
KỸ THUẬT NUÔI DÔNG
1. Giống và đặc điểm giống:
Dông là tiếng địa phương gọi con kỳ nhông; có nơi như vùng Nghệ - Tĩnh gọi là nhông.
Dông có nhiều giống, dông vùng đất cát gọi là dông cát benly.
Tên Latin: Leiolepis belliana.
Họ: dông Agamidae.
Bộ: Có vảy Squamata.
Nhóm: Bò sát.
Kỳ nhông hay còn gọi là dông sống trên đất cát ven biển, phù hợp với các vùng đất ven
biển miền Trung nước ta.
Vóc dáng:
Dông gần giống con tắc kè, da hồng đỏ, trên lưng có lớp gai chạy dọc theo xương
sống và dọc theo hông có các vệt lớn màu đen, cam.
2. Tập tính sinh hoạt và môi trường sống:
Dông là một loại bò sát sống thích nghi vùng đất cát tự nhiên ven biển của các tỉnh dọc
Duyên hải miền Trung. Nói rõ ra ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận,các tỉnh nằm dọc
Duyên hải miền Trung và một số thuộc miền Đông Nam Bộ như Bà Rịa Vũng Tàu,... nơi
có nhiều cánh đồng cát trắng mênh mông mới có dông tập trung sinh sống. Loài bò sát
này thường ra khỏi hang để sưởi ấm vào buổi sáng để điều hoà nhiệt độ cơ thể (chúng
thuộc loài máu lạnh), tìm thức ăn và gây ấn tượng đối với các con cái xung quanh cả
ngày, rồi rút vô hang vào xế chiều, đóng cửa hang lại bằng cát.
a. Trong môi trường tự nhiên:

Trong môi trường tự nhiên, dông cát thường sống ở các đồi cát ven biển hoặc các gò đồi,
nương rẫy ở khu vực đồng bằng.
Chúng thường tập trung ở các bãi hoang, các cây bụi, các khu vực trồng phi lao, trồng
keo, các ruộng hoa màu, các nghĩa địa và bãi đất hoang.
b. Điều kiện trong hang:
Dông tự đào hang. Hang của chúng ngoằn nghoèo và có cái sâu tới 1m. Cũng có hang
chúng mở thêm ngách phụ để thoát hiểm. Có hang dài tới 2m. Vì hang ở sâu trong lòng
đất nên nhiệt độ trong hang thường chênh lệch nhiều so với bên ngoài. Đây cũng là nơi
điều hòa nhiệt độ (mùa hè thì mát, mùa đông thì ấm). Nhiệt độ trong hang rõ ràng ổn định
hơn nhiệt độ bên ngoài.Theo Ngô Đắc Chứng, dông sọc thường có hang nông hơn dông
hoa. Chúng chỉ đào sâu 40-50 cm.
Một yêu cầu bắt buộc mà dông cát cần đó là độ ẩm. Trong điều kiện khô hạn của những
vùng gần như sa mạc đó. Dông phải đào hang sâu xuống dưới lòng cát để tận hưởng độ
ẩm trong lòng đất. Độ ẩm rất quan trọng đối với dông. Dông thường lui tới các gốc cây,
các bụi cây để đào hang. Nhờ lá cây che chắn mà độ ẩm ở đó khá hơn những chỗ trơ trụi.
Tuy nhiên dông không sống được ở những nơi sũng nước hoặc nước thoát chậm. Vì vậy
khi bố trí nơi nuôi dông phải hết sức lưu ý tới điều này. Đặc biệt đáy của nơi nuôi dông
không nên lát kín vài sẽ cản trở việc rút nước khi mưa.
3. Quy luật hoạt động của dông cát.
a) Hoạt động theo mùa:
* Mùa hoạt động:
Dông thường hoạt động vào mùa nắng ấm, từ tháng 4 đến tháng 10. lúc đó điều kiện nhiệt
độ không khí thường 27-380C, nhiệt độ mặt đất 27-39 độ C và độ ẩm 30-80%. Dông
ngừng hoạt động hoàn toàn vào những ngày mưa. Thậm chí khi có giông hay trời âm u là
chúng tìm đường trú ẩn. Không bao giờ thấy dông hoạt động vào lúc trời mưa hay mưa
vừa tạnh.

Dông không chịu được nhiệt độ lạnh. Khi nhiệt độ ngoài trời xuống 24-25 độ C và độ ẩm
lên trên 90% là chúng đã tìm đường đi trú
* Trú đông:
Mùa trú đông của dông cát thường là tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Vào thời kỳ này,
nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 250C và độ ẩm có lúc cao tới 85-900C. Dông lấp của hang
và nằm lì trong hang. Tới mùa xuân khi nắng ấm về nhiệt độ lên cao dần, dông mới chui
ra khỏi hang để kiếm ăn.
b) Hoạt động ngày, đêm:
Dông hoạt động vào ban ngày, buổi sáng chúng ra khỏi hang lúc 8-9 giờ, tới 13 giờ, 13
giờ 30 trưa thì chúng lại vào hang. Dông rất cảnh giác, nó không bao giờ nhảy ngay lên
mặt đất. Nó thường thò đầu ra khỏi hang nghe ngóng rất kỹ, có khi tới 5, 10 phút sau đó
mới chui ra. Lúc này nó phơi nắng, đó là đặc điểm của loài bò sát. Chúng phải tăng
cường tích nhiệt dưới ánh sáng mặt trời. Một lúc sau nó mới đi kiếm ăn.
Thời gian hoạt động của dông không nhiều, trung bình một ngày chúng chỉ chui ra khỏi
hang 4-5 giờ đồng hồ để đi kiếm ăn. Thời gian còn lại chúng ằm yên trong hang để tiết
kiệm năng lượng.
. Làm chuồng, hố nuôi.
Kỹ thuật xây chuồng trại cho dông rất đơn giản, nhiều người còn ví chuồng nuôi dông
như là một động cát tự nhiên thu nhỏ
Trong tự nhiên dông cát tự đào hang và sống đơn độc, kín đáo ở những nơi yên tĩnh.
Chúng ta có thể tận dụng và tổ chức ngay chỗ nuôi tại các khu vực đó hoặc các sinh cảnh
tương tự. điều quan trọng là phải cố định chúng trong một không gian nhất định. Vì vậy
khu vực tổ chức nuôi dông phải được xây tường kín xung quanh. Dông là loài đào hang
rất khỏe, vì vậy độ sâu của móng tường là vấn đề quan trọng. để tránh dông thoát ra ngoài
chúng ta làm móng tường sâu 1,2m- 1,5m. Nếu móng xây được thì tốt nhưng tốn kém.
Có thể sử dụng các tầm tôn phibrô xi măng và cắm sâu xuống cát 1m. Vit chặt các tấm đó
lại với nhau để nối vòng quanh khu nuôi. Như vậy dông không đào hang để ra ngoài

được. Bờ tường cũng phải cao để tránh dông trèo ra, do đó bờ tường cũng xây cao 1,2 m
trở lên. Một số nơi bà con chỉ xây cao 40 – 50 cm, phần còn lại là một tấm tôn cao 1m
chạy vòng quanh. Vì tôn nhẵn nên dông không thể trèo hay bò ra ngoài được.
Ta cũng có thể bố trí nuôi dông trên bãi cát hoang, các khu đất trồng cây bụi. cũng có thể
kết hợp nuôi dông trong các vườn cây. Tất nhiên khu nuôi phải được xây tường bao
quanh.
Dông rất thích có bóng mát. Trong khu nuôi nên có nhiều cây. Chúng ta nên bố trí trồng
cây trong khu vực nuôi dông. Qua thực tế cây trứng cá là cây nên trồng nhất. cây trứng
các mọc rất nhanh, chịu được nóng, được hạn, tán rộng, cây cao vừa phải và quả của
chúng lại là món khoái khẩu của dông. Ta không nên trồng quá dày. Tán cây chỉ nên che
1/2 – 1/3 diên tích khu nuôi. Diện tích còn lại để cho dông sưởi nắng.
Cũng có khu vực rất khó trồng cây do đất nghèo kiệt hoặc quá khô hạn, cây trồng không
lên được hoặc lên rất chậm. trong tường hợp này ta nên căng một số bạt để che nắng.
cũng có thể làm giàn để phủ lá hoặc lót cot lên trên. Cũng có thể xếp các cành cây khô
thành đống để dông đào hang xuống chỗ đó. Đám cành lá này cũng là chỗ để dông con
chạy trốn khi bị dông lớn đuổi. Như vậy dông vẫn có khu vực bóng mát nhân tạo.
Nếu nuôi trong khu nào có trồng khoai lang hoặc rau muống thì càng tốt, chúnh vừa làm
thức ăn vừa làm bóng mát môi trường cho dông.
Trong khu nuôi cần bố trí nhiều chỗ cho dông ăn. Dông tham ăn và thường tranh giành
lẫn nhau. Dông lớn thường bắt nạt dông bé. Nếu ta bố trí nhiều chỗ đổ thức ăn thì dông
bé cũng có thể ăn được. chỗ để thức ăn có thể là một miếng gỗ, một tấm nilon, một mãng
phibro xi măng vỡ hoặc mấy viên gạch gắn lại cho vuông và bằng phẳng,… Tùy từng
điều kiện mà chúng ta có cách bố trí cho dông ăn cho hợp lý.
Dông không đòi hỏi nhiều nước vì ngay trong thức ăn đã có đủ nước rồi. Tuy nhiên ta
vẫn nên bố trí dụng cụ đựng nước để cho dông uống. Ta cũng có thể dùng các loại chai
nhựa có khoan một lỗ thủng ở cổ chai, cho nước vào đầy chai và lộn ngược lại để trong
một chén miệng hẹp để hạn chế việc bốc hơi nước.

Vào mùa nắng, nên xịt nước vào chuồng vào mỗi buổi sáng để tạo độ ẩm và nhằm tạo
thói quen cho dông lên ăn khi trời mưa. Thông thường, dông chỉ lên kiếm ăn vào khoảng
8-10 giờ sáng trong ngày.
5. Thức ăn:
Nguồn thức ăn chủ yếu là thức ăn thực vật: các loại rau, quả như rau muống, rau lang, cà
chua, dưa hồng, lá, hoa, nụ, quả. .. Đặc biệt, chồi non xương rồng và cỏ dại được xem là
món "khoái khẩu" nhất của dông:, . . . dông còn ăn côn trùng (bướm, sâu non, giun
đất...), trứng của loài bọ cánh cứng. Ngoài ra, còn cho dông ăn cám gạo, cám hỗn hợp và
các loại đậu… cho ăn đầy đủ các loại thức ăn để cung cấp dinh dưỡng cho dông.
Rõ ràng nguồn thức ăn để nuôi dông dễ kiếm hơn rất nhiều so với các loài vật nuôi khác.
Tuy nhiên để nuôi đạt năng suất cao ta cần tăng cường các loại thức ăn giàu chất dinh
dưỡng cho chúng. Nhiều gia đình thường thái cây chuối trộn với cám gạo cho dông ăn. ở
những vùng có sẵn bí đỏ người ta băn bí đỏ ra cho chúng ăn. Nếu có lạc lép, hoặc đậu thứ
phẩm, ta ngâm nước cho trương nở và giả nhỏ ra. Dông ăn loại này rất mau lớn. Tất cả
nguồn thức ăn động vật đều hấp dẫn đối với dông. Cần băm nhỏ thức ăn ra để tiện cho
dông ăn. Dông cũng thích ăn giun đất (trùn đất). Chúng ta nên tổ chức nuôi trùn quế để
cung cấp thức ăn cho dông. Ngoài ra cơm nguội và các thức ăn thừa của con người đều
có thể cho dông ăn. Đặc biệt dông rất thích ăn các loại thức ăn có màu sắc, vị ngọt như cà
chua, đu đủ, dưa hấu, xoài. Cà rốt, bí đỏ,... và các loại hoa như hoa phượng, hoa dâm bụt,
hoa giấy,...
Thức ăn dông rất phong phú. Tuy nhiên để cung cấp với số lượng lớn và đều đặn hàng
ngày, chúng ta nên có kế hoạch gieo trồng, nuôi cấy và tích lũy thức ăn khi tổ chức nuôi
dông. Trước màu đông dong thường thu thức ăn về để ở dưới hang. Nó sẽ ăn dần trong
mùa đông. Khi ăn hết thức ăn nó sẽ gặm cả đuôi của nó. Nhiều con cụt hết đuôi. Đến muà
ấm nó ngoi lên và đi kiếm thức ăn. Cái đuôi cụt mọc dài dần ra như cũ.
6. Chăm sóc:

