời gian, có sức sống lâu bền
trong trái tim độc giả. Đã hơn bảy mươi năm trôi qua, ngày hôm nay đọc lại
tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu phố phường, chúng ta vẫn cảm nhận được
sự thân thuộc, lôi cuốn trên từng câu chữ. Kể cả khi bạn chưa từng đặt chân
tới Hà Nội cũng có thể hình dung ra và yêu thủ đô qua những trang văn của
ông như chính tác giả đã từng nói: “Hà Nội có một sức quyến rũ với người ở
nơi khác”. Còn những ai đã đặt chân lên mảnh đất này chắc hẳn càng da diết
hơn, nồng nàn, đắm say tình yêu dành cho Hà Nội.
Khẳng định về tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: “Hà Nội
băm mươi sáu phố phường có giá trị của một tác phẩm văn học giúp ta nhận
thức thêm về những khía cạnh nhiều màu, nhiều vẻ của Tổ quốc ta tươi đẹp”
[3,6]. Tập kí đã khắc họa những điều bình dị, chân thực nhất của Hà Nội trong
những năm đầu thế kỉ XX. Thạch Lam đã tìm ra, trân trọng, nâng niu những
vẻ đẹp khuất lấp, ẩn giấu bên trong cái giản dị, mộc mạc, đời thường, điều mà
không phải nhà văn nào cũng khám phá được.
1.2. Tác giả Martín Rama
1.2.1. Cuộc đời
Martín Rama là Chuyên gia kinh tế trưởng của khu vực Nam Á thuộc
Ngân hàng Thế giới, có trụ sở tại Delhi, Ấn Độ. Công việc chính của ông là
11
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
thúc đẩy các vấn đề chính sách khó khăn trong khu vực và giám sát chất
lượng chung của công việc phân tích của Ngân hàng trong khu vực. Để thực
hiện các nhiệm vụ này, ông và nhóm của ông tích cực tham gia với các đối tác
trong chính phủ, học viện, xã hội dân sự và cộng đồng doanh nghiệp.
Rama nhận bằng tiến sĩ về Kinh tế vĩ mô ở Pháp năm 1985. Trở lại
quê nhà, Uruguay, ông làm việc tại CINVE, tổ chuyên trách lớn nhất của
nước này, và trở thành giám đốc. Cùng công việc ở Ngân hàng Thế giới, ông
là giáo sư thỉnh giảng về kinh tế học phát triển tại Đại học Paris cho đến năm
2005. Năm 2012, Rama là Giám đốc Báo cáo Phát triển Thế giới. Trước khi
chuyển sang hoạt động của Ngân hàng Thế giới, Rama đã dành mười năm
làm việc cho bộ phận nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, chủ yếu ở
Washington DC, đồng thời hỗ trợ một số lượng lớn các nước đang phát triển.
Trọng tâm chính của công việc của ông là về các vấn đề lao động. Ông đồng
quản lý một chương trình nghiên cứu lớn về tác động của chính sách và thể
chế thị trường lao động đối với hiệu quả kinh tế. Ông cũng chịu trách nhiệm
cho một sáng kiến nghiên cứu về thu hẹp của khu vực công. Các hoạt động
nghiên cứu của ông đã dẫn đến nhiều ấn phẩm trong các tạp chí khoa học.
Từ 2002 đến 2010, Rama đến Việt Nam và cơ quan của ông có trụ sở
đặt tại Hà Nội. Với tư cách này, ông giám sát chương trình Ngân hàng Thế
giới trong nước về các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế và xóa đói
giảm nghèo. Ông cũng là người đầu mối trong đối thoại chính sách với chính
phủ liên quan đến cải cách kinh tế và dẫn đầu một loạt các hoạt động cho vay
chính sách hàng năm cùng với sự tài trợ của một tá nhà tài trợ.
Tuy là một chuyên gia kinh tế tại World Bank (Ngân hàng Thế giới)
nhưng Rama cũng là người dành cho Hà Nội một tình yêu sâu sắc. Ông nói
rằng bản thân biết Hà Nội từ năm 1998 và từng sống ở đây suốt tám năm,
trong thời gian từ năm 2002 đến năm 2010. Ông đã từng viết cuốn
12
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
sách Những quyết sách khó khăn dựa trên nhiều cuộc trò chuyện với cố Thủ
tướng Võ Văn Kiệt. Trong nhiều năm, ông là tác giả của Báo cáo Phát triển
Việt Nam. Đồng thời, ông cũng đưa ra những giải pháp nhằm đóng góp vào sự
phát triển không ngừng của thủ đô ở cả lĩnh vực kinh tế và văn hóa. Song
song với công việc chính, ông còn được biết đến với tư cách là một nhà nhiếp
ảnh, nhà hoạt động nghệ thuật nghiệp dư.
Tháng 12/2017, Martín Rama nhận quyết định bổ nhiệm làm Giám
đốc dự án tại Trung tâm Phát triển Đô thị bền vững (thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam). Ông là giám đốc danh dự, không nhận lương,
thậm chí còn tự bỏ tiền túi của mình cho dự án. Tuy là một người ngoại quốc
nhưng M. Rama luôn cống hiến hết mình trong công cuộc giữ gìn và phát huy
những bản sắc văn hóa độc đáo của thủ đô với tình yêu nồng nàn, tha thiết.
1.2.2. Tác phẩm Hà Nội, một chốn rong chơi
Hà Nội, một chốn rong chơi ra đời năm 2014. Cuốn sách được viết
dưới con mắt của một chuyên gia kinh tế sau gần mười năm sinh sống tại Hà
Nội. Tác phẩm là món quà từ một tình yêu nồng nàn. Với hai mươi chương,
cuốn sách này được sắp xếp một cách khá tỉ mỉ cùng nhiều hình ảnh lý thú,
lôi cuốn. Chân thực khi viết về mặt trái của đô thị hóa, nhưng đối với Martín
Rama, Hà Nội vẫn là một nơi đáng sống và vô cùng hấp dẫn. Ông giới thiệu
vẻ đặc sắc từ lối kiến trúc Art Déco, sự đa dạng của những ban công, những
khung cửa rồi đến các biệt thự, khu tập thể và cả những danh thắng, vườn hoa,
công viên, công trình công cộng… Thông qua những bức ảnh chân thực, tác
giả đã đưa người đọc từ với nhịp buôn bán đến đời sống tâm linh. Một điểm
nhấn trong cuốn sách này là nét đẹp ẩm thực nổi tiếng của Hà thành được tái
hiện bằng cái nhìn độc đáo, khác lạ, hấp dẫn thú vị.
13
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Hà Nội, một chốn rong chơi của Martín Rama là một cuốn sách mới
mẻ. Tác phẩm đã được trao Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội
năm 2014.
1.3. Cảm hứng văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín
Rama
Nhà văn Hoàng Quốc Hải đã từng chia sẻ: “Hà Nội trong tôi là một
biểu tượng văn hóa vô cùng đẹp. Giá trị của Hà Nội là biểu tượng văn hóa
của cả dân tộc mà được hun đúc qua nhiều đời mới thành danh tiếng như thế
này. Hà Nội có bề dày lịch sử mà hiếm có Thủ đô nào trên thế giới có được”.
Hà Nội đã chinh phục trái tim bao người đã sống, đang sống và cả những ai
chưa từng đến nơi đây. Sức quyến rũ của văn hóa Hà thành là ngọn nguồn
cảm hứng của nhiều nghệ sĩ, trong đó có Thạch Lam và Martín Rama.
Vốn là một con người hiền lành, giản dị, khiêm nhường, Thạch Lam
luôn quan tâm đến số phận của những mảnh đời, thân phận nhỏ bé hay những
điều bình dị, đơn sơ của cuộc sống. Bởi vậy, văn ông đầy chất thơ, luôn phảng
phất tấm lòng đẹp của một tâm hồn nhân ái. Điều đó đi theo nhà văn khắp Hà
Nội, thấm đẫm trong từng trang viết say đắm lòng người. Thạch Lam gắn bó
với thủ đô, với căn nhà cây liễu ven Hồ Tây suốt một thời gian dài đến tận lúc
cuối đời. Từng phố phường, ngõ ngách Hà thành đều để lại trong ông những
dấn ấn đặc biệt. Ông thâm nhập vào đời sống thường ngày của người dân
thông qua những nét văn hóa của những biển hàng, những thức quà Hà Nội,
những giá trị tinh thần thuần khiết và cả những đổi thay của thủ đô khi chuyển
mình theo chế độ, nhịp sống mới. Thạch Lam bộc lộ tình yêu và niềm tự hào
về mảnh đất này. Ông muốn ghi lại tất cả những gì mình trân trọng nhất theo
một cách rất riêng. Mở đầu tập kí, Thạch Lam viết: “Người Pháp có Paris,
người Anh có London, người Tàu có Thượng Hải,… Chúng ta cũng có Hà
14
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Nội, một thành phố có nhiều vẻ đẹp, vì Hà Nội đẹp thật (Chúng ta chỉ còn tìm
những vẻ đẹp ấy ra), và cũng vì chúng ta yêu mến. Yêu mến Hà Nội với tâm
hồn người Hà Nội, cũng như người Parisien chính hiệu yêu mến Paris…”
[6,6]. Chẳng hề cầu kì, nhà văn miêu tả những món ăn rất đời, tìm đâu cũng
thấy và muốn lưu giữ, bảo tồn giá trị văn hóa cổ truyền sống mãi với thời
gian. Ông đúc kết trong tác phẩm của mình “quà cũng là người”, qua món ăn
hiểu rõ hơn về con người. Cảm hứng văn hóa Hà Nội xuất phát từ cuộc sống,
con người nơi đây. Nó đong đầy, ngập tràn, ùa vào những trang văn của
Thạch Lam rất đỗi tự nhiên. Cảm hứng của tác giả bắt nguồn từ nhiều yếu tố.
Đó là tình yêu Hà Nội, sự kế thừa, gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp
hòa quyện với tài năng, cảm xúc tinh tế của người nghệ sĩ. Tất cả những điều
này đã làm nên giá trị riêng của tập bút kí - một giá trị rất đời thường nhưng
không phải ai cũng nắm bắt được.
Với Martín Rama vốn không phải là nhà văn, ông là một nhà kinh tế.
Ông biết đến thủ đô ngàn năm văn hiến trên dải đất hình chữ S từ năm 1998,
nơi đây là để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng vị chuyên gia kinh tế này.
Ông kết duyên cùng Hà Nội khi nhận nhiệm vụ công tác ở đây năm 2002.
Trong khoảng thời gian 2002 - 2010, Martín Rama đã tìm hiểu rất kĩ về thành
phố này và cho ra đời đứa con tinh thần Hà Nội, một chốn rong chơi. Xúc
cảm trước những vẻ đẹp, giá trị văn hóa, tinh thần của thủ đô. Rama thường
dạo chơi khắp các ngõ ngách của Hà thành mỗi dịp cuối tuần. Với chiếc máy
ảnh trong tay, ông ghi lại mọi khoảnh khắc thú vị nhất mà mình bắt gặp.
Không chỉ chụp ảnh, ông còn mày mò tự tìm hiểu về lịch sử, kiến trúc, văn
hóa và con người… “Chỉ sau khi tôi chọn lọc, phân loại các bức ảnh, tôi mới
nhận ra rằng chúng có cùng chủ đề, đủ tư liệu để làm một cuốn sách thú vị.
Đó là khoảng năm 2009, tức là 7 năm sau khi tôi đến sống ở Hà Nội” [13].
15
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Trải qua hai cuộc kháng chiến với bao thăng trầm lịch sử, Hà Nội từng bước
chuyển mình. Sự phát triển đô thị làm bộ mặt thành phố thay đổi, từ kinh tế,
khu công nghiệp, các toàn nhà cao tầng, giao thông hiện đại đến những thói
quen, nhịp sống mới. Sự phát triển ấy cũng kéo theo nhiều hệ lụy, ảnh hưởng
từ văn hóa phương Tây. Trong khi nhiều người Việt Nam đang vô tình lãng
quên những giá trị văn hóa truyền thống đáng quý thì trong mắt bạn bè quốc
tế, Hà Nội vẫn luôn là một thành phố đáng sống, đáng yêu. Đại sứ người Pháp
Franz Jessen sau bốn năm gắn bó với thủ đô, khi kết thúc nhiệm kì, ông đã
bày tỏ: “Mỗi sáng, chúng tôi được đánh thức bởi tiếng gà gáy bên nhà hàng
xóm và tiếng loa phường. Vào buổi tối, chúng tôi lại cảm thấy quen với tiếng
rao của người bán hàng rong hoa quả và trà chanh, những tiếng rao phát ra
từ cái loa chạy bằng pin của họ. Cho dù là một thành phố rộng lớn, nhưng Hà
Nội lại có một sự hấp dẫn riêng mà chỉ những thành phố nhỏ mới có” [14].
Đối với Rama, ngay ở phần Lời mở đầu của cuốn sách, tác giả đã viết
“Cuốn sách này là sản phẩm của tình yêu.Tôi đã yêu Hà Nội từ lần đầu gặp
gỡ, vào tháng Mười năm 1998, và đến giờ, tình yêu đó chưa hề phai nhạt”.
Tác giả khẳng định “trong khi nhiều thành phố ở Đông Nam Á đang trở nên
xấu xí hoặc buồn tẻ thì Hà Nội vẫn là thành phố đáng sống, hơn thế nữa, nó
còn là thành phố rất đáng yêu”. Có thể thấy rằng để có được những cảm xúc,
động lực hoàn thành cuốn sách, Martín Rama đã dành cho Hà Nội một vị trí
thật đặc biệt.
Đúng vậy, dù là Thạch Lam hay Rama tuy có góc nhìn, cách cảm nhận
khác nhau nhưng Hà Nội vẫn hiện lên thật đẹp trong mắt họ. Chúng ta bắt gặp
sự đồng điệu trong cảm hứng về văn hóa Hà Nội của Thạch Lam và Rama
trước hết xuất phát từ tình yêu thủ đô. Những xúc cảm nảy nở khi hai tác giả
sinh sống ở nơi đây. Họ hòa mình cùng nhịp sống Hà thành để quan sát, cảm
nhận và suy ngẫm về vẻ đẹp văn hóa và lối sống của con người trên nhiều
16
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
phương diện, khía cạnh của đời sống thường ngày. Tuy sống và cảm nhận về
Hà Nội ở những thời điểm khác nhau nhưng cả hai tác giả đều quan tâm đến
những giá trị văn hóa lâu đời cùng những đổi thay nhanh chóng của thủ đô
trong giai đoạn chuyển mình. Rama và Thạch Lam đều quan tâm từ lối kiến
trúc xây dựng độc đáo, cảnh quan đa dạng đến đời sống văn hóa tinh thần
người Hà Nội. Song song với cảm hứng tự hào, ngợi ca, các tác giả còn thể
hiện quan điểm cá nhân về những góc khuất của thành phố trong những thời
khắc đổi thay của chế độ xã hội. Tập bút kí Hà Nội băm mươi sáu phố
phường và cuốn sách Hà Nội, một chốn rong chơi không chỉ thể hiện tình
yêu thủ đô của Thạch Lam và Martín Rama mà còn cho thấy những hiểu biết
tinh tường của các tác giả này.
17
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
CHƢƠNG 2
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG THỂ HIỆN GÓC NHÌN
VĂN HÓA HÀ NỘI CỦA THẠCH LAM VÀ MARTÍN RAMA
2.1. Kiến trúc cảnh quan Hà Nội
Kiến trúc là nghệ thuật, cũng là khoa học về tạo dựng những không
gian thích hợp cho hoạt động sống của con người. Có thể nói kiến trúc là một
dạng tổ hợp đặc biệt của văn hóa.
Giai đoạn từ năm 1920 đến năm 1945, người Pháp thực hiện chủ
trương đẩy mạnh đầu tư và khai thác thuộc địa nhầm khôi phục nền kinh tế và
củng cố địa vị của Pháp trên thế giới sau khi kết thúc chiến tranh thế giới lần
thứ nhất vào cuối năm 1918. Hà Nội, một thành phố thuộc địa giữ vai trò
chiến lược quan trọng ở Đông Dương đã trở thành mục tiêu số một cho
chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của người Pháp. Hoạt động kinh
tế và xây dựng thành phố với tốc độ và quy mô gấp nhiều lần so với thời kỳ
trước đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở Hà Nội. Tuân theo quy luật đô thị hóa
chung, vùng không gian trống, làng xóm đô thị và vùng ngoại vi đã bắt đầu
chịu sức ép về dân cư và đối mặt với các vấn đề xã hội, hạ tầng kĩ thuật. Từ
những năm 1920, trong khu vực phố cổ, người ta bắt đầu tiến hành cải tạo
hoặc xây dựng mới trên nền nhà cũ. Ngôi nhà mới, cao hai ba tầng, mang
phong cách kiến trúc ít nhiều chịu ảnh hưởng của Pháp. Có thể nói, sự xâm
lược của Pháp và ảnh hưởng văn hóa phương Tây đã tạo nên sự thay đổi lớn
trong diện mạo đô thị Hà Nội. Nhà văn Vũ Bằng trong cuốn Miếng ngon Hà
Nội đã tái hiện lại bức tranh Hà thành thời đó: “Sau một cuộc biến thiên, đất
nước đổi thay nhiều. Ai hồi cư năm 1948 - 1949 có nhớ rằng suốt từ Bạch
Mai về đến chợ Hôm có hàng dãy phố bị phá không? Hàng Thiếc, Hàng Đồng
18
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
chỉ còn trơ lại cái nhà lỏng lẻo, mất cả trần, cả cửa. Có phố cỏ mọc ra cả
đường đi… Bây giờ Hà Nội lại có vẻ mặt mới… Nay đã có những căn nhà
rộng, cửa sổ bịt hoa sắt đứng lên thay thế. Người ta thấy nhà cửa tăm tắp như
vẽ bản đồ. Ấy là vì nhu cầu của văn minh đó” [2,13].
Sự đổi thay trong kiến trúc Hà Nội cũng được Thạch Lam tái hiện lại:
“Hà Nội đã đổi thay nhiều lắm. Những phố cũ, hẹp và khuất khúc với những
nhà thò ra thụt vào, những mái tường đi xuống từng bực như cầu thang,
những cửa sổ gác nhỏ bé và kín đáo, đã nhường chỗ cho những phố gạch
thẳng và rộng rãi, với từng dãy nhà giống nhau đứng xếp hàng. Thẳng và
đứng hàng, đó là biểu hiện của văn minh” [6,13]. Bộ mặt kiến trúc xưa vốn
thuần nhất, nay đã bắt đầu có những đổi thay, phong cách hòa trộn tây, ta
khiến nhà văn thốt lên “không còn gì của Hà Nội ngoài năm sáu mươi năm
trở về trước”. Dưới góc nhìn của Thạch Lam: “Khi ông cầm lái chiếc ô tô thì
ông lấy làm dễ chịu vì đường rộng, vì phố thẳng lắm. Nhưng đối với người
tản bộ đi chơi, lòng thư thả và mải tìm cái đẹp, thì phố xá mới không có thú vị
gì” [6,14]. Hà Nội mất dần đi những vẻ cổ kính của mảnh đất kinh kì thời vua
Lê, chúa Trịnh. Những nét cổ kính, xưa cũ của Thăng Long xưa đang dần bị
mai một. Tác giả bùi ngùi, xúc động, tiếc thương cho quá khứ một thời.
Trước khi người Pháp đặt chân tới Việt Nam, Hà Nội là một đô thị
phong kiến. Đô thị Hà Nội có cấu trúc điển hình của các thành phố nông
nghiệp truyền thống Đông Nam Á: sự hòa trộn giữa làng xã trong không gian
đô thị, tính gắn kết cộng đồng trong đời sống sinh hoạt và hoạt động kinh tế
nông nghiệp - tiểu khu công nghiệp. “Ngày ấy, đường hẹp chắc hàng xóm
láng giềng ăn ở với nhau thân mật hơn. Người cùng hàng phố tự coi như có
một liên lạc cùng nhau. Bên này một cửa hàng tạp hóa có đầy quả sơn đen, có
chồng giấy bản và ống bút Nho, có cô hàng thùy mị mà hàng phố vẫn khen là
gái đảm đang. Bên kia nhà ông cụ Tú, có tiếng trẻ học vang, có cậu học trò
19
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
xinh trai đứng hầu chè thầy bên tràng kỷ” [6,14]. Giai đoạn đó Hà Nội không
cầu kì, xa hoa với nhà cửa vài ba tầng san sát nhau nhưng lại thật gần gũi, ấm
áp với tình người. Giữa cái cổ kính của phố phường, trong cái vòng vèo của
những con ngõ nhỏ, người ta có cơ hội gần nhau, hiểu nhau.
Sự thay đổi kiến trúc khiến Thạch Lam lo sợ cho những dự cảm của
việc người ta định dựng nhóm tượng điêu khắc, biểu tượng cho sông Nhị Hà
và Mê Kông thay tháp Rùa mà ông ví “trông xa như mâm xôi, phía dưới có
tượng đài hai người đàn bà nằm choài ra như đang bơi”. Tác giả bất bình khi
người ta dựng cái cột điện sơn màu hắc ín “như một thứ cây già mọi rợ, vụng
về” bên cổng đền Ngọc Sơn, cái bóp ở Quán Thánh mái cong cong hình giống
chùa chiền và “bên trong có cảnh sát thay nhà sư”. Giọng điệu nhẹ nhàng mà
thấm thía, sâu sắc. Thạch Lam mang trong mình sự hoài cổ, ông còn luyến
tiếc lắm, vấn vương lắm cái kiến trúc cổ xưa, cũ kĩ nhưng thân mật, ấm cúng
nghĩa tình người Hà Nội.
Đọc Hà Nội, một chốn rong chơi, Martín Rama đưa người đọc đến
những công trình ở Hà Nội theo lối kiến trúc Pháp, đồ sộ và uy nghiêm: “Hà
Nội có một bộ sưu tập các phong cách kiến trúc đặc sắc. Nó kết hợp cả một
loạt các phong cách kiến trúc, từ các ngôi chùa truyền thống và nhà tập thể
đến các công sở và biệt thự Pháp cổ tới kiến trúc kiểu Xô Viết”. Bằng tình
yêu và khát khao khám phá thủ đô cùng sự quan sát tinh tế, vốn hiểu biết về
kiến trúc, Rama đã phát hiện những công trình được thiết kế, xây dựng theo
lối kiến trúc kiểu Pháp. Trong cuốn sách của mình, ông đã đưa vào những
hình ảnh chân thực về kiến trúc của thành phố trong suốt khoảng thời gian
ông ở Hà Nội, đi từng ngõ ngách ghi lại những bức ảnh chân thực nhất.
Rama không chỉ là một người nghệ sĩ yêu cái đẹp, say mê với sự quyến
rũ của “nàng thơ” Hà Nội mà ông còn là một kiến trúc sư thực thụ khi khám
phá mảnh đất này. Ông tìm hiểu một cách bài bản về sự ra đời, nguồn gốc các
20
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
kiểu công trình kiến trúc có mặt ở thủ đô. Đó là những công trình Art Déco
hay nói cách khác là những công trình kiến trúc chịu ảnh hưởng của nghệ
thuật trang trí. Một trong những công trình lớn mang phong cách này Nhà
Băng Đông Dương (nay là trụ sở Ngân hàng Nhà nước), bệnh viện Bạch Mai
hay những ngôi nhà ở khu vực hồ Bảy Mẫu và hồ Thiền Quang. “Hà Nội về
phía Nam từ những năm 1930 - 1940, với những khu dân cư mới thu hút nhóm
người Việt trung lưu làm việc cho chính quyền thực dân Pháp, hoặc cho các
nhà tư sản hiện đại. Khi đó, Art Déco nở rộ” [10,10]. Có thể nhận thấy phong
cách kiến trúc này hoàn toàn khác với những đặc trưng kiến trúc thời phong
kiến. Nó du nhập vào thành phố thông qua quá trình khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp. Tuy nhiên, góc nhìn của Martín Rama lại có những chiều
hướng tích cực với sự du nhập văn hóa phương Tây. Ông coi đây là những
thành tựu về kiến trúc của thành phố và nó dù được du nhập từ bên ngoài
song vẫn mang đường nét hài hòa với kiểu kiến trúc truyền thống của ta. Ông
đã nhận xét về một công trình bệnh viện: “Có lẽ ít người chú ý đến hình hai
chữ H, viết tắt của Hôpital de Hanoi, được đắp dính vào nhau, gợi liên tưởng
đến hình ảnh Khuê Văn Các trong Văn Miếu” [10,11]. Việc có mặt của phong
cách Art Déco trên các bức tường, tòa nhà ở Hà Nội là minh chứng cho sự đa
dạng về kiến trúc nghệ thuật ở thành phố này. Bên cạnh đó, Martín Rama còn
tìm hiểu về những ban công với các phong cách thiết kế, trang trí khác nhau.
Chúng xuất hiện trước hiên nhà với những màu sắc đặc trưng, sự cầu kì làm
bằng sắt hay sự thanh lịch thể hiện ở mặt tiền đều là những yếu tố gây ấn
tượng cho công trình đó. Hà Nội cũng là nơi hội tụ hàng nghìn ngôi nhà được
thiết kế theo phong cách Beaux Arts vào những năm đầu thế kỉ XX: “Vữa trát
tường vốn được dùng để tạo các cột trụ kiểu giả Hy Lạp và những chi tiết sắp
đặt hoa lá, giờ đã vỡ ra từng mảng. Cỏ dại, đôi khi là hẳn một cái cây nhỏ,
hiền lành mọc trên những khe tường nứt của mái đua và ban công. Rêu đen,
21
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
và những đám ẩm mốc đã chiếm lĩnh toàn bộ mặt tiền của các ngôi nhà từng
một thời nom rất tươm tất. Nhưng mặc cho những rêu phong đó (hay chính
bởi những rêu phong này), mà các tòa nhà theo phong cách Beaux Arts đã
góp phần tạo nên sự duyên dáng của thành phố” [10,22]. Tuy có sự xuất hiện
của nhiều trường phái kiến trúc song Rama vẫn khẳng định Hà Nội vẫn luôn
giữ được những vẻ đẹp truyền thống vốn có. “Ở phía Tây của hồ Hoàn Kiếm
là một tòa nhà lộng lẫy,… Lối kiến trúc kiểu Pháp của tòa nhà không thể
nhầm lẫn và lối trang trí kiểu Á châu của nó cũng rất dễ nhận biết, ngôi nhà
này chứa đựng sự pha trộn về văn hóa truyền thống, thứ làm nên cái độc đáo
của Hà Nội” [10,37].
Đi hết con phố Pháp, Rama mang đến cho người đọc hình dung về công
trình theo lối kiến trúc Xô Viết được xây dựng đơn giản về kiến trúc. Tác giả
đã viết lời bình cho những bức ảnh: “Thật thú vị là mặc dù đất nước khi đó
đang trong thời kì chiến tranh, nhưng rất nhiều công trình xây dựng theo
phong cách Xô Viết lại có chủ chủ đề xã hội và văn hóa. Rạp xiếc, Nhà Văn
hóa Công nhân, Nhà hát Múa rối, các trung tâm thể thao, sân vận động, chợ.
Những lựa chọn đó cho thấy ưu tiên của Việt Nam trong một thời k khó
khăn” [10,95]. Nhiều công trình mang ý nghĩa tập thể, ngợi ca những người
anh hùng dân tộc, cổ vũ tinh thần chiến đấu, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các
khu tập thể được xây dựng theo lối kiến trúc Xô Viết, nhằm đáp ứng nhu cầu
chỗ ở khu dân số của thủ đô tăng lên cũng mang những nét đặc trưng riêng.
Dạo bước trên phố phường, người ta không khó để bắt gặp những khu tập thể
với nhiều nét ấn tượng. Các dãy nhà này theo thời gian bị thay đổi về công
năng sử dụng cũng như hình thức bề ngoài bởi cư dân sáng tạo tự do trong
không gian sống của mình. Rama đã miêu tả rất kĩ về đời sống ở những khu
tập thể. “Khắp nơi ở Hà Nội, người ta dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà cao
vài ba tầng, trông hom hem và buồn bã, tất cả đều được sơn màu vàng, mang
22
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
những cái biển tên giống nhau có số và chữ màu trắng trên nền màu xanh”
[10,53]. Ban đầu các khu tập thể (KTT) được xây dựng để phục vụ “mô hình
“gia đình tiên tiến”, ca ngợi những giá trị vô sản và nhu cầu chung của giai
cấp. Lý tưởng về tập thể ngụ ý rằng những khu vực quan trọng, bao gồm cả
bếp và nhà tắm, phải là của chung của một số hộ gia đình” nhưng “khi mà
đời sống xã hội được tự do hơn, thì cư dân của những KTT này cũng bắt đầu
chiếm lĩnh không gian của riêng họ” [10,54]. Cùng trong không gian là khu
tập thể nhưng từng giai đoạn khác nhau, khi chế độ xã hội khác đi thì lối sống
của người dân cũng có nhiều đổi thay. Họ tận dụng từng khoảng không gian,
cơi nới để làm diện tích nơi ở tăng lên hoặc sử dụng cho mục đích kinh
doanh. Điều này khiến cho cảnh quan của các khu tập thể có phần trở nên lộn
xộn nhưng đây lại là một nét riêng trong lối sống của người Hà Nội nay.
Những phát hiện của M. Rama đã đem đến cái nhìn mới khi khám phá về kiến
trúc của thủ đô.
Quá trình bị đô hộ cũng kéo theo nhiều luồng văn hóa tác động vào
nhiều mặt của xã hội, trong đó có cả các công trình kiến trúc. Song Rama đã
khẳng định Hà Nội có sự pha trộn những nét truyền thống với khả năng tinh
lọc văn hóa vẫn cho thấy sức bền của văn hóa bản địa. Kiến trúc Hà Nội mang
nhiều màu sắc khác nhau, từ những ngôi nhà ống thiết kế kiểu Pháp, đến
những khu hành chính chuyên biệt đều có điểm nhấn riêng. Sự hòa trộn của
nhiều loại hình kiến trúc đã tạo nên những cảnh quan độc đáo trên khắp ba
mươi sáu phố phường. Đó là sự tổng hòa các loại hình kiến trúc truyền thống
với kiến trúc kiểu Pháp và kiểu Xô Viết tạo nên những công trình công cộng
đồ sộ, những danh thắng nổi tiếng đến những góc phố giản dị với dấu ấn riêng
biệt. Trong không gian sống đa dạng đó, nhiều nét văn hóa người Hà thành
được bộc lộ. Điển hình là việc họ thích ứng và hòa nhập nhanh với sự thay
đổi của xã hội.
23
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Có thể thấy, kiến trúc phố cổ Hà Nội mang nét cổ kính trầm mặc của ba
mươi sáu phố phường dưới con mắt của Thạch Lam. Nhà văn đã bày tỏ sự
hoài niệm về hình ảnh phố xưa với: “giữa nhà, mảnh sân vuông lộ thiên, bể
non bộ và cá vàng, có dãy lan, bể đựng nước và trên tường có câu đối chữ
Nho”, tất cả đã lùi vào dĩ vãng. Với M. Rama, ông lại miêu tả cụ thể một ngôi
nhà kiến trúc phố cổ gắn với sinh hoạt buôn bán, cuộc sống nhộn nhịp trong
giai đoạn chuyển mình, đổi thay của đất nước.
Kiến trúc cảnh quan Hà Nội phản ánh tổng hợp cuộc sống của người
dân địa phương và khu vực sống của họ, những điều tạo lên bản sắc của thành
phố. Không gian sống, cư dân và tính cách của họ đã hình thành nên nét đặc
trưng văn hóa của một khu vực mà không nơi nào khác có được. Nếu Thạch
Lam luyến tiếc, hoài niệm quá khứ, trân trọng những giá trị văn hóa cổ kính,
xưa cũ thì Rama lại đón nhận một Hà Nội hiện đại, đa dạng, đang trên đà phát
triển. Điểm gặp gỡ của hai tác giả này chính là tình yêu thủ đô nồng nàn, tha
thiết. Kiến trúc và cảnh quan văn hóa Hà Nội là vấn đề còn khá mới mẻ trong
văn chương. Tuy nhiên, góc nhìn của Thạch Lam và Rama, người đọc lại có
cái nhìn rất gần gũi, cụ thể về mối liên hệ giữa không gian, môi trường sống
với những giá trị văn hóa bản địa.
2.2. Nét đẹp trong văn hóa ẩm thực ngƣời Hà Nội
Hà Nội nghìn năm văn hiến, từng là kinh đô của nhiều triều đại, nếp
sống của người Tràng An. Do đó, Hà Nội có vẻ đẹp, cốt cách riêng. Một trong
những nét đẹp văn hóa Hà thành phải kể đến văn hóa ẩm thực. Hà Nội là nơi
hội tụ và kết tinh, giao lưu và lan tỏa văn hóa ẩm thực vùng miền.
Ẩm thực Hà Nội là mảng đề tài thu hút khá nhiều sự quan tâm của các
nhà nghiêm cứu, các nhà văn. Thạch Lam đã ưu ái dành nhiều số trang trong
24
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
tập kí để viết về những thức quà Hà Nội. Với tâm hồn đồng điệu cùng vẻ đẹp
cổ kính, nhã nhặn, thanh tao, Thạch Lam đã khắc họa một bức tranh Hà Nội
“đẹp” và “thơm” đến nao lòng. Trong Miếng ngon Hà Nội, Vũ Bằng đã từng
thốt lên: “Hà Nội… ngon… quá xá! Hà Nội ngon không phải chỉ ngon về
những miếng ngon đặc biệt, nhưng ngon từ cách ăn uống ngon đi, ngon từ
cách rao hàng quà ngon xuống, ngon từ cách trình bày ngon tới, ngon từ cách
thái miếng thịt, chia miếng bánh ngon lui” [2,197]. Bàn về vấn đề này, TS. Lê
Dục Tú đã nhận xét: “không chỉ đơn thuần là một miếng ăn thuần túy mà sâu
hơn là những giá trị tinh thần, là những nét đẹp văn hóa, không chỉ cho hiện
tại mà còn lưu giữ đến muôn đời sau”. “Các thức quà Hà Nội, dưới ngòi bút
Thạch Lam, sở dĩ đạt đến sự độc đáo một cách hoàn hảo, đạt đến tầm cao của
văn hóa ẩm thực bởi sự phối hợp từ hai phía: phía người làm ra nó và phía
người thưởng thức” [1,39].
Bằng khả năng quan sát tinh tế, nhạy cảm với cách thức độc đáo, Thạch
Lam chắt lọc đưa vào sáng tác của mình, những thức quà có mặt trên mọi nẻo
đường, góc phố. Không phải ngẫu nhiên mà ngòi bút của ông miêu tả thật kỹ
lưỡng cách mà người Hà Nội làm và thưởng thức chúng. Bởi “quà Hà Nội,
xưa nay vẫn nổi tiếng là ngon lành và lịch sự, thêm nữa, quà...còn tức là
người”. Có lẽ, đây là những trang viết đặc sắc nhất, vì “bao nhiêu ý tốt, tình
hay gửi vào trong một chút quà nơi đô hội”.
“Quà Hà Nội” mà Thạch Lam đề cập đến trong tác phẩm của mình là
những thức quà dân dã, bình dị. Ấy là “quà hàng rong” với những món ăn
thân thuộc được vang lên bởi những tiếng rao vọng khắp phố phường, len lỏi
cả trong những hẻm ngõ. Quà Hà Nội trước hết bắt mắt bởi hình thức, được
hiện lên qua cái nhìn của thi nhân thưởng thức cái đẹp. Những thức quà mà
Thạch Lam gọi là “quà chính tông” phải kể đến là: bánh cuốn nhưng phải
đúng loại “bánh cuốn Thanh Trì mỏng như tờ giấy và trong như lụa.”. Ông
25
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
mô tả món xôi theo mùa thật hấp dẫn:“mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa
quánh mùi gạo thơm, xôi nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và
dừa. Ờ, cái xôi vừng mỡ, nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi… Mùa rét
thì xôi nóng, hãy cò hơi bốc lên như sương mù, ăn vừa nóng người vừa chắc
dạ” [6,21]. Còn biết bao những thức quà đường phố khác đầy quyến rũ. Đó là
bát ngô nếp bung non thơm vị hành mỡ, là “một mâm đầy những bát tiết đỏ
ối, ngòng ngoèo sợi dừa trắng, điểm xanh mấy lá húng tươi”, là những gánh
phở, gánh cháo đỗ xanh, chè đỗ đen,…
Nhà văn cũng rất tinh tế trong việc phân loại thức ăn đường phố. Đồ ăn
mặn hay đồ ăn ngọt đều được ông miêu tả rất kĩ, rất chân thực. Các thứ quà
mặn rất đa dạng và phong phú “nào bún riêu, bún chả, thang cuốn, nem chua,
nào miến lươn và bún ốc. Mỗi thứ, tất nhiên có một vị ngon riêng, và cả đến
mỗi hàng, lại cũng có cái ngon riêng nữa”. Bún chả thì sợi mảnh, chả phải là
loại ba chỉ ngon được nướng bằng cặp tre tươi, ăn kèm với rau húng Láng
mới chuẩn vị. Bún bung thì cầu kì, phải có đủ mùng chẻ nhỏ, phải xó chút
nghệ để “nhuộm cái thức ăn ấy một màu vàng của ráng chiều những ngày
mùa hạ…, thêm dăm quả cà chua đỏ, vài miếng đu đủ xắt vuông”. Bún sườn -
món ăn mà Thạch Lam nhận xét rằng: “hiền lành thôi, về sắc sảo chẳng có gì.
Cứ quý hồ nước cho ngọt, bún cho dẻo là được rồi” khiến người ta thích mà
không mê, chẳng ghét nhưng cũng không tha thiết quá. Một loại khác theo
như tác giả hương vị có phần hấp dẫn hơn là canh bún. Đó là sự hòa quyện
của rau cần, các rô ron mà ngon nhất là khi “nóng vừa đổ miệng, ăn phải xuýt
xoa” [6,33]. Hiếm có nơi nào mà các loại bún, miến lại đa dạng và ngon như
ở Hà Nội. Còn bánh cuốn lại hấp dẫn thực khách bởi “vị bánh thơm, bột mịn
và dẻo. Bánh chay thì thanh đạm. Bánh mặn thì đậm vì chút mỡ hành”, còn
có cả loại nhân được làm bằng chút thịt vai nửa nạc nửa mỡ trộn với nấm
hương, mọc nhĩ, tôm tươi Hồ Tây thái miếng. Món quà sạch sẽ và tinh khiết
26
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
như “cơm nắm từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải màu
trắng tinh” lại được các cô, các bà đi chợ ưa thích vì vừa rẻ lại vừa no lâu.
Thạch Lam khi thì giống như một nhà phê bình ẩm thực, lúc lại hóa
thân thành một đầu bếp tài ba thực thụ. Người đọc bị cuốn hút bởi cách tác
giả trình bày thực đơn độc đáo của ba mươi sáu phố phường. Đó là những
gánh phở với “nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gàu
giòn chứ không dai, chanh, ớt, với hành tây đủ cả”, bát mằn thắn “có đủ cả
rau thơm, sà síu, đôi khi mấy miếng dồi, và một phần chia tám quả trứng
vịt”,… là những thức quà hàng rong quen thuộc. Lang thang góc phố Hà Nội,
người ta cũng dễ bị lôi cuốn bởi cái khói chả thơm “lượn như sương mờ ở
sườn núi, giọt mỡ chả xèo trên than hồng như một tiếng thở dài, và tiếng quạt
khẽ đập như cành cây rung động, quà bún chả có nhiều cái quyến rũ đáng gọi
là mê hồn nếu không là mê bụng”. Thạch Lam đã viết “những thứ rất là tầm
thường, rất là giản dị mà đi gần nhau sao lại sinh ra được mùi vị riêng như
thế?” [6,30]. Đúng là không chỉ đẹp về hình thức mà “quà Hà Nội” còn hấp
dẫn thực khách bởi hương vị rất riêng. Không chỉ nổi tiếng với những thứ quà
mặn như phở mà phố phường Hà Nội còn níu chân bao người với bởi các thứ
quà ngọt. Đó là cái vị thanh thanh của chè sen, chè đậu đen, chè đậu xanh nấu
cả vỏ, chè khoai “Phán sì thoòng”. Một thức quà khác đã chinh phục bao
thực khách. Ấy là cốm - một thứ quà của lúa non. Thạch Lam đã dành cho
thức quà đặc biệt này sự nâng niu và trân trọng. Ông coi nó là “thức dâng của
những cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc,
giản dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam”. Ngon nhất có lẽ vẫn là
cốm làng Vòng “tiếng cốm Vòng đã lan khắp tất cả ba k , và đến mùa cốm,
các người của Hà Nội 36 phố phường vẫn thường ngóng trông cô hàng cốm
xinh xinh, áo quần gọn ghẽ, với cái dấu hiệu đặc biệt là cái đòn gánh hai đầu
cong vút lên như chiếc thuyền rồng…” [6,49]. Cốm còn là nguyên liệu để chế
27
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
biến nhiều món ăn ngon mà người Hà Nội thường lựa chọn làm quà. Ta có thể
kể đến bánh cốm Hàng Than“một thứ bánh ngon mà không đắt, một thứ bánh
gợi cho ta kỉ niệm rất nhiều màu”. Bánh cốm cũng là một phần không thể
thiếu trong những đám cưới hỏi. Nó “vuông vắn như quyển sách vàng, bọc lá
chuối xanh, buộc lạt đỏ; cái dây lạt đỏ như sợi dây tơ hồng buộc chặt lấy
những ái ân… Nhân đậu xanh giã nhuyễn, vương mấy sợi dừa, và đường thì
ngọt đậm” [6,43]. Đi đôi với loại bánh này là bánh xu xê, được làm từ thứ bột
vàng trong như hổ phách, dẻo và quánh. Hai thứ quà này nổi tiếng khắp Bắc
Kì, níu chân bao thực khách sành ăn. Bên cạnh đó, phố phường Hà Nội đa
dạng với nhiều loại bánh khác như: bánh đậu - “một thứ bánh ướt, thứ bánh
đậu có mỡ… rất ăn với vị đắng của nước chè”, bánh khảo và những thứ kẹo
lạc, kẹp vừng,… đều là những thức quà bình dị, dân dã, thân thuộc của Hà
thành. Những thứ quà rong của phố phường Hà Nội hiện diện trong trang văn
Thạch Lam tạo nên một thực đơn đặc biệt mà bất cứ du khách nào cũng ao
ước được thưởng thức hết thảy để cảm nhận cái hương vị phong phú, độc đáo
của thủ đô.
Nhắc đến ẩm thực thủ đô, nếu trót quên đi phở Hà Nội thì quả là thiếu
sót lớn. Nhà văn Thạch Lam ưu ái gọi đây là “cái quà đặc biệt” mà “ăn xong
bát thứ nhất, lại muốn ăn luôn bát thứ hai”. Thứ quà này đặc biệt không phải
vì chỉ có ở thủ đô nhưng muốn thưởng thức đúng phở ngon thì nhất định phải
là phở Hà Nội. Một món ăn mà kẻ giàu sang, phú quý hay những thợ người
lao động bình dân đều có thể thưởng thức “từ cô bán hàng trong một cửa hiệu
buôn cho đến một ông công chức, từ một bà mệnh phụ, nhà có cửa võng sơn
son thiếp vàng, đến một người thợ vắt mũi không đủ nuôi miệng, ai cũng ăn
bát phở” [2,21]. Đây cũng là món ăn mà người ta sẵn lòng đón nhận dù là khi
trời sáng, trưa hay tối muộn. Phở gánh và phở hiệu cũng mang những đặc
trưng riêng đối với người thưởng thức. Nhưng theo như nhà văn thì có một
28
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
nơi phở rất ngon“ấy là gánh phở trong nhà thương”với “bát phở đầy đặn và
tươm tất,… Nước thì trong mà lúc nào cũng nóng bỏng, khói lên nghi ngút.
Rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một chút cà
cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ… ai muốn ăn mỡ gầu, có, muốn ăn nạc,
có, muốn ăn nửa mỡ, nửa nạc, cũng có sẵn sàng” [6,24]. Phở là món ăn chinh
phục được rất nhiều thực khách. Tú Mỡ đã từng ca ngợi món ăn này bằng
những vần thơ:
“Trong các món ăn quân tử vị
Phở là quà đáng quý nhất trên đời
…
Khói nghi ngút đưa lên điếc mũi
Như xúc động tới ruột gan, bàn phổi
Như dục khơi cái đói của con tì…”
Nhà văn Vũ Bằng cũng từng bàn về chuyện ăn phở “người đi ăn phở -
nói cho thật đúng nghĩa chữ ăn phở - không k quản lắm đến sự bài trí của
chỗ ăn, cũng như người ăn thuốc phiện, nghiện tiệm, không cứ là phải nằm
hút ở một chỗ sang trọng có dọc đẹp, đèn pha lê và tiêm móc làm bằng bạc…
người ăn phở sành, hầu hết chỉ chú tâm đến cái điểm chính là phở thôi, chỉ
không quan tâm đến ngoại cảnh làm gì” [4,25].
Bên cạnh việc miêu tả tỉ mỉ từng món ăn, Thạch Lam còn đề cao sự
thưởng thức của con người. Thực khách ở đây rất đa dạng, họ xuất phát từ
nhiều tầng lớp, có hoàn cảnh, địa vị xã hội khác nhau nhưng đều gặp gỡ nhau
ở tình yêu ẩm thực Hà Nội. Tác giả nhận xét rất chân thực về phong cách
thưởng thức bún ốc của người dân thủ đô: “Người ta xúm lại ăn quà bún ốc
một cách mới ngon lành làm sao!”. Ông miêu tả các cô nhà, các chị em thanh
lâu ăn “một cách chăm chú và tha thiết… nước ốc chua làm nhăn nét mặt tàn
29
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
phấn và mệt lả, miệng ớt cay làm xoa xuýt những cặp môi héo hắt,…” [6,28].
Món ăn ngon không chỉ lấp đầy cái dạ dày mà còn phải khiến thực khách
“nhớ rõ cái vị trên đầu lưỡi, tê tê như một lượt rùng mình nhẹ”. Khi thưởng
thức, có người ăn ngon lành, một lúc vài ba bát, có người “vừa nhai nhè nhẹ,
vừa thong thả hỏi han thân mật cô hàng” [6,22]. Với mỗi món ăn, người ta lại
có những cách thưởng thức riêng, họ vó thể húp xì xụp bán bún, tô phở rồi
thở phào khoan khoái nhưng với cốm lại khác. Như Thạch Lam đã viết: “Cốm
không phải thức quà của người ăn vội; ăn cốm phải ăn từng chút ít, thong thả
và ngẫm nghĩ.” [6,50]. Cái thứ quà của lúa non này khiến sự thưởng thức trở
nên trang nhã và đẹp đẽ hơn. Còn thứ bánh tôm nóng đặc biệt lại khiến những
cô cậu học sinh chẳng kịp so đũa, vội vàng ăn đến “bỏng cả miệng, cả môi, cả
lưỡi - chảy nước mắt vì ớt xông vào cổ họng, xuýt xoa cho vị bánh đượm
được lâu” [6,54]. Muốn biết các loại xôi của bà cụ ở phố Hàng Khoai ngon
đến chừng nào thì “phải trông các bác xe, các người phu ngồi ăn… nhắp một
vài chén rượu, thong thả gặm một mảnh vó bò may còn dính nhiều thịt, vo
tròn nắm xôi trong tay trước khi đưa lên miệng, họ có cái sung sướng của nhà
nghệ sĩ thưởng thức áng văn hay” [6,63]. Nhà văn rất tinh tường khi miêu tả
cách những người nghiện đi ăn quà. Họ “đưa miếng giò lợn lên ngắm nghía
một cách âu yếm và thiết tha,… khà hớp rượu một cách ngon lành,… đưa
móng tay véo miếng xôi một cách chắt chiu thế kia; họ tính từng xu, thêm bớt
từng tí mỡ, và mặc cả từng khoanh giò”. Họ coi món ăn như thứ đồ quý giá.
Thạch Lam còn viết rất hay về những bà hàng, cô hàng khi họ thưởng thức
các thứ quà “vắng khách, bà cũng rót một chén rượu to để cạnh, và thong thả
tự nhắm những thức ăn chính mình làm ra… tự cảm thấy bằng lòng: vì mắt
bà lâu dần mờ say đi, tay bà dính thêm nhiều mỡ, và bên thúng thêm một
đống xương con…” [6,64]. Tác giả cũng khẳng định ở ba sáu phố phường Hà
Nội, người bán và người mua là tri kỉ, họ không chỉ ăn mà còn am hiểu về
30
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
những thức quà, trân trọng và nâng niu chúng. Sang đến hàng nước cô Dần,
một cửa hàng đặc biệt không có ghế ngồi nên “kẻ đứng, người ngồi xúm vòng
quanh… Những bác phu xe đặt nón, lần một điếu thuốc lào, vài thầy đội xếp
uống chè từng ngụm nhỏ trên xe đạp gác ở vỉa hè, với vài khách hàng áo
ngắn, còn trẻ tuổi, hay thêm vào vị nước một vài câu bông đùa nhè nhẹ đối
với cô hàng” [6,66]. Người ta thì thầm với cô chủ về món nợ cũ, “hoặc nằn
nì xin chịu nữa” nhưng người bán dễ tính, sau cũng bằng lòng.
Tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu phố phường được viết vào thời điểm
mà văn hóa phương Tây đã du nhập vào nước ta qua con đường khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp, văn hóa ẩm thực ít nhiều cũng có sự ảnh hưởng,
pha tạp. Nhà văn Thạch Lam - một con người hoài cổ và yêu thủ đô tha thiết
luôn thể hiện sự trân trọng, nâng niu những thức quà mộc mạc, bình dị mà
thấm đẫm tâm hồn, cốt cách người Hà Nội. Từ cái cách mà nhà văn kể ra
hàng loạt các thức quà mặn, ngọt, đó không dừng lại ở việc liệt kê, ghi chép
lại mà còn bộc lộ một sự cảm thụ tinh tế của ông với cái hấp dẫn, thú vị của
ẩm thực Hà Nội.
Với Thạch Lam, quà Hà Nội không chỉ hấp dẫn con mắt nhìn mà còn
quyến rũ bởi nó kích thích mọi giác quan khác của người thưởng thức. Hẳn
phải đi sâu vào từng ngõ ngách, ngồi thưởng quà ở nhiều chỗ, ông mới tái
hiện một cách chân thực, sống động từng thức quà của Hà Nội. Từng trang
văn như hiện lên sinh động cả khuôn mặt, cảm xúc của người thưởng thức.
Thạch Lam cũng khẳng định: “Ăn quà là một nghệ thuật”. Quả thực chính
nghệ thuật “ăn quà” ấy làm nên nét đẹp trong văn hóa ẩm thực người Hà
thành. Một người sành ăn thì phải biết “ăn đúng cái giờ ấy và chọn người bán
ấy”. Món ăn còn được nâng lên thành “một nghệ thuật đáng kính”. Tác giả
đã biến thú ăn ấy trở thành một nghệ thuật của sự thưởng thức. Bàn về thưởng
thức ẩm thực, nhà thơ Tản Đà đã từng cho rằng ăn ngon gồm bốn yếu tố: món
31
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
ăn ngon, chỗ ngồi, người cùng ăn và giờ ăn. Ông cũng khẳng định: “Ăn là
một nghệ thuật. Mà nghệ thuật ăn khó hơn nghệ thuật viết văn”. Có thể nói
nét đẹp ẩm thực là yếu tố góp phần làm nên cái tinh tế của văn hóa và con
người Hà Nội. Qua những cảm nhận về quà Hà Nội, Thạch Lam đã lột tả
được nét đẹp văn hóa của người Hà thành. Gánh hàng rong trong trang văn
Thạch Lam hiện lên trong hình ảnh của những người buôn gánh bán bưng
như: bà đội thúng ngô, cô hàng cơm nắm, bà bán phở gánh trong nhà thương,
cô hàng bún ốc, người bán hàng lục tàu xá, người bán chè sen, cô hàng cốm,
bà cụ bán xôi… Họ là nhữngngười lao động bình dân chăm chỉ, chịu thương
chịu khó đem các thức quà ngon của Hà thành đến với mọi người. Ở họ đôi
khi toát lên khí chất đặc biệt, vừa thanh tao vừa nhanh nhẹn, lúc hiền hòa lúc
lại rất sắc sảo. Len lỏi trong khắp ngõ hẻm, phố phường là những tiếng rao
độc đáo của bà đôi thúng ngô “tựa như không phải tiếng người, một tiếng rao
đặc biệt và k lạ: “Eée… éc”, “Eé… eéc…””, hay câu rao bằng tiếng Tàu:
“Lầu sường, lầu hạ, dầu sực mìn pác mẩu?” (Gác trên gác dưới có ai ăn
bánh tây không?)”, rồi tiếng rao khe khẽ của bác hàng quà “đi nhẹ như chân
ma”: “Giầy giò… giầy giò…”. Những âm thanh ấy đôi khi chỉ người sành ăn,
quen ăn mới rõ. Tiếng rao của những gánh hàng rong với đủ loại âm điệu
khác nhau đã làm nên một dấu ấn đặc biệt cho thành phố này. Giữa chốn thị
thành đông đúc, đường xá tấp nập, ồn ào, nhưng đâu đó vẫn còn đó âm vang
thân thuộc của gánh hàng rong trong những góc ngõ nhỏ sáng đèn. Đó vừa
giống như tiếng vang của cuộc sống vọng lại vừa như tiếng thở dài của một
đời mưu sinh vất vả, lam lũ. Nếu như Nguyễn Tuân chỉ chú ý đến những món
ăn “quốc hồn quốc túy”, Vũ Bằng quan tâm hết thảy các món ăn từ Bắc vào
Nam thì Thạch Lam lại đắm đuối, tha thiết với những thức quà bình dị, đơn sơ
nhưng chuyên chở cả tâm hồn người Hà Nội. Hà Nội Nội băm sáu phố
phường hội tụ tất cả những tinh hoa, vẻ đẹp, những thứ đang trôi qua, những
gì đang dần mai một được nhà văn trân trọng, chắt lọc, lưu giữ lại.
32
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Đối với Rama, một người ngoại quốc khi tìm hiểu về văn hóa ẩm thực
Hà Nội không đi sâu vào nhiều món ăn nhưng lại đặc biệt chú ý đến món phở.
Với ông, phở đại diện cho văn hóa Hà Nội. Trong Hà Nội, một chốn rong
chơi, Rama đã đưa người đọc trở lại với nguồn gốc tên gọi của món ăn đặc
biệt này: “Chữ “phở” đầu tiên có thể tìm thấy trong cuốn từ điển tiếng Việt
mà Hội Khai Trí Tiến Đức của người An Nam (AFIMA) xuất bản những năm
cuối thập niên 1920. Từ khi đó, người ta cho rằng từ “phở” bắt nguồn từ chữ
pot au feu, một từ tiếng Pháp rất thông dụng để chỉ món thịt hầm… Có thể tìm
lại nguồn gốc của món ăn này ở những hàng ăn quanh bến cảng sông Hồng
vào năm 1908. Về khía cạnh ẩm thực, phở bắt nguồn từ một món ăn rất phổ
biến có tên gọi “xáo trâu”, một thứ canh làm từ thịt trâu, hành hoa và mì”
[10,109]. Khác với góc nhìn của Thạch Lam, Martín Rama cho người đọc
thấy mình cái nhìn lịch đại về món ăn được nhiều người ưa thích khi đến Hà
Nội. Ngược dòng thời gian, ông khai thác về sự xuất hiện, phát triển và thịnh
hành của món ăn này ở thủ đô. Với ông, một món ăn được coi là “quốc hồn
quốc túy” thì thực khách cũng cần hiểu về xuất xứ, nguồn gốc của nó. Tác giả
đã mang đến một thực đơn phở rất đa dạng. Hai món phở nổi tiếng ở Hà Nội
là phở bò và phở gà. Ra đời trước, món “phở chín (dùng thịt bò để nấu chín),
phở tái (dùng thịt bò sống)” sau này mới là món ăn thịnh hành hơn. Phở gà ra
đời khi người ta ban bố lệnh cấm thịt bò vào ngày thứ Hai và ngày thứ Sáu.
Ra đời muộn hơn là món phở xào và phở sốt vang. Tác giả đã viết: “Cũng
giống như nhiều ngành thương mại khác ở Hà Nội, kinh doanh phở có nguồn
gốc nông nghiệp. Người ta cho rằng đầu bếp đều đến từ làng Vân Cù, thuộc
đồng bằng sông Hồng, nơi mà tất cả những người bán phở đều mang họ Cồ”
[10,109]. Có lẽ, đây là một lí giải thỏa đáng cho tên gọi của những hàng phở
ngon ở Hà Nội: phở Cồ. Nếu Nguyễn Tuân tiếp cận món ăn từ khâu chuẩn bị
nguyên liệu, chế biến, trình bày đến cách thưởng thức, Vũ Bằng chú ý vào sự
33
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
khoái khẩu của người thưởng thức, Thạch Lam quan tâm tới hương vị, cách
trình bày và cả hình ảnh của những người bán hàng, thì Martín Rama lại đem
đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về nguồn gốc của món ăn được ví như
là linh hồn của ẩm thực Hà Nội. Rama đưa vào cuốn sách bảng nguyên liệu
làm nên món phở. Đều là những thứ rất đỗi thân quen trong đời sống nhưng
có lẽ ít thực khách ăn phở nhớ hết hai mươi tư nguyên liệu làm nên “món ăn
tinh tế của Hà Nội”.
Tuy nhiên, Hà Nội, một chốn rong chơi không đi sâu khai thác ẩm
thực Hà Nội nhưng từ món ngon Hà Nội đã tạo nên nguồn cảm hứng để
Martín Rama nghiên cứu văn hóa thủ đô thông qua việc sắp xếp các chương
sách như việc đưa các nguyên liệu vào món phở. Tác giả liệt kê hai mươi tư
nguyên liệu làm phở tương đương với hai mươi tư chương sách tạo nên vẻ
đẹp văn hóa Hà Nội trong con mắt một người ngoại quốc. Ông coi “Hà Nội
giống như một món ăn được chế biến bằng những nguyên liệu tươi ngon với
liều lượng lý tưởng”. Hành trình tìm hiểu nét văn hóa đặc sắc của người Hà
Nội truyền tải qua tác phẩm với kết cấu như một cuốn sách dạy nấu ăn và lấy
cảm hứng từ món phở. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề cập tới một không gian
thưởng thức món ăn khác lạ của người Hà Nội. Đó là nơi hè phố mịt mù khói
bụi, giữa những ồn ào, náo nhiệt của các phương tiện giao thông, người ta chế
biến, ăn uống rất vô tư, vui vẻ. Đây cũng là một trong những nét độc đáo của
văn hóa vỉa hè Hà Nội.
Mỗi tác giả lại đem đến cho người đọc một cách nhìn về văn hóa người
Tràng An thông qua những nét đẹp ẩm thực. Thạch Lam bộc lộ niềm tự hào,
thái độ trân trọng, gìn giữ những thức quà Hà Nội xưa, thấu hiểu, cảm thông
với những gánh hàng rong trên khắp phố phường Hà Nội. Còn Rama, ông yêu
mến văn hóa Hà Nội qua món ăn tinh túy, qua những vẻ đẹp văn hóa còn lưu
giữ lại cho đến ngày nay. Tuy góc nhìn khác nhau song cả Thạch Lam và
34
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Martín thông qua những trang văn đều gửi gắm đến người đọc tình yêu, sự
trân trọng những giá trị văn hóa lâu bền của người Hà Nội.
2.3. Nhịp sống ngƣời Hà Nội
Bức tranh thủ đô sẽ không trở nên sống động và trọn vẹn hơn nếu thiếu
nét vẽ về nhịp sống người Hà Nội. Song dưới góc nhìn của hai tác giả, ở hai
thời điểm khác nhau, nhịp sống Hà thành hiện lên với những vẻ đẹp riêng,
một bên là dòng chảy chậm rãi, một bên là cuộc sống náo nhiệt, sôi động, có
phần xô bồ.
Nhà văn Thạch Lam - một người yêu Hà Nội tha thiết đã khắc họa chân
thực đời sống thủ đô những năm tháng đổi thay từ xã hội phong kiến sang chế
độ thực dân nửa phong kiến. Trong tập bút ký Hà Nội băm mươi sáu phố
phường, Thạch Lam đã rất thành công khi tái hiện cuộc sống Hà Nội về đêm.
Dưới con mắt của ông, Hà Nội không chỉ đẹp ban ngày mà ngay từ hai, ba giờ
sáng, khi mọi người còn đang chìm vào giấc ngủ thì nhiều hoạt động đã diễn
ra ở khắp các con phố. “Những gánh hàng nặng trĩu và kẽo kẹt trên vai, theo
cái đưa đẩy có nhịp của bước đi, những người ấy vội vàng và yên lặng, không
nói một lời nào”. Họ đến từ các vùng cách Hà Nội bốn, năm cây số nên muốn
đến kịp phiên chợ họ phải rảo bước, “cái thân người uốn cong dưới gánh
nặng”. Những nhà khá hơn thì sắm được “những chiếc xe tay bánh gỗ ngày
xưa, cũ kĩ và tơi tả, lộc cộc lạch cạch theo bước chân của một anh nhỏ kéo,
gầy gò và áo rách vai” [6,60]. Nhà văn đã khắc họa cảnh làm việc nhọc nhằn,
vất vả của những người cần lao và chịu khó. Cuộc sống mưu sinh của họ bắt
đầu khi tất cả chìm vào bóng tối và lặng im. Những gánh hàng được bày ra
trước chợ để người ta mua buôn, “dưới ánh đèn điện, và trong luồng gió
thoảng đêm khuya, đấy là một phiên chợ của cái mát mẻ, non tươi, “phiên
35
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
chợ xanh” của cả Hà Nội họp mà người Hà Nội không biết” [6,61]. Quang
cảnh của chợ xanh đêm khuya cũng thêm phần tấp nập với sự xuất hiện của
một số hàng quà. Ấy là hàng phở nóng nghi ngút khói trước chợ Đồng Xuân,
hàng xôi, hàng bánh cuốn, hàng bánh tây chả,… Những cuộc mưu sinh, lao
động không ngừng nghỉ vẫn diễn ra khiến khu vực chờ Đồng Xuân “không
bao giờ lâm vào cảnh vắng lặng và tĩnh mịch”. Đó còn là hình ảnh của những
người đi tuần, người đi bán vé, các bác kéo xe hay những người thích đi chơi
khuya, rồi cả người đi ra từ các cao lâu, tiệm thuốc phiện,… Họ xóa tan bầu
không khí yên ắng của màn đêm và từng góc phố vẫn nhộn nhịp, tấp nập tiếng
bước chân đi. Quà Hà Nội lôi cuốn người ta cả ngày lẫn đêm. Hàng xôi được
bày bán từ mười giờ tối đến sáng nườm nượp khách vây quanh bà cụ bán
hàng hay cô hàng nước nhũn nhặn trong chiếc áo nâu cũ lúc nào cũng tất bật
bởi đông khách. Tất cả tụ họp, kẻ buôn, người bán, người mua đông vui, tấp
nập. Những khu chợ, phiên chợ là không gian phản ánh chân thực cuộc sống
buôn bán của người Hà thành. Trong đêm khuya, Thạch Lam đã phát hiện ra
một Hà Nội với “phong vị bình dân và mộc mạc”, thật giản dị, thanh bình.
Bên cạnh đó, nhịp sống người Hà Nội ngày nay mang những màu sắc rất
khác biệt qua góc nhìn của M. Rama. Cuộc sống thường nhật của người dân thủ
đô ngày nay cũng gắn với nhiều hoạt động buôn bán. Như tác giả đã nhận xét:
“Từ thế kỉ 17 trở đi, Hà Nội biết đến với cái tên kẻ chợ, có nghĩa là cái chợ lớn”.
Sự hội nhập và phát triển tạo động lực cho các hoạt động buôn bán khởi sắc. Từ
đó, vị thế của những thương nhân được củng cố và nâng cao. Thương nhân ở Hà
Nội bao gồm cả người người Việt và người nước ngoài. Đó là một số nhà buôn
Hà Lan, Ăng lê, nhưng đông nhất vẫn là người Hoa. Khu chợ lớn nhất được xây
dựng năm 1889 là chợ Đồng Xuân. M. Rama đã khẳng định:“Chợ Đồng Xuân
đánh dấu một giai đoạn mới của tiêu dùng Hà Nội” [10,92].
36
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Thành phố phát triển, các trung tâm thương mại mọc lên như nấm thay
thế cho những chốn ăn chơi xưa. Hình ảnh đầu tiên về Hà Nội để lại dấu ấn
sâu đậm cho những người ngoại quốc, trong đó có Rama là “cực kì hỗn
loạn”. Nhà văn đã khắc họa rất chân thực cảnh tượng giao thông với “hàng
nghìn xe máy lấp kín những con phố”, những hàng dây điện chằng chịt, giăng
mắc quanh biển hiệu, nhà cửa, khắp các phố phường. “Hè phố trông cũng
không có vẻ gì an toàn hơn” khi nó được tận dụng làm mọi việc khác với
chức năng vốn có. Nơi đây diễn ra các hoạt động sinh hoạt mà lẽ ra nó chỉ nên
thực hiện trong nhà như: nấu nướng, ăn uống, cọ rửa, dọn dẹp. “Những công
trình xây dựng hai bên hè phố trông cũng hỗn độn không khác gì giao thông
dưới lòng đường”. Tất cả những điều này xuất phát từ “những sức mạnh
không thể cưỡng nổi của thị trường” [10,26]. Đằng sau các hình ảnh chân
thực về nhịp sống của người dân thủ đô, tác giả bày tỏ sự lo lắng khi Hà Nội
dường như đã mất đi sự thanh bình, nhưng khi bình tĩnh lại, ông lại cảm nhận
thành phố còn ẩn chứ rất nhiều vẻ đáng yêu, thu hút: “người ta nhận ra rằng
đồ ăn đường phố cũng tinh tế không kém đồ ăn trong nhà hàng, nếu không
muốn nói là còn tinh tế hơn… chỗ ngồi ăn… là nơi bạn có thể nhìn cuộc sống
được gần nhất” [10,28].
Những câu chuyện tình cũng trở nên lôi cuốn qua con mắt của M.
Rama. Qua góc nhìn của ông, “người Hà Nội lúc nào cũng tất bật với chiếc
xe gắn máy chạy vè vè ngoài đường”, đó là phương tiện được người dân ưa
chuộng “đối với người Hà Nội thì người ta có thể làm tất cả những gì cần
làm trên chiếc xe máy kia, kể cả một giấc ngủ” [10,65]. Không những thế nó
còn là nơi người ta thể hiện tình cảm với nhau “những đôi tình nhân trẻ có
thể tranh thủ âu yếm trên yên xe”. Nhà văn còn tinh tế khi phát hiện “chỉ cần
nhìn cái cách nàng ngồi phía sau người ta cũng có thể đoán được mối quan
hệ của họ đã tiến triển đến đâu” [10,66]. Tuy là một người ngoại quốc song
37
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
M. Rama lại có những góc nhìn rất tinh, rất nhạy về đời sống tình cảm của người
dân thủ đô. Không chỉ bày tỏ quan điểm về những đổi thay theo xu hướng hiện
đại hóa, ông còn thể hiện thái độ trân trọng những nét đẹp xưa trong đời sống
tinh thần của người Hà Nội “nếu nàng là một cô gái thực sự lãng mạn, nàng sẽ
muốn được chàng chở đi dạo phố trên một chiếc xe đạp cà tàng”.
Những nét đẹp trong truyền thống văn hóa của người Việt nói chung,
người Hà Nội nói riêng không chỉ bộc lộ trong đời sống sinh hoạt thường
ngày mà còn thể hiện qua các dịp lễ, Tết. Thạch Lam đã tái hiện rất chân thực
Tết cổ truyền của người Hà Nội xưa với những lễ nghi, phong tục được chuẩn
bị đầy đủ, bài bản. Người ta thường quan niệm Tết đến, xuân về, nhà cửa phải
sạch sẽ để mọi đen đủi, bụi bẩn của năm cũ không còn. Thạch Lam đã miêu tả
không khí náo nức, chuẩn bị Tết: “Không có gì vui bằng trước ngày Tết dọn
dẹp để đón Tết. Nhà cửa tự nhiên có một vẻ khác hẳn, trông ngăn nắp, sạch
sẽ, sáng sủa”. Ngoài tục treo chữ, người Hà Nội còn hay “bỏ tiền ra rước hai
ông Tiến tài, Tiến lộc về dán vào cánh cửa, may ra hai ông có phù hộ cho
mình sang năm có thêm tài, thêm lộc” hay sắm vài bức tranh con vật ngộ
nghĩnh cho trẻ nhỏ. Một trong những phong tục truyền thống của ngày Tết
xưa là tục trồng nêu. Đây được coi là cách đuổi ma quỷ bằng “một cành tre
thật cao… đầu buộc một cái chổi phất trần… treo một bộ nhạc và khánh đất
nung, mỗi khi có gió bấc thổi, cái nọ chạm cái kia leng keng cũng vui tai”
[6,82]. Bởi thế mà dân gian ta vẫn hay truyền nhau câu đối ngày Tết “Thịt mỡ
dưa hành câu đối đỏ - Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh”. Sự hiện diện
của nồi bánh chưng gợi lên khung cảnh ấm áp của tình thân, sum vầy trong
Tết đoàn viên. Khung cảnh gia đình vào thời khắc giao thừa dưới ngòi bút của
Thạch Lam hiện lên ấm ấp: “Trên bàn thờ đèn nến sáng choang khói trầm
hương lên nghi ngút, hoa đào hoa cúc lúc bấy giờ càng thơm càng đẹp hơn
lên. Cả nhà rộn rịp sửa soạn cỗ bàn để cúng tổ tiên…”. Tết xưa rộn ràng với
38
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
những tràng pháo trong đêm giao thừa “tiếng pháo kêu vang, xác pháo bên
trong tóe ra khỏi tỏa đầy nhà, mà lạ hễ có xác pháo đỏ mùi pháo thơm thơm
là ra vẻ Tết ngay lập tức. Năm mới rồi đây!” [6,85]. Một điều quan trọng
trong những ngày Tết mà gia chủ nào cũng lưu tâm đó là người xông nhà,
xông đất. Họ cho rằng đó sẽ là người hoặc đem lại những điều may mắn hoặc
mang theo những vận xui cho đại gia đình. Dăm bảy ngày Tết người ta quanh
quẩn với chuyện đi chúc tụng họ hàng, làng xóm, rồi “rượu, cỗ bàn rồi quây
quần vào đánh bài: hết tam cúc lại bất, hết bất lại tam cúc…”. Hết Tết,
khoảng mùng bảy tháng Giêng, người ta hạ cây nêu và “quần áo mới lại xếp
vào hòm để dành đến Tết sang năm mới giở ra. Trong nhà lại lặng lẽ dần,
rượu hết,… cỗ bàn hết… Cái vui của ngày Tết đã theo với xác pháo người ta
quét mà đi, không trở lại cái Tết nữa” [6,89]. Không khí đông vui, tấp nập
của ngày Tết dần lắng xuống nhường chỗ cho các hoạt động thường ngày.
Martín Rama lại có những góc nhìn khác so với Thạch Lam. Nếu như
Thạch Lam hoài niệm về những giá trị văn hóa cổ truyền của những cái Tết
xưa thì với Rama Tết của người Hà Nội ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Đã xa
rồi cái Tết “đi thăm viếng lần lượt từng nhà họ hàng, được tặng những món
tiền lì xì nhỏ và một ít bánh kẹo, từ nhà này qua nhà khác, giống như một
cuộc hội hè miên man vậy”. Giờ đây, Tết của người Hà thành “có thể khiến
người lớn kiệt sức. Cố làm cho hết những công việc của năm cũ, dọn dẹp nhà
cửa để đón khách, chuẩn bị đồ ăn và quà tặng cho vô số những chuyến thăm
xã giao… quá đủ để người ta thấy mình ngập lụt vì công việc trong mấy tuần
liền” [10,85]. Họ có đủ mối lo trong mấy ngày Tết, đặc biệt là người phụ nữ,
từ các mối quan hệ xã hội đến gia đình. Bởi thế mà “không ngạc nhiên khi mà
rất nhiều người Hà Nội cảm thấy nhẹ người (và lại cần một kì nghỉ mới) ngay
khi những ngày nghỉ Tết vừa qua đi” [10,86]. Cảm xúc “vui vì xác pháo để
rải rác trước thềm nhà, vì rượu mùi, vì hoa cúc hay vì gió lạnh làm cho người
39
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
ta gần gũi bên ngọn lửa mà kể chuyện Tết năm ngoái, năm xưa” [6,80] đã
không còn, thay vào đó là “những mệt mỏi về mặt tinh thần”.
Không chỉ nhắc đến Tết nguyên đán, M. Rama còn liệt kê hàng loạt
những ngày nghỉ trong năm. Nhịp sống của người Hà Nội được tái hiện theo
mùa, gắn với các dịp lễ. Đó là ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 khi bỗng nhiên “cả
thành phố tràn ngập hoa tươi và những lời chúc ngọt nào, có những tấm bưu
thiếp được kí tên và có cả những câu chúc được gửi đến từ một người bí mật.
Không phải chỉ dành cho bạn gái hay cho những người vợ yêu dấu, ngày nay
được dành cho tất cả những người phụ nữ ở quanh mình… Vào ngày đó, niềm
vui trở lại, sắc đẹp được ngợi ca và khi đó mùa đông thực sự đã qua” [10,86].
Ngày Thống nhất hay còn gọi là ngày Giải phóng miền Nam 30/4, Tết Trung
Thu, ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11) đều là những dịp khiến phố phường
thêm đông đúc, nhộn nhịp. Những dịp lễ này trước kia không được tổ chức
long trọng, tưng bừng thì nay lại nhận được sự quan tâm lớn của xã hội. Nếu
Thạch Lam tái hiện một cuộc sống đậm chất xưa trong từng căn nhà nhỏ thì
M. Rama lại diễn tả cảnh đông đúc, tấp nập của các hàng quán vỉa hè chật
cứng, thành phố “lại bắt đầu thở” [10,87].
Nhịp sống người Hà Nội quanh năm rộn ràng nhưng có lẽ ấn tượng
nhất là vào mùa cưới. “Khắp nơi trong thành phố, từng cặp cô dâu chú rể váy
áo lộng lẫy đưa nhau đi chụp ảnh cưới, để ghi lại tình yêu và hạnh phúc của
họ”. Dưới góc nhìn của Rama “mùa cưới của Hà Nội cũng lại báo hiệu một
mùa đông đã đến. Điều này đồng nghĩa với việc mùa đông sẽ tới” và “một cái
Tết nữa lại đang đến gần”. Qua các mùa với những ngày lễ, con người sống
trong những guồng quay hối hả, tất bật. Tác giả đưa ra những cảm nhận về
lối sống gấp của người Hà Nội hiện đại “chính là sự vội vã phải hoàn
thành những việc còn dở dang sẽ làm người ta không có thời gian suy nghĩ
quá nhiều về vòng quay của cuộc sống” [10,88]. Phải chăng, sự vội vã ấy
40
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
đang vô tình cuốn con người ta vào công cuộc lo toan, mưu sinh mà lãng
quên những giá trị văn hóa tốt đẹp, bỏ qua những vẻ đẹp những đáng trân
trọng của cuộc sống.
Có thể nói, nhiều thế hệ sinh sống đã góp phần làm nên phẩm chất
người Hà thành. Bên cạnh đó, mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này đã tiếp nhận,
sàng lọc các phẩm chất tốt đẹp đó. Cái hay, cái tốt được tạo điều kiện phát
huy, cái xấu dần bị gạt bỏ, kiềm chế. Có thể thấy một trong những phẩm chất
điển hình nhất của người Thăng Long - Hà Nội là chất trí tuệ, sự nhạy bén với
thời cuộc. Nét đẹp văn hóa trong nhịp sống của người Hà Nội thể hiện qua
cách ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Đó còn là phẩm
chất thanh lịch của người Tràng An, một vẻ đẹp làm nên bản sắc văn hóa
Thăng Long - Hà Nội. Điều này được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Nhịp sống đô thị Hà Nội chính là lối sống được hình thành từ sự
giao thoa, lan tỏa tinh hoa của cả nước. Cách sống ấy không bất biến mà luôn
chuyển mình để phù hợp với thời cuộc, bổ sung, làm giàu thêm văn hóa
truyền thống.
41
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
CHƢƠNG 3
MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
GÓC NHÌN VĂN HÓA HÀ NỘI CỦA
THẠCH LAM VÀ MARTÍN RAMA
3.1. Không gian nghệ thuật
Không gian nghệ thuật là một yếu tố quan trọng. Nó mang những đặc
điểm chi phối điểm nhìn của nhà văn trong quan trình sáng tác. GS. Trần
Đình Sử trong giáo trình Một số vấn đề Thi pháp học hiện đại cho rằng:
“Nếu thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không
gian nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ trường nhìn, cách nhìn” [11,42].
Không gian nghệ thuật là mô hình thế giới của tác giả cụ thể, được biểu hiện
bằng ngôn ngữ của các biểu tượng không gian.
Với tài năng và sự tinh tế trong lối viết, Thạch Lam đã đưa người đọc
đến một không gian nghệ thuật đặc sắc, qua đó thể hiện rõ góc nhìn văn hóa
Hà Nội. Hà Nội băm mươi sáu phố phường giống như lời tâm tình, tự sự của
nhà văn về những giá trị văn hóa của Hà Nội xưa. Đồng thời, từng trang văn
cũng tràn ngập những cung bậc cảm xúc của người viết. Ngược dòng thời
gian, tái hiện lại khung cảnh phố phường Hà Nội những năm tháng trước đây,
nhà văn không chỉ cho người đọc trở về với những giá trị văn hóa cổ xưa mà
còn cảm nhận được một tình yêu Hà Nội nồng nàn, thiết tha.
Không gian nghệ thuật được Thạch Lam xây dựng trong tác phẩm này
chủ yếu là không gian sinh hoạt đời thường, bao gồm cả không gian rộng và
không gian hẹp. Trước hết là không gian của phố phường Hà Nội với “những
phố gạch thẳng và rộng rãi”, chốn ăn chơi như chợ Đồng Xuân, nơi buôn bán
độc đáo của “chợ mát ban đêm”. Trong những không gian này, nhịp sống của
42
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
người Hà Nội hiện lên hối hả, tấp nập. Rama cũng có những góc nhìn tương
đồng với Thạch Lam khi tái hiện phố phường Hà Nội. Ông đi sâu vào khám
phá ở rất nhiều con phố của thủ đô để tái hiện lại những nét kiến trúc đặc sắc,
đồng thời bày tỏ quan điểm, cảm nhận về lối sống của người dân Hà thành.
Rama tìm nguồn cảm hứng từ các dãy phố buôn bán (Hàng Ngang, Hàng
Đào, Hàng Bạc,…) đến các công trình kiến trúc công cộng lớn là những bệnh
viện lớn (Việt Đức, Bạch Mai,…), các trường học (Đại học Dược, Đại học
Quốc Gia, Đại học Tổng Hợp,…), vườn Bách thảo, công viên, Bảo tàng và
nhiều cơ quan hành chính khác. Ông có cái nhìn bao quát về kiến trúc thủ đô,
nó thể hiện sự am hiểu về không gian sống của một đô thị đang trên đà phát
triển. Trong Hà Nội, một chốn rong chơi, M. Rama cũng tập trung khắc họa
thành phố qua những đổi thay trong cuộc sống hiện đại đương thời. Ông đưa
ra những hình ảnh chân thực về đời sống thường ngày của người dân thành
thị. Không gian phố thị hiện lên có phần “hỗn loạn” bởi sự đông đúc, nhộn
nhịp. “Như một dòng sông cuộn chảy, hàng nghìn xe máy lấp kín những con
phố (đôi khi tràn lên cả vỉa hè) và dường như chẳng thèm quan tâm đến đèn
tín hiệu hay quy tắc an toàn giao thông... Những công trình xây dựng hai bên
hè phố cũng hỗn độn không khác gì giao thông dưới lòng đường” [10,26]. Để
tái hiện lại không gian đời sống hiện thực mang tính toàn diện như vậy, chắc
hẳn M. Rama đã phải dành nhiều thời gian di chuyển và quan sát thành phố.
Từ đó, ông đưa ra những nhận xét, đánh giá rất chân thực về lối sống trong
không gian đô thị của người Hà thành.
Bên cạnh những không gian bối cảnh lớn, cả hai tác giả Thạch Lam và
Martín Rama đều khám phá văn hóa Hà Nội từ những góc độ nhỏ và hẹp.
Điều này thể hiện qua sự xuất hiện của các không gian như “vài ngõ con…
ngõ Phất Lộc, ngõ Trung Yên…”, một cửa hàng nước trước chợ Đồng Xuân,
gánh hàng của cô bán ốc, bà bán xôi,… trong Hà Nội, một chốn rong chơi
hay những phòng ở khu tập thể hơn chục mét vuông, các khu thềm, ban công,
43
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
khung cửa,… dưới con mắt nhìn của M. Rama. Không gian đời sống xã hội
được thu hẹp lại thành không gian gia đình, không gian hàng quán vỉa hè,
thậm chí là không gian đời tư, không gian cá nhân “sự riêng tư trên xe máy…
người ta có thể làm tất cả những gì cần làm trên xe máy kia, kể cả một giấc
ngủ” [10,65]. Trong những không gian nhỏ, hẹp, tác giả đem đến cho người
cái nhìn cụ thể, tường tận hơn về những nét văn hóa trong cuộc sống thường
nhật của người dân thành thị. Từ cách ăn, cách mặc, cách nói năng, đi đứng
đến những thói quen thường ngày đều được miêu tả chân thực, sống động.
Người đọc có thể cảm nhận được niềm vui, nỗi buồn, sự hào hứng, lo âu, tiếc
nuối của con người nơi đây. Nếu M. Rama gây ấn tượng qua không gian nhỏ
hẹp thì Thạch Lam lại tái hiện một không gian vô cùng đặc biệt. Dưới ngòi
bút của Thạch Lam, mỗi món lại tỏa ra một không gian văn hóa riêng, quây
quanh người bán, người ăn, người chế biến, khung cảnh và cả thời gian người
ta thưởng thức những quà hàng rong. Tác giả đã rất thành công khi tạo dựng
không khí giao giữa người làm, người bán với người mua, người thưởng thức.
Từ đó, nhà văn khắc họa một Hà Nội với vẻ đẹp rất riêng, rất đỗi bình yên,
gần gũi, quen thuộc. Không gian văn hóa ngấm trong hương vị các món ăn,
những thức quà của người Hà Nội xưa.
Có thể thấy, những không gian nhỏ được đặt xen kẽ trong không gian
lớn thể hiện sự quan sát vừa mang tính khái quát, vừa cụ thể, chi tiết, tinh tế.
Cách lựa chọn không gian nghệ thuật độc đáo phần nào thể hiện con mắt tinh
tường cũng như tài năng của Thạch Lam và M. Rama. Cuộc sống người Hà
Nội giống như một bức tranh khổ lớn mà mỗi tác giả đã dành trọn vẹn tâm
huyết, tình cảm của mình để sáng tạo nên những mảng thật đẹp, thật ấn tượng.
3.2. Ngôn ngữ
Trong văn chương, ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng, góp phần vào sự
thành công của tác phẩm. Ngôn ngữ vừa là phương tiện, vừa là chất liệu thể
44
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
hiện tính đặc trưng của văn học. Đồng thời nó là một trong những yếu tố quan
trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Cả hai
tác giả Thạch Lam và Martín Rama đều lấy chất liệu từ hiện thực đời sống
con người Hà Nội để phản ánh những nét văn hóa trong đời sống ấy. Bởi
vậy, ngôn ngữ được sử dụng trong tác phẩm rất giản dị, đời thường, gần
gũi, dễ hiểu.
Nhà văn Thạch Lam được biết đến với văn phong nhẹ nhàng, lôi cuốn.
Mỗi tác phẩm giống như một bài thơ mà mọi hình ảnh, sự vật, sự việc thường
được thi vị hóa nhưng vẫn giữ được vẻ giản dị, mộc mạc. Tác giả vốn được
biết đến là một con người tinh tế và nhạy cảm. Ông đã bộc lộ những xúc cảm
qua vốn ngôn ngữ phong phú mà trong sáng, giản dị, đời thường như chính
con người mình.
Đọc Hà Nội băm mươi sáu phố phường của Thạch Lam, chúng ta như
bị cuốn hút vào thứ ngôn ngữ tả tình, tả cảnh đặc sắc. Dưới ngòi bút của ông,
những thứ nhỏ nhặt, vô tri cũng có tâm hồn riêng, đời sống riêng nhưng lại rất
gần gũi với đời sống thường ngày. Khi miêu tả, ông sử dụng đa phần là từ
thuần Việt, đơn giản, dễ hiểu. Từ “những phố gạch thẳng, rộng rãi, với từng
dãy nhà giống nhau đứng xếp hàng” [6,13], “cho đến cả ba chữ “Ngọc Sơn
Tự” bằng sắt, dán trên một tấm lưới cũng sắt, và có hoa lá cũng sắt nốt”.
Hay những bóp cảnh sát được tác giả ví “như là một cái hòm vuông bốn góc
thẳng cạnh, có cửa vào (tất nhiên) và cửa sổ” [6,18]. Viết về kiến trúc cảnh
quan nhưng Thạch Lam lại mô tả qua những ngôn từ rất đời thường, những
người không am hiểu về lĩnh vực này cũng có thể dễ dàng hình dung ra. Đặc
biệt hơn khi tái hiện những thức quà Hà Nội, Thạch Lam đã cho thấy sự khéo
léo trong việc sử dụng ngôn từ, bình dị mà tao nhã. Khi nhận xét về món ăn,
ông thường đưa vào những câu nói rất đời thường như: “ngon mà đậm thế”,
“Ờ, cái xôi vừng mỡ… Mà có đắt gì đâu!”, “Chả còn gì ngon hơn bát phở
45
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
như thế nữa”, “Tưởng đắt hàng là phải”,… Những người bán hàng hiện lên
trong trang văn của Thạch Lam với tất cả những nét giản dị, tác giả gọi tên họ
gắn với mặt hàng họ buôn bán hoặc tên phố họ sinh sống, làm ăn hay dấu hiệu
nhận biết đặc trưng về họ. Đó là bà già trên Yên Phụ, bà đội thúng ngô, cô
hàng cơm nắm, anh phở Trọc, anh phở Bêrê, anh phở Mũ dạ, anh phở Cao,
cô hàng bún ốc, người bán hàng lục tàu xá, người bán chè sen, cô gái
Vòng,… Khắc họa cuộc sống buôn bán nhưng Thạch Lam không sử dụng
ngôn ngữ chát chúa, gay gắt, xô bồ mà rất giản dị, đời thường. Ông lựa chọn
những ngôn từ giản dị, trong sáng nhưng sâu lắng, đằm thắm, thấm đượm tình
người khi ngợi ca những giá trị văn hóa truyền thống của người Hà Nội xưa.
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Thạch Lam rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Hà Nội xưa. Trong tác phẩm xuất hiện nhiều từ mang tính
khẩu ngữ nhưng có tính biểu cảm cao như: gớm, úi chà, đấy tôi lạ gì, hẳn vậy,
tất nhiên, chết thật,… Ngôn ngữ thân thuộc, giản dị khiến người đọc cảm
nhận những vẻ đẹp văn hóa Hà Nội xưa rất chân thực.
Với Hà Nội, một chốn rong chơi, M. Rama cho rằng: “Đây không
phải một cuốn sách mang tính học thuật, cũng không hẳn là một cuốn cẩm
nang, mà là những ghi chép của cá nhân tôi. Tác phẩm được xây dựng bởi
tình yêu của tôi dành cho Hà Nội. Bản dịch ra tiếng Việt cũng chính là bản
dịch đầu tiên của tác phẩm, mà tôi dành tặng cho chính những người Hà
Nội”. Tác giả yêu Hà Nội, yêu Việt Nam và ông muốn đem món quà được
làm từ tất cả tình yêu, lòng nhiệt thành gửi tặng đến những người trên dải đất
hình chữ S này. Ông gọi Hà Nội là “nàng” một cách đặc biệt và trìu mến. Với
nhà văn, Hà Nội giống như một người con gái đẹp mà người ta dễ dàng bị
quyến rũ bởi sự duyên dáng, không lí giải được. Tuy ngôn từ Rama sử dụng
trong tác phẩm Hà Nội, một chốn rong chơi ít nhiều thiên về ngôn ngữ
chuyên ngành hơn nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự dung dị trong
46
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
ngôn từ khi ông tái hiện lại lối sống của người Hà thành hiện đại. Ông am
hiểu văn hóa người Hà Nội, sử dụng khá linh hoạt và hợp lý những từ ngữ
khắc họa nhịp sống sinh hoạt thường ngày của người Hà Nội. Ông miêu tả rất
sinh động cuộc sống thường nhật của người dân thủ đô: “giao thông ở đây là
một mớ hỗn độn. Nhưng nó giống như một dòng sông, nhẹ nhàng chảy và
luồn lách qua các chướng ngại vật. Người đi bộ muốn băng qua đường, chỉ
cần hòa mình vào cái dòng chảy ấy, và bước đi, chậm mà dứt khoát”, “những
công trường xây dựng hai bên hè phố cũng hỗn độn không khác gì giao thông
dưới lòng đường”, “hè phố… ngoài việc là một bãi đỗ xe ngẫu hứng… còn là
nơi diễn ra vô số những sinh hoạt mà ở nơi khác người ta chỉ thực hiện trong
nhà. Nấu nướng, và trên hết là ăn uống” [10,26],… Nhịp sống gấp gáp, vội
vã của những con người hiện đại được thể hiện sinh động dưới ngòi bút của
tác giả. M. Rama gây ấn tượng khi tái hiện lại khoảnh khắc yêu đương của
người Hà Nội: “trên cuốc xe lãng mạn, nếu nàng cầm lái sẽ hợp lí hơn…
chàng có thể ôm trọn nàng từ phía sau, tay đặt hờ lên hông nàng, mân mê sợi
dây gợn lên từ đồ lót của nàng và mơ màng đến những giây phút gần gũi hơn
nữa.” [10,65]. Dưới con mắt của tác giả, đôi lứa thể hiện tình yêu muôn màu
muôn vẻ ở bất cứ đâu, “chỉ một chiếc xe cà tàng” mà chàng chở nàng đi khắp
phố. Không thể phủ nhận tài năng quan sát và sử dụng ngôn ngữ khiến tác
phẩm của Rama hiện ra trước mắt người đọc thật sinh động. Ông miêu tả cuộc
sống sinh hoạt thông qua những từ ngữ gần gũi, quen thuộc của người dân địa
phương: khu ổ chuột, gia đình tiên tiến, tăng gia,… hay cách miêu tả đầy chất
tạo hình: buồn bã và hom hem, tất bật trên chiếc xe máy, mù mịt khói xe và
bụi đường, chồng lên nhau bất tận trông chẳng khác bãi rác chiều thẳng
đứng,… Tác giả thông thạo cách sử dụng ngôn ngữ của người Việt, tạo nên
các hình ảnh thân thuộc với cuộc sống thường nhật.
47
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Không chỉ sử dụng ngôn ngữ đời thường, giản dị, Thạch Lam và M.
Rama cũng thể hiện sự chọn lọc và trau chuốt ngôn từ trong tác phẩm của
mình. Nhà phê bình Văn Giá đã từng nhận xét: “Trước miếng ăn, Thạch Lam
như một thi nhân” [14,68]. Nhà văn như rong ruổi khắp nẻo đường, con phố
Hà Nội, quan sát, ngắm nghía, nếm thử rồi ngẫm nghĩ về những thức quà kì
diệu. Nói như Khái Hưng, ông là “một nghệ sĩ về khoa thẩm vị”. Ông đặc tả
một cách kĩ lưỡng, tinh tế và gợi cảm từng món ăn từ hình thức đến hương vị
của nó. Với tác giả, những cái tầm thường, nhỏ nhặt được “khoác lên bộ áo
nghệ thuật”. Ẩm thực không chỉ là thức ăn mà còn là thứ để chiêm ngưỡng,
ngắm nhìn và ngợi ca bởi nó chứa đựng bao tinh hoa văn hóa. Cách miêu tả
khéo léo nhưng sắc sảo của Thạch Lam khiến người dù chưa có cơ hội nếm
thử món ngon Hà Nội cũng như đang được thưởng thức và say đắm với
hương vị của nó thông qua những từ ngữ mang tính gợi hình.
M. Rama không đi sâu vào ẩm thực Hà Nội nhưng lại viết rất hay về
kiến trúc cảnh quan đường phố Hà Nội với ngôn ngữ sắc bén, chuẩn xác. Đọc
những trang văn của ông, ta như đi vào một công trình nghiên cứu khoa học
thực thụ. Rama đề cập đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội nhưng không xô
bồ mà được sắp đặt, lí giải hệ thống bằng kiến thức khoa học. Tác giả am hiểu
tường tận về những phong cách kiến trúc, từ nguồn gốc, sự hình thành, phát
triển ở Việt Nam và các trào lưu, ảnh hưởng tới cảnh quan Hà Nội. Ở những
chương đầu tiên, ông sử dụng các từ ngữ chuyên ngành kiến trúc cảnh quan
như Art Déco để nói về nghệ thuật trang trí; phong cách Beauxt Arts khi thể
hiện sự ảnh hưởng của mĩ thuật tới kiến trúc đường phố, nhà ở; phong cách
Neo - regional khi bàn luận về những căn biệt thự phố cổ;… Thông qua sự
xuất hiện dày đặc những từ ngữ như: ý tưởng, họa tiết, thiết kế, phong cách
kiến trúc, mĩ thuật ứng dụng,… trước mắt người đọc, tác giả như một chuyên
gia về kiến trúc cảnh quan. Với cách sử dụng ngôn ngữ sắc bén, chuẩn xác,
48
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Rama đưa người độc giả đến sự hình dung rõ nét hơn về các công trình ghi
dấu thời đại, lịch sử, văn hóa.
Sự sáng tạo không ngừng và sức ảnh hưởng của chữ Quốc ngữ thể hiện
qua những trang văn của Hà Nội băm mươi sáu phố phường. Đây chính là
chất liệu để Thạch Lam tạo nên một kiệt tác. Qua đó, ông đưa tiếng Việt lên
một tầm cao mới với nhiều biểu hiện phong phú và đa dạng. Thạch Lam
dường như tách biệt hoàn toàn với ngôn ngữ văn chương vay mượn, mang
tính quy phạm, ước lệ tượng trưng, vượt qua rào cản của sự giao thoa ngôn
ngữ trong giai đoạn giao thời, góp phần vào công cuộc hiện đại hóa văn học
nước nhà. Với Martín Rama, bằng cái nhìn rộng mở và tình yêu Hà Nội đã
giúp ông rất thành công trong việc diễn đạt ngôn từ chuẩn xác, tinh tế.
3.3. Giọng điệu
Giọng điệu là yếu tố quan trọng tạo nên tính hấp dẫn cho tác phẩm và
góp phần hình thành phong cách nhà văn. Theo Từ điển thuật ngữ văn học:
“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn
đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng
hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ gần xa, thân, sơ, thành
kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [5,80]. Đọc Hà Nội băm mươi
sáu phố phường và Hà Nội, một chốn rong chơi ta bắt gặp nhiều giọng điệu
khác nhau, khi thì nhẹ nhàng, thủ thỉ, tâm tình, lúc lại hóm hỉnh, hài hước,
ngợi ca, tự hào.
Trước hết là giọng điệu thủ thỉ, tâm tình. Văn phong của Thạch Lam
giống như những ý thơ đẹp, nhẹ nhàng đi vào lòng người. Ông miêu tả mỗi
món ăn giống như một bài thơ trữ tình bằng văn xuôi mà hòa quyện, lắng
đọng trong từng câu chữ. Đó là khi ông miêu tả về Cốm: “cái mùi thơm phức
49
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
của lúa mới, của hoa cỏ dại ven bờ: trong màu xanh của cốm, cái tươi mát
của lá non, và trong chất ngọt của cốm, cái dịu dàng, thanh đạm của loài
thảo mộc. Thêm vào đó cái mùi hơi ngát của lá sen già…” [6,50]. Những
đoạn văn nói về chợ mát ban đêm: “những gánh hàng nặng trĩu và kẽo kẹt
trên vai, theo cái đưa đẩy có nhịp của bước đi… những thức hàng mong manh
ấy không thể đợi được ánh sáng gay gắt của ban ngày để mà héo úa…”.
Giọng văn của Thạch Lam nhỏ nhẹ như một lời thủ thỉ của thiếu nữ đang tâm
tình với người thương khi miêu tả những người lao động bình dân “cứ trông
cái thân người uốn cong dưới gánh nặng, chúng ta biết ngay là những người
cần lao và chịu khó, quen đi với những công việc nhọc nhằn, và nhẫn nại, ít
nói trên mẩu đất” [6,61]. Đó là hình ảnh của bà đội thúng ngô, “tay thủ vào
cái áo bông”, cô hàng ốc “tóc vấn gọn, áo nâu mới, quần sồi thâm”, bà phở
gánh trong nhà thương tốt bụng,… Nhà văn thông qua cách nói thủ thỉ, tâm
tình bộc lộ sự trân trọng, yêu mến những vẻ đẹp bình dị, mộc mạc.
Trong Hà Nội một chốn rong chơi M. Rama thể hiện giọng điệu tự
hào, chân thành: “Theo một cách nào đó, thời tiết Hà Nội giống như tính
cách một cô gái, xinh đẹp nhưng khó tính”, “mùa thu cũng là mùa cưới ở Hà
Nội” khi mà khắp những phố phường là hình ảnh của các cô dâu, chú rể “váy
áo lộng lẫy… để ghi lại tình yêu và hạnh phúc”, “ban ngày cuộc sống phơi
bày trên hè phố, còn ban đêm thì tình yêu lại thăng hoa trên yên xe”,… Giữa
cái xô bồ, náo nhiệt của kẻ bán, người mua, tác giả nhẹ nhàng khẳng định:
“chắc chắn là chợ truyền thống luôn có sức sống bền bỉ và mãnh liệt, vì đó là
nơi người ta gặp nhau và trò chuyện”. Ông viết về Hà Nội như giống như
đang tâm sự với một người con gái Hà thành đẹp, duyên dáng. Bởi thế, ông
gọi thành phố một cách thân mật, trìu mến là “nàng”. Chính tình yêu và sự
gắn bó với Hà Nội là dòng chảy xuyên suốt để tác giả viết nên những lời văn
tràn đầy cảm xúc tâm tình.
50
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Ngay từ đầu tác phẩm, Rama đã khẳng định: “Cuốn sách này là sản
phẩm của tình yêu”. Dưới con mắt của ông, thủ đô hiện lên theo chiều dài của
lịch sử, qua những không gian, kiến trúc độc đáo được ghi lại bằng sự tự hào.
Từ những hình ảnh giản dị như hè phố, vườn hoa, công viên, những con
đường rợp bóng mát đều được ông trân trọng: “Hà Nội xanh hơn rất nhiều
thành phố khác ở Đông Á”. Cũng giống như nhà văn Nguyễn Tuân, ông đánh
giá phở là món ăn tinh tế, “quốc hồn quốc túy”. Những hình ảnh đời thường
của thành phố đều khiến tác giả trân quý và tự hào. Đó là các kiểu kiến trúc
pha trộn từ nhiều phong cách khác nhau nhưng vẫn in dấu nhiều giá trị truyền
thống, là những xe hoa của người bán hàng rong vẫn miệt mài tô điểm cho
thành phố thêm rực rỡ, thơ mộng. Với giọng điệu chân thành, chan chứa tình
cảm, ta thấy Rama như là một người con gắn bó thân thiết với Hà Nội. Nếu
M. Rama bày tỏ niềm tự hào qua kiến trúc, không gian văn hóa hiện đại xen
lẫn cổ xưa của phố phường Hà Nội thì Thạch Lam lại thể hiện sự tự hào lắng
đọng, đúc kết ở các thức quà. Nhà văn say sưa kể, miêu tả tỉ mỉ hình thức,
hương vị của từng thức quà. Ông yêu quà và yêu cả những người làm quà,
người bán quà. Cùng với Rama, Thạch Lam cũng tự hào, dành nhiều lời ca
tụng cho phở - món ăn được coi là “quốc hồn quốc túy”. Trong những trang
văn của ông, ẩm thực Hà Nội hiện lên đa dạng, phong phú, mỗi món ăn là một
câu chuyện riêng, hương vị riêng, ý nghĩa riêng. Viết về Cốm, Thạch Lam
cho rằng đây là “thức quà riêng biệt của đất nước, là thức dâng của những
cánh đồng lúa bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản
dị và thanh khiết của đồng quê nội cỏ Việt Nam” [6,49]. Từ hàng bún ốc, bún
chả, bánh cuốn, hàng xôi, hàng nước… đến những thức quà giản dị như cơm
nắm, giầy giò, bánh dẻo Cự Hương, bánh bột lọc, bánh khảo, kẹo lạc,… tất cả
đều hiện lên qua giọng điệu trân trọng, yêu mến, ngợi ca. Thạch Lam đang
51
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
mang tình yêu Hà Nội đến cho người đọc bằng tấm lòng chân thành, giọng
điệu tự hào cùng lối dẫn dắt hấp dẫn, tài tình.
Đọc Hà Nội băm mươi sáu phố phường, ta thấy thấy giọng điệu thủ
thỉ, tâm tình, niềm tự hào, ngợi ca mà còn nhận ra giọng điệu hài hước, hóm
hỉnh, tươi vui khi tác giả kể về nhừng thức quà. Cũng nói về Cốm, Thạch Lam
có đoạn viết: “Hỡi các bà mua hàng! Chớ có thọc tay hay mân mê thức quà
thần tiên ấy…” [6,50]. Hay khi miêu tả “miến lươn là thức quà bổ âm, nhiều
người bảo thế. Đàn ông thì không hay tin, nhưng đàn bà thì dễ tin lắm…
nhiều ông chồng không thích ăn lươn, mà vẫn bị các bà vợ ép cho ăn”. Nhà
văn còn hóm hỉnh khi cho rằng: “Tình nghĩa đằm thắm của vợ chồng, đôi khi
có thể lấy ít nhiều miến lươn mà đo được” [6,29]. Người đọc cũng bắt gặp
những trang văn mang giọng điệu hài hước, hóm hỉnh trong Hà Nội, một
chốn rong chơi của M. Rama. Dưới con mắt của ông, Hà Nội đông đúc, chật
kín như mắc cửi, giao thông hỗn loạn, những chiếc xe chuyển được ví “như
một dòng sông, nhẹ nhàng chảy và luồn lách qua các chướng ngại vật”.
Người lái xe tham gia giao thông “làm chủ động tác như trong các động tác
ba lê của các kỵ sĩ thành Vienna” [6,27]. Cuộc sống đời thường của người
dân Hà Nội được khắc họa qua những nét vẽ hài hước “thích được ăn uống
trên hè phố hơn là trong những căn phòng chật chội của họ ở phố cổ”, trong
khi những người bán hàng rong vẫn làm công việc của mình thì “những bà
mẹ vẫn đang cho con bú, những người đàn ông vẫn ngồi đánh cờ tướng,
những cụ già vẫn đi dạo trong bộ quần áo ngủ” [6,28]. Khi tìm hiểu lịch sử,
nguồn gốc các loại hình kiến trúc hay lúc nói về các công trình kiến trúc như
văn miếu, nhà hát lớn, Rama thể hiện thái độ trang trọng, nghiêm túc, khách
quan còn khi phác họa hình ảnh của những khu tập thể, ông lại miêu tả chúng
“trông hom hem và buồn bã” nhưng “vẫn khác biệt và rất Việt Nam”. Ông
còn có những phát hiện rất thú vị khi nói quy định đội mũ bảo hiểm đã “can
52
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
thiệp vào câu chuyện tình yêu lãng mạn”. Những “đôi tình nhân vội vã trao
nhau nụ hôn trong góc khuất… với mũ bảo hiểm vẫn đội trên đầu!” [10,66].
Những mảnh ghép cuộc sống thường nhật của người dân thử đô hiện lên qua
giọng điệu hài hước nhưng bao dung, yêu mến của một tác giả người nước
ngoài. Chúng ta cảm nhận được sự hài hước qua giọng điệu, trong từng câu
văn nhưng nó không phải là tiếng cười trào phúng, phê phán, ngược lại nó
góp phần xua tan đi những mệt mỏi, lo toan của cuộc sống, khiến ta yêu mến
hơn thành phố của mình. Cả hai tác giả Thạch Lam và M. Rama qua những
trang văn đều bộc lộ một tình yêu Hà Nội nồng nàn, tha thiết. Họ cảm nhận
những phương diện của đời sống bằng cả trái tim chân thành, chan chứa tình
cảm dành cho thủ đô ngàn năm văn hiến.
Sự kết hợp đa dạng các loại giọng điệu là một trong những yếu tố góp
phần làm nên thành công của hai tác phẩm Hà Nội băm mươi sáu phố
phường và Hà Nội, một chốn rong chơi. Qua đó, chúng ta thấy được tài
năng, sự khéo léo, tinh tế của hai tác giả khi tái hiện một cách chân thực, gần
gũi những không gian văn hóa đậm chất Hà Nội.
53
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
KẾT LUẬN
1. Hà Nội xưa dù nhỏ bé vẫn là đô thị hàng đầu, trung tâm giao lưu
chính trị - kinh tế - văn hoá lớn nhất của đất nước nên cũng là nơi tập trung,
kết tinh những gì đẹp nhất, tinh hoa nhất. Mảnh đất lịch sử nghìn năm này là
nơi hội tụ khí thiêng dân tộc đã hun đúc và luyện nên nét tinh tế của người Hà
Nội. Sống nơi thị thành, được tiếp xúc, giao lưu kinh tế, văn hóa đa dạng,
người Hà Nội thường toát lên sự lịch lãm, ăn nói có duyên, thân thiện, hoạt
bát. Đó chính là những nét văn hóa riêng, đáng quý. Những phẩm chất tốt đẹp
đó của người Hà thành được hội tụ, chắt lọc từ mọi miền đất nước và là thành
quả kết tinh từ các nền văn hóa. Quá trình hội nhập giao lưu văn hóa bốn
phương đã tạo cho con người nơi đây tính cách vừa thuần hậu, lịch sự, vừa
hào hoa, phong nhã, mang đậm phong cách riêng biệt.
2. Văn hóa Hà Nội trong sự thanh lịch trong những điều bình dị nhất ở
chốn Hà Nội, được Thạch Lam nhìn ngắm và trân trọng. Nó mang một dáng
vẻ rất dung dị mà cũng rất tình trong từng câu chữ. Người con của đất Hà
thành đôi khi cũng không khỏi xót xa vì những nét đẹp văn hóa đã dần mai
một. Bởi cuộc sống vốn dĩ là dòng chảy không ngừng. Những điều Thạch
Lam nhắc đến, cái còn, cái lùi vào dĩ vãng nhưng vẻ đẹp của nó, ít nhất là với
những người đang sống, đã trót yêu, hay những người dù đi xa vẫn nặng lòng
với mảnh đất kinh kỳ thì vẫn luôn còn đó, lặng lẽ và tỏa ra thứ ánh sáng rất
riêng. Đất Tràng An, người Tràng An hay hồn Tràng An vẫn in đậm trong
tâm trí bao thế hệ. Cuốn sách xinh xắn với hơn 100 trang giấy nhưng cho đến
nay, khi nói đến thủ đô với những tác phẩm thể hiện được tinh hoa, vẻ đẹp
của Hà Nội, người ta vẫn nhắc đến Hà Nội băm sáu phố phường cùng sự trân
trọng, yêu mến đặc biệt. “Càng ngày, với thời gian, cuốn sách càng thể hiện
một triết lý sâu sắc về nhân sinh rằng những gì đã qua sẽ không bao giờ trở
54
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
lại, rằng những điều đó đẹp và lắng động trong tâm hồn con người”. Thạch
Lam chính là người chắt lọc tất cả cái tinh hoa, cái vẻ đẹp, cái đang trôi qua,
cái đang dần mất. Hơn bảy mươi năm trôi qua, tác phẩm Hà Nội băm mươi
sáu phố phường vẫn là món quà vô giá của một tình yêu Hà Nội lớn lao gửi
tặng cho những ai đã, đang và sẽ gắn bó với mảnh đất này. Trong tác phẩm,
Thạch Lam đã tái hiện bức tranh Hà Nội với những gì chân thực, bình dị nhất
trong những năm đầu thế kỉ XX. Nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp
chốn đô thành dưới con mắt nhìn tinh tế và sự nâng niu, trân trọng những nét
đẹp văn hóa.
3. Hà Nội, một chốn rong chơi của Rama lại giúp người đọc hình dung
một cách trọn vẹn về một thành phố hiện đại, đang trên đà phát triển. “Hà Nội
vẫn luôn là một thành phố đáng sống, hơn thế nữa, đó còn là một thành phố
rất đáng yêu”. Với Martín Rama, diện mạo Hà Nội không chỉ là vẻ đẹp đáng
ngợi ca, trân trọng mà còn gợi lên cho người đọc những xúc cảm, suy tư về
các giá trị truyền thống đang có nguy cơ bị mai một, ảnh hưởng bởi cơ chế thị
trường và những biểu hiện du nhập từ phương Tây. Thủ đô hiện lên dưới con
mắt của M. Rama vừa hiện đại vừa cổ xưa, vừa sôi động vừa yên tĩnh và nơi
đây vẫn luôn là một thành phố tiềm năng, khác biệt và đáng sống.
4. Cùng khai thác một đề tài nhưng mỗi tác giả lại lựa chọn những
điểm nhìn, ngôn ngữ, giọng điệu khác nhau tạo nên những trang văn hấp
dẫn. Nếu như Thạch Lam nhẹ nhàng, lắng đọng, đem đến cho người đọc
cảm giác thư thái, cuốn hút thì M. Rama lại gây ấn tượng với cách sử dụng
ngôn ngữ linh hoạt, giọng điệu khi thì chân thành, ngợi ca, lúc lại hài hước,
dù ở khía cạnh nào ông cũng là một cây bút am hiểu. Cả hai nhà văn cùng
với tài năng của mình đã tạo nên những tác phẩm đặc sắc, để lại dấu ấn đẹp
trong lòng bạn đọc. Thông qua góc nhìn về văn hóa Hà Nội của Thạch Lam
và Martín Rama, chúng ta cảm thấy yêu mến hơn thủ đô ngàn năm văn hiến.
55
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
Đồng thời, ta trân quý tình cảm, sự cống hiến của hai con người yêu say đắm
mảnh đất Hà thành, mong muốn những giá trị văn hóa truyền thống được gìn
giữ và phát huy.
56
Văn hóa Hà Nội qua góc nhìn của Thạch Lam và Martín Rama
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (2007), Thạch Lam về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
2. Vũ Bằng (2014), Miếng ngon Hà Nội, Nxb Nhã Nam
3. Nguyễn Đăng Điệp (2010), Tuyển tập kí – tản văn Thăng Long Hà Nội,
Nxb Hà Nội
4. Văn Giá (2000), Vũ Bằng bên trời thương nhớ, Nxb Văn hóa thông tin
5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn
học Việt Nam, Nxb Giáo dục
6. Thạch Lam (2016), Hà Nội băm mươi sáu phố phường, Nxb Văn học
7. Thạch Lam (2015), Tuyển tập Thạch Lam I, Nxb Văn học
8. Hoàng Phê (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
9. Đặng Huy Phương (2010), Vấn đề ẩm thực dưới góc nhìn văn hóa trong
sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, luận văn thạc sĩ, Đại học
Vinh
10. Martín Rama (2015), Hà Nội, một chốn rong chơi, Nxb Thế Giới
11. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Nxb Văn học,
Hà Nội
12. Thiên Thanh (2015), Hà Nội, một chốn rong chơi: Cuộc dạo chơi của
chuyên gia kinh tế, báo truyenhinhthanhnien.vn
13. Vũ Viết Tuân (2014), Hà Nội quyến rũ như hương vị của phở, báo
tuoitre.vn
14. Linh Thư (2015), Gà gáy, loa phường và sự phải lòng Hà Nội, báo
vietnamnet.vn