Lịch sử quân sự việt nam - tập 1: Buổi đầu giữ nước [bài 7]
III. NỀN VĂN MINH SÔNG HỒNG
Văn minh sông Hồng, văn minh Đông Sơn hay văn minh Việt cổ đều có chung mt nội
dung phản ánh quá trình dng nước và giữ nước buổi đầu của dân tộc Vit Nam nhìn t
c độ địa nhân văn, khảo cổ học hay lịch sử tộc người. Về thời k lch sử này, tổ tiên
ta t xưa đã sớm nhận ra nền văn hiến được dựng xây lâu đời, hào quang văn minh to
sáng. Nguyễn Trải trong Bình Ngô Đại Cáo đã tuyên bố long trọng, khẳng định đanh
thép:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc - Nam cũng khác”...
Còn Vũ Quỳnh trong lời tựa ch Lĩnh Nam cch quái đã khái quát: “Nước ta khởi đầu
t Hùng Vương đã khá văn minh. Núi non k lạ, đất đai linh thiêng, nhân dân anh hào,
chuyn tích thần k, thường thường vẫn có...”.
Bằng cảm quan của tâm thức sâu thẳm, của tâm linh huyền diệu, tác giả đã tái hiện nên
bức tranh thoáng nhìn có phần nhuốm màu, đượm vẻ thần tiên, song đã làm ni lên được
cái thực chất của bước chuyển mình của dân tộc; những đổi thay to lớn của đất nước, xã
hi và con người trong khí thế hào hùng tiến vào văn minh.
Núi sông, đất đai, bờ cõi, không gian sống này của thời các Vua Hùng quả đã khác xưa
lắm lắm. Đầm lầy đã được phlên màu xanh của lúa. Rừng rậm lùi xa, xóm làng, đồng
rung, bến sông cứ m rộng, trải dài mãi mãi... Một cuộc đổi đời thực sự như vậy
chng phải là điều kỳ lạ, linh thiêng?
Và cái sức mạnh to ra sự đi thay kỳ lạ đó, to ra bộ mặt văn minh đó chính nhân dân
anh hào đã lớn lên lẫm liệt trong khí thiêng sông núi - cái khí thiêng do chính con người
to ra bằng biết bao mhôi, nước mắt và cmáu đào, nó được hoà nhập trở lại vào họ,
to ra những điều thần kỳ.
Bức tranh lịch sử, bộ mặt văn minh bui đầu dân tộc được khôi phục lại bằng ký ức và
suy tưởng đó, đã phần nào phản ảnh được sự thật, đáp ứng được tình cm của nhân dân ta
hướng về cội nguồn, ngưỡng mthành kính tiên liệt.
Ch đến ngày nay, cùng với ý thức dân tộc được khơi dậy mnh mẽ, lịch sử nhiều nghìn
năm được động viên góp vào đổi mới đất nước, chấn hưng dân tc, những giá trị, những
chun mực chứa đựng trong di sản văn hoá được khai tc, bảo tồn và phát huy, văn
minh Việt Nam thời dựng nước đầu tiên được dựng lại ngày một chính xác hơn, đầy đủ
hơn. Câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Các Vua Hùng đã có công dựng
nước. . .” như kim chỉ nam chuẩn xác, định hướng cho những tìm tòi về cội nguồn dân
tộc, phục dựng văn minh.
Quá trình hình thành và diễn biến của nền văn minh sông Hng được phục dựng chủ yếu
trên các cliệu khảo chc thu thập đượckhông gian phân bố và thời gian tồn tại
được thư tch cổ và truyền thuyết gi là nước Văn Lang đời các Vua Hùng và nước Âu
Lạc đời vua Thc.
Các mch văn hoá khởi đầu chảy từ các văn hHoà Bình và hu Hoà Bình hình thành
các nguồn hợp tiếp theo qua các văn hoá hậu k đá mới được ngưng kết lại trong văn hoá
Phùng Nguyên - nhân lõi đầu tiên và điểm xuất phát của văn minh sông Hồng.
Văn hoá Phùng Nguyên có niên đại khởi đầu khoảng 4000 năm cách ngày nay, có đa
vực phân b chủ yếu là các tỉnh thuộc trung du và đồng bằng cao sông Hồng lan rộng ra
cả ven biển và toả xa xuống pa nam. Các di tích Phùng Nguyên thường có quy mô rộng
(hàng vạn mét vuông) tầng văn hoá dày (trên mt mét) chứng tỏ mật độ dân cư đông đúc
trú lâu dài ổn đnh của cư dân nông nghiệp mà chứng tích của hoạt động kinh tế
này là bng cụ bằng đá đồ svà phong phú cùng với vết tích nhiều hạt lúa gạo tìm
được. Bước đầu đã có sự chuyên hoá mt số nghthủ công: làm đá, nung gốm. Vết tích
sử dụng và chế to kim loi đã thấy ở nhiều nơi (ít ra là ở 11 địa điểm). Tài năng k thuật
nghệ thuật đạt đỉnh cao biểu l trên các đồ trang sức tinh tế bằng đá, những đồ gốm
hoa văn trang trí, cân xứng, mm mại, hài hoà. Đặc đim của tư duy mỹ cảm của người
Phùng Nguyên là phản ánh thế giới khách quan một cánh ước lệ, không chuộng chi tiết,
ta tót mà chú trng làm bật cái thần, cái sống động có thể thy qua các tượng đầu gà
bằng đất nung ở Xóm Rền (Phú Th), tượng nời đàn ông bằng đá ở Văn Điển (Hà
Nội)...
Theo dõi quá tnh hình thành và phát trin các văn hoá tiền Đông Sơn và Đông Sơn có
thể nhận ra những nét đặc Trưng cư bản của các nền văn hoá này là đều có khởi nguồn t
văn hoá Phùng Nguyên. Từ hìnhng công cụ, vũ khí, đồ trang sức và ngh thuật đều
được to lập từ thời Phùng Nguyên, chúng ch được đa dạng về kiểu loại và chất liệu
các giai đoạn sau.
Từ khoảng thế kỷ XIII-VIII trước công nguyên, trên địa bàn văn hoá Phùng Nguyên và
các văn hoá ở bình tuyến Phùng Nguyên kế tiếp nhau phát trin thành các văn hoá Đồng
Đậu, Gò Mun ở vùng sông Hng, Bái Man, Quỳ Chữ ở vùng sông Mã và Rú Cật,
Trăn ở vùng sông Lam.
Tiếp tục phát trin truyền thống Phùng Nguyên, một trong nhng đặc trưng quan trọng
của các giai đon kế liền trước Đông Sơn là sự phát trin bùng nổ của kỹ thuật luyn kim
đồng thau và k thuật đúc chế đồ đồng thau.
Nhân tố mới, thể hiện cuộc sống sôi động, mạnh mẽ phóng khoáng, bám trụ vững chắc và
m rộng không gian sinh tn xuống min châu thổ sông nước mênh mông được in dấu
trên đồ gm với các hoa văn khuông nhạc cuộnng. Văn hoá Gò Mun li thể hin sự
nhân lên và trở về với truyền thng Phùng Nguyên ban đầu được nhận biết qua hàng loạt
di vật và nhất là qua hoa văn biểu trưng.
Ý nghĩa to nền cho văn minh sông Hồng ra đời của các văn hoá tiền Đông Sơn này thể
hiện ở tiến bộ kỹ thuật, ở sự chn lc, xác lập và góp mới những yếu tố văn hoá, biến
chúng thành đặc đim, thành truyền thống văn hoá phản ánh tính cách và sở đắc chung,
đnh hình những thói quen lao động, tâm , thẩm mỹ của một cộng đng người phát trin
đang đi vàon định.
Văn hoá Đông Sơn - Hin thân của văn minh sông Hồng
Những tiền đề vật chất xã hi được chuẩn bị từ các giai đoạn trước, nay trong hoàn cảnh
sống và các mi giao tiếp mới đã được phát huy mạnh mẽ to ra din mạo Đông Sơn với
những đường nét hết sức phong phú, đa sắc và độc đáo thể hiện sự đổi thay chất biến
trong toàn bđời sống của người Việt c.
Người Đông Sơn lúc này đã cư ttrên mi địa hình trong nhiều vùng sinh thái khác
nhau trải rộng t vùng núi phía Bắc đến vùng sông Gianh.
Chính do đặc đimtrú trong các vùng sinh thái khác nhau cộng với những khác biệt về
sắc tộc và tốc đ phát trin của từng nhóm tộc cụ thể đã tạo ra sự khác biệt vùng, skhác
biệt địa phương của văn hĐông Sơn ở ba trung tâm sông Hồng, sông Mã và sông Lam.
Nét đc đáo của loại hình Đường Cồ vùng sông Hng thể hiện ở đồ gm có chất lượng
chế tác cao, gm mịn màu trắng ngả xám hoặc phớt hồng được trang trí hoa văn thừng
dập thành mắt võng hoặc ấn lõm nhăn hình tổ ong, đ đồng có lưỡi cày hình tim, dao gặt
hình vtrai, rìu lưỡi xéo gót vng, giáo lao họng ngắn rìa lưỡi lượn. . . Trong khi đó,
loi hình Đông Sơn vùng sông Mã nét riêng lại thể hin ra ở đ gốm thường có áo đỏ,
lưỡi cày hình chân vt, rìu lưỡi xéo gót tròn, giáo lao họng dài bn lưỡi rộng hình tam
giác rãnh thoát máu. Còn loại hình Làng Vạc vùng sông Lam, cư dân ở đây lại ưa
chung dùng đồ gốm áo nâu sẫm, lưỡi cày đồng vai ngang, vòng trang sức đồng có
đính các chuông nhạc... Song tính thống nhất Đông Sơn được thể hiện tập trung ở bvũ
khí bao gồm những rìu lưỡi xéo, dao găm có đốc hình củ hành, ở những trng, thạp, th
đặc sắc...
Từ nhng di tồn vật chất đúc kết li hình thành những đặc Trưng cư bản của văn hoá
Đông Sơn có thể nhận ra những đặc đim và giá tr tiêu biểu của nền văn minh sông
Hồng. Các di tồn vật chất nói lên sự vận động chất biến của văn hoá Đông Sơn thể hiện ở
sự xuất hiện mt loạt những sản phẩm mới, những loại hình di vật mới bằng đồng, bằng
sắt, cho thấy nền văn minh sông Hồng được hình thành và phát triển trên cư sở cuộc cách
mạng luyện kim diễn ra như kết quả phát trin nội tại tất yếu của những thành tựu kỹ
thuật mà những thế hệ, những lớp lớp cư dân ở đây kế tiếp sáng tạo giành được.
Những thế hệdân thời Hùng, thời Thục, khi họ nấu chảy kim loại, cũng là lúc họ từng
bước đúc nên nền văn minh sông Hồng.
Bằng những công cụ tiên tiến hiệu suất cao, với những kinh nghim làm ăn lâu đời
được đúc kết lại, người dân Lạc, dân Âu, tuy không rời bỏ nn kinh tế khai thác mà lúc
này đối tượng đánh bắt, thu hái vẫn còn rất phong phú dồi dào, dkiếm, đã tập trung sức
o canh tác nông nghiệp, đưa kỹ thuật trồng lúa nước đạt tới đỉnh cao của thời đại, hình
thành phức hợp kỹ thuật canh tác tiên tiến: Thu lợi - cày kim loại - sức kéo trâu bò - cy
trng hai vụ. Ngoài lúa, nời thời đó còn trồng rau quả như bầu bí, đỗ, cà, dưa hấu,
trám, nhãn, vải, na, cau, dưa. . . mà vết ch của chúng được các nhà khảo cổ hc phát
hiện ở nhiu nơi, trong nhiều di tích tin Đông Sơn, Đông Sơn.
Trong nền nông nghiệp trồng lúa nước, thì nước nổi lên như mt yếu tố quan trọng, mt
biện pháp kỹ thuật hàng đầu Người xưa đã biết đắp đê để ngăn chặn lũ. Vùng Đông Anh -
CLoa đã phát hin được dấu tích một đoạn đê cổ có trước thời Bắc thuộc. Họ cũng biết
lợi dụng thế nước cao thấp để đưa nước vào tưới ruộng theo nước triều lên xung (được
ghi trong Giao Ch thành ký, được dẫn li trong An Nam chí lược đời Trần). Bảo đảm
cho cây lúa đủ nước để sinh trưởng quả là một việc làm đầy gian lao vất vả. Khi gặp hạn
hán phải đưa nước vào ruộng để chống hn, khi mưa bão quá nhiều gây ngập lụt, cần tiêu
nước chng úng, tt cả đều cần đến sự có mặt của các con kênh mương nhân to và điều
đó chỉ thể thực hiện nhờ sự hiệp lực chung của nhiều gia đình, nhiều làng xóm, dưới
sự điều hành chung của bộ máy quyền lực công.
Như vậy , nước ảnh hưởng quyết định đôi với lúa nước, mt loạiy lương thực cnh
của cư dân thời đó; đồng thời nước cũng cung cấp nguồn đạm thuỷ sản dồi dào cùng
nhiều sản vật quý hiếm khác như ngọc trai - đồi mồi. . . Nước còn là không gian ni liền
các làng lại với nhau và với các miền đất xa xôi trong khu vực. Định tính sông nước
này của nền văn minh sông Hồng đã có ảnh hưởng sâu sắc tới mi mặt đời sống của cư
dânn Lang, Âu Lạc. Từ những sinh hoạt vật chất hàng ny như ở, ăn, mặc, đi lại đến
những phong tục tập quán tín nỡng, lễ hội, tâm , ý thc đều dựa trên nền tảng của
nông nghip lúa nước, là sản phẩm và là hiện thân của xã hi nông nghiệp.
Bức tranh văn hoá toàn cảnh này hiện lên đậm đà độc đáo ở mi mặt của đời sống.
1. Về ở:
Nổi bật lên là cách chn đất địnhcủa người Việt cổ. Họ thường chn nơi vừa thuận lợi
cho đi lại làm ăn, li vừa an toàn cho cuộc sống. Thế đất đó thường là có sông suối bọc
quanh, đi gò che ch (như ở Làng Cả, Đông Sơn, Làng Vạc Cổ Loa... nhng trung
tâmtrú của người thời Đông Sơn).
Sách Lĩnh Nam chích quái có chép việc dựng hàng rào gỗ (mc sách) để bảo vệ nơi
thờing Vương. Cách phòng ngự truyền thống của các làng người Việt là trồng tre gai
thành lu quanh làng. Lưu An tác gisách Hoài Nam tử (thế kỷ II Tr.CN) có nhn xét
“Bách Việt không có thành quách thôn ấp. Họ ở trong vùng lau trúc, bên bờ sông giữa
rừng tre”. Lu tre xanh đã trở thành biểu tượng làng quê của người Việt, mt kiểu làng
trại , “làng chiến đấu” hết sức độc đáo. Qua những đám gỗ cọc, cột tìm thấy ở di chỉ
Đông Sơn qua hình khắc ngôi nhà trên trống đồng có thể thấy ngôi nhà của cư dân Đông
Sơn là nhà sàn rất tch hợp với điều kin ở trên thế đất dốc, sống giữa cây rừng, nước
li. . .
2. Về ăn uống:
Lương thực chủ yếu của người thời Hùng Vương - An Dương Vương là lúa gạo 1, trong
đó gạo nếp được dùng ph biến 2. Bữa ăn truyn thống của cư dân Đông Sơn là cơm-rau-
cá. Đồ ăn được chế biến tch hợp cho từng dạng sinh hoạt: bánh y, bánh chưng cho
các ngày lễ tết. Bỏng rang, cơm nắm, cơm lam cho những cuộc đi săn thú rừng hay hành
quân chiến đấu . . .
3. Vtrang phục:
Về đầu tóc, phổ biến là li cắt tóc ngắn ngang vai 3 và búi tóc sau gáy 4 đôi khing
thấy hình người tết tóc hoặc buộc tóc tnh đuôi sam, thải sau lưng hay vấn cuộn trên
đnh đầu. Các tài liệu đều phản ánh li ăn mặc giản d của người Đông Sơn: ở trần, đóng
khố, đi chân đất. Sự trang điểm ở người phnữ, nhất là những phụ nữ thuộc lớp người
quyền quý phần cầu kỳ sang trọng hơn: Khăn, yếm, áo, váy, thắt lưng đều được thế
hiện trên chuôi cán dao găm hay kiếm ngắn cùng vi mũ, váy lông chim được hoá trang
thấymi lớp người trong ngày hi, khảo cổ học còn phát hiện ra những tấm đồng che
ngực hình vuông hay hình chữ nhật uốn cong có vòng khuyên hay l buộc trên mặt trang
t hoa văn người chèo thuyền, cặp cá sấu, chồn cáo điển hình của nghệ thuật Đông Sơn,
những bộ khoá thắt lưng hình tượng rùa hay chim . . . có thể đó là võ phục của các thủ
lĩnh.
4. Về giao thông:
Phương tiện giao thông quan trọng nhất của người Đông Sơn thuyền, ghe, bè, mng.
Con thuyn còn là phương tiện cư động chiến đấu rất quan trọng. Đời sống sông nước và
hình nh con thuyền đã đi vào tâm thức, trở thành đối tượng phản ánh của nghệ thuật hay
tr thành vật thiêng đưa xác và hồn người chết về thế giới cội nguồn của họ.
Nếu như thuyền gắn với sông nước thì voi gắn với đời sống núi rừng. Người Đông Sơn
đã thuần dưỡng voi để chuyên chở. Hình voi chở trên lưng chiếc trống đng trang trí trên
cán daom Làng Vạc đã nói lên điều đó. Voi còn được người Đông Sơn tổ tiên ta
sau này sdụng trong chiến trận. Sử sách đều nhắc đến nhng con voi đầyng mãnh và
nghĩa cử của Bà Trưng, Bà Triệu, của đức Thánh Trần Hưng Đạo trở thành con vật
thiêng, được khắc hoạ trên qua đồng của người Đông Sơn, đắp thành tượng voi chầu ở
các cổng đình làng người Việt. Thêm vào đó, trong mt chừng mực nhất định thì ngựa
chc hẳnng đã được sử dụng trong giao thông hay trong trận mạc.
1. Nhiều hạt thóc, vỏ trấu tìm được ở các di chỉ như Đồng Vông, Xuân Kiểu, Đồng Đậu,
Từ Sơn, Đồng Dền, Gò Mun, Gò Chin, Chợ Ghềnh, Trung Màu, Chiền Vậy, Làng Cả,
Đồng Tiến, Làng Vạc . . .
2. Khảo cổ học đã tìm được nhiều mảnh chõ vỡ và c chõ nguyên, thấy ở nhiều di chỉ như
An Đạo, Đông Sơn, Đồng Tiến, Làng Vạc . . .
3. Li để tóc này thể hin ở các tượng trên nắp thạp Đào Thịnh, hình người khắc trên
trng đồng.
4. Hình người trên các thuyền ở trống Làng Vạc - Đồi Ro - tượng nời trên muôi đồng
Vit Khê.
Hình tượng người Việt cổ cắt c ngắn ở trần đóng kh, đi chân đất đã gây n tượng
mạnh mẽ với người phương Bắc, như một cái gì đó thô, thấp, gần với hoang dã. Song nó
lại rất thích hợp với điều kiện tự nhiên môi trường khí hậu, sinh hoạt và chiến đấu của