
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 370 - 376
http://jst.tnu.edu.vn 370 Email: jst@tnu.edu.vn
CONVICT LABOR IN COLONIAL VIETNAM: A CASE STUDY OF
LABOR PRACTICES AT CON DAO PRISON UNDER THE FRENCH RULE
Nguyen Thi Trang*, Nguyen Thu Trang, Tran Minh Duc
TNU - University of Education
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
13/5/2025
This article analyzes the organization and use of convict labor at Con
Dao prison, which was one of the earliest established and most
populous penal institutions under the French colonial rule. The study
utilizes historical methodology and a combination of archival
materials and administrative documents to elucidate how the colonial
authorities established a system of convict labor to serve both
economic and control-oriented objectives. The article further
demonstrates that prisoners were assigned to various tasks, including
stone breaking, transporting materials, constructing public works,
road building, land cultivation, fishing, and performing services for
the prison administration. It is important to note that these convicted
laborers were subject to substandard conditions, receiving minimal
compensation and lacking fundamental occupational safety
protections. This prompted them to take collective action in protest,
demanding their rights be recognized. This research makes a
significant contribution to the field by recognizing convict labor as a
structural component of the colonial state apparatus. Additionally, it
highlights the social resistance of prisoners in response to exploitative
labor conditions at Con Dao.
Revised:
25/6/2025
Published:
25/6/2025
KEYWORDS
Convict labor
Con Dao prison
Forced labor
French Colonialism
Vietnam
LAO ĐỘNG BỊ KẾT ÁN: MỘT NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP VỀ SỬ DỤNG
LAO ĐỘNG Ở NHÀ TÙ CÔN ĐẢO THỜI KÌ VIT NAM THUỘC PHÁP
Nguyễn Thị Trang*, Nguyễn Thu Trang, Trần Minh Đức
Trưng Đi hc Sư phm - ĐH Thi Nguyên
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài:
13/5/2025
Bài viết phân tch qu trnh tổ chc và sử dụng lao động bị kết n tại
nhà tù Côn Đảo – một trong nhng nhà tù đưc thành lp sm nht
và c s lưng tù nhân đông đảo nht dưi thời Php thuộc. Dựa trên
phương php lịch sử, kết hp tư liu lưu tr và văn bản hành chính,
bài viết làm rõ cch chính quyền thực dân thiết lp mạng lưi lao
động bị kết n nhằm phục vụ cc mục tiêu kinh tế – kiểm sot. Đng
thời, bài viết cho thy các tù nhân bị phân bổ làm cc công vic như
đp đ, khuân vc vt liu, xây dựng công trnh, mở đường, trng trọt
khai hoang, đnh bắt thủy sản hay lao động phục vụ đời sng cho bộ
my cai trị nhà tù. Đng ch , cc tù nhân làm vic trong điều kin
khắc nghit, chế độ đãi ngộ thp và không c cc bin php bảo hộ
an toàn lao động ti thiểu, do đ họ đã đng lên đu tranh đi quyền
li cho mnh. Nghiên cu này gp phần nhn din vai tr của lao
động hnh sự như một cu phần trong bộ my vn hành của nhà nưc
thực dân, đng thời chỉ ra nhng phản ng xã hội từ pha người tù
trưc tnh trạng lao động p bc tại Côn Đảo.
Ngày hoàn thiện:
25/6/2025
Ngày đăng:
25/6/2025
TỪ KHÓA
Lao động bị kết án
Nhà tù Côn Đảo
Lao động cưỡng bc
Thực dân Pháp
Vit Nam
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.12787
* Corresponding author. Email: trangnt.his@tnue.edu.vn

TNU Journal of Science and Technology
230(08): 370 - 376
http://jst.tnu.edu.vn 371 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Giới thiệu
Lao động bị kết n đưc hiểu là “một loại hnh lao động đưc thực hin bởi các cá nhân nằm
dưi sự kiểm soát của h thng hình sự và/hoặc hành chnh” [1, tr.49]. Để trở thành một người
lao động bị kết án, cá nhân phải trải qua một quy trnh kép: trưc hết là bị kết án bởi các thiết chế
php l và hành chnh sau đ bị tổ chc thành lực lưng lao động cưỡng bc thông qua các quy
định hp thc hóa chế độ làm vic này, cùng vi h thng công cụ tổ chc thực thi điều đ trong
thực tiễn. Trong lịch sử, đặc bit từ thời cn đại, lao động bị kết án là một hình thc phổ biến
trong nhiều xã hội và đưc sử dụng như một ngun nhân lực đặc bit phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế – xã hội. Cc đế quc thực dân như Anh [2], Php [3], Tây Ban Nha, B Đào Nha,
Hà Lan [4], [5] đã sử dụng loại hnh lao động này như một công cụ thiết yếu để thiết lp chủ
quyền và thc đẩy tiến trình thuộc địa hóa các vùng lãnh thổ mi, đặc bit là ở nhng khu vực
biên gii, hẻo lánh hoặc chưa c h thng quản trị hoàn chỉnh.
Tại Đông Dương, sau khi hoàn tt cơ bản quá trình xâm chiếm Vit Nam bằng quân sự vào
năm 1884, chnh quyền thực dân Php đã nhanh chng tổ chc khai thác ngun nhân lực từ các
nhà tù nhằm phục vụ cho hoạt động thuộc địa hóa. Lực lưng lao động bị kết n đưc phân bổ
vào nhiều lĩnh vực như xây dựng và duy trì h thng đường sắt, cầu đường, công trình thủy li,
cơ sở y tế – giáo dục, và các hạ tầng phục vụ hành chính – quân sự. Tại cc đô thị ln như Hà
Nội và Sài Gòn, lực lưng này góp phần quan trọng vào vic kiến thiết các công trình công cộng,
trong khi ở nông thôn, họ bị điều động phục vụ cho vic khai hoang, cải tạo đt đai, hoặc thực
hin các nhim vụ hu cần [6].
Trong mạng lưi nhà tù tại Vit Nam thời thuộc địa, nhà tù Côn Đảo – thành lp từ năm 1862 –
nổi bt như một trong nhng cơ sở giam gi sm nht và ln nht. Do vị tr địa lý bit lp, nhà tù
Côn Đảo không chỉ là nơi giam gi mà còn trở thành một không gian xã hội khép kn, nơi lao
động bị kết n đưc huy động một cách có h thng, phục vụ trực tiếp cho hoạt động duy trì và
phát triển hạ tầng trên đảo [7]. Các hình thc lao động cưỡng bc tại đây rt đa dạng: từ đp đ,
khuân vác vt liu, xây dựng công trình, mở đường, trng trọt khai hoang, đnh bắt thủy sản đến
lao động phục vụ đời sng cho bộ máy cai trị nhà tù. Tuy nhiên, cc tù nhân làm vic trong điều
kin khắc nghit, chế độ đãi ngộ thp và không có các bin pháp bảo hộ an toàn lao động ti thiểu.
Vic nghiên cu về nhà tù Côn Đảo đã đưc nhiều nhà khoa học quan tâm tm hiểu trong
nhiều kha cạnh như lịch sử hnh thành nhà tù, cc hnh thc trừng phạt [8] hay phong trào đu
tranh của tù nhân chnh trị chng lại chnh quyền thực dân [9]. Tuy nhiên, vic phân tích chuyên
sâu về tổ chc lao động cưỡng bc và tính cht bóc lột lao động tù nhân tại đây vẫn còn hạn chế.
Đặc bit, chưa c nhiều công trnh đi sâu vào mi quan h gia quyền lực thuộc địa, hình phạt và
tổ chc sản xut lao động khổ sai trong môi trường nhà tù. Do đ, nghiên cu này nhằm làm rõ
quá trình tổ chc và sử dụng lao động bị kết án tại nhà tù Côn Đảo dưi thời Pháp thuộc. Thông
qua vic phân tch các hoạt động lao động khổ sai tại nhà tù Côn Đảo, nghiên cu sẽ góp phần
nhn din vai trò của lao động bị kết n như một công cụ phục vụ các mục tiêu kinh tế và kiểm
soát của chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương. Đng thời, nghiên cu cũng hưng đến
vic tìm hiểu nguyên nhân và h quả của làn sng đu tranh của tù nhân tại nhà tù Côn Đảo, qua
đ làm rõ nhng yếu t thc đẩy sự phản kháng của lao động bị kết n trưc cc điều kin lao
động khắc nghit và bt công. Bằng vic phân tch cc phong trào đu tranh, nghiên cu không
chỉ cung cp cái nhìn sâu sắc về sự đan xen gia quyền lực, lao động cưỡng bc và quá trình
thuộc địa hóa, mà còn làm rõ vai trò của đu tranh lao động trong vic phản nh và đi kháng vi
h thng quyền lực thuộc địa tại Vit Nam. Nghiên cu sẽ gp phần làm rõ mi quan h phc tạp
gia quyền lực thuộc địa, hình phạt và lao động cưỡng bc, từ đ gip hiểu sâu hơn về cơ chế
khai thác và bóc lột lao động trong bi cảnh nhà tù thuộc địa.
2. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết đưc thực hin theo hưng tiếp cn liên ngành gia lịch sử và xã hội học, đặt trọng
tâm vào vic phân tích các hình thc lao động bị kết n như một cu phần trong h thng thực

TNU Journal of Science and Technology
230(08): 370 - 376
http://jst.tnu.edu.vn 372 Email: jst@tnu.edu.vn
dân Pháp tại Vit Nam. Phương php nghiên cu định tnh đưc sử dụng, dựa trên vic khai thác
và đi chiếu tư liu lưu tr, bao gm: văn bản hành chính thời kỳ thuộc địa, báo cáo của chính
quyền thực dân, quy định php l liên quan đến lao động hình sự. Ngoài ra, bài viết cũng sử dụng
phân tch trường hp điển hình vi Côn Đảo làm trung tâm, nhằm tái hin bi cảnh tổ chc, điều
kin và mục đch của lao động cưỡng bc trong môi trường nhà tù. Vic đặt hin tưng này vào
không gian xã hội – chính trị cụ thể giúp làm rõ tính cht cu trc và nghĩa lịch sử của lao động
bị kết n dưi chế độ thực dân.
3. Kt qu và bàn luận
3.1. Quá trình thành lập nhà tù Côn Đảo và phân loại tù nhân
Côn Đảo là một quần đảo nằm ở vùng biển pha Đông Nam Vit Nam. Vi địa hình cách bit,
Côn Đảo đưc đnh gi là địa điểm l tưởng để xây dựng một h thng nhà tù có quy mô ln, nơi
mà khả năng trn thoát của tù nhân gần như là bt khả thi [7]. Do đ, ngay sau khi chiếm đưc
thành Gia Định, Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Php đã gửi thư cho Bonard – Đô đc Tổng
chỉ huy lực lưng viễn chinh Pháp tại Đông Dương nhn mạnh cần phải nhanh chóng kiểm soát
và chiếm đng Côn Đảo. Ngày 28 thng 11 năm 1861, thực hin chỉ thị của Bonard, chỉ huy
Lespès Nicolas Joachim cùng chiến hạm Norzagaray đã tiếp cn và đặt chân lên Côn Đảo. Tiếp
đ, viên chc Félix Roussel dẫn đầu một phi đoàn ra đảo để khảo st địa hình và chuẩn bị các
điều kin cần thiết nhằm biến nơi đây thành địa điểm lưu đày cho cc loại tội phạm bị xem là
nguy hiểm [10, tr.30]. Như vy, ngày 28 thng 11 năm 1861 đnh du thời điểm Pháp chính thc
đặt chân lên đảo Côn Lôn, và ngày 01 tháng 02 năm 1862 c thể đưc xem là cột mc cho vic
thiết lp nhà tù Côn Đảo – khởi đầu cho một giai đoạn kéo dài của chế độ giam gi và cưỡng bc
lao động dưi sự cai trị của thực dân Pháp tại Vit Nam [10, tr.31].
Trong quá trình hoạt động, s lưng tù nhân tại Côn Đảo liên tục gia tăng, từ 50 phạm nhân bị
giam gi vào năm 1862 lên đến 700 người năm 1874 và đến năm 1890, đã vưt ngưỡng 1.000 tù
nhân. Đặc bit, trong nửa đầu thế kỷ XX, s lưng tù nhân thường xuyên duy trì ở mc trên
2.000 người (xem Bảng 1).
Bng 1. Số lượng tù nhân ở Côn Đảo giai đon 1930 – 1936 [11, tr.156]
Năm
1930
1931
1932
1933
1934
1935
1936
Số lượng (người)
1.992
2.146
2.276
2.483
2.717
2.399
2.436
Ở Côn Đảo, tù nhân đưc chia thành 3 hạng căn c vào tình trạng tội phạm và hạnh kiểm do
giám thị đnh gi. Hạng I gm tù nhân đưc điểm tt nht. Tù nhân hạng này có thể đưc ghi tên
vào danh sách ân giảm, ân xá hoặc đưc phng thch c điều kin nhưng phải do thng đc Nam
Kỳ đề nghị lên Toàn quyền xét duyt. Lực lưng này cũng có thể đưc nhn làm công nhân tư
gia ở cc văn phng. Tù nhân hạng II gm các tù nhân có thể đưc sử dụng vào vic khai thác
thuộc địa và làm nhng vic công ích khác. Hạng III là loại kém nht phải làm công vic khổ sai
nặng nhọc nht, khi cần thì nht riêng (bit giam). Như vy, vic phân hạng tù nhân không chỉ
phản nh cơ chế kiểm sot và đnh gi hành vi, mà cn là cơ sở cho vic tổ chc lao động cưỡng
bc vi các mc độ khác nhau [12, tr.50].
3.2. Các hình thức lao động cưỡng bức
Do đảo nằm bit lp ngoài khơi và hầu như không c cư dân sinh sng, Côn Đảo trở thành
môi trường l tưởng để tổ chc các hình thc lao động cưỡng bc quy mô ln mà không chịu sự
giám sát hay phản ng từ xã hội dân sự. Công vic của cc tù nhân đưc quy định bởi sắc lnh
ngày 17 thng 5 năm 1916 cũng như quy định về sử dụng lao động khổ sai. Theo đ, nhng
người bị kết án và giam gi tại Côn Đảo sẽ đưc tuyển dụng vào “công vic thuộc địa và công
ch cho Nhà nưc, thuộc địa, các thành ph tự trị ...” [13, tr.39], hoặc cho các nhà thầu tư nhân
thuê hoặc làm các công vic bên trong nhà tù như: đan rổ, làm mộc, làm mành, nhuộm vải, may
quần o, mũ, v.v…

TNU Journal of Science and Technology
230(08): 370 - 376
http://jst.tnu.edu.vn 373 Email: jst@tnu.edu.vn
Một trong nhng nhim vụ lao động phổ biến đi vi tù nhân tại nhà tù Côn Đảo là làm vic tại
Sở Củi và Sở Chung B, hai đơn vị lao động sản xut trực thuộc h thng tổ chc khổ sai trên đảo
[12, tr.58]. Tại Sở Củi, tù nhân có trách nhim khai thác và vn chuyển củi phục vụ cho các nhu cầu
sinh hoạt và sản xut của toàn đảo. Loại củi phổ biến nht là củi thường dùng để nu ăn cho tù nhân
tại các khu giam (banh). Tuy nhiên, nhiều loại củi khc đưc sử dụng cho mục đch công nghip
đi hỏi cường độ lao động cao và điều kin khai thác khắc nghit hơn. Cụ thể, củi sử dụng trong lò
vôi và lò gạch phải đưc khai thác từ nhng cây gỗ ln, đi hỏi tù nhân phải chặt, cưa thành từng
đoạn, thm chí phải đào cả gc cây để phục vụ cho quá trình nung vt liu xây dựng. Đặc bit, vic
khai thác củi dùng cho nhà đèn - nơi cung cp nhiên liu cho my pht đin trên đảo - là nặng nề
nht. Loại củi này bắt buộc phải là gỗ cht lưng cao, c đường kính ti thiểu 20 cm và chiều dài
đng 1 m. Bên cạnh đ, củi hầm than cũng yêu cầu cht lưng tương đương, vi đường kính từ 10
đến 15 cm để đảm bảo hiu quả trong quá trình sản xut than. Để đp ng yêu cầu, tù nhân phải lao
động vi cường độ cao, thường xuyên vưt quá khả năng thể cht, trong khi dinh dưỡng và điều
kin sinh hoạt hoàn toàn không đảm bảo. Nhng yếu t này đã khiến lao động tại Sở Củi trở thành
một trong nhng hình thc khổ sai khắc nghit nht tại Côn Đảo [12, tr.59].
Tương tự, nhng người tù nhân còn tham gia vào vic dọn tàu và vn chuyển hàng hóa từ tàu
vào đảo. Trung bình, c khoảng hai tuần lại có một chuyến tàu vn chuyển thóc, cá khô và nhu
yếu phẩm ra đảo. Mỗi khi tàu đến, một tổ lao động thuộc Sở Chỉ Tn (thường gm 50 đến 60 tù
nhân) đưc điều động ra cảng để thực hin công vic bc dỡ hàng ha. Do địa hình vịnh Côn Lôn
cạn, tàu ln không thể cp cảng trực tiếp mà phải neo đu ở khu vực Đ Trắng, gần Hòn Bảy
Cạnh. Từ đây, hàng ha đưc trung chuyển vào bờ bằng các xà lan nhỏ, mỗi chuyến phải dỡ hàng
từ hầm tàu, chuyển qua xà lan, đưa vào bờ, ri tiếp tục bc vác vào kho cha. Tù nhân làm vic
liên tục từ sng đến ti, thm chí có khi phải làm cả đêm dưi nh đèn dầu cho đến khi toàn bộ
hàng ha đưc vn chuyển xong [12, tr.61].
Đặc bit, nhiều tù nhân cn tham gia vào công vic khai thc đ hộc tại khu vực chân Núi
Chúa. Họ đưc phân công nhim vụ khoan lỗ, đặt mìn, nổ đ, đp nhỏ, khuân vác và vn chuyển
đ về nơi tp kết bằng xe đẩy thủ công. Bên cạnh đ, các tù nhân cũng phải tham gia vào cc đội
vn chuyển đ để mở rộng mạng lưi hạ tầng của đảo. Khoảng 50 km đường đ từ Cỏ Ống đến
Bến Đầm và các tuyến nhánh trong thị trn Côn Đảo đưc xây dựng hoàn toàn bằng sc lao động
của các tổ tù làm đường [12, tr.61].
Ngoài ra cc tù nhân cn bị huy động tham gia vào công vic khai thc san hô để nung vôi,
phục vụ cho nhu cầu xây dựng cc công trnh trên đảo như nhà giam, l vôi, tường rào và trụ sở
cai quản. Bãi san hô tự nhiên trải dài từ khu vực L Vôi đến gần Đ Trắng, cách bờ khoảng 2 km,
trở thành ngun nguyên liu chính cho hoạt động sản xut vôi sng. Mỗi kp lao động thường
gm từ 80 đến 100 tù nhân. Vào lúc thủy triều rút, tù nhân bị buộc phải mang theo công cụ như
đn xeo, chong sắt… để ra đến khu vực san hô. Khi nưc dâng trở lại, san hô đưc cht lên xà
lan và vn chuyển về Lò Vôi. Vic khai thc san hô đi hỏi kỹ thut thô sơ và sc lực ln.
Bên cạnh sử dụng lao động kết n phục vụ trong nhà tù, các công ty khai thác mỏ, công ty xây
dựng và đn điền cũng thuê lao động tù nhân ở Côn Đảo. Đi vi các viên chc nhà tù, hoạt động
cho thuê lao động tù nhân này là cách dễ dàng và hiu quả để tạo ra thu nhp. Các doanh nhân
không chỉ trả ph cho nhà tù đi vi nhng tù nhân mà họ tuyển dụng mà còn chịu toàn bộ trách
nhim về thc ăn, quần o và nơi ở của nhng tù nhân đ. Do đ, ngay từ cui nhng năm 1890,
hàng ngàn tù nhân từ Côn Đảo và các nhà tù ở các tỉnh Đng bằng sông Cửu Long đã xây dựng
thành ph cảng mi Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu) [6, tr.85].
Đặc bit, trong bi cảnh chính quyền thực dân Pháp tại khu vực Thi Bnh Dương phải đi
mặt vi tình trạng thiếu hụt lao động nghiêm trọng, nhu cầu tuyển mộ nhân lực từ các thuộc địa
Đông Dương, đặc bit là Vit Nam, ngày càng trở nên cp thiết. H quả là vào năm 1891, một
chuyến tàu chở theo 768 người Vit Nam, trong đ c một s tù nhân chính trị từng bị giam gi
tại Nhà tù Côn Đảo (Poulo-Condore), đã đưc đưa đến New Caledonia dưi danh nghĩa lao động
hp đng [14, tr. 265].

TNU Journal of Science and Technology
230(08): 370 - 376
http://jst.tnu.edu.vn 374 Email: jst@tnu.edu.vn
Như vy c thể thy, lực lưng lao động tù nhân ở Côn Đảo c thể phải thực hin nhiều nhim vụ
khc nhau nhưng nhn chung nhng công vic đ đều nặng nhọc và nguy hiểm đến người lao động.
3.3. Đi sng và làn sng đu tranh ca lao động b kt n Côn Đảo
Mặc dù công vic vt vả và kh khăn, hầu hết tù nhân Côn Đảo không đưc trả lương theo
cch thông thường như lao động tự do. Thực tế, họ bị ép buộc tham gia lao động khổ sai trong
điều kin ti t và quyền li hạn chế. Trong công văn ngày 12/3/1862, Bonard đề nghị tù nhân đi
lao dịch đưc hưởng mỗi tháng 3 francs; tuy nhiên, đề nghị không đưc Bộ Hải quân và thuộc
địa chp thun, v vy vic trả lương cho lao động tù nhân kh mơ h và tưng trưng. Vào cui
nhng năm 1870, chnh quyền đã c gắng tăng năng sut lao động của nhà tù bằng cách cung cp
cho nhng tù nhân lao động khổ sai một mc lương hàng thng khiêm tn. Đến ngày 17 tháng 5
năm 1916, chnh quyền mi đặt ra các quy tắc quản lý khu vực, theo đ nhng người tù nhân
tham gia lao động sẽ nhn hai phần ba sản phẩm của công vic của mình, trong khi phần ba còn
lại đưc phân bổ cho ngân sách của tổ chc quản l. Trường hp nếu công ty ở xa trại giam th
chủ tư nhân phải cung cp thc ăn cho tù nhân, thiết lp các trại đặc bit để giam gi hay chăm
sóc y tế. Ngày 25 thng 3 năm 1927, Thng đc Nam Kỳ đã n định gi thuê lao động hình sự ở
Nam Kỳ là 0p.45 một ngày, hoặc 0p.25 nửa ngày cho một tù nhân [13, tr.40].
Tuy nhiên, trên thực tế, nhng người lao động bị kết án này thường không nhn đủ s tiền
lương mà cn bị cp phạt và đnh đp. Không chỉ vy, lực lưng này cn đi mặt vi điều kin
sng thiếu thn và khắc nghit, bnh tt, kit sc và tai nạn lao động trong môi trường làm vic
không đảm bảo an toàn. Mặc dù không có s liu thng kê, nhưng không thể phủ nhn rằng
nhng công vic như đp đ, đn củi, ly san hô, làm đường đã gp phần làm tăng tỷ l tử vong
và bnh tt ở tù nhân. V dụ như nhng tù nhân đi đn gỗ phải đi mặt vi đường dc, mưa trơn,
vắt, muỗi và ăn ung kham khổ thiếu thn, do đ nhiều người không ly đủ s lưng gỗ quy định
và phải chịu sự trừng phạt. C người không chịu đựng đưc đã phải tự chặt ngón chân, ngón tay
để thoát khỏi khổ dịch ở Sở Củi [12, tr.60].
Tương tự, nhng tù nhân khi khai thc đ cũng phải đi mặt vi vic bị đ sp, trong đ một
vụ sp đ ln diễn ra ở Ni Cha vào thng 9 năm 1932 làm chết tại chỗ 5 người, trong đ c 3
người tù chính trị và làm bị thương nhiều người khác. Nhng người quản l tù đã điều động hàng
trăm người ở nhng chỗ gần đ đến kích nhng tảng đ ln để ly thi thể hoặc đưa nhng người
bị thương ra khỏi đng đổ nt. Một tù nhân Côn Đảo thời kỳ 1939 - 1945 cũng cho biết khoảng
trưc chiến tranh thế gii, nhng người trong kp đp đ Sở Chỉ Tn còn thy có một tm bia
dựng ở công trường đ Ni Cha ghi lại một tai nạn sp đ: 19 người bị chết, 7 người bị thương
nặng, 11 người bị thương nhẹ. Tù nhân Sở Chỉ Tn đã tuyt thực 5 ngày để phản đi chế độ khổ
sai giết người và dựng bia kỷ nim nhng người bị nạn, trừng phạt bọn cai tù ở công trường đp
đ và cải thin chế độ lao dịch quá nặng nề [12, tr.62].
Nhng người tù nhân tham gia làm đường cũng bị bc lột và đnh đp tàn bạo. Hàng ngày, họ
phải g lưng dưi nắng rt, chân đạp lên mặt đường trải đ dăm sắc cạnh, ra sc kéo trục h lô
lăn đường nặng cả tn. Trong khi đ “bọn ngục tt trực sẵn bên cạnh, thy ai hơi trễ nải một chút
là múa hèo, múa gy giáng xung chan chát, không hề ni tay mặc k cho tù bể đầu, gãy xương.
Nhanh lên, mau lên! Làm hi hả đi! Bả vai, chân tay bị thương đau đn, m hôi ra như tắm ưt
đẫm, thân lưng trần trụi trông rõ lằn ngang, lằn dọc dày đặc” [12, tr.62]. Thm ch, để tiết kim
thời gian và chi phí vn chuyển, tù nhân phải ngủ ở ngoài trời, dọc theo nhng con đường họ làm
vic. Có lẽ điều kin ở đây t nht là ở nhng vùng cao xa xôi, nơi mà nạn đnh đp và làm vic
quá sc kết hp vi tỷ l mắc bnh st rét và kiết lỵ cao đã tàn ph cc đội lao động trong tù.
Công vic ly san hô cũng khiến nhng tù nhân phải đi mặt vi nhiều nguy hiểm. Nhiều khi
họ bị trưt chân, đt dây buộc, hoặc đn xeo bt mạnh qut trở lại, tung my người ngã xung
đm san hô tua tủa sắc nhọn. Vỡ đầu, gãy tay, gãy chân, đt thịt, li xương… là chuyn thường
xảy ra. Người tù phải ngâm mnh dưi nưc cả chục tiếng đng h trong khung cảnh đi rét, mt
mỏi hay bnh tt nếu không mun chịu đn roi của quản ngục. Có khi trời sắp nổi cơn giông, bọn