
PHỜ CANG THU XA o QUANG NGẢI (THẺ KY XVIII
ĐÉN NỬA ĐẦU THÉ KỶ XX) TRONG TỎNG THẺ CÁC
PHỐ CẢNG CỎ Ở MIÈN TRUNG VIỆT NAM
Nguyễn Vãn Đãng* - Đinh Thanh H oa*
Cuối thời trung đại trong lịch sử Việt Nam, ở miền Trung có hai vấn đề đáng
lưu ý là sự dịch chuyển trung tâm quyền lực chính trị từ phía Bắc vào và sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa (chủ yếu trong 2 thế kỷ XVII-XVIII). Một
trong những hệ auả cũng là động lực của kinh tế hàng hóa là sự hưng khởi của các
phố cảng miền Trung như Thanh Hà, Bao Vinh (Huế), Hội An (Quảng Nam), Đà
Nang, Nước Mặn - Gò Bồi (Bình Định), Thu Xà (Quảng Ngãi),... Những thành tựu
nghiên cứu về các phổ cảng miền Trung đã có nhiều thành tựu 1 nhưng cái tên Thu
Xà vẫn còn rất xa lạ trong việc nghiên cứu về các phố cảng cổ. Bài viết này trên cơ
sở các tư liệu thành văn và kết quả của quá trình điền dã tại địa phương, chúng tôi
muốn phác họa vài nét về hoạt động của phố cảng Thu Xà. Đồng thời dựa trên các
thành lựu nghiên cứu trước đây về các phố cảng để cố cái nhìn tổng thể về các phổ
cảng ở miền Trung nhằm rút ra một số đặc điểm về sự hình thành, các đặc trưng
trong hoạt động thương mại, sự suy tàn nhằm góp phần vào việc nhìn nhận một
cách tổng thể về các phổ cảng cổ miền Trung cuối thời trung cận đại mà trong đó có
không ít đã không còn trên thực địa. Từ đó, góp phần vào công cuộc phát triển bền
vững các đô thị hiện nay.
1. Khái quát về phố cảng cổ Thu Xà ở tỉnh Quảng Ngãi
1.1. Th u Xà từ thể kỷ X V III đến cuối thế kỷ X IX
Thu Xà là tên gọi chính thức của phố cảng từ thời Pháp thuộc, thời Nguyễn gọi
là Tân An phố thuộc tổng Nghĩa Hà, huyện Chương Nghĩa, phủ Tư Nghĩa, tỉnh
* TS., Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
** Học viên Cao học, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế.
1. Đỗ Bang, 1996, Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII - XVIII, Nxb Thuận Hóa, Huế,
Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang, Nguyễn Văn Đăng, 1999, Đô thị Việt Nam dưới thời Nguyễn, Nxb
Thuận Hóa, Huế ; Lưu Trang, 2005, Phổ cảng Đà Nằng từ ỉ802 đến 1860, Nxb Đà Nằng...
261

VIỆT NAM HỌC - KỶ YỂU HỘI THẢO QUỐC TÉ LẦN THỨ T ư
Quảng Ngãi; nay là thôn Thu Xà, một trong 4 bốn thôn (Hòa Bình, Hòa Tân, Thu Xà,
Hòa Phú) của xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, cách thị xã Quảng Ngãi 10 km về
hướng Đông. Thu Xà có diện tích tự nhiên là 197 ha, 580 hộ hộ và 3070 nhân khẩu1.
Thu Xà, phía Nam giáp sông Vực Hồng (nhánh của sông Vệ), chảy ra cửa Lỡ;
phía Bắc cách Thu Xà 4km là sông Trà Khúc, được liệt vào “hạng đại xuyên” dưới
thời Tự Đức, đổ ra cửa cổ Lũy (hay Đại cổ Lũy, cửa Đại). Đại Nam nhất thống chí
thời Tự Đức cho biết ở Quảng Ngãi có 2 cửa biển là Sa Kỳ và Đại cổ Lũv là những
“cửa biển lớn, nước sâu, cạn, tàu thuyền ra vào đều do đấy...” 2. Hai cửa biển trên
là những cửa ngõ giao thương của Quảng Ngãi với trong nước và nước ngoài.
Thu Xà khởi phát từ vạn Tiên Sà - tên làng Việt gốc từ các tỉnh phía Bắc vào
vùng đất này lập nên vạn Tiên Sà, làng Thu Xà (do các họ Trần, Nguyễn, Lê, Đặng
khai phá). Địa bạ ghi tên làng là Tăng Sai xã có địa giới như sau: “Đông giáp sông,
Tây giáp thôn Ngòi Tôm và thôn Phủ Đăng, Nam giáp thôn Ngòi Tôm, châu Yên
Mô, Bắc giáp thôn Phú Đăng, xã Long Phụng, lập cột đá làm giới" 3. Tên Thu Xà
và các làng xã kế cận như Làng Phú Nhơn (còn gọi là Phủ Cường); thôn Phú Đăng
(Phú Thứ), thôn Ngòi Tôm (hay Long Khê - Hà Khê) đều có trong danh mục làng
xã và trên bản đồ vẽ đầu thế kỷ XX ở vị trí D6 qua phân tích địa bạ của tác giả
Nguyễn Đình Đầu 4.
Người Hoa có vai trò quan trọng trong sự hình thành phố cảng Thu Xà. Do
những tác động của hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, xã hội, đặc biệt là khi nhà Minh bị
Mãn Thanh lật đổ, người Hoa (Minh Iỉương và Hoa kiều) từ Quảng Đông, Quảng
Tây, Phúc Kiến, Hải Nam xuôi theo đường biển về phương Nam tìm đất sống. Đại
Nam nhất thong chí viết thời Tự Đức cho biết phố thị: “C/ỉỢ Xích Thổ (huyện
Chương Nghĩa) củ phố Mình Hương''5.
về thời điểm người Hoa đến Thu Xà, căn cứ vào nội dung tờ thị: u77ự ti phong
chức của chúa Nguyễn Phúc Chu cho Trần Công Vinh, giao cho ông này nhiều việc,
trong đó có việc quản lý trông coi dân chánh hộ trong các huyện, tổng, xã, thôn,
1. ủy ban nhân dân xã Nghĩa Hòa, 2010, Báo cáo kết quả tổ chức thực hiện phong trào Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa năm 2010
2. Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, Đại Nam nhất thống chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế,
trang 433-435.
3. Nguyễn Đình Đầu, 2010, Nghiên cún địa bạ triều Nguyền, Quàng Ngãi, Nxb Đại học quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh, trang 229
4. Nguyễn Đình Đầu, 2010, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Quảng Ngãi, Nxb Đại học quốc
gia thành phố Hồ Chí Minh, trang 289-304.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn, 1992, Đại Nam nhất thong chí, tập 2, Nxb Thuận Hóa, Huế,
trang 433-435.
262

PHỐ CẢNG THU XÀ Ở QUẢNG NGÃI.
phường thuộc bản phủ cùng thương nhân người Hoa”1 viết năm Chính Hòa thứ 12
(1691) để suy đoán Hoa thương tụ cư khá đông ở Thu Xà trước năm 1691. Từ đó,
neười Minh Hương đến sinh sống khắp nơi trong tỉnh, sau đó qui tụ đông đảo ở
Tiên Sà.
Thời điểm người Hoa tập trung buôn bán ở Thu Xà là từ giữa thế kỷ XVIII,
căn cứ vào văn khế bán hai gian quán và đất của bà Lê Thị Vạn cho các họ thuộc
lân Hương Xuân2 vào năm 1790 cho thấy nhiều người Hoa mua đất: “Phụ nhân tên
là mẹ Độ tức Lê Thị Vạn ở thôn Ngòi Tôm phụ lũy, huyện Chương Nghĩa, phủ Hòa
Nghĩa kê khai về việc bán đứt. Do tôi có tạo mãi một ngôi quán tranh gồm 2 gian và
đất liền 1 khoảnh tại địa phận thôn Ngòi Tôm phụ lũy, đông cận đường cái, Tây cận
đất vườn ông Cai Đình Hân, Nam cận miếu thờ vọng, Bắc cân đất nhà thầy Thận,
Đông Tây tứ chí như trong văn khế này, nay đem bản đứt cho thầy Trình, thầy Lộc,
thầy Thái, thầy Nhung, thầy Tính và toàn lân (Hương Xuân - TG) để làm miếu, y
giả tiền 40 quan... Thái Đức năm thứ 13, ngày 19 tháng giêng”0. Chính điêu đó đã
góp phần hình thành cảng thị ở Thu Xà.
về tổ chức người Hoa, có thể xem rằng lân Hương Xuân !à tổ chức đầu tiên
của người Minh Hương khi định cư tại Thu Xà. Mặt khác, trong Đồng khánh địa dư
chí có nhắc đến 2 làng “Minh Hương cựu” và “Minh Hương tân thuộc” (hay Tân
Thanh)”. Sự xuất hiện tên hai làng Minh Hương cho biết thời điểm người Hoa đến
Quảng Ngãi trong thế kỷ XVII - XVIII sống thành cộng đồng Minh Hương (cựu);
những người nhập cư sau đó tách riêng thành cộng đồng Minh Hương tân thuộc vào
khoảng năm 18434.
Năm Gia Long thứ 2 (1803), số đinh 108 người của Đại Minh khách thuộc của
18 họ5 sinh sống khắp các huyện trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong đó, tập trung đông
1. Đoàn Ngọc Khôi, 2010, "Vai trò cùa thương cảng cổ Thu Xà trong phát triển kinh tế nông
thôn Quảng Ngãi”, Đặc san Tư Nghĩa 35 năm xây dụng và phát triển, tiang 43-45.
2. Lân là hình thức tổ chức dưới tổ chức xã Minh Hương, lúc này lân Hương Xuân phụ thuộc
Minh Hương xã Hội An. Xem thêm Nguyễn Chí Trung, 2010, Cư dân Faifo - Hội An trong
lịch sử, Nxb Đà Nang, trang 173.
3. Theo văn khế trên có thể nhận định người Hoa có mặt khá đông đảo ở Thu Xà trước năm
1790. Sổ đinh lưu giữ tại chùa Ông, Quảng Ngãi. Bản dịch của Trần Đại Vinh, giảng viên
Trường Đại học Sư phạm Huế.
4. Xem thêm Đoàn Ngọc Khôi, 2010, “Vai trò của thương cảng cổ Thu Xà trong phát triển
kinh tế nông thôn Quảng Ngãi”, Đặc san Tư Nghĩa 35 năm xây dựng và phát triển, trang 43
- 45; Nguyễn Văn Đăng, 2012, "Góp thêm vài tư liệu về sự hình thành cộng đồng người Hoa
ở Quảng Ngãi", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Ả, số 4, trang 28-36.
5. Chúng tôi thống kê dựa vào bản dịch "Sổ bộ nhân đinh cùa Đại Minh Khách thuộc, phù
Quảng Ngãi năm 1803". Đó là các họ: Nguyễn, Trần, Ngô, Túc, Ao, Lâm, Lý, Tăng, Cô, Từ,
Tạ, Thái, Lưu, Trịnh, Tào, Cư, Tu, Quan.
263

VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QƯÓC TÉ LẦN THỨ TƯ
nhất ở thuộc Hà Bạc, huyện Bình Sơn (94/108 dân đinh), số còn lại cư trú ở huyện
Chương Nghĩa và huyện Mộ Hoa. Sau đó, các số liệu thống kê người Minh Hương
từ đinh bộ tại Thu Xà cho thấy họ đều sinh sống tại Tân An phố cùng người Việt1.
Cùng với quá trình nhập cư đến “vùng đất mới” của người Hoa, cư dân Việt -
Hoa đã tận dụng những ưu thế về tự nhiên, gần cửa sông, cửa biển để đẩy mạnh các
hoạt động thương mại ở vùng này; từ đó thương cảng Thu Xà manh nha hình thành
đầu thế kỷ XVIII. Họ thành lập các điểm thu mua các mặt hàng nông, lâm, thổ sản ở
Quảng Ngãi rồi bằng phươne tiện tàu thuyền, ghe bầu cung ứng cho thị trường
trong ngoài nước, chở hàng sane Hội An để xuất khẩu hoặc xuất khẩu trực tiếp qua
cửa Cổ Lũv. Vào cuối thế kỷ XVIII, khi người Hoa tụ cư đôns hơn, thương cảng
Thu Xà sầm uất thì người Hoa đã bắt đầu xin nhượng đất đai của thôn Thái Hòa phụ
lũy để lập phố Tân An vào năm Gia Long thứ nhất. Điều này được ghi trong đơn
giao kết giúp đỡ nhau giữa thôn Thái Hòa và xã Minh Hương: “Ngữa trông ơn do
địa bộ thôn chúng tỏi vốn trước có người Hoa (Khách nhân) đến buôn bán đã trình
với thôn chúng tôi để thiết lập pho Tân An nhằm lập nghiệp cư ngụ sinh con cái,
kính trời dựng chùa, làm nhà, hai làng xã chúng tôi giúp khi ngặt, đỡ khi yếu, kết
làm hòa hão... Nay xã ấy khan xin nhượng mặt pho Tân An cho xã ấy nhận lãnh,
ngày đêm tuần phòng để trừ trù bọn gian. Nếu mà nhiễu dân thì cam chịu lỗi nặng,
còn như việc xuân kv thu tế của thôn chúng tôi, thì xã ấy sẽ đến đình Trung hầu hái,
truyền từ đời con sang đời cháu để un đúc hòa khí. Hai bên đã giao ước... '2. Như
vậy thời điếm ra đời chính thức của Tân An phố là năm 1802.
Thế kỷ XIX, các thương thuyền Trung Hoa đến Tân An phố ngày càng đông.
Phần lớn trong số này không nhập tịch, trở thành Hoa kiều, họ đi thuyền đến và trở
1. Văn bản Hán - Nôm về phố cổ gần như duy nhất còn ìại ở chùa Ông cho thấy số đirh và tên
gọi phố, tên gọi người Hoa ở một số thời điểm trong thế kỷ XIX qua bảng thống kê sau :
Năm Số dân đinh Dân số phỏng đoán Danh xung trong văn bản
1803 108 432 Đai Minh khách thuôc
1810 27 108 Thái Hòa phố
1811 40 160 Tân An phổ
1.821 31 124 Minh Hươnp xã
1830 36 144 Minh Hương xã
1846 59 236 Tân An phố
1848 63 252 Tân An phố
1864 55 220 Tân An phố
2. Văn bản Hán Nôm lưu giữ tại chùa ông, tỉnh Quàng Ngãi. Bản dịch của Trần Đại Vinh,
giảng viên Đại học Sư phạm Huế.
264

PHỐ CẢNG THU XÀ Ở QUẢNG NGÃI.
vè Trung Hoa theo mùa gió, một bộ phận ở lại để gom hàng, lập các kho hàng, xuất
nhập hàng hóa từ các tàu buôn khác.
Bên cạnh hoạt động của Hoa thương, thương nhân bản địa là những người
trung gian trong việc cung cấp các nguồn hàng để xuất cảng. Họ thường trực tiếp
thu gom hàng hóa trong các xóm làng người Việt hoặc lặn lội lên tận làng nóc của
các dân tộc thiểu số ở vùna núi phía Tây Quảng Ngãi để thu mua quế, thiết lập các
chợ ở các nguồn để trao đổi các mặt hàng lâm, thổ sản ở miền núi, chở về bán cho
người Hoa để xuất khẩu. Ngoài ra, thương nhân bản địa ở phố Tân An và những
vùng lân cận thường đóng những chiếc ghe bầu lớn để thông thương, kết nối nguồn
hàng hóa của nhiều địa phương, hình thành luồng thương mại giữa phổ cảng Thu
Xà với thị trường nội địa.
Có thể nói, cùng với những thiết chế văn hóa tín ngưỡng của người Việt tại
phố cảng, cộng đồng người Hoa ở hai làng Minh Hương bị Việt hóa ngày càng
mạnh cùng với những dấu tích được tìm thấy của các chùa tứ bang, hội quán, chùa
Bà, chùa Ông' là những dấu ấn quan trọng cho hoạt động kinh tế, văn hóa của người
Hoa trên đất Thu Xà. Có thể nói, người Hoa ở Tân An phố đã để lại những dấu ấn
sâu sắc, góp phần làm phong phú thêm di sản văn hóa trên đất Thu Xà hiện nay.
Trong quá trình chung sống, cư dân Hoa - Việt đã sát cánh bên nhau để xây dựng
phố cảng và đẩy mạnh các hoạt động thương mại. Phố cảng Tân An phát triển khá
thịnh vượng như là một tiền cảng (cảng phía trước) để gom hàng về cảng Hội An
(tuy đang suy tàn) hoặc trực tiếp bán ra nuớc ngoài.
1.2. Sự phát triển của phổ cảng Thu Xà từ năm 1885 đến giữa thế kỷ XX
Với một phố cảng làm động lực cho sự phát triển thương mại trong vùng như
Tân An phố, người Pháp đã chú ý đến khu vực kinh tế năng động này, độc chiếm
phố cảng, tranh giành những nguồn lợi với người Hoa: “ Viên Chánh sứ tỉnh cho vời
và buộc viên Bố chánh cùng với viên Tri huyện Tư Nghĩa phải kỷ vào Sớ tâu về
triều đình Huế lúc đó là vua Hàm Nghi (1885 - 1888) nhường lại khu phổ Thu Xà
làm đất nhượng địa”2. Lúc này, Tân An phố chính thức mang tên phố Thu Xà với
diện mạo mới mang dấu ấn “nhượng địa” thời Pháp thuộc.
về dãn số, thời Pháp thuộc (1885-1945), ngoài số dân Minh Hương, Tân
Thanh định cư lâu dài, Thu Xà còn thường xuyên đón một lượng khách lớn là các
Hoa Kiều. Họ đến tạm trú để thu mua hàng hóa từ khắp nơi trong tỉnh. Tác giả
Nguyễn Đình Đầu có nhắc đến dân số toàn tỉnh Quảng Ngãi với 6 huyện, 23 tổng,
1. Di tích chùa Ông còn khá nguyên vẹn được công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1983.
2. Đoàn Ngọc Khôi, 2010, “Vai trò của thương cảng cổ Thu Xà trong phát triển kinh tế nông
thòn Quảng Ngãi”, Đặc san Tư Nghĩa 35 năm xây dựng và phát triển, trang 43 - 45.
265

