intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 7: Phân tích lợi ích – chi phí: lợi ích

Chia sẻ: Money Money | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:27

84
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương này khảo sát các kỹ thuật nhằm đánh giá giá sẵn lòng trả (WTP) để giảm ô nhiễm. Một thách thức mà chúng ta phải đối đầu là không có thị trường cho người mua và bán chất lượng môi trường, do đó chúng ta không thể sử dụng những kỹ thuật trực tiếp dùng thị trường để đánh giá lợi ích. Chúng ta phải sử dụng những kỹ thuật gián tiếp. Mời các bạn cùng tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kinh tế môi trường (Field & Olewiler) - Chương 7: Phân tích lợi ích – chi phí: lợi ích

CHƯƠNG 7<br /> <br /> PHÂN TÍCH LỢI ÍCH – CHI PHÍ: LỢI ÍCH<br /> Lợi ích của một vật nào đó bằng đúng với những gì mà người ta sẵn lòng trả để có nó, với<br /> những giả định cho trước về phân phối thu nhập và thông tin sẵn có. Đường thiệt hại biên<br /> (MD) trong mô hình MAC-MD thể hiện giá sẵn lòng trả của xã hội để giảm lượng phát<br /> thải từ một chất ô nhiễm và do đó cải thiện chất lượng môi trường1. Đường MD lúc này<br /> tương tự như đường cầu cho hàng hóa thông thường, nhưng dĩ nhiên sẽ dốc đứng bởi vì<br /> hàng hóa được đo lường là hàng hóa không mong muốn và phúc lợi của chúng ta tăng khi<br /> sử dụng ít hàng hóa này. Tổng lợi ích được đo lường bằng diện tích nằm dưới đường MD,<br /> giới hạn bởi điểm thiệt hại biên bằng 0 và mức ô nhiễm mục tiêu như đã trình bày ở<br /> chương 5. Đây là phần thiệt hại giảm được do giảm ô nhiễm/cải thiện chất lượng môi<br /> trường (EQ). Chương này khảo sát các kỹ thuật nhằm đánh giá giá sẵn lòng trả (WTP) để<br /> giảm ô nhiễm. Một thách thức mà chúng ta phải đối đầu là không có thị trường cho người<br /> mua và bán chất lượng môi trường, do đó chúng ta không thể sử dụng những kỹ thuật trực<br /> tiếp dùng thị trường để đánh giá lợi ích. Chúng ta phải sử dụng những kỹ thuật gián tiếp.<br /> Một nhà kinh tế học môi trường từng nói: “Công việc ước lượng lợi ích thường gồm việc<br /> thăm dò nhằm lắp ráp các giá trị mà cá nhân gán cho dịch vụ môi trường khi họ phản ứng<br /> với các tín hiệu kinh tế khác”2.<br /> Có nhiều mức độ trong việc đánh giá giá trị lợi ích. Đối với một nhà phân tích làm việc<br /> cho một văn phòng môi trường thì đánh giá giá trị lợi ích là công việc thế số vào các công<br /> thức. Diện tích đất ngập mặn nuôi nghêu bị giảm (do các nhà sinh học cung cấp) nhân với<br /> giá nghêu hiện hành trên thị trường (lấy được từ một cuộc khảo sát nhanh tại chợ) sẽ bằng<br /> với giá trị thiệt hại của ô nhiễm nước ở Howe Sound hay vịnh Fundy. Trong trường hợp<br /> này, giá thị trường của một hàng hóa rõ ràng phản ánh giá sẵn lòng trả của người tiêu dùng<br /> cho hàng hóa đó như đã thảo luận ở chương 3. Có thể dùng đường cầu thị trường để xác<br /> định tổng lợi ích (diện tích dưới đường cầu) của việc giảm ô nhiễm. Lợi ích này bằng với<br /> việc giảm tổng thiệt hại (diện tích dưới đường MD).<br /> Có thể dùng giá thị trường để đánh giá giá trị thiệt hại của một hàng hóa thị<br /> trường bởi vì giá thị trường đại diện giá sẵn lòng trả biên cho hàng hóa đó.<br /> Nhìn khía cạnh khác, các nhà kinh tế học môi trường đang tìm cách giải quyết với tất cả<br /> các loại hàng hóa môi trường không có giá trên thị trường bằng cách đo WTP cho ô nhiễm<br /> giảm/chất lượng môi trường tăng. Họ phát triển các phương pháp đo lường WTP và xây<br /> dựng đường MD (hoặc khái niệm tương đương là đường cầu cho cải thiện chất lượng môi<br /> trường).<br /> <br /> 1<br /> <br /> Nhớ rằng chúng ta đang bàn về phát thải ô nhiễm; mối liên hệ giữa lượng phát thải giảm được và chất lượng<br /> môi trường tăng khá phức tạp bởi vì chúng ta phải biết ảnh hưởng của lượng phát thải lên chất lượng môi<br /> trường xung quanh, đặc biệt đối với những chất thải tích tụ. Để cho đơn giản, ta tiếp tục giả định mối quan hệ<br /> trực tiếp giữa lượng phát thải giảm và chất lượng môi trường tăng.<br /> 2<br /> Myrick Freeman III, “Benefits of Pollution Control in U.S. Environmental Protection Agency, Critical<br /> Review of Estimating Benefits of Air and Water Pollution Control, Washington, D.C., EPA 600/5-78-014,<br /> 1978, pp. II-16<br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 234<br /> <br /> Đánh giá thiệt hại của một loại hàng hóa phi thị trường do ô nhiễm cần phải có<br /> phương pháp tính toán giá sẵn lòng trả biên cho việc giảm ô nhiễm/cải thiện<br /> chất lượng môi trường bởi vì giá thị trường của hàng hóa này không hiện hữu.<br /> Chương này cung cấp danh sách các kỹ thuật khác nhau để đánh giá WTP cho việc giảm ô<br /> nhiễm/cải thiện chất lượng môi trường. Không có phương pháp nào áp dụng được cho mọi<br /> trường hợp.<br /> Có thể phân các kỹ thuật này thành 2 cách tiếp cận:<br /> -<br /> <br /> Cách tiếp cận dùng giá thị trường để phản ánh WTP. Cách này đo lường thiệt hại<br /> dưới dạng mất mát thu nhập hoặc sản lượng, năng suất bị giảm, và chi tiêu cần thiết<br /> để bù đắp thiệt hại môi trường. Thuật ngữ thường được dùng là phương pháp đo<br /> lường WTP trực tiếp.<br /> <br /> -<br /> <br /> Cách tiếp cận tính WTP của cá nhân thông qua hành vi tiêu dùng của họ hoặc hỏi<br /> trực tiếp. Cách này được sử dụng khi không có thị trường thực hoặc giá thị trường<br /> phần nào phản ánh được giá trị môi trường. Thuật ngữ thường được dùng là<br /> phương pháp đo lường WTP gián tiếp.<br /> <br /> Bảng 7.1 liệt kê danh sách các kỹ thuật đánh giá cho các vấn đề môi trường tương ứng.<br /> Chúng ta bắt đầu bằng việc trình bày các phương pháp thiệt hại kinh tế (economic damage<br /> approaches), tập trung vào lĩnh vực giá trị sức khỏe.<br /> <br /> ƯỚC LƯỢNG THIỆT HẠI KINH TẾ<br /> Suy thoái môi trường gây ra thiệt hại; mô hình kiểm soát phát thải trong chương 5 dựa một<br /> phần trên mối quan hệ giữa phát thải và thiệt hại biên – hàm số MD. Do đó ta có thể thấy<br /> một cách trực tiếp là lợi ích của việc cải thiện chất lượng môi trường đến từ việc giảm thiệt<br /> hại. Để đo lường một hàm số thiệt hại do phát thải, chúng ta phải thực hiện các bước sau:<br /> 1. Đo lượng phát thải,<br /> 2. Xác định chất lượng môi trường xung quanh lượng phát thải đó,<br /> 3. Ước lượng lượng ảnh hưởng đến con người,<br /> 4. Đo lường ảnh hưởng (sức khỏe, mỹ quan, giải trí, hệ sinh thái v.v.),<br /> 5. Ước lượng giá trị của các ảnh hưởng này.<br /> Bảng 7.1: Các phương pháp đánh giá giá trị lợi ích<br /> Phương pháp<br /> Phương pháp trực tiếp (sử dụng giá thị trường)<br /> 1. Thay đổi năng suất<br /> 2. Chi phí chăm sóc sức khỏe<br /> 3. Thiệt hại vốn nhân lực<br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> Ứng dụng môi trường<br /> <br /> Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe<br /> Ảnh hưởng ô nhiễm lên đến nông nghiệp,<br /> tài nguyên thiên nhiên<br /> Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe<br /> Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe<br /> 235<br /> <br /> 4. Chi phí thay thế/phục hồi thiệt hại tài Thiệt hại ô nhiễm gây ra cho cơ sở vật chất<br /> sản, kinh doanh<br /> Thiệt hại hệ sinh thái (ví dụ tràn dầu)<br /> Phương pháp gián tiếp (sử dụng giá sẵn lòng trả)<br /> 1. Chi tiêu bảo vệ/giảm thiệt hại<br /> 2. Đánh giá hưởng thụ<br /> Giá trị tài sản<br /> Sự chênh lệch lương<br /> 3. Thị trường đại diện<br /> Chi phí du hành<br /> “Hàng hóa xanh”<br /> 4. Đánh giá ngẫu nhiên<br /> <br /> Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí, nước,<br /> tiếng ồn, tầm nhìn đến người tiêu dùng, các<br /> ngành công nghiệp, hệ sinh thái<br /> Ô nhiễm không khí, ô nhiễm tiếng ồn, bãi<br /> chứa chất thải độc hại<br /> Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức khỏe<br /> Lợi ích giải trí từ việc nâng cao chất lượng<br /> môi trường<br /> Hàng hóa thân thiên môi trường thay thế<br /> cho hàng hóa có hàm lượng ô nhiễm cao<br /> (chẳng hạn giấy có thể tái chế)<br /> Chất lượng môi trường hiện tại và tương lai<br /> Tất cả các loại ô nhiễm<br /> <br /> Ba bước đầu tiên của quy trình là phần công việc của các nhà kỹ thuật. Mô hình trình bày<br /> mối quan hệ giữa mức phát thải và chất lượng môi trường xung quanh thường được gọi là<br /> mô hình khuếch tán (diffusion models). Nhà kinh tế học có thể tham gia vô bước thứ tư,<br /> nhưng vẫn cần phối hợp với các nhà sinh vật học và các nhà dịch tễ học. Liên kết giữa<br /> bước 3 và 4 thường được gọi là hàm số liều lượng - đáp ứng (dose – response function)<br /> Nghĩa là hàm này ước lượng phản ứng dưới dạng tử vong hoặc bệnh tật của con người với<br /> các mức phơi nhiễm khác nhau của chất gây ô nhiễm môi trường. Bước 5 là nơi nhà kinh<br /> tế học thể hiện mạnh mẽ vai trò của mình bằng việc đánh giá giá trị của các mức ảnh<br /> hưởng khác nhau được xác định từ các bước trước. Nói chung đây là bước có nhiều thách<br /> thức như chúng ta sẽ thấy ở các phần tiếp theo.<br /> <br /> Ước lượng trực tiếp thiệt hại kinh tế<br /> Thiệt hại sức khỏe<br /> Tất cả các dạng ô nhiễm đều có ảnh hưởng bất lợi tới sức khỏe. Ví dụ người ta cho rằng ô<br /> nhiễm không khí làm tăng tỷ lệ tử vong và bệnh tật cho người tiếp xúc, do cả việc tiếp xúc<br /> chất độc hại và tiếp xúc lâu dài với những loại ô nhiễm như SO2 hay bụi. Các loại bệnh<br /> như viêm cuống phổi, khí thũng, ung thư phổi cũng được cho rằng một phần là do ô nhiễm<br /> không khí. Người ta tính được giá trị thiệt hại sức khỏe do ô nhiễm không khí lên đến hàng<br /> tỷ đô la mỗi năm. Ô nhiễm nước cũng gây ra thiệt hại cho sức khỏe, chủ yếu thông qua các<br /> nguồn cung cấp nước sinh hoạt bị nhiễm bẩn. Do đó đo lường thiệt hại sức khỏe từ ô<br /> nhiễm môi trường là công việc quan trọng của các nhà kinh tế môi trường.<br /> Nền tảng của công việc đánh giá này là hàm số liều lượng - đáp ứng diễn tả mối quan hệ<br /> giữa sức khỏe con người và quá trình tiếp xúc với chất ô nhiễm môi trường. Có rất nhiều<br /> yếu tố tác động đến sức khỏe con người bên cạnh mức ô nhiễm môi trường xung quanh<br /> như cách sống, ăn uống, di truyền, tuổi tác. Để tách biệt tác động của ô nhiễm, hoặc người<br /> ta phải đưa vào tất cả các biến số khác hoặc phải chịu rủi ro tính toán tác động của ô nhiễm<br /> <br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 236<br /> <br /> trong khi thực sự thiệt hại sức khỏe lại bị các biến số khác tác động. Điều này yêu cầu một<br /> số lượng lớn dữ liệu chính xác liên quan đến các tác động sức khỏe cũng như các dữ liệu<br /> cho các yếu tố tác động khác. Một số số liệu như chất lượng nước hay không khí, thống kê<br /> về tử vong v.v. có thể tìm thấy trong các tài liệu thống kê nhưng thường rất tổng quát, khó<br /> đem lại kết quả chính xác. Tương tự, mặc dù số liệu thống kê có thể cung cấp thông tin đại<br /> loại như mức ô nhiễm không khí trung bình trong một khu vực của thành phố, nó cũng<br /> không thể cho biết dữ liệu chính xác về lượng ô nhiễm một cá nhân tiếp xúc vì còn phụ<br /> thuộc vào cá nhân đó sống bao nhiêu lâu trong môi trường đó. Trong xã hội hiện đại ngày<br /> nay càng khó để có số liệu chính xác về lượng tiếp xúc ô nhiễm của con người, bởi vì họ<br /> có thể sống ở nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Các nhà dịch tễ học đã có rất nhiều kinh<br /> nghiệm với các loại dữ liệu chéo, thông tin từ các cuộc phỏng vấn kỹ lưỡng về cách sống,<br /> thói quen tiêu dùng, các nơi đã sống v.v. Một số nghiên cứu đã được thực hiện nhằm ước<br /> lượng tình trạng tử vong hoặc bệnh tật giảm bao nhiêu khi giảm ô nhiễm. Đo lường bệnh<br /> tật thường quan sát các chỉ số như số ngày nghỉ làm việc hoặc số ngày ảnh hưởng bởi sức<br /> khỏe kém. Không có kết quả chung về ước lượng ảnh hưởng của ô nhiễm không khí hay ô<br /> nhiễm nước. Một kết luận chung có thể thấy là kết quả thường phụ thuộc nhiều vào dữ liệu<br /> sử dụng trong mô hình và cách thức xử lý số liệu này, nghĩa là chúng ta vẫn thực sự không<br /> chắc chắn về mối liên kết chính xác giữa ô nhiễm không khí và tỷ lệ tử vong và bệnh tật.<br /> Sau khi nghiên cứu mô hình liều lượng - đáp ứng, công việc chính của nhà kinh tế học là<br /> tính toán giá trị của các ảnh hưởng sức khỏe. Chúng ta làm thế nào để tính giá trị cho một<br /> cuộc sống bị rút ngắn hay tình trạng suy nhược sức khỏe do phơi nhiễm các chất ô nhiễm<br /> môi trường? Phản ứng đầu tiên thường là phương pháp này không chấp nhận đuợc về mặt<br /> đạo đức khi cố gắng gáo giá trị tiền tệ cho sinh mạng con người. Cuộc sống con người có<br /> giá không? Ở một khía cạnh nào đó, câu trả lời là có. Nếu bạn hỏi một người đi đường<br /> cuộc sống của anh ta đáng giá bao nhiêu, bạn có thể sẽ không có câu trả lời bởi vì câu hỏi<br /> dường như đã vi phạm những tiêu chuẩn đạo đức thông thường. Tuy nhiên, xã hội như là<br /> một tổng thể, nghĩa là chúng ta hành động tập thể, không ứng xử như vậy. Thật sự thông<br /> qua cách chúng ta ra quyết định và hành xử tập thể, chúng ta ngầm gán giá trị cho cuộc<br /> sống con người. Rõ ràng nhất là xem cách kiểm soát giao thông. Mỗi năm, hàng ngàn<br /> người bị chết trên đường quốc lộ. Nhưng chúng ta đâu thấy một lượng tiền lớn đổ ra để<br /> thiết kế lại quốc lộ, làm chậm giao thông lại hoặc sản xuất xe cộ an toàn hơn. Đó là vì<br /> chúng ta đã ngầm đánh đổi giữa số người chết do tai nạn giao thông và các tác động giao<br /> thông khác, đặc biệt là lợi ích đi lại nhanh chóng thuận tiện. Tương tự chúng ta có thể kể<br /> đến những công nghệ hoặc hoạt động rủi ro khác mà chúng ta thường thấy. Do đó, có lý<br /> khi chúng ta nghiên cứu giá trị mà xã hội thực sự gán cho cuộc sống và sức khỏe con<br /> người trong hoạt động hàng ngày.<br /> Trong nhiều năm, thủ tục chuẩn để đánh giá thiệt hại sức khỏe như sau:<br /> -<br /> <br /> Xem xét năng suất lao động của công nhân giảm cùng với sức khỏe giảm và cuộc<br /> sống bị rút ngắn làm giảm vốn nhân lực;<br /> <br /> -<br /> <br /> Chi tiêu chăm sóc sức khỏe tăng.<br /> <br /> Chẳng hạn chúng ta có thể cố đánh giá giá trị cuộc sống bằng cách xem xét những đóng<br /> góp kinh tế bị mất đi do không còn sống nữa. Trong suốt cuộc đời làm việc, một người có<br /> thể đóng góp vào quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ mà xã hội tiêu dùng. Khi người<br /> đó chết, quá trình sản xuất dừng lại; do đó chúng ta có thể tính được giá trị sản xuất người<br /> đó có thể tạo ra nếu người đó còn sống. Giá trị sản xuất bị mất có thể thay đổi theo hàm số<br /> <br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 237<br /> <br /> của tuổi tác, kỹ năng và quá trình làm việc, do đó chúng ta có thể tính giá trị trung bình cho<br /> những nhóm người khác nhau. Bệnh tật hay mất khả năng làm việc do ô nhiễm cũng làm<br /> giảm vốn nhân lực của một người và do đó là khả năng kiếm thu nhập của người đó. Ví dụ<br /> trẻ em bị tổn thương thần kinh do chì (từ xăng pha chì, màu vẽ) hoặc thủy ngân (cá bị<br /> nhiễm thủy ngân, thủy ngân trong nước) trong môi trường sẽ không có khả năng trí tuệ mà<br /> chúng có được nếu sống trong môi trường sạch hơn.<br /> Một phương pháp khác được dùng để đo thiệt hại sức khỏe là tính chi phí y tế. Vì ô nhiễm<br /> tăng gây thiệt hại sức khỏe, chúng ta có thể ước lượng chi phí y tế tăng cho bệnh viện, bác<br /> sĩ, và quá trình phục hồi. Giảm ô nhiễm do đó làm giảm chi phí y tế, nghĩa là lợi ích của<br /> thay đổi chất lượng môi trường.<br /> <br /> Mất mát sản lượng và thiệt hại thiết bị<br /> Ô nhiễm không khí có thể làm giảm sản lượng nông sản thu hoạch ở những nơi bị tác<br /> động; nó cũng có thể làm giảm tốc độc tăng trưởng của rừng trồng lấy gỗ. Ô nhiễm nước<br /> có thể ảnh hưởng đến việc sử dụng nước trong sản xuất cũng như sinh hoạt của công ty<br /> hoặc người dân. Chất lượng nước giảm cũng ảnh hưởng xấu đến ngành công nghiệp đánh<br /> bắt thủy sản. Ô nhiễm đất gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp. Ô nhiễm<br /> nơi làm việc có thể làm giảm hiệu suất làm việc của công nhân và làm máy móc nhà xưởng<br /> xuống cấp nhanh hơn. Trong những trường hợp này ta có thể nhận biết ảnh hưởng của ô<br /> nhiễm lên sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Sở dĩ có thiệt hại là vì ô nhiễm bằng nhiều cách<br /> can thiệp vào quá trình sản xuất, làm cho sản phẩm làm ra tốn nhiều chi phí hơn. Cách<br /> chúng ta ước lượng lợi ích sản xuất liên quan đến việc giảm ô nhiễm phụ thuộc vào từng<br /> hoàn cảnh khác nhau.<br /> Ví dụ: Tăng sản lượng nông nghiệp do giảm ô nhiễm<br /> Một nhóm nhỏ nhà sản xuất nông nghiệp ở thung lũng B.C.’s Fraser bị ảnh hưởng bởi khói<br /> thải từ một nhà máy trong khu vực. Chất ô nhiễm của nhà máy làm giảm sản lượng thu<br /> hoạch, do đó giảm phát thải sẽ làm tăng sản lượng. Sản phẩm thu hoạch được bán ở thị<br /> trường trong nước, và giá sẽ không bị ảnh hưởng bởi sản lượng thay đổi trong vùng. Hình<br /> 7.1 minh họa tình huống này. Trong đồ thị, S1 (= MC1) là đường cung (chi phí biên) của<br /> các nhà sản xuất nông nghiệp này trước khi cải thiện chất lượng không khí. S2 (= MC2) là<br /> đường cung (chi phí biên) sau khi cải thiện. Giá sản phẩm là p1. Trước khi thay đổi, mức<br /> sản lượng là q1, sau thay đổi sản lượng tăng lên q2.<br /> Một cách để ước lượng lợi ích cải thiện môi trường là đo lường giá trị sản lượng tăng thêm<br /> cho các nhà sản xuất này. Sản lượng tăng thêm đơn giản nhân với giá nông sản cho ước<br /> lượng tương đương với diện tích (d+e) trong hình 7.1.<br /> Nhưng giá trị sản lượng tăng lên không tương ứng với khái niệm căn bản của mô hình, là<br /> WTP cho cải thiện chất lượng môi trường. Giá trị sản lượng tăng thêm có vấn đề là nó<br /> không phải là lợi ích ròng cho nông dân và do đó không đo lường được WTP. Lợi ích ròng<br /> là thu nhập ròng3. Chi phí sản xuất có thể thay đổi nên phải được loại trừ ra khỏi tính toán.<br /> Khi ô nhiễm không khí giảm, có thể nông dân tăng sử dụng nhập lượng nào đó và canh tác<br /> thâm canh hơn. Làm thế nào chúng ta kiểm soát được những vấn đề này?<br /> 3<br /> <br /> Trong ví dụ này, thu nhập ròng bằng với lợi nhuận hoạt động (tổng doanh thu trừ chi phí hoạt động) vì<br /> không có chi phí sản xuất cố định.<br /> Barry Field & Nancy Olewiler<br /> <br /> 238<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2