KIẾN THỨC THÁI ĐỘ THỰC HÀNH PHÒNG NGỪA LÂY
NHIỄM Ở THÂN NHÂN CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV/AIDS
TÓM TẮT
Mục tiêu Xác định tỉ lệ người thân đang sống chung với người nhiễm
HIV/AIDS có kiến thức, thái độ, và thực hành đúng trong phòng ngừa
HIV/AIDS.
Thiết kế nghiên cứu Cắt ngang mô tả
Địa điểm Huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang
Phương pháp Tất cả những người thân ở độ tuổi ≥ 15 tuổi đang sống
chung một nhà với người đang nhiễm HIV/AIDS, trong năm 2005.
Kết quả Nguồn thông tin về phòng lây nhiễm HIV/AIDS mà đối
tượng tiếp cận nhiều nhất là truyền hình (90,77%). Đối với kiến thức về
đường lây, khả năng điều trị, phòng lây nhiễm HIV, phần lớn đều sai. Thái
độ chấp nhận các biện pháp phòng lây nhiễm là rất cao như về bao cao su
trong quan hệ tình dục (87,69%), sử dụng các dụng cụ cá nhân (≥90%), đối
xử với người thân bị nhiễm (78,46%). Thực hành đúng trong phòng lây
nhiễm là tốt, nhưng an toàn trong quan hệ tình dục ngoài hôn nhân là chưa
cao. Những yếu tố liên quan đến thực hành đúng là nam giới, tuổi từ 40 trở
lên, học vấn trên lớp 5, và kiến thức đúng (ở nhóm trình độ học vấn từ lớp 5
trở xuống).
Kết luận Giáo dục sức khỏe cần được tăng cường nhiều hơn nữa cho
những thân nhân của người nhiễm HIV/AIDS, trong đó, đẩy mạnh vai trò
của nhân viên y tế, đặc biệt trong tương lai, khi người nhiễm nói riêng và
cộng đồng nói chung có nhu cầu tư vấn về HIV/AIDS.
ABSTRACT
Objective To identify the proportion of relatives living together with
HIV/AIDS subjects having correct knowledge, attitude, and practices in
prevention of HIV/AIDS.
Study design Descriptive cross-sectional study
Setting Tinh Bien district, An Giang province
Methods All the relatives living together with HIV/AIDS subjects,
aged 15 years and above, in 2005.
Results The most accessible source of information of HIV/AIDS
prevention was television (90.77%). Most of the study subjects had incorrect
knowledge about HIV/AIDS regarding route of transmission, curability, and
measures of prevention. Positive attitudes toward measures of prevention
were high, such as using condom (87.69%), not sharing personal utensils
(≥90%), treating the infected relative (78.46%). Practices were proper in
many of preventive measures, but not safe sex in illegitimate relationship.
Factors associated with correct practices were male, aged 40 years and
above, having educational level above grade 5, and having correct
knowledge (among the group of educational level lower than grade 5).
Conclusion Health education needs to be intensified among relatives
of HIV/AIDS subjects, and the role of health professionals has to be
strengthened to be ready for the future when more HIV/AIDS counseling is
needed by the community.
Đặt vấn đề
An Giang là tỉnh đứng hàng thứ 5 trong số 10 tỉnh có số trường hợp
người nhiễm HIV/AIDS cao nhất nước. Từ năm 1993 đến nay, luỹ tích số
trường hợp nhiễm HIV/AIDS là 5.858, trong đó có 2.635 đã chuyển sang
AIDS, số tử vong do AIDS là 2.192. Những trường hợp nhiễm HIV/AIDS
là ở nhóm tuổi 15-49, cao nhất ở nhóm 20-39 [1]. Tịnh Biên là 1 trong 5
huyện biên giới, có một cửa khẩu quốc tế tại xã Xuân Tô, thông thương qua
lại với Campuchia, nơi có tần suất nhiễm HIV/AIDS rất cao trong khu vực
Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương. Tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS (lưu hành
độ/ 10.000 dân) của Tịnh Biên đứng hàng thứ 7/11 huyện thị trong toàn tỉnh.
Theo thống kê của Đội Y Tế Dự Phòng huyện Tịnh Biên, từ 4 trường hợp
nhiễm HIV đầu tiên vào năm 1996, đến ngày 31/12/2004 đã có 224 trường
hợp phát hiện nhiễm HIV, chuyển sang AIDS 188 trường hợp, trong đó đã
chết 147 trường hợp. Dịch xuất hiện ở 12 xã, 2 thị trấn trong toàn huyện, và
phát triển theo xu hướng tăng dần. Các trường hợp nhiễm HIV/AIDS đa số
tập trung vào giới lao động chân tay (86,16%, trong đó bốc vác, làm mướn
27,97%, làm ruộng 26,42%), và thất nghiệp là 9,37% (Nguồn số liệu báo
cáo thống kê năm 2004 của Đội YTDP huyện Tịnh Biên – An Giang). Hành
vi lây nhiễm đa số là do quan hệ tình dục (72,32%). Hoạt động mãi dâm lén
lút vẫn còn tồn tại ở một số nơi không kiểm soát được, mặc dù chính quyền
địa phương đã cương quyết triệt phá. Đặc biệt là sự hoán chuyển liên tục đối
tượng gái mãi dâm từ các nơi khác ở ngoài địa phương đến Tịnh Biên, trong
đó có cả gái mãi dâm từ Campuchia về, góp phần tăng nguy cơ lây nhiễm.
Với số trường hợp mắc mới tăng theo từng năm cho thấy nguy cơ lây
nhiễm trong cộng đồng huyện Tịnh Biên rất cao. Đặc biệt đáng quan tâm là
những người thân trong gia đình người nhiễm HIV/AIDS, bởi họ là những
người tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm nên sự thiếu kiến thức kèm theo
thái độ, thực hành không đúng sẽ là yếu tố nguy cơ lây nhiễm. Đã có nhiều
công trình nghiên cứu và can thiệp trên các đối tượng nguy cơ cao như mãi
dâm, ma túy, tiếp viên nhà hàng, v.v., tuy nhiên, hầu như chưa có trên đối
tượng người thân trong gia đình người bị nhiễm HIV/AIDS. Điều tra kiến
thức, thái độ, thực hành của người thân đang sống chung với người nhiễm
HIV/AIDS là vấn đề ưu tiên trong công tác phòng chống HIV/AIDS hiện
nay ở huyện Tịnh Biên. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định tỉ lệ
kiến thức, thái độ, và thực hành của người thân từ 15 tuổi trở lên đang sống
chung một nhà với người đang nhiễm HIV/AIDS, và các mối liên quan giữa
kiến thức, thái độ, và thực hành với các đặc tính của đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng và phương pháp
Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả trong năm 2005 tại huyện
Tịnh Biên, tỉnh An Giang, với mẫu là toàn bộ dân số mục tiêu (những người
thân đang sống chung một nhà với người đang nhiễm HIV/AIDS) hiện có
trong thời điểm điều tra. Có 65 trong tổng số 71 người thân được chọn với
tiêu chí đưa vào là từ 15 tuổi trở lên, thường trú trong gia đình, đang sống
chung với người nhiễm HIV tại huyện Tịnh Biên vào thời điểm điều tra; và
tiêu chí loại ra là không có mặt ngay thời điểm điều tra, không có khả năng
giao tiếp (bệnh tâm thần, câm điếc, các bệnh trong giai đoạn nặng), hoặc từ
chối phỏng vấn. Dữ kiện được thu thập bằng cách phỏng vấn trực tiếp với
một bộ câu hỏi soạn sẵn. Các biến số nghiên cứu gồm có nguồn thông tin,
kiến thức (về điều trị, đường lây, và phòng lây nhiễm HIV/AIDS); thái độ
(về việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, sử dụng
các dụng cụ cá nhân, đối xử với người thân bị nhiễm), và thực hành (về quan
hệ tình dục, các dụng cụ cá nhân). Thực hành đúng về quan hệ tình dục là
không quan hệ tình dục, hoặc nếu có thì luôn luôn dùng bao cao su, về các
dụng cụ cá nhân thì luôn luôn dùng riêng. Những biến số đặc tính của đối
tượng nghiên cứu gồm có nhóm tuổi, giới, trình độ học vấn, nghề nghiệp,
mối quan hệ với người nhiễm.
Dữ kiện được phân tích với phần mềm STATA 8. Kiến thức, thái độ,
và thực hành của bệnh nhân được mô tả bằng tần số và tỉ lệ. Phép kiểm chi
bình phương được sử dụng để so sánh các tỉ lệ. Mức độ kết hợp giữa kiến
thức, thái độ với thực hành được ước lượng bằng tỉ số số chênh (OR), và
khoảng tin cậy (KTC) 95%, kiểm soát theo các đặc tính nền của đối tượng
nghiên cứu, với phương pháp phân tích đa biến hồi qui logistic.
Kết quả
Bảng 1. Những đặc tính của mẫu nghiên cứu, tần số và (%)
Đặc tính Tần
số (%)
Tuổi 15 – 39 36
(55,38)
Giới 30
Nam (46,15)
Học vấn ≤ lớp 38
5 (53,52)
Nghề Tự do 55
(84,62)
Theo giờ 10
hành (15,38)
chánh
Quan hệ với
người nhiễm
Vợ, chồng 14
(21,54)
Khác 51
(78,46)
Bảng 2. Các nguồn truyền thông tiếp cận, tần số và (%)
Tần
số (%)
Kênh truyền thông
59 Truyền hình
(90,77)
27 Phát thanh
(41,54)
10 Báo chí
(15,38)
13 Pa nô, áp phích, tờ rơi
(20,00)
12 Trường học
(18,46)
Gia đình, bạn bè 18
(27,69)
Nhân viên y tế 30
(46,15)
Bảng 3. Kiến thức đúng về phòng lây nhiễm, tần số và (%)
Loại kiến thức Tần
số (%)
Đường lây 23
(35,38)
Khả năng điều trị 26
(40,00)
Phòng lây nhiễm 22
HIV (33,85)
Kiến thức chung 31
đúng (47,69)
Bảng 4. Thái độ chấp nhận đối với các biện pháp phòng lây nhiễm,
tần số và (%)
Lọai thái độ Tần
số (%)
Luôn luôn sử dụng 57
bao cao su trong quan hệ (87,69)
tình dục
Sử dụng riêng bàn 60
chải răng (92,31)
Sử dụng riêng dao 60
cạo râu (92,31)
Sử dụng riêng kềm 59
cắt móng (90,77)
Gần gũi, tiếp xúc với 54
người thân bị nhiễm (83,08)
An ủi, động viên 57
người thân bị nhiễm (87,69)
Đối xử chung với 51
người thân bị nhiễm (78,46)
Thái độ chung đúng 55
(84,62)
Bảng 5. Thực hành phòng lây nhiễm, tần số và (%)
Loại thực hành Tần
số
Có quan hệ tình dục 04
ngoài hôn nhân (11,10)
Sử dụng bao cao su 03
khi quan hệ tình dục ngoài (75,00)
hôn nhân
Đúng trong quan hệ 35
tình dục(n=36) (97,22)
Sử dụng riêng dao 27
cạo râu (ở nam)(n=30) (90,00)
Sử dụng riêng kềm 55
cắt móng tay (84,62)
Sử dụng riêng bàn 63
chải răng (96,92)
Thực hành chung 35
đúng (53,85)
Bảng 6. Các yếu tố liên quan đến thực hành, phân tích đa biến
Yếu OR p
tố (KTC
95%)
Kiến 22,71 0,02
thức đúng (ở (1,81-
nhóm học 284,61)
vấn ≤ lớp 5)
Có 3,42 0,36
thái độ chấp (0,24-
nhận các 47,07)
biện pháp
phòng lây
nhiễm
Nam 97,47 <
(10,24- 0,001
927,02)
Tuổi 0,08 0,02
dưới 40 (0,01-0,67)
Làm 0,62 0,76
nghề tự do (0,02-
14,08)
Không 1,71 0,61
phải vợ, (0,21-
chồng của 13,84)
người nhiễm
Học 61,09 <
vấn > lớp 5 (3,98-937,4) 0,01
Đa số đối tượng trong mẫu khảo sát là nữ, tuổi từ 15-39, học vấn ≤ lớp
5, làm nghề tự do, và quan hệ với bệnh nhân là thân nhân (Bảng 1). Nguồn
thông tin về phòng lây nhiễm HIV/AIDS mà đối tượng tiếp cận nhiều nhất là
truyền hình (90,77%) (Bảng 2). Đối với kiến thức (về đường lây, khả năng
điều trị, phòng lây nhiễm HIV) phần lớn đều sai, và tỉ lệ có kiến thức đúng
chung cũng thấp (Bảng 3). Kiến thức chung là đúng khi đối tượng là đúng
trong từng kiến thức riêng.
Thái độ chấp nhận các biện pháp phòng lây nhiễm là rất cao như về
bao cao su trong quan hệ tình dục (87,69%), sử dụng các dụng cụ cá nhân
(≥90%), đối xử với người thân bị nhiễm (78,46%) (Bảng 4). Thái độ chung,
khi có thái độ tích cực trong tất cả thái độ riêng lẻ, do đó, có tỉ lệ cao. Tỉ lệ
sử dụng riêng các dụng cụ cá nhân là trên 80% (Bảng 5). Có 4 người là nam
giới trong 65 đối tượng cho biết có quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, trong
đó, có 3 người luôn luôn sử dụng bao cao su. Với định nghĩa an toàn tình
dục là không quan hệ ngoài hôn nhân, hoặc nếu có thì luôn luôn sử dụng bao
cao su thì tỉ lệ thực hành tình dục an toàn là 97,22%. Khi đánh giá thực hành
chung trong phòng lây nhiễm HIV/AIDS, một đối tượng được coi là thực
hành đúng khi đúng trong tất cả thực hành riêng lẻ, do đó, tỉ lệ thực hành
chung là thấp. Những yếu tố tăng thực hành đúng là nam giới, tuổi từ 40 trở
lên, học vấn trên lớp 5, riêng ở nhóm trình độ học vấn từ lớp 5 trở xuống,
người có kiến thức đúng sẽ thực hành tốt hơn (Bảng 6).
Bàn luận
Nghiên cứu đã chọn tất cả những người thân của những người nhiễm
HIV/AIDS đang được quản lý tại huyện Tịnh Biên, An Giang trong năm
2005, là toàn bộ dân số mục tiêu của nghiên cứu. Nguồn thông tin từ đài
truyền hình chiếm tỉ lệ rất cao, ngược lại cán bộ y tế, cộng tác viên, và đài
truyền thanh thì quá thấp chứng tỏ hiệu quả sử dụng đa dạng các phương
tiện truyền thông chưa cao (Bảng 2). Điều này là quan trọng nếu người dân
cần tư vấn trực tiếp qua nhân viên y tế.
Khi khảo sát về kiến thức, đối tượng nghiên cứu được hỏi về đường
lây (quan hệ tình dục, đường máu, tiêm chích ma túy, mẹ truyền sang con),
HIV/AIDS là bệnh có thể được điều trị khỏi, và những biện pháp phòng lây
nhiễm như an toàn tình dục, sử dụng riêng những vật dụng cá nhân, v.v. Đây
là những kiến thức rất kinh điển được khảo sát trong rất nhiều nghiên cứu từ
trước đến nay [2] [3] [6] [7]. Tuy nhiên, tỉ lệ có kiến thức đúng là rất thấp
(Bảng 3). Điều này có thể được lý giải do trình độ học vấn phổ thông của đối
tượng nghiên cứu còn thấp (Bảng 1).
Hầu hết đối tượng nghiên cứu có thái độ rất tích cực đối với những
biện pháp phòng lây nhiễm HIV/AIDS (Bảng 4). Với vật dụng cá nhân,
người dân dễ chấp nhận sử dụng riêng vì đây là những vật dụng mà cá nhân
thường có riêng. Về thái độ đối xử với thân nhân bị nhiễm, tỉ lệ có thái độ
tích cực là cao, có thể vì người nhiễm là thân nhân đang sống chung trong
gia đình. Tỉ lệ này chưa tuyệt đối 100%, vì cho dù là người thân nhưng có
thể họ vẫn còn những nhìn nhận hạn chế về người nhiễm HIV/AIDS, hoặc
không hẳn họ đã hoàn toàn yên tâm về khả năng sẽ bị lây. Điều đáng quan
tâm nhất là tỉ lệ chấp nhận sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục ngoài
hôn nhân, dù cao, nhưng vẫn chưa tuyệt đối. Có thể chúng ta không đòi hỏi
an toàn tình dục là không quan hệ ngoài nhôn nhân, nhưng sử dụng bao cao
su trong tình huống đó là tuyệt đối quan trọng, vì đó là một trong những
đường lây chính của HIV/AIDS [4] [5] [8].
Tỉ lệ đúng của riêng từng loại thực hành là cao, tuy nhiên, thực hành tình
dục an toàn ở những người có quan hệ ngoài hôn nhân là không cao lắm, chỉ
75% (Bảng 5). Kết quả này có thể chưa chính xác, do sai lệch thông tin, vì quan
hệ tình dục ngoài hôn nhân là điều nhạy cảm. Kết quả phân tích đa biến (Bảng
6) cho thấy nam giới thực hành tốt hơn nữ, có thể, do lối sống phóng túng hơn,
quan hệ rộng hơn, nên nam giới nhận thức về nguy cơ của bản thân là cao hơn
nữ giới, từ đó, có nhiều thực hành đúng hơn. Người lớn tuổi, từ 40 trở lên,
người có trình độ học vấn cao có thực hành đúng hơn người có trình độ học vấn
thấp, và ở nhóm trình độ học vấn thấp, người có kiến thức đúng về HIV/AIDS
có thực hành đúng nhiều hơn. Với một nghiên cứu cắt ngang, kết luận về quan
hệ nhân quả là không chắc chắn, tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy
sự cần thiết trong tăng cường giáo dục sức khỏe về phòng lây nhiễm cho những
đối tượng ưu tiên.
Nghiên cứu này có một số hạn chế. Dù khảo sát toàn bộ dân số mục
tiêu, nhưng cỡ mẫu nhỏ đã hạn chế khả năng phân tích thống kê. Sai lệch
thông tin có thể xảy ra với những câu hỏi về quan hệ tình dục. Đây là một
nghiên cứu lần đầu tiên khảo sát về kiến thức, thái độ, và thực hành phòng
chống lây nhiễm ở thân nhân những người nhiễm HIV/AIDS tại huyện Tịnh
Biên, tỉnh An Giang, là một cộng đồng có số hiện nhiễm cao. Kết quả cho
thấy kiến thức là chưa tốt, nhưng thái độ là tích cực. Thực hành nói chung là
tốt, nhưng thực hành an toàn tình dục ngoài hôn nhân là chưa cao. Nhân viên
y tế chưa đóng góp nhiều trong việc cung cấp thông tin cho người dân. Giáo
dục sức khỏe cần được tăng cường nhiều hơn, trong đó, đẩy mạnh vai trò
của nhân viên y tế, đặc biệt trong tương lai, khi người nhiễm nói riêng và
cộng đồng nói chung có nhu cầu tư vấn về HIV/AIDS.