BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ KHÁNH CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
HÀ NỘI, 2020
BỘ NỘI VỤ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
LÊ KHÁNH CƯỜNG
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 9 34 04 03
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. NGUYỄN NGỌC THAO
2. TS. NGUYỄN THỊ HƯỜNG
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các tư
liệu, số liệu được sử dụng và trích dẫn trong luận án này là trung thực và có nguồn
gốc, xuất xứ rõ ràng, chính xác. Kết quả nghiên cứu của luận án chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Lê Khánh Cường
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án với đề tài “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam”, trước hết tôi xin đặc biệt cảm ơn 2 thầy
hướng dẫn đã tận tâm giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.
Tác giả luận án xin trân trọng cám ơn Ủy ban nhân dân các tỉnh, huyện, xã và
bà con nhân dân nơi đề tài tiến hành nghiên cứu, điều tra, các nhà quản lý, nhà khoa
học...đã tạo những điều kiện tốt nhất, tham gia góp ý kiến khoa học, cung cấp tài liệu,
ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu, điều tra khảo sát để hoàn
thành luận án.
Xin bày tỏ lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn hỗ trợ, động
viên, chia sẻ và tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi vượt qua những khó khăn để hoàn
thành luận án này.
Với những điều kiện khách quan và chủ quan, chắc chắn kết quả nghiên cứu
của luận án còn có những thiếu sót. Tác giả luận án rất mong tiếp tục nhận được những
ý kiến đóng góp để luận án được hoàn thiện hơn góp phần tích cực cho công cuộc xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam nói chung và ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói
riêng trong những năm tới.
Hà Nội, ngày 10 tháng 7 năm 2020
Tác giả luận án
Lê Khánh Cường
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................... i
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ ............................................ iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG ........................................................ 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về giảm nghèo bền vững ......................... 14
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về giảm nghèo bền vững trên thế giới ........... 14
1.1.2. Các công trình trong nước ...................................................................... 18
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước về giảm nghèo bền
vững ................................................................................................................. 24
1.2.1. Các công trình trên thế giới .................................................................... 24
1.2.2. Các công trình trong nước ...................................................................... 30
1.3. Đánh giá chung về tổng quan tình hình nghiên cứu ................................... 36
1.3.1. Những nội dung nghiên cứu và luận án có thể kế thừa ............................ 36
1.3.2. Những khoảng trống và giả thuyết tập trung nghiên cứu ......................... 38
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ................................................................................... 39
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG ...................................................................................... 41
2.1. Những khái niệm cơ bản ............................................................................ 41
2.1.1. Quan niệm về nghèo, đói ........................................................................ 41
2.1.2. Xóa đói, giảm nghèo ............................................................................... 46
2.1.3. Giảm nghèo bền vững............................................................................. 48
2.1.4. Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ............................................ 49
2.2. Nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về giảm nghèo bền
vững ................................................................................................................. 52
2.2.1. Nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ........ 52
MỤC LỤC
2.2.2. Tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững 52
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ............................. 54
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ............................................................... 58
2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước trong hoạt động giảm nghèo bền vững ở một
số nước và địa phương ..................................................................................... 64
2.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở một số quốc
gia trên thế giới ................................................................................................ 64
2.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại một số địa
phương Việt Nam ............................................................................................. 73
2.3.3. Bài học kinh nghiệm cho các tỉnh miền núi phía Bắc về quản lý nhà nước
về giảm nghèo bền vững .................................................................................. 76
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ................................................................................... 77
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM ................ 79
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam ................................................................................................... 79
3.1.1. Điều kiện tự nhiên của các tỉnh miền núi phía Bắc ................................. 79
3.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc ........................ 84
3.2. Thực trạng nghèo đói các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ...................... 87
3.2.1. Đặc điểm nghèo đói và các nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo bền vững
tại các tỉnh miền núi phía Bắc .......................................................................... 87
3.2.2. Hiện trạng nghèo đói tại các các tỉnh miền núi phía Bắc ....................... 102
3.3. Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc trong thời gian qua ........................................................................... 111
3.3.1. Ban hành chính sách mới về giảm nghèo bền vững .............................. 111
3.3.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững .............................................................................................. 119
3.3.3. Nguồn lực tài chính để thực hiện giảm nghèo bền vững ....................... 131
3.3.4. Thanh tra, kiểm tra và chế độ báo cáo, phối hợp giữa các cấp .............. 136
3.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam .......................................................................... 141
3.4.1. Những ưu điểm ..................................................................................... 141
3.4.2. Những tồn tại hạn chế ........................................................................... 145
3.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế .............................................. 148
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ................................................................................. 151
CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM ........................................................................................... 153
4.1. Quan điểm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới ............................................................ 153
4.1.1. Đổi mới nội dung, phương thức xây dựng chính sách giảm nghèo bền
vững ............................................................................................................... 153
4.1.2. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về
giảm nghèo bền vững phải đặc biệt coi trọng ................................................. 156
4.1.3. Về nguồn lực tài chính để thực hiện giảm nghèo bền vững phải được triển
khai có hiệu quả và huy động mọi nguồn lực trong xã hội để thực hiện công tác
giảm nghèo bền vững ở mỗi địa phương ........................................................ 157
4.1.4. Việc kiểm tra, giám sát công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền
vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc phải thực hiện thường xuyên và có kế hoạch
....................................................................................................................... 158
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững các tỉnh
miền núi phía Bắc .......................................................................................... 159
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách về giảm nghèo bền vững .......... 159
4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy thực hiện quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam .............................. 169
4.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng các nguồn lực ........................ 171
4.2.4. Giải pháp về công tác thanh tra, kiểm tra .............................................. 178
4.3. Một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp ............................................ 179
4.3.1. Đối với Quốc hội .................................................................................. 179
4.3.2. Đối với chính phủ ................................................................................. 180
4.3.3. Đối với các địa phương ở miền núi phía Bắc nước ta ........................... 181
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 ................................................................................. 184
KẾT LUẬN .................................................................................................... 186
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ............................................... 189
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 190
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT Từ viết tắt Nguyên nghĩa
Ngân hàng phát triển Châu Á 1 ADB
An ninh quốc phòng 2 ANQP
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á 3
4 ASXH An sinh xã hội
5 BHYT Bảo hiểm y tế
6 BTB Bắc Trung Bộ
7 CSXH Chính sách xã hội
8 CSHT Cơ sở hạ tầng
9 CSDT Chính sách Dân tộc
10 CT-XH Chính trị xã hội
11 DA Dự án
12 DHMT Duyên hải Miền Trung
13 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
14 DTTS Dân tộc thiểu số
15 ĐBKK Đặc biệt khó khăn
16 HĐND Hội đồng nhân dân
17 HĐCS Hoạch định chính sách
18 HĐDT Hội đồng dân tộc
19 HTCS Hạ tầng cơ sở
20 HTKT Hạ tầng kinh tế
21 GDP Tổng sản phẩm trong nước
i
STT Từ viết tắt Nguyên nghĩa
22 KCB Khám chữa bệnh
23 KT-XH Kinh tế - xã hội
24 LLLĐ Lực lượng lao động
25 NLLĐ Nguồn lực lao động
26 NSTW Ngân sách trung ương
27 NN Nhà nước
28 NHTM Ngân hàng thương mại
29 NXB Nhà xuất bản
30 QL Quản lý
31 TB-XH Thương binh - Xã hội
32 UBND Ủy ban nhân dân
33 UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
34 USD Đô la Mỹ
35 XĐGN Xóa đói giảm nghèo
36 XHH Xã hội hóa
37 XTĐT Xúc tiến đầu tư
38 WB Ngân hàng thế giới
ii
Bảng 3.1 Tổng hợp phân loại hộ nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam từ năm 2016 – 2018 ................................................................................. 89
Bảng 3.2. Đặc điểm hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ............. 91
Bảng 3.3 Tổng hợp diễn biến hộ nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam từ năm 2016 – 2018 ............................................................................... 103
Bảng 3.4 Tổng hợp diễn biến hộ cận nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam từ năm 2016 – 2018 ............................................................................... 106
Bảng 3.5. Tổng hợp mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ
nghèo của một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam từ năm 2016 - 2018 ....... 109
Bảng 3.6. Tác động của các chính sách đến hoạt động sản xuất và đời sống của
hộ gia đình ..................................................................................................... 112
Bảng 3.7. Đánh giá mức độ hạn chế trong xây dựng và thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững đối với các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay ................ 114
DANH MỤC CÁC BẢNG
iii
Hình 2.1. Các tiêu chí phản ánh giảm nghèo bền vững ..................................... 49
Hình 3.1. Các tiểu vùng địa lý tự nhiên của các tỉnh miền phía Bắc Việt Nam . 80
Hình 3.2. Đặc điểm hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ............. 92
Hình 3.3. Mức độ tham gia của người dân vào quá trình xây dựng biện pháp
thực hiện chính sách ....................................................................................... 117
Hình 3.4. Sự phù hợp của chính sách với địa phương và người nghèo ............ 118
Hình 3.5. Phân cấp quản lý Chương trình XĐGN ........................................... 122
Hình 3.6. Nhận xét về hiệu quả hoạt động tuyên truyền chính sách ................ 126
Hình 3.7. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy để thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững ........................................................................................................ 128
Hình 3.8. Nhận xét của cán bộ, công chức xã về hiệu quả trong phối hợp thực
hiện chính sách ............................................................................................... 129
Hình 3.9. Nhận xét của công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên về hiệu
quả phối hợp thực hiện chính sách ................................................................. 130
Hình 3.10. Quy trình phân bổ ngân sách của Chương trình giảm nghèo bền vững
....................................................................................................................... 132
Hình 3.11. Tỷ lệ người dân tham gia kiểm tra, giám sát qúa trình thực hiện chính
sách ................................................................................................................ 139
Hình 3.12. Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội trong kiểm tra, đánh
giá quá trình thực hiện chính sách .................................................................. 140
Hình 4.1. Những chính sách đang được thực hiện có thể giúp người dân thoát
nghèo. ............................................................................................................ 154
Hình 4.2. Cải thiện cuộc sống của người nghèo khi thực hiện các chính sách xóa
đói giảm nghèo đến nay.................................................................................. 155
Hình 4.3. Mức độ tham gia đề xuất các biện thực hiện chính sách của người
nghèo ............................................................................................................. 169
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, xóa đói giảm nghèo được mọi quốc gia trên thế giới coi như một
yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc về mặt đạo đức, xã hội, văn hóa, kinh tế chính trị. Bởi vì
đói nghèo không những là lực cản lớn nhất của sự phát triển mà nó còn gây nên sự
tàn phá ghê gớm về đạo đức tinh thần, làm thiếu an toàn xã hội, làm suy kiệt kinh tế
và làm suy sụp về chính trị, phương hại đến an ninh. Đối với Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, giảm nghèo là một trọng trách lớn của toàn Đảng, toàn dân. Đảng,
chính phủ, nhân dân Việt Nam cùng nhiều tổ chức trong nước và quốc tế tại Việt
Nam đang cùng nhau tìm kiếm những giải pháp tiếp cận để giảm tỷ lệ nghèo đói,
đặc biệt là ở các vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng sâu,
vùng xa. Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam được
thực hiện từ nhiều năm qua, là Chiến lược phát triển toàn diện về tăng trưởng kinh
tế và xóa đói giảm nghèo phê duyệt tháng 5/2002, được coi là một bộ phận cấu
thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 2001
– 2010, đặc biệt là Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn
2012 -2015 được tổ chức triển khai và thực hiện đã mang lại cho đồng bào ở các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam những công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu, cải thiện
một phần đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, góp phần tích cực giảm tỷ lệ
đói nghèo, nâng cao niềm tin của đồng bào vào đường lối phát triển kinh tế của
Đảng, Nhà nước. Qua đó giúp thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước
tăng lên 1,6 lần so với cuối năm 2011 (riêng các hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã
nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi tăng gấp 2,5
lần); tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm bình quân 2%/năm (riêng các huyện, xã nghèo
giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2011 – 2015, thực hiện đồng
bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo để cải thiện điều kiện sống của người
nghèo, trước hết là về y tế, giáo dục, văn hoá, nước sinh hoạt, nhà ở; người nghèo
tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn với các dịch vụ xã hội cơ bản, cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội ở các huyện, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư
đồng bộ theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông,
điện, nước sinh hoạt…
1
Giảm nghèo ở Việt Nam đã đạt được thành tựu đáng kể và được quốc tế ghi
nhận: tỷ lệ nghèo trên đầu người (tính theo chi tiêu tiền tệ) đã giảm mạnh từ 57%
năm 1990 xuống còn 13.5% năm 2014. Nhận thức được chất lượng cuộc sống của
con người liên quan đến nhiều khía cạnh khác ngoài thu nhập, năm 2015, Chính phủ
Việt Nam đã ban hành chuẩn nghèo đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020,
đánh dấu bước quan trọng trong quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ đo lường
nghèo theo thu nhập sang đo lường đa chiều. Là một trong số những nước đi đầu ở
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương trong áp dụng phương pháp đo lường nghèo đa
chiều để giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh, trong Kế hoạch phát triển Kinh tế Xã
hội (2016-2020), Việt Nam đã đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo đa chiều bình quân
cả nước là 1% - 1.5%/năm và riêng các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn giảm
4%/năm. Đo lường nghèo theo cách tiếp cận đa chiều, bao gồm cả thu nhập và các
chiều phi tiền tệ như nhà ở, tiếp cận nước sạch và vệ sinh, dịch vụ giáo dục, y tế,
bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội đã được sử dụng trong thiết kế Chương trình Mục
tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững (CT MTQG GNBV) giai đoạn 2016-2020 và
trong quá trình rà soát hộ nghèo để xác định đối tượng hưởng lợi của Chương trình,
cũng như các chính sách giảm nghèo và trợ giúp xã hội. Việt Nam có gần 70% dân
số làm nông nghiệp tại các vùng nông thôn và vùng dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng
xa nơi tập trung hầu hết các hộ nghèo đói, tỷ lệ hộ nghèo vùng dân tộc, miền núi
vẫn chiếm 52,7% số hộ nghèo cả nước. Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước
ta đã có nhiều biện pháp đẩy mạnh công tác xóa giảm nghèo, cùng với sự trợ giúp
của các tổ chức trong nước và quốc tế trong hoạt động giảm nghèo. Việt Nam đã
thu được những kết quả bước đầu rất khả quan thể hiện ở tăng mức chi tiêu bình
quân trên đầu người. Trên thực tế trên cho thấy rằng, chính sách giảm nghèo bền
vững của Đảng và Nhà nước có nhiều ưu việt. Song, việc triển khai thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững đến các vùng khó khăn vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập
và thiếu đồng bộ. Hệ thống chính sách, chương trình, cơ chế về xóa đói giảm nghèo,
việc tổ chức thực hiện, công tác kiểm tra, giám sát còn nhiều bất cập, chưa thực sự
phù hợp với điều kiện vị trí địa lý, phong tục tập quán của đại đa số đồng bào đang
sinh sống nơi đây. Khối lượng vốn giành cho chương trình giảm nghèo bền vững
còn chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi, vấn đề đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng
nhiều nơi còn chưa thực sự mang lại hiệu quả, đầu tư còn tràn lan, lãng phí, thất
2
thóat... Một trong những nguyên nhân của sự bất cập đó là do quản lý nhà nước
trong hoạt động giảm nghèo tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam chưa thực sự
được phát huy. Điều đó cho thấy cần phải nâng cao hơn nữa quản lý nhà nước trong
hoạt động giảm nghèo để chương trình thực sự có hiệu quả và mang lại lợi ích thiết
thực cho người dân nơi đây.
Các tỉnh miền núi phía Bắc (MNPB) có 15 tỉnh, được chia làm 2 vùng Đông
Bắc Bộ và Tây Bắc Bộ. Trong thời gian qua, tuy đạt được rất nhiều thành công nhất
định trong hoạt động giảm nghèo, nhưng thành tựu giảm nghèo chưa vững chắc;
điển hình nên các vấn đề như: nghèo đói ở vùng nông thôn, vùng núi, khác biệt về
nghèo đói giữa các dân tộc còn lớn, sự chênh lệch giàu - nghèo đang gia tăng, hiệu
quả và hiệu lực của các chính sách hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo chưa
cao. Khu vực này có 33 huyện nghèo (theo nghị quyết 30a/2008/NQ-CP ngày
27/12/2008 của chính phủ và bổ sung theo Quyết định số 1791/QĐ-TTg ngày
01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ), đồng thời theo Quyết định số 529/QĐ-
BLĐTBXH ngày 06/5/2014 thì tính đến hết năm 2013 thì trong 33 huyện nghèo này
tỷ lệ hộ nghèo chiếm 40,67% và hộ cận nghèo chiếm tỷ lệ 22,65%. Nhiều hộ gia
đình vừa thoát ra khỏi nghèo đói, nhưng chỉ ở trên ngưỡng nghèo một chút, nên chỉ
một vài biến động không lớn trong đời sống (như người nhà đau ốm đột xuất, mất
việc làm, con cái đến độ tuổi đi học, sinh thêm con, thiên tai, hạn hán, …) cũng sẽ
làm các hộ gia đình này trở lại tình trạng nghèo đói.
Như vậy, vấn đề đặt ra là nhà nước cần có các chính sách như thế nào để
nâng cao hiệu quả công tác giảm nghèo? Đặc điểm quản lý nhà nước về giảm nghèo
bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc có những đặc thù, nhiều vấn đề đặt ra như:
nội dung quản lý nhà nước về xóa đói giảm nghèo đối với vùng đặc thù là gì? Bộ
máy quản lý nhà nước ở các cấp được tổ chức và hoạt động ra sao? Hình thức và
phương pháp quản lý nhà nước ở các cấp đối với giảm nghèo bền vững ở vùng đặc
thù các tỉnh miền núi phía Bắc là gì? … Từ đó tác giả thấy cần thiết phải hoàn thiện
và ban hành một số chính sách mới có tính đặc thù để phục vụ công tác giảm nghèo
bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Đồng thời để góp phần bổ sung cơ sở khoa
học nhằm nâng cao quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam ở trên cả năm thành tố: thể chế, tổ chức bộ máy, nguồn nhân
lực, tài chính công và công tác thanh tra, kiểm tra. Từ đó mang lại hiệu quả thiết
3
thực cho các chính sách sách giảm nghèo và đạt được mục tiêu mà Đảng và Nhà
nước đã đặt ra, tác giả đã chọn đề tài: “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ cơ sở lý luận và thực tiễn quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững của
cả nước nói chung và vùng miền núi phía Bắc nói riêng, luận án xây dựng và đề
xuất các nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền
vững để sớm đạt được mục tiêu xác định tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước về giảm nghèo và
quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững từ đó góp phần hệ thống hóa các vấn đề
đã được nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu về quản lý nhà nước
về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Nghiên cứu cơ sở khoa học của quản lý nhà nước về giảm nghèo, áp dụng
cho giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc
trong những năm qua.
- Phân tích thực trạng QLNN về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam.
- Phân tích làm rõ quan điểm, phương hướng, mục tiêu giảm nghèo ở các
tỉnh miền núi. Từ đó đề xuất các giải pháp tiếp tục giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động quản lý của nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta. Khi nghiên cứu về quản lý của nhà nước về giảm nghèo bền
vững, luận án tập trung đi sâu nghiên cứu về quy trình tổ chức thực hiện chính sách
về giảm nghèo bền vững ở các tình miền núi phía Bắc nước ta. Từ khung lý thuyết
về quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững, luận án đề xuất các giải pháp nhằm
4
nâng cao hơn nữa hoạt động quản lý của nhà nước về giảm nghèo bền vững ở các
tỉnh miền núi phía Bắc nước ta trong thời gian tới.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Trong khuôn khổ luận án tiến sĩ, tác giả thực hiện các
nghiên cứu về quản lý nhà nước giảm nghèo bền vững tại 6 tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam (3 tỉnh Tây Bắc Bộ và 3 tỉnh Đông Bắc Bộ mang đầy đủ các đặc trưng
của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam) bao gồm: Sơn La, Lai Châu, Hà Giang,
Phú Thọ, Lạng Sơn, Hòa Bình (sau đây gọi tắt là các tỉnh miền núi phía Bắc).
Phạm vi thời gian: Nghiên cứu thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta trong giai đoạn từ năm 2000
đến nay (tác giả lấy mốc bám sát Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc
biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2 từ 2006 - 2010,
Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2015 và Chương trình
mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020).
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu về hoạt động QLNN trên các khía cạnh:
ban hành chính sách mới về giảm nghèo bền vững; kiện toàn tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững; nguồn lực tài chính để thực
hiện giảm nghèo bền vững; hoạt động thanh tra, kiểm tra quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững trong quá trình thực thi nhiệm vụ giảm nghèo bền vững theo quy
định của pháp luật.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Tác giả dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta về giảm nghèo bền vững trong thời kỳ đổi mới. Tiếp cận đề tài từ góc độ
khoa học quản lý công.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây trong nghiên cứu: Phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên cứu định tính, phương
pháp nghiên cứu định lượng…
5
4.2.1. Phương pháp phân tích tổng hợp
Áp dụng phương pháp phân tích tổng hợp trong luận án để xem xét xem có
các nghiên cứu nào trong lĩnh vực QLNN về giảm nghèo bền vững đã được nghiên
cứu, các nghiên cứu đó đã được thực hiện như thế nào, kết quả của các nghiên cứu
là gì?... phân tích tổng hợp để phát hiện những “khoảng trống” trong các nghiên cứu
trước, làm cơ sở cho việc thực hiện các nội dung của đề tài.
Trên cơ sở mối quan hệ biện chứng của cá phương pháp nghiên cứu trong
khoa học kinh tế - xã hội, luận án phân tích làm rõ những tác động của QLNN đối
với QLNN thông qua thực hiện các nội dung QLNN về giảm nghèo bền vững; phân
tích và làm rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến QLNN về giảm nghèo bền vững;
phân tích và đánh giá việc thực hiện chức năng về giảm nghèo bền vững qua các
tiêu chí xây dựng.
Tìm kiếm nguồn tài liệu
Thu thập và xử lý số liệu
Thực hiện phân tích tổng hợp
Phương pháp phân tích tổng hợp được thực hiện qua các bước sau:
Hình 1. Các bước thực hiện phương pháp phân tích tổng hợp
Bước 1: Tìm kiếm nguồn tài liệu
Đối với các số liệu thứ cấp, luận án sử dụng năm nguồn số liệu chính đó là:
hệ thống thư viện; số liệu từ các Bộ, ngành; số liệu từ các từ các cơ quan; Tổng cục
thống kê; Bộ lao động thương binh và xã hội.
Hệ thống Thư viện, Thư viện quốc gia, thư viện của các trường đại học, kinh
tế quốc dân, đại học Thương mại, để tìm kiếm các công trình có liên quan đến đề tài
nghiên cứu như: luận văn, luận án, các đề tài, các bài báo trong và ngoài nước v..v..
Số liệu từ các Bộ, Ngành: Bộ công thương, Bộ Thông tin và Truyền
thông, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Tổng cục Thống kê, Bộ tư pháp v..v.. để tìm
kiếm các báo cáo có liên quan đến đề tài nghiên cứu như: Báo cáo về tình hình
KT-XH hàng năm. Tìm kiếm các văn bản quy phạm pháp luật về giảm nghèo,
QLNN về giảm nghèo bền vững và các chiến lược, kế hoạch phát triển KT-XH
cho các tỉnh miền núi phía Bắc.
6
Số liệu thống kê từ các cơ quan, viện nghiên cứu có liên quan đến giảm
nghèo bền vững như: Ủy ban dân tộc Quốc hội, Bộ lao động Thương binh – xã hội,
Ngân hàng pát triển Châu Á (ADB), Chương trình phát triển Liên hiệp quốc
(UNDP), Ngân hàng thế giới (WB), Tổng cục thống kê, Niên giám thống kê của các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam … để tìm kiếm các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận án.
Các buổi hội thảo chuyên đề: thông qua các buổi hội thảo về đề án các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam về xóa đói giảm nghèo và về phát triển kinh tế xã hội
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ở Đại học Quốc gia Hà Nội… tác giả thu thập
được rất nhiều ý kiến của các chuyên gia tham dự hội thảo về đề tài nghiên cứu
cũng như nguồn số liệu từ tham luận của các chuyên gia trong các buổi hội thảo.
Đây là nguồn tư liệu rất có ích trong quá trình thực hiện các nội dung của đề tài.
Các website của các tổ chức hoạt động về giảm nghèo bền vững ở Việt Nam
như: http://www.isgmard.org.vn/vn, http://moj.gov.vn, http://cema.gov.vn,
http://giamngheo.molisa.gov.vn, http://btxh.gov.vn, http://web.worldbank.org,
http://www.chinhphu.vn, http://www.vn.undp.org, http://chuongtrinh135.vn, các
web site của UBND các tỉnh, …
Đối với các dữ liệu sơ cấp sử dụng trong đề tài được tác giả thu thập số liệu
thông qua hình thức điều tra khảo sát các hộ gia đình, người dân và các cơ quan
QLNN theo các bước được trình bày trong phương pháp nghiên cứu định lượng.
Bước 2. Thu thập số liệu và xử lý số liệu
Từ các nguồn tài liệu trên, sử dụng phương pháp tổng hợp tác giả thu thập
được các số liệu gốc trong các nguồn tài liệu. Các số liệu này được xử lý thông qua
bộ phần mềm xử lý số liệu trong KTXH phổ biến hiện nay là SPSS. Kết quả của
quá trình xử lý là các số liệu, các bảng biểu phân tích và các biểu đồ được sử dụng
trong đề tài nghiên cứu.
Bước 3. Thực hiện phân tích và tổng hợp
Từ các số liệu, các bảng biểu và biểu đồ đã được xử lý, đề tài tập trung phân
tích quá trình thực hiện nội dung QLNN về giảm nghèo bền vững ở tại các tỉnh
miền núi phía Bắc, chỉ ra những vấn đề còn tồn tại trong QLNN về giảm nghèo bền
7
vững hiện nay; trên cơ sở tổng hợp các kết quả phân tích, kết quả điều tra và ý kiến
của các chuyên gia để đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện QLNN về
giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu định tính Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng trọng luận án để xác định
các câu hỏi nghiên cứu, xác định các tiêu chí đánh giá QLNN về giảm nghèo bền vững, thu thập ý kiến của các chuyên gia về những vấn đề còn tồn tại trong QLNN về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay đồng thời trao đổi về một số giải pháp hoàn thiện các nội dung QLNN về giảm nghèo bền vững tại các
Thiết kế câu hỏi bán cấu trúc
Thực hiện phỏng vấn sâu
Phân tích, tổng hợp thông tin từ các nội dung đã phỏng vấn
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện qua các bước sau: Dự kiến các vấn đề cần nghiên cứu
Hình 2. Các bước thực hiện nghiên cứu định tính
Bước 1. Dự kiến các vấn đề cần nghiên cứu
Từ những kết quả bước đầu khi thực hiện phương pháp phân tích tổng hợp
các công trình nghiên cứu, các tài liệu có liên quan tới giảm nghèo bền vững và
QLNN về giảm nghèo bền vững, tác giả bước đầu xác định được một số vấn đề
chính cần nghiên cứu của đề tài sau:
- Hoạt động giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc trong thời
gian qua đã tiến hành như thế nào? nhà nước thực hiện quản lý về giảm nghèo bền
vững bằng các hình thức như thế nào? Kết quả thực hiện nội dung QLNN về giảm
nghèo bền vững ra sao?
- Điều kiện nào để giảm nghèo bền vững được thực thi hiệu quả?
- Kinh nghiệm của thế giới đối với QLNN về giảm nghèo bền vững là gì?
- Hiệu quả của QLNN về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc
có thể được đánh giá qua các tiêu chí nào? Phương pháp xây dựng các tiêu
chí này?
- Các giải pháp khắc phục những tồn tại trong QLNN về giảm nghèo bền vững
là gì? Nội dung cụ thể của các biện pháp?
8
Bước 2. Thiết kế câu hỏi phỏng vấn sâu đối tượng điều tra
Căn cứ vào các vấn đề nghiên cứu đã dự kiến, tác giả thiết kế lưới câu hỏi
phỏng vấn sâu các đối tượng là các chuyên gia, nhà quản lý về giảm nghèo (phụ lục
1.5). Nội dung các câu hỏi được thiết kế như nhau cho các đối tượng phỏng vấn.
Bước 3. Thực hiện phỏng vấn sâu
Trong các buổi hội thảo liên quan tới hoạt động giảm nghèo mà tác giả trực tiếp tham dự, tác giả thực hiện phỏng vấn sâu một số chuyên gia tham dự hội thảo theo các câu hỏi đã được thiết kế.
Bằng phương pháp phỏng vấn sâu các chuyên gia tác giả đã bước đầu xác
định được các câu hỏi nghiên cứu của đề tài, đó là:
Thể chế của NN ta đối với hoạt động giảm nghèo bền vững đã hoàn thiện
chưa?
Bộ máy QLNN đối với hoạt động giảm nghèo bền vững từ trung ương đến
địa phương đã hoàn thiện chưa?
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả QLNN về giảm nghèo bền vững ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nói riêng và của Việt Nam nói chung?
Trên cơ sở trao đổi, phỏng vấn với các chuyên gia, tác giả cũng đã bước đầu xác định được các tiêu chí đánh giá nội dung QLNN về giảm nghèo bền vững, các tiêu chí được sử dụng để đánh giá bao gồm: tiêu chí hiệu lực, tiêu chí
hiệu quả, tiêu chí phù hợp và tiêu chí bền vững. Đồng thời qua trao đổi và nghiên cứu tài liệu, tác giả cũng xây dựng được bộ chỉ tiêu dùng để đo lường kết quả thực hiện từng tiêu chí.
4.2.3. Phương pháp nghiên cứu định lượng Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong luận án để đo lường các kết quả thực hiện QLNN về giảm nghèo bền vững theo từng tiêu chí đồng thời kiểm tra tính phù hợp của các chỉ tiểu trong thang đo từng tiêu chí. Trên cơ sở bộ
Thiết kế công cụ điều tra, thu thập số liệu
Điều tra chính thức
Xử lý và phân tích số liệu điều tra
tiêu chí đã xây dựng thực hiện việc đánh giá các nội dung QLNN về giảm nghèo bền vững.
Phương pháp nghiên cứu định lượng được tiến hành qua các bước sau: Xác định mẫu điều tra
Hình 3. Các bước nghiên cứu định lượng
9
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong luận án để đo lường
các kết quả thực hiện QLNN về giảm nghèo bền vững theo từng tiêu chí đồng thời
kiểm tra tính phù hợp của các chỉ tiểu trong thang đo từng tiêu chí. Trên cơ sở bộ
tiêu chí đã xây dựng thực hiện việc đánh giá các nội dung QLNN về giảm nghèo
bền vững.
Đối tượng điều tra là 3 đối tượng: người nghèo, cán bộ công chức ở các xã,
cán bộ công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên.
Đối với đối tượng là người nghèo: Trên cơ sở khoa học về chọn mẫu điều tra,
tác giả tính toán và chọn đối tượng điều tra là 600 hộ dân trên 6 tỉnh thành, mỗi tỉnh
chọn ngẫu nhiên 5 huyện, mỗi huyện phát 100 phiếu ở 3 xã nghèo, mỗi xã được
phát ngẫu nhiên cho 10 hộ nghèo (mẫu phiếu số 1), tổng số phiếu mỗi tỉnh là 5
huyện x 2 xã x 10 phiếu = 100 phiếu/tỉnh. Phiếu trả lời sẽ được thu thập, xử lý và sử
dụng vào phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu để có được các kết quả khách
quan, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.trong đó:
Tỉnh Hòa Bình: 100 hộ dân.
Tỉnh Sơn La: 100 hộ dân.
Tỉnh Phú Thọ: 100 hộ dân.
Tỉnh Lai Châu: 100 hộ dân.
Tỉnh Lạng Sơn: 100 hộ dân.
Tỉnh Hà Giang: 100 hộ dân.
Đối với đối tượng là cán bộ công chức cấp xã: Những người có trách nhiệm
trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách (mẫu phiếu số 2), chọn 6 tỉnh, mỗi tỉnh
chọn ra 2 huyện, mỗi huyện chọn 3 xã, mỗi xã phát cho 2 phiếu là cán bộ công chức
ở xã nghèo, tổng số phiếu điều tra là: 6 tỉnh x 2 huyện x 3 xã x 2 phiếu = 72 phiếu.
Đối tượng cán bộ công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên (tổng 90
phiếu, mẫu phiếu 03): chọn ra 6 tỉnh, mỗi tỉnh chọn ra 5 huyện ngẫu nhiên, mỗi
huyện phát 2 phiếu, như vậy tổng số phiếu là 6 tỉnh x 5 huyện x 2 phiếu = 60 phiếu.
Đồng thời 30 phiếu phát ngẫu nhiên ở 6 tỉnh cho cán bộ quản lý cấp tỉnh bao gồm
lãnh đạo tỉnh lãnh đạo các sở thuộc UBND tỉnh bao gồm: Sở LĐTBXH, Sở Tài
chính, Ban Dân tộc, Sở Giáo dục và Đào tạo, Liên Đoàn Lao động tỉnh. Việc phát
10
phiếu điều tra dành cho các đối tượng này nhằm có được thông tin tham chiếu 2
chiều giữa một bên là các cơ quan nhà nước và một bên là đối tượng thụ hưởng lợi
ích của chính sách trên cơ sở đó rút ra những kết luận quan trọng trong quá trình
nghiên cứu.
4.2.4. Phương pháp chuyên gia Trong quá trình thực hiện luận án, tác giả trực tiếp trao đổi, tham khảo ý kiến của các cán bộ khoa học, các nhà quản lý có kinh nghiệm để tham vấn về các vấn đề
liên quan tới đề tài.
4.2.5. Phương pháp thống kê mô tả Dựa trên các thông tin số liệu mới nhất mà luận án có thể thu thập được từ các nguồn thông tin rất đáng tin cậy (từ các cơ quan thống kê, các cuộc điều tra),
phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để phân tích thực trạng tổ chức thực hiện chính sách XĐGN dựa trên các số liệu thứ cấp và sơ cấp
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học 5.1. Câu hỏi nghiên cứu - Cơ sở khoa học về giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững là gì?
- Vai trò của nhà nước trong việc giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam là gì?
- Nét đặc trưng và sự khác biệt của người nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc
so với các khu vực khác là gì?
- Để có thể quản lý công chức theo năng lực trong cơ quan hành chính nhà
nước ở Việt Nam, các chủ thể quản lý có thẩm quyền cần phải làm gì?
- Giải pháp nào để hoàn thiện quản lý nhà nước ở các cấp về giảm nghèo bền
vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc?
5.2. Giả thuyết nghiên cứu
Luận án được tiến hành dựa trên những giả thuyết khoa học sau:
Thứ nhất, hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta được chú trọng nhưng chưa mang lại kết quả và hiệu quả
như mong muốn của nhà nước cũng như của các đối tượng chính sách. Vì vậy các
chính sách về giảm nghèo bền vững nếu được tổ chức thực hiện một cách khoa học,
11
hợp lý và phù hợp với điều kiện thực tiễn ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta thì
kết quả mang lại sẽ cao hơn so với hiện tại.
Thứ hai, việc thực hiện những chính sách giảm nghèo bền vững, chưa tạo ra
được động lực mạnh để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội cho các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta. Do vậy, nếu việc thực hiện chính sách này được tiến
hành với những cơ chế phù hợp trên cơ sở sử dụng nguồn lực hợp lý thì việc thực
hiện chính sách đó sẽ thu được kết quả cao hơn và bền vững hơn.
Thứ ba, mặc dù các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta đã triển khai thực hiện
chính sách về giảm nghèo bền vững cùng thời điểm với các khu vực khác của Việt
Nam nhưng hiện tại các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta vẫn được xem là khu vực có
tỷ lệ đói nghèo cao nhất cả nước, hiện tượng này có thể do việc tổ chức thực hiện
chính sách chưa phù hợp và nếu có các giải pháp phù hợp thì sẽ nâng cao được kết
quả cũng như hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1. Về mặt lý luận - Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa học về giảm nghèo bền vững và quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững đồng thời nhấn mạnh
vai trò của nhà nước trong công cuộc giảm nghèo tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các trường, trong việc
quy hoạch hoạch định chính sách và quản lý của Đảng, Chính phủ và các địa phương đồng thời cung cấp một số tư liệu cho các nghiên cứu tiếp theo.
6.2. Về mặt thực tiễn - Đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước trong hoạt động giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc. Tìm ra những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân bất cập trong việc phân cấp trách nhiệm và vai trò của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.
- Đề tài dự kiến đề xuất các nhóm giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước ở các cấp về giảm nghèo bền vững trong bối cảnh kinh tế mới: Nhóm giải pháp hoàn thiện thể chế; tổ chức bộ máy; nguồn nhân lực; tài chính công; công tác thanh tra, kiểm tra.
12
- Đề tài gợi ý cho chính phủ về yêu cầu phải xây dựng hệ thống thông tin
giám sát giảm nghèo đồng nhất từ trung ương đến địa phương.
7. Cấu trúc của Luận án Tên luận án “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam”.
Kết cấu luận án: ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu quản lý nhà nước về giảm nghèo
bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Chương 2. Cơ sở khoa học quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững Chương 3. Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam
Chương 4. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
13
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về giảm nghèo bền vững
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về giảm nghèo bền vững trên thế giới
Không chỉ ở Việt Nam nghiên cứu về giảm nghèo bền vững mà trên thế giới
có rất nhiều công trình nghiên cứu về giảm nghèo bền vững, tác giả đã nghiên cứu
một số công trình điển hình như sau:
Trong vài thập kỉ gần đây có nhiều nhà khoa học, các nhà phát triển dày công
nghiên cứu về vấn đề nghèo đói: cuốn sách “Sự nghèo của các dân tộc – vì sao một
số giàu đến thế mà một số lại nghèo đến thế” được xuất bản lần đầu tiên năm 1998 của tác giả David S Landes[74], giáo sư ưu tú về lịch sử và kinh tế tại Đại học
Harvard, Mỹ, ông đã phân tích toàn cảnh bức tranh giàu nghèo của các dân tộc và
nguyên nhân của nó. Các quốc gia có thể tham khảo làm cơ sở tập trung mọi nỗ lực
để hoạch định cơ chế, chính sách giải quyết tình trạng nghèo đói, đảm bảo công
bằng xã hội. Đặc biệt, chương trình giảm nghèo bền vững đã được nghiên cứu và
đưa vào nội dung hoạt động thường xuyên của chương trình phát triển Liên hiệp
quốc (UNDP) ở các quốc gia và khu vực cũng như trên toàn thế giới nhằm xây
dựng một xã hội tốt đẹp, hài hòa trong tương lai.
Năm 2002 Dollar, D. và Kraay, A. có bài viết “Growth is Good for the Poor”
(Tăng trưởng tốt cho người nghèo) [76], tác giả nghiên cứu trên 92 quốc gia qua bốn
thập kỷ về thu nhập bình quân của nhóm nghèo nhất tăng tương ứng với thu nhập
trung bình và nhấn mạnh tầm quan trọng của TTKT với giảm nghèo bền vững để
cho thấy thu nhập bình quân của nhóm nghèo nhất tăng tương ứng với thu nhập
trung bình ở các nước này được giữ ở khu vực, thời gian, mức thu nhập và tỷ lệ tăng
trưởng. Tuy các tác giả đã xem xét một số yếu tố thường không cân đối lợi ích
người nghèo nhất trong xã hội, nhưng lại thấy rất ít bằng chứng tác dụng của chúng.
Báo cáo:“Poverty and regional development in Eastern Europe and central
Asia”( Nghèo đói và phát triển khu vực ở Đông Âu và Trung Á) của tác giả
Dillinger và William, năm 2007 được trình bày trong báo cáo của WB về PTKT
vùng, giảm nghèo bền vững[87]. Bài viết chỉ ra các nghiên cứu thực tế giảm nghèo
14
bền vững thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển, TTKT, giảm tỷ lệ di dân. PTKT
vùng khó khăn của các vùng kinh tế mới nổi. Phân tích những yếu tố cân bằng khác
nhau giữa mục tiêu môi trường và xã hội trong phát triển vùng ở các nước đông Âu
và Trung Á.
Bài viết “Grassroots Democracy and Community Empowerment: The Quest
for Sustainable Poverty Reduction in Asia” (Dân chủ cơ sở và trao quyền cho cộng
đồng: Nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo bền vững ở châu Á) của tác giả Leonora C. Angeles, năm 2004 [78]. Theo bài viết này, giảm nghèo đã trở lại trong chương trình
nghị sự của quốc tế các cơ quan phát triển vào đầu những năm 1990, sau gần ba
thập kỷ đang ở trên ổ ghi phía sau. Niềm tin không thể nghi ngờ vào nhỏ giọt mô
hình phát triển làm cơ sở cho sự tăng trưởng theo định hướng thị trường và hội nhập
kinh tế toàn cầu từ những năm 1970. Như lợi ích của tự do hóa kinh tế đã thất bại
trong việc hỗ trợ dân số nghèo nhất thế giới, nhiều hình thức vận động xã hội khác
nhau thách thức các quốc gia châu Á để trở nên có trách nhiệm hơn và đáp ứng các
nhu cầu cơ bản của con người. Đồng thời, các nhà hoạch địn phát triển trong các kẽ
của các cơ quan quốc tế, chính phủ ở các nước bắt đầu có nhiều giải pháp khác
nhau để mang lại các hình thức thay thế phát triển bền vững. Việc phát triển
bền vững đã trải qua những sửa đổi từ công thức ban đầu của nó là khả năng
đáp ứng hiện tại nhu cầu mà không phải hy sinh phúc lợi của các thế hệ tương
lai để bao gồm nhiều biến thể được thúc đẩy bởi các trung gian phi chính phủ
và tổ chức phi chính phủ (Singh & Titi 1995). Cốt lõi của các diễn ngôn chống
phát triển hoặc phát triển thay thế này là niềm tin rằng các mục tiêu của con
người phát triển sẽ không đạt được trừ khi được giải thoát khỏi ống kính hẹp
của tăng trưởng kinh tế và giải thích kinh tế của phát triển. Do đó, sự phát triển
của con người đòi hỏi phải loại bỏ các điều kiện tạo ra nghèo đói và các điều
kiện liên quan của đói nghèo, dễ bị tổn thương, thiếu thốn, vi phạm nhân phẩm,
và sự bất lực, đó là con đường dẫn đến nghèo đói bền vững.
Bài viết về “Policies and growth for the poor: Asian Experience”, (Chính
sách và tăng trưởng vì người nghèo - Kinh nghiệm châu Á) - Chương trình phát
triển Liên hiệp quốc, của tác giả Hafiz A . Pasha& T. Palanivel, năm 2004, bài viết
đưa ra cho rằng: Việc theo đuổi tăng trưởng phải đi kèm với nỗ lực đạt được tăng
trưởng vì người nghèo thông qua việc tái phân bổ tài sản và thu nhập trong nền kinh
15
tế và điều này có ý nghĩa lớn trong xác định bản chất của chiến lược chống đói
nghèo. Thực tế một số quốc gia có tốc độ giảm nghèo hạn chế trong khi thành tích
tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng, còn một số khác lại có tốc độ giảm nghèo cao
trong khi tăng trưởng kinh tế là tương đối thấp.
Bài viết “Sustainable Poverty Reduction: Credit for the Poor” (Giảm nghèo
bền vững: Tín dụng cho người nghèo) của Asis Kumar Banerjee, được nhà xuất bản Springer xuất bản tháng 7/2013 [71]. Theo bài viết này, tác giả đã đánh giá về nghiên
cứu được thực hiện trong hai thập kỷ qua hoặc hơn về vai trò của cung cấp tín dụng
trong giảm nghèo bền vững. Đương nhiên, tín dụng cho người nghèo sẽ là trọng tâm
chú ý nghiên cứu của tác giả, tác giả xem xét cả nghiên cứu lý thuyết và thực
nghiệm tiễn giảm nghèo ở Ấn Độ trong những năm vừa qua, qua đó tác giả đã đề
xuất các nhằm hỗ trợ tín dụng cho người nghèo qua đó giúp công tác giảm nghèo
bền vững được hiệu quả hơn và đưa ra một vài khuyến nghị chính sách có liên quan
đến nền kinh tế Ấn Độ.
Bài viết “Sustainable poverty reduction and green growth” (Giảm nghèo
bền vững và tăng trưởng xanh) của tác giả Ulf Narloch (Chuyên viên phụ trách, Phó
chủ tịch biến đổi khí hậu, Ngân hàng Thế giới), được đăng trên Let Talk Development năm 2014 [84] Theo bài viết này, tác giả đã chỉ ra xóa đỏi giảm nghèo
và đạt được sự thịnh vượng chung sẽ đòi hỏi nhiều hơn là tăng trưởng kinh tế. Nó sẽ
đòi hỏi các chính sách vì người nghèo phải bền vững. Báo cáo giám sát toàn cầu
2014/2015 được phát hành gần đây tập trung vào tầm quan trọng của tính bền vững
như là một phương tiện để cho phép các quốc gia tiếp cận với những người nghèo
nhất của họ trong trung hạn (đến 2030) và dài hạn (ngoài 2030). Tính bền vững có
một số khía cạnh, tất cả đều quan trọng như nhau và đều bị ảnh hưởng bởi biến đổi
khí hậu: bền vững kinh tế (duy trì vốn sản xuất và giữ nợ ở mức có thể quản lý
được), bền vững xã hội (đảm bảo sự ổn định chính trị và xã hội), bền vững môi
trường ngày càng trở nên quan trọng trong một thế giới tài nguyên thiên nhiên hữu
hạn, ranh giới hành tinh và các tác động thảm họa và biến đổi khí hậu ngày càng
tăng. Suy giảm tài nguyên thiên nhiên, suy thoái hệ sinh thái và ô nhiễm và biến đổi
khí hậu có thể có tác động trực tiếp và gián tiếp đến nghèo đói và thịnh vượng
chung. Đầu tiên, người nghèo có thể bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các tác động của
họ, vì họ thường sống ở những khu vực miền núi, xa xôi và có ít tài nguyên nhất để
16
giúp họ đối phó và thích nghi. Thứ hai, những thách thức này có thể làm suy yếu
khả năng duy trì tăng trưởng kinh tế của một quốc gia, điều này có thể làm cho việc
xóa đói giảm nghèo và làm tăng sự thịnh vượng chung trở nên phức tạp hơn. Tác
giả đã chỉ ra các quốc gia phải đối mặt với nhiều thách thức, bắt tay nhau, không
riêng ở quốc gia nào từ sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy thoái và ô nhiễm hệ
sinh thái và biến đổi khí hậu có thể được củng cố lẫn nhau. Khi được thiết kế cẩn
thận, các chiến lược tăng trưởng xanh có thể giải quyết những thách thức này mà
không làm suy yếu tiềm năng tăng trưởng thông qua giảm ô nhiễm và khí thải, cải
thiện quản lý tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tài nguyên hiệu quả hơn và tăng
cường khả năng phục hồi trong khi thúc đẩy tăng trưởng bền vững và tránh tác động
xấu đến người nghèo.
Tăng trưởng xanh sẽ đòi hỏi sự phối hợp giữa các lĩnh vực như nước, nông
nghiệp, năng lượng và giao thông, cùng với một loạt các hành động phù hợp với bối
cảnh đất nước. Ưu tiên là thực hiện các lựa chọn đó với mức độ khẩn cấp lớn nhất
và lợi ích lớn nhất, ngay lập tức tại mỗi quốc gia. Ở nhiều nước đang phát triển, đây
có thể là những hành động làm tăng hiệu quả năng lượng và cung cấp năng lượng
carbon thấp đồng thời cải thiện sức khỏe, tăng năng suất nông nghiệp, đảm bảo tiếp
cận các dịch vụ cơ bản và giảm thiểu rủi ro thiên tai và khí hậu. Trong khi một số
biện pháp tăng trưởng xanh giúp người nghèo, những biện pháp khác có thể yêu cầu
các chính sách bù đắp để hạn chế bất kỳ tác động bất lợi nào. Một số biện pháp, như
đưa ra thuế môi trường và loại bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch mang lại lợi ích đáng
kể về môi trường và nguồn tài chính khổng lồ miễn phí, sau đó có thể cung cấp hỗ
trợ có mục tiêu, hiệu quả hơn cho người nghèo. Nhiều tổ chức cơ sở và tổ chức phi
chính phủ tìm khắp nơi và chính phủ các nước tìm mọi cách mang lại sự thay đổi
dựa trên các mô hình phát triển thay thế.
Bài viết “Sustainable Livelihood Approach to Poverty Reduction” (Phương
pháp sinh kế để giảm nghèo bền vững) của tác giả Vishwambhar Prasad Sati, được nhà xuất bản Springer xuất bản năm 2016 [85]. Theo bài viết này, tác giả đã mô tả
cách tiếp cận sinh kế bền vững để giảm nghèo và phân tích tình hình hiện tại của tất
cả các thủ đô sinh kế ở Mizoram. Tác giả thấy rằng ba yếu tố như tự nhiên, con
người và tài chính ảnh hưởng tới việc giảm nghèo bền vững ở các quốc gia. Hơn
nữa, sự hỗ trợ của chính phủ để phát triển tài sản sinh kế và đối phó với thảm họa tự
17
nhiên là tối quan trọng. Điều này dẫn đến việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên và tỷ
lệ nghèo đói kinh niên. Qua đó tác giả đề nghị chính phủ nên xây dựng chính sách
sinh kế bền vững thông qua việc tăng cường khả năng tài chính và phát triển cơ sở
hạ tầng, để khai thác vốn tự nhiên bền vững và đạt được an ninh lương thực.
Bài viết “Poverty Reduction for Sustainable Development: Malaysia's
Evidence-Based Solutions” (Giảm nghèo để phát triển bền vững: Các giải pháp dựa
trên kinh nghiệm của Malaysia) của tác giả Normaliza Hj Abdul Manaf, năm 2017 [79]. Theo bài viết này, tác giả đã Malaysia là một ví dụ điển hình cho giảm nghèo,
đặc biệt là ở các nước Đông Nam Á, Malaysia có giảm tỷ lệ nghèo từ 49,3% năm
1970 xuống 17% năm 1990 xuống 3,8% năm 2008 và chỉ còn 1,7% năm 2012, giảm
gần 97%. Bài viết chỉ ra các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) của Malaysia
luôn đặt ra hàng đầu và nhấn mạnh vào nghèo đói dưới các hình thức đa dạng, chính
phủ Malaysia đã cam kết xóa đói giảm nghèo thông qua nhiều chính sách từ năm
1957, bao gồm chính sách kinh tế mới (1970-1990), chính sách phát triển (NDP,
1991-2000) và tầm nhìn đến 2020, kế hoạch tổng thể công nghiệp, nông nghiệp
quốc gia, chính sách, kế hoạch tổng thể tư nhân hóa và mô hình kinh tế mới (NEM,
2010). Trong số các sáng kiến quan trọng góp phần vào sự thành công của giảm
nghèo ở Malaysia là: eKasih hệ thống, chương trình AZAM, cơ quan phát triển đất
đai liên bang Malaysia (FELDA). Các chương trình xóa đói giảm nghèo của
Malaysia được thực hiện tốt bởi sự ổn định về chính trị, bao gồm, quyết tâm chính
trị mạnh mẽ và gắn liền với ý chí vươn lên của người Malaysia và đoàn kết dân tộc
tại quốc gia đó. Tóm lại, bài viết chỉ ra nghèo đói dưới góc nhìn đa chiều, kéo dài
ngoài nghèo thu nhập, thì sự tiếp cận các dịch vụ xã hội là đặc biệt quan trọng trong
đánh giá hiệu quả của công tác giảm nghèo bền vững của mỗi quốc gia.
1.1.2. Các công trình trong nước
Qua tìm hiểu và nghiên cứu thì từ trước đến nay có khá nhiều công trình
nghiên cứu về quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững các tỉnh miền núi
phía Bắc, các tác giả cũng đã đưa ra cơ sở đề xuất giải quyết các vấn đề nghèo
đói hiện nay.
Trên cơ sở tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
nghèo đói và giảm nghèo bền vững, các nghiên cứu trong nước của các chuyên gia,
các nhà khoa học cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tình hình nghèo đói và
18
các giải pháp giảm nghèo bền vững cho Việt Nam. Do đi lên từ một nền kinh tế lúa
nước nghèo đói, nông nghiệp lạc hậu lại còn trải qua một thời gian dài của ba cuộc
chiến tranh đồng thời thường xuyên gặp thiên tai, bão lụt nên vấn đề nghèo đói ở
Việt Nam luôn là mối quan tâm không chỉ của đảng và Nhà nước mà còn là của cả
cộng đồng quốc tế, nhất là trong quá trình phát triển KT-XH. Đặc biệt với yêu cầu
phát triển nhanh và bền vững đang là mục tiêu xuyên suốt chiến lược phát triển KT-
XH của Việt Nam hiện nay. Để làm rõ các cơ sở lý luận, quan điểm và thực tiễn
đồng thời đề xuất phương hướng, giải pháp hữu hiệu cho việc giải quyết các vấn đề
phát triển KT-XH và giảm nghèo bền vững, nhiều công trình nghiên cứu đã được
công bố như sau:
Trong năm 1997 tác giả Nguyễn Thị Hằng cũng xuất bản cuốn “Vấn đề xóa
đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay” đã phân tích thực trạng và nguyên
nhân đói nghèo ở Việt Nam nhất là khi chuyển sang nền KTTT đồng thời đề xuất
phương hướng và biện pháp chủ yếu giảm nghèo bền vững ở Việt Nam đặc biệt là ở nông thôn Việt Nam đến năm 2000 [10].
Trong giai đoạn này các nghiên cứu đều đã tập trung đề cập đến các chính
sách cần thiết liên quan trực tiếp đến giảm nghèo bền vững. Các kết quả nghiên cứu
này đã góp phần quan trọng cho việc xây dựng chương trình giảm nghèo bền vững
giai đoạn 1998-2000 Việt Nam. Qua đó một số các chính sách tác động đến người
nghèo của Việt Nam đã được ban hành và triển khai thực hiện.
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững giai
đoạn 1998 - 2000, một loạt nghiên cứu của các tổ chức phi chính phủ cũng đã tiếp
tục được thực hiện nhằm hỗ trợ cho Việt Nam xây dựng một chương trình giảm
nghèo bền vững tổng thể và toàn diện hơn trong giai đoạn tiếp theo, trong đó có
nghiên cứu của WB mang tựa đề “Báo cáo tình hình phát triển Việt Nam - Tấn
công đói nghèo” được thực hiện năm 2000 là nghiên cứu đầu tiên về đánh giá tác
động của hệ thống chính sách giảm nghèo bền vững trên phạm vi cả nước. Báo cáo
đã chỉ rõ những tác động tích cực, những hạn chế của từng chính sách nhằm giúp
việc hoạch định chính sách của Việt Nam giai đoạn 2001-2005 có thể phát huy các
mặt tích cực đồng thời khắc phục được những mặt hạn chế của các chính sách trong giai đoạn vừa qua [27].
19
Năm 1999, Lê Du Phong và các cộng sự với tác phẩm Kinh tế thị trường và
sự phân hoá giàu nghèo ở vùng Dân tộc và Miền núi phía Bắc nước ta hiện nay đã
phân tích nền KTTT và sự phân tầng kinh tế xã hội nói chung và ở các tỉnh miền
núi phía Bắc nói riêng. Tác phẩm đã khái quát quá trình chuyển đổi sang KTTT và
sự phân hoá giàu nghèo ở nước ta; đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, thực trạng
phân hoá giàu nghèo ở vùng dân tộc và miền núi phía Bắc nước ta và đưa ra một số
giải pháp gairm sự phân hóa giàu nghèo trong nền KTTT ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta [31].
Cũng vào năm 1999 tác giả Vũ Thị Ngọc Phùng cũng có nghiên cứu “Tăng
trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam” nói
đến mối quan hệ giữa tăng trưởng và CBXH trong PTKT qua đánh giá thực trạng
các vấn đề tăng trưởng, CBXH và nghèo đói ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
đồng thời đưa ra các giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tăng trưởng và CBXH trong PTKT giai đoạn này [32].
Năm 2001 Lê Xuân Bá và các tác giả viết ở cuốn “Nghèo đói và xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam” đã phân tích những nét rất cơ bản về vấn đề nghèo đói và
giảm nghèo bền vững ở Việt Nam. Khái quát về vấn đề nghèo đói trên thế giới và
nêu lên thực trạng nghèo đói ở Việt Nam qua nghiên cứu thực tiễn về nghèo đói ở tỉnh Quảng Bình và đưa ra định hướng giảm nghèo bền vững ở Việt Nam [3].
Năm 2004 Nguyễn Duy Sơn đã có đề tài “Quyền phát triển của con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [33],
đã làm sáng tỏ quan niệm về quyền phát triển của con người dưới chủ nghĩa xã hội
từ đó đi sâu phân tích những đặc điểm cụ thể và vai trò thực hiện quyền phát triển
của con người Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước đồng thời đưa ra một số
yêu cầu cơ bản, giải pháp chủ yếu thực hiện quyền phát triển con người trong sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng XHCN. Dựa trên quan điểm “phát huy
yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt
động, coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững” [18].
Năm 2004 Hoàng Triều Hoa đã nghiên cứu đề tài “Xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam: thực trạng và giải pháp”, ở đó tác giả tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận về đói nghèo và xoá đói giảm nghèo cũng như kinh nghiệm về lĩnh vực này
20
của các nước trên thế giới. Phân tích thực trạng đói nghèo và xoá đói giảm nghèo ở
Việt Nam trong tiến trình tăng trưởng kinh tế từ năm 1991 đến nay. Đưa ra một số
chính sách xoá đói giảm nghèo chủ yếu, những thành tựu và thách thức của công tác
xoá đói giảm nghèo. Đề xuất những quan điểm và các giải pháp tạo môi trường, hỗ
trợ, điều tiết về kinh tế xã hội, nhằm giải quyết tốt hơn tình trạng đói nghèo ở nước ta trong tình hình hiện nay [12].
Năm 2005, Nguyễn Thị Hằng và Lê Duy Đồng đưa ra cuốn “Phân phối và phân hóa giàu nghèo sau 20 năm đổi mới” [11] nêu khái quát về phân phối, phân hóa
giàu nghèo và phân tầng xã hội ở nước ta đồng thời nêu lên những tác động của sự
hình thành và phát triển KTTT, các thành phần kinh tế, hoạt động kinh tế đến quan
hệ phân phối thu nhập giữa các bộ phận, tầng lớp xã hội và đời sống xã hội ở Việt
Nam rồi đưa ra những quan điểm giải quyết vấn đề lao động, việc làm cho giai đoạn
tiếp theo.
Năm 2007 nghiên cứu có tựa đề “Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt
Nam – Thành tựu, thách thức và giải pháp” của Trung tâm thông tin và dự báo KT-
XH quốc gia, đã đánh giá tình hình phát triển KT-XH và công tác giảm nghèo bền
vững ở Việt Nam trong các năm qua đồng thời xác định mục tiêu và chỉ ra các giải pháp để giảm nghèo bền vững trong những năm tiếp theo [4].
Năm 2008 Lê Đức An đã nghiên cứu đề tài “Xóa đói giảm nghèo ở khu vực
duyên hải miền Trung” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình, ở đó tác giả đã hệ
thống hóa những vấn đề lý luận chung về đói nghèo và kinh nghiệm thực tiễn về
công tác xóa đói giảm nghèo ở một số địa phương ở nước ta trong thời gian qua.
Phân tích thực trạng đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh duyên hải
miền Trung và chỉ ra thành tựu đạt được, những hạn chế, tồn tại trong việc xóa đói
giảm nghèo. Đồng thời đề ra các giải pháp xây dựng chương trình xóa đói giảm
nghèo, cơ chế chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng, đẩy mạnh công tác đào tạo,
tập huấn cho người nghèo nhất là phụ nữ, người dân tộc về kiến thức, kỹ năng sản
xuất kinh doanh và chính sách cứu trợ xã hội nhằm xóa đói giảm nghèo phù hợp với điều kiện ở khu vực duyên hải miền Trung[2] .
Năm 2008 tác giả Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung xuất bản cuốn “Tác
động của vốn con người đối với tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam”
đã nghiên cứu dựa trên hàm sản xuất Cobb - Douglas mở rộng để kiểm chứng vai
21
trò của vốn con người đến TTKT ở Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2004. Nghiên
cứu cho thấy vốn con người là một trong những yếu tố quan trọng để giải thích sự
TTKT của các tỉnh, thành phố Việt Nam, giải thích khoảng cách chênh lệch giữa
các vùng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 2000-2004. Nghiên cứu cũng đã đưa ra
một số kiến nghị chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng và PTKT trong đó nhấn
mạnh sự gia tăng đầu tư vào giáo dục và lưu ý sự tác động khác nhau của vốn con người ở các vùng kinh tế khác nhau [8].
Tiếp đó, năm 2009 Viện Dân tộc xuất bản cuốn “Cơ hội thách thức đối với
vùng dân tộc thiểu số hiện nay” trên cơ sở tập hợp các tham luận trong Hội thảo
khoa học “Cơ hội và thách thức đối với vùng DTTS khi Việt Nam gia nhập WTO”.
Cuốn sách đã nêu được tổng quan về tình hình dân số, kinh tế, xã hội vùng DTTS ở
Việt Nam; dự báo cơ hội và thách thức đối với một số ngành nghề ở vùng DTTS khi
Việt Nam gia nhập WTO đồng thời cũng đưa ra một số yêu cầu đổi mới trong bối
cảnh hội nhập góp phần đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính sách dân tộc. Nhằm đổi
mới phương thức thực hiện chính sách dân tộc bên cạnh các chính sách phát triển
CSHT, trang bị kiến thức khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực cho đồng bào
DTTS để họ thoát ngèo. Các tham luận đã góp cung cấp thêm thông tin, luận cứ
khoa học cho các nghiên cứu tới vùng DTTS và sự phát triển của đồng bào DTTS trong tiến trình phát triển chung của đất nước [67].
Hay là cuốn “Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xoá đói giảm nghèo
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Ngô Quang Minh và các cộng
sự đã phân tích và đánh giá mối quan hệ giữa CNH, HĐH theo CCTT với tình trạng
đói nghèo và sự phân hóa giàu nghèo cũng như nêu khái quát được thực trạng đói
nghèo ở Việt Nam để đưa ra một số giải pháp tác động của nhà nước nhằm giảm nghèo bền vững trong quá trình CNH, HĐH đất nước [21].
Năm 2010, Tạ Đức Khánh đã nghiên cứu đề tài “Nâng cao vai trò nhà nước
trong xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn”, ở đó tác giả đã hệ thống hóa lý luận về xóa
đói, giảm nghèo và về vai trò của Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo.
Phân tích, đánh giá thực trạng về vai trò Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm
nghèo tại Lạng Sơn. Đề xuất và luận cứ có cơ sở khoa học về giải pháp nhằm nâng cao vai trò Nhà nước trong hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Lạng Sơn[17] .
22
Các nghiên cứu đánh giá tác động của các chính sách về y tế đối với
người nghèo năm 2005: “Tác động của quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo
đối với hộ gia đình tại hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang”, của Đàm Viết Cường
và các cộng sự [7] và năm 2006 tác giả Nguyễn Thành Trung với bài“Đánh giá
việc thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo ở miền núi phía
Bắc” [36] và năm 2005 tác giả Trần Tuấn và các cộng sự “Phân tích thực trạng
chi phí trong điều trị nội trú của bệnh nhân nghèo 139 tại ba bệnh viện U Bướu, Nhi, Phụ sản Trung ương” [34].
Luận văn thạc sĩ của Vũ Thị Thanh Thủy năm 2011 với đề tài“Vấn đề xóa
đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” tác giả đã trình bày
những nội dung cơ bản về đói nghèo như khái niệm, phân loại đói nghèo và các
chuẩn đói nghèo; phân tích tác động của hội nhập quốc tế và vai trò của các tổ chức
quốc tế đến phát triển kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo trên thế giới; nghiên
cứu kinh nghiệm xóa đói giảm nghèo của các nước khu vực và rút ra bài học cho
Việt Nam. Phân tích về tình hình đói nghèo tại Việt Nam từ năm 1998 đến nay,
phân tích đánh giá những thành công và hạn chế của các chương trình, chính sách
xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn này; phân tích tác động của hội nhập
quốc tế và vai trò của các chương trình hỗ trợ của các quốc gia và tổ chức quốc tế
đến công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam giai đoạn vừa qua. Một số khuyến
nghị, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế: tìm hiểu bối cảnh mới ở trong nước và
quốc tế để phân tích những thuận lợi, khó khăn, cơ hội, thách thức đối với công
cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam; từ đó đặt ra yêu cầu và mục tiêu xóa đói
giảm nghèo ở Việt Nam và đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả các hoạt động xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế [35].
Năm 2012 tác giả Hoàng Văn Vinh đã nghiên cứu đề tài “Xóa đói giảm
nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc Giang”, ở đó tác giả đã nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn, cũng như kinh nghiệm của các địa phương khác về công
tác xóa đói, giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Phân tích, đánh giá
thực trạng công tác xóa đói, giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở Bắc
Giang từ 1997 đến nay. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và bài học kinh nghiệm của
23
một số địa phương khác đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt hơn
công tác xóa đói, giảm nghèo nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững ở Bắc Giang trong những năm tiếp theo [68].
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu về quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
1.2.1. Các công trình trên thế giới
Vào năm 1995 WB đã nghiên cứu trên qui mô và phạm vi lớn để đánh giá thực
trạng nghèo đói ở Việt Nam và đề ra chiến lược xóa đói giảm nghèo trong nghiên cứu “Đánh giá nghèo đói và chiến lược” (1995) [26]. Qua công trình nghiên cứu này cho thấy
để tấn công đói nghèo không chỉ các chính sách góp phần tăng trưởng kinh tế mà cần
phải có các chính sách tác động trực tiếp đến người nghèo. Trong đó, một số chính sách
như đất đai, CSHT, giáo dục và y tế đã được đề cập đến.
Trong năm 1995 UNDP cũng đã tiến hành nghiên cứu về đói nghèo ở Việt Nam trong bài “Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam”(1995) [50]. Điểm nổi bật của
nghiên cứu này đó là đã làm rõ được nguyên nhân gây ra đói nghèo ở Việt Nam và
phân tích tác động của các nhóm giải pháp thực hiện tương ứng với các nguyên
nhân. Trong đó, một số chính sách giảm nghèo bền vững như chính sách đất đai,
chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách xây dựng CSHT cũng được đánh giá khá chi
tiết. Có thể nói trong giai đoạn này các nghiên cưu trên đều có một điểm chung là
đã đề cập đến một số chính sách liên quan trực tiếp đến giảm nghèo bền vững và
các kết quả nghiên cứu đó đã góp phần quan trọng cho chính phủ Việt Nam trong
xây dựng chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn sau đó.
Một trong những nghiên cứu được coi là đầu tiên liên quan đến chính sách
giảm nghèo bền vững đó là “Nghèo đói và chính sách giảm nghèo ở Việt Nam, kinh
nghiệm từ nền kinh tế chuyển đổi” (Poverty and policy of poverty reduction in
Vietnam, experience from transformation economy) của Tuan Phong Don và Hosenin Jalian (1998) [80]. Trong nghiên cứu này, các tác giả đã tập trung phân tích
đánh giá một số chính sách giảm nghèo như chính sách đất đai, chính sách tín dụng
ưu đãi cho người nghèo và chính sách xây dựng cơ sở hạ tầng. Nghiên cứu đã chỉa
ra tầm quan trọng của các chính sách giảm ghèo trong công cuộc giảm nghèo bền
vững ở Việt Nam.
Trong cuốn “Kinh tế học của các nước phát triển”, (Nhà xuất bản Thống kê, 1998) [9] tác giả E.Wayne Nafziger đã phân tích khá cụ thể sự nghèo đói và bất công
24
về thu nhập ở các nước đang phát triển, xác định các nhóm nghèo đói, nguyên nhân
nghèo đói, tình hình nghèo đói ở khu vực nông thôn, tình hình nghèo đói theo giới,
hậu quả của tình trạng nghèo đói và các chính sách biện pháp giảm nghèo.
Tác giả Khan, Mahmood Hasan năm 2001 có cuốn “Rural poverty in developing countries: Implication for public policy” [88] thì lại đi sâu phân tích về sự
nghèo đói ở vùng nông thôn các quốc gia đang phát triển, về các dạng người nghèo,
tài sản của người nghèo, nguyên nhân của sự nghèo đói, các chính sách giảm nghèo
bền vững & các yếu tố cần thiết trong chính sách giảm nghèo bền vững.
Sau khi triển khai chương trình giảm nghèo bền vững (giai đoạn 1998-2000),
với hệ thống các chính sách trực tiếp tác động đến người nghèo, một loạt các nghiên
cứu của các tổ chức phi chính phủ được thực hiện với mục tiêu tiếp tục hỗ trợ chính
phủ Việt Nam xây dựng chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn tiếp theo. Trong số đó, báo cáo “tấn công đói nghèo” (2000) [27] của WB được coi là nghiên
cứu đầu tiên mà trong đó có đánh giá tác động của hệ thống chính sách giảm nghèo
bền vững trên phạm vi cả nước. Kết quả đánh giá (tuy mục đích báo cáo không phải
trọng tâm vào chính sách giảm nghèo bền vững) có ý nghĩa lớn vì đã chỉ ra những
tác động tích cực của các chính sách cũng như những điểm bất cập trong mỗi chính
sách. Đồng thời được coi là một kênh thông tin quan trong phục vụ cho công tác
hoạch định chính sách trong chương trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2001-
2005. Dù là nghiên cứu của các tổ chức hay cá nhân nhưng chúng đều có điểm
chung như: (i) chính sách đã được triển khai nhưng chưa đến được đúng đối tượng;
(ii) nhiều người nghèo chưa biết đến chính sách; (iii) việc tổ chức cũng như phối
hợp thực hiện còn nhiều điểm bất cập đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực
hiện chính sách. Đến năm 2000, với những gì đã đạt được trong giảm nghèo bền
vững đã khiến cho nhiều nhà tài trợ quan tâm hơn đến Việt Nam. Sự quan tâm đó
không dừng lại ở tập trung nguồn lực nhiều hơn cho công cuộc tấn công nghèo đói
mà các nhà tài trợ và tổ chức phi chính phủ đã tiến hành một loạt các nghiên cứu.
Đây cũng là những năm đầu tiên trong thực hiện chiến lược giảm nghèo bền vững
đến năm 2010 ở Việt Nam. Vì vậy, các nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá
để tìm ra điểm không phù hợp trong hệ thống chính sách, trên cơ sở đó, điều chỉnh
và xây dựng chính sách cho giai đoạn tiếp theo (2006-2010). Để đánh giá chương
trình giảm nghèo bền vững giai đoạn 2001-2005, một loạt các nghiên cứu do các tổ
25
chức phi chính phủ tại Việt Nam thực hiện và công bố vào năm 2003 như: UNDP có nghiên cứu “Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang” [51], “Đánh giá nghèo theo vùng tại đồng bằng sông Hồng” [41] và “Đánh giá nghèo theo vùng miền núi phía Bắc” của UNDP [53]…
Ta nhận thấy các nghiên cứu này dù được tiến hành đồng thời và độc lập ở
các địa bàn khác nhau hay trên phạm vi cả nước nhưng đều tập trung vào cùng một
số vấn đề liên quan đến các chính sách giảm nghèo bền vững chủ yếu. Kết quả các
nghiên cứu có kết luận về tác động của chính sách đến thành tựu giảm nghèo là khá
tương đồng. Những vấn đề tồn tại trong thực hiện chính sách cũng được phát hiện
bao gồm từ tổ chức đến cơ chế thực hiện cũng như phạm vi ảnh hưởng của chính
sách còn nhiều điểm không phù hợp với thực tế.
Điều đáng lưu ý ở đây, một số nghiên cứu độc lập về lĩnh vực cụ thể đã được
thực hiện. Nghiên cứu “Chiến lược thực hiện các mục tiêu phát triển của Việt Nam - Cải thiện việc tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu” (2002) [24] của Ngân hàng Hợp tác
Quốc tế Nhật Bản tập trung vào một số CSHT thiết yếu như điện, giao thông, thuỷ
lợi và thông tin liên lac. Trong đó, nghiên cứu đánh giá tác động chính sách đầu tư
xây dựng CSHT trên bốn khía cạnh là khả năng tiếp cận, tính ổn định, tính bền
vững tài chính và khả năng quản lý. Phát hiện chính mà nghiên cứu có được đó là
chính sách đã cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận đến các CSHT. Tuy nhiên, tính ổn
định cũng như bền vững tài chính và khả năng còn bộc lộ nhiều yếu kém nên đã ảnh
hưởng đến tác động của chính sách.
Nghiên cứu “Cung cấp giáo dục cơ bản có chất lượng cho mọi người” (2002) [6] của Bộ Phát triển Quốc tế Anh tập trung vào vấn đề giáo dục trong đó có
giáo dục cho người nghèo. Nghiên cứu đã phát hiện, người nghèo gặp rất nhiều khó
khăn khi tiếp cận giáo dục, đặc biệt giáo dục có chất lượng. Từ đó cho phép kết
luận, chính sách hỗ trợ giáo dục chưa thực sự có lợi cho người nghèo.
Một nghiên cứu khác về lĩnh vực y tế của Ngân hàng Phát triển Châu Á và
Tổ chức Y tế Thế giới (2002) “Cải thiện tình trạng sức khoẻ và giảm bớt bất bình đẳng” [25] nghiên cứu tập trung vào đánh giá thực trạng tiếp cận dịch vụ y tế của
người dân, trong đó chú trọng người nghèo. Kết quả được phát hiện như người
nghèo còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt bất bình đẳng trong tiếp cận và sử dụng
dịch vụ y tế, nghiên cứu cũng đã đề xuất được một số kiến nghị quan trọng cho
26
chính phủ Việt Nam như cần tăng cường giám sát chặt chẽ và có hiệu quả hỗ trợ từ
phía chính phủ để cải thiện khả năng tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế cho người
nghèo. Thời gian qua, các nghiên cứu về chính sách giảm nghèo bền vững của Việt
Nam chủ yếu tập trung vào đánh giá kết quả thực hiện chính sách hơn là đánh giá
tác động của chúng. Điều quan trọng, các nghiên cứu này có đánh giá thì cũng
không theo một khung đánh giá chính sách nào.
Một nghiên cứu tổng quan lý thuyết phục vụ đánh giá chính sách ở Việt Nam
được thực hiện năm 2003, đó là “Đánh giá chính sách: từ phương pháp thực tế đến thói quen cùng tham gia” của Peter Boothroyd (2003) [23]. Trong nghiên cứu, bên
cạnh việc đưa ra khái niệm về đánh giá chính sách, tác giả đã giới thiệu các phương
pháp đánh giá chính sách mang tính kỹ thuật như phân tích chi phí và lợi ích, phân
tích tác động về xã hội và môi trường.
Năm 2004, Chen, Martha Alter và các cộng sự (2004), với nghiên cứu
“Mainstreaming informal employment and gender in poverty reduction: A
handbook for policy - makers and other stakeholders”, Nxb London: Commonealth secretariat [73] các tác giả cho rằng việc giảm nghèo phần lớn sẽ tạo ra nhiều cơ hội
việc làm, đặc biệt là những người đi kèm với quyền, bảo vệ và tiếng nói cho người
nghèo. Tạo việc làm cho người nghèo là một trong các mục tiêu của chính phủ và
nó cũng là một tiêu chí đầu tiêu để đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo. Tuy
nhiên, mục tiêu chính này không thể đạt được mà không có việc tham gia có sự điều
hành của chính phủ và người nghèo và đặc biệt là phụ nữ phải có tiếng nói trong
việc góp ý và hoạch định chính sách. Đặc biệt cuốn sách nhấn mạnh sự phân biệt
bình đẳng giới và kêu gọi chính phủ phải có chính sách hơn nữa đối với phụ nữ để
thúc đẩy công tác giảm nghèo ở mỗi quốc gia.
Năm 2006, World Bank (WB) đã thực hiện nghiên cứu và xuất bản cuốn
sách: “Beyond the numbers: Understanding the institutions for monitoring poverty
reduction strategies” (Washington, DC) bởi tập thể các tác giả: Tara Bedi, Aline
Coudouel, Marcus Cox, Markus Goldstein, Nigel Thornton. Cuốn sách đã chỉ ra nền
tảng của mối quan hệ trong việc tăng cường hệ thống hướng dẫn chi tiết chiến lược
giảm nghèo, qua đó xây dựng chính sách và đánh giá tác động của chính sách đối
với các nước nghèo. Phân tích thực tiễn chính sách và kết quả thu được ở một số nước Anbani, Bolivia, Guyana, Honduras [89]... Trong cùng năm này World Bank
27
(2006), cũng công bố nghiên cứu “Poverty and social impact analysis of reforms: Lessons and examples from implementation”, Nxb Washington, DC [86] nghiên cứu
chỉ ra nghèo đói và phân tích tác động xã hội (PSIA) là một phương pháp được sử
dụng ngày càng bởi các chính phủ, các tổ chức xã hội dân sự, Ngân hàng Thế giới
và các đối tác phát triển khác để kiểm tra tác động phân phối của cải cách chính
sách về phúc lợi của các nhóm đối tượng khác nhau, đặc biệt là người nghèo và dễ
bị tổn thương. Nghiên cứu tác động xã hội có một vai trò quan trọng trong việc xây
dựng và thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo ở các nước đang phát triển vì nó
thúc đẩy sự lựa chọn chính sách dựa trên bằng chứng và thúc đẩy cuộc tranh luận về
các phương án cải cách chính sách. Cuốn sách này trình bày một bộ sưu tập các
nghiên cứu tình huống minh họa quang phổ của các ngành, các cải cách chính sách
mà nghiên cứu tác động xã hội có thể được áp dụng; nó cũng làm rõ về các loạt các
công cụ phân tích và kỹ thuật có thể được sử dụng. Các nghiên cứu trường hợp
cung cấp các ví dụ về tác động mà nghiên cứu tác động xã hội có thể có trên các
thiết kế của cải cách chính sách và rút ra bài học cho việc thực hiện hoạt động
nghiên cứu tác động xã hội. Các nghiên cứu trường hợp thỏa thuận lớn với cải cách
chính sách trong một lĩnh vực duy nhất, như nông nghiệp (ban tiếp thị cây trồng ở
Malawi và Tanzania và bông tư nhân trong Tajikistan); (trợ cấp ngành khai thác mỏ
ở Romania và dầu trong Ghana) năng lượng; tiện ích (cải cách ngành điện ở Ghana,
Rwanda, và các nền kinh tế chuyển đổi, và lĩnh vực cải cách trong nước Albania);
lĩnh vực xã hội (cải cách giáo dục ở Mozambique và cải cách phúc lợi xã hội ở Sri
Lanka); cải cách thuế (Nicaragua); cũng như mô hình kinh tế vĩ mô (Burkina Faso).
Năm 2008 WorldBank, có nghiên cứu “Land in transition: Reform and
poverty in rural Vietnam - Martin Ravallion, Dominique van de Walle”, Nxb
Washington, DC [90] nghiên cứu chỉ ra các cải cách chính sách đã đề ra trong quá
trình chuyển đổi từ một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa sang nền kinh tế thị trường
phát triển mang lại cả cơ hội và rủi ro đối với công dân của một quốc gia. Trong nền
kinh tế nghèo, trọng tâm ban đầu của nỗ lực cải cách là tự nhiên khu vực nông thôn,
đó là nơi mà người ta tìm thấy phần lớn dân số và gần như tất cả người nghèo. Phát
triển kinh tế thường sẽ đòi hỏi di chuyển nhiều hộ gia đình nông thôn ra khỏi nông
nghiệp vào các hoạt động phi nông nghiệp có lợi hơn (đô thị và nông thôn). Cải
28
cách chuyển đổi kinh tế nông thôn từ, kiểm soát dựa trên các tổ chức nông nghiệp
tương đối cứng nhắc tìm thấy trong nông nghiệp xã hội chủ nghĩa một mô hình dựa
trên thị trường linh hoạt hơn, trong đó khuyến khích sản xuất là mạnh mẽ như vậy,
có thể đóng một vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
cải cách như vậy là một thách thức lớn đối với các nhà hoạch định chính sách,
những người đang lo ngại rằng họ sẽ tạo ra sự bất bình đẳng xã hội không thể chấp
nhận trong đất và kích thước khác có liên quan đến đời sống nhân dân. Cuốn sách
chỉ ra những thay đổi trong tổ chức đất và giao đất cần thiết cho việc chuyển đổi
nông nghiệp của Việt Nam bị ảnh hưởng tiêu chuẩn đặc biệt là đời sống nhân dân
của người nghèo nông thôn của đất nước. Cùng năm đó WB cũng công bố nghiên
cứu “Poverty and regional development in Eastern” [75] nghiên cứu chi ra việc phân
tích sự cân bằng giữa các mục tiêu môi trường và xã với xóa đói giảm nghèo có vai
trò đặc biệt quan trọng trong việch hoạch định chính sách trong xóa đói giảm nghèo.
Nói chung từ năm 2006 - 2013 có khá nhiều các nghiên cứu về các chính
sách giảm nghèo nhưng có nhiều điểm khác biệt so với giai đoạn trước, các nghiên
cứu được triển khai theo vùng hay trên phạm vi toàn quốc được thực hiện có phần ít
đi. Thay vào đó, các nghiên cứu độc lập và tập trung vào một chính sách nhiều hơn.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu này phần lớn quan tâm đến chính sách y tế. Một
trong lý do để lý giải điều này chính là trong các chính sách, chính sách y tế có
nhiều biến động nhất. Bên cạnh các nghiên cứu trên, các cơ quan hữu quan Việt
Nam, nơi chịu trách nhiệm giám sát thực hiện các chính sách giảm nghèo bền vững
cũng đã tiến hành đánh giá riêng lẻ từng chính sách nhưng cũng chưa làm rõ những
thành tựu cũng như tồn tại của chính sách. Phần lớn các đánh giá này mạng nặng
tình hành chính nhiều hơn là một nghiên cứu. Do đó, kết quả đánh giá cũng không
phục vụ được nhiều cho công tác hoàn thiện chính sách. Như vậy, tính đến thời
điểm thực hiện nghiên cứu, tác giả nhận thấy về mặt lý luận, đến nay chưa có một
nghiên cứu nào đưa ra được một khung lý thuyết hoàn thiện chính sách, đặc biệt là
đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững hoàn chỉnh. Về thực tiễn, các cá nhân hay
các tổ chức phi chính phủ và nhà tài trợ dù đã thực hiện nhiều nghiên cứu về đói
nghèo nhưng liên quan đến đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững lại rất hạn
29
chế. Nếu có thì cũng chỉ là chính sách riêng lẻ hoặc tập trung vào một số chính sách
chính thì lại bị hạn chế về thời điểm đánh giá.
1.2.2. Các công trình trong nước
Vào năm 1995 một nghiên cứu của UNDP đã được tiến hành nghiên cứu về
giảm nghèo bền vững ở Việt Nam với nghiên cứu “Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam” [38]. Nghiên cứu đã làm nổi bật được nguyên nhân gây ra đói nghèo ở Việt
Nam và phân tích tác động của các nhóm giải pháp được thực hiện trong giảm
nghèo bền vững như chính sách đất đai, chính sách tín dụng ưu đãi, chính sách giảm
nghèo bền vững, CSHT đã được đánh giá tương đối cụ thể. Tiếp đó một nghiên cứu
khác của WB đã được thực hiện với tên gọi là “đánh giá nghèo đói và chiến lược” [26]. Nghiên cứu này đã đánh giá thực trạng đói nghèo của Việt Nam, bước đầu đã
đưa ra các giải pháp và các chính sách tác động trực tiếp đến đến giảm nghèo ở Việt
Nam. Nghiên cứu khẳng định: để tấn công đói nghèo không chỉ thực hiện chỉ bởi
các chính sách thúc đẩy TTKT mà cần phải có các chính sách tác động trực tiếp đến
người nghèo, trong đó bao gồm các chính sách về đất đai, CSHT, y tế và giáo dục.
Năm 1998, cuốn sách “Nghèo đói và chính sách giảm nghèo đói ở Việt Nam, kinh nghiệm từ nền kinh tế chuyển đổi” [76] của Tuan Phong Don và Hosein Jalian
đã đi sâu phân tích, đánh giá một số chính sách giảm nghèo bền vững và đã chỉ ra
được tầm quan trọng của các chính sách đó trong công cuộc giảm nghèo bền vững ở
Việt Nam.
Trần Thị Vân Anh, với nghiên cứu “Về phương pháp đánh giá tác động của
chính sách giảm nghèo bền vững và xây dựng chiến lược giảm nghèo bền vững đến năm 2010” (2003) [23], chủ yếu thông qua phân tích văn bản để đánh giá quá trình
đánh giá chính sách và hoạch định chính sách giảm nghèo ở Việt Nam. Theo tác
giả, việc đánh giá kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo đã được dựa trên các
nguồn dữ liệu phong phú, đa dạng do các nhà khoa học, điều tra nghiên cứu được,
kết hợp với các nguồn thông tin thu thập trực tiếp từ người nghèo và cộng đồng
nghèo. Bên cạnh đó, tác giả cũng phát hiện có những trường hợp chính sách đã
không được đánh giá đầy đủ do những người thực hiện thường thiên về trình bày
thành tích mà thiếu sự phân tích các vấn đề tồn tại; quan tâm nhiều hơn đến các hoạt
động cụ thể mà thiếu chú ý đến các vấn đề có tính cơ chế, chính sách; quan tâm
nhiều đến các ngành, các lĩnh vực chuyên biệt mà ít coi trọng các vấn đề ở tầm vĩ
30
mô chung. Cũng trong nghiên cứu của mình, tác giả đã nêu được mối quan hệ giữa
đánh giá chính sách và hoạch định chính sách. Tác giả nhận định, việc đánh giá chính
sách càng khách quan, toàn diện bao nhiêu thì càng có căn cứ vững chắc để hoàn thiện
các chính sách cũng như đề xuất các chính sách mới có tính khả thi bấy nhiêu.
Tác giả Phạm Xuân Nam với nghiên cứu “Góp phần khảo sát mấy khía cạnh phương pháp luận đánh giá chính sách giảm nghèo” (2003) [23] đã giới thiệu quá trình
hoạch định chính sách giảm nghèo ở Việt Nam và đưa ra các cách tiếp cận đánh giá
chính sách, nêu lên kiến nghị kết hợp chặt chẽ giữa việc đánh giá chính sách với quá
trình hoạch định chính sách để các chính sách được đưa ra trong tất cả các lĩnh vực (kinh
tế, xã hội…) đều có thể đóng góp nhiều hơn cho giảm nghèo bền vững.
Năm 2004 Bộ lao động thương binh và xã hội và UNDP công bố “Đánh giá
cuối kỳ Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và chương trình 135-I” [5]. Trong đó có tập trung vào một số chính sách như tín dụng, y tế, giáo duc,
khuyến nông và định cạnh định cư, tuy nhiên thời điểm đánh giá cũng trước năm
2005. Với những hạn chế trên, các kết luận của những nghiên cứu trước đây sẽ
không phục vụ được nhiều cho hoạch định chính sách giảm nghèo bền vững đến
năm 2015 ở Việt Nam.
Tác giả Đàm Viết Cường và các đồng sự với đề tài “Tác động của Qũi khám
chữa bệnh cho người nghèo đối với hộ gia đình tại hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang” (2005) [7], tác giả Nguyễn Thành Trung và các cộng sự với đề tài “Đánh giá
việc thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo ở miền núi phía bắc” (2006) [36] tập trung đánh giá tác động của chính sách hỗ trợ y tế cho người nghèo.
Nhiều phát hiện quan trọng được thể hiện trong hai nghiên cứu này như về cơ bản
chính sách có tác động tích cực đến người nghèo nhưng chưa thực sự cao vì nhiều
lý do liên quan đến cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện. Cùng năm 2006 Ủy ban
Dân tộc công bố báo cáo, “Báo cáo kết quả: dự án điều tra, đánh giá hiệu quả đầu
tư chương trình 135 và đề xuất các chính sách, giải pháp hỗ trợ đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn giai đoạn 2006 -2010” [56] báo cáo đã điều tra, đánh giá hiệu quả
đầu tư của Chương trình 135 (135) và các chương trình, dự án lồng ghép khác trên
địa bàn các xã đặc biệt khó khăn phục vụ cho báo cáo tổng kết Chương trình 135
giai đoạn I, chỉ ra các bài học kinh nghiệp về hỗ trợ đầu tư phát triển KTXH các
vùng BĐKK, đặc biệt trên phạm vi địa bàn xã, đồng thời báo cáo đề xuất các cơ
31
chế, giải pháp, chính sách hỗ trợ chương trình phát triển KTXH các xã ĐBKK vùng
dân tộc và miền núi giai đoạn 200-2010, (Chương trình 135 giai đoạn II).
Cùng trong thời gian này, tác giả Trần Tuấn và các cộng sự đã thực hiện:
“Đánh giá tiếp cận của người dân với quỹ 139 tại ba tỉnh Yên Bái, Ninh Thuận, và Đồng Tháp” (2006) [34] và tác giả Phạm Mạnh Hùng cùng các công sự tiến hành
“Phân tích thực trạng chi phí trong điều trị nội trú của bệnh nhân nghèo 139 tại 3 bệnh viện Ung bướu, Nhi, và Phụ sản Trung ương” (2006) [14]. Các nghiên cứu đã
phân tích chi phí khám chữa bệnh của người dân, và làm rõ tác động của các quyết
định 139 và 3310 đến người nghèo. Trên cơ sở đó, rút ra các kết luận định hướng
chính sách giúp người nghèo giảm gánh nặng chi phí khám chữa bệnh. Như vậy,
các nghiên cứu nói trên có đóng góp lớn cho công tác hoạch định chính sách giảm
nghèo bền vững ở Việt Nam. Tuy nhiên, điểm yếu của các nghiên cứu này là cơ bản
đều được tiến hành ở thời điểm sau khi triển khai chương trình giảm nghèo bền
vững giai đoạn 2001-2005 không lâu (trừ các nghiên cứu về chính sách y tế).
Năm 2007 tác giả Cao Kiên Cường khi ở Singapore đã có nghiên cứu về
“Các giải pháp chủ yếu để loại bỏ nghèo đói bền vững tại Việt Nam” (Major solutions for the sustainable elimination of poverty and hunger in Vietnam) [72].
Nghiên cứu này đã đi sâu nghiên cứu lý luận về vai trò chính phủ trong việc giảm
nghèo bền vững. Phân tích thực trạng cơ chế, hệ thống chính sách còn bất cập, chưa
đúng mức, chưa phù hợp với việc phát huy tác dụng KTTT đồng thời đề xuất giải
pháp giảm nghèo bền vững bền vững cũng như đã đề ra chiến lược mang tầm cỡ
quốc gia thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển.
Tháng 12 năm 2008, Ủy ban Dân tộc nghiên cứu tại “Báo cáo phân tích điều tra cơ bản chương trình 135-II” [57] đã cung cấp một cơ hội tốt để đưa ra những
đóng góp quan trọng đối với những thông tin hiện có về điều kiện sống của DTTS
tại Việt nam đặc biệt là đưa ra được bức tranh tổng thể về điều kiện sống của các
gia đình ở các xã đặc biệt khó khăn thuộc khu vực DTTS và miền núi và sự tham
gia của họ vào Chương trình 135.
Năm 2009, trong luận án tiến sĩ kinh tế, Vũ Thị Vinh đã nghiên cứu về “Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam” [69] .
Nghiên cứu này đã phân tích thực trạng của TTKT và giảm nghèo ở Việt Nam, đánh
giá sự tác động qua lại giữa TTKT và giảm nghèo và mối quan hệ giữa chúng, đi
32
sâu phân tích các chính sách vĩ mô đã áp dụng ở Việt Nam trong những năm qua và
tác động của các chính sách này đối với TTKT và giảm nghèo ở Việt Nam. Mặt
khác, nghiên cứu còn đánh giá một cách tương đối toàn diện và có hệ thống tình
hình thực hiện mục tiêu TTKT và giảm nghèo của Việt Nam từ sau đổi mới và nêu
được một số vấn đề cần đặt ra đối với TTKT và giảm nghèo của Việt Nam. Từ đó
nghiên cứu đã đưa ra hệ thống các quan điểm, phương hướng phát triển và đề xuất
những giải pháp cơ bản tăng tính đồng thuận giữa TTKT và giảm nghèo nhằm thực
hiện mục tiêu TTKT và GNBV ở Việt Nam trong thời gian tiếp theo.
Cũng trong năm 2009, luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hoa nghiên
cứu về “Hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu của Việt Nam đến năm 2015” [13], nghiên cứu đã xây dựng một khung lý thuyết hoàn thiện chính sách,
trong đó có khung đánh giá chính sách giảm nghèo bền vững dựa trên lý thuyết
quản lý theo kết quả. Từ việc tổng kết vai trò của Chính phủ trong tấn công đói
nghèo và đi đến kết luận, Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong giải quyết tính đa
chiều của nghèo đói cũng như đã rút ra được một số bài học từ nghiên cứu kinh
nghiệm của một số quốc gia về giải quyết vấn đề đa chiều của đói nghèo. Nghiên
cứu này cũng đã chỉ ra các mặt được mà mỗi chính sách mang lại và đồng thời cũng
đã chỉ ra các vấn đề bất cập trong triển khai chính sách cũng như nguyên nhân của
những tồn tại đó. Thêm vào đó, luận án cũng đã đánh giá các tác động của các chính
sách giảm nghèo bền vững chủ yếu qua các tiêu chí tính hiệu quả, tính hiệu lực, phù
hợp và bền vững của chính sách.
Cùng với nghiên cứu“Nhìn lại quá khứ đối mặt thách thức mới”một hợp phần do
Ủy ban Dân tộc và UNDP cũng có báo cáo đánh giá giữa kỳ Chương trình phát triển KT-
XH các xã đặc biệt khó khăn thuộc khu vực DTTS và miền núi giai đoạn II (gọi tắt là Chương trình 135-II) [58]. Nghiên cứu này đã thực hiện đánh giá giữa kỳ Chương trình
135-II, giai đoạn 2006-2008 đồng thời đưa ra những khuyến nghị ngắn hạn, trung hạn và
dài hạn cho việc xây dựng các Chương trình giảm nghèo bền vững đối với các xã đặc
biệt khó khăn thuộc khu vực DTTS và miền núi trong tương lai, đồng thời chỉ ra sự phù
hợp thiết kế và hiệu quả của chương trình, tính kinh tế và hiệu quả quản lý, thực hiện
chương trình cũng như chất lượng cung cấp dịch vụ và nhận thức của người hưởng lợi.
Nghiên cứu cũng đưa ra những khuyến nghị ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho việc xây
dựng các CTMTQG-GN trong tương lai
33
Tháng 11 năm 2009 trong nghiên cứu “Rà soát tổng quan các chương trình
dự án giảm nghèo ở Việt Nam” của UNDP do Richard Jones và nhóm nghiên cứu
Việt nam đã có báo cáo nghiên cứu tổng quan về các chính sách và DA giảm nghèo
của Việt Nam để báo cáo Quốc hội Việt Nam và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc [54]. Báo cáo này đã thông qua việc tổng kết tất cả các chương trình giảm
nghèo của Việt Nam từ khâu thiết kế đến khâu thực hiện, để đánh giá các DA,
chương trình này có hoàn thành được mục tiêu đề ra như khi thiết kế hay không và
trên thực tế có đến được với những đối tượng cần được hỗ trợ hay không. Nhóm
nghiên cứu cũng đã đánh giá thông qua trao đổi với các cán bộ cấp tỉnh, huyện và
xã để tìm hiểu cụ thể hơn về tình hình thực hiện các DA giảm nghèo nhằm mục đích
đánh giá mức độ chồng chéo trong công tác điều hành trên thực tế. Tuy nhiên,
nghiên cứu này chủ yếu chỉ rà soát các DA giảm nghèo ở Việt Nam mà không đánh
giá chi tiết tình hình thực hiện các chương trình giảm nghèo của Việt Nam hoặc rà
soát các văn bản pháp quy liên quan đến các hoạt động giảm nghèo.
Năm 2010 Phạm Thái Hưng và các tác giả tiếp tục có nghiên cứu về “Nghèo
của đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương trình 135-II” [15] nghiên cứu đã nhằm tới các khía cạnh
quan trọng về mức sống của đồng bào các DTTS. Nghiên cứu mô tả một cách toàn
diện về tình trạng nghèo và vấn đề mức sống của nhóm dân tộc ở các xã đặc biệt
khó khăn. Mô tả này tập trung ở khía cạnh nghèo về thu nhập và các khía cạnh phi
tiền tệ của vấn đề mức sống kinh tế (như: tiếp cận giáo dục, dịch vụ y tế và phát huy
tính chủ động,...). Đồng thời nghiên cứu về các yếu tố quyết định chênh lệch thu
nhập giữa nhóm đa số và nhóm DTTS khác bằng cách phân tích chênh lệnh thu
nhập: một là khác biệt về các đặc điểm và nguồn lực giữa các nhóm dân tộc, hai là
sự khác biệt về thu nhập từ các đặc điểm và nguồn lực, ba là đã tìm hiểu đồng bào
các DTTS nghèo được hỗ trợ từ những chính sách và chương trình hiện tại như thế
nào. Sau những phân tích đó tác giả đã có những kiến nghị cho các chính sách và
chương trình trong tương lai nhằm đưa ra những hỗ trợ hiệu quả hơn cho việc nâng
cao mức sống cho các DTTS. Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng chỉ có 62% hộ gia
đình thuộc nhóm “nghèo” là thực sự nghèo. Có nghĩa là có một tỷ lệ rò rỉ tương
đương 38% hộ nghèo được nhận hỗ trợ từ các chương trình giảm nghèo không
thuộc đối tượng thụ hưởng những hỗ trợ này và có 28% hộ trong nhóm “không
34
nghèo” thực sự là hộ nghèo, nhưng không được bình xét là những hộ thuộc diện
được hưởng chính sách.Tỷ lệ rò rỉ lớn này đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng về hiệu
quả xác định đối tượng mà các chính sách và chương trình giảm nghèo cho các xã
nghèo nhất hướng tới.
Năm 2010 trong đề tài cấp nhà nước do Nguyễn Văn Mạnh và các tác giả
nghiên cứu về "Vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và quản lý xã hội trong tiến trình đổi mới" [20], nghiên cứu đã đưa ra các quan điểm về phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội đồng thời nhận định các xu hướng phát triển xã hội
để đưa ra vai trò của Nhà nước trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
trên tất cả các mặt của lĩnh vực KT-XH.
Gần đây, trong đề tài “Tổng kết và đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách xóa
đói giảm nghèo ở nước ta giai đoạn 2001-2010, xây dựng cơ chế chính sách và giải
pháp xóa đói giảm nghèo phục vụ cho công tác quản lý và điều hành của đảng trong giai đoạn 2011-2020” [19], của Lê Quốc Lý và các cộng sự đã tổng kết 10 năm thực hiện công
tác giảm nghèo bền vững. Trong báo cáo này, tác giả đã đi sâu phân tích những thành
tựu, hạn chế và những nhân tố tác động, nguyên nhân hạn chế của quá trình thực tiễn
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững giai đoạn 2001-2010 đồng thời đề xuất, kiến
nghị với các cấp về các vấn đề cần đề cập đến trong xây dựng cơ chế, chính sách và giải
pháp giảm nghèo bền vững cho giai đoạn 10 năm tới.
Năm 2012 UNDP công bố báo cáo “Tác động của chương trình 135 giai đoạn II qua lăng kính hai cuộc điều tra đầu kỳ và cuối kỳ” [55] nghiên cứu đã chỉ ra
với quyết tâm đánh giá được sự hiệu quả của CT135-II và xác định được những hạn
chế của chương trình nhằm cải thiện và nâng cao hiệu quả các chương trình trong
tương lai của chính phủ, Ủy ban dân tộc (UBDT) với sự hỗ trợ của UNDP, đã thực
hiện cuộc điều tra đầu kỳ (ĐTĐK) vào năm 2007 và điều tra cuối kỳ (ĐTCK) năm
2012 với mục tiêu cung cấp: (i) các bộ dữ liệu toàn diện nhất về dân tộc thiểu số
đang sinh sống ở khu vực khó khăn nhất. Trên thực tế, bộ số liệu điều tra đầu kỳ đã
được sử dụng và trích dẫn rộng rãi trên các báo cáo và ấn phẩm gần đây về đói
nghèo và dân tộc thiểu số của chính phủ và các nhà tài trợ. Một bộ số liệu toàn diện,
cập nhật và được chia sẻ rộng rãi về các hộ gia đình này là rất hữu ích và cần thiết
cho chính phủ và các nhà tài trợ để xây dựng được những chính sách giảm nghèo
dựa trên các luận cứ và bằng chứng khoa học. Chính vì vậy các bộ số liệu này sẽ
35
giúp đánh giá được mức độ nghèo đói và tình hình kinh tế xã hội của các cộng đồng
dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa của Việt nam trong vòng 5 năm qua;
(ii) các bộ số liệu này được thiết kế tốt cho phép thực hiện các phân tích chi tiết
những tiến bộ đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu
số sống trong các xã thuộc CT135-II và đo lường được những thay đổi theo các chỉ
số chính (tỉ lệ nghèo, thu nhập, năng suất nông nghiệp, khả năng tiếp cận các cơ sở
hạ tầng cơ bản,…) của CT135-II và cũng là để đánh giá tác động của chương trình
sau khi kết thúc việc thực hiện; (iii) Điều tra cuối kỳ sẽ là một bộ dữ liệu định lượng
đầu kỳ đáng tin cậy phục vụ việc thiết kế và đánh giá các chương trình giảm nghèo
trong tương lai của chính phủ. Đây là chương trình lớn đầu tiên của chính phủ đã sử
dụng quy trình đánh giá một cách có hệ thống và chuyên nghiệp. Quy trình này đáp
ứng các tiêu chuẩn chuyên môn cao nhất, không chỉ mang lại lợi ích riêng cho
CT135-II, mà còn là một minh chứng về giá trị gia tăng, từ những đánh giá tốt có
thể cung cấp và rút ra những bài học tốt cho các chương trình sắp tới của chính phủ.
Năm 2016 NCS Nguyễn Đức Thắng công bố luận án tiến sĩ với đề tài “Thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc đến năm 2020” [34] , nghiên
cứu đã hệ thống hóa khá đầy đủ cở sở lý luận để đảm bảo căn cứ khoa học cho việc
tiếp cận, nghiên cứu và luận giải về tổ chức thực hiện chính sách XĐGN và xây
dựng khung lý thuyết về quy trình tổ chức thực hiện chính sách XĐGN, xác định
những tiêu chí cơ bản để đánh giá quá trình tổ chức thực hiện chính sách XĐGN
làm căn cứ và là cơ sở khoa học cho việc đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện
chính sách XĐGN ở các tỉnh Tây Bắc, nghiên cứu giúp hoàn thiện lý luận, quan
điểm, yêu cầu về tổ chức thực hiện chính sách XĐGN nhất là ở vùng đặc thù như
Tây Bắc nước ta.
1.3. Đánh giá chung về tổng quan tình hình nghiên cứu
1.3.1. Những nội dung nghiên cứu và luận án có thể kế thừa
Những công trình công bố trên đây đã làm rõ được những vấn đề lý luận về
giảm nghèo và quản lý nhà nước về giảm nghèo, bản chất và nguyên nhân của
những hạn chế, chỉ ra các giải pháp giảm nghèo bền vững nhằm phát triển KT-XH
nói chung. Một số nghiên cứu đã có điều tra khảo sát, phân tích khá chi tiết về quan
điểm, thực trạng phát triển KT-XH về giảm nghèo bền vững đồng thời mở ra những
36
hướng nghiên cứu sâu về giảm nghèo bền vững là cơ sở lý luận quan trọng để tác
giả sử dụng phân tích trong đề tài nghiên cứu các giải pháp quản lý nhà nước về
giảm nghèo bền vững nhằm phát triển KT-XH ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam. đó là:
Thứ nhất, các đề tài nghiên cứu về đói nghèo của các quốc gia, trong đó đặc
biệt nhấn mạnh đến việc tìm kiếm việc làm cho người dân bởi chính việc thiếu việc
làm đã đẩy người dân đến với tình trạng nghèo khổ, họ cho rằng; duy trì tỷ lệ có
công ăn việc làm cao và phát triển xã hội đồng đều phụ thuộc vào thành công của đa
dạng hóa nền kinh tế. Các cuộc khủng hoảng kinh tế đang mở ra cơ hội cho các
nước nghèo tạo nền tảng phát triển bền vững và tăng trưởng dựa vào các ngành sản
xuất tập trung nhiều lao động. Nhấn mạnh tạo công ăn việc làm là vấn đề rất quan
trọng để phát triển xã hội của các nước nghèo. Vai trò của quản lý nhà nước về
giảm nghèo của những nước này cần đầu tư nhiều hơn, đặc biệt là nâng cao khả
năng kiểm tra giám sát các chính sách giảm nghèo bền vững.
Thứ hai, các nghiên cứu của nước ngoài về giảm nghèo về Việt Nam giúp
cho Chính phủ Việt Nam đạt được những tiến bộ quan trọng trong chiến lược xóa
đói giảm nghèo của mình đồng thời các nghiên cứu đó cũng góp phần nâng cao chất
lượng của những chính sách giảm nghèo trên cơ sở giải quyết được hai khía cạnh
quan trọng trong quá trình giải quyết vấn đề của chính sánh là phù hợp với quan
điểm và cách thức ứng xử của Chính phủ đối với vấn đề nghèo đói và thứ hai là việc
tìm kiếm giải phải để giải quyết vấn đề đó ngày càng sát thực hơn với nhu cầu
nguyện vọng và khả năng của các đối tượng chính sách.
Thứ ba, các nghiên cứu về quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững trong
nước: Những nghiên cứu tiến hành những đánh giá riêng lẻ từng chính sách nhưng
cũng chưa làm rõ những thành tựu cũng như tồn tại trong quá trình tổ chức triển
khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững của các cơ quan nhà nước. Đặc biệt
là chưa đánh giá được kết quả và chỉ ra được những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả
thực hiện chính sách giảm nghèo trên phạm vi cả nước nói chung và ở từng vùng
lãnh thổ nói riêng. Phần lớn các đánh giá này mang nặng tính hành chính nhiều hơn
là một nghiên cứu, do đó kết quả của nghiên cứu cũng không phục vụ được nhiều
cho công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững.
37
Thứ tư, các nghiên cứu về chính sách giảm nghèo bền vững thì thực tế, mỗi
chính sách khi được ban hành thường hướng tới những mục tiêu khác nhau và được
thực hiện bằng những biện pháp, cách thức khác nhau. Mặt khác mỗi chính sách lại
được thực hiện ở những địa bàn khác nhau với những điều kiện kinh tế xã hội tương
đối khác biệt. Bởi vậy việc đánh giá chính sách ở những vùng miền khác nhau và
đặc biệt hơn nữa là tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có rất nhiều đặc thù
riêng, do đó cũng cần phải được tiến hành dựa trên những tiêu chí khác nhau mà
điều này dường như các nghiên cứu thuộc nhóm này chưa giải quyết được,
1.3.2. Những khoảng trống và giả thuyết tập trung nghiên cứu
Trong khi tỷ lệ nghèo chung đã giảm đáng kể từ 14,5% năm 2010, tốc độ
giảm nghèo ở các nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) chậm hơn nhiều so với các nhóm
dân tộc đa số. Năm 2012, hơn 50% người DTTS vẫn sống dưới chuẩn nghèo chung,
trong đó có tới 31% còn nghèo về lương thực. Tiến độ giảm nghèo ở DTTS trong
các lĩnh vực giáo dục, y tế, nước sạch, vệ sinh và nhà ở, chưa kể lĩnh vực thu nhập
còn chậm so với mức bình quân cả nước. Trong bối cảnh đó, năm 2011 Chính phủ
Việt Nam đã ban hành Nghị quyết 80/NQ-CP, đưa ra những định hướng mới về
giảm nghèo bền vững trong giai đoạn 2011- 2020, đặt mục tiêu giảm nghèo 4%
hàng năm, tập trung huy động nguồn lực cho các huyện, xã, thôn bản nghèo nhất
trong cả nước để thúc đẩy giảm nghèo nhanh tại các vùng khó khăn, DTTS và bãi
ngang ven biển. Chương trình mục tiêu giảm nghèo bền vững 2012 - 2015
(CTMTQG-GNBV), được phê duyệt vào tháng 10/2012, nhằm đẩy mạnh tốc độ
giảm nghèo ở những địa bàn này; cải thiện chất lượng cuộc sống và sinh kế của
người nghèo, người DTTS.
Tuy nhiên, cho đến nay việc nghiên cứu các cách thức để nâng cao công tác
quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
lại đang là một lỗ hổng lớn cần tiếp tục nghiên cứu thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu về giảm nghèo và giảm
nghèo bền vững của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên các nghiên cứu về
công tác tổ chức thực thi chính sách giảm nghèo bền vững cho các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam thì chưa được các nghiên cứu đề cập đến mà chủ yếu là những
38
nghiên cứu được thực hiện cho một địa phương cụ thể ở một chính sách cụ thể trong
hệ thống chính sách giảm nghèo.
Thứ hai, các nghiên cứu chưa tập trung phân tích, đánh giá về công quản lý
nhà nước về giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS trên một vùng để từ đó chỉ
ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác
quản lý nhà nước tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Thứ ba, chưa có nghiên cứu nào đề ra được các giải pháp để hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trên
đầy đủ các khía cạnh như: về mặt chính sách, về tổ chức bộ máy thực hiện quản lý nhà
nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, về nâng cao chất
lượng các nguồn nhân lực, nguồn lực về tài chính và giải pháp hoàn thiện công tác thanh
tra, kiểm tra hoạt động giảm nghèo tại các địa phương này.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong giai đoạn hiện nay, một trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của
Liên Hiệp Quốc là phải cải thiện điều kiện sống của 1,4 tỷ người nghèo nhất thế
giới. “Nghèo đói thật sự đang là một trong những vấn đề có tính toàn cầu. Không
chỉ một nước, mà các quốc gia cần có sự phối hợp chung, hành động tích cực và hữu hiệu để chấm dứt sự nghèo đói tuyệt đối” [28]. Liên Hiệp Quốc đã nêu lên mục
tiêu: đẩy lùi, tiến tới xoá bỏ nghèo đói, xây dựng một xã hội thịnh vượng và công
bằng hơn. đói nghèo là vấn đề của thế kỷ XXI mà các quốc gia vẫn đang tiếp tục
phải quan tâm giải quyết, điều đó cũng đúng cho thực tiễn nước ta.
Đối với Việt Nam, “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp; có nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển” [22]. Để thực hiện thành
công mục tiêu trên, trong tất cả các Chiến lược phát triển KT-XH của Việt Nam
không thể không tính đến việc giảm nghèo bền vững.
Nghèo đói đã trở thành một trong những lực cản đối với quá trình phát triển
KT-XH ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Do đó, khó có thể phát triển KT-XH nhanh và
39
bền vững nếu như chưa tập trung mọi nguồn lực để giảm tỉ lệ nghèo và cận nghèo ở
các tỉnh này. Khi xác định được vai trò của giảm nghèo bền vững trong quá trình
phát triển KT-XH thì việc định hướng cho việc giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía
Bắc những năm tới mới thực sự đem lại hiệu quả tối ưu.
Hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu về giảm nghèo và giảm nghèo bền
vững của các tác giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên các nghiên cứu về công tác tổ
chức thực thi chính sách giảm nghèo bền vững cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam thì chưa được các nghiên cứu đề cập đến mà chủ yếu là những nghiên cứu
được thực hiện cho một địa phương cụ thể ở một chính sách cụ thể trong hệ thống
chính sách giảm nghèo. Đồng thời các nghiên cứu chưa tập trung phân tích, đánh
giá về công quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững cho đồng bào DTTS trên
một vùng để từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại,
hạn chế trong công tác quản lý nhà nước tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Đặc bietj hơn cả là chưa có nghiên cứu nào đề ra được các giải pháp để hoàn thiện
công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam trên đầy đủ các khía cạnh như: về mặt chính sách, về tổ chức bộ máy thực
hiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam, về nâng cao chất lượng các nguồn nhân lực, nguồn lực về tài chính và giải
pháp hoàn thiện công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động giảm nghèo tại các địa
phương này.
40
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM
NGHÈO BỀN VỮNG
2.1. Những khái niệm cơ bản
2.1.1. Quan niệm về nghèo, đói
Trong cuộc sống hàng ngày, mỗi con người chúng ta để tồn tại được thì cần
phải giải quyết được những nhu cầu cơ bản nhất. Những nhu cầu đó của con người
có thể được chia ra làm hai dạng, đó là những nhu cầu về vật chất như: ăn, mặc, ở,
đi lại và những nhu cầu về tinh thần như giáo dục, y tế, giao tiếp hay còn gọi là
những giá trị của cuộc sống. Những nhu cầu này cần được đáp ứng ở một mức độ
nhất định nào đó, mà người ta gọi là mức sống tối thiểu của cộng đồng, nghĩa là nếu
không đạt được đến mức này, con người không thể đảm bảo cuộc sống để phát triển
một cách bình thường được.
Do vậy, khi nghiên cứu đói nghèo chúng ta cần phải nghiên cứu tới nhu cầu,
hay còn gọi là mức sống tối thiểu của người dân.
Nghèo đói là một khái niệm mang tính chất động, nó biến đổi tuỳ thuộc vào
không gian, thời gian và xuất phát điểm của mỗi địa phương, mỗi quốc gia. Tuỳ
thuộc vào từng quốc gia, từng thời điểm khác nhau, cũng như quan điểm nghiên cứu
khác nhau mà nghèo đói được phát biểu khác nhau.
Theo Bách khoa toàn thư mở của WiKipedia thì Nghèo diễn tả sự thiếu cơ
hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định
với một số khái niệm cơ bản sau:
- Khái niệm nghèo đói của tổ chức Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa nghèo
theo thu nhập. Theo đó một người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa
mức thu nhập bình quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Income, PCI) của
quốc gia.
- Để có một cái nhìn tổng quan về các vấn đề của các nước đang phát triển,
Robert McNamara, khi là giám đốc của Ngân hàng Thế giới (WB), đã đưa ra khái
niệm nghèo tuyệt đối. Ông định nghĩa khái niệm nghèo tuyệt đối như sau: “Nghèo ở
mức độ tuyệt đối là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn tại. Những người nghèo
tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và
41
trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức chúng ta”[70].
- Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so với (đô la thế giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là
chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới
nghèo tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô
la cho khu vực Mỹ La tinh và Carribê đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho
đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. (Chương trình Phát triển Liên Hợp
Quốc 1997).
- Khái niệm nghèo đói của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
Ngân hàng phát triển Châu Á đã phát biểu nghèo đói dưới hai hình thức là
nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối.
Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức
trung bình của cộng đồng, tại một thời điểm nào đó.
Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống, nghĩa là không có khả năng đạt đến một tiêu chuẩn tối thiểu của cuộc sống [25].
Trên cơ sở những quan niệm về nghèo đói như trên, tại hội nghị chống đói
nghèo Khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc – Thái
Lan năm 1993 đã đưa ra một định nghĩa chung về nghèo đói: Nghèo là tình trạng
một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con
người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán từng địa phương [25]. Khái niệm nghèo có thể
thống nhất về mặt định tính song không thể thống nhất về mặt định lượng. Bởi vì
mỗi quốc gia khác nhau thì có mức sống của người dân khác nhau hoặc ngay trong
một quốc gia mức sống giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau. Hơn nữa mặt
định lượng của mức nghèo cũng biến động theo thời gian tương ứng với sự biến
động về sự phát triển kinh tế-xã hội của quốc gia đó. Vì vậy, mỗi quốc gia tự khảo
sát và xây dựng một thước đo mức độ nghèo đói riêng thông qua những tiêu chí cụ
thể được xác định và gọi đó là chuẩn nghèo. Trên cơ sở xem xét đến các khía cạnh:
mức sống; thu nhập bình quân trên đầu người trong tháng hoặc trong năm đối với
các khu vực điển hình; giá trị vật phẩm, hiện vật tiêu dùng; sự thỏa mãn nhu cầu tối
42
thiểu về ăn uống hoặc tỷ trọng chi cho ăn uống trên cơ cấu tiêu dùng ...để xây dựng
chuẩn nghèo và lấy đó làm cơ sở xác định tỷ lệ nghèo đói của quốc gia.
Tỷ lệ nghèo: “Tỷ lệ nghèo là số phần trăm số người hoặc số hộ có mức sống
thấp hơn chuẩn nghèo trong tổng số người hoặc số hộ được nghiên cứu [25].
Trong đó mức sống được đo bằng các thước đo sau:
Thước đo đơn chiều: “Thước đo này đo khía cạnh về kinh tế của mức sống”
và được tính theo thu nhập hoặc chi tiêu bình quân đầu người của hộ gia đình từ các
cuộc điều tra thu nhập, chi tiêu hoặc điều tra mức sống hộ gia đình.
Các nước lựa chọn thu nhập làm thước đo đơn chiều mức sống cho rằng: thu
nhập phản ánh thực chất mức sống của các hộ gia đình hơn là chi tiêu. Vì thông tin
về thu nhập chỉ sai lệch ở một số hộ khi họ chủ định giấu diếm thu nhập hoặc do có
nhiều nguồn thu khác nhau mà họ không thể nhớ hết được. Còn ở một số hộ khi gặp
phải ốm đau, tai nạn, rủi ro,... sẽ bị tăng đột biến làm cho mức độ chi tiêu cho cuộc
sống trở nên eo hẹp trong khi theo thu nhập thì họ thuộc diện không nghèo hoặc
theo thước đo chi tiêu thường xảy ra những trường hợp người nghèo kê khai vống
chi tiêu của họ vì sự mặc cảm, sỹ diện.
Các nước chọn chi tiêu làm thước đo đơn chiều mức sống lại cho rằng độ
chính xác của số liệu chi tiêu điều tra thường cao hơn so với số liệu điều tra về thu
nhập, mức chi tiêu phản ánh thực chất mức sống của các hộ hơn là thu nhập. Trong
khi thu nhập thường có tính ổn định không cao trong một thời kỳ nhất định.
Trên thực tế là có thể kiểm soát được chất lượng số liệu thu nhập hơn số liệu
chi tiêu của các hộ nghèo. Nhưng tùy điều kiện nhất định mà mỗi quốc gia sẽ lựa
chọn thu nhập hoặc chi tiêu làm thước đo để xác định tỷ lệ đói nghèo của quốc gia
mình. Ví dụ: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sử dụng
thước đo thu nhập khi tính tỷ lệ nghèo cho Việt Nam trong khi WB lại sử dụng
thước đo chi tiêu.
Thước đo đa chiều:Thước đo đa chiều được xem xét mức sống của dân cư
đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Nó đo lương mức sống cả về kinh tế lẫn chất lượng cuộc
sống theo các chiều cạnh khác nhau như: tình trạng phi tiền tệ, tình trạng dễ bị tổn
thương, rủi ro, quyền tự do, bị gạt ra ngoài lề xã hội, bị phân biệt đối xử, bị vi phạm
quyền con người, v.v...Việc đo lường mức sống theo đa chiều là việc xác định các
chỉ tiêu để đo các chiều và việc gộp các chiều thành độ đo hay để riêng từng chiều
43
và sử dụng trọng số các chiều. “Tuy nhiên, do khó khăn về số liệu nên trong thực tế
thước đo đa chiều chỉ đo lường sự phát triển con người về 3 chiều: tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn và chất lượng cuộc sống (đo bằng GDP thực tế bình quân theo đầu người tính theo PPP)” [25]. Đã có nhiều thước đo đa chiều được nghiên cứu,
xây dựng và áp dụng ở nhiều quốc gia.
Từ đơn chiều đến đa chiều: phương pháp đo lường nghèo đói ngày càng
hoàn thiện: Ở Việt Nam, Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm
nghèo bền vững cho mỗi giai đoạn 5 năm trên cơ sở công bố chuẩn nghèo để đo
lường sự thay đổi của tình trạng nghèo trong giai đoạn tương ứng. Từ 2015 trở về
trước, Việt Nam vẫn sử dụng phương pháp đo lường nghèo đơn chiều theo chuẩn
nghèo thu nhập. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê (TCTK)
cũng ước lượng tỷ lệ nghèo theo chuẩn nghèo chi tiêu bình quân.
Để chuyển đổi mạnh mẽ chính sách giảm nghèo theo hướng bền vững trong
bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng, năm 2014, Quốc hội đã quyết định việc giao
Chính phủ xây dựng chuẩn nghèo mới theo phương pháp tiếp cận đa chiều nhằm
bảo đảm mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản để thực hiện từ
năm 2016. Trên cơ sở đó, vào năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã thông qua phương
pháp tiếp cận đa chiều để đo lường nghèo đói. Theo đó nghèo đa chiều được đo
lường bằng mức độ thiếu hụt tiếp cận 5 dịch vụ xã hội cơ bản, bao gồm: y tế; giáo
dục; nhà ở; nước sạch và vệ sinh; và thông tin, và được đo bằng 10 chỉ số. Hộ được
coi là nghèo đa chiều nếu thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt (trên
tổng số 10 chỉ số nói trên) trở lên [theo Báo cáo nghèo đa chiều ở Việt Nam của
UNDP và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội – năm 2018].
Tỷ lệ nghèo giảm đáng kể dù sử dụng thước đo nào: Kết quả phân tích số
liệu của Khảo sát Mức sống dân cư cho thấy tỷ lệ nghèo dù đo lường bằng thước đo
nào cũng đều giảm trong giai đoạn 2012 - 2016 và từ 2016 - 2018. Tỷ lệ nghèo thu
nhập, chi tiêu cũng như nghèo đa chiều giảm mạnh. Tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ
18,1% xuống 10,9% trong thời kỳ này. Tỷ lệ nghèo chi tiêu giảm từ 17,2% xuống
9,8%, còn tỷ lệ nghèo thu nhập giảm từ 12,6% xuống còn 7,0%. [theo Báo cáo
nghèo đa chiều ở Việt Nam của UNDP và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội –
năm 2018].
44
Mặc dù có sự tương quan giữa tỷ lệ giảm nghèo đo lường theo các phương pháp
khác nhau nhưng có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hộ nghèo đơn chiều và đa chiều. Chẳng
hạn, tỷ lệ nghèo thu thập và chi tiêu của vùng trung du và miền núi phía Bắc cao nhất 6
vùng của cả nước, nhưng tỷ lệ nghèo đa chiều của vùng này lại thấp hơn Tây Nguyên và
vùng đồng bằng sông Cửu Long. Có nhiều hộ nghèo đa chiều nhưng lại không nghèo thu
nhập hay nghèo chi tiêu, và ngược lại. Chỉ có khoảng 2,7% dân số là nghèo theo cả 3
thước đo thu nhập, chi tiêu và nghèo đa chiều.
Ngoại trừ trình độ giáo dục của người lớn thì tỷ lệ thiếu hụt các chỉ số nghèo
đa chiều quốc gia đều giảm xuống trong thời kỳ 2012-2016. Chỉ số về tiếp cận y tế
được cải thiện đáng kể do chính sách bảo hiểm y tế toàn dân được đẩy mạnh. Tỷ lệ
thiếu hụt về thông tin giảm mạnh do sự phát triển của điện thoại di động và Internet.
Điều kiện nhà ở và vệ sinh cũng được cải thiện nhưng tốc độ cải thiện khá thấp.
Hiện nay, mức độ thiếu hụt lớn nhất là ở các chỉ tiêu về nhà tiêu hợp vệ sinh và
trình độ giáo dục ở người lớn.
Xét toàn bộ dân số thì có 18% dân số không thiếu hụt bất kỳ chỉ số nào trong
10 chỉ số nghèo đa chiều vào năm 2012. Tỷ lệ này tăng lên đáng kể vào năm 2016,
ở mức 36,1%. Không có hộ gia đình nào thiếu hụt 8 chỉ số trở lên. Chỉ có 37,6%
dân số thiếu hụt một chỉ số, và 15,5% dân số thiếu hụt hai chỉ số vào năm 2016.
Nhóm thiếu hụt trầm trọng là nhóm thiếu từ 5-7 chỉ số, và nhóm này chiếm 1,3%
dân số vào năm 2016. [theo Báo cáo nghèo đa chiều ở Việt Nam của UNDP và Bộ
Lao động Thương binh và Xã hội – năm 2018].
Tóm lại, hai thước đo đơn chiều và thước đo đa chiều về nghèo đói đều có
những ưu, nhược điểm hay tác động đến giảm nghèo khác nhau. Thước đo đơn
chiều giải quyết vấn đề nghèo đói một cách ngắn hạn trong khi thước đo đa chiều
giải quyết nghèo ở dài hạn.
Quan niệm nghèo đói của Việt Nam là thừa nhận định nghĩa chung về nghèo
đói do Hội nghị chống đói nghèo khu vực Châu Á-Thái Bình Dương do ESCAP tổ
chức tại Băng Cốc-Thái Lan tháng 9/1993 đưa ra: Nghèo là tình trạng một bộ phận
dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những
nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và
phong tục tập quán từng địa phương. Nghèo của Việt Nam từ năm 2016 đến nay
được nghiên cứu là nghèo tuyệt đối, thước đo đói nghèo của Việt Nam đã áp dụng
45
là cách tiếp cận đa chiều, từ năm 2016 Việt Nam bắt đầu áp dụng theo chuẩn nghèo
tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
2.1.2. Xóa đói, giảm nghèo
Việc xóa đói ở đây trước hết được hiểu như là sự hỗ trợ phát triển của nhà
nước và cộng đồng để nâng cao đời sống dân cư, xóa bỏ tình trạng còn tồn tại các
hộ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu như cơm không đủ ăn, áo
không đủ mặc, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, nhà ở bằng tranh tre
vách đất, nhằm duy trì cuộc sống bình thường. Từ đó giúp họ vượt qua tình trạng
đói khổ triền miên để đi tới sự phát triển.
Giảm nghèo tức là tạo điều kiện cho bộ phận dân cư nghèo tiếp cận được với
các nguồn lực cần thiết để họ tự nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng
nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống làm cho
mức sống chung của toàn bộ cộng đồng được nâng lên.
Giảm nghèo còn được hiểu là quá trình chuyển một bộ phận dân cư nghèo
lên một mức sống cao hơn nhờ sự hỗ trợ của nhà nước, cộng đồng và sự nỗ lực
vươn lên của bản thân các hộ nghèo. Ở khía cạnh khác, giảm nghèo là chuyển từ
tình trạng người nghèo có ít sự lựa chọn sang tình trạng có nhiều sự lựa chọn hơn để
cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Như vậy, có thể nói một cách khái quát, xóa đói, giảm nghèo là quá trình tạo
điều kiện giúp đỡ các hộ đói nghèo có khả năng và cơ hội để tiếp cận với các nguồn
lực của sự phát triển một cách nhanh chóng, trên cơ sở đó họ có nhiều sự lựa chọn
hơn, giúp họ từng bước thoát ra khỏi cảnh nghèo đói. giảm nghèo bền vững còn gắn
với trung lưu hóa một bộ phận dân cư, khuyến khích và tạo điều kiện cho một bộ
phận dân cư biết vươn lên làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Trước đây, ở thời kỳ chưa đổi mới, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp, nghèo đói đã dường như không được nhìn nhận như một thực tế xã hội, bởi
quan niệm cho rằng: Trong chủ nghĩa xã hội không thể có nghèo đói. Nó chỉ có
trong chủ nghĩa tư bản, do sự phân phối bất hợp lý thu nhập của xã hội tạo ra. Do
đó, cách nhìn nhận, đánh giá nghèo đói ở đây có phần méo mó thiếu khách quan và
không khoa học.
Với một nền kinh tế còn kém phát triển, chưa ra khỏi ngưỡng của sinh tồn thì
nghèo đói là một vấn đề đương nhiên, tuy nhiên trước đây chúng ta đã không nhìn
46
nhận đúng như nó vốn có, do đó đã để lại hậu quả xã hội không nhỏ mà không được
cảnh báo. Vì ở nền kinh tế hiện vật, bao cấp bình quân không có cạnh tranh kinh tế;
không mở rộng thị trường; không làm nảy nở nhu cầu kinh tế; không hối thúc sự
cần thiết phải tháo vát, năng động, đổi mới cách nghĩ, cách làm, không thúc đẩy
phát huy tài năng cá nhân. Nó chỉ thúc đẩy con người tìm cách làm sao cho mình ở
vào một vị trí xã hội thuận lợi, có điều kiện thụ hưởng được nhiều sự bao cấp, sự ưu
đãi của nhà nước. Giàu có trong xã hội này không phải là kết quả của sự nỗ lực sản
xuất kinh doanh, của năng lực sáng tạo, của sự kịp thời nắm bắt yêu cầu của thị
trường. Nghèo đói cũng không phải do lười biếng hoặc bị thua lỗ phá sản trong sản
xuất kinh doanh, mà chủ yếu là do không có “đất dụng võ”, không có điều kiện và
môi trường để thể hiện năng lực, tài năng.
Bước sang nền kinh tế thị trường, con người buộc phải tính toán bằng giá trị
và tính đủ giá trị cho mọi kết quả lao động, do đó lợi ích được chú trọng trước hết là
lợi ích cá nhân. Nó khách quan hóa và nâng cao một cách đáng kể vai trò của năng
lực cá nhân, thúc đẩy tính tự giác và ý thức trách nhiệm đối với công việc và sản
phẩm lao động. Giá trị lợi ích đã thúc đẩy cạnh tranh, làm nẩy nở tài năng, kích
thích con người về tính chủ động, óc sáng kiến, tính linh hoạt trong các phản ứng và
các hành vi đáp ứng cạnh tranh.
Kinh tế thị trường mở ra nhiều khả năng và cơ hội cho con người phát
triển đồng thời cũng phơi bày những yếu kém bất cập của con người trong sản
xuất - kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường xóa đói, giảm nghèo luôn gắn
liền với khuyến khích một bộ phận dân cư có điều kiện, khả năng vươn lên làm
giàu chính đáng. Đó cũng là một trong những biện pháp hữu hiệu ngăn cản hiện
tượng nghèo tái sinh. Những người vừa thoát nghèo rất có khả năng bị rơi vào
nghèo đói trở lại khi những giải pháp giảm nghèo không bền vững hoặc chỉ có
tác dụng trong ngắn hạn.
Giảm nghèo còn là vấn đề mang tính lịch sử. Bởi nghèo vẫn tồn tại khi nền
kinh tế thị trường vẫn còn chi phối và vẫn còn tồn tại sự khác biệt về năng lực thể
chất, địa vị xã hội... giữa các cá nhân. Do đó, để giải quyết vấn đề giảm nghèo phải
từng bước giảm nghèo chứ chưa thể làm ngay việc xóa nghèo. Chỉ đến khi xã hội
loài người đạt tới trình độ xã hội cộng sản chủ nghĩa như Mác và Ăngghen dự báo,
khi đó cơ sở kinh tế xã hội của đói nghèo mới không còn tồn tại.
47
2.1.3. Giảm nghèo bền vững
2.1.3.1. Khái niệm về giảm nghèo bền vững
“Giảm nghèo bền vững” đã được một số nghiên cứu đề cập từ những năm
trước 2000. Nhưng đến năm 2008 cụm từ “giảm nghèo bền vững” được sử dụng
chính thức trong văn bản hành chính ở Việt Nam tại Nghị quyết số 30a/NQ-CP
ngày 27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo; tiếp đó là Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2010
của Chính phủ về Định hướng giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2020; Quyết
định số 1489/QĐ-TTg ngày 8/10/2012 của TTCP phê duyệt chương trình giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 và Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 1/6/2012,
Hội nghị BCH trung ương khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn
2012-2020. Tính đến thời điểm này vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm
chính thức về “giảm nghèo bền vững”, nhưng trong các báo cáo (Báo cáo giảm
nghèo quốc gia năm 2008, Báo cáo giảm nghèo giai đoạn 2006 - 2010, báo cáo thực
hiện các mục tiêu thiên niên kỷ,…) hay các văn bản hành chính thì tình trạng tái
nghèo luôn được xem là “vấn đề cơ bản” đối với giảm nghèo bền vững.
“Bền vững“ là không lay chuyển được, là vững chắc. Như vậy nên hiểu
bền vững là một tiêu chuẩn hay một yêu cầu về sự “chắc chắn“ đối với kết quả
giảm nghèo. Mục đích rất rõ ràng của giảm nghèo bền vững chính là đảm bảo
hay duy trì thành quả giảm nghèo một cách lâu dài, bền vững. Nếu hiểu “bền
vững” với nghĩa là duy trì, là vững chắc thì có thể hiểu giảm nghèo bền vững là
tình trạng dân cư đạt được mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản hay mức
thu nhập cao hơn chuẩn (nghèo) và duy trì được mức độ thỏa mãn những nhu
cầu cơ bản hay mức thu nhập trên mức chuẩn đó ngay cả khi gặp phải các cú
sốc hay rủi ro; giảm nghèo bền vững có thể được hiểu với nghĩa đơn giản là
thoát nghèo bền vững hay không tái nghèo.
2.1.3.2. Các yếu tố phản ánh giảm nghèo và giảm nghèo bền vững
Về lý thuyết, nghèo là sự không thỏa mãn các nhu cầu cơ bản. Nên giảm
nghèo bền vững được phản ánh thông qua sự cải thiện và duy trì mức độ thỏa mãn
các nhu cầu cơ bản ở mức cao (cao hơn chuẩn), thông qua các tiêu chí phản ánh
mức độ thỏa mãn nhu cầu về dinh dưỡng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh, sức khỏe,…
48
Trên thực tế, nghèo được phản ánh và đo lường thông qua thu nhập nên giảm
nghèo bền vững có thể được phản ánh thông qua cải thiện thu nhập và duy trì mức
thu nhập cao hơn chuẩn nghèo trong một khoảng thời gian nhất định.
Mặt khác, theo các tiếp cận sinh kế, giảm nghèo bền vững là kết quả sinh kế,
gồm hai giai đoạn: thoát nghèo và không tái nghèo trong một thời gian nhất định. Vì
vậy, giảm nghèo bền vững ở cấp hộ, có thể phản ánh đồng thời thông qua hai tiêu
chí: thoát nghèo và không tái nghèo.
Thỏa mãn các nhu cầu cơ bản
Giảm nghèo bền vững Thu nhập tăng và duy trì ở mức cao
Thoát nghèo và không tái nghèo
Hình 2.1. Các tiêu chí phản ánh giảm nghèo bền vững
[Nguồn: tác giả tổng hợp]
2.1.4. Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
2.1.4.1. Khái niệm
Quản lý nhà nước
Theo nghĩa rộng, QLNN được thực hiện bởi tất cả các cơ quan nhà nước, có
thể do các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể quần chúng và nhân dân trực tiếp thực
hiện nếu được Nhà nước ủy quyền, trao quyền thực hiện chức năng của Nhà nước
theo quy định của pháp luật. Theo nghĩa hẹp, hoạt động QLNN là hoạt động chấp
hành và điều hành của Nhà nước hay còn gọi là hoạt động quản lý theo ý nghĩa vốn
có của nó.
Bản chất của hoạt động quản lý hành chính nhà nước được thể hiện thông
qua hoạt động lập quy và hành chính. Hoạt động lập quy thể hiện ở việc cụ thể hóa
luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội. Hành chính là hoạt động chỉ đạo, quản lý
của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Trong hoạt động này, chủ thể quản lý
áp dụng các biện pháp tổ chức - pháp lý bằng việc ban hành các văn bản pháp quy
và văn bản cá biệt. Hoạt động lập quy và hành chính xuất phát từ đặc thù của hoạt
động quản lý hành pháp nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội.
49
Mỗi nhà nước luôn gắn với một thiết chế xã hội nhất định theo phạm vi không gian
và thời gian, do vậy đặc tính QLNN sẽ thay đổi tùy theo bản chất của chế độ chính
trị và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Từ những trình bày trên, có thể nêu khái niệm: quản lý nhà nước là một dạng
quản lý xã hội đặc biệt và chủ yếu nhất, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước,
được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ xã hội, các hành vi của cá nhân,
tổ chức, có sức mạnh và hiệu lực do các cơ quan nhà nước, công chức trong bộ máy
nhà nước thực hiện, nhằm phục vụ công, duy trì sự ổn định và phát triển bền vững
xã hội.
Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững là sự tác động của nhà nước, mà
chủ yếu là hoạt động hoạch định cơ chế chính sách, điều phối, phân bổ các nguồn
lực nhằm phục vụ công tác giảm nghèo, giúp người nghèo có khả năng chịu được
những cú sốc hay rủi ro thông thường, hỗ trợ phát triển hạ tầng, hỗ trợ sinh kế cũng
như các điều kiện tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế dựa vào cộng đồng để người
nghèo có thể tự vươn lên thoát nghèo và làm giàu bằng chính khả năng của mình
dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội sẵn có, được thực hiện trên cơ sở những
nguyên tắc về tổ chức, pháp luật và thủ tục thi hành chính sách, pháp luật có hiệu
lực, trong một thời hiệu nhất định, cho đến khi được thực hiện xong hoặc đình chỉ
thi hành hay miễn thi hành, nhằm phục mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế, tiến
bộ và công bằng xã hội, theo hướng xây dựng dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
2.1.4.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
Nhà nước là chủ thể hoạch định chính sách giảm nghèo bền vững và đồng
thời cũng là chủ thể triển khai thực hiện chính sách. Chủ thể triển khai thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững là các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung
ương xuống tới địa phương, trong đó chủ yếu là các cơ quan trong bộ máy hành
chính nhà nước cùng với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước có thẩm
quyền. Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách, các cơ quan trong bộ máy
hành chính nhà nước giữ vai trò điều tiết, định hướng các hoạt động thực hiện chính
sách bằng những công cụ quản lý của mình, giúp cho quá trình này luôn bám sát
mục tiêu của chính sách. Điều này là vô cùng quan trọng bởi trong quá trình thực
50
hiện chính sách, sẽ có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, với vai trò, mục
đích không giống nhau. Nếu không có sự định hướng của nhà nước thông qua hệ
thống hành chính nhà nước thì sự phối kết hợp giữa các chủ thể này trong quá trình
thực hiện sẽ không đạt được hiệu quả như mong muốn. Bên cạnh đó, sự tham gia
của hệ thống hành chính nhà nước với tư cách là chủ thể triển khai thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, nhà nước sẽ có điều kiện nhìn nhận lại toàn bộ chính
sách khi được áp dụng vào thực tế, từ đó có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp
với thực tế, theo sát sự vận động của đời sống KT-XH, đảm bảo cho chính sách
được thực hiện có kết quả và hiệu quả.
Trong quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, hệ
thống các cơ quan nhà nước tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững sẽ tiến hành hoạt động quản lý của mình trên cơ sở sau đây:
Xác định rõ các cơ quan tham gia vào quá trình triển khai thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững từ trung ương tới địa phương. Tất cả các cơ quan được
huy động vào quá trình triển khai thực hiện chính sách sẽ tạo thành hệ thống cơ
quan thực hiện chính sách. Trong quá trình đó, hệ thống hành chính nhà nước sẽ căn
cứ vào cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống để huy động
vào những hoạt động cụ thể khi triển khai thực hiện chính sách. Khi tham gia vào
hoạt động thực hiện chính sách, các cơ quan nói trên sẽ được nhà nước xác định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như trách nhiệm trong quá trình này.
Xác định cơ quan giữ vai trò thống nhất quản lí trong phạm vi cả nước, cơ
quan giữ vai trò đầu mối tập hợp thông tin.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ tổ chức
triển khai thực hiện chính sách từ trung ương tới các địa phương.
Cung cấp nguồn nhân lực, tài chính, cơ sở vật chất kĩ thuật cho các cơ quan
trong quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững theo kế hoạch
đã được phê duyệt.
Giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững để
kịp thời điều chỉnh khi có sai lệch xảy ra, đồng thời theo dõi, đôn đốc việc thực hiện
chính sách.
51
2.2. Nguyên tắc, nội dung, phương thức quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
2.2.1. Nguyên tắc cơ bản của quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là chủ trương lớn, nhất quán của Đảng, Nhà nước và
là sự nghiệp của toàn dân. Phải huy động nguồn lực của Nhà nước, của xã hội và
của người dân để khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của từng địa phương, nhất
là sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp để xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Cùng với sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng xã hội, sự nỗ
lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo của người nghèo, hộ nghèo là nhân tố quyết định
thành công của công cuộc xóa đói giảm nghèo. Công cuộc giảm nghèo nhanh, bền
vững đối với các huyện nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm hàng đầu, đặt dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo sâu sát, cụ thể và đồng bộ của các
cấp chính quyền, sự phối hợp tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân; đồng thời, phải phát huy vai trò làm chủ của người dân từ khâu xây dựng kế
hoạch, đến tổ chức thực hiện, giám sát, đánh giá hiệu quả của các chương trình
giảm nghèo bền vững.
2.2.2. Tiêu chí đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
Đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững để xác định
hiệu lực, kết quả, hiệu quả của chính sách để so sánh, đối chiếu với những mục tiêu
đã đạt được của quá trình thực hiện chính sách. Khi đánh giá hoạt động quản lý nhà
nước về giảm nghèo bền vững cần tập trung vào những nội dung như: kế hoạch tổ
chức triển khai thực hiện có được ban hành kịp thời, đầy đủ và phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh của thực tiễn? việc phổ biến tuyên truyền về chính sách có mang lại
kết quả và hiệu quả, có làm cho các đối tượng được phổ biến tuyên truyền nhận
thức sâu sắc về chính sách và tích cực, chủ động tham gia vào quá trình chính sách?
công tác phân công, phân cấp giữa các ngành, các cấp trong quá trình tổ chức thực
hiện có phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan tham gia, có tạo ra cơ chế
phù hợp cho các cơ quan nhà nước khi tham gia vào quá trình thực hiện chính sách?
các nguồn lực có được huy động và cung cấp đầy đủ cho quá trình thực hiện? các
hoạt động kiểm tra, đánh giá có được thực hiện thường xuyên và phù hợp với các
điều kiện khách quan, chủ quan trong quá trình thực hiện, kết quả và hiệu quả mà
chính sách tạo ra cho xã hội?...
52
Để việc đánh giá hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững được
khách quan, trung thực phù hợp với những điều kiện hoàn cảnh thực tế, hoạt động
này cần phải được tiến hành dựa trên hai nhóm tiêu chí cơ bản sau:
Thứ nhất, là nhóm tiêu chí đánh giá chính sách chung. Nhóm tiêu chí này
bao gồm các tiêu chí sau:
- Tính hiệu lực của chính sách: Đây là tiêu chí phản ánh khả năng tác động
vào xã hội của chính sách giảm nghèo bền vững, nó thể hiện trên các khía cạnh;
hiệu lực theo đối tượng điều chỉnh, hiệu lực theo thẩm quyền quản lý, hiệu lực theo
không gian và hiệu lực theo thời gian tác động của chính sách.
- Kết quả thực hiện chính sách: Là những lợi ích mà chính sách giảm nghèo
bền vững mang lại cho xã hội, đặc biệt là các đối tượng của chính sách. Tiêu chí
này có thể bao gồm những kết quả đạt được so với mục tiêu mà chính sách hướng
đến và tạo ra chuyển biến tích cực làm giảm tình trạng đói nghèo ở những nơi mà
chính sách đang được tổ chức triển khai thực hiện.
- Tính hiệu quả của chính sách: Là những kết quả đạt được so với chi phí
phải bỏ ra để thực hiện chính sách. Kết quả này trong thực tế phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau như tiềm lực của đối tượng chính sách, cách thức tổ chức thực
hiện, điều kiện tự nhiên thiên nhiên và khả năng tham gia vào quá trình chính sách
của chính các đối tượng chính sách...
Thứ hai, là nhóm tiêu chí bổ sung. Nhóm tiêu chí này bao gồm các tiêu chí sau:
- Kỹ năng tổ chức triển khai thực hiện chính sách của các cơ quan nhà nước
và đội ngũ cán bộ, công chức: Đây được xem là tiêu chí phản ánh trình độ quản lý
của các cơ quan có trách nhiệm trong quá trình thực hiện và khả năng phối hợp thực
hiện của đội ngũ công chức khi thực hiện các bước trong quy trình thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững. Tiêu chí này phản ánh khả năng xác lập các kế hoạch
hành động cụ thể, kỹ năng vận động, thuyết phục các đối tượng tham gia vào quá
trình chính sách của đội ngũ những người thực hiện, khả năng huy động nguồn lực
và cung cấp nguồn lực cho mỗi giai đoạn thực hiện chính sách, kỹ năng kiểm tra,
giám sát quá trình thực hiện của cấp trên với cấp dưới....
53
- Khả năng huy động sự tham gia của các chủ thể khác vào quá trình thực
hiện chính sách: Tiêu chí này thể hiện mức độ và hiệu quả từ sự tham gia của các tổ
chức đoàn thể nhân dân, các doanh nghiệp, các nhà khoa học và toàn xã hội vào quá
trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Quá trình thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững cần có sự chung tay, đồng lòng của các cấp chính quyền, các
tổ chức đoàn thể, các doanh nghiệp, các nhà khoa học và của các đối tượng chính
sách mới mang lại kết quả và hiệu quả như mong muốn. Bởi vậy sự tích cực tham
gia của cộng động xã hội vào quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững sẽ là tiền đề để tạo ra kết quả và hiệu quả cho quá trình chính sách.
- Khả năng huy động nguồn lực và hình thức huy động nguồn lực cho quá
trình thực hiện chính sách: Nguồn lực là điều kiện đảm bảo cho chính sách có thể
tồn tại và phát huy tác dụng trên thực tế, nếu thiếu nguồn lực thì quá trình tổ chức
triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững sẽ khó có thể đạt được mục
tiêu mà chính sách đề ra. Nguồn lực thực hiện cần phải được huy động từ nhiều
nguồn khác nhau và phải được cung cấp kịp thời đầy đủ trong suốt quá trình thực
hiện chính sách. Tiêu chí này nhằm đo lường khả năng huy động và phương thức
huy động nguồn lực cũng như cách thức cung cấp nguồn lực của các chủ thể thực
hiện chính sách ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ của quá trình thực hiện chính sách.
- Sự thay đổi của đời sống và các dịch vụ xã hội: Mục tiêu của chính sách
giảm nghèo bền vững là đẩy lùi nghèo khổ, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân, tăng khả năng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ tối thiểu cho người
nghèo trong xã hội và sự thay đổi của cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm, các
dịch vụ bưu chính viễn thông..) và các điều kiện sản xuất của người nghèo. Bởi vậy
khi đánh giá về chính sách giảm nghèo bền vữngcần thiết phải xây dựng tiêu chí
này và phải coi đó làm một tiêu chí quan trọng để so sánh, tham chiếu và đánh giá
giữa kết quả thực hiện chính sách với mục tiêu mà chính sách đang hướng tới.
2.2.3. Nội dung quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
2.2.3.1. Xây dựng và ban hành thể chế chính sách mới về giảm nghèo bền vững
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật là một nội dung
quan trọng trong QLNN đối với bất kỳ ngành, lĩnh vực nào, trong đó có QLNN về
54
giảm nghèo. Thông qua việc ban hành các quy định, Nhà nước xác lập hành lang
pháp lý để điều chỉnh các quan hệ, hành vi trong từng hoạt động giảm nghèo và
hình thành căn cứ, cơ sở cho việc thực hiện có hiệu quả, đúng chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước. Hệ thống quy định về hoạt động giảm nghèo tạo cơ chế
quản lý phù hợp để cơ quan thường trực chương trình và các cơ quan quản lý các
hợp phần của chương trình ở các cấp có đủ thẩm quyền, đủ năng lực và điều kiện để
quản lý chương trình, khắc phục tình trạng trách nhiệm không đi đôi với thẩm
quyền như giai đoạn qua.
Theo định hướng chung của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững và các chính sách giảm nghèo trong giai đoạn 2016 - 2020 là tăng cường tích
hợp chính sách, lồng ghép nguồn lực. Việc tích hợp chính sách, lồng ghép nguồn
lực mang lại hiệu quả tích cực trong công tác giảm nghèo nhưng đòi hỏi thực hiện
tốt cơ chế phối kết hợp, phân công vai trò trách nhiệm cụ thể giữa các bên, nhất là ở
địa phương.
Ở Trung ương, việc tích hợp chính sách giúp công tác chỉ đạo giảm sự chồng
chéo, lãng phí, tăng hiệu quả sử dụng ngân sách ở các cấp địa phương; đồng thời
khắc phục những bất cập, điều chỉnh chính sách cho phù hợp thực tiễn, mở rộng đối
tượng hưởng lợi, bổ sung nội dung chính sách và tăng định mức hỗ trợ trong những
trường hợp cần thiết và khả thi. Ngoài ra, việc tích hợp các chính sách giúp giảm
thiểu thủ tục hành chính ở địa phương cho cả người được thụ hưởng lẫn cán bộ thực
hiện, góp phần thúc đẩy sự phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan, giảm tồn đọng hồ
sơ và phát sinh sai sót.
Chủ trương, định hướng về giảm nghèo nhanh và bền vững đã được Đảng và
Nhà nước ban hành trong thời gian qua như Nghị quyết 30a/2008/NĐ-CP ngày
27/12/2008 của Chính phủ về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền
vững đối với 61 huyện nghèo, Nghị quyết số 80/NQ-CP ngày 19/5/2011 của
Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững đến năm 2020.... đã xác lập
khung pháp lý cần thiết trong lĩnh vực giảm nghèo bền vững trên phạm vi quốc gia.
Trên cơ sở đó các cơ chế, chính sách tài chính cụ thể phục vụ công tác xóa đói giảm
nghèo được ban hành theo từng lĩnh vực cụ thể như:
- Chính sách tài chính hỗ trợ về y tế, chăm sóc sức khỏe.
- Chính sách tài chính hỗ trợ giáo dục- đào tạo.
55
- Chính sách tài chính hỗ trợ sản xuất, nhà ở, đất ở.
- Chính sách tài chính hỗ trợ học nghề và giải quyết việc làm.
- Chính sách tín dụng ưu đãi hộ cận nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số.
Các chủ trương, chính sách này cần được cụ thể hóa trong quá trình triển khai
giảm nghèo bền vững ở các địa phương cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của mình.
2.2.3.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững
Tổ chức thực hiện chính sách là quá trình biến các chính sách thành những kết
quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức trong bộ máy Nhà nước, nhằm
hiện thực hóa những mục tiêu mà chính sách đã đề ra. Nếu công tác tổ chức thực
hiện chính sách không tốt sẽ dẫn đến thiếu lòng tin. Quá trình tổ chức thực hiện
chính sách góp phần hoàn chỉnh bổ sung chính sách: Có những vấn đề trong giai
đoạn hoạch định chính sách chưa phát sinh, bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng các nhà
hoạch định chưa nhận thấy, đến giai đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện. Qua tổ
chức thực hiện, cơ quan chức năng mới có thể biết chính sách đó được xã hội và đại
đa số nhân dân chấp nhận hay không, đi vào cuộc sống hay không.
Việc tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo được thực hiện từ cấp chính
quyền trung ương đến cấp chính quyền địa phương, mỗi cấp chính quyền đều có
những nhiệm vụ khác nhau để thực hiện những mục tiêu mà chính sách đã đề ra,
trong đó cấp chính quyền địa phương việc thực thi thường được thể hiện rõ nét hơn.
Việc tổ chức triển khai thực hiện các quy định về giảm nghèo bền vững bao
gồm các nội dung: Công tác chỉ đạo điều hành, bố trí nguồn lực, phân công cán bộ,
về công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách giảm nghèo bền vững.
2.2.3.3. Nguồn lực tài chính để thực hiện giảm nghèo bền vững
Chính sách giảm nghèo bền vững tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên những
đối tượng đặc biệt là người nghèo, cận nghèo và hướng tới giải quyết vấn đề nghèo
đói trong một phạm vi không gian và thời gian rộng lớn. Do vậy nguồn tài chính để
phục vụ cho quá trình này là không hề nhỏ. Nguồn tài chính để phục vụ cho quá
trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững được huy động từ các nguồn sau:
ngân sách nhà nước; nguồn vốn viện trợ (ODA); nguồn vốn từ các doanh nghiệp;
nguồn vốn huy động từ nhân dân.
56
Trong nỗ lực giúp người nghèo vươn lên phát triển kinh tế, dưới sự chỉ đạo
của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, NHNN Việt Nam, ngành ngân hàng nói chung
thực hiện tốt các chương trình tín dụng chính sách nhằm giúp người nghèo và các
đối tượng chính sách tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi một cách thuận tiện để
phát triển kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, bảo đảm an
sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao điều kiện sống, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, Thông qua các tổ chức chính trị - xã hội với vai trò là người giám sát,
vừa làm ủy thác một số nội dung công việc trong nghiệp vụ tín dụng.
2.2.3.4. Thanh tra, kiểm tra và chế độ báo cáo, phối hợp giữa các cấp
a. Kiểm tra giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo
Công tác kiểm tra, giám sát là một tiến trình quan trọng trong công tác quản
lý nhà nước về giảm nghèo bền vững. Tổ chức kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo
việc thực hiện công tác giảm nghèo ở các địa phương thực hiện theo đúng các mục
tiêu đề ra với tiến độ, thời gian và nguồn lực dự kiến. Trên cơ sở đánh giá tổng quan
tình hình thực hiện và kết quả đạt được, tìm ra những bất hợp lý trong hệ thống các
cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển ngành, phát triển từng lĩnh vực và các địa
phương trong quá trình thực hiện để có sự điều chỉnh, bổ sung chính sách sao cho
phù hợp theo đúng quy định của luật.
Nhà nước thực hiện vai trò kiểm tra, giám sát để đảm bảo chương trình giảm
nghèo nhanh và bền vững được thực hiện với hiệu quả cao nhất. Qua thực hiện bộc
lộ những bất cập sẽ được xử lý thích hợp, có những điều chỉnh tổng kết kịp thời để
bổ sung cho giai đoạn sau những bài học kinh nghiệm quý giá để định hướng cho
chương trình đi đúng hướng.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về giảm nghèo bền
vững có ý nghĩa quan trọng nhằm đảm bảo công tác giảm nghèo được thực hiện
nghiêm, qua đó các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời phát hiện và xử lý những vi
phạm trong quá trình thực hiện chính sách.
Chủ thể kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong
quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững là các cơ quan nhà nước từ
trung ương đến cơ sở. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan và chính xác về kết
quả này còn cần có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể nhân dân, thậm chí là của
57
chính đối tượng chính sách. Có như vậy mới bảo đảm được tính dân chủ trong quá
trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
b. Thực hiện chế độ báo cáo và phối hợp giữa các cấp
- Công tác thông tin báo cáo là yêu cầu đặt ra đối với mọi hoạt động liên quan
đến quản lý, chỉ đạo điều hành của các cơ quan hành chính nhà nước, là cơ sở để
đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ được giao, là biểu hiện của việc chấp hành kỷ
luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời là căn cứ để các
cấp có thẩm quyền thực hiện công tác chỉ đạo, điều hành, đưa ra các quyết định
hành chính. Công tác thông tin, báo cáo góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành
của Ủy ban nhân dân huyện, của các ban, ngành và địa phương.
Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững cấp huyện có trách nhiệm xây
dựng báo cáo gửi về Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững cấp tỉnh trên cơ sở
tổng hợp báo cáo của các ban, ngành, Ban chỉ đạo công tác giảm nghèo bền vững
các xã.
Báo cáo tình hình thực hiện công tác giảm nghèo bền vững bao gồm: báo cáo tháng,
báo cáo quý, báo cáo 6 tháng, báo cáo năm, báo cáo chuyên đề và báo cáo đột xuất.
- Sự phối hợp giữa các cấp
Giảm nghèo là vấn đề cấp bách và phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng
trong xã hội và có tác động trực tiếp đến việc giải quyết vấn đề chính sách và thực
thi chính sách. Chính sách giảm nghèo lại là một chính sách lớn bao gồm nhiều hợp
phần chính sách khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần chính sách lại hướng tới
những mục tiêu khác nhau. Bởi vậy để tổ chức triển khai thực hiện cần có sự tham
gia vào cuộc của rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau từ trung ương đến địa
phương. Sự tham gia vào quá trình quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững của
các cơ quan nhà nước cần phải được tổ chức một cách khoa học và hợp lý trên cơ sở
tạo ra một cơ chế, cách thức phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và thống nhất nhằm khai
thác được năng lực, sở trường cũng như các điều kiện vật chất khác của các cấp, các
ngành vào quá trình tổ chức thực hiện.
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
có nhiều yếu tố ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình này. Trong số những
58
yếu tố đó có cả những yếu tố thuộc về nhà nước, yếu tố thuộc về chính các đối
tượng của chính sách và những yếu tố kinh tế xã hội khác. Trong nghiên cứu này,
chúng tôi tập trung nhiều vào khía cạnh tác động tiêu cực của những yếu tố đó trong
quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam hiện nay.
2.2.4.1. Cơ chế chính sách của địa phương, nhà nước
Để thực hiện giảm nghèo bền vững đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách
thiết thực, phù hợp với tình hình thực tế của từng địa phương. Những chính sách
như chính sách giảm nghèo, chính sách vốn… sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
thực hiện giảm nghèo bền vững cho các địa phương, nhất là nơi tập trung nhiều
đồng bào dân tộc thiểu số.
Tình hình thực hiện Nghị quyết 30a[42], Chương trình 134, 135 và các
chương trình, chính sách đặc thù khác cho vùng đồng bào dân tộc và miền núi cho
rằng: trong điều kiện giao thông, kinh tế của địa phương, lãnh đạo huyện, cán bộ
chủ chốt trước mắt phải hướng dẫn để bà con thoát đói nghèo, bằng cách vận động
bà con tự túc lương thực, cải thiện được cuộc sống. Đó là những việc không hề đơn
giản mà cán bộ phải xắn tay áo hướng dẫn, làm cùng nhân dân. Với cách tính đơn
giản, có thể thấy, nếu chăm chỉ làm ăn, thì mỗi người dân không phải lo thu nhập
chỉ 400.000 đồng/tháng/người mà còn cao hơn nhiều. Bài học rút ra là, những chính
sách, hỗ trợ của các cấp, các ngành mới là điều kiện đủ, điều kiện cần để xoá đói
giảm nghèo bền vững chính là sự nỗ lực của bản thân mỗi người dân...
Bên cạnh sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội trong triển
khai thực hiện các chủ trương, chính sách về xóa đói, giảm nghèo thông qua nhiều
chương trình hỗ trợ vốn, giống, ngày công, hướng dẫn áp dụng khoa học kỹ thuật,
bản thân một số người nghèo ở một số địa phương vẫn còn tư tưởng trông chờ, ỷ
lại, thiếu ý thức vươn lên. Việc được Đảng, Nhà nước “bao cấp” (giáp hạt, thiếu đói
đã có gạo Nhà nước, không có tiền ăn Tết cũng có Nhà nước, nhà cửa xuống cấp,
hư hỏng, rồi không có nhà cũng có Nhà nước cấp tiền để làm mới,v.v...) ít nhiều đã
ăn sâu vào suy nghĩ của một bộ phận người nghèo. Tình trạng có đất mà không chịu
trồng lúa, trồng ngô; có trâu, bò mà không chịu chăm sóc, để cho gầy còm, ốm yếu
rồi xẻ thịt, uống rượu; thậm chí có người nghèo được vay tiền từ Ngân hàng Chính
59
sách xã hội (CSXH) mà không biết tổ chức sản xuất, để ăn dần vào cả gốc, v.v. là
những chuyện không phải khó tìm.
2.2.4.2. Sự phối hợp đa ngành và ở tất cả các cấp trong tổ chức thực hiện giảm
nghèo bền vững
Giảm nghèo bền vững là một hoạt động liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức
và đoàn thể ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương. Để thực hiện thành công
nhiệm vụ giảm nghèo, không chỉ dựa vào nỗ lực của từng cơ quan riêng lẻ hoặc
từng cấp riêng lẻ mà nó đòi hỏi phải có sự phối hợp một cách hài hòa, nhịp nhàng
và hiệu quả giữa các ngành, các cấp trong địa phương.
Thủ tướng Chính phủ đã giao các Bộ, ngành liên quan rà soát và hoàn thiện
các chính sách đặc thù hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Dân tộc và các Bộ, cơ quan liên
quan nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách mới, bảo đảm thiết
thực, hiệu quả.
Trong đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu sửa đổi cơ
chế quản lý và điều hành các Chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng đồng bộ
hóa tổ chức quản lý, gắn Chương trình mục tiêu quốc gia với kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội; thể chế hóa quy trình lập và triển khai kế hoạch đầu tư cấp xã có sự
tham gia của người dân thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền
vững và Xây dựng nông thôn mới.
Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng cơ chế tài chính chung để thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo bền vững,
tạo điều kiện cho việc lồng ghép nguồn lực được thuận lợi và nghiên cứu, đề xuất
tăng định mức xây dựng chính sách nói chung và chính sách giảm nghèo nói riêng
theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ chi phí xây dựng chính sách.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội sửa đổi Chương trình mục tiêu quốc
gia giảm nghèo bền vững nhằm đồng bộ hóa, tập trung nguồn lực, theo hướng: Phân
nhóm, gồm chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng và chính sách hỗ trợ phát triển
sinh kế; thực hiện chính sách dựa vào cộng đồng, gắn sản xuất với thị trường nhằm
60
tăng cường giám sát nội bộ, khuyến khích tự vươn lên thoát nghèo bền vững; giao
nhiệm vụ cho bộ, ngành đúng đắn, đảm bảo không trùng lặp về nội dung và địa bàn.
2.2.4.3. Nguồn lực xóa đói giảm nghèo
Nguồn lực đóng vai trò quan trọng có tính quyết định đến việc thực hiện
thành công hay không mục tiêu giảm nghèo bền vững. Nguồn lực được huy động từ
nhiều nguồn khác nhau, từ sự đầu tư của chính phủ, của các đơn vị tài trợ, cũng như
từ chính cộng đồng. Việc huy động đủ, kịp thời nguồn lực sẽ góp phần đẩy nhanh
công cuộc giảm nghèo bền vững ở các địa phương. Có 7 chính sách cơ bản góp
phần xóa đói giảm nghèo bền vững:
- Chính sách tín dụng: Các chính sách tín dụng trực tiếp cho hộ nghèo được
thực hiện chủ yếu thông qua Ngân hàng chính sách xã hội gồm 15 chương trình tín
dụng dành cho người nghèo với mức lãi suất thấp. Bên cạnh các chương trình tín
dụng trực tiếp cho giảm nghèo, các chương trình tín dụng khác phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn cũng đã góp phần thúc đẩy quá trình giảm nghèo; Chương
trình vay vốn tín dụng ưu đãi đầu tư kiên cố hóa kênh mương, đường giao thông
nông thôn, hạ tầng nuôi trồng thủy sản, làng nghề.
- Đào tạo dạy nghề, tạo việc làm: Thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề cho
lao động nông thôn, nhất là lao động nghèo; ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở trường,
lớp học, thiết bị, đào tạo giáo viên dạy nghề; gắn dạy nghề với tạo việc làm đối với
lao động nghèo. Mở rộng diện áp dụng chính sách hỗ trợ xuất khẩu lao động đối với
lao động nghèo trên cả nước.
- Về chính sách y tế, chăm sóc sức khỏe: Ngân sách nhà nước đã thực hiện
hỗ trợ khám chữa bệnh đối với người nghèo thông qua Quỹ khám chữa bệnh cho
người nghèo. Luật bảo hiểm y tế quy định Nhà nước hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho
người nghèo, người cận nghèo, trong đó hỗ trợ 100% cho người nghèo, 50% cho
người cận nghèo.
- Về chính sách trợ giúp pháp lý và hỗ trợ thông tin: Chính quyền địa phương
cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho các đối tượng thụ hưởng chính sách theo các
hình thức trợ giúp pháp lý như: Tư vấn pháp luật; Tham gia tố tụng; Đại diện ngoài
tố tụng và các hình thức khác theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý. Tổ
61
chức các đợt trợ giúp pháp lý lưu động về các xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó
khăn. Thành lập, củng cố và tổ chức sinh hoạt Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý. Thông
tin, truyền thông, phổ biến các chế độ, chính sách, quy định của pháp luật đến với
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các chương trình, chính sách giảm nghèo
bền vững.
Tăng cường năng lực cho tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý, người thực hiện
trợ giúp pháp lý, thành viên Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ trợ giúp pháp lý.
2.2.4.4. Ý thức vươn lên thoát nghèo
Giảm nghèo bền vững chỉ thực sự thành công nếu xuất phát từ nhu cầu và ý
thức thoát nghèo của chính người nghèo. Những tác động từ bên ngoài chỉ mang
tính hỗ trợ và sẽ không thành công nếu người nghèo thiếu ý chí vươn lên.
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, hàng loạt các chính sách ưu đãi, các
chương trình, dự án được đầu tư để cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu
số, đồng bào vùng cao là động lực, cơ hội để người dân vươn lên xóa đói giảm
nghèo. Tuy nhiên, ý thức của người dân lại là vấn đề quyết định. Theo quy định mới
về tiêu chí hộ nghèo, mỗi người có thu nhập không dưới 400.000 đồng/người/tháng
(đối với lao động nông thôn) là đã thoát nghèo. Nhìn từ yếu tố nội lực, bà con ở
vùng dân tộc thiểu số có tư liệu sản xuất từ ruộng, nương, có thể trồng lúa, trồng
cây ăn quả, chăn nuôi gia cầm, gia súc nếu tận dụng hết quỹ đất sẵn có thì nông dân
không thể không thoát nghèo.
Thoát nghèo, quan trọng nhất là khơi dậy ý thức tự vươn lên của mỗi hộ
nông dân. Bởi khi người dân không có khát vọng làm giàu, tinh thần quyết tâm học
hỏi thì sự hỗ trợ, đầu tư bên ngoài cũng khó phát huy tác dụng.Mặc dù đã được các
cấp ủy, chính quyền, đoàn thể tuyên truyền giáo dục, nhưng vẫn còn những hộ
nghèo mang nặng tư tưởng thụ động, dựa dẫm.
2.2.4.5. Những yếu tố thuộc về chủ thể thực hiện chính sách
Thứ nhất: Năng lực tổ chức, quản lý của nhà nước và đội ngũ cán bộ, công
chức ở các cấp trong công tác giảm nghèo. Đây là yếu tố có vai trò quyết định đến
kết quả tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Năng lực tổ chức, quản
lý của nhà nước và của đội ngũ cán bộ, công chức trong thực hiện chính sách giảm
62
nghèo bền vững là thước đo bao gồm nhiều tiêu chí phản ánh về đạo đức công vụ,
về năng lực thiết kế tổ chức, năng lực phân tích, dự báo để có thể chủ động ứng phó
được với những tình huống phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách
v.v. Các cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền khi được giao nhiệm vụ tổ
chức thực hiện chính sách, cần nêu cao tinh thần trách nhiệm và chấp hành tốt kỷ
luật công vụ trong lĩnh vực này mới đạt hiệu quả thực hiện. Tinh thần trách nhiệm
và ý thức kỷ luật được thể hiện trong thực tế thành năng lực thực tế. Đây là một yêu
cầu rất quan trọng đối với mỗi cán bộ, công chức để thực hiện việc chuyển tải ý đồ
chính sách của nhà nước vào cuộc sống. Nếu thiếu năng lực thực tế, các cơ quan có
thẩm quyền tổ chức thực hiện chính sách sẽ đưa ra những kế hoạch không bám sát
với thực tế, dẫn đến lãng phí nguồn lực được huy động, làm giảm hiệu lực, hiệu quả
của chính sách, thậm chí còn làm biến dạng chính sách trong quá trình tổ chức thực
hiện v.v. Năng lực thực tế và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức còn thể hiện ở
thủ tục giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với cá
nhân và tổ chức trong xã hội.
Thứ hai: Công tác vận động tuyên truyền về chính sách. Công tác tuyên
truyền về chính sách giảm nghèo bền vững nhằm nâng cao nhận thức cho đội ngũ
cán bộ, công chức và cho các đối tượng của chính sách để họ chủ động, tự giác
tham gia vào quá trình chính sách của nhà nước khắc phục được tư tưởng trông chờ,
ỷ lại sự giúp đỡ của nhà nước trong một bộ phận người nghèo và cán bộ, công chức
ở vùng nghèo.
Công tác vận động tuyên truyền về chính sách nếu được tổ chức một cách
khoa học và hợp lý sẽ có tác dụng làm thay đổi nhận thức và chuyển biến về hành vi
của các đối tượng chính sách khi tham gia vào quá trình thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững.
Trong thực hiễn thực hiện chính sách về giảm nghèo bền vững ở nước ta hiện
nay, công tác vận đồng tuyên truyền về chính sách còn bị xem nhẹ và được thực
hiện mang tính máy móc, hình thức nên kết quả vận động tuyên truyền chưa cao,
chưa làm cho các đối tượng của chính sách chủ động, tích cực tham gia vào công
cuộc giảm nghèo của nhà nước.
63
Thứ ba: Điều kiện kinh tế và nguồn lực để thực hiện chính sách của nhà
nước. Để tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đạt được kết
quả và hiệu quả trong điều kiện hiện nay, nhà nước luôn phải tăng cường các nguồn
lực vật chất để phục vụ cho việc triển khai thực hiện chính sách. Việc đầu tư trang
thiết bị kỹ thuật và phương tiện hiện đại để hỗ trợ quá trình thực hiện chính sách của
nhà nước hiện đã trở thành một nguyên lý phát triển. Việc quyết định đầu tư đến
đâu, theo cách nào là do nhà nước chủ động lựa chọn trên cơ sở năng lực hiện có
của cán bộ, công chức thực hiện chính sách. Nếu các điều kiện vật chất kỹ thuật đáp
ứng được yêu cầu sẽ giúp cho tính khả thi của công tác tổ chức thực hiện chính sách
luôn được tăng cường.
Việt Nam hiện nay, cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho nông nghiệp
và nông thôn còn thấp, chủ yếu mới tập trung cho thuỷ lợi; các trục công nghiệp
chính, chú trọng nhiều vào đầu tư thay thế nhập khẩu, thu hút nhiều vốn; chưa chú
trọng đầu tư các ngành công nghiệp thu hút nhiều lao động, chưa chú ý khuyến
khích kịp thời phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhiều chính sách trợ cấp (lãi suất
tín dụng, trợ giá, trợ cước...) không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu đến sự hình
thành thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng sâu, vùng xa.
Kết cấu hạ tầng giao thông đến các vùng sâu, vùng xa, vùng đói nghèo còn
thiếu và yếu kém. Việc tiếp cận đến các vùng này còn hết sức khó khăn. Vốn đầu tư
của Nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu, đóng góp nguồn lực của nhân dân còn
hạn chế, chủ yếu bằng lao động do vậy đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững trong thời gian qua.
2.3. Kinh nghiệm quản lý nhà nước trong hoạt động giảm nghèo bền vững ở
một số nước và địa phương
2.3.1. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở một số quốc
gia trên thế giới
2.3.1.1. Kinh nghiệm của Thái Lan
Với hơn hai thập niên thực hiện xoá đói giảm nghèo, Thái Lan đã đạt được
kết quả đáng kể về giảm nghèo đói từ 59% năm 1962 đã giảm xuống còn 22% vào
năm 1988.
64
Chương trình xoá đói giảm nghèo của Thái Lan những năm gần đây bao gồm
việc cung cấp dịch vụ xã hội dưới nhiều hình thức phong phú hướng tới mục đích
nâng cao chất lượng cuộc sống cho tầng lớp nghèo. Các hình thức dịch vụ đã được
áp dụng bao gồm:
- Chính sách đầu tư trang bị công nghệ, vật tư và thiết bị tiên tiến trong nông
nghiệp đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, sử dụng hợp lý hơn các yếu tố đầu vào (phân
bón, thuốc trừ sâu, thủy lợi…) cải tiến giống và phương thức canh tác. Đây là bước
đi rất căn bản nhằm cải tạo nền nông nghiệp tự cấp, tự túc thành nền nông nghiệp cơ
khí hiện đại.
- Sự hợp tác quốc tế thông qua những dự án vừa và nhỏ của các tổ chức đa
chính phủ, song phương, phi Chính phủ cũng được Thái Lan áp dụng nhằm tranh
thủ tạo nguồn vốn hỗ trợ thêm cho người nghèo.
- Phát triển các dịch vụ xã hội và mạng lưới bảo vệ xã hội cho người nghèo:
Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội tăng thu nhập mới cho người nghèo. Tuy
nhiên, trong số đó vẫn có một số người nghèo không tận dụng được các cơ hội này
do mù chữ, thiếu kỹ năng, sức khỏe và dinh dưỡng. Vì vậy, việc bảo đảm cho người
nghèo tiếp cận được các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về giáo dục, y tế và kế hoạch hóa
gia đình có tầm quan trọng gấp bội. Điều này sẽ giảm bớt những hậu quả trước mắt
của sự đói nghèo đồng thời cũng loại bỏ được nguồn gốc của nó. [29, tr. 153-154]
- Phúc lợi cho những người khốn khó cùng trong xã hội, hình thức này dành
cho những người rơi vào hoàn cảnh nan giải không tự chủ được trong cuộc sống.
- Trợ giúp gia đình nhằm mục đích xây dựng và củng cố gia đình như một
đơn vị cơ bản của xã hội. Đối tượng của các hình thức này là các gia đình thiếu kỹ
năng tự đảm bảo cuộc sống tối thiểu.
- Phúc lợi cho người có tuổi, bao gồm nhà cửa và các dịch vụ xã hội khác.
- Trợ giúp việc làm và cho vay vốn...
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều nhà kinh tế, các hình thức nêu trên có ý
nghĩa và thành tựu nhất định, nhưng việc xem xét đánh giá kết quả của từng hình thức
chưa được xem xét một cách thoả đáng. Mặt khác, xu hướng nghèo khổ ở Thái Lan
còn khá rõ rệt, sự bất bình đẳng và chênh lệch về thu thập có xu hướng gia tăng.
Người ta đã lớn tiếng báo động về tình trạng chưa có sự quan tâm thoả đáng về chăm
65
sóc, giáo dục và đi liền với nó là năng lực của thị trường lao động. Gần đây, chính
phủ Thái Lan có những thay đổi tích cực trong việc giải quyết các vấn đề trên.
Ở Thái Lan, một trong những biện pháp chống nghèo khổ mà nước này đã áp
dụng là phân bố cơ sở sản xuất công nghiệp xây dựng mới về khu vực nông thôn,
nơi có sẵn tài nguyên thiên nhiên nhằm thu hút số lao động dôi dư ở khu vực nông
nghiệp (để khắc phục tình trạng dân lao động di cư vào thành phố kiếm việc làm)
làm tăng thu nhập cho người dân và gia đình họ. Biện pháp này còn nhằm mục đích
đô thị hóa nông thôn, đưa những vùng nông thôn hẻo lánh xa xôi vào dòng phát
triển chung của đất nước.
Sự phồn vinh của Băng Cốc được xây dựng trên nghèo khổ của các vùng
nông thôn như ở vùng đông bắc Thái Lan, ở miền trung đảo Ludon. Cho đến nay sự
bất bình đẳng về thu nhập ở Thái Lan vẫn tiép tục gia tăng, các thành phố lớn, các
khu công nghiệp vẫn có tỷ lệ tăng trưởng cao, năm 1981 Băng Cốc đóng góp 42%
GDP, đến năm 1989 lên tới 48% cho GDP trong khi đó phần đóng góp cho GDP ở
các vùng khác lại giảm xuống như ở miền bắc và miền nam Thái Lan phần đóng
góp đã giảm xuống từ 14,7% năm 1981 xuống còn 10% năm 1989.
Tóm lại, nghèo đói là một vấn đề đang đặt ra cho tất cả các nước, trong đó
bức xúc và nhức nhối hơn cả là ở các nước đang phát triển, những nước mà ta quen
gọi là thế giới thứ ba. Ở đây vừa phải giải quyết mục tiêu công bằng xã hội, hạn chế
sự phân hoá giàu nghèo, vừa phải tham gia vào cuộc tranh đua hội nhập vào kinh tế
quốc tế và khu vực. Trong cuộc tranh đua đó thì vấn đề xoá đói giảm nghèo là một
vấn đề cần thiết để đảm bảo sự tăng trưởng ổn định và bền vững. Đối với nước ta là
một nước lựa chọn con đường XHCN, HĐH để lập cơ sở vật chất cho CNXH và
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
2.3.1.2. Kinh nghiệm của Ấn Độ
Ấn Độ là một nước có số người nghèo nhiều nhất thế giới và có khoảng
420triệu người ở tình trạng đói nghèo, chiếm 55% dân số của cả nước. Ấn Độ đưa
ravấn đề phát triển toàn diện nhằm khơi dậy tiềm năng ở nông thôn, áp dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng nhanh năng suất vật nuôi cây trồng điliền
vói nó là phát triển công nghiệp nông thôn. Với các chương trình phát triểnnông
nghiệp đạt được kết quả cao đã đưa Ấn Độ từ một nước phải nhập khẩulương thực trở
thành một nước có thể tự cung cấp lương thực cho nhân dân cảnước. Các vấn đề này
66
đã được thể hiện ngay trong các kế hoạch ngắn hạn và dàihạn với mục tiêu nâng cao
chất lượng cuộc sống về mặt kinh tế văn hoá và xã hội.
Từ năm 1991, Ấn Độ đã mở cửa thị trường, cải cách kinh tế và đạt nhiều
thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, hiện nay, nghèo đói vẫn là một vấn đề nghiêm trọng,
cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, làm chậm bước tiến của đất nước này trong
nhiều lĩnh vực. Biểu hiện dễ thấy nhất của nghèo đói tại Ấn Độ là thu nhập quốc
dân chỉ mới đạt 820 USD/người trong năm 2006 và tính theo sức mua tương đương
(PPP) mới đạt 3.800 USD/người. 70% dân số sống ở nông thôn, trong đó chỉ có
56% hộ được sử dụng điện, 52% số hộ không có nhà vệ sinh, 85% số hộ được dùng
nước sạch, 61% dân số biết chữ. Chỉ số về giáo dục của Ấn Độ là 0,61, trong khi
đó, chỉ số này ở Dim-ba-bu-ê là 0,77, Trung Quốc là 0,84. Về chỉ số phát triển con
người (HDI), Ấn Độ đứng thứ 126/177 nước, 47% trẻ em dưới 5 tuổi ở đây bị thiếu
cân (Trung Quốc chỉ có 8%, Dim-ba-bu-ê là 13%). Chênh lệch thu nhập cũng là vấn
đề lớn: 39% dân số nông thôn chỉ sở hữu 5% số tài sản, trong khi đó, 8% những
người giàu có chiếm tới 46% số tài sản cả nước. Những người nghèo nhất ở nông
thôn Ấn Độ chỉ chi tiêu 0,2 USD/ngày. Chỉ số đói toàn cầu (GHI) của Ấn Độ đứng
thứ 96/119 nước, trong khi đó, Nê-pan đứng thứ 92, Pa-ki-xtan ở vị trí thứ 88. 80%
dân số sống dưới 2 USD/người/ngày. Nghèo đói dẫn tới 15 triệu trẻ em Ấn Độ phải
lao động kiếm sống - là mức cao nhất thế giới (theo Báo The Financial Express,
ngày 22-10-2007).
Trên thực tế nghèo ở Ấn Độ, qua nghiên cứu đã chỉ ra căn nguyên của đói
nghèo như sau: Một điều quan trọng là khi nông nghiệp gặp khó khăn thì đời sống
nông dân cũng sẽ khó khăn. Do vậy, nguyên nhân làm cho nông nghiệp chậm phát
triển cũng chính là nguyên nhân làm cho nông thôn nghèo đói.
- Trước hết phải thừa nhận rằng, Ấn Độ đã có nhiều chương trình xóa đói
giảm nghèo, nhưng các chương trình này không sát thực tế, quá trình thực hiện chưa
tốt, thiếu sự hợp tác, phối hợp giữa các tổ chức... Mặt khác, tình trạng quan liêu,
tham nhũng, thiếu sự tham gia đầy đủ của người dân… đã làm cho các chương trình
trên kém hiệu quả, thậm chí thất bại. Trong khi đó, đầu tư phát triển nhân lực chưa
thỏa đáng. Chính vì vậy, tăng trưởng kinh tế cao, nhưng tác động đến cuộc sống của
đa số người dân còn thấp.
67
- Tiếp theo là vấn đề dân số quá đông. Tỷ lệ sinh thô của Ấn Độ hiện nay là
2,4% (Trung Quốc là 1,2%). Năm 1950, Ấn Độ có hơn 357 triệu người, với mật độ
109 người/km2. Năm 2000 là 1,007 tỉ người, với mật độ 478 người/km2 (trung bình
của thế giới là 39 người/km2). Dân số đông dẫn đến thiếu việc làm và số lượng
nông dân ra thành phố tìm việc làm ngày càng tăng, khiến đời sống thêm khó khăn.
Đồng thời, sự tồn tại của một xã hội truyền thống với những thói quen, tập tục lạc
hậu, mê tín, thậm chí trái pháp luật... đã cản trở sự phát triển kinh tế, làm trầm trọng
thêm tình trạng nghèo khổ.
- Chính sách của Chính phủ còn nhiều điểm chưa phù hợp. Chẳng hạn, hiện
nay, giá cả nông sản tại Ấn Độ đang thấp hơn thế giới, nhưng do áp đặt cô-ta xuất
khẩu, nên nông dân chưa thể khai thác được lợi thế này. Họ chỉ được hưởng từ 24%
đến 58% giá bán cuối cùng nên đời sống vốn đã khó khăn, lại càng thêm khó khăn.
- Một khó khăn khác là nông dân Ấn Độ rất thiếu đất canh tác: 41,5% nông
hộ không có đất. Tại Ben-gan(3), 76,4% chủ đất chỉ có 1 ha; 16,8% có từ 1 đến 2
ha. Tháng 10-2007, hàng nghìn nông dân đã biểu tình vì không có đất canh tác. Ấn
Độ chiếm 16,7% dân số thế giới, nhưng chỉ chiếm 2,42% diện tích đất đai của thế
giới. Thêm vào đó, 1/3 số nông hộ không có gia súc để cung cấp sức kéo, phân bón,
sữa (theo Báo The Financial Express, ngày 21-6-2007).
- Kết cấu hạ tầng nghèo nàn đã hạn chế sự tăng trưởng trong nông nghiệp
của Ấn Độ. Do thiếu cơ sở vật chất nên tổn thất sau thu hoạch rau quả của Ấn Độ đã
lên tới 3 tỉ USD/năm. Ấn Độ có thể vượt Bra-xin, trở thành nước sản xuất đường
lớn nhất thế giới, nhưng do thiếu kho dự trữ, thiếu phương tiện vận chuyển, nên
phải xuất khẩu với giá thấp. Ấn Độ sản xuất 11% rau và 15% quả của thế giới,
nhưng chỉ chiếm 1,7% và 0,5% xuất khẩu của thế giới, cũng do thiếu kết cấu hạ
tầng phục vụ xuất khẩu, chi phí vận chuyển còn cao.
- Ngoài ra, nông nghiệp Ấn Độ gặp khó khăn là do giá cả phân bón, thuốc trừ
sâu, máy móc, thủy lợi còn cao. Tại đây, chỉ 30% nông hộ có đủ nước tưới. Do
không đủ phân bón và thuốc trừ sâu, nông nghiệp Ấn Độ bị thất thu khoảng 31 tỉ
USD trong năm 2007. Theo kết quả nghiên cứu, Trung Quốc sử dụng phân bón gấp
2,56 lần Ấn Độ (275 kg/ha so với 104 kg/ha), do vậy, năng suất của Trung Quốc
cũng gấp đôi Ấn Độ. Năm 2006 - 2007, Ấn Độ phải nhập khẩu đến 1,25 tỉ USD
phân bón. Đồng thời, việc áp dụng các công nghệ mới vào nông nghiệp còn chậm.
68
Lao động nông nghiệp Ấn Độ phần lớn không có kỹ năng: 18,2% nữ và 31,9% nam
là lao động giản đơn. Nông dân cũng rất thiếu vốn: hơn 70% nông dân không có
quan hệ với ngân hàng.
Tình hình trên đã làm cho Ấn Độ dù là nước nông nghiệp, nhưng phải nhập
khẩu khá nhiều lương thực. Chỉ tính trong 2 năm 2006 và 2007, Ấn Độ đã nhập
khẩu 6,7 triệu tấn lúa mì. Dự kiến, đến năm 2009, Ấn Độ sẽ thiếu 20 triệu tấn lương
thực. Về dầu ăn, năm 2007 Ấn Độ nhập khẩu 3 tỉ USD, tăng 26%, chiếm 11,2%
lượng nhập khẩu của thế giới.
Cùng với tình hình trên, khó khăn khách quan cũng khá nhiều. Thời tiết khắc
nghiệt khiến đất đai Ấn Độ khi vùng này hạn hán, thì vùng khác lại lũ lụt. Trận lụt
năm 2006 tại Su-rát và vùng xung quanh đã gây thiệt hại hơn 5 tỉ USD. Trận lụt tại
Mum-bai (tháng 7-2005) đã làm giảm 1% tăng trưởng của Ấn Độ. Nhiều bang như
Bi-ha (Bihar), A-xam (Assam), An-đra Pra-đét (Andra Pradesh), Ô-ri-xa (Orrisa)
đang phải đối mặt với sự tàn phá dữ dội của lũ lụt. Thậm chí, những bang có hơn
50% diện tích thường xuyên gặp hạn hán cũng bị lũ lụt trong những năm gần đây.
Đồng thời, dịch bệnh như cúm gia cầm đã ảnh hưởng rất lớn đến kinh tế: năm 2007,
ngành chăn nuôi bị thất thu khoảng 6,2 tỉ USD.
Tất cả những yếu tố trên đã làm cho sản xuất nông nghiệp của Ấn Độ gặp trở
ngại, khó khăn và rồi dẫn đến đời sống nông dân bị thiếu thốn.
Trên thực tế đó, chính chủ Ấn Độ đã đề ra rất nhiều giải pháp để xóa đói,
giảm nghèo. Tác giả có thể điểm lại các giải pháp cơ bản như sau:
Để giải quyết cơ bản vấn đề nghèo đói, trước mắt, Ấn Độ đã tăng đầu tư cho
nông nghiệp. Năm 1995-1996 Ấn Độ chi 4,1 tỉ USD cho nông nghiệp nhưng năm
2006-2007 tăng lên 19,5 tỉ USD. Đây là mức tăng đáng kể dành cho nông nghiệp.
Phát triển nông nghiệp, tăng cường sản xuất lương thực là một nhiệm vụ trọng tâm
của kinh tế Ấn Độ. Để đạt chỉ tiêu 175 kg ngũ cốc/người, 11 kg đỗ/người vào năm
2012, Chính phủ Ấn Độ đã chi 1,2 tỉ USD cho Ủy ban An ninh lương thực, để tăng
sản xuất gạo, đậu đỗ, lúa mì… và tiến hành kế hoạch chăn nuôi, nâng cấp đàn gia
súc nhằm tăng lượng sữa, trứng, thịt.
Một trong những trọng tâm để Ấn Độ có mức tăng trưởng từ 9 đến 10%
trong kế hoạch XI là phải cải thiện kết cấu hạ tầng nông thôn. Ấn Độ sẽ tăng vốn để
phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn từ 3 tỉ USD năm 2007 lên 3,5 tỉ USD năm
69
2008. Bộ Tài chính cũng tăng tín dụng phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp từ
56,25 tỉ USD năm 2007-2008 lên 62,5 tỉ USD năm 2008-2009. Ngân hàng phát
triển nông nghiệp Ấn Độ sẽ cung cấp 6,7 triệu USD cho quỹ phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn. Cũng về cơ sở hạ tầng, để giúp nông dân giảm bớt khó khăn, Ấn Độ
đang thúc đẩy thành lập 31 đặc khu nông nghiệp, 12 khu xuất khẩu nông sản (AEZ),
một trung tâm trưng bày nông sản với chi phí hơn 5 tỉ USD và 30 công viên lương
thực lớn (chi phí khoảng 4 tỉ USD).
Về thủy lợi, Ấn Độ đang có kế hoạch liên kết 14 sông lớn ở vùng Hi-ma-lay-
a với 17 sông ở phía Nam, để phân bổ lại khoảng 173 tỉ m3 khối nước/năm, từ đó,
đưa sản lượng lương thực của Ấn Độ từ hơn 200 triệu tấn hiện nay lên 450 triệu tấn
vào năm 2050. Kết quả này sẽ góp phần quan trọng vào công cuộc xoá đói giảm
nghèo. Đồng thời, Chính phủ đã chi 3,3 tỉ USD cho 300 dự án, chương trình chống
lũ lụt ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Về năng lượng, Ấn Độ thực hiện ưu tiên điện khí hoá nông thôn và đang xây
dựng hệ thống năng lượng cho khu vực này. Trọng tâm là khai thác năng lượng tái
sinh như khí sinh học, năng lượng mặt trời, gió, thuỷ điện nhỏ, để trong 5 năm tới sẽ
cung cấp điện cho 75 triệu nông hộ.
Ấn Độ cũng đã tăng chi cho xóa đói giảm nghèo và coi đây là mục tiêu quan
trọng, là chương trình lớn trong các kế hoạch dài hạn. Ngày 15-8-1995, Ấn Độ đã
đưa ra Kế hoạch quốc gia về hỗ trợ xã hội cho những người sống dưới mức nghèo
khổ: những người nghèo trên 65 tuổi sẽ được trợ cấp 2 USD/tháng; hỗ trợ từ 130
đến 250 USD cho những gia đình nghèo có người chết; hỗ trợ 10 USD cho những
phụ nữ trên 19 tuổi trong 2 lần sinh đầu. Từ năm 1999, Ấn Độ đã thực hiện hỗ trợ
10 kg lương thực cho những người già không có lương hưu. Gần đây, chương trình
này đã mở rộng cho cả những người có lương hưu. Ngày 25-9-2001, Ấn Độ đưa ra
chương trình bảo đảm lương thực và việc làm cho nông thôn, chương trình nhà ở,
chương trình bảo đảm lợi ích người lao động trong khu vực nông nghiệp… Năm
2006, Chính phủ đã đầu tư 800 triệu USD vào những vùng lạc hậu; năm 2007, lập
quỹ 700 triệu USD giúp những vùng nông thôn lạc hậu.
70
Trong kế hoạch lần thứ XI, chính phủ Ấn Độ sẽ đưa ra chương trình đặc biệt
để phát triển kinh tế cho 75 nhóm lạc hậu đang sống trong những điều kiện hết sức
nghèo nàn. Cũng trong kế hoạch lần này, Ấn Độ sẽ chi 1 tỉ USD để xóa bỏ tình
trạng lao động trẻ em.
Tăng trợ cấp sản xuất nông nghiệp cũng là một biện pháp quan trọng để xóa
đói giảm nghèo. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ X, Ấn Độ đã hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp là 18 tỉ USD và kế hoạch lần thứ XI là 27 tỉ USD. Trợ cấp trong từng ngành
là rất cụ thể: tháng 3-2007, trợ cấp vận chuyển đường là 37USD/tấn; Ngành chè
được trợ cấp 22 triệu USD; Mỗi ha chuối được trợ cấp 700 USD để tăng cường sản
xuất và xuất khẩu.
Chính phủ đã chi 11 tỉ USD để trợ giá phân bón trong năm 2007-2008 và
năm 2008-2009 sẽ là 16 tỉ USD. Mỗi hộ nông dân sẽ được trợ cấp 150 USD tiền
điện. Bảo hiểm nông nghiệp sẽ tăng từ 16% lên 80-90% số nông hộ. Năm 2008,
Chính phủ sẽ xóa nợ cho nông dân 15 tỉ USD, giảm thuế cho những hộ có diện tích
dưới 3 ha. Khoảng 30 triệu nông dân đang mắc nợ sẽ được lợi từ kế hoạch này (theo
Báo The Financial Express, ngày 3-2-2008).
Tạo việc làm là một trong những biện pháp quan trọng để xóa đói giảm
nghèo. Chính vì thế, chương trình việc làm luôn luôn là một nội dung quan trọng
trong các kế hoạch của Chính phủ. Tháng 8-2005, Ấn Độ thông qua Luật Bảo đảm
việc làm cho nông dân - một trong những văn bản pháp lý quan trọng nhất được ban
hành từ khi Ấn Độ giành được độc lập. Luật này sẽ bảo đảm về pháp lý để mỗi
nông dân có đủ 100 ngày có việc làm/năm, với mức lương 1,5 USD/ngày. Nếu
không có việc làm, nông dân sẽ nhận được một khoản trợ cấp thất nghiệp. Giai đoạn
đầu, chương trình này sẽ áp dụng trong 200 huyện; 4 năm tiếp theo sẽ mở rộng ra
toàn Ấn Độ. Theo nhiều đánh giá, chương trình này được coi là có nhiều kì vọng
nhất trên thế giới để xóa đói giảm nghèo. Triển khai Luật trên, năm 2005-2006 Ấn
Độ đã chi 3 tỉ USD, năm 2006-2007 là 2,7 tỉ USD và năm 2007-2008 là 2,8 tỉ USD
cho chương trình việc làm nông thôn. Gần đây, Ấn Độ đã mở rộng Luật trên, tăng
chi tiêu để trong 7 năm tới tạo thêm 50 triệu việc làm (theo Báo The Business-
Standard, ngày 9-5-2008).
71
Trong công cuộc xóa đói giảm nghèo, Ấn Độ đã nhận được sự giúp đỡ hết
sức tích cực của quốc tế. Ngân hàng thế giới (WB) đã cho Ấn Độ vay nhiều nhất,
với 3,75 tỉ USD, bằng 15% tổng mức cho vay của WB trong năm 2007. Trong
lượng vốn trên, một phần quan trọng đã được đưa vào nông nghiệp, nông thôn, vừa
giúp Ấn Độ phát triển các lĩnh vực nói chung, vừa tăng cường công cuộc xóa đói
giảm nghèo tại nông thôn. WB đã cấp 225 triệu USD để xóa đói giảm nghèo tại
bang Mát-hi-a (Madhya). WB cũng giúp 463 triệu USD cho bang Bi-ha - bang
nghèo nhất Ấn Độ, với 44% dân số nghèo khổ. Năm 2007, WB đã cho Ấn Độ vay
thêm 600 triệu USD để trợ giúp các trang trại, 944 triệu USD để tăng cường hệ
thống tài chính nông thôn, thực hiện bảo hiểm nông nghiệp và các dự án quản lý
nguồn nước. Cùng với WB, không kể các khoản vốn đã cấp, từ 2007-2010 Ngân
hàng Phát triển châu Á (ADB) sẽ cho các bang nghèo nhất của Ấn Độ vay 2,1 tỉ và
sẽ đầu tư thêm 9,2 tỉ USD vào cơ sở hạ tầng, nhất là cho những bang nghèo như Bi-
ha (Bihar), Giắc-hen (Jharkhand). Thủ tướng Anh, trong chuyến thăm Ấn Độ tháng
1-2008 đã tuyên bố viện trợ phát triển 1,6 tỉ USD cho những bang nghèo nhất của
Ấn Độ.
Với các giải pháp của chính phủ Ấn Độ và thực hiện một cách quyết liệt trên
mặt trận chống nghèo đói, trong những năm qua Ấn Độ đạt những thành tựu cơ bản
sau đây:
Nhờ những cố gắng trên, nghèo đói ở Ấn Độ đã giảm nhiều. Các chỉ số xã
hội như thu nhập, giáo dục, y tế, giao thông, điện, nước uống… ở hầu hết những
vùng nông thôn nghèo đã được cải thiện đáng kể từ năm 1991. Tỷ lệ nghèo ở nông
thôn đã giảm từ 45,76% trong năm 1983 xuống 37,26% trong năm 1994 và 29,18%
trong năm 2005. Số lượng người nghèo tương ứng với các thời điểm trên là 252,05
triệu; 247,8 triệu và 232,16 triệu. Đa số nông dân đã có đủ lương thực, với tỷ lệ đủ
ăn tăng từ 94,5% (năm 1994-1995) lên 97,1% (năm 2004-2005).
Những thành tựu nông nghiệp đã giúp Chính phủ cung cấp lương thực cho
những người nghèo nhất. Phân phối lương thực đã tăng từ 10 kg, lên 20 kg và đến
tháng 7-2001 là 25 kg/gia đình/tháng. Chính phủ cũng đã bỏ ra hàng triệu tấn lương
thực để cứu trợ những vùng bị thiên tai. Việc phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn đã
giải quyết nhiều việc làm cho nông dân, qua đó, giúp họ cải thiện, ổn định đời sống.
72
Một trong những thành tựu đáng kể của công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Ấn
Độ là đã thực hiện bữa ăn trưa miễn phí cho 120 triệu trẻ em, chủ yếu ở nông thôn.
Chính phủ sẽ chi thêm 10,7 tỉ USD cho kế hoạch này. Về chương trình hỗ trợ xã
hội, lương hưu cho người nghèo trên 65 tuổi sẽ tăng từ 1,5USD/tháng lên 4,5
USD/tháng. Sau 17 năm cải cách, mức tiêu dùng ở nông thôn Ấn Độ đã tăng lên. Số
hộ dùng ga tăng gấp 6 lần. Chi tiêu cho giáo dục từ năm 1999-2000 đến năm 2004-
2005 tăng từ 29% lên 44% (theo Báo The Statesman, ngày 10-8-2007).
Việt Nam và Ấn Độ cùng là những nước đang phát triển, có những điểm
tương đồng, do vậy việc tìm hiểu kinh nghiệp của Ấn Độ trong công cuộc xóa đói,
giảm nghèo giúp tác giả có cách nhìn sâu và rộng hơn về nghèo đói và có thể hoàn
thiện được luận án.
2.3.2. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại một số địa
phương Việt Nam
2.3.2.1. Kinh nghiệm của các tỉnh Tây Nguyên Việt Nam
Tây Nguyên là vùng đất cao nguyên rộng lớn nằm dọc theo dãy Trường Sơn,
trong vùng tam giác biên giới của 3 nước Đông Dương. Diện tích đất tự nhiên
khoảng 54.641,1 km2 chiếm khoảng 17% diện tích cả nước, bao gồm 5 tỉnh (Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng). Có 61 đơn vị hành chính cấp
huyện (52 huyện, 5 thành phố, 4 thị xã). Cấp xã có 722 đơn vị (gồm 598 xã, 77
phường, 47 thị trấn), 6889 thôn buôn, bon, làng, khu phố, trong đó có 2497 buôn
làng đồng bào dân tộc thiểu số. Dân số toàn vùng là 5.379,6 người (chiếm khoảng
5% dân số cả nước), mật độ dân số là 99 người/km2, [8]. Tây Nguyên hiện nay là
địa bàn cư trú của 46 dân tộc trong cả nước, trong đó có 12 dân tộc thiểu số bản địa,
trong đó đồng bào dân tộc thiểu số là 1.566.720 người (chiếm khoảng 33%), đồng
bào dân tộc tại chỗ 1.232.200 người (chiếm khoảng 26%). Đây là địa bàn chiến lược
đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng của cả nước.
Tây Nguyên là vùng có đặc thù về điều kiện tự nhiên, thiên nhiên và dân cư
nên tỷ lệ hộ nghèo cao chiếm 15% vào năm 2012, [8]. Nhờ tổ chức triển khai thực
hiện tốt chính sách giảm nghèo bền vững, tình trạng đói nghèo ở Tây Nguyên đã có
những chuyển biến tích cực, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc, giữ vững quốc phòng, an ninh ở Tây Nguyên. Năm
2013, tỷ lệ hộ nghèo của Tây Nguyên chỉ còn 21,56% giảm 2,44% so với năm 2012.
73
Để có được những kết quả về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở Tây
Nguyên trong những năm vừa qua là do các tỉnh Tây Nguyên đã chủ động tổ chức thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững dựa trên những biện pháp cơ bản sau:
Đảng bộ, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các tỉnh Tây Nguyên thường
xuyên tổ chức học tập, quán triệt và triển khai đầy đủ kịp thời chính sách giảm
nghèo bền vững. Các cấp ủy, chính quyền tập trung xây dựng kế hoạch, chương
trình hành động trên cơ sở thực tế địa phương, tập trung chỉ đạo giải quyết một cách
có hiệu quả những vấn đề cấp bách nảy sinh trong quá trình thực hiện các chính
sách giảm nghèo bền vững, kết hợp với các giải pháp nhằm ổn định và phát triển
sản xuất, ổn định tình hình dân cư, khắc phục tình trạng du canh, du cư trên địa bàn
các xã vùng sâu trên cơ sở xây dựng những dự án phát triển kinh tế và các chương
trình lồng ghép của Chính phủ.
Tập trung vận động tuyên truyền cho người dân, nhất là đồng bào DTTS về
chính sách giảm nghèo bền vững của nhà nước. Do vậy, đã được đông đảo nhân dân
đặc biệt là đồng bào thiểu số đồng tình hưởng ứng, tạo nên sức mạnh tổng hợp và
phát huy các nguồn lực để thực hiện chính sách có hiệu quả thiết thực hơn.
Đảng bộ, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc các tỉnh Tây Nguyên đã không
ngừng phát huy tinh thần đoàn kết, khắc phục khó khăn, chủ động, sáng tạo, tự lực
tự cường, phát huy được sức mạnh tổng hợp thực hiện có hiệu quả chính sách giảm
nghèo bền vững đối với tộc người thiểu số. Biện pháp cơ bản là tăng cường sự phối
kết hợp giữa các sở ban ngành ở các tỉnh, đặc biệt là Sở lao động - Thương binh và
Xã hội, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài
chính, Ban Dân tộc, Ban Dân vận các tỉnh nhằm tạo nên sự đồng thuận trong việc
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, lồng ghép các chương trình xây dựng
cơ sở hạ tầng trên địa bàn các xã vùng sâu với các chương trình dự án giảm nghèo
của Chính phủ.
Các cấp ủy đảng, chính quyền và các ban ngành chức năng ở Tây Nguyên
thường xuyên sơ kết, tổng kết việc thực hiện chính sách ở các vùng tộc người thiểu
số để kịp thời khắc phục những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, có biện pháp kịp thời điều chỉnh, bổ sung, bảo đảm cho
các chính sách giảm nghèo bền vững được thực hiện có hiệu quả hơn.
74
2.3.2.2. Kinh nghiệm của các tỉnh Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Trung Bộ
Bắc Trung Bộ (BTB) và Duyên Hải Trung Bộ (DHTB) bao gồm 14 tỉnh,
thành phố dọc theo Quốc lộ 1 từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, trong đó BTB bao
gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế. DHTB bao gồm 8 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương là: Đà Nẵng, Quảng
Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận.
Bắc Trung Bộ và Duyên Hải Trung Bộ có diện tích tự nhiên 95835,8 km2
chiếm khoảng 29,1% diện tích tự nhiên của cả nước, dân số là 19.173,6 triệu người,
mật độ 200 người/km2 với hơn 30 dân tộc cùng sinh sống, [28]. Về không gian địa
lý, BTB và DHMT gồm tập hợp nhiều tỉnh nghèo liền kề nhau nhất là khu vực
BTB. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo trong vùng năm 2012 tương đối cao so với trung
bình cả nước chiếm 16,60%, trong đó Bắc Trung Bộ 15,01%, Duyên Hải Trung Bộ
12,20% (cả nước 9,60%), [8].
Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách giảm nghèo bền vững, tất cả
các địa phương trong vùng đã ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững trên địa bàn, ưu tiên nguồn lực cho các xã khó
khăn nhất có tỷ lệ hộ nghèo cao và thiếu CSHT thiết yếu.
Các địa phương trong vùng đã thành lập ban giảm nghèo bền vững từ tỉnh
xuống tận xã và nhóm giảm nghèo bền vững của thôn, bản. Việc phân cấp trao
quyền chủ động cho các cấp chính quyền quản lý công tác giảm nghèo bền vững
trong đó huyện và xã giữ vai trò là đơn vị xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai
thực hiện kế hoạch thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Các công trình xây
dựng thuộc chính sách giảm nghèo bền vững luôn thu hút được sự tham gia của
người dân trong việc huy động nguồn lực tại chỗ từ chính người dân trong vùng và
tham gia vào hoạt động giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện.
Trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, các địa phương
đã phối hợp và lồng ghép các Chương trình, dự án vào kế hoạch phát triển kinh tế
xã hội của địa phương. Công tác đào tạo, xây dựng và nâng cao năng lực cho cán bộ
cơ sở làm công tác giảm nghèo đã được các địa phương quan tâm thực hiện.
75
Đối với các tỉnh miền núi, nơi có đông đồng bào DTTS sinh sống, các địa
phương đã tập trung đầu tư cho giáo dục, thực hiện chính sách khám chữa bệnh cho
người nghèo, thực hiện tốt công tác vận động, tuyên truyền về chính sách giảm
nghèo bền vững sâu rộng trong nhân dân đặc biệt là các hộ nghèo, hộ cận nghèo
trong vùng. Thường xuyên thực hiện công tác rà soát hộ nghèo và rà soát hệ thống
văn bản về giảm nghèo bền vững để có các phương án, kế hoạch điều chỉnh cho phù
hợp với từng địa phương, từng vùng và từng đối tượng.
Nhờ có sự quan tâm chỉ đạo và huy động mọi nỗ lực trong thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, công tác giảm nghèo bền vững ở BTB và DHMT đã đạt
được những thành tựu đáng kể, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo được cải thiện qua
từng năm, năm 2013 tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng chỉ còn 11,18% giảm 2,42% so với
năm 2012 (trong đó BTB là 12,22%, DHMT là 10,15%). Nội dung giảm nghèo bền
vững đã được đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương, đồng
thời có những kế hoạch riêng để phù hợp với từng đối tượng người nghèo cụ thể ở
từng tỉnh[8].
2.3.3. Bài học kinh nghiệm cho các tỉnh miền núi phía Bắc về quản lý nhà nước
về giảm nghèo bền vững
Qua nghiên cứu thực tế phân hoá giàu nghèo, thực hiện các chính sách xã hội
và chống đói nghèo của các nước đã nêu trên và một số quốc gia khác trên thế giới,
có thể rút ra những bài học sau:
- Phân hoá thu nhập, chênh lệch giàu nghèo là hiện tượng phổ biến ở các quốc
gia. Đó là kết quả của nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thuộc về sự quan
tâm của Nhà nước trong việc hoạch định và thực thi chiến lược, chính sách phát triển,
gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Nghèo đói và chênh lệch giàu nghèo quá mức là một trong nguyên nhân
gây mất ổn định chính trị - xã hội làm cho kinh tế tăng chậm hoặc suy thoái, phá vỡ
tính bền vững của quá trình phát triển.
- Vai trò của Chính phủ trong việc điều tiết thu nhập, thực hiện các chính
sách xã hội và thực hiện xoá đói giảm nghèo rất quan trọng từ chiến lược, chính
sách cho đến các giải pháp giảm nghèo bền vững.
76
- Sự kết hợp giữa tính tích cực của kinh tế thị trường, tạo động lực tăng
trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững là vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm. Quá
thiên lệch về nhu cầu tăng trưởng hoặc ưu tiên thiếu tính toán các vấn đề về xã hội
đều dẫn đến hậu quả xấu.
- Nghèo đói là vấn đề toàn cầu và được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế
quan tâm như cách làm, mô hình thực hiện giảm nghèo bền vững rất đa dạng, trong
đó, một số quốc gia vẫn chưa tìm ra mô hình lý tưởng cho kết hợp giữa tăng trưởng
kinh tế với giải quyết vấn đề tiến bộ, công bằng xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Xoá đói giảm nghèo phải được thực hiện đồng thời với các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội khác và là nỗ lực từ nhiều phía: Nhà nước, cộng đồng và
bản thân người nghèo, phát huy nguồn lực bên trong đồng thời khai thác nguồn lực
bên ngoài để giảm nghèo bền vững.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Đói nghèo là một trong những lực cản đối với quá trình phát triển KT-XH.
Tùy theo quan điểm phát triển KT-XH và chủ trương giảm nghèo bền vững ở mỗi
quốc gia mà các chính phủ sẽ có những cách thức thực hiện công cuộc giảm nghèo
bền vững riêng của mình. Xu hướng của các nước hiện nay là phát triển KT-XH
theo hướng bền vững. Chính sách giảm nghèo bền vững là một trong những bộ
phận cấu thành quan trọng của phát triển KT-XH nhằm khắc phục những tác động
tiêu cực của đói nghèo đến quá trình phát triển KT-XH. Chính sách giảm nghèo bền
vững thường là một phần trong Chiến lược phát triển KT-XH của mỗi quốc gia.
Việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở nước ta hiện nay được đặt
trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang trong
giai đoạn chuyển đổi và tái cấu trúc lại nền kinh tế, bởi vậy việc nâng cao kết quả và
hiệu quả của công tác giảm nghèo bền vững là một nhu cầu bức thiết, tạo nền móng
và sức bật cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta đến năm 2020 và
những năm tiếp theo.
Nội dung của chương 2 đã tập trung khái quát những vấn đề cơ bản mang tính
lý luận về đói nghèo, đặc điểm đói nghèo ở Việt Nam, về tổ chức triển khai thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững qua đó luận án đã xây dựng khung lý thuyết về quy
trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững gồm 5 bước (mục
77
2.3). Quy trình này sẽ là khung lý thuyết để tác giả thực hiện phân tích, đánh giá việc
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
trong thời gian qua. Trong chương này luận án cũng đã nghiên cứu, phân tích kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới và đặc biệt là một số vùng kinh tế của Việt
Nam có những đặc điểm tương đồng với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nhưng
đã có những thành công về giảm nghèo bền vững đồng thời rút ra những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng
trong công cuộc giảm nghèo bền vững hiện nay.
Từ những nghiên cứu lý luận về giảm nghèo bền vững và thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững bao gồm quy trình tổ chức thực hiện, những nhân tố ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện chính sách chương này sẽ là cơ sở, nền tảng và điều
kiện quan trọng để nghiên cứu, phân tích về thực trạng tổ chức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam ở chương sau.
78
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO
BỀN VỮNG TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VIỆT NAM
3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam
3.1.1. Điều kiện tự nhiên của các tỉnh miền núi phía Bắc
3.1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên
Các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta có vị trí địa lý khá đặc biệt, lại có mạng
lưới giao thông vận tải đang được đầu tư, nâng cấp, nên ngày càng thuận lợi cho
việc giao lưu với các vùng khác trong nước và xây dựng nền kinh tế mở. Các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta có thể chia ra làm hai tiểu vùng với các đặc điểm về điều
kiện vị trị địa lý và kinh tế xã hội đặc thù riêng:
Các tỉnh miền núi Tây Bắc bộ hay còn gọi là Vùng Tây Bắc bộ (bao gồm 6
tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Hoà Bình, Lai Châu, Sơn La). Tây Bắc Bộ là
vùng miền núi phía tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào
và Trung Quốc. Vùng này là một trong 3 tiểu vùng địa lý tự nhiên của Bắc Bộ Việt
Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng).
Các tỉnh miền núi Đông Bắc bộ hay Vùng Đông Bắc bộ (bao gồm 9 tỉnh: Hà
Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc
Giang, Quảng Ninh). Đông Bắc bộ là vùng lãnh thổ ở phía đông bắc miền Bắc Việt
Nam và ở hướng bắc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi là Đông Bắc để phân
biệt với vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội.
- Vị trí địa lý: phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ, phía bắc và đông bắc giáp các
tỉnh phía nam Trung Quốc, phía tây giáp với Thượng Lào, phía nam giáp với các
tỉnh Đồng bằng sông Hồng.
- Diện tích: 95.338,8 km2.
- Địa hình: Mang đặc điểm địa hình của miền núi và trung du.
79
Hình 3.1. Các tiểu vùng địa lý tự nhiên của các tỉnh miền phía Bắc Việt Nam
[Nguồn http://vi.wikipedia.org]
- Khí hậu: các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta quanh năm có nhiệt độ tương
đối cao và ẩm, khí hậu chịu ảnh hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và mang
tính chất khí hậu lục địa. Trong khi một phần khu vực Duyên hải lại chịu ảnh hưởng
tính chất khí hậu nhiệt đới và gió mùa ẩm từ đất liền.
Trên toàn vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa quanh năm với 4 mùa rõ rệt
xuân, hạ, thu, đông. Đồng thời hàng năm chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và
gió mùa Đông Nam. Nhiệt độ trung bình năm tăng dần từ phía Bắc xuống phía Nam
và có khí hậu giao hoà, là đặc trưng của khu vực đồng bằng Bắc Bộ và ven biển.
Thời tiết mùa hè từ tháng 5 đến tháng 9 nóng ẩm và mưa cho tới khi gió mùa nổi
lên. Mùa đông từ tháng 10 tới tháng 4 trời lạnh, khô, có mưa phùn. Nhiệt độ trung
bình hàng năm khoảng 25độC, lượng mưa trung bình từ 1,700 đến 2,400mm.. Vào
mùa Đông nhiệt độ xuống thấp nhất trong các tháng mười hai và tháng giêng. Thời
gian này ở các tỉnh miền núi phía Bắc (như Sa Pa, Tam Đảo, Hoàng Liên Sơn) có
lúc nhiệt độ xuống dưới 0độC và có thể hình thành băng giá và tuyết rơi. [theo
“Nghiên cứu đánh giá những tập quán của đồng bào dân tộc miền núi khu vực phía
Bắc ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế - xã hội. Một số giải pháp và kiến nghị”,
80
Chủ nhiện đề tài: TS. Nguyễn Văn Trọng, Phó Vụ trưởng vụ Kế hoạch – Tài chính,
Uỷ ban Dân tộc, 2013]
- Đơn vị hành chính: có 15 tỉnh, được chia làm 2 vùng Đông Bắc Bộ và Tây
Bắc Bộ; Đông Bắc Bộ gồm các tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn,
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang, Quảng Ninh; Tây Bắc Bộ gồm
các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Điện Biên, Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La.
- Dân số: khoảng 11.095.200 người.
3.1.1.2. Tác động của điều kiện địa lý tự nhiên
Các lợi thế của Vùng
- Thế mạnh về khai thác, chế biến khoáng sản và thuỷ điện: các tỉnh miền núi
phía Bắc là vùng có khoáng sản và trữ năng thuỷ điện lớn nhất nước ta. Lòng đất ở
đây giàu than, quặng sắt, mangan, đồng, chì, kẽm, đất hiếm, apatit... Các mỏ than
tập trung chủ yếu ở khu Đông Bắc (Thái Nguyên). Khu Đông Bắc cũng có nhiều
mỏ kim loại, đáng kể hơn cả là mỏ sắt (Yên Bái), thiếc và bôxit (Cao Bằng), kẽm –
chì ở Chợ Đồn (Bắc Kạn), đồng – vàng (Lào Cai). Khoáng sản phi kim loại đáng kể
có apatit (Lào Cai). Mỗi năm vùng kinh tế này khai thác khoảng 600 nghìn tấn
quặng để sản xuất phân lân.
Trữ năng thuỷ điện của hệ thống sông Hồng (11 triệu kW) chiếm hơn 1/3 trữ
năng thuỷ điện của cả nước. Riêng sông Đà chiếm gần 6 triệu kW. Nguồn thuỷ năng
lớn này đang được khai thác. Nhà máy thuỷ điện Thác Bà trên sông Chảy có công
suất thiết kế là 110 nghìn kW. Nhà máy thuỷ điện Hòa Bình trên sông Đà có công
suất thiết kế là 1,9 triệu kW. Nhà máy thuỷ điện Sơn La (trên sông Đà) với công
suất là 3,6 triệu kW, thuỷ điện Đại Thị (trên sông Gâm) 250 nghìn kW…
- Thế mạnh về phát triển du lịch, dịch vụ: Về phía khu vực Đông Bắc phần
lớn là núi thấp và đồi nằm ven bờ biển Đông, được bao bọc bởi các đảo và quần đảo
lớn nhỏ. Ở Vịnh Bắc Bộ tập trung quần thể bao gồm gần 3.000 hòn đảo nằm trong
các khu vực biển Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, Cát Hải, Cát Bà, Bạch Long Vĩ. Và
nhiều bờ biển đẹp như bờ biển Trà Cổ, Bãi Cháy, Tuần Châu và Vân Đồn thuộc tỉnh
Quảng Ninh; Cát Bà, Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng; Đồng Châu thuộc tỉnh
Thái Bình.
- Thế mạnh về cây công nghiệp, cây dược liệu, các loại rau quả cận nhiệt và
ôn đới. Bởi vậy, các tỉnh miền núi phía Bắc có thế mạnh đặc biệt để phát triển các
81
cây công nghiệp có nguồn gốc cận nhiệt và ôn đới. Đây chính là vùng chè lớn nhất
cả nước, với các loại chè thơm ngon nổi tiếng ở Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái,
Hà Giang, Sơn La. Ở các vùng núi giáp biên giới của Cao Bằng, Lạng Sơn, cũng
như trên vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, điều kiện khí hậu rất thuận lợi cho việc
trồng các cây thuốc quý (tam thất, đương quy, đỗ trọng, hồi, thảo quả…) và các cây
ăn quả như mận, đào, lê. Ở Sa Pa có thể trồng rau mùa đông và sản xuất hạt giống
quanh năm.
- Thế mạnh về chăn nuôi gia súc: các tỉnh miền núi phía Bắc có nhiều đồng
cỏ, chủ yếu là trên các cao nguyên ở độ cao 600 – 700m. Các đồng cỏ thường
không lớn. Tuy vậy ở đây có thể phát triển chăn nuôi trâu, bò (lấy thịt và lấy sữa),
ngựa, dê. Bò sữa được nuôi tập trung ở cao nguyên Mộc Châu (Sơn La).
Những khó khăn do điều kiện địa lý tự nhiên
- Các tỉnh miền núi phía Bắc có địa hình đa dạng và phức tạp bao gồm đồi
núi, đồng bằng, bờ biển và thềm lục địa. Địa hình ở đây bao gồm các dãy núi cao và
rất hiểm trở, kéo dài từ biên giới phía Bắc (nơi tiếp giáp với Trung Quốc) tới phía
Tây tỉnh Thanh Hoá. Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là một vùng miền núi
cao hiểm trở, với những dãy núi kỳ vĩ, hang động huyền ảo, nhiều dòng suối, dòng
sông gập ghềnh uốn lượn chính là bức tường thành phía đông vùng các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam. [theo “Nghiên cứu đánh giá những tập quán của đồng bào
dân tộc miền núi khu vực phía Bắc ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế - xã hội.
Một số giải pháp và kiến nghị”, Chủ nhiện đề tài: TS. Nguyễn Văn Trọng, Phó Vụ
trưởng vụ Kế hoạch – Tài chính, Uỷ ban Dân tộc, 2013]. Các tỉnh miền núi phía
Bắc nước ta là vùng có địa hình hiểm trở, lại bị chia cắt bởi những dãy núi cao và hệ
thống sông suối dày đặc, 95,4% diện tích tự nhiên có độ dốc trên 80 trong đó 84,7%
diện tích tự nhiên có độ dốc trên 250. Mặc dù phần lớn diện tích có độ cao không
quá 1000m nhưng miền núi phía Bắc có nhiều đỉnh núi cao trên 2000m ở dãy
Hoàng Liên Sơn, ở biên giới Việt - Lào... trong đó có đỉnh Phanxipang (3.143m)
được coi là nóc nhà của khu vực Đông Dương. Khí hậu tại các tỉnh miền núi phía
Bắc có đặc điểm nổi bật là khí hậu nhiệt đới có một mùa đông tương đối ấm hơn so
với khu vực Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình năm dao động từ 21- 230C, chế độ
82
nhiệt cực đại vào tháng 7 là 28-290C cực tiểu từ 17-190C vào tháng 01. Lượng mưa
tương đối lớn, trung bình từ 1500-2000mm/năm. Hiện tượng thời tiết đặc biệt của
Miền núi phía Bắc là gió Lào, gió địa phương, mưa đá, sương mù, sương muối gây
ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt và sản xuất của người dân.
Sản xuất chưa phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém: Miền núi phía Bắc chưa
hình thành nhiều vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa, ngoại trừ vài điểm như: sữa
của Mộc Châu, lúa gạo của Mường Thanh nhưng sản lượng chưa nhiều, khả năng
hỗ trợ, thúc đẩy cho khu vực đặc biệt khó khăn rất hạn chế. Chỉ số tăng trưởng về
kinh tế của các tỉnh còn thấp, thiếu bền vững do phần lớn phụ thuộc vào tự nhiên và
nguồn ngân sách Trung ương (trên 70%), nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật vùng Miền núi phía Bắc vẫn còn yếu
kém. Một số xã chưa có đường ô tô đến trung tâm xã, nếu có thì cũng chưa đi được
trong cả 4 mùa, hệ thống đường liên thôn, liên bản chất lượng thấp lại đang ở thời
kỳ xuống cấp. Tỷ lệ xã có đường giao thông đến trung tâm xã được trải nhựa, bê
tông hóa đi lại được bốn mùa toàn vùng chỉ đạt trên dưới 50% như Sơn La 52,13%,
tỷ lệ có điện lưới thắp sáng toàn vùng chỉ chiếm 86,47% hai địa phương có tỷ lệ
thấp nhất là Điện Biên đạt 75,5%, Sơn La đạt 73,8% trong khi đó tỷ lệ điện lưới
thắp sáng của Tây Nguyên đạt 98,04%, Đồng bằng Sông Cửu Long là 99,44%, [47].
- Nằm trong vòng đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do ở một độ cao từ 800-trên
3000 m nên khí hậu ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu
ôn đới. Địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên những
thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên. Do vậy, các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu. [theo
“Nghiên cứu đánh giá những tập quán của đồng bào dân tộc miền núi khu vực phía
Bắc ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế - xã hội. Một số giải pháp và kiến nghị”,
Chủ nhiện đề tài: TS. Nguyễn Văn Trọng, Phó Vụ trưởng vụ Kế hoạch – Tài chính,
Uỷ ban Dân tộc, 2013]
- Miền núi phía Bắc có phần lớn diện tích là đất feralit trên đá phiến, đá vôi
và các đá mẹ khác, ngoài ra còn có đất phù sa cổ (ở vùng trung du). Nơi đây có khí
83
hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, có mùa đông lạnh, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của điều
kiện địa hình vùng núi.
- Khí hậu vùng Bắc Bộ cũng thường phải hứng chịu nhiều tác động xấu của
thời tiết, trung bình hàng năm có từ 6 đến 10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới gây ra lũ
lụt, đe doạ trực tiếp đến cuộc sống và ngành nông nghiệp của toàn địa phương trong
vùng. [theo “Nghiên cứu đánh giá những tập quán của đồng bào dân tộc miền núi
khu vực phía Bắc ảnh hưởng xấu đến đời sống kinh tế - xã hội. Một số giải pháp và
kiến nghị”, Chủ nhiện đề tài: TS. Nguyễn Văn Trọng, Phó Vụ trưởng vụ Kế hoạch
– Tài chính, Uỷ ban Dân tộc, 2013]
3.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc
3.1.2.1. Điều kiện về kinh tế
Tình hình kinh tế các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía bắc trong thời
gian qua có cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiêp, công nghiệp, dịch vụ, thương mai du
lịch. Trong những năm gần đây, nền kinh tế phát triển theo hướng nông nghiêp và
công nghiệp; cùng với việc tăng năng xuất các sản phẩm công, nông nghiệp và chăn
nuôi. Các chỉ tiêu kinh tế nói chung đều giữ được mức tăng năm sau hơn năm trước.
Các dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi phía bắc luôn chịu ảnh hưởng lớn
của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, gây nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống xã
hội bởi những đợt rét đậm, rét hại, những trận lũ ống, lũ quét thường xẩy ra hàng
năm, dịch bệnh xây ra ở nhiều nơi đối với người và gia súc, gia cầm. Điều đó đã
làm cho kinh tế ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà
nước, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương đã cùng nhân dân các dân tộc
khắc phục hậu quả, đã vượt qua được những khó khăn và phát triển ổn định.
Đồng bào dân tộc thiểu số vung thấp ở Đông Bắc có truyền thống làm ruộng
nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thủy lợi như
đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập
lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa
nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả...
Từ lâu đời trồng trọt là nghề làm ăn chính của các dân tộc thiểu số vùng thấp.
Cây trồng gồm có cây lương thực: lúa nước, lúa nương, ngô là chủ yếu, cây thực
84
phẩm: rau, đậu các loại, bầu bí, cây ăn quả, cây công nghiệp và trồng trên các vùng
đất khác nhau, theo phương thức canh tác khác nhau.
Việc cấy lúa được thực hiện ở một số cánh đồng nổi tiếng của tỉnh Cao Bằng
như: như cánh đồng lúa Nước Hai ở huyện Hòa An. Giống lúa được đồng bào các
dân tộc Tày, Nùng sử dụng gồm 02 loại lúa nếp và lúa tẻ. Các thửa ruộng của đồng
bào dân tộc Tày, Nùng tỉnh Cao Bằng thường được tạo lập ở hạ lưu các dòng sông,
hoặc trong những vùng lòng chảo, một số ruộng được khai khẩn trên sườn đồi thành
các ruộng bậc thang. Việc trồng cấy lúa ở vùng hạ lưu có điều kiện chủ động tưới
tiêu, còn ruông bậc thang phải chờ nước mưa. Để có đầy đủ nước cho cây lúa ở
ruộng, ngoài việc trông chờ vào nguồn nước chảy tự nhiên, đồng bào còn làm các
cọn nước, đắp các đập nước, đào mương dẫn nước vào đồng ruộng.
Cây ngô và cây lúa nương được đồng bào coi là cây lương thực thay thế khi
mùa lúa bị thất thu. Còn khi bình thường ngô được sử dụng chủ yếu để làm thức ăn
chăn nuôi lợn, gà, vịt... Giống ngô được đồng bào sử dụng là ngô nếp và ngô tẻ,
giống ngô địa phương có ưu điểm ít bị mọt ăn nhưng thường thì năng suất thấp và
thời gian sinh trưởng dài ngày.
Cây công nghiệp được đồng bào trồng rất phổ biến trong từng gia đình và
trồng nhiều loại như: cây bông, cây chàm, cây thuốc lá, cây chè, cây hồi, cây mía,
cây trẩu, cây trám đen... Việc trồng cây công nghiệp ngoài việc phục vụ nhu cầu tự
túc của gia đình còn có loại trồng tăng thêm thu nhập cho gia đình như cây trẩu, cây
thuốc là, cây hồi...
Chăn nuôi là một bộ phận trong hoạt động kinh tế của các dân tộc thiểu số
phía Bắc. Đông bào nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản. Đàn gia súc của đồng bào gồm
có trâu, bò, dê, lợn, chó, mèo... Trâu bò được nuôi nhiều hơn các con vật khác để
làm sức kéo trong sản xuất nông nghiệp và các dịch vụ khác. Mỗi gia đình thường
nuôi từ 2- 5 con trâu hoặc bò. Phương thức nuôi chủ yếu là chăn, thả ở rừng, sáng
thả, tối lùa trâu, bò về chuồng. Chuồng trâu, bò được làm dưới sàn nhà hoặc trong
khuôn viên nhà ở.
Ngoài ra ở một số nơi đồng bào dân tộc thiểu số phía Bắc còn nuôi ong lấy
mật, nuôi tằm lấy tơ dệt vải. nuôi cá ở ao hồ, ruộng lúa. Nuôi cá ở ruộng thường
85
được thực hiện sau khi cấy lúa xong đến khi gặt. Lợi dụng ruộng lúa lúc nào cũng
có nước, đồng bào tranh thủ thả cá xuống ruộng lúa, họ nuôi cá trong điều kiện tận
dụng được diện tích nước mặt, đồng thời khi con cá kiếm ăn, cá sục bùn cho lúa và
làm hạn chế cỏ dại mọc.
Ở thời kỳ tiền công nghiệp, các ngành nghề thủ công đóng vai trò quan trọng
trong cuộc sống, bởi vì nó đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của cuộc sống. Các nghề thủ
công của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc bao gồm: Nghề dệt, nghề rèn,
nghề đan lát... Nghề dệt là nghề phổ biến của tất cả các dân tộc vùng Đông Bắc. Đồng
bào dệt vải để làm quần, áo, khăn, mũ, thắt lưng, chăn màn, địu con, túi đựng đồ...
Nghề mộc mang tính phổ biến là nghề làm nhà với kỹ thuật khá hoàn hảo.
Nhiều ngôi nhà tồn tại hàng trăm năm, sống trong ngôi nhà 3 - 4 đời người mà vẫn
được coi là tốt, vững chắc, không bị xiêu vẹo. Ngoài ta nghề mộc còn làm bàn, ghế,
giường tủ... phục vụ cho nhu cầu gia đình; làm thùng chứa nước, đóng thùng để
nhuộm vải...
Nghề đan lát là nghề phát triển trong mọi gia đình. Sản phẩm đan lát dùng để
phơi và chứa thóc, ngô, đậu...; dùng làm lồng gà, vịt, rọ lợn...; đan sọt, thồ... làm
dụng cụ chứa các đồ vật để vận chuyển. Tuy nhiên, trong nghề đan lát có đan nghệ
thuật. Đó là đồ dùng để chứa các đồ lễ vật dẫn cưới.
Nghề làm ngói là nghề tương đối phổ biến trong các bản làng.
Nghề rèn tuy không mang tính phổ biến ở các làng miền núi phía Bắc nhưng
nó mang tính điển hình về chất lượng. Điển hình như ở huyện Quảng Uyên, tỉnh
Cao Bằng. Đồng bào rèn các loại nông cụ sản xuất thông thường, do chất lượng tốt
nên đã trở thành hàng hóa được bán nhiều vùng khác nhau trong tỉnh Cao Bằng và
các tỉnh lân cận.
Ngoài ra còn một số nghề khác như hái lượm, săn bắn và trao đổi hàng hóa.
Kinh tế trao đổi và mua bán xuất hiện khá sớm ở phía Bắc. Các sản phẩm được trao
đổi, mua bán là hoa hồi, dầu trẩu, thuốc lá. Đặc biệt buôn bán hoa hồi và dầu trẩu
với nước láng giềng. Ở vùng Đông Bắc có nhiều chợ được hình thành từ rất lâu đời
như chợ Kỳ Lừa, chợ Đồng Đăng, tỉnh Lạng Sơn; chợ Móng Cái, chợ Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh...
86
Các chợ vùng biên vùng Đông Bắc rất có ý nghĩa trong việc thúc đẩy phát
triển kinh tế hàng hóa, là cơ sở tiền đề cho việc mở rộng quan hệ kinh tế, văn hóa
với nước ngoài. Ngoài ra vùng Đông Bắc còn hình thành rất nhiều chợ phiên trong
lịch sử. Chợ phiên không chỉ là nơi trao đổi, mua, bán hàng hóa mà còn mang tính
mở rộng quan hệ giao lưu giữa các dân tộc trong khu vực.
3.1.2.2. Điều kiện xã hội
Đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam có trên 20 dân tộc sinh sống, trong đó 63% là đồng bào dân tộc thiểu số. Dân
tộc Thái (với các ngành Đen, Trắng, Đỏ và một số nhóm Thái khác), tộc người đa
số trong vùng, làm ruộng nước trong các thung lũng, các vùng lòng chảo. Người
Mường và một bộ phận người Dao cũng thế. Nhưng ngay những tộc người này cũng
phải làm thêm nương rẫy thì mới đủ sống. Người Khơmú, Laha, Kháng, Mảng,
Xinhmun... làm nương theo phương pháp thô sơ: phát rừng, đốt lấy tro, chọc lỗ tra
hạt. Còn người Mông thường ở núi cao, với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa;
Người Dao với các ngành Quấn chẹt, Nga Hoàng, người Dao đỏ. Dân tộc Mường,
dân tộc Tày cũng chiếm tỷ lệ tương đối. Ngoài ra, còn có một bộ phận người Kinh.
Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có lợi thế là Vùng có nguồn tài nguyên
phong phú, có tiềm năng nhất nước ta về đất đai, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản
với các mỏ có giá trị như apatit, sắt, đá vôi, đất hiếm, đa kim, đa khoáng... và thuỷ
điện – đây là lợi thế để phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng
sản, thuỷ điện, sản xuất giấy, sản xuất xi măng, chế biến gỗ.
Cơ cấu dân số cũng đã phần nào phản ánh sự bất cập về nguồn nhân lực.
Trong vùng thiếu trầm trọng lao động qua đào tạo; chất lượng lao động giản đơn
cũng thấp hơn các vùng khác trong cả nước.
3.2. Thực trạng nghèo đói các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
3.2.1. Đặc điểm nghèo đói và các nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo bền vững
tại các tỉnh miền núi phía Bắc
3.2.1.1. Đặc điểm nghèo đói tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam phần lớn là nơi tập trung sinh sống của
đồng bào các DTTS (Chiếm trên 80% dân số toàn vùng). Nếu đưa các nhóm DTTS
87
để so sánh với dân tộc đa số là dân tộc Kinh, thì mức độ nghèo đói của nhóm DTTS
thường có tỷ lệ cao hơn từ 50% - 250%[15]. Tức là cứ 39% người Kinh nghèo thì các
DTTS người nghèo sẽ là 58% với người Tày, 89% với người Dao và gần 100% với
người Mông. Mức chi tiêu của các hộ nghèo DTTS cũng chỉ bằng 60% mức chi tiêu
của hộ nghèo người Kinh[15]. Từ trước đến nay mức độ đói nghèo diễn ra trầm trọng
nhất vẫn là ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Trải qua gần 30 năm đổi mới, diện mạo
các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta đã có nhiều chuyển biến quan trọng, thu nhập
bình quân đầu người đã có bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, các tỉnh miền núi
phía Bắc này vẫn là một trong những khu vực nghèo nhất cả nước. Cùng với quá
trình đổi mới của đất nước, tình hình kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc
đã có bước những chuyển biến, đời sống nhân dân được cải thiện, công tác giảm
nghèo đã đạt được những thành tựu đáng kể.
Phân loại hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta được thể hiện qua
bảng 3.1 sau:
88
Bảng 3.1 Tổng hợp phân loại hộ nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam từ năm 2016 – 2018
Hà Giang
Lạng Sơn
Phú Thọ
Sơn La
Lai Châu
Hòa Bình
Tỉnh/thành phố
Năm
2016
2017
2018
2016
2017
2018
2016
2017
2018
2016
2017
2018
2016
2017
2018
2016
2017
2018
67.297 60.428 56.083
42.49 36.537 30.583
41.05 35.247 28.667 87.146
81.26 71.798 32.259 28.257 24.195 44.112 38.293 31.792
66.76 60.007 55.727 39.961 34.391 27.582 13.625 11.458
9.177 79.502 78.897 70.124 31.268 27.912 23.955 41.524 35.595 29.376
62.602 57.826 50.033 40.743 34.853 29.442 35.609 32.382 27.074 78.865 78.645 69.823
30.1 26.849 23.623 36.423 35.155 30.134
Tổng số hộ nghèo Hộ nghèo dân tộc thiểu số Hộ nghèo về thu nhập
4.695
2.602
6.05
1.749
1.684
1.141
5.334
2.865
1.593
8.281
2.615
1.975
2.159
1.408
572
7.689
3.138
1.658
Hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
3.039
2.661
2.406
1.399
1.171
969
1.632
1.393
1.136
1.695
1.41
765
1.245
1.034
886
879
742
639
64.258 57.767 53.677 41.093 35.366 29.614 39.418 33.854 27.531 85.451
79.85 71.033 31.014 27.223 23.309 43.233 37.551 31.153
6.217
5.317
4.309
3.781
1.39
2.018
5.214
4.46
4.927
5.367
5.543
4.864
2.644
2.209
1.907
2.733
3.428
3.066
285
198
80
83
0
0
1.374
8.109
984
930
674
585
110
97
69
589
490
285
Hộ nghèo khu vực thành thị Hộ nghèo khu vực nông thôn Hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội Hộ nghèo thuộc chính sách ưu đãi người có công
[Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]
89
Đặc thù nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là nghèo đói của
đồng bào DTTS với lối sống du canh du cư, phong tục tập quán đa dạng của đa dân
tộc. Trình độ sản xuất lạc hậu chủ yếu là tự cung tự cấp: tập quán, lao động sản xuất
của đồng bào chậm được thay đổi, sản xuất thuần nông tự sản, tự tiêu là phổ biến,
chậm thích ứng với cơ chế của nền KTTT, chưa tiếp cận được với những tiến bộ
mới của nền khoa học kỹ thuật hiện đại. Trình độ dân trí thấp, tập quán sản xuất,
canh tác lạc hậu, dân cư phân tán, tự do phá rừng làm nương rẫy. Các đối tượng
được thụ hưởng chính sách hỗ trợ còn nặng tính trông chờ, ỷ lại, không chủ động để
cố gắng vươn lên thoát nghèo. Việc chuyển đổi tập quán canh tác, ứng dụng các tiến
bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất rất hạn chế. Tâm lý chung của đồng bào DTTS
quen dựa vào tự nhiên, an phận thủ thường, dễ thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu. Một
phần trong số họ là những người neo đơn, bệnh tật, già nua, độc thân. Nếu không có
sự trợ giúp tích cực của cộng đồng, họ sẽ bị tụt hậu mãi trong khi nền kinh tế đang
không ngừng tăng trưởng.
Theo kết quả của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội năm đến năm 2017,
cả nước có 1.986.697 hộ nghèo (chiếm 8,23% tỷ lệ so với tổng số hộ dân cư trên
toàn quốc) và có 1.306.928 hộ cận nghèo (chiếm 5,41%;) theo chuẩn nghèo tiếp cận
đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020.
Như vậy, tổng số hộ nghèo trên địa bàn 64 huyện nghèo (62 huyện theo Nghị
quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27/12/2008 của Chính phủ và 02 huyện nghèo theo
Quyết định số 1791/QĐ-TTg ngày 01/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ) là
338.428 hộ (chiếm tỷ lệ 44,93%); tổng số hộ cận nghèo là 113.455 hộ (chiếm tỷ lệ
15,06%). Tổng số hộ nghèo trên địa bàn 30 huyện nghèo theo các Quyết định số
615/QĐ-TTg ngày 25/4/2011 và Quyết định số 293/QĐ-TTg ngày 05/02/2013 của
Thủ tướng Chính phủ là 151.371 hộ (chiếm tỷ lệ 35,02%); tổng số hộ cận nghèo là
52.946 hộ (chiếm tỷ lệ 12,25%).
Kết quả điều tra cho thấy số hộ nghèo miền núi Tây Bắc có tỷ lệ hộ nghèo
cao nhất với 31,24 %, tiếp theo là miền núi Đông Bắc (17,72%), khu vực Tây
Nguyên (15,27%), Đông Nam Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước là 1,05% và
Đồng bằng Sông Hồng chỉ có 3, 23%.
90
Để phân tích tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc, luận án đã
tiến hành khảo sát về đặc điểm của người nghèo ở các tỉnh này thông qua phiếu hỏi
130 cán bộ quản lý và cán bộ làm công tác giảm nghèo ở các cấp từ Trung ương đến
địa phương thông qua các hội nghị, hội thảo liên quan đến Giảm nghèo bền vững
của Hội đồng dân tộc và Ủy ban Về Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng
điều phối CTMTQG-GN và cán bộ.
Các ý kiến đánh giá đặc điểm chủ yếu của người nghèo các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam từ 130 cán bộ gồm các đại biểu Quốc hội là thành viên của Ủy
ban Về Các vấn đề xã hội và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội; các cán bộ, chuyên
viên làm công tác giảm nghèo ở Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và đầu tư; cán bộ và chuyên viên Văn
phòng Quốc hội (Vụ Các vấn đề xã hội, Vụ Dân tộc); lãnh đạo, cán bộ của 4 tỉnh, 9
huyện, 27 xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam thể hiện như sau:
Bảng 3.2. Đặc điểm hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam Đơn vị: tỷ lệ %
Trong đó TT Nội dung Đúng Tổng số ý kiến trả lời Không đúng 1 Người nghèo thường là người dân tộc thiểu số 130 96,8% 3,2%
2 130 97,7% 2,3% Người nghèo thường sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa
94,4% 5,6% 39,3% 60,7% 95,3% 4,7% 79,3% 20,7%
8 130 39,0% 61,0%
130 9 87,4% 12,6%
130 10 89,5% 10,5%
130 11 94,5% 5,5%
130 12 96,8% 3,2% 4 Hộ người nghèo thường có nhiều người ăn theo 130 5 Chủ hộ nghèo thường là người bị tàn tật 130 130 6 Chủ hộ nghèo thường làm nông nghiệp 7 Hộ nghèo thường có ít diện tích đất đai sản xuất 130 Tỷ lệ chủ hộ là nữ nghèo nhiều hơn tỷ lệ chủ hộ nam giới Chủ hộ nghèo ít được đi học hơn chủ hộ không nghèo Các bản không có đường ô tô đến thì nhiều người nghèo hơn Con cháu người nghèo ít được đi học hơn người không nghèo Người nghèo thường có tư tưởng phó mặc số phận, trông chờ và ỷ lại hơn người không nghèo [Nguồn: tổng hợp từ kết quả điều tra khảo sát của tác giả]
91
Người nghèo thường có tư tưởng phó mặc số phận, trông chờ và ỷ lại hơn người không nghèo
Con cháu người nghèo ít được đi học hơn người không nghèo
Các bản không có đường ô tô đến thì nhiều người nghèo hơn
Chủ hộ nghèo ít được đi học hơn chủ hộ không nghèo
Tỷ lệ chủ hộ là nữ nghèo nhiều hơn tỷ lệ chủ hộ nam giới
Hộ nghèo thường có ít diện tích đất đai sản xuất
Chủ hộ nghèo thường làm nông nghiệp
Chủ hộ nghèo thường là người bị tàn tật
Hộ người nghèo thường có nhiều người ăn theo
Người nghèo thường sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa
Người nghèo thường là người dân tộc thiểu số
0.00% 20.00% 40.00% 60.00% 80.00% 100.00% 120.00%
Trả lời không đúng
Trả lời đúng
Hình 3.2. Đặc điểm hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
[Nguồn: tổng hợp từ kết quả điều tra khảo sát của tác giả]
Qua bảng số liệu trên ta thấy: 96,8% ý kiến cho rằng người nghèo thường là
người DTTS, 97,7% cho rằng người nghèo thường sống ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, 95,3% ý kiến cho rằng người nghèo thường làm nông nghiệp, 96,8% ý kiến cho
rằng người nghèo thường có tư tưởng phó mặc số phận, trông chờ và ỷ lại hơn
người không nghèo, 94,5% cho rằng con cháu người nghèo ít được đi học hơn
người không nghèo, 87,4% cho rằng chủ hộ nghèo ít được đi học hơn chủ hộ không
nghèo, 89,5% cho rằng các bản không có đường ô tô đến nhiều người nghèo hơn,
79,3% cho rằng người nghèo thường có ít đất đai sản xuất.
92
Người nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta chủ yếu tập trung là người
dân tộc thiểu số, tác giả nhận định các đặc điểm khác nhau giữa đồng bào dân tộc
kinh ở các tỉnh này và đồng bảo DTTS có các đặc điểm sau:
Chênh lệch về chi tiêu và thu nhập giữa nhóm đồng bào dân tộc Kinh và các
nhóm đồng bào dân tộc thiểu số có xu hướng gia tăng: Chênh lệch về chi tiêu giữa
nhóm đồng bào dân tộc Kinh, và đồng bào các dân tộc thiểu số có xu hướng gia
tăng trong giai đoạn từ năm 2004 đến 2018: vào năm 2004, chi tiêu của đồng bào
dân tộc thiểu số bằng 59% mức chi tiêu của nhóm dân tộc Kinh thì đến năm 2018,
tỷ lệ này chỉ còn là khoảng 50%.
Chênh lệch về thu nhập cũng có xu hướng tương tự: vào năm 2004 thu nhập
của nhóm đồng bào dân tộc thiểu số bằng 68% thu nhập của nhóm đồng bào Kinh,
đến năm 2018 tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn khoảng 50%, tức là giảm khoảng 18.
Sự gia tăng chênh lệch về thu nhập chủ yếu là do tốc độ tăng trưởng cao của các
hoạt động phi nông nghiệp và công việc được trả lương (và kết quả là thu nhập đã
tăng hơn gấp đôi) trong các hộ người Kinh, trong khi các hộ dân tộc thiểu số không
có được sự gia tăng như vậy trong các hoạt động này.
Có sự chênh lệch đáng kể về trình độ giáo dục: Sự chênh lệch về trình độ
giáo dục giữa dân tộc Kinh và đồng bào dân tộc thiểu số cũng là đáng kể. Tỷ lệ
những người không có bằng cấp trong nhóm đồng bào các dân tộc thiểu số năm
2016 là 43,8%, cao khoảng gấp đôi so với tỷ lệ này của nhóm người Kinh. Tỷ lệ
những người có trình độ phổ thông trung học trở lên trong nhóm các dân tộc thiểu
số năm 2016 là 7,8%, chỉ bằng một nửa so với nhóm người Kinh.
Chênh lệch về tiếp cận với điện và nước sạch được thu hẹp lại, nhưng chênh
lệch về tiếp cận nhà vệ sinh hợp vệ sinh lại tăng lên: Tuy tiếp cận đến các dịch vụ
xã hội cơ bản như điện, nước sạch, nhà vệ sinh hợp vệ sinh đều có sự cải thiện đáng
kể đối với nhóm Kinh và Hoa, và nhóm đồng bào dân tộc thiểu số, song mức độ cải
thiện không đồng đều. Từ năm 2004 đến năm 2016, khoảng cách giữa hai nhóm dân
liên quan đến việc tiếp cận điện (tăng từ 94,5% lên 98,4% đối với nhóm Kinh-Hoa
và từ 72,5% lên 90% đối với nhóm đồng bào dân tộc thiểu số) và nước sạch (tăng từ
84.6% lên 94,8% đối với nhóm Kinh-Hoa và từ 51,5% lên 70,6%) được thu hẹp,
93
nhưng khoảng cách về tiếp cận nhà vệ sinh hợp vệ sinh lại tăng lên. Tỷ lệ tiếp cận
vệ sinh đã tăng đáng kể đối với người Kinh với mức tăng là 28 điểm phần trăm (từ
46,8% lên 75,1%) trong giai đoạn năm 2004 đến năm 2016 trong khi con số này đối
với đồng bào dân tộc thiểu số chỉ là 17 điểm phần trăm (từ 9,9% lên 27,2%).
Giữa các chiều có mối quan hệ nhất định: Một trong những câu hỏi chính
sách quan trọng liên quan đến phương pháp tiếp cận đa chiều đến nghèo là mối
tương tác giữa các chiều cạnh của nghèo với nhau, tức là nếu giảm được sự thiếu
hụt của chiều này có giúp giảm được thiếu hụt của chiều (các chiều khác) hay
không. Phân tích số liệu cho thấy những người có trình độ học vấn cao hơn (từ
trung học phổ thông trở lên) và ở phân vị chi tiêu cao vào năm 2004 trong nhóm
đồng bào dân tộc thiểu số đã thu hẹp đáng kể khoảng cách về chi tiêu so với những
người có các đặc tính tương tự như họ trong nhóm dân tộc Kinh. Điều này khẳng
định vai trò quan trọng của giáo dục trong việc thu hẹp khoảng cách phát triển đối
với một bộ phận của nhóm người dân tộc thiểu số.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch về mức sống giữa nhóm dân tộc
Kinh và nhóm đồng bào dân tộc thiểu số:
Sự xa xôi cách biệt về địa lý là rào cản lớn nhất đối với sự cải thiện phúc lợi
của đồng bào dân tộc thiểu số để giúp họ bắt kịp với nhóm người Kinh. Mức độ ảnh
hưởng của sự xa xôi cách trở về địa lý đối với sự gia tăng chêch lệch về chi tiêu đã
tăng từ 3,2% năm 2004 lên gần 16% vào năm 2018.
Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ nghèo và tốc độ giảm nghèo giữa các nhóm
đồng bào dân tộc thiểu số: đến năm 2018 tỷ lệ nghèo chung của tất cả các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam đều giảm. Tuy nhiên, tốc độ giảm nghèo chung cũng như giảm
theo các chiều là rất khác nhau giữa các nhóm dân tộc thiểu số. Cụ thể, trong khi
một số dân tộc như Mường, Tày, Thái có tỷ lệ nghèo tương đối thấp và tỷ lệ giảm
nghèo nhanh thì một số dân tộc khác như H’mông, Gia Rai, Xơ Đăng lại có tỷ lệ
nghèo cao và tốc độ giảm nghèo chậm.
Có khá nhiều yếu tố tác động cũng như nguyên nhân lý giải cho sự khác biệt
như vậy bao gồm các yếu tố kinh tế cũng như các yếu tố liên quan tới quan điểm, tập
tục của mỗi dân tộc. Đặc điểm chung được rút ra là nhóm dân tộc thiểu số có tỷ lệ
94
nghèo cao và giảm nghèo chậm tập trung ở khu vực Tây Bắc; có khoảng cách từ nhà
đến chợ, trường học và trạm y tế xa; có tỷ lệ hôn nhân cận huyết cao; tỷ lệ tảo hôn cao;
số năm đi học bình quân thấp; tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp; việc chăm sóc sức khỏe
sinh sản của phụ nữ thấp. Bên cạnh đó, cơ cấu thu nhập của hộ gia đình cũng là yếu tố
quan trọng giải thích cho sự khác biệt trong tỷ lệ nghèo và tốc độ giảm nghèo đa chiều
giữa các nhóm dân tộc. Những dân tộc có tỷ lệ thu nhập từ trồng trọt và chăn nuôi cao
như dân tộc H’Mông thì tỷ lệ nghèo cao và tốc độ giảm nghèo chậm hơn. Ngược lại,
những dân tộc có tỷ lệ thu nhập chủ yếu từ tiền lương hoặc hoạt động phi nông nghiệp
cao như Tày, Thái thì tỷ lệ nghèo thấp đồng thời có tốc độ giảm nghèo nhanh hơn so
với dân tộc Kinh nói riêng và tỷ lệ chung của cả nước.
Tóm lại, người nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có một số đặc
điểm nổi bật sau đây:
Thứ nhất, các hộ người nghèo phần lớn là người DTTS, sinh sống ở vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, có nhiều người ăn theo, dân trí thấp và thường có tư tưởng
phó mặc số phận, trông chờ, ỷ lại hơn so với người không nghèo.
Thứ hai, các hộ nghèo chủ yếu là những người làm việc trong lĩnh vực sản
xuất nông nghiệp và thường có ít đất đai.
Thứ ba, các hộ nghèo thường tập trung ở những thôn, bản không có đường ô
tô đến bản, người nghèo và con cháu và ít được đi học.
3.2.1.2. Nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc
Có rất nhiều nhân tố có thể ảnh hưởng tới giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
này, tuy nhiên tác giả có thể chia thành hai nhóm các nhân tố như sau:
Nhóm các nhân tố khách quan:
Dưới tác động của cơ chế thị trường, đói nghèo là kết quả tổng hợp của nhiều
nhân tố. Ở nước ta, các điều tra của nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội và cá nhân đã cố gắng lý giải các nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo. Tuy cách
tiếp cận khác nhau, nhưng thường đều khẳng định các nhân tố cơ bản sau:
- Về các nhân tố phi kinh tế như văn hóa, dân tộc và tôn giáo: người nghèo
miền núi phía Bắc Việt Nam đa phần là người DTTS thuộc nhiều dân tộc khác
nhau. Cả nước có 54 dân tộc thì các tỉnh miền núi phía Bắc đã có đến hơn 30 dân
95
tộc cùng sinh sống. Mỗi dân tộc có bản sắc văn hóa, tập quán, lối sống, phương
thức sản xuất và tôn giáo khác nhau. Do đó giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền
núi phía Bắc chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi nhân tố văn hóa, dân tộc và tôn giáo.
Do thiếu hiểu biết lại sống xa trung tâm văn hóa chính trị, thiếu thông tin liên lạc,
thậm chí có những thôn, bản không có cả đường ô tô đi vào… nên đồng bào dễ bị
kẻ xấu lợi dụng việc truyền đạo để lún lút truyền bá tư tưởng phản động chống
chính quyền hoặc xuyên tạc chủ trương đường lối đúng đắn của đảng và nhà nước.
Vô tình vì nhẹ dạ, cả tin có nhóm đồng bào đã gây mất trật tự, bất ổn định chính trị,
xã hội ở địa phương. Cụ thể như ý đồ thành lập “Vương quốc Mông trị” của một số
kẻ xấu vừa qua ở bản Huổi Khon, huyện Mường Nhé (Điện Biên) đã làm ảnh hưởng
xấu đến tư tưởng của đồng bào dân tộc Mông, khiến một số hộ bỏ nhà bỏ bản đi
theo kẻ xấu hoặc một số không yên tâm làm ăn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả giảm nghèo bền vững ở miền núi phía Bắc Việt Nam.
- Về nhân tố vốn và tài nguyên: vốn đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam rất hạn hẹp, nguồn thu của địa phương quá thấp không đảm bảo trang trải
chi tiêu nên gần như phụ thuộc hoàn toàn vào ngân sách do Trung ương cấp. đặc
biệt, nguồn kinh phí thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững phụ
thuộc hoàn toàn vào ngân sách Trung ương hỗ trợ, nhưng nguồn kinh phí do Trung
ương hỗ trợ mới chỉ đạt được tỉ lệ rất khiêm tốn so với nhu cầu thực tế trong khi
vốn cho vay từ các ngân hàng chính sách cũng chỉ đáp ứng được 30-40% nhu cầu
nên cũng khó khăn cho công tác giảm nghèo bền vững. Bù lại ở miền núi phía Bắc
Việt Nam hiện đang có một tài nguyên thiên nhiên phong phú chưa được khai thác,
đất đai chưa sử dụng còn nhiều đây là những nhân tố ảnh hưởng tới giảm nghèo bền
vững ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Thứ hai, về nguồn lực tài nguyên thiên nhiên
và CSHT: Ở các tỉnh miền núi phía Bắc địa hình núi cao, xa xôi, hiểm trở, dân cư
sinh sống phân tán. Nhưng hiện nay vẫn còn nhiều xã chưa có đường ô tô đến trung
tâm xã hoặc chỉ đi lại được trong mùa khô. Tỷ lệ đường giao thông nông thôn nhựa
hóa, bê tông hóa mới đáp ứng được một phần yêu cầu của chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và giảm nghèo; tỷ lệ đường đi lại được quanh năm mới chỉ đạt khoảng
50% và tỷ lệ đường đất còn nhiều nên việc đi lại của nhân dân trong mùa mưa gặp
96
nhiều khó khăn. Tiêu chuẩn kỹ thuật của đường còn nhiều yếu điểm, tải trọng cầu
cống chưa đáp ứng được tải trọng của phương tiện lớn. Mặt khác, do thời tiết phức
tạp, mưa lũ quét thường gây sạt lở núi làm hư hỏng các tuyến giao thông không ít.
Có những địa phương vào mùa mưa liên tục bị chia cắt do ngập nước, hỏng đường.
Bên cạnh công tác quản lý, khai thác, duy tu bảo dưỡng công trình sau đầu tư chưa
được quan tâm chú trọng đúng mức nên nhiều tuyến đường xuống cấp nhanh.
Ngoài ra, một số địa phương do chạy theo phong trào, thành tích nên đã coi
nhẹ khâu quản lý kỹ thuật dẫn đến một số công trình do dân tự làm không đảm bảo
kỹ thuật gây mất an toàn, lãng phí và tiêu cực, chất lượng kém, nhanh xuống cấp...
Các CSHT khác như thủy lợi, y tế, giáo dục, văn hóa... chưa được đầu tư đồng bộ
còn đầu tư dàn trải, cắt đoạn, chưa thực sự là đầu tư phát triển nên chưa đảm bảo
tính bền vững; công trình hạ tầng cấp thôn bản thường quy mô nhỏ chưa chuẩn hóa
và kiên cố hóa nên chất lượng thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao.
Tiềm năng tài nguyên đất và rừng tuy còn lớn nhưng chưa được quản lý bảo
vệ và khai thác để phục vụ sản xuất. Các ngành khai khoáng chưa phát triển nhiều.
Ngành lâm nghiệp cũng chưa đủ sức để quản lý, bảo vệ, khai thác và chế biến sản
phẩm từ rừng tại địa phương để thu hút LLLĐ tại chỗ. Nói chung NSNN còn hạn
hẹp trong khi các Bộ, nghành cũng chưa có đủ tiềm lực hoặc chưa thực sự quan tâm
đầu tư phát triển đối với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam do mục tiêu lợi nhuận
cao hơn mục tiêu xã hội. Bởi vì phần đa các ngành kinh tế của Việt Nam hiện nay
đang hoạt động với mục đích vì hiệu quả kinh tế nhiều hơn là hiệu quả xã hội.
Trong khi nhà nước chưa có cơ chế, chính sách điều tiết chia sẻ trách nhiệm giảm
nghèo bền vững đối với các ngành này. Vì thế tài nguyên thiên nhiên của các tỉnh
miền núi phía Bắc chưa được khai thác xứng với tiềm năng vốn có để phục vụ phát
triển KT-XH của đất nước.
Ngân sách hỗ trợ cho chương trình giảm nghèo thời gian qua chủ yếu do
NSNN đảm bảo. Huy động nguồn lực từ ngân sách địa phương hầu như không có,
do các tỉnh miền núi phía Bắc nguồn thu rất ít, chi ngân sách hàng năm của các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam vẫn còn do trung ương cấp là chính. Nguồn huy động
từ cộng đồng, từ các doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế cho giảm nghèo đạt tỉ lệ
97
rất thấp trong khi NSNN rất hạn hẹp. Việc lồng ghép nguồn lực giảm nghèo với các
chương trình, DA khác còn nhiều bất cập do mỗi chương trình, DA đều có mục tiêu,
cơ chế quản lý, cơ chế tài chính cũng như cơ quan chủ trì riêng. Chỉ có một vài
chương trình kinh tế lớn kết hợp được khá tốt cho giảm nghèo là Thủy điện Sơn La,
định canh định cư.
Do thiếu vốn nên việc bố trí vốn cho các nhiệm vụ của Chương trình giảm
nghèo chưa được triển khai đồng bộ, như việc thực hiện chính sách hỗ trợ sản xuất một
số hộ đăng ký được hỗ trợ máy móc thiết bị như máy cày, máy bừa, máy xay xát, máy
phát cỏ, máy bơm... để phục vụ sản xuất và chế biến bảo quản nông sản sau thu hoạch
chưa được triển khai thực hiện; một số gia đình có nguyện vọng được hỗ trợ để chăn
nuôi một số vật nuôi có giá trị kinh tế cao (ong, nhím, ba ba...) nhưng chưa được hỗ trợ
hoặc mức hỗ trợ thấp, còn manh mún... Cũng do nguồn vốn hạn hẹp nên nguồn vốn hỗ
trợ làm nhà hoặc mức hỗ trợ vay vốn ưu đãi thấp không đủ để các hộ nghèo làm nhà ở
đảm bảo yêu cầu do giá thành vật liệu xây dựng tăng khá cao.
Công cuộc giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc các giai đoạn vừa qua
đạt được những thành tựu đáng kể thể hiện sự nỗ lực rất lớn của các cấp chính
quyền và sự cố gắng hợp tác rất nhiều của người dân. Nhưng do hạn hẹp về vốn cho
giảm nghèo bền vững nên vẫn còn tình trạng:
Một số địa phương chưa tổ chức triển khai thực hiện chương trình hỗ trợ hộ
nghèo về xoá nhà ở tạm theo nhu cầu cần xoá nhà tạm cho các hộ nghèo (như huyện
Quỳnh Nhai, Phù Yên của Sơn La) [34].
Đầu tư cho chương trình về CSHT như các công trình đường giao thông
nông thôn, công trình thủy lợi, trường, lớp học, trạm y tế... còn dàn trải, cắt đoạn, cơ
chế quản lý đầu tư về xây dựng cơ bản thay đổi nhiều và không kịp thời dẫn đến
quá trình hoàn tất thủ tục đầu tư kéo dài làm chậm tiến độ.
Chế độ trợ giúp cho người nghèo về tiếp cận với các dịch vụ xã hội như: y tế,
giáo dục... còn chậm do người nghèo ở rải rác vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn. Chế độ ưu đãi giáo dục cho con em các dân tộc trong các trường dân lập và
các trường công lập còn chậm. Các chế độ của Nhà nước hỗ trợ người nghèo như
cho vay vốn phát triển sản xuất thời gian còn ngắn, số lượng còn hạn chế.
98
Mô hình sản xuất đa dạng, nhiều mô hình chưa có định mức kinh tế kỹ thuật
dẫn đến việc lập dự toán mô hình gặp nhiều khó khăn, chưa có cơ chế, giải pháp để
xử lý đầu ra cho sản phẩm sản xuất vì vậy nhiều hộ dân chưa yên tâm về đầu ra cho
sản phẩm từ đó ảnh hưởng tới thu nhập của nông dân.
Một số mục tiêu giảm nghèo chưa đạt được hoặc chưa đáp ứng yêu cầu về
tính bền vững: như tỷ lệ hộ cận nghèo khá lớn, mức thu nhập bình quân đầu người
còn thấp, tỉ lệ tăng dân số còn cao, chuyển dịch cơ cấu sản xuất chậm, tỷ lệ nông
nhàn còn nhiều.v.v...
Sự huy động vốn và hỗ trợ việc làm cho người nghèo từ cộng đồng và các
doanh nghiệp còn quá ít. Quá trình triển khai thực hiện chính sách khoán khoanh
nuôi, bảo vệ rừng không có kinh phí hỗ trợ quản lý DA và chi phí thiết kế, lập hồ sơ
cho khoán, bảo vệ rừng đã ảnh hưởng đến tiến độ, quy trình và tổ chức thực hiện
chính sách này.
Về nhân tố LLLĐ và khoa học công nghệ: Tiềm năng lao động ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam rất lớn song lại đang tập trung vào số các hộ nghèo:
Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có đến 52,43% dân số trong vùng là người
nghèo trong đó chủ yếu là đồng bào DTTS. LLLĐ này đại đa số là người có trình
độ học vấn, trình độ tư duy, kỹ năng lao động sản xuất, trình độ chuyên môn… đều
rất kém. Từ đó mà việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh của
đồng bào là vô cùng hạn chế nên khó có thể nâng cao NSLĐ, khó đạt được sự tăng
trưởng cao, điều đó gây cản trở không nhỏ trong quá trình phát triển KT-XH của
miền núi phía Bắc Việt Nam.
Nhóm nhân tố chủ quan của người nghèo
Qua điều tra, nghiên cứu cho thấy, sự tác động của kinh tế thị trường làm cho
một bộ phận người lao động phải sống nghèo khổ do không thích nghi được với cơ
chế mới. Sự phân hoá giàu - nghèo này bắt nguồn từ sự phân hoá về các nguồn lực
không đồng đều giữa mọi người, khi những khác biệt này được đặt trong môi
trường có kích thích và cạnh tranh về lợi ích. Các nhân tố chủ quan xuất phát từ bản
thân người nghèo ảnh hưởng đến đói nghèo thường là do các hộ nghèo thiếu hoặc
không có các yếu tố cần thiết cho phát triển sản xuất kinh doanh như: thiếu vốn,
99
thiếu TLSX (đất đai, công cụ lao động, trâu bò cày kéo...), thiếu sức lao động, trình
độ học vấn thấp nên thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, việc làm thiếu và
không ổn định, đông con, mắc các tệ nạn xã hội, lười lao động ...
Nhận thức của người dân và các cấp chính quyền trong giảm nghèo bền
vững. Ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nghèo đói tập trung đại đa số ở nhóm đồng bào
DTTS vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Mỗi dân tộc có văn hóa, thói quen, nếp
nghĩ, tập quán sinh hoạt và cách sản xuất, canh tác khác nhau. đây là bộ phận dân
cư có trình độ dân trí thấp, khả năng tiếp thu hạn chế. Vì vậy, để thay đổi những
thói quen lâu đời của đồng bào là một vấn đề lớn, đòi hỏi phải có thời gian và một
thực tiễn phát triển thật khả quan mới có thể thu hút sự quan tâm của đồng bào. đặc
biệt là đồng bào dân tộc Mông, với lối sống du canh du cư, quen ở trên các triền
núi, đi lại rất khó khăn. Hầu hết các bản người Mông trước khi thực hiện công cuộc
giảm nghèo bền vững đều không có đường ô tô đi vào trung tâm thôn, bản. Tư duy
sống và sản xuất của đồng bào là an phận thủ thường, tự cấp, tự túc. Họ đã quen với
hình thức sản xuất tự cung, tự cấp và dựa chủ yếu vào điều kiện tự nhiên, khai thác
hết tài nguyên (đất và rừng) ở khu vực này sẽ chuyển nhà đến khu vực khác khai
thác tài nguyên tiếp để mưu sinh. Trào lưu di dân tự do của đồng bào đã trở thành
thói quen lâu đời, khó bỏ. Việc tuyên truyền, vận động thay đổi nếp nghĩ, cách làm
của đồng bào là rất khó khăn, trong khi nguồn lực của cán bộ làm công tác Giảm
nghèo bền vững lại hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng, điều kiện để đi đến được
với đồng bào cũng hết sức khó khăn.
Thành quả của giảm nghèo bền vững đã ảnh hưởng sâu sắc đến hầu hết các hộ
nghèo DTTS, giúp họ nhận thức được những tác động tích cực của việc giảm nghèo
bền vững đối với cuộc sống của họ đồng thời cũng nhìn nhận được những bất cập, hạn
chế của nghèo đói đối với bản thân, gia đình và con cái họ. Vì thế đa số những hộ
nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc tham gia các chương trình giảm nghèo bền vững
đều muốn vươn lên thoát nghèo. Song cũng không ít hộ vẫn còn tư tưởng an phận, mặc
cảm, tự ty, ỷ lại sự trợ giúp của xã hội mà chưa chủ động vươn lên thoát nghèo. Cũng
do trình độ thấp nên nhiều yêu cầu chưa đáp ứng được. Có những hộ mặc dù đã tích
cực thực hiện một số mô hình sản xuất nhưng chưa đạt được hiệu quả như mong muốn;
100
việc tiếp cận và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân còn hạn chế; chưa
thực hiện được yêu cầu “xã có công trình, dân có việc làm” để người nghèo có thể
tham gia lao động xây dựng công trình tại địa bàn tăng thêm thu nhập; số đối tượng đủ
điều kiện để xuất khẩu lao động còn quá ít...
Mặt khác trình độ, năng lực tổ chức thực hiện của các cấp, các ngành nhất là
cấp xã còn hạn chế, lúng túng, chưa mạnh dạn đột phá trong việc vận dụng cơ chế,
chính sách để triển khai thực hiện nhằm rút ngắn thời gian đưa các chính sách hỗ trợ
Giảm nghèo bền vững đến người dân. Việc rà soát, lập và điều chỉnh quy hoạch sản
xuất, giao đất, giao rừng cho nhân dân còn chậm trễ dẫn đến việc triển khai các
chính sách hỗ trợ chưa đạt được yêu cầu đề ra. Việc hoàn tất các thủ tục DA đầu tư
xây dựng CSHT thiết yếu tiến độ thực hiện chậm, nên chậm triển khai hoặc đưa vào
khai thác sử dụng các công trình DA đầu tư. đặc biệt một số địa phương do bệnh
thành tích, hoặc một số cán bộ cấp thôn, xã vì tư tưởng cá nhân nên đã phản ánh
chưa chính xác hiện trạng nghèo đói của địa phương. Thực tế vẫn còn xảy ra tình
trạng một số hộ nghèo chưa tiếp cận được với các chương trình giảm nghèo bền
vững, trong khi một số hộ không phải diện nghèo lại được hưởng lợi từ chương
trình. Hoặc còn để xảy ra các hiện tượng tiêu cực trong giảm nghèo bền vững: tiêu
cực trong cấp phát tiền hỗ trợ cho học sinh nghèo; sử dụng kinh phí sai đối tượng.
Việc truyền thông, tuyên truyền một số địa phương chưa thực sự quan tâm chú
trọng. Nguyên tắc dân chủ, công khai có nơi còn hình thức, sự tham gia của người
dân chưa tích cực.
Thực hiện giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc các giai đoạn
vừa qua đã nâng cao năng lực mọi mặt đối với bộ phận dân cư nghèo - một NLLĐ
tiềm năng dồi dào của quá trình phát triển KT-XH: Từ việc giáo dục thay đổi tư
duy, nhận thức đến bãi bỏ hủ tục lạc hậu, ổn đinh chính trị, xã hội giúp người nghèo
hiểu rõ trách nhiệm phấn đấu vì mục tiêu tăng trưởng chung với cộng đồng. Từ việc
đào tạo nâng cao trình độ văn hóa, trình độ tay nghề, kỹ năng sản xuất, chất lượng
đội ngũ lao động cho đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Như vậy, giảm nghèo bền vững đã tác động đến các nhân tố có ảnh hưởng tích cực
101
của quá trình phát triển KT-XH góp phần đảm bảo các điều kiện của tăng trưởng và
phát triển.
3.2.2. Hiện trạng nghèo đói tại các các tỉnh miền núi phía Bắc
Bên cạnh đó, ở các tỉnh này cũng gặp không ít những khó khăn cần được giải
quyết, vẫn còn nhiều người nghèo, thậm chí thiếu ăn giáp hạt; một số gia đình con
cái thất học, ốm đau không có tiền chữa trị, thiếu đất sản xuất, nhà ở không đảm
bảo... Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì tỷ lệ hộ nghèo,
cận nghèo ở khu vực này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
102
Bảng 3.3 Tổng hợp diễn biến hộ nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam từ năm 2016 – 2018
Tỉnh/ thành phố
Cả nước
Hà Giang Lạng Sơn Phú Thọ
Sơn La
Lai Châu Hòa Bình
74.313
48.827
46.574
92.754
36.094
50.959
Số hộ
2.351.463
Năm 2015
43,65
12,04
34,44
Tỷ lệ
25,95
40,40
24,38
9,88
Số hộ thoát nghèo
10.933
11.098
16.512
7.788
6.449
9.331
514.219
Tỷ lệ
6,42
4,14
7,22
4,46
6,13
2,87
2,17
Số hộ tái nghèo
56
42
0
822
10.349
318
31.212
Diễn biến hộ nghèo trong năm 2016
Tỷ lệ
0,03
0,02
0,00
0,39
3,79
0,08
0,13
Số hộ nghèo phát sinh
3.861
1.409
10.06
2.614
1.662
5.256
153.537
Tỷ lệ
2,22
0,74
3,68
2,82
0,79
1,35
0,64
Số hộ
67.297
42.49
87.146
32.259
44.112
41.05
1.986.697
Năm 2016
Tỷ lệ
38,75
22,37
34,81
20,94
31,91
10,51
8,23
Số hộ thoát nghèo
10.276
7.169
5.839
8.65
15.486
10.17
467.326
Tỷ lệ
5,92
3,78
6,30
4,11
5,67
2,60
1,94
Số hộ tái nghèo
504
47
256
914
8.252
623
24.191
Diễn biến hộ nghèo trong năm 2017
Tỷ lệ
0,29
0,02
0,27
0,43
2,97
0,16
0,10
Số hộ nghèo phát sinh
2.903
1.169
1.913
4.165
8.101
1.581
107.499
Tỷ lệ
1,64
0,61
0,90
1,05
2,91
1,67
0,44
Năm 2017
Tổng số hộ
176.803
191.617
396.035
278.093
94.727
212.769
24.511.255
103
Tỉnh/ thành phố
Cả nước
Hà Giang Lạng Sơn Phú Thọ
Sơn La
Lai Châu Hòa Bình
Số hộ
60.428
36.537
35.247
81.26
28.257
38.293
1.642.489
Tỷ lệ
34,18
19,07
8,90
29,22
29,83
18,00
6,70
Số hộ thoát nghèo
8.307
7.055
9.375
16.067
5.766
8.582
424.169
Tỷ lệ
4,70
3,68
2,37
5,78
6,09
4,03
1,73
Số hộ tái nghèo
487
30
159
1.345
253
629
10.087
Diễn biến hộ nghèo trong năm 2018
Tỷ lệ
0,27
0,02
0,04
0,48
0,26
0,29
0,04
Số hộ nghèo phát sinh
3.475
1.071
2.636
5.26
1.451
1.452
75.594
Tỷ lệ
1,93
0,55
0,65
1,86
1,50
0,67
0,30
Tổng số hộ
179.938
193.147
404.432
282.427
96.851
215.726
24.945.432
Số hộ
Năm 2018
56.083
30.583
28.667
71.798
24.195
31.792
1.304.001
Tỷ lệ
31,17
15,83
7,09
25,42
24,98
14,74
5,23
[Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]
104
Theo kết quả của Bảng 3.3 trên ta thấy, tỷ lệ giảm hộ nghèo ở tỉnh Hà Giang
giảm 4,9% năm 2016, giảm 4,57% năm 2017, giảm 3,01 % năm 2018; ở tỉnh Lạng
Sơn tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,58% năm 2016, giảm 3,30% năm 2017, giảm 3,24%
năm 2018; ở tỉnh Phú Thọ tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,53% năm 2016, giảm 1,61% năm
2017, giảm 1,81% năm 2018; ở tỉnh Sơn La tỷ lệ hộ nghèo ở Sơn La giảm 2,53%
năm 2016, giảm 2,69% năm 2017, giảm 3,8% năm 2018; ở tỉnh Lai Châu tỷ lệ hộ
nghèo giảm 5,59% năm 2016, giảm 4,98% năm 2017, giảm 4,85% vào năm 2018; ở
tỉnh Hoà Bình tỷ lệ hộ nghèo giảm 3,44% năm 2016, giảm 2,94% năm 2017 và
giảm 3,26% vào năm 2018. Ta thấy số hộ nghèo của các tỉnh khu vực Đông Bắc có
tỷ lệ giảm nhanh hơn các tỉnh khu vực Tây Bắc, có thể nói đây là kết quả tích cực
trong công tác giảm nghèo tại các địa phương này.
Bên cạnh hộ nghèo chiếm tỷ lệ lớn so với các địa phương khác thì một số
tỉnh miền núi phía Bắc cũng có tỷ lệ hộ cận nghèo rất cao (từ năm 2016 bắt đầu áp
dụng theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020), như:
năm 2015 số hộ nghèo của Hà Giang là 19371 hộ, năm 2016 là 22324 hộ, năm 2017
là 24572 hộ, năm 2018 là 22873 hộ; tỉnh Lạng Sơn năm 2015 số hộ nghèo là 23885,
năm 2016 là 22891 hộ, năm 2017 là 22801 hộ, năm 2018 là 21267 hộ; số hộ cận
nghèo của tỉnh Phú Thọ năm 2015 là 32878 hộ, năm 2016 là 31377 hộ, năm 2017 là
29510 hộ, năm 2018 là 26134 hộ; tỉnh Sơn La số hộ cận nghèo cũng rất nhiều, năm
2015 số hộ là 25048, năm 2016 là 29812 hộ, năm 2018 là 31219 hộ; tỉnh Lai Châu
năm 2015 có số hộ cận nghèo là 8982, năm 2016 là 11169 hộ, năm 2017 là 11227
hộ, năm 2018 là 10771 hộ; tỉnh Hòa Bình năm 2015 có số hộ cận nghèo là 24586
hộ, năm 2016 có 29017 hộ, năm 2017 là 31657 hộ, năm 2018 là 30512 hộ, cụ thể
được thể hiện qua bảng số liệu sau:
105
Bảng 3.4 Tổng hợp diễn biến hộ cận nghèo ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam từ năm 2016 – 2018
Tỉnh/thành phố
Cả nước
Hà Giang Lạng Sơn Phú Thọ
Sơn La Lai Châu Hòa Bình
19.371
23.885
32.878
25.048
8.982
24.586
Số hộ
1.231.669
Năm 2015
12,69
8,50
9,30
10,05
11,76
Tỷ lệ
11,38
5,20
Số hộ thoát cận nghèo
6.372
12.143
10.54
2.84
5.258
5.829
359.691
3,39
3,14
3,91
3,18
2,52
Tỷ lệ
3,42
1,52
40
520
2.537
0
2.079
Số hộ tái cận nghèo
93
33.751
Diễn biến hộ cận nghèo trong năm 2016
0,02
0,13
0,93
0,00
0,99
0,05
0,14
8.689
5.339
10.122
13.871
5.027
7.613
407.495
5,00
2,81
2,59
5,08
5,42
3,61
Tỷ lệ Số hộ cận nghèo phát sinh Tỷ lệ
1,69
Tổng số hộ
173.656
189.902
390.519
273.108
92.682
210.65
24.149.963
Năm 2016
22.324
22.891
31.377
29.812
11.169
29.017
Số hộ
1.306.928
Tỷ lệ
12,86
12,05
8,03
10,92
12,05
13,77
5,41
Số hộ thoát cận nghèo
5.925
6.031
11.23
10.781
3.8
6.385
406.49
Tỷ lệ
3,41
3,18
2,88
3,95
4,10
3,03
1,68
Số hộ tái cận nghèo
413
481
432
1.688
185
1.768
25.812
Diễn biến hộ cận nghèo trong năm 2017
0,23
0,25
0,11
0,61
0,20
0,83
0,11
7.94
5.585
9.1540
12.172
3.768
7.257
369.774
Tỷ lệ Số hộ cận nghèo phát sinh Tỷ lệ
4,49
2,91
2,31
4,38
3,98
3,41
1,51
Năm 2017
Tổng số hộ
176.803
191.617
396.035
278.093
94.727
212.769
24.511.255
106
Tỉnh/thành phố
Cả nước
Hà Giang Lạng Sơn Phú Thọ
Sơn La Lai Châu Hòa Bình
24.572
22.801
29.510
31.237
11.227
31.657
Số hộ
1.304.680
13,90
11,90
7,45
11,23
11,85
14,88
Tỷ lệ
5,32
Số hộ thoát cận nghèo
7.965
6.342
10.775
11.952
4.019
9.057
401.677
4,51
3,31
2,72
4,30
4,24
4,26
Tỷ lệ
1,64
Số hộ tái cận nghèo
228
34
262
1.016
253
1.145
14.155
Diễn biến hộ cận nghèo trong năm 2018
0,13
0,02
0,06
0,36
0,26
0,53
0,06
6.038
4.774
7.137
10.918
3.31
6.767
316.132
Tỷ lệ Số hộ cận nghèo phát sinh Tỷ lệ
3,36
2,47
1,76
3,87
3,42
3,14
1,27
Tổng số hộ
179.938
193.147
404.432
282.427
96.851
215.726
24.945.432
Năm 2018
22.873
21.267
26.134
31.219
10.771
30.512
Số hộ
1.234.465
12,71
11,01
6,46
11,12
14,14
Tỷ lệ
4,95
11,05 [Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]
107
Bên cạnh hộ nghèo chiếm tỷ lệ lớn so với các địa phương khác thì một số
tỉnh miền núi phía Bắc cũng có tỷ lệ hộ cận nghèo rất cao (từ năm 2016 bắt đầu áp
dụng theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020), như:
năm 2015 số hộ nghèo của Hà Giang là 19371 hộ, năm 2016 là 22324 hộ, năm 2017
là 24572 hộ, năm 2018 là 22873 hộ; tỉnh Lạng Sơn năm 2015 số hộ nghèo là 23885,
năm 2016 là 22891 hộ, năm 2017 là 22801 hộ, năm 2018 là 21267 hộ; số hộ cận
nghèo của tỉnh Phú Thọ năm 2015 là 32878 hộ, năm 2016 là 31377 hộ, năm 2017 là
29510 hộ, năm 2018 là 26134 hộ; tỉnh Sơn La số hộ cận nghèo cũng rất nhiều, năm
2015 số hộ là 25048, năm 2016 là 29812 hộ, năm 2018 là 31219 hộ; tỉnh Lai Châu
năm 2015 có số hộ cận nghèo là 8982, năm 2016 là 11169 hộ, năm 2017 là 11227
hộ, năm 2018 là 10771 hộ; tỉnh Hòa Bình năm 2015 có số hộ cận nghèo là 24586
hộ, năm 2016 có 29017 hộ, năm 2017 là 31657 hộ, năm 2018 là 30512 hộ, cụ thể
được thể hiện qua bảng 3.4.
Bên cạnh đó tác giả thấy mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
của hộ nghèo của một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là rất lớn, được thể hiện
qua bảng 3.5 sau:
108
Bảng 3.5. Tổng hợp mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của hộ nghèo của một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam từ năm 2016 - 2018 Phú Thọ
Lạng Sơn
Hà Giang
Hòa Bình
Lai Châu
Sơn La
Tỉnh/thành phố
Năm
2016 2017 2018
2016 2017 2018
2016 2017 2018
2016 2017 2018
2016 2017 2018
2016 2017 2018
Tổng số hộ nghèo
67.3
0
42.49
0
41.05
0
87.15
0
0
32.26
0
0
44.11
0
0
0
0
0
1.418
0
668
0
2.129
0
3.256
0
0
918
0
0
2.162
0
0
0
tiếp cận dịch vụ y tế
0
0
bảo hiểm y tế
878
0
5.643
0
16.47
0
3.723
0
0
2.4
0
0
2.871
0
0
0
0
0
19.878
0
4.728
0
2.616
0
22
0
0
10.01
0
0
4.156
0
0
0
trình độ giáo dục người lớn
0
0
2.883
0
817
0
728
0
5.322
0
0
1.469
0
0
1.067
0
0
0
tình trạng đi học của trẻ em
0
0
16.982
0
13.67
0
14.75
0
37.708
0
0
7.784
0
0
17.492
0
0
0
chất lượng nhà ở
0
0
diện tích nhà ở
12.779
0
11.23
0
10.68
0
36.884
0
0
9.918
0
0
19.97
0
0
0
0
0
12.205
0
9.756
0
6.599
0
20.597
0
0
1.856
0
0
10.119
0
0
0
Trong đó số hộ nghèo thiếu hụt các chỉ số về:
nguồn nước sinh hoạt
0
0
0
0
49.116
0
34.97
0
26.49
0
67.969
0
25.549
0
27.374
0
0
0
hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh
0
0
0
0
4.096
0
0
4.024
19.402
0
4.024
0
10.18
0
10.71
0
0
0
0
0
0
0
9.3
0
0
3.59
29.536
0
6.307
0
4.813
0
20.169
0
0
0
sử dụng dịch vụ viễn thông tài sản phục vụ tiếp cận thông tin
0
0
[Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội]
109
Theo số liệu về kết quả tổng điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo cả nước, số hộ
nghèo về thu nhập là 1,7 triệu hộ, tương ứng 7,47%/9,88% tỷ lệ hộ nghèo cả nước;
số hộ nghèo thiếu hụt đa chiều là 573.270 hộ, tương ứng 2,41%/9,88% tỷ lệ hộ
nghèo cả nước. Đến năm 2017, tổng số hộ nghèo là hơn 1,64 triệu hộ nghèo/24 triệu
hộ dân, tương ứng 6,70% tổng số hộ dân. Các chỉ số thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ
xã hội cơ bản của người dân đã có sự chuyển biến cơ bản. Cụ thể, thiếu hụt về giáo
dục của người lớn đã giảm từ 19,61% (năm 2016) xuống còn 16,52% (cuối năm
2017). Tình trạng trẻ em được đi học, mức thiếu hụt từ 6,77% (năm 2016) đã giảm
xuống còn 5,40% (năm 2017). Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, mức thiếu hụt là
6,2% (năm 2016) giảm xuống còn 5,03% (năm 2017). Bảo hiểm y tế, chất lượng
nhà ở, diện tích nhà ở bình quân đầu người được cải thiện đáng kể. Về nước sạch vệ
sinh, nguồn nước sinh hoạt thiếu hụt 21,21% (năm 2016) đã giảm xuống còn
17,71% (năm 2017). Việc tiếp cận thông tin thiếu hụt 21,25% (năm 2016) đã giảm
xuống còn 17,47% (năm 2017). Từ kết quả đo lường mức độ thiếu hụt của người
nghèo, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều giải pháp tập trung chỉ đạo để cải
thiện mức độ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân.
Qua nghiên cứu về tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam, tác giả có thể chia các hộ nghèo theo các nhóm sau:
Nhóm năng động: là những hộ nghèo tích cực chủ động tìm cơ hội thoát nghèo. Họ thường chủ động tìm đến các nhóm hộ có trình độ sản xuất cao hơn, giỏi làm kinh tế hơn để học tập kinh nghiệm, tìm tòi các địa điểm, địa phương có điều
kiện làm việc để có thu nhập cao hơn. Mạnh dạn vay vốn phát triển sản xuất, tìm kiếm cơ hội để mở rộng sản xuất ngoài sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi.
Nhóm kém năng động hơn: Nhóm này có thể thoát đói nghèo nhờ vào các
chương trình phát triển giao thông, có đường xá tốt để giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa hoặc nhờ vào được hưởng các DA kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhưng nhóm này cũng dễ bị rơi xuống diện đói nghèo nếu các chương trình, DA trên địa bàn kết thúc. đây là nhóm thoát nghèo thiếu bền vững.
Nhóm thụ động: Nhóm này là nhóm chiếm đa số và là nhóm người không có hoặc có rất ít khả năng tham gia vào các hoạt động của nền KTTT, chỉ biết trông chờ vào ruộng nương hoặc phát đồi, phát rừng làm nương để kiếm sống. Nhóm này
110
thường thụ động trong mọi hoạt động SXKD, cũng như ỷ lại vào sự trợ giúp của cộng đồng, ít chủ động vươn lên thoát nghèo.
Do những đặc điểm tự nhiên, điều kiện KT-XH, tính chất dân cư của các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam mà đặc điểm nghèo đói ở đây nổi bật lên chính là
nghèo đói của đồng bào DTTS. Thu nhập của họ chỉ trông vào sản xuất nông
nghiệp, hứng chịu nhiều hơn sự rủi ro, thất bát mùa màng. Năng suất thấp, lương
thực thiếu nên cũng không thể phát triển chăn nuôi, ít sản phẩm hàng hóa nên cũng
gần như không tham gia mua bán, giao lưu trên thị trường dẫn đến thiếu tiền để đầu
tư vào vật tư, giống cây trồng do đó mà năng suất thấp lại càng thấp, trong khi số
nhân khẩu trong gia đình ngày càng tăng nhanh do sinh đẻ nhiều nên buộc phải đốt
phá rừng làm nương, rẫy để trồng lương thực mưu sinh.
3.3. Thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền
núi phía Bắc trong thời gian qua
3.3.1. Ban hành chính sách mới về giảm nghèo bền vững
Trong nội dung này, tác giả luận án tiến hành đánh giá tình hình tổ chức thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam dựa
trên quy trình tổ chức thực hiện chính sách (mà tác giả đã trình bày trong chương 2)
bao gồm các bước: ban hành văn bản và kế hoạch tổ chức thực hiện; phổ biến tuyên
truyền về chính sách; xây dựng tổ chức bộ máy và phân công phối hợp thực hiện;
huy động, bố trí nguồn lực thực hiện; kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện. Từ
những nghiên cứu, đánh giá đó tác giả chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của những hạn chế làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp, kiến nghị ở
chương 4.
Một số chương trình giảm nghèo bền vững vừa qua còn có sự trùng lắp nội
dung. Một số văn bản quản lý, hướng dẫn về cơ chế thực hiện Chương trình ở các
Bộ ngành chưa kịp thời, một số nội dung khó thực hiện. Chưa có sự nhận diện đặc
trưng nghèo đói ở vùng DTTS ở các tỉnh miền núi phía Bắc nên chưa xây dựng
được các chính sách hỗ trợ giảm nghèo bền vững đặc thù phù hợp với thực tế ở các
tỉnh miền núi phía Bắc. Các chính sách mới chỉ tập trung vào những yếu tố tác động
tới đời sống hàng ngày của người nghèo mà chưa tập trung vào hỗ trợ các phương
111
tiện sinh kế cho người nghèo. Chính sách còn mang nặng tính bao cấp, chưa có cơ
chế, chế tài, điều kiện để khích lệ tính tự giác của người nghèo để họ phải chủ động
vươn lên thoát nghèo, hạn chế tư tưởng trông chờ ỷ lại còn tồn tại phổ biến ở các hộ
nghèo thuộc đồng bào DTTS. Chưa có nhiều chính sách tập trung vào các chương
trình mục tiêu giảm nghèo cho những vùng nghèo khó khăn nhất; chưa mạnh dạn
phân cấp quản lý cho địa phương đặc biệt là cấp xã; công tác kiểm tra, giám sát
chưa thường xuyên, chất lượng chưa cao.
Bằng phương pháp đánh giá tác động của các chính sách đến hoạt động sản
xuất và đời sống của hộ gia đình theo các mức tác động: tốt, khá, trung bình, yếu và
kém, thông qua ý kiến của 560 hộ dân của 6 tỉnh các tỉnh miền núi phía Bắc, luận án
đã tổng hợp được các ý kiến đánh giá sự tác động của các chính sách đến sản xuất
và đời sống của các hộ nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc cụ thể như sau:
Bảng 3.6. Tác động của các chính sách đến hoạt động sản xuất và đời sống của hộ gia đình Đơn vị:tỷ lệ %
Trong đó
TT
Các chính sách
Tốt
Khá
Yếu Kém
Tổng số ý kiến trả lời
Trung bình
1 Chính sách (CS) hỗ trợ tín dụng
560
39,7% 29,9% 23,8%
4,9%
1,6%
2 CS hỗ trợ đồng bào đ.canh định cư
560
16,7% 23,7% 45,9%
9,6%
4,1%
3
560
13,0% 21,4% 33,6% 26,6% 5,5%
CS ổn định, PTSX nông - lâm gắn với chế biến, tiêu thụ SP
4 CS giao đất giao rừng cho hộ g.đình 560
22,4% 26,0% 30,9% 14,0% 6,4%
5 CS hỗ trợ đất sản xuất và đất
560
21,2% 19,1% 37,6% 14,8% 7,0%
6 CS trợ cước, trợ giá
560
13,6% 26,6% 39,1% 16,1% 4,2%
7 CS khoa học phục vụ người nghèo
560
13,6% 26,6% 39,1% 16,1% 4,2%
8
560
17,9% 26,0% 32,7% 19,8% 3,4%
9
560
23,5% 27,0% 32,8% 11,6% 4,8%
CS đầu tư xây dựng trung tâm cụm xã CS đầu tư xây d ựng giao thông, cầu, đường,…
10 CS đầu tư xây dựng trường, trạm
560
25,1% 28,4% 34,8%
7,8%
4,0%
112
Trong đó
TT
Các chính sách
Tốt
Khá
Yếu Kém
Tổng số ý kiến trả lời
Trung bình
11 CS cấp thẻ bảo hiểm y tế
560
63,3% 17,8% 14,0%
3,0%
1,9%
12 CS hỗ trợ người nghèo về nhà ở
560
39,5% 27,8% 24,0%
6,8%
2,0%
13 CS cung cấp nước sạch
560
17,6% 18,6% 34,4% 20,2% 9,2%
14 CS hỗ trợ xây dựng nhà vệ sinh
560
14,9% 16,8% 36,4% 24,5% 7,4%
15
12,5% 16,7% 33,1% 28,4% 9,4%
CS hỗ trợ xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh
560
16 CS kế hoạch hóa gia đình
560
41,2% 36,1% 17,4%
3,9%
1,4%
17 CS giáo dục và đào tạo
560
36,0% 41,9% 19,4%
2,2%
0,4%
18 CS xóa mù
560
26,6% 32,4% 31,5%
5,8%
3,6%
19 CS dạy nghề và giải quyết việc làm
560
17,4% 21,8% 31,5% 21,8% 7,6%
20 CS hỗ trợ tiếp cận dịch vụ điện
560
27,1% 26,9% 29,6% 11,6% 4,8%
21 CS trợ giúp xã hội
560
27,1% 21,9% 40,5%
8,0%
2,5%
22 CS trợ giúp về pháp lý
560
24,0% 30,1% 31,1% 13,8% 1,0%
23 CS. Văn hóa truyền thông
560
23,8% 29,8% 33,7% 11,5% 1,2%
24 CS cán bộ cho các xã, bản
560
24,9% 28,0% 32,9% 13,3% 1,0%
[Nguồn: Tổng hợp từ điều tra khảo sát của tác giả]
Qua thăm dò tác động của 24 chính sách giảm nghèo bền vững đã được triển
khai trong các giai đoạn vừa qua, đánh giá của các hộ dân cho thấy chỉ có 12 chính
sách (tương đương 50%) là có tác động ở mức tốt và khá (50% trở lên), đó là: chính
sách hỗ trợ tín dụng, đầu tư xây dựng giao thông, cầu, đường, đầu tư xây dựng
trường, trạm, cấp thẻ BHYT, hỗ trợ người nghèo về nhà ở, KHH gia đình, giáo dục
và đào tạo, xóa mù, hỗ trợ tiếp cận dịch vụ điện, trợ giúp về pháp lý, văn hóa truyền
thông và chính sách cho cán bộ các xã, bản. Còn lại 12 chính sách khác có mức độ
tác động tốt và khá tới các hộ gia đình chỉ đạt ở mức dưới 50%, trong đó chính sách
113
hỗ trợ xây dựng chuồng trại hợp vệ sinh có mức động tác động tới sản xuất và đời
sống của các hộ gia đình ở mức tốt và khá thấp nhất (29,7%).
Còn kết quả điều tra, khảo sát phỏng vấn đối với 130 cán bộ quản lý liên
quan đến giảm nghèo bền vững các cấp từ Trung ương đến địa phương cho việc
đánh giá về mức độ hạn chế trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách giảm
nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc bằng phương pháp cho điểm từ 1 đến 5, trong
đó 5 là mức độ hạn chế lớn nhất, kết quả được tổng hợp như sau:
Bảng 3.7. Đánh giá mức độ hạn chế trong xây dựng và thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đối với các tỉnh miền núi phía Bắc hiện nay
Trong đó
STT
Đánh giá
Tổng số ý kiến trả lời
1
2
3
4
5
1
130
4,8%
8,7%
32,5% 23,0% 31,0%
2
130
4,0% 13,5% 21,4% 24,6% 36,5%
3
130
6,3% 19,0% 22,2% 18,3% 34,1%
4
130
5,6% 13,5% 24,6% 37,3% 19,0%
Giảm nghèo bền vững chưa toàn diện, chạy theo số lượng, chưa quan tâm đầy đủ đến chất lượng Chưa có các biện pháp giảm nghèo bền vững bền vững, tái nghèo còn nhiều Chính sách còn gây tác động ngược, chưa tạo tâm lý và điều kiện cho người dân chủ động vượt nghèo Tính đồng bộ của các chính sách về giảm nghèo bền vững thấp
5
130
4,0% 12,0% 29,6% 41,6% 12,8%
Tính hiệu quả của chính sách giảm nghèo bền vững chưa cao
6
130
6,4% 14,4% 33,6% 34,4% 11,2%
Tính hiệu lực của chính sách giảm nghèo bền vững chưa cao
7
130
5,6% 16,7% 26,2% 37,3% 14,3%
Tính phù hợp của chính sách giảm nghèo bền vững với nguyên tắc của KTTT chưa cao
[Nguồn: tổng hợp từ kết quả điều tra khảo sát của tác giả]
Kết quả hạn chế chung của chính sách giảm nghèo bền vững đối với các tỉnh
miền núi phía Bắc hiện nay là các chính sách ban hành còn thiếu tính toàn diện,
114
chưa đảm bảo tính bền vững, chưa có tác động tích cực để người dân chủ động
vươn lên thoát nghèo, thiếu tính đồng bộ, thiếu tính hiệu quả, tính hiệu lực và tính
phù hợp chưa cao.
Về cơ chế chính sách: thiếu hoặc không đồng bộ về chính sách đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nghèo, chính sách khuyến khích sản xuất, vốn tín
dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, phát triển
ngành nghề, chính sách trong giáo dục - đào tạo, y tế, chính sách đất đai, định canh,
định cư, xây dựng vùng kinh tế mới... Nguồn lực đầu tư còn hạn chế và quản lý
phân tán, kém hiệu quả. Chính những tác động của cả nhân tố chủ quan và khách
quan đã dẫn tới kết quả sản xuất và đời sống của các hộ nghèo rất thấp. Vì vậy trong
việc giảm nghèo bền vững, cần thấy rõ đói nghèo chịu sự tác động tổng hợp của
nhiều nhân tố khác nhau. Vì thế, các giải pháp giảm nghèo bền vững trong cơ chế
thị trường không thể một chiều là sự tác động của nhà nước, cộng đồng theo kiểu
trợ cấp xã hội hoặc cũng không thể là công việc của từng hộ gia đình mà cần phải
có các giải pháp đồng bộ và có trọng tâm, trọng điểm cho phù hợp với từng nơi,
từng lúc thì mới có hiệu quả.
Ban hành văn bản và kế hoạch tổ chức thực hiện
Để tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở vùng các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa
phương đã chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ của cấp mình. Các kế hoạch hành động cụ thể hướng tới giảm
nghèo bền vững được thể hiện thông qua gần 160 văn bản, trong đó có 14 Nghị định
của Chính phủ; 40 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ 27 văn bản phê duyệt các
đề án, chính sách; 26 văn bản liên tịch giữa các Bộ. Ngoài ra trên cơ sở tình hình
thực tế của địa phương mình, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã chủ động xây
dựng và ban hành kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở
địa phương mình.
Trong giai đoạn từ 2005 đến 2012, để thực hiện các văn bản chính sách về
giảm nghèo bền vững của các cơ quan nhà nước cấp trên, Đảng bộ và chính quyền
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã ban hành theo thẩm quyền hoặc chủ trì
soạn thảo trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản trong đó:
115
Lai Châu ban hành 61 văn bản để tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững trong đó Tỉnh ủy ban hành 7 văn bản, HĐND tỉnh ban hành 3
Nghị quyết chuyên đề, UBND tỉnh ban hành 51 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thực
hiện.
Điện Biên, Tỉnh ủy đã ban hành 05 văn bản, HĐND ban hành 03 Nghị quyết
chuyên đề, UBND tỉnh ban hành 14 Quyết định liên quan đến công tác giảm nghèo
bền vững và hàng chục văn bản của các Sở, Ban, Ngành liên quan để hướng dẫn,
chỉ đạo quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Sơn La, Tỉnh Ủy ban hành 8 văn bản, HĐND ban hành 2 nghị quyết chuyên
đề, UBND tỉnh ban hành 16 quyết định.
Hòa Bình, tỉnh Ủy ban hành 04 nghị quyết, UBND tỉnh ban hành 11 Quyết
định cùng hàng chục văn bản của các Sở, ban ngành và của UBND các huyện, thị
xã, thành phố để tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, [34].
cấp huyện. Trước khi đưa chính sách vào cuộc sống, hàng năm UBND huyện
đều tiến hành xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện. Nhiệm vụ xây dựng
kế hoạch thực hiện ở cấp huyện được giao cho Phòng Lao động Thương binh và Xã
hội thực hiện. Kế hoạch tổ chức thực hiện được xây dựng vào quý I hàng năm trên
cơ sở báo cáo giảm nghèo của năm trước và tình hình thực tiễn tại địa phương mình.
Sau khi kế hoạch thực hiện được UBND huyện phê duyệt, kế hoạch đó sẽ được gửi
đến các cơ quan có liên quan thuộc UBND huyện và UBND cấp xã trong huyện.
UBND cấp xã căn cứ vào kế hoạch đó để xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cho
xã mình.
Kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững còn
được gửi đến các tổ chức Chính trị -Xã hội trong huyện để phối hợp thực hiện. Các
tổ chức đoàn thể xã hội trong huyện sau khi nhận được kế hoạch của huyện cũng
phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và những điều kiện hiện có của cơ quan, đơn
vị mình để xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện cho phù hợp với cơ quan, tổ chức
mình.
Các văn bản, kế hoạch hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững đã được các cấp chính quyền ở cả trung ương và địa phương quan tâm
xây dựng để đưa chính sách vào đời sống thực tiễn. Tiến độ ban hành các văn bản
hướng dẫn thực hiện chính sách về giảm nghèo bền vững và các kế hoạch tổ chức
triển khai thực hiện, nhìn chung là kịp thời, bám sát với mục tiêu và nội dung của
116
chính sách. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có hiện tượng chính quyền các cấp vì
chạy theo thành tích nên đã ban hành những văn bản và kế hoạch tổ chức thực hiện
chưa phù hợp với những điều kiện về nguồn lực của địa phương. Mặt khác, trong
quá trình quản lý điều hành còn lỏng lẻo nên đã dẫn đến tình trạng thất thoát và lãng
phí các nguồn lực của nhà nước và không thu hút được nguồn lực tại chỗ cho giảm
nghèo bền vững.
Tỷ lệ
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
Tỷ lệ
30.00%
20.00%
10.00%
0.00%
413/600
174/600
13/600
Có
Không
Không có câu trả lời
Hình 3.3. Mức độ tham gia của người dân vào quá trình xây dựng biện pháp
[Nguồn: Khảo sát từ phiếu điều tra]
thực hiện chính sách
Kết quả khảo sát đối với 600 hộ nghèo ở 6 tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
về sự tham gia của họ vào quá trình xây dựng biện pháp thực hiện chính sách (Hình
3.3) cho thấy công tác xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách mới chỉ thực
hiện từ trên xuống mà không có sự tham gia đóng góp ý kiến của người dân (đối
tượng của chính sách). Việc xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính
sách có sự tham gia của chính các đối tượng chính sách sẽ làm cho các kế hoạch
này phù hợp hơn với điều kiện hoàn cảnh kinh tế, xã hội của địa phương cũng như
những điều kiện hiện có của chính người nghèo.
Theo khảo sát cho thấy, trong quá trình xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện,
các cấp chính quyền chưa chú trọng đến việc khảo sát, thu thập ý kiến của người
dân ở cơ sở để làm căn cứ cho việc xây dựng các biện pháp tổ chức thực hiện, mà
vẫn áp đặt cách thức thực hiện chính sách từ trên xuống dưới chứ không phải từ
117
dưới đi lên. (ở Hòa Bình, 1 bản thuộc vùng dân tộc được hỗ trợ vay vốn mua máy
xay sát theo Chương trình 30a nhưng bản đó lại không hề có điện để chạy máy xay
sát, mà muốn chạy được lại phải mua thêm 1 máy nổ với giá gấp đôi máy xay sát
mà thậm chí muốn chạy được máy nổ thì người dân phải đi mất 1 ngày đường để
mua xăng thì mới có thể chạy được cái máy nổ đó) [34]. Việc không có sự tham gia
của người nghèo vào quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách đã thể hiện
sự quan liêu trong quá trình tổ chức thực hiện.
Tỷ lệ
Tỷ lệ
90.00% 80.00% 70.00% 60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%
494/600
106/600
Không Phù hợp
Phù hợp
[Nguồn: Tác giả điều tra khảo sát]
Hình 3.4. Sự phù hợp của chính sách với địa phương và người nghèo
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững là
một quá trình lâu dài và bền bỉ với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức từ chính
quyền cho đến các tổ chức đoàn thể nhân dân. Do vậy khi xây dựng kế hoạch hành
động, cũng cần có sự tham gia đóng góp kiến của những cơ quan tổ chức có liên
quan. Thực tế cho thấy, hầu hết các kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững của các địa phương trong vùng là do UBND các cấp thực
hiện nhưng hầu hết không có sự tham gia bàn bạc của các cơ quan, tổ chức khác
như MTTQ, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân…Điều này cũng diễn ra
tương tự đối với các cơ quan ở Trung ương theo lời ông K’So Phước: “Hiến pháp
điều 94 quy định rất rõ là Hội Đồng Dân Tộc của Quốc Hội được tham gia góp ý
kiến trong quá trình xây dựng các chính sách có liên quan đến dân tộc thiểu số của
Chính Phủ, của các Bộ, thậm chí trong Hiến Pháp còn quy định là kể cả các thông
118
tư, thông tư liên bộ có liên quan đến dân tộc thiểu số thì HĐDT được quyền tham
gia, nhưng mà thật ra tôi làm nhiều nhiệm kì nhưng chả thấy gì các bộ ngành xin ý kiến của HĐDT về các thông tư quyết định về vấn đề dân tộc thiểu số”[34]. Với cách
làm nêu trên, đa số người dân được hỏi cho rằng cách thức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững hiện nay ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là không phù
hợp với điều kiện của địa phương và điều kiện của gia đình họ. (Hình 3.4)
Như đã trình bày, hiện nay việc triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững chủ yếu được thực hiện theo hình thức từ trên xuống. Điều này đồng nghĩa với
việc các kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện của các địa phương cũng được ban hành
theo hình thức từ trên xuống trong khi đó có tới 79,3% người nghèo cho rằng; Khi có
chính sách của nhà nước, nên để người dân trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định
cách thức thực hiện. Tỷ lệ trả lời này cũng tương tự đối với phiếu điều tra dành cho
công chức cấp xã với cùng một câu hỏi (78,5%). Trong khi đó chỉ có 20,7% người dân
cho rằng; Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân
cứ thế thực hiện theo, (xem phụ lục tổng hợp phiếu điều tra).
Như vậy, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam, đặc biệt là những vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn (huyện
nghèo, xã nghèo, xã an toàn khu, xã biên giới…), cần tạo điều kiện cho người
nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ sản xuất, y tế, giáo dục, nhà ở..., nhà nước và
chính quyền các tỉnh đã ban hành nhiều văn bản để tổ chức và hướng dẫn thực hiện
chính sách về giảm nghèo bền vững nhằm tác động đa chiều đến mọi mặt đời sống
của người nghèo.
Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ở các tỉnh trong vùng đã được quan tâm thực hiện tuy nhiên công tác này vẫn
chưa đạt được kết quả như mong muốn, nhất là cách thức xây dựng kế hoạch thực hiện.
Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình thực hiện chính sách và cũng là
nguyên nhân dẫn đến kết quả mà chính sách giảm nghèo bền vững mang lại cho người
nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian qua là chưa cao.
3.3.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững
Chính sách giảm nghèo bền vững là một chính sách lớn bao gồm nhiều hợp
phần chính sách khác nhau, bên cạnh đó mỗi hợp phần chính sách lại hướng tới
119
những mục tiêu khác nhau. Bởi vậy để tổ chức triển khai thực hiện cần có sự tham
gia vào cuộc của rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau từ trung ương đến địa
phương. Sự tham gia vào quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững của các cơ quan nhà nước cần phải được tổ chức một cách khoa học và hợp lý
trên cơ sở tạo ra một cơ chế, cách thức phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng và thống nhất
nhằm khai thác được năng lực, sở trường cũng như các điều kiện vật chất khác của
các cấp, các ngành vào quá trình thực hiện chính sách.
Việt Nam được coi là nước có thành tựu nổi bật trong công cuộc giảm nghèo.
Chương trình xóa đói giảm nghèo của Việt Nam được khởi xướng vào năm 1998
bằng chương trình 133 có mục tiêu hỗ trợ các hộ nghèo trên toàn quốc [41]. Sau đó
chương trình 133 kết hợp với Chương trinh 120 vào năm 2001 và đến năm 2005 thì
được biết đến với tên gọi là Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo. Chương
trình này đã huy động khoảng 19.000 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương và địa
phương .
Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN (CTMTQG XĐGN) ban đầu có 6
chính sách liên quan đến lĩnh vực hỗ trợ về miễn giảm phí khám chữa bệnh, miễn
giảm học phí, hỗ trợ cho đồng bào dân tộc; hỗ trợ những người dân yếu thế bị tổn
thương, hỗ trợ nhà ở và công cụ sản xuất. Ngoài ra Chương trình cò bao gồm 8 dự
án về tín dụng, khuyến nông, xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ sản xuất, đào tạo cán
bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo, ổn định dân di cư tại các vùng kinh tế mới,
định canh định cư, ổn định dân cư tại các xã nghèo và phát triển các mô hình XĐGN để nhân rộng [44].
Ngày 21/5/2002 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược toàn diện về
tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo tại văn bản số 2685/VPCP-QHQT. Văn bản
Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo là chương trình hành
động nhằm cụ thể hoá các mục tiêu, cơ chế, chính sách, giải pháp chung của Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010 [19], Kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội 5 năm 2001-2005 của cả nước cũng như của từng ngành thành các giải pháp
cụ thể có kèm theo lộ trình thực hiện. Đây là Chương trình hành động để thực hiện
định hướng tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo.
Song song với chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN, chương trình 135
hay còn gọi là Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn
120
được Chính phủ phê duyệt vào tháng 7 năm 1998. Có thể nói đây là một phần của
Chương trình mục tiêu quốc gia được tách ra từ Chương trình Xóa đói giảm nghèo do có những yêu cầu riêng về thể chế [41].
Chương trình MTQG về XĐGN được điều hành và thực hiện theo phương
thức phân cấp. Cơ chế điều hành chương trình bao gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh,
huyện, xã. Ở cấp trung ương, Bộ LĐTB&XH là cơ quan được giao nhiệm vụ quản
lý Chương trình, Bộ KHĐT, Bộ Tài Chính, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Ủy ban Dân
tộc, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Y tế và Ngân hàng Nông nghiệp chịu trách nhiệm
chỉ đạo chung. Các cơ quan này cùng với một số đoàn thể quần chúng (Mặt trận tổ
quốc, hội LHPN, hội ND) đều có đại diện tham gia Ban chỉ đạo Chương trình
XĐGN quốc gia do Phó Thủ tướng chịu trách nhiệm giúp Chính phủ chỉ đạo, điều
phối và giám sát chương trình.
Tại các địa phương, UBND tỉnh đảm nhiệm khâu tổ chức điều hành Chương
trình và chịu trách nhiệm về sử dụng các nguồn lực trên địa bàn quản lý. Khâu thực
hiện được giao cho UBND xã hoặc tạm thời cho UBND huyện trong trường hợp
UBND xã có những hạn chế về năng lực. Các ban xóa đói giảm nghèo đều được
thành lập ở tất cả các tỉnh, hầu hết các huyện và xã nghèo tham gia Chương trình.
Một số UBND tỉnh, huyện có bộ phận chuyên trách về XĐGN hoặc một nhóm
chuyên viên giúp việc cho họ và cho ban XĐGN trong công tác điều hành và điều
phối hàng ngày. UBND xã cũng có một đầu mối phụ trách XĐGN, các trưởng thôn
chính là đầu mối XĐGN cấp thôn bản.
Bộ LĐTB&XH, Bộ KHĐT và Bộ Tài chính đóng vai trò chủ chốt trong quá
trình lập kế hoạch, cung cấp kinh phí và điều phối Chương trình. Bộ KHĐT, Tài
chính chịu trách nhiệm cân đối nhu cầu trên cơ sở các nguồn lực hiện có và phân bổ
kinh phí cho Chương trình. Ngoài ra Bộ KHĐT và các cơ quan làm kế hoạch còn
được giao là đầu mối của Chính phủ trong điều hành và điều phối các chương trình
quốc gia tương ứng theo cấp quản lý. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm lên ngân sách,
cấp phát và kiểm soát việc sử dụng kinh phí.
121
[Nguồn: tác giả tổng hợp]
Hình 3.5. Phân cấp quản lý Chương trình XĐGN
Bộ LĐTB&XH chịu trách nhiệm tổng hợp và đề xuất phương án phân bổ
kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia cho các tỉnh và các chương trình cụ thể sau
khi đã được Ban Chủ nhiệm chương trình thông qua Ban chủ nhiệm Chương trình
được thành lập nhằm tạo cơ chế điều phối, giám sát và đánh giá. Các đơn vị chủ
chốt tham gia thực hiện Chương trình là chính quyền các địa phương, cụ thể là Tỉnh
ủy và UBND tỉnh chịu trách nhiệm các công việc như: xây dựng chỉ tiêu, tổ chức,
hướng dẫn và điều phối quá trình thực hiện và sử dụng nguồn lực của Chương trình
tại địa phương.
Chính quyền xã và đoàn thể quần chúng chịu trách nhiệm lập kế hoạch trình
lên cấp trên và thực hiện Chương trình. Cấp huyện đóng vai trò quan trọng trong
khâu thực hiện bởi các phòng chuyên trách cung cấp dịch vụ như Ngân hàng
NN&PTNT, trung tâm Khuyến Nông, Sở/phòng giáo dục và y tế đều có trụ sở tại
cấp Huyện.
Ở trung ương, việc tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững được
giao cho nhiều Bộ, ngành khác nhau, thậm chí là cùng một chính sách nhưng cũng
122
có sự tham gia của nhiều Bộ, ngành như; Ủy ban Dân tộc là cơ quan thường trực
đảm nhiệm Chương trình 135 (phần cơ sở hạ tầng cho vùng dân tộc), chính sách
định canh, định cư (ĐCĐC) theo Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, [45], vay vốn hộ nghèo DTTS theo Quyết định số 32/QĐ-TTg [46], giải quyết đất ở, đất sản xuất, nước sạch theo Quyết định số 1592/QĐ-TTg [47]. Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn đảm nhận phần hỗ trợ sản xuất thuộc Chương trình 135, các chính sách
nông – lâm nghiệp, hỗ trợ gạo trồng rừng, chương trình nước sạch, vệ sinh, môi
trường, ổn định dân cư. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đảm nhận chương
trình thực hiện Nghị quyết 30a cho các huyện nghèo, chương trình giảm nghèo
chung, chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm là những nội dung chính sách
có nhiều đối tượng là người DTTS. Bộ giáo dục và đào tạo đảm nhận toàn bộ về
chính sách giáo dục. Các quyết định về phát triển vùng, vùng biên giới giao cho Bộ
Kế hoạch và Đầu tư.
Ở địa phương, việc phân công, phối hợp để tổ chức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững cũng được giao tương ứng cho các cơ quan chuyên môn
thuộc cấp tỉnh và cấp huyện. Như vậy, việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ở nước ta nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng đang
được thực hiện và quản lý theo ngành dọc và theo địa giới hành chính.
Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách xóa đói, giảm nghèo và thực
hiện chỉ đạo của Chính Phủ, tất cả các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã có nghị
quyết của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân về lãnh đạo, chỉ đạo điều hành việc thực hiện
chính sách XĐNG trên địa bàn, ưu tiên nguồn lực cho các xã khó khăn có tỉ lệ đói
nghèo cao và thiếu cơ sở hạ tầng thiết yếu. Chỉ đạo các Sở, ban, ngành, đoàn thể của
tỉnh tiếp tục triển khai nhiệm vụ giúp các xã đặc biệt khó khăn về phát triển kinh tế -
xã hội xóa đói giảm nghèo, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; đồng thời tổ chức
tập huấn và bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác xóa đói giảm
nghèo từ tỉnh tới cơ sở, nhất là ở xã và thôn, bản.
UBND các tỉnh đã chỉ đạo thành lập, kiện toàn và củng cố lại Ban chỉ đạo
giảm nghèo bền vững từ tỉnh đến xã, thành lập các tổ công tác liên ngành và phân
công nhiệm vụ cho các Sở, ban, ngành triển khai thực hiện, cụ thể:
Ở cấp tỉnh: Ban chỉ đạo giảm nghèo bền vững do đồng chí Chủ tịch UBND
hoặc một đồng chí Phó chủ tịch UBND làm trưởng Ban. Thành phần của ban chỉ
123
đạo gồm đại diện các sở, ban, ngành,đại diện Mặt trận tổ quốc và một số đoàn thể
thành viên của Mặt trận tổ quốc tham gia.
Các, sở, ban, ngành, đoàn thể của tỉnh tham gia và quá trình thực hiện chính
sách được phân công cụ thể như sau:
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội: Là cơ quan thường trực, có trách
nhiệm chủ trì, phối hợp với các ngành thành viên Ban chỉ đạo tỉnh hướng dẫn, đôn
đốc UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức thực hiện. Hướng dẫn xây dựng và
tổ chức triển khai thực hiện các dự án: dạy nghề cho lao động nông thôn, nâng cao
năng lực đội ngũ cán bộ tham gia công tác giảm nghèo; hỗ trợ người nghèo về y tế,
về giáo dục - đào tạo. Phối hợp với Cục Thống kê tỉnh hướng dẫn điều tra thực
trạng hộ nghèo hằng năm theo quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Tổng hợp báo cáo kết quả định kỳ hàng năm về UBND tỉnh và Bộ LĐTB&XH.
Sở Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì xây dựng kế hoạch vốn hàng năm cho chính
sách giảm nghèo bền vững. Phối hợp với các ngành hướng dẫn các huyện, thị xã,
thành phố thực hiện lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế - xã hội chung
của tỉnh với các chương trình, dự án giảm nghèo trên địa bàn từ khâu lập kế hoạch
đến tổ chức thực hiện.
Sở Tài chính: Phối hợp với các ngành bố trí và đảm bảo ngân sách nhà nước
cấp hàng năm cho việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Hướng dẫn cơ
chế quản lý tài chính đối với các nguồn vốn huy động cho giảm nghèo bền vững;
chỉ đạo và tổ chức việc cấp phát đầy đủ kịp thời đúng dự toán, đúng mục tiêu đối
với các dự án, chương trình được phê duyệt.
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Chủ trì phối hợp các ngành chức
năng và các huyện, thị xã, thành phố tổ chức quản lý, thực hiện các dự án: Dự án
khuyến nông, khuyến lâm; Dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã
nghèo; Dự án ổn định dân cư, định canh định cư và xây dựng vùng kinh tế mới ở
các xã nghèo; Chương trình xây dựng nông thôn mới.
Ban Dân tộc tỉnh: Chủ trì phối hợp các ngành chức năng và các huyện, thị
xã, thành phố tổ chức quản lý, thực hiện các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Sở Y tế: Chủ trì phối hợp với với các ngành chức năng triển khai và thực
hiện chính sách khám chữa bệnh bằng thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo.
124
Sở Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì phối hợp với các ngành chức năng thực hiện
chính sách hỗ trợ miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập theo quy định.
Cục Thống kê tỉnh: Phối hợp với các thành viên Ban chỉ đạo tỉnh tổ chức
điều tra, rà soát thực trạng hộ nghèo hàng năm theo hướng dẫn của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội.
Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh: Chủ trì phối hợp với Sở Lao động -
Thương binh và Xã hội, các Sở, ngành liên quan và UBND các huyện, thị xã, thành
phố xây dựng và triển khai thực hiện Dự án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn để phát
triển sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm để giảm nghèo nhanh và bền vững.
Sở Thông tin - Truyền thông: Chủ trì và phối hợp với Sở Lao động - Thương
binh và Xã hội và các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh xây dựng và triển khai
các hoạt động truyền thông về chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững.
Sở Tư pháp: Chủ trì phối hợp với các ngành chức năng thực hiện chính sách
hỗ trợ pháp lý nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết pháp luật cho người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch: Chủ trì phối hợp với các ngành chức năng
thực hiện chính sách đưa văn hóa, thông tin về cơ sở; đa dạng hóa các hoạt động
truyền thông, giúp người nghèo tiếp cận các chính sách giảm nghèo, phổ biến các
mô hình giảm nghèo có hiệu quả.
Các Sở, ban, ngành của tỉnh, có trách nhiệm nghiên cứu, xây dựng kế hoạch
trợ giúp người nghèo, xã nghèo, huyện nghèo trong phạm vi quản lý của ngành
mình, đồng thời bố trí cán bộ xuống các xã được phân công phụ trách để cùng chính
quyền xã tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp của chính sách giảm nghèo
bền vững.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên như: Liên đoàn Lao động, Hội
Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
Cựu chiến binh các cấp được huy động tham gia vào quá trình thực hiện chính sách.
Ở cấp huyện: Các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong vùng đã thành lập
Ban chỉ đạo giảm nghèo cấp huyện, do đồng chí Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng
ban và phân công nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong Ban chỉ đạo; Huyện ủy các
huyện đã phân công cho mỗi đồng chí trong Ban chấp hành Huyện ủy trực tiếp phụ
trách, chỉ đạo một xã cấp xã: Thành lập, củng cố và nâng cao năng lực của Ban chỉ đạo
125
giảm nghèo các xã, phường, thị trấn; các thôn, bản đều có cán bộ tại chỗ làm công tác
giảm nghèo; thường xuyên quán triệt chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và
Nhà nước về giảm nghèo. Phối hợp các tổ chức đoàn thể, chỉ đạo việc lồng ghép, triển
khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương.
Như vậy, việc phân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam được thực hiện theo mô
hình cơ cấu tổ chức tương đối thống nhất từ cấp tỉnh cho đến cấp xã với các ban
giảm nghèo bền vững cho đến thôn, bản là các nhóm giảm nghèo bền vững.
Tỷ lệ
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
Tỷ lệ
20.00%
10.00%
0.00%
19/600
323/600
197/600
Không hiệu quả
Hiệu quả ít
Rất hiệu quả
Hình 3.6. Nhận xét về hiệu quả hoạt động tuyên truyền chính sách
[Nguồn: Tác giả điều tra]
Theo hình 3.6, cơ cấu tổ chức và mối quan hệ như vậy việc thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam làm nổi bật một
số nội dung chủ yếu sau:
- Trung ương xây dựng và quyết định chính sách giảm nghèo bền vững, xây
dựng môi trường pháp lý cần thiết, hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi để các địa
phương và người nghèo trong vùng tự vươn lên, hướng dẫn, huy động nguồn lực,
kiểm tra, giám sát và đánh giá, điều chỉnh chính sách và cơ chế hỗ trợ nguồn lực.
- Các sở, ban, ngành của các tỉnh được phân công đã trực tiếp phối hợp cùng
với các huyện để thực hiện công tác điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình
KT-XH của các huyện để xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện và hướng dẫn các
huyện nghèo trong việc triển thực hiện chính sách theo kế hoạch đã được thông qua.
126
- Các đoàn thể của tỉnh: Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Nông dân đã nêu cao vai trò hoạt động
của mình trong công tác xoá đói giảm nghèo, với những nội dung và phương thức
hoạt động thiết thực giúp đỡ lẫn nhau để các hộ nghèo có điều kiện về vốn, kỹ thuật,
kinh nghiệm sản xuất, thực hiện tốt quy chế dân chủ; qua đó, đã khơi dậy trách
nhiệm của cả cộng đồng dân cư với người nghèo, giúp đỡ để người nghèo có điều
kiện vươn lên thoát nghèo.
Giữa các cấp, các ngành về phương diện tổ chức và hoạt động của Ban chỉ
đạo có sự phân cấp và phân công trách nhiệm tổ chức thực hiện cụ thể nhằm phát
huy vai trò của các tổ chức đoàn thể trong việc tham gia, giám sát thực hiện chính
sách, phân công các ban, ngành, tổ chức, đoàn thể, các doanh nghiệp giúp đỡ các xã
nghèo với các nội dung thiết thực, nhất là nhiệm vụ xóa nhà tạm cho các hộ nghèo.
Việc tổ chức thực hiện chính sách đã được lập kế hoạch tổ chức thực hiện từ cấp xã
đến cấp tỉnh theo một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo theo nguyên tắc nhà nước, cộng
đồng và người nghèo cùng tham gia thực hiện do đó đã tạo dựng được nhiều mô
hình tốt, cách làm sáng tạo.
127
Hình 3.7. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy để thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững
[Nguồn: Tác giả tổng hợp]
Việc phân cấp, giao quyền tương đối chủ động cho các cấp chính quyền địa
phương trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Cấp tỉnh chịu trách nhiệm
toàn diện về mục tiêu quản lý và tổ chức chỉ đạo thực hiện, huy động và lồng nghép
sử dụng các nguồn vốn liên quan trên địa bàn, hỗ trợ về tổ chức, kỹ thuật. Chính
quyền tỉnh có nhiệm vụ cung cấp các nguồn lực theo sự phân bổ của trung ương
nhất là nguồn ngân sách.
128
Tỷ lệ
Tỷ lệ
100.00% 90.00% 80.00% 70.00% 60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%
18/72
68/72
8/72
14/72
12/72
0/72
21/72
32/72
19/72
Chính sách khác
Chính sách giáo dục
Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt
Hỗ trợ trực tiếp về lương thực
Chính sách cho vay vốn để sản xuất
Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở
Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng
Dạy nghề Các chính sách thuộc Chương trình 135
Hình 3.8. Nhận xét của cán bộ, công chức xã về hiệu quả trong phối hợp thực
hiện chính sách
[Nguồn:Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
- Xã hoặc huyện giữ vai trò xây dựng các kế hoạch hành động cụ thể và tổ
chức thực hiện mục tiêu chính sách của địa phương. Các hợp phần, dự án giảm
nghèo bền vững được xây dựng từ cấp xã đã thu hút được sự tham gia của nhân dân
trong việc huy động nguồn lực tại chỗ đóng góp một phần không nhỏ vào hoạt động
giảm nghèo bền vững, nhân dân tích cực tham gia thực hiện và giám sát hoạt động
giảm nghèo bền vững.
- Việc phối hợp và lồng ghép các chương trình, chính sách có liên quan trong
từng lĩnh vực cụ thể đã được triển khai. Công tác đào tạo, xây dựng và nâng cao
năng lực cán bộ cơ sở làm công tác giảm nghèo bền vững cũng đã được quan tâm
thực hiện bước đầu có kết quả.
Tuy nhiên qua khảo sát đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và tham vấn một
số công chức lãnh đạo, quản lý từ trung ương đến cấp xã về sự phối hợp trong tổ
chức thực hiện giữa các cấp chính quyền với các tổ chức đoàn thể xã hội. Luận án
nhận được kết quả như sau:
- Đối với cán bộ, công chức cấp xã.
129
Tỷ lệ
Tỷ lệ
80.00% 70.00% 60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%
28/90
62/90
Chưa hiệu quả
Hiệu quả
1
2
Hình 3.9. Nhận xét của công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên về
hiệu quả phối hợp thực hiện chính sách
[Nguồn: Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
Kết quả khảo sát đội ngũ cán bộ, công chức xã về sự phối hợp giữa các cấp,
các ngành với nhau trong thực hiện chính sách thì đa số cho rằng đã có sự phối hợp.
Tuy nhiên, khi được hỏi, mối quan hệ phối hợp đó mang lại hiệu quả như thế nào
trong thực hiện chính sách thì có tới 72,5% số người được hỏi cho rằng không có
hiệu quả, (Hình 3.9).
- Đối với công chức lãnh đạo, quản lý từ cấp huyện trở lên.
Với cùng câu hỏi về hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà
nước trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, cũng có tới 43,3% công
chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên cho rằng công tác phối hợp không có
hiệu quả.
Như vậy, có thể thấy công tác phân công phối hợp thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các địa phương mặc dù đã có sự phân công, phối hợp với nhau
trong quá trình thực hiện nhưng vẫn chưa có được sự nhịp nhàng, đồng bộ và thống
nhất dẫn đến thiếu liên kết giữa tỉnh với huyện, giữa huyện với xã và ngược lại làm
ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chính sách mà không phát huy hết thế mạng cũng
như các điều kiện, khả năng của các cơ quan phối hợp vào quá trình thực hiện.
130
Việc chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam về cơ bản vẫn do bộ máy hành chính của từng tỉnh
trong vùng thực hiện, vừa theo phân cấp về quản lý hành chính vừa theo phân cấp
cũng mang tính hành chính về quản lý kinh tế - xã hội.
Mặc dù đã hình thành mối quan hệ hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc
trong quá trình thực hiện nhưng chưa thực sự thiết lập và thực hiện mối quan hệ hợp
tác trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững giữa cấp trên với cấp dưới,
giữa chính quyền với các tổ chức đoàn thể ở địa phương với nhau do đó chưa tạo ra
cơ chế lồng ghép, tận dụng tiềm năng thế mạnh giữa các cấp chính quyền với các tổ
chức đoàn thể nhân dân ở địa phương để tạo ra chuỗi gắn kết giữa chức năng, nhiệu
vụ và trách nhiệm của các bên trong thực hiện giảm nghèo bền vững.
3.3.3. Nguồn lực tài chính để thực hiện giảm nghèo bền vững
Hiện nay, chính phủ phân bổ ngân sách cho Chương trình thông qua hai kênh:
Kênh thứ nhất cho nhóm gồm 7 chính sách gồm: chính sách khuyến nông-
lâm-ngư, cơ sở hạ tầng cho các xã vùng ven biển và hải đảo; dạy nghề; nhân rộng
mô hình giảm nghèo; nâng cao năng lực giảm nghèo; chính sách hỗ trợ pháp lý; và
giám sát đánh giá. Các tiêu chí và dự toán cho ngân sách phân bổ theo Thông tư liên
tích giữa Bộ tài chính và bộ LDTB&XH số 102/TTLT/BTC-LĐTBXH năm 2007.
Kênh thứ hai là những chính sách còn lại được áp dụng cơ chế tài chính khác
và có những thể thức thực hiện riêng biệt. Chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo
được thực hiện thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội và cơ chế quản lý chính
sách được quy định theo Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04 tháng 10 năm 2002.
Chính sách hỗ trợ về y tế cho người nghèo được xây dựng theo Quyết định số
139/2002/QĐ-TTg ngày 15 tháng 10 năm 2002 và được quy định theo Thông tư
liên tịch giữa Bộ Y tế và Bộ Tài chính số 14/2002/TTLT-BYT-BTC. Chính sách hỗ
trợ giáo dục cho người nghèo được quy định bằng sáu quyết định và nghị định khác
nhau từ năm 1997 - 2007 [22].
131
Quốc hội
Thủ tướng
Bộ Tài chính
Bộ KHĐT
Bộ LĐTB&XH
Các Sở liên quan
UBND tỉnh
HĐND tỉnh
UBND huyện
HĐND huyện
UBND xã
HĐND xã
Sau khi Quốc hội thông qua, Bộ KHĐT và Bộ Tài chính sẽ giao kế hoạch ngân sách cho các bộ
ngành liên quan và UBND các tỉnh
UBND các cấp và các bộ ngành có trách nhiệm thực hiện Chương trình
xây dựng kế hoạch thực hiện và ngân sách thường niên, sau đó gửi lên bộ KHĐT, bộ Tài chính tổng hợp và trình Thủ tướng xem xét trước khi trình quốc hội thông qua
Biểu đồ dưới đây mô tả quy trình phân bổ ngân sách của Chương trình
Hình 3.10. Quy trình phân bổ ngân sách của Chương trình giảm nghèo bền
vững
[Nguồn: Tác giả tổng hợp]
Sau khi Quốc hội thông qua, Bộ KHĐT và Bộ Tài chính sẽ giao kế hoạch
ngân sách cho các bộ ngành liên quan và UBND các tỉnh UBND các cấp và các bộ
ngành có trách nhiệm thực hiện Chương trình xây dựng kế hoạch thực hiện và ngân
sách thường niên, sau đó gửi lên bộ KHĐT, bộ Tài chính tổng hợp và trình Thủ
tướng xem xét trước khi trình quốc hội thông qua. Đầu tiên UBND các cấp và các
bộ ngành có trách nhiệm thực hiện Chương trình xây dựng kế hoạch thực hiện và
ngân sách thường niên, sau đó gửi lên bộ KHĐT, bộ Tài chính tổng hợp và trình
Thủ tướng xem xét trước khi trình quốc hội thông qua. Sau khi Quốc hội thông qua,
Bộ KHĐT và Bộ Tài chính sẽ giao kế hoạch ngân sách cho các bộ ngành liên quan
và UBND các tỉnh. Nhìn chung công tác điều phối và lồng ghép các hoạt động
XĐGN được thực hiện chủ yếu thông qua quá trình lập kế hoạch hàng năm và thực
132
hiện kế hoạch đặc biệt ở cấp tỉnh. Chính vì vậy, chính quyền tỉnh cụ thể là Tỉnh ủy
và UBND là những đơn vị tham gia chủ chốt. Điều này được khẳng định bởi quyền
tự quyết rộng rãi được giao cho các tỉnh trong việc phân bổ kinh phí.
Tại các địa phương đều thành lập ban chỉ đạo do Chủ tịch hoặc phó Chủ tích
làm trưởng ban làm nhiệm vụ điều phối và chỉ đạo chung. Các đoàn thể quần chúng
cũng có vai trò tích cực trong XĐGN ở cấp cơ sở. Các tổ chức này đóng vai trò là
cầu nối giữa bên Đảng và Chính phủ với người dân địa phương thông qua vận động.
Các tổ chức này có mạng lưới rộng từ trung ương đến địa phương điều này giúp họ
có khả năng tập trung hỗ trợ trực tiếp cho những đối tượng hưởng lợi ở cấp cơ sở.
Ngoài ra họ còn tạo điều kiện cung cấp các dịch vụ tín dụng cho người nghèo thông
qua việc thành lập các nhóm tín dụng, làm trung gian giữa ngân hàng và nhóm đối
tượng hưởng lợi hoặc đứng ra bảo lãnh tiền vay cho các hội viên của mình. Đặc biệt
Hội Liên hiệp phụ nữ và hộ Nông dân còn tham gia ở nhiều mức độ khác nhau từ
lựa chọn người được vay dến trực tiếp quản lý vốn trong hợp phần tín dụng cho
người nghèo của Chương trình XĐGN. Mặt trận tổ quốc Việt Nam là cơ quan chủ
cốt ở địa phương triệu tập thành lập Ban Thanh tra nhân dân cấp xã. Lãnh đạo các
cơ sở, các tổ chức đoàn thể quần chúng như hội ND và hội LHPN thường đồng thời
là đại biểu Hội đồng Nhân dân. Do đó việc thực hiện Nghị định Dân chủ cơ sở đã
mang lại tác động tích cực đến chức năng của các cơ sở đoàn thể quần chúng trong
việc truyền tải các phản hồi của công dân tới HĐND và đã giúp làm củng cố các
nhóm, các tổ chức quần chúng không chính thức của người dân tại địa phương.
Trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo cần phải huy động,
bố trí một khối lượng nguồn lực rất lớn để có thể đưa chính sách vào đời sống xã
hội. Với đặc điểm KT-XH của vùng các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, các địa
phương trong vùng đã tích cực huy động và sử dụng nguồn lực của mình cùng với
sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước để tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững trên địa bàn. Nguồn lực này chủ yếu tập trung vào hai loại
nguồn lực cơ bản là; (i) nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, ứng
dụng khoa học công nghệ và (ii) nguồn lực vốn
Nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, ứng dụng khoa học công
nghệ: Với điều kiện của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, các nguồn lực về tài
nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ rất thiếu thốn, ít có khả năng
133
khai thác để phục vụ cho giảm nghèo bền vững. Tiềm năng tài nguyên đất và rừng
tuy còn lớn nhưng chưa được quản lý, bảo vệ và khai thác có hiệu quả để phục vụ
cho sản xuất. Các ngành khai khoáng chưa phát triển nhiều, ngành lâm nghiệp cũng
chưa đủ sức để quản lý, bảo vệ, khai thác và chế biến sản vật từ rừng tại địa phương
qua đó khó có thể thu hút được lực lượng lao động tại chỗ. Nói chung NSNN đầu tư
cho khai thác và bảo vệ tài nguyên và phát triển CSHT kinh tế của các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam còn hạn hẹp, trong khi các bộ, ngành cũng chưa có đủ nguồn lực
tài chính hoặc chưa thực sự quan tâm đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam. Vì vậy nguồn lực về tài nguyên của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
chưa được khai thác tương xứng với tiềm năng vốn có để phát triển KT-XH và giảm
nghèo bền vững.
Nguồn lực vốn:
Nguồn vốn để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững được huy động
qua các nguồn: ngân sách nhà nước và các tổ chức quốc tế; vốn của các doanh
nghiệp trong và ngoài địa phương; vốn huy động từ nhân dân…
Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước và các tổ chức quốc tế: Nguồn vốn để
thực hiện giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam chủ yếu là
nguồn ngân sách nhà nước, huy động ngân sách từ địa phương hầu như chưa có do
nguồn thu ít, chi ngân sách hàng năm chủ yếu do trung ương cấp (chi ngân sách cao
hơn nguồn thu ngân sách). Nguồn vốn huy động từ các doanh nghiệp và các tổ chức
cho giảm nghèo bền vững đạt tỷ lệ thấp. Do thiếu vốn nên việc bố trí vốn cho các
nhiệm vụ giảm nghèo bền vững chưa được triển khai đồng bộ như việc thực hiện
chính sách hỗ trợ sản xuất cho các hộ đăng ký được hỗ trợ máy móc, thiết bị như
máy cày, máy bừa, máy say sát, máy phát cỏ, máy bơm...để phục vụ sản xuất và chế
biến, bảo quản nông sản sau thu hoạch chưa được triển khai thực hiện. Các hộ có
nguyện vọng được hỗ trợ để chăn nuôi một số vật nuôi có giá trị kinh tế cao như:
Ong, Nhím, Ba Ba...nhưng không được hỗ trợ hoặc mức hỗ trợ rất thấp không đủ để
thực hiện.
Điều kiện về KT-XH của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam cho thấy để
huy động được nguồn lực nhất là nguồn vốn để thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững là một trong những khó khăn rất lớn của những địa phương trong vùng.
Tuy nhiên trong các giai đoạn 2006 - 2010 và 2011 - 2015 các địa phương đã biết
134
phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ của nhà
nước, doanh nghiệp và các nguồn vốn khác để tập trung giảm nghèo bền vững. Chỉ
tính riêng tỉnh Điện biên trong giai đoạn 2006 - 2010, nguồn vốn huy động từ ngân
sách trung ương, ngân sách địa phương, các đơn vị doanh nghiệp cho chương trình
xóa đói giảm nghèo được 3.057,928 tỷ đồng (tăng 7,34% so với kế hoạch). Đã tập
trung sử dụng lồng ghép để ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội cho các xã
đặc biệt khó khăn, các xã biên giới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, tạo
việc làm cho người lao động, giảm nghèo bền vững và ổn định dân cư một cách
toàn diện trên tất cả các mặt đời sống xã hội, nhất là những nơi đồng bào dân tộc
đang gặp nhiều khó khăn, [15]. Giai đoạn 2011-2015 Điện Biên huy động 4.353,2
tỷ đồng cho chính sách hỗ trợ giảm nghèo chung, các chính sách hỗ trợ giảm nghèo
đặc thù 1.979,7 tỷ đồng,. Tỉnh Lai Châu trong giai đoạn 2011 – 2015 thu hút được
3.259.185 triệu đồng, trong đó vốn tín dụng là 1.081.000 triệu đồng (Ngân sách
trung ương: 2.157.464 triệu đồng. Ngân sách địa phương: 10.721 triệu đồng. Vốn
huy động khác: 10.000 triệu đồng). Tỉnh Hòa Bình năm 2011, huy động và phân bổ
kinh phí thực hiện chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo thuộc hộ nghèo ở
vùng khó khăn; tổng số 10.987.240.000đồng, trong đó xã khu vực I là
6.477.040.000 đồng, xã khu vực II là 4.510.200.000 đồng. Phân bổ vốn dự án giảm
nghèo giai đoạn II; tổng số 23.742,4 triệu đồng, trong đó vốn vay WB là 19.742,4 triệu đồng, vốn ngân sách tỉnh đối ứng 4.000 triệu đồng [55].
Từ những số liệu trên cho thấy nguồn thu hàng năm của các tỉnh là rất hạn
chế và tất cả các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đều phải phụ thuộc vào các
khoản kinh phí hỗ trợ có mục tiêu hàng năm từ ngân sách trung ương do tỷ lệ bội
chi quá lớn, đặc biệt là hai tỉnh Điện Biên và Lai Châu.
Nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài địa phương. Các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam là khu vực được coi là ít có điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội nhất trong số các vùng kinh tế của Việt Nam. Đặc điểm này xuất phát từ
điều kiện tự nhiên, thiên nhiên, vị trí địa lý, nguồn nhân lực...vì vậy việc huy động,
kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào khu vực này là rất khó khăn. Để thu
hút đầu tư, hoạt động XTĐT của các địa phương đã được xây dựng thành chương
trình XTĐT hàng năm, đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của hoạt động XTĐT.
Hầu hết các hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT) phù hợp với kế hoạch, quy hoạch
135
phát triển của địa phương. Các hoạt động XTĐT đã được triển khai rộng khắp ở cả
tất cả các tỉnh miền núi phía Bắc đánh dấu chuyển biến XTĐT từ bị động sang chủ
động. Các địa phương đã lồng ghép XTĐT với thương mại và du lịch.
Liên kết hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch giữa các tỉnh thuộc
khu vực Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, thúc đẩy hoạt động giao thương
giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Thông qua Hội chợ, các tổ chức, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận thị trường,
trưng bày, quảng cáo, giới thiệu và bán các loại hàng hóa công nghiệp, thủ công mỹ
nghệ, nông sản thực phẩm, sản vật địa phương, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm tới các tỉnh bạn và xuất khẩu ra nước ngoài.
Nguồn vốn huy động từ nhân dân. Với điều kiện kinh tế xã hội các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam chậm phát triển, tỷ lệ hộ nghèo cao, nên hầu như nguồn vốn
huy động từ nguồn ngân sách của địa phương để chi cho giảm nghèo bền vững là rất ít chỉ chiếm 0,31% tổng nguồn vốn [43]. Điều này rõ ràng là các địa phương các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam khó có thể huy động được nguồn vốn từ người
dân cho giảm nghèo bền vững.
Như vậy, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có nguồn thu từ phát triển
KT-XH không đáng kể, hầu hết ngân sách phụ thuộc vào trung ương trong khi ngân
sách trung ương lại chưa đủ để đáp ứng hết nhu cầu cho giảm nghèo bền vững ở các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đồng thời nguồn lực đầu tư còn phân tán và dàn
trải, chưa tập trung ưu tiên giải quyết những vấn đề bức xúc nhất ở những địa bàn
trọng điểm nhất nên các chủ trương, kỳ vọng trong giảm nghèo bền vững của các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn vừa qua chưa mang lại kết quả
như mong muốn của nhà nước cũng như của các đối tượng chính sách và của toàn
xã hội.
3.3.4. Thanh tra, kiểm tra và chế độ báo cáo, phối hợp giữa các cấp
Để chính sách giảm nghèo bền vững mang lại kết quả, phù hợp với điều kiện
và hoàn cảnh thực tế của địa phương, trong những năm qua cấp ủy và chính quyền
địa phương các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã tích cực kiểm tra, giám sát quá
trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương mình. Trong những
năm từ các giai đoạn 2006 - 2010 và 2011 - 2015, các địa phương đã ban hành các
kế hoạch kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền
136
vững trên địa bàn của tỉnh mình, đồng thời đôn đốc, chỉ đạo các ban, ngành, đoàn
thể của địa phương tích cực tham gia vào công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá quá
trình thực hiện chính sách.
Đảng ủy, HĐND các tỉnh đều ban hành nghị quyết về chương trình, kế hoạch
giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững hàng năm trên địa bàn.
Căn cứ vào nghị quyết của Tỉnh ủy, nghị quyết của HĐND, UBND các tỉnh ban
hành kế hoạch thực hiện giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
hàng năm. Nhìn chung các kế hoạch kiểm tra giám sát của các địa phương trong
vùng đều có những nội dung cơ bản sau:
Thành lập các đoàn kiểm tra, giám sát với các thành viên trong đoàn là đại
diện của các Sở, Ban, Ngành, đoàn thể có liên quan. Số lượng các đoàn giám sát
được thành lập ở các tỉnh có khác nhau, trong đó; Lai Châu, Điện Biên thành lập 4
đoàn; Hòa Bình, Sơn La 5 đoàn, thực hiện hàng chục đợt, kiểm tra, giám sát và
đánh giá việc thực hiện chính sách.
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững tập trung vào những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất là, công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững của địa phương bao gồm: Công tác chỉ đạo của cấp ủy, UBND đối với chương
trình giảm nghèo, các biện pháp tổ chức điều hành, công tác xây dựng và triển khai
kế hoạch, xác định trọng tâm, trọng điểm trong thực hiện chính sách.
Thứ hai là, công tác điều tra, rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm.
Thứ ba là, kết quả thực hiện các chính sách, dự án giảm nghèo, dạy nghề,
vay vốn ưu đãi, khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư, hỗ trợ về y tế, giáo dục,
nhà ở, điện, nước sinh hoạt…
- Về phương thức kiếm tra, giám sát.
Quá trình kiểm tra giám sát được thực hiện dựa trên những phương thức cơ
bản sau: Nghe ban chỉ đạo giảm nghèo cấp xã báo cáo kết quả thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững hàng năm và kết quả thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận
nghèo; Kiểm tra các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn của địa phương về thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, kiểm tra hồ sơ quản lý hộ nghèo, hộ cận nghèo, hồ sơ rà
137
soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hàng năm; Khảo sát thực tế tại một số hộ nghèo tại
một số xã thuộc phạm vi kiểm tra, giám sát của đoàn.
Qua kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện, các đại phương đã phát hiện ra
những hạn chế, yếu kém trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững ở các địa phương trong vùng giám sát đồng thời đã kịp thời
xử lý hoặc kiến nghị đến cấp có thẩm quyền kịp thời xử lý những hành vi sai phạm
trong quá trình thực hiện thực hiện chính sách. Qua kiểm tra, giám sát, các địa
phương cũng đã phát hiện ra những hạn chế, những điểm chưa hợp lý của chính
sách khi tổ chức triển khai thực hiện ở địa phương bao gồm:
Thứ nhất, về sự đồng bộ của chính sách. Hiện nay để hướng tới giảm nghèo
bền vững bền vững hiện có ba nhóm là; chính sách giảm nghèo bền vững chung
được áp dụng chung cho đối tượng là người nghèo trên phạm vi cả nước; chính sách
giảm nghèo bền vững cho những vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn như miền núi,
hải đảo, vùng sâu vùng xa và chính sách giảm nghèo bền vững cho những vùng có
người dân là đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu dân số.
Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là vùng có điều kiện phát triển KT-XH
thuộc loại khó khăn nhất cả nước và cũng là vùng có tỷ lệ người dân tộc thiểu số
sinh sống cao nhất cả nước, tỷ lệ hộ nghèo cũng thuộc loại cao nhất nước. Tuy
nhiên, trong quá trình thực hiện, các địa phương đều cho rằng chính sách giảm
nghèo bền vững chưa tách bạch được một cách tương đối về đối tượng chính sách,
nghĩa là có sự chồng chéo giữa chính sách vùng với chính sách chung của quốc gia.
Đây là trở ngại lớn khi chính sách đang được quản lý theo chiều dọc và thực hiện
chính sách theo hình thức từ trên xuống nhưng lại thiếu sự phối kết hợp giữa các
cấp chính quyền từ trung ương xuống địa phương.
Hệ thống chính sách giảm nghèo bền vững có sự trùng lắp, dàn trải, thiếu đồng
bộ đã thể hiện rõ trong quá trình tổ chức thực hiện. Ví dụ cùng nội dung giải quyết
nước sạch sinh hoạt có nhiều hợp phần khác nhau đề cập như: Chương trình mục tiêu
Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn do Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn quản lý trong khi Quyết định 134/QĐ-TTg. Quyết định 1592QĐ-TTg
và Chương trình 135 lại do UBDT quản lý. Cùng ổn định dân cư nhưng có tới 05 chính
138
sách gồm: định canh, định cư theo Quyết định 33/2007/QĐ-TTg; ổn định sắp xếp dân
cư cho vùng khó khăn, thiên tai theo Quyết định 193/2006/QĐ-TTg; các Quyết định
120/2003/QĐ-TTg, Quyết định 160/2007/QĐ-TTg và Quyết định 1151/QĐ-TTg. Với
06 nội dung của chính sách giảm nghèo bền vững đã và đang được thực hiện có nhiều
hạng mục, nội dung đều được quy định ở những hợp phần khác nhau. Cụ thể như; hỗ
trợ xây dựng công trình nước sinh hoạt có ở cả 06 hợp phần, hỗ trợ sản xuất, nhà ở có ở
05 hợp phần. Ngay cả nội dung đào tạo nghề cho lao động nông thôn cũng được quy
định ở cả Chương trình 135-II, Chương trình mục tiêu Quốc gia về giảm nghèo,
Chương trình 30a và Chương trình 134 [55].
Giữa chính sách ban hành trước và sau chưa có sự kết nối về nội dung,
nhiệm vụ để tạo nên hệ thống chính sách đồng bộ, hoàn chỉnh. Nhiều nội dung của
chính sách dàn trải và thiếu nguồn lực thực hiện, sự trùng lắp và thiếu thống nhất ở
một số hợp phần của chính sách như định canh định cư, sắp xếp ổn định, bố trí dân
cư, được thực hiện trong 03 quyết định nhưng định mức hỗ trợ hộ gia đình lại khác
nhau. Bên cạnh đó mỗi hợp phần của chính sách giảm nghèo bền vững lại quy định
cơ chế quản lý, cơ quan thường trực chỉ đạo khác nhau trong cùng một giai đoạn
gây khó khăn cho quá trình thực hiện kể cả việc phân bổ ngân sách.
Tỷ lệ
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
Tỷ lệ
20.00%
10.00%
0.00%
128/600
422/600
50/600
Có
Không
Không có câu trả lời
Hình 3.11. Tỷ lệ người dân tham gia kiểm tra, giám sát qúa trình thực hiện
chính sách
[Nguồn:Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
139
Thứ hai, về hiệu quả và tác động của chính sách. Các chính sách giảm nghèo hiện hành được các địa phương đánh giá cơ bản phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của người nghèo, nhất là hộ nghèo dân tộc thiểu số; tuy nhiên, do có quá nhiều chính sách giảm nghèo dẫn đến nguồn lực bị phân tán, hiệu quả tác động đến đối tượng
thụ hưởng chưa cao, chưa rõ nét; việc chậm hướng dẫn, sửa đổi một số chính sách đã gây khó khăn cho các địa phương trong việc tổ chức thực hiện như: hướng dẫn thực hiện Quyết định số 60/2011/QĐ-TTg ngày 26/10/2011 của Thủ tướng Chính
phủ Quy định một số chính sách phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2011-2015; sửa đổi Nghị định 49/2010/NĐ-CP về chính sách miễn giảm học phí...
Như đã trình bày ở chương 2, kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững cần phải được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau bao
gồm các cơ quan nhà nước, các tổ chức đoàn thể nhân dân và của chính đối tượng chính sách. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả luận án nhận thấy
công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững chủ yếu được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước từ tỉnh đến xã mà chưa có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội và của người dân, việc tham gia giám sát, kiểm tra của người nghèo vào quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
0.9
0.8
0.7
0.6
0.5
0.4
Trả lời
0.3
Tỷ lệ
0.2
0.1
0
Không tham gia Không muốn
Tham gia tích cực
tham gia
Tham gia nhưng không tích cực
là vô cùng hạn chế, chỉ chiếm 18%, (Hình 3.11).
Hình 3.12. Sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội trong kiểm tra, đánh
giá quá trình thực hiện chính sách
[Nguồn:Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
140
Tương tự, khi khảo sát đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã về sự tham gia của
các tổ chức chính trị-xã hội vào kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững ở địa phương, câu trả lời có chỉ chiếm 13% nhưng lại có tới
87% số người được hỏi cho rằng không có sự tham gia của các tổ chức chính trị- xã
hội. Điều này chính tỏ việc người dân (đối tượng của chính sách) và các tổ chức
chính trị - xã hội ở cơ sở rất ít có cơ hội được tham gia vào quá trình kiểm tra, giám
sát việc thực hiện chính sách (Hình 3.11). Bởi vậy việc đánh giá sự phù hợp của các
biện pháp thực hiện chính sách chưa phản ánh hết nhu cầu, mong muốn, nguyện
vọng của người dân, dẫn đến chậm trễ trong việc điều chỉnh biện pháp thực hiện
chính sách làm giảm kết quả và hiệu quả của quá trình thực hiện.
3.4. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam
Cùng với các địa phương khác trong cả nước, các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam đã tích cực, chủ động tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững qua đó đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, quá trình
tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam bên cạnh những ưu điểm vẫn còn nhiều tổn tại, hạn chế cần phải
được khắc phục để nâng cao hơn nữa kết quả và hiệu quả của chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong những năm tiếp theo.
3.4.1. Những ưu điểm
Hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta trong những năm vừa qua có một số ưu điểm sau:
Thứ nhất, các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản
hướng dẫn, triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo ở địa phương mình. Tỉnh ủy
các tỉnh đều ban hành nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động chuyên đề về
giảm nghèo, Hội đồng nhân dân các tỉnh ban hành Nghị quyết chuyên đề về giảm
nghèo. Các địa phương đã đưa chỉ tiêu về giảm nghèo vào Nghị quyết phát triển
kinh tế - xã hội hàng năm và xây dựng giải pháp cụ thể để tổ chức thực hiện.
Nhiều địa phương đã sáng tạo xây dựng các phương thức hỗ trợ phù hợp đối
với người nghèo như phân công các cấp ủy đảng cơ sở, đảng viên, cán bộ chính
quyền, đoàn thể theo dõi, giúp đỡ, hướng dẫn, chịu trách nhiệm về việc thoát nghèo
đối với các hộ nghèo theo địa chỉ cụ thể; một số địa phương thực hiện tốt việc tổ
141
chức đối thoại giữa chính quyền cấp xã với các hộ nghèo; có chính sách khuyến
khích, vận động người nghèo tự nguyện đăng ký thoát nghèo; một số địa phương
ban hành các cơ chế, chính sách đặc thù riêng như hỗ trợ thêm tiền ăn, học phí từ
ngân sách địa phương cho học sinh nghèo, học sinh người dân tộc thiểu số, xây
dựng các mô hình giảm nghèo đối với hội viên của các đoàn thể (phụ nữ, cựu chiến
binh, thanh niên)…
Thứ hai, các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương và đội ngũ làm công tác
giảm nghèo đã chú trọng việc tuyên truyền chính sách, pháp luật đến cộng đồng dân
cư và trực tiếp đến với người nghèo. Bên cạnh hình thức tuyên truyền, phổ biến
mang tính truyền thống (thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, hội nghị,
hội thảo, tập huấn, tờ rơi, sách tuyên truyền…) các địa phương đã linh hoạt lồng
ghép hoạt động tuyên truyền với sinh hoạt của thôn, ấp, bản, tổ dân phố và các
nhóm dân cư. Một số địa phương đã in ấn tài liệu tuyên truyền bằng chữ viết của
đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương, để phù hợp với ngôn ngữ giao tiếp, phong
tục, tập quán của người dân. Sự tham gia tích cực, có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, tổ chức phi Chính phủ thông qua các cuộc vận
động, các dự án, xây dựng mô hình thí điểm ở các cấp cũng như sự hỗ trợ của các
chương trình công ích của nhà nước như Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông
công ích (2006-2010), cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, Chương trình mục tiêu
Quốc gia đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo
(2012-2015) đã tạo điều kiện và góp phần thúc đẩy công tác tuyên truyền, phổ biến
chính sách, pháp luật về giảm nghèo tốt hơn so với những giai đoạn trước đây.
Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật đóng vai trò quan
trọng, là yếu tố tác động để người nghèo, cộng đồng dân cư có nhận thức đúng, đầy
đủ, góp phần triển khai có hiệu quả mục tiêu KT-XH gắn với giảm nghèo, giúp
người nghèo hiểu được các chế độ, chính sách liên quan đến mình, nâng cao nhận
thức và chủ động cải thiện cuộc sống với sự hỗ trợ của chính quyền, các tổ chức
đoàn thể nhân dân và của cộng đồng xã hội.
Thứ ba, việc phân công phối hợp thực hiện chính sách đã được các địa
phương chú trọng triển khai thực hiện. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể ở địa phương để huy động tối đa sự tham gia
của các cơ quan tổ chức. Việc các tổ chức đoàn thể ở địa phương như; Hội Nông
142
dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên tham gia thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững đã góp phần giúp đỡ người nghèo thay đổi cách thức
làm ăn, hỗ trợ sản xuất, vốn vay để họ phấn đấu thoát nghèo. Nhiều cộng đồng dân
cư, nhất là các vùng lõi nghèo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người dân và cộng
đồng dân cư, dòng họ đã tham gia xây dựng mô hình giúp nhau thoát nghèo, hỗ trợ
tín dụng tiết kiệm, đóng góp tiền, nguyên vật liệu xây dựng, nhường đất ở, thậm chí
hiến đất, tặng đất làm đường, trường học, trạm y tế, góp công xây sửa nhà ở… cho
người nghèo.
Thứ tư, trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, ngoài sự nỗ lực của
chính quyền các cấp từ tỉnh xuống tới xã đã biết vận dụng, tập hợp và huy động sự
tham gia có kết quả và hiệu quả của các tổ chức đoàn thể như; Đoàn Thanh niên,
Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân… vào quá trình thực hiện chính
sách từ khâu lên kế hoạch cho đến kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức triển khai
thực hiện. Điều này đã và đang tạo ra những phong trào cùng nhau đẩy lùi đói
nghèo và thi đua lẫn nhau trong việc giúp hội viên, đoàn viên của mình thoát nghèo
giữa các tổ chức đoàn thể tại địa phương.
Thứ năm, huy động mọi nguồn lực cho việc thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững nhanh và bền vững; tranh thủ nguồn đầu tư của trung ương; bố trí hợp lý
nguồn lực của tỉnh; tranh thủ sự tài trợ, giúp đỡ của các tổ chức kinh tế, chính trị -
xã hội trong và ngoài tỉnh; nguồn lực trong nhân dân; mở rộng nguồn vốn vay ưu
đãi. Việc huy động nguồn lực nhất là nguồn vốn tại địa phương đã giúp cho các địa
phương tìm ra hướng đi mới trong việc thực hiện các mô hình phát triển KT-XH ở
địa phương mình với phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm nhất là trong
lĩnh vực xây dựng CSHT kinh tế, qua đó huy động được sự tham gia tích cực của
cộng đồng dân cư. Ở nhiều địa phương hình thức này đã trở thành phong trào và
được người dân tích cực hưởng ứng thực hiện. Điều này thực sự đã giảm tải gánh
nặng cho ngân sách nhà nước và ngân sách của địa phương trong thực hiện giảm
nghèo bền vững.
Thứ sáu, đa số người nghèo đã nâng cao ý thức, có trách nhiệm hơn với cuộc
sống của mình, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước và xã hội, người nghèo đã tích cực
học nghề, tìm kiếm việc làm, sản xuất kinh doanh, tiết kiệm để phấn đấu thoát
nghèo, có cơ hội và chủ động tiếp cận dịch vụ giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức
143
khỏe...góp phần giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Số địa phương có
người nghèo tham gia đăng ký thoát nghèo đang tăng dần, người nghèo đã tích cực
cùng với cộng đồng dân cư tham gia các chương trình huy động xã hội, đóng góp
ngày công xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng ở địa phương, đóng góp tiền xây
nhà theo các chương trình hỗ trợ nhà ở, đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt
cho hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc diện nghèo.
Thứ bảy, tăng cường phân cấp quản lý giữa tỉnh, huyện và cấp xã, đi đôi với
nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ các cấp, các ngành, nhất là
người đứng đầu; các cấp chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững của cấp mình; tỉnh, huyện huy động, bổ sung nguồn lực và
chủ động phân bổ cho cấp xã; hướng dẫn và giám sát thực hiện ở cấp xã. Củng cố,
kiện toàn Ban chỉ đạo và cơ quan giúp việc Ban chỉ đạo xóa đói giảm nghèo các cấp
bảo đảm chỉ đạo, điều hành và sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chính sách,
phân định rõ trách nhiệm của các thành viên trong ban chỉ đạo giảm nghèo bền
vững. Nêu cao trách nhiệm của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức
đoàn thể trong giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn mới.
Thứ tám, công tác kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện chính sách
đã được thực hiện thường xuyên với sự tham gia của nhiều cấp, nhiều ngành, đồng
thời tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị - xã hội từ tỉnh xuống xã tham gia vào
công tác kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện. Qua công tác kiểm tra, đánh giá quá
trình thực hiện các địa phương đã kịp thời phát hiện những bất cập của chính sách
cũng như những biểu hiện sai phạm trong quá trình thực hiện để kịp thời kiến nghị
với cơ quan nhà nước cấp trên điều chỉnh hoặc xử lý các hành vi vi phạm theo thẩm
quyền. Việc thường xuyên kiểm tra giám sát quá trình thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững đã giúp cho quá trình thực hiện chính sách ở các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam thu được những kết quả tích cực về giảm nghèo bền vững.
Thứ chín, quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững đã đạt được những kết quả nhất định. Tỷ lệ giảm nghèo nhanh qua các năm,
tình trạng tái nghèo giảm mạnh. Đến nay tỷ lệ nghèo của các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam đã giảm từ 45,7% năm 2008 xuống còn 23,92% năm 2014. Các điều kiện
về cơ sở hạ tầng đã được cải thiện, đời sống nhân dân các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam đã có sự đổi thay tích cực. Người nghèo, hộ nghèo ngày càng có nhận
144
thức đúng đắn, có ý thức tự phấn đấu vươn lên giảm nghèo; biết thực hành tiết
kiệm, học hỏi cách làm ăn, tận dụng các cơ hội và sử dụng có hiệu quả các chính
sách hỗ trợ của nhà nước để thoát nghèo bền vững.
Tình hình an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm đã tạo
tiền đề vững chắc cho các địa phương các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam thực
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội.
3.4.2. Những tồn tại hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động quản lý nhà nước về giảm nghèo
bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế
cần phải được khắc phục trong thời gian tới. Những tồn tại, hạn chế đó bao gồm:
Thứ nhất, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu - nghèo giữa
các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các
huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, nhưng nhiều nơi tỷ lệ
nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60-70%; Tỷ trọng hộ nghèo dân tộc thiểu
số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân của hộ dân
tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ tái nghèo,
phát sinh nghèo hàng năm còn cao (bình quân mỗi năm có khoảng 1/3 hộ tái nghèo
và phát sinh nghèo mới so với tổng số hộ thoát nghèo do hậu quả thiên tai, lũ lụt,
dịch bệnh, tách hộ…, trong đó hộ phát sinh nghèo chiếm khoảng 60% trong số hộ tái nghèo và phát sinh nghèo) [12].
Trong thời gian qua, để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo tự vươn lên thoát
nghèo, Nhà nước đã ban hành nhóm chính sách về việc làm, tăng thu nhập như cho
vay vốn tín dụng ưu đãi, dạy nghề, tạo việc làm, xuất khẩu lao động, hỗ trợ phát
triển sản xuất. Đồng thời, ban hành các chính sách tạo điều kiện cho người nghèo,
cận nghèo, mới thoát nghèo tiếp cận dịch vụ xã hội như y tế, giáo dục,.. Tuy nhiên
mức hỗ trợ của các chính sách này còn thấp, chưa đủ mạnh để thúc đẩy hộ vươn lên
thoát nghèo. Bên cạnh đó, còn nhiều chính sách hỗ trợ cho không như chính sách hỗ
trợ về gạo, vải mặc, dầu hỏa thắp sáng, cấp tiền điện... đã làm tăng tính ỷ lại, không
muốn thoát nghèo của người nghèo.
Thứ hai, chưa khai thác, huy động được nhiều nguồn lực tại chỗ, chưa phát
huy được nội lực trong dân và chính người nghèo; quan điểm trông chờ, ỷ lại vào
nguồn vốn ngân sách vẫn còn tồn tại ở một số địa phương và người nghèo. Mặt
145
khác, trong bối cảnh kinh tế suy thoái, hoạt động kinh doanh gặp khó khăn, ảnh
hưởng đến việc huy động nguồn lực hỗ trợ cho giảm nghèo của các doanh nghiệp;
tuy đã có quy trình lập, phân bổ nguồn lực cho chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ [12], nhưng nguồn vốn bố trí cho
quá trình thực hiện chỉ được xác định cụ thể theo từng năm, chưa giao vốn trung
hạn, gây lúng túng cho các địa phương trong việc lập kế hoạch ngân sách cho các
năm tiếp theo và thực hiện phân cấp, trao quyền cho cơ sở, cộng đồng.
Thứ ba, việc phân cấp cho các địa phương bố trí kế hoạch cụ thể nguồn lực
cho mục tiêu giảm nghèo là hoàn toàn phù hợp, tuy nhiên hiện nay lại thiếu chế tài
về cơ chế quản lý, giám sát việc bố trí, sử dụng vốn cho mục tiêu giảm nghèo ở các
địa phương, dẫn đến một số địa phương sử dụng nguồn lực cho giảm nghèo chưa
hiệu quả (như chưa quan tâm bố trí vốn cho phát triển sản xuất, nặng về đầu tư cơ
sở hạ tầng; chưa có cơ chế về đấu thầu cộng đồng để tăng cường sự tham gia của
người dân...). Về vốn để thực hiện các chính sách giảm nghèo, trong những năm
qua, đã có nhiều chính sách giảm nghèo được bổ sung, ban hành, điều chỉnh mức hỗ
trợ, giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các nhu cầu cơ bản, tối thiểu về y tế, giáo
dục, nhà ở, nước sạch...; tuy nhiên hiện có quá nhiều chính sách (khoảng trên 70
chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo, đồng bào DTTS), dẫn đến sự chồng ghép, chia cắt,
manh mún, hạn chế khả năng tác động, làm chuyển biến rõ nét về đời sống của
người nghèo.
Thứ tư, sự tham gia của các tổ chức đoàn thể ở địa phương chưa thực sự có
hiệu quả, thậm chí nhiều địa phương, các tổ chức đoàn thể hoạt động tự phát hoặc
tham gia với vai trò hỗ trợ cho chính quyền mà chưa tích cực chủ động tham gia sâu
rộng vào quá trình thực hiện. Điều này làm giảm vai trò xung kích của các tổ chức
đoàn thể nhân dân nhất là trong công tác vận động quần chúng nhân dân tham gia
vào quá trình giảm nghèo bền vững tại địa phương mình.
Thứ năm, quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững chủ
yếu được thực hiện theo hình thức từ trên xuống với những cơ chế, chương trình, kế
hoạch cứng nhắc theo ý chí của cấp ban hành, thiếu sự tham gia của người nghèo và
chính quyền cơ sở trong việc xây dựng các chương trình, dự án giảm nghèo (không có
sự tham gia của cộng đồng). Do vậy, nhiều chương trình, kế hoạch khi tổ chức thực
hiện lại không phù hợp với thực tế làm cho mục tiêu của chính sách chưa đạt được,
146
giảm sút lòng tin của người nghèo và gây lãng phí nguồn ngân sách của nhà nước.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đây được coi là điểm hạn chế lớn nhất
trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam và là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến kết quả giảm nghèo bền vững ở
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay, chính vì vậy chúng tôi sẽ đề xuất một
mô hình chuẩn để tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam trong chương 4 của luận án này.
Thứ sáu, mặc dù thực hiện chính sách là một quá trình rất phức tạp, ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả của chính sách. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có bất kỳ một văn bản pháp quy nào của nhà nước được ban hành để quy định
về quy trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách công nói chung và chính sách
giảm nghèo bền vững nói riêng. Điều này dẫn đến các địa phương phải tự nghiên
cứu, tìm hiểu để tổ chức thực hiện dẫn đến cùng một chính sách nhưng các địa
phương lại thực hiện khác nhau về quy trình. Cũng chính vì chưa có một quy trình
chuẩn để tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững nên xảy ra
tình trạng, địa phương này thì coi trọng khâu vận động tuyên truyền mà coi nhẹ
khâu phân công, phối hợp thực hiện nhưng địa phương khác lại coi trọng khâu kiểm
tra giám sát quá trình thực hiện mà coi nhẹ khâu vận động tuyên truyền. Điều này
tất yếu dẫn đến kết quả thực hiện của các địa phương là không giống nhau, thậm chí
từ đó nảy sinh ra các hiện tượng tiêu cực trong thực hiện hoặc gây lãng phí nguồn
ngân sách cho giảm nghèo bền vững.
Thứ bảy, công tác kiểm tra giám sát mặc dù đã được thực hiện thường xuyên
nhưng chưa thực sự có hiệu quả. Vai trò của giám sát và đánh giá chính sách là rất
lớn. Tuy nhiên thời gian qua công tác giám sát mặc dù đã được thực hiện nhưng
nặng về hình thức nên chất lượng thấp, không liên tục và kịp thời. Việc kiểm tra,
giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững nhằm kịp
thời phát hiện ra những vấn đề bất cập, những hạn chế của chính sách để có phương
án điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn là việc làm cần thiết mà không thể xem
nhẹ. Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát còn mang nặng tính chất hành chính.
Thông tin mà hoạt động kiểm tra, giám sát cung cấp cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền chưa đáp ứng đầy đủ và kịp thời cho quá trình hoàn thiện chính sách.
147
Chính điều này đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực, hiệu quả cũng như đảm
bảo sự phù hợp và bền vững của chính sách trong quá trình thực hiện.
Hiện tượng chủ quan, hình thức vẫn diễn ra phổ biến do rất nhiều nguyên
nhân khác nhau kể cả khách quan và chủ quan. Điều này dẫn đến những cách làm
không phù hợp mà không kịp thời được khắc phục gây ra hậu quả xấu cho xã hội,
ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào nhà nước và lãng phí nguồn lực của nhà
nước, địa phương và đối tượng chính sách.
3.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Khi nghiên cứu về thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả đã chỉ ra những tồn tại, hạn
chế như đã phân tích ở mục 3.4.2. So sánh, tham chiếu với những yếu tố ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững đã trình bày tại mục 2.2.3 của
chương 2 cho thấy, những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân
cơ bản sau:
3.4.3.1. Nguyễn nhân khách quan
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam là vùng có địa hình hiểm trở, hệ thống giao thông đến các bản làng vùng sâu,
vùng xa chưa đáp ứng, xa trung tâm phát triển của đất nước. Bên cạnh đó điều kiện
về thời tiết, khí hậu khắc nhiệt, thường xuyên có thiên tai, hạn hán, dịch bệnh làm
ảnh hưởng đến sinh hoạt và sản xuất của người dân. Người nghèo các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam chủ yếu là người DTTS thuộc nhiều dân tộc khác nhau, cả nước
có 54 dân tộc thì các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có tời hơn 30 dân tộc cùng
sinh sống. Mỗi dân tộc lại có bản sắc văn hóa, tập quán, lối sống, phương thức sản
xuất và tôn giáo khác nhau. Do đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện
chính sách và là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển KT-XH của các
địa phương.
Với đặc thù của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là đồi núi, dân cư thưa
thớt lại sinh sống ở những vùng núi cao, điều kiện đi lại khó khăn do cơ sở hạ tầng
kém phát triển, mặt bằng dân trí thấp nên các hình thức tuyên truyền như tờ rơi, loa
truyền thanh của địa phương thậm chí là truyền hình của tỉnh cũng không mang lại
kết quả như mong muốn. Một số chương trình tuyên truyền bằng tiếng bản địa cũng
có chung kết quả do điều kiện kinh tế của người nghèo không cho phép họ sở hữu
148
Tivi hoặc các phương tiện truyền thông khác kể cả trong trường hợp địa phương đó
đã có điện sinh hoạt.
Do đặc thù việc bố trí nguồn lực trên các tỉnh địa bàn miền núi phía Bắc.
Nguồn lực bố trí chưa đáp ứng mục tiêu đề ra và nhu cầu thực tế nên các chính sách
chưa được thực hiện đầy đủ. Nhận thức về công tác giảm nghèo ở cấp cơ sở một số
nơi còn hạn chế, thể hiện qua việc xây dựng mục tiêu, giải pháp giảm nghèo hằng
năm chưa sát với điều kiện cụ thể địa phương. Công tác tổ chức thực hiện ở cấp cơ
sở còn hạn chế: quản lý hộ nghèo nhiều nơi chưa chặt chẽ, chế độ thông tin báo cáo
chưa đầy đủ; việc triển khai thực hiện còn lúng túng, thiếu sự phối hợp đồng bộ
giữa các ngành, các cấp. Ban chỉ đạo giảm nghèo từ tỉnh đến cơ sở chưa hoạt động
thường xuyên, chưa kịp thời sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả hoạt động; có nơi hoạt
động chưa hiệu quả, chưa tích cực tham mưu hoặc tham mưu chưa tốt cho Uỷ ban
nhân dân cùng cấp về công tác giảm nghèo.
Vai trò điều phối, tham mưu của cơ quan thường trực giảm nghèo các cấp
còn hạn chế, công việc chủ yếu do cơ quan thường trực (ngành lao động) đảm
nhiệm. Ban chỉ đạo và bộ máy giúp việc chưa được bố trí kinh phí riêng để hoạt
động, phải sử dụng từ nguồn kinh phí chi thường xuyên của ngành lao động nên gặp
nhiều khó khăn. Đội ngũ công chức phụ trách công tác giảm nghèo các cấp từ cấp
tỉnh đến cơ sở nhất là cấp xã hầu hết là kiêm nhiệm, thường xuyên thay đổi, năng
lực chuyên môn không đồng đều nên việc triển khai thực hiện chính sách gặp nhiều
hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu đề ra.
3.4.3.2. Nguyễn nhân chủ quan
Sự phù hợp của chính sách xóa đói giảm nghèo: Một số chương trình, chính
sách giảm nghèo chưa được khảo sát, đánh giá kỹ trước khi ban hành, còn có sự áp
đặt, không phù hợp với nhu cầu thực tế của địa phương, của đối tượng thụ hưởng
nên hiệu quả không cao, như Chương trình 134 về nhà ở cho đồng bào dân tộc thiểu
số... Chính sách giảm nghèo được thực hiện chung cho các hộ nghèo, chưa có chính
sách giảm nghèo đặc thù, trọng điểm phù hợp với vùng dân cư nông thôn, vùng có
đông đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng
miền núi có điều kiện sống đặc biệt khó khăn. Có chính sách thì cào bằng như:
149
chính sách về miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh trong
vùng nghèo thì kể cả không thuộc hộ nghèo cũng được hưởng. Có quá nhiều chính
sách hỗ trợ trực tiếp tạo tâm lý ỷ lại, trông chờ trong một bộ phận người nghèo,
thiếu ý chí vươn lên để thoát nghèo, nhiều chính sách hỗ trợ khác nhau, dẫn đến
chồng chéo, trùng lắp, dàn trải nguồn lực, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo
nhiều nhưng đơn lẻ, nguồn vốn ít và nhỏ giọt, mức hỗ trợ thấp, không đồng nhất,
hiệu quả đạt được chưa cao, gây khó khăn cho việc theo dõi, quản lý.
Về công tác vận động tuyên truyền: Công tác tuyên truyền thực hiện đôi lúc
chưa thường xuyên, chưa đa dạng, chưa phong phú về hình thức, nội dung, chưa
phù hợp với nhận thức và điều kiện sinh sống của người nghèo. Công tác tuyên
truyền chính sách chủ yếu được thực hiện bởi đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở
nhưng trên thực tế trình độ, năng lực của đội ngũ này lại không đảm bảo. Mặc dù,
các địa phương đã nhận ra điều này và thường xuyên tổ chức tập huấn cho đội ngũ
tuyên truyền viên nhưng do đặc thù của vùng núi cộng với trình độ, năng lực của
đội ngũ tuyên truyền nên hiệu quả của công tác tuyên truyền chưa cao.
Có nhiều chính sách giảm nghèo nhưng chủ yếu mang tính hỗ trợ (như chính
sách y tế, giáo dục, nhà ở, hỗ trợ sản xuất), trong khi chính sách đầu tư tạo sinh kế
cho người nghèo chưa nhiều, suất đầu tư thấp (vay vốn tín dụng ưu đãi, vay vốn giải
quyết việc làm, đào tạo nghề). Tình trạng ngân sách không được bố trí kịp thời
trong quá trình thực hiện chính sách dẫn đến tình trạng chính sách đã ban hành
nhưng chờ kinh phí thực hiện, hoặc có bố trí nhưng lạc hậu so với giá cả thị trường
gây khó khăn cho việc thực hiện của địa phương. Việc huy động nguồn lực của các
thành phần kinh tế, của cộng đồng dân cư phục vụ cho chương trình giảm nghèo
chưa được nhiều, chủ yếu dựa vào nguồn lực hỗ trợ, đầu tư của Nhà nước. Hệ thống
chính sách có song thường không quan tâm đến phần kinh phí quản lý điều hành
thực hiện chính sách đảm bảo hiệu quả. Nguồn vốn đầu tư cho một số chương trình,
dự án chậm, dẫn đến việc giao kế hoạch cho cơ sở muộn, lại triển khai trong thời
gian ngắn nên công tác thanh quyết toán còn gặp nhiều khó khăn. Mặt khác việc
phân bổ vốn cho các chương trình giảm nghèo hiện nay chủ yếu được thực hiện
thông qua năm ngân sách hoặc được giải ngân theo kiểu cào bằng mà hoàn toàn
150
chưa tính toán đến nhu cầu vốn thực sự và cấp kinh phì theo nhu cầu vốn. Điều này
làm cho hiệu quả giảm nghèo không cao, mục tiêu giảm nghèo trên từng tiêu chí bị
ảnh hưởng thậm chí bị dang dở do thiếu vốn hoặc được cung cấp không kịp thời…
Về công tác quản lý nhà nước tại các tỉnh miền núi phía Bắc: Chưa có nhiều
hình thức biểu dương, khen thưởng kịp thời hoặc các biện pháp để nhân rộng các
mô hình cá nhân, tập thể tiêu biểu trong thoát nghèo, làm tốt công tác giảm nghèo,
địa phương (thôn, xã) có tốc độ giảm nghèo nhanh, vượt mục tiêu giảm nghèo, xã
thoát nghèo, hộ nghèo, xã hoàn thành mục tiêu ra khỏi danh sách đặc biệt khó khăn.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong chương 3 luận án đã khái quát được những đặc điểm tự nhiên, dân số
và tình hình KT-XH cũng như đặc điểm đói nghèo của người dân các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam. Đồng thời tác giả cũng đã thống kê khá đầy đủ những kết quả
cụ thể trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Số liệu ở mỗi tỉnh được thu thập
khá chi tiết ở mỗi bước trong quy trình tổ chức thực hiện cùng với việc đánh giá
mức độ tác động của chính sách giảm nghèo bền vững đến đời sống, sinh hoạt và
sản xuất của người nghèo.
Luận án đã chỉ rõ thực trạng tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian qua. Kết
hợp với việc phân tích, đánh giá thực trạng công tác tổ chức triển khai thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, tác giả
cũng đã đánh giá quá trình thực hiện dựa trên khung lý thuyết về các bước trong
quy trình tổ chức thực hiện chính sách. Qua đó tác giả cũng chỉ ra những ưu điểm,
những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong quá trình tổ
chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam trong giai đoạn vừa qua làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở chương 4.
Quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách ở các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam đã góp phần tích cực vào việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền
151
vững. Tuy nhiên quá trình tổ chức triển khai thực hiện vẫn chưa mang lại kết quả và
hiệu quả như mong muốn của nhà nước cũng như của các đối tượng chính sách. Để
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào năm 2020, nhất thiết kết quả
của công tác giảm nghèo bền vững cần phải đạt được cao hơn giai đoạn vừa qua.
Điều này một mặt phụ thuộc vào các cơ chế chính sách về giảm nghèo bền vững
của nhà nước mặt khác lại phụ thuộc vào quá trình tổ chức triển khai thực hiện của
các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương nhất là công tác tổ chức triển
khai thực hiện của các cấp chính quyền ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
trong thời gian tới. Đây là một trong những căn cứ quan trọng để đề xuất định
hướng cũng như giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nước ta đến năm 2020 và những
năm tiếp theo.
152
CHƯƠNG 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG TẠI CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA
BẮC VIỆT NAM
4.1. Quan điểm quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới
Chính sách giảm nghèo bền vững được ban hành và tổ chức thực hiện nhằm
hướng đến giải quyết vấn đề đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở Việt Nam xuất hiện ở cả thành thị, nông
thôn và miền núi, do vậy hệ thống chính sách giảm nghèo bền vững của Việt Nam
cũng được chia thành hai nhóm gồm; nhóm các chính sách giảm nghèo chung áp
dụng chung cho các đối tượng nghèo trong cả nước và nhóm các chính sách giảm
nghèo đặc thù áp dụng cho các đối tượng có tính chất đặc thù trong đó chủ yếu tập
trung vào đối tượng người nghèo là đồng bào dân tộc thiếu số và người nghèo sống
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và những vùng có điều kiện sống khó khăn. Do vậy
khi nghiên cứu và trình bày về quan điểm trong thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, luận án lồng ghép trong đó cả những
quan điểm chung và những quan điểm của Đảng và Nhà nước có tính chất đặc thù
riêng cho chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
trong thời gian tới.
4.1.1. Đổi mới nội dung, phương thức xây dựng chính sách giảm nghèo bền vững
Xây dựng chính sách giảm nghèo bền vững và tổ chức triển khai thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững là hai giai đoạn rất quan trọng của chu trình chính
sách. Hai giai đoạn này có mối liên hệ rất mật thiết với nhau, kết quả của giai đoạn
xây dựng chính sách sẽ ảnh hưởng rất lớn đến giai đoạn tổ chức triển khai thực hiện
và ngược lại. Khi lập luận biện pháp, cơ chế để thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững cũng cần phải xem xét lại phương thức và cách thức xây dựng chính sách
của nhà nước. Bất cập lớn nhất trong việc xây dựng chính sách giảm nghèo bền
vững hiện nay là chưa chú trọng tiến hành rà soát, khảo sát tổng thể trước khi xây
dựng chính sách để có một bức tranh toàn cảnh về những vấn đề cần thiết phải ban
hành chính sách. Đồng thời xây dựng chính sách hiện nay cũng chưa tính đến tác
153
động của chính sách mà chỉ chú trọng vào mục tiêu cần đạt được nhưng khi áp dụng
vào thực tế thì lại không phù hợp thậm chí còn làm phức tạp thêm vấn đề cần giải
quyết. Cho nên để giảm nghèo bền vững bền vững, trong quá trình xây dựng chính
sách giảm nghèo bền vững, nhà nước cần thực hiện những giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tập trung ưu tiên cho các chính sách tác động mạnh đến đời sống,
sinh hoạt và sản xuất của người nghèo. Qua khảo sát, điều tra của tác giả về sự tác
động của chính sách giảm nghèo bền vững đến các hộ gia đình ở 6 tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam cho thấy hầu hết người dân chưa hài lòng về những kết quả mà
chính sách mang lại cho họ, có quá ít chính sách có thể giúp họ thoát nghèo, (Hình
4.1).
Tỷ lệ
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
20.00%
10.00%
Tỷ lệ
0.00%
182/600 312/600
86/600
182/600 342/600
23/600
152/600 201/600
Dạy nghề
Chính sách giáo dục
Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt
Hỗ trợ trực tiếp về lương thực
Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng
Chính sách cho vay vốn để sản xuất
Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở
Các chính sách thuộc Chương trình 135
Hình 4.1. Những chính sách đang được thực hiện có thể giúp
người dân thoát nghèo.
[Nguồn:Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
Ta nhận ra nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng chủ yếu là do trong cùng
một thời điểm các địa phương cùng lúc phải triển khai thực hiện nhiều chính sách
khác nhau trong khi nguồn lực để thực hiện là rất hạn chế và thiếu thốn.
Thứ hai, chính phủ phải xây dựng và thực hiện một số chính sách đặc thù
phù hợp với đặc thù các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đây là nơi tập trung sinh
154
sống của đồng bào DTTS với tỷ lệ cao chiếm trên 80% dân số. Trong giai đoạn tiếp
theo khi xây dựng chính sách cần phải rà soát lại những nét đặc thù để kiến nghị với
Chính phủ xây dựng một số chính sách riêng cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam. Để rút ngắn khoảng cách phát triển giữa vùng dân tộc miền núi với mặt bằng
chung của cả nước thì bên cạnh các Chương trình mục tiêu Quốc gia, các Chương
trình trọng điểm của các vùng kinh tế nhà nước cần xây dựng các chính sách đặc thù
riêng cho đồng bào dân tộc thiểu số. Các chính sách hỗ trợ người nghèo vùng DTTS
cần ưu tiên cho việc hỗ trợ trực tiếp gắn với hỗ trợ sinh kế, hỗ trợ cho người dân
cách thức phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống. Gắn trách nhiệm của
người được thụ hưởng vào hiệu quả của các chương trình hỗ trợ.
Tỷ lệ
50.00% 45.00% 40.00% 35.00% 30.00% 25.00% 20.00% 15.00% 10.00% 5.00% 0.00%
Tỷ lệ
72/600
201/600
273/600
54/600
Không thay đổi
Cải thiện đáng kể
Cải thiện nhưng không được nhiều
Thêm nợ nần do được vay tiền của nhà nước nhưng không trả nợ được vì mất mùa, dịch bệnh hoặc nguyên nhân khác.
Hình 4.2. Cải thiện cuộc sống của người nghèo khi thực hiện các chính sách
xóa đói giảm nghèo đến nay
[Nguồn:Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
Để người nghèo DTTS tham gia có hiệu quả vào chính sách giảm nghèo bền
vững, trước mắt cần xây dựng chính sách rất cụ thể, phù hợp với đặc thù của từng
địa phương, từng thôn, bản, từng đối tượng chính sách. Đối với đồng bào DTTS,
cần tập trung vào việc nâng cao trình độ nhận thức về chính sách, pháp luật, tạo
điều kiện cho người nghèo tiếp cận thông tin bằng các chương trình truyền thông
phù hợp với ngôn ngữ của mỗi dân tộc.
155
Thứ ba, xây dựng hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành các chính sách hỗ trợ nhóm hộ cận nghèo, nhóm hộ mới thoát nghèo, để họ
tiếp tục được hưởng sự trợ giúp về tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, học nghề
trong một thời gian nhất định để họ có đủ tiềm lực và vững vàng hơn khi tự vươn
lên thoát nghèo tránh tình trạng tái nghèo như đang diễn ra phổ biến ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, hạn chế những biện pháp chính sách hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo,
chuyển sang hỗ trợ bằng vật nuôi, cây trồng, kiến thức khoa học kỹ thuật và bao
tiêu đầu ra cho hàng hóa sản phẩn. Khi nghiên cứu về các biện pháp hỗ trợ trực tiếp
cho người nghèo, tác giả nhận thấy không ít đối tượng nghèo có tư tưởng trông chờ,
ỷ lại vào sự trợ giúp của nhà nước mà không tích cực, chủ động thực hiện các biện
pháp giảm nghèo cho chính bản thân mình, hộ mình (Hình 4.2), cho nên trước mắt
để giúp người nghèo không bị đói bữa trong những thời kỳ giáp hạt, nhà nước cần
thực hiện các biện pháp hỗ trợ để ổn định đời sống cho người nghèo nhưng để xóa
nghèo bền vững nhà nước cần hạn chế và tiến tới xóa bỏ biện pháp hỗ trợ trực tiếp
mà thay vào đó là những biện pháp hỗ trợ gián tiếp cùng với công tác vận
động,tuyên truyền để người nghèo tự giác tham gia giảm nghèo vươn lên làm giàu
cho chính bản thân mình.
4.1.2. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về
giảm nghèo bền vững phải đặc biệt coi trọng
Với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, sự chung tay của các tổ chức, cá
nhân, tỷ lệ hộ nghèo cả nước còn 5,23% cuối năm 2018; các dự án khi triển khai
thực hiện đã từng bước phát huy tác dụng và mang lại hiệu quả cao, giúp người dân,
đặc biệt là người nghèo có cơ hội phát triển sản xuất, kinh doanh, tự tạo việc làm và
có việc làm ổn định để tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, việc xây
dựng các công trình giao thông, thủy lợi, y tế, nhà văn hóa cũng góp phần vào sự
thay đổi diện mạo bộ mặt nông thôn, miền núi đã được cải thiện rõ rệt qua từng giai
đoạn, đặc biệt là ở các địa bàn huyện nghèo, xã nghèo, thôn bản đặc biệt khó khăn;
đời sống của người nghèo được nâng cao cả về vật chất và tinh thần, góp phần thúc
đẩy việc tiếp cận của người nghèo đối với các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo
156
dục, nhà ở, nước sạch, vệ sinh và thông tin. Hiệu quả đạt được cũng góp phần
hướng tới thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 mà Việt Nam đã
cam kết với cộng đồng quốc tế, để “Không ai bị bỏ lại phía sau”.
Giảm nghèo bền vững đã trở thành nhiệm vụ, mục tiêu ưu tiên trong quá
trình chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa
phương; Các chính sách, dự án đã được các cấp, các ngành quan tâm tổ chức triển
khai. Hệ thống văn bản, chỉ đạo thực hiện được ban hành đầy đủ, trong đó đã thể
hiện nhiều nguyên tắc, cơ chế đổi mới trong quản lý, điều hành và triển khai thực
hiện các dự án. Bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành thường xuyên, thống nhất từ Trung
ương đến địa phương từ xây dựng kế hoạch hàng năm, tổ chức kiểm tra, đánh giá
đến sơ kết 6 tháng, hàng năm. Đẩy mạnh phân cấp, trao quyền cho địa phương, cơ
sở, phát huy vai trò tham gia, giám sát của cộng đồng, người dân.
Các nội dung công tác giảm nghèo bền vững phải được thực hiện công khai,
minh bạch từ việc xác định đối tượng hỗ trợ (hộ nghèo, xã nghèo, huyện nghèo) đến
việc phân bổ vốn và kiểm tra giám sát của các cơ quan Trung ương, địa phương,
cộng đồng, người dân, đặc biệt là sự giám sát, phản biện của Quốc hội, Hội đồng
nhân dân và Mặt trận tổ quốc các cấp,.
Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía
sau” được các tỉnh, thành phố hưởng ứng và triển khai thi đua rất quyết liệt, phấn
đấu giảm nghèo nhanh, bền vững với nhiều chính sách đặc thù của địa phương.
Công tác truyền thông, thông tin về giảm nghèo phải được ngày một quan tâm hơn,
tổ chức dưới nhiều hình thức phong phú, hiệu quả, cao điểm là cuộc thi các tác
phẩm báo chí về giảm nghèo được tổ chức và trao giải hàng năm, tạo điều kiện cho
các nhà báo đồng hành cùng, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
4.1.3. Về nguồn lực tài chính để thực hiện giảm nghèo bền vững phải được
triển khai có hiệu quả và huy động mọi nguồn lực trong xã hội để thực hiện
công tác giảm nghèo bền vững ở mỗi địa phương
Nguồn vốn đầu tư của cho các chương trình giảm nghèo bền vững ở các tỉnh
được bảo đảm theo Luật Đầu tư công, được giao trung hạn, tạo điều kiện cho các
địa phương chủ động, bố trí vốn phù hợp với đặc điểm, nhu cầu trên địa bàn.
157
Đẩy mạnh thực hiện mục tiêu GNBV đến năm 2020. Trong đó, ngân sách
trung ương bố trí khoảng 15.897 tỷ đồng để thực hiện một số chính sách an sinh xã
hội, giảm nghèo để hỗ trợ chính sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế; chính sách
bảo đảm xã hội hỗ trợ tiền điện hộ nghèo, hộ chính sách xã hội, hỗ trợ hộ nghèo
vùng khó khăn theo Quyết định số 102/2009/QĐ-TTg, kinh phí bảo trợ xã hội theo
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, kinh phí trợ giúp pháp lý.
Các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước trong các năm phải được bảo đảm chặt
chẽ, theo đúng dự toán và tiến độ triển khai thực hiện của các đơn vị sử dụng ngân
sách, đáp ứng các nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội.
Cùng với nguồn lực đầu tư của Nhà nước, các địa phương cũng thực hiện huy
động xã hội để thực hiện mục tiêu giảm nghèo, dành cho hoạt động an sinh xã hội
và giảm nghèo, tặng quà thăm hỏi và hỗ trợ các đối tượng chính sách, người có
công và các đối tượng bảo trợ xã hội.
4.1.4. Việc kiểm tra, giám sát công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững
tại các tỉnh miền núi phía Bắc phải thực hiện thường xuyên và có kế hoạch
Công tác kiểm tra, giám sát được triển khai theo kế hoạch hoạt động của
BCĐTƯ các CTMTQG và Thông tư số 39/2016/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2016
của Bộ trưởng Bộ LĐTBXH với hệ thống biểu mẫu thu thập thông tin, báo cáo
thống nhất áp dụng cho toàn Chương trình. Kết quả kiểm tra, giám sát cho thấy, các
địa phương cơ bản thực hiện đầy đủ các nội dung của Chương trình, bảo đảm đúng
đối tượng thụ hưởng.
Quy trình triển khai từ khâu lập kế hoạch đến tổ chức thực hiện bảo đảm
nguyên tắc công khai, có sự tham gia của người dân, cộng đồng. Các hoạt động của
Chương trình phù hợp với quy hoạch chung của địa phương, đồng thời, gắn liền với
mục tiêu giải quyết các nhu cầu bức thiết của cộng đồng, tạo được sự đồng thuận và
tin tưởng của đồng bào trong suốt quá trình triển khai Chương trình.
Chẳng hạn, Bộ LĐTBXH đã phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông,
Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức Lễ phát động, công bố thể lệ cuộc thi các tác phẩm
báo chí (lần 2) về công tác giảm nghèo giai đoạn 2016 - 2020; tổ chức nhiều cuộc
158
đánh giá CTMTQG về GNBV giai đoạn 2016 - 2020; về mô hình giảm nghèo và
GNBV thông qua hoạt động đa dạng hóa sinh kế và nhân rộng giảm nghèo tại các
xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo.
4.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững các tỉnh
miền núi phía Bắc
Trong nhóm giải pháp này, luận án đề xuất các giải pháp áp dụng chung cho
việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam. Đây là những giải pháp được nghiên cứu đề xuất, xuất phát từ thực tiễn triển
khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và những điều kiện có tính đặc thù
của các tỉnh trong vùng như: trình độ dân trí thấp, điều kiện cơ sở hạ tầng yếu kém;
trình trạng nghèo toàn vùng hiện còn đang rất phổ biến và chiểm tỷ lệ cao nhất
trong số các vùng kinh tế của cả nước; vùng có đông người đồng bào dân tộc thiểu
số sinh sống và đa số là người nghèo; trình độ và năng lực quản lý của đội ngũ cán
bộ, công chức nhất là cán bộ, công chức cấp cơ sở còn có nhiều hạn chế; nơi có vị
trí chiến lược, quan trong về quốc phòng và an ninh...Với những giải pháp này, tác
giả luận án cho rằng có thể giúp cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam chủ động
trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững theo hướng bền vững, tạo nền
tảng vững chắc cho việc đạt được các mục tiêu phát KT-XH vào năm 2020 và phù
hợp với tính đặc thù của các địa phương trong vùng.
4.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện chính sách về giảm nghèo bền vững
4.2.1.1. Chính sách kinh - tế xã hội theo các vùng đặc thù
Tập trung phát triển giáo dục, đào tạo, xây dựng cơ sở hạ tầng
Thứ nhất về giáo dục đào tạo: Một trong những rào cản lớn hiện nay trong
giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là trình độ dân trí của
người nghèo thấp. Mặc dù các giai đoạn vừa qua các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam đã cải thiện đáng kể khả năng tiếp cận giáo dục cho người nghèo nhưng chất
lượng chưa cao, tình trạng bỏ học còn nhiều do gánh nặng chi phí cho con em người
nghèo trong học tập chưa được giải quyết thỏa đáng do hạn chế về nguồn lực. Giáo
dục, đào tạo giúp cho người nghèo có thể tiếp nhận đầy đủ thông tin mọi mặt của đời
sống kinh tế, chính trị xã hội nhằm giảm thiều những hậu quả xã hội do đói nghèo, do
159
thiếu tri thức dẫn đến. Để phát triển giáo dục, đào tạo nâng cao dân trí cho người
nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam cần thực hiện các giải pháp sau:
Tích cực thực hiện chính sách giáo dục, đào tạo cho thế hệ trẻ. Bắt đầu từ việc
triển khai các DA đầu tư trường, lớp học, nhà bán trú cho học sinh và giáo viên, có
chính sách khuyến khích đặc biệt giáo viên lên giảng dạy ở vùng nghèo miền núi;
tuyên truyền các chủ trương chính sách giáo dục, đào tạo để các hộ nghèo, đặc biệt là
các hộ nghèo DTTS hiểu được tầm quan trọng của giáo dục, đào tạo đối với con em
họ và tầm quan trọng của giáo dục đào tạo với giảm nghèo bền vững.
Trong giáo dục, đào tạo tập trung xây dựng trường, lớp học đảm bảo đủ
trường, đủ lớp cho người học, tích cực, chủ động kêu gọi và thu hút nguồn vốn tài
trợ để nâng cấp cơ sở vật chất, thiết bị dạy và học. Tăng cường đầu tư cho hệ thống
giáo dục cơ sở đồng thời xây dựng thêm các trường dân tộc nội trú, bán trú nhằm
đáp ứng đủ nguồn cán bộ tại chỗ. Tập trung hướng giáo dục, đào tạo vào đào tạo
nghề nhất là những ngành, nghề mà thị trường lao động đang khan hiếm như nghề
may mặc, cơ khí, sửa chữa máy móc, thiết bị dân dụng, xây dựng, chăm sóc người
già, trẻ em…tìm hiểu thị trường xuất khẩu lao động để có định hướng trong đào tạo
nghề để đưa người nghèo đi xuất khẩu lao động ra nước ngoài hoặc đến các địa
phương khác ngoài khu vực
Giáo dục, đào tạo, trang bị cho người nghèo những kiến thức nhất định về
khoa học kỹ thuật và áp dụng khoa học công nghệ, tạo ra năng suất và chất lượng
lao động cao hơn như; đào tạo, hướng dẫn sử dụng các loại máy móc thiết bị vào
sản xuất, kỹ thuật nuôi, trồng những loại giống mới, cải thiện thu nhập của hộ góp
phần giảm nghèo bền vững nhanh và bền vững.
Thứ hai về xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng: Chính sách giảm nghèo bền
vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian qua đã tập trung đầu tư
phát triển, mở rộng CSHT thiết yếu phục vụ sản xuất cho các vùng nghèo như: các
công trình giao thông, thủy lợi, trung tâm văn hóa – thể thao, chợ thương mại, điểm
bưu điện văn hóa…đã phát huy hiệu quả thiết thực góp phần giảm nghèo bền vững
cho đồng bào các dân tộc, giải quyết khó khăn về đời sống và sản xuất, mở rộng
giao lưu giữa các bản, xã trong vùng. Tuy nhiên, CSHT các tỉnh miền núi phía Bắc
160
Việt Nam vẫn được coi là vô cùng yếu kém, nhiều xã nghèo, huyện nghèo chưa có
đường giao thông đến trung tâm xã hoặc nếu có thì chỉ đi được vào mùa khô, các
công trình như điện, đường, trường, trạm, bưu điện…còn thiếu thốn tạo ra rào cản
rất lớn cho phát triển kinh tế xã hội và giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam. Để cải thiện CSHT phục vụ cho giảm nghèo bền vững, các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Tăng cường sự tham gia của người dân trong quá trình tổ chức triển khai xây
dựng CSHT: Để tránh tình trạng sự tham gia mang tính hình thức, cần xác định
người dân sẽ tham gia vào những hoạt động nào và tham gia như thế nào? Vì vậy
việc đầu tiên cần phải làm đó là xác định các bước tham vấn để người dân sẽ biết
mình sẽ tham gia vào những khâu và nội dung nào trong hoạt động đầu tư xây dựng
CSHT, người dân phải được tham gia ở tất cả các khâu như: (i) xác định nhu cầu
đầu tư xây dựng, (ii) thực hiện, quản lý và giám sát quá trình thi công xây dựng, (iii)
nghiệm thu và bàn giao công trình, (iv) quản lý khai thác sử dụng..
Việc lấy ý kiến tham gia của người dân thường được tổ chức thông qua các
cuộc họp thôn. Bên cạnh sự tham gia trực tiếp, tham gia gián tiếp thông qua người
đại diện (Hội đồng Nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội) cũng cần được củng cố.
Bởi vậy, cần tăng cường nâng cao năng lực của cán bộ xã và thôn để họ có thể xây
dựng kế hoạch và tổ chức các cuộc họp với người dân để lựa chọn các tiểu dự án
phù hợp.
Huy động và phân bổ có hiệu quả nguồn lực thực hiện: Trước hết, để phát
huy nguồn lực trong dân, ở vùng nào có điều kiện phát triển kinh tế nên huy động
sự đóng góp về tài chính và lao động để giảm bớt nguồn kinh phí từ NSNN. Nguồn
kinh phí đó sẽ được chuyển sang cho vùng có điều kiện phát triển khó khăn hơn.
Bởi vậy cần thay đổi hình thức phân bổ kinh phí hiện nay, không nên phân bổ bình
quân cho mỗi xã một lượng tài chính như nhau mà phải căn cứ vào điều kiện của
từng vùng, tránh tình trạng cấp kinh phí không đủ để hoàn thành công trình.
Huy động đóng góp từ người dân. Người nghèo cho biết các chi phí đóng
góp cho CSHT làm tăng thêm đáng kể gánh nặng cho họ. Do đó, cần thiết giảm bớt
gánh nặng về đóng góp tiền cho người nghèo trong việc xây dựng các công trình hạ
161
tầng ở địa phương. Khi thực hiện các hoạt động tham vấn cộng đồng trong xây
dựng CSHT, ngay từ đầu cần chú trọng việc tham vấn về khả năng đóng góp và
tham gia của người nghèo để chính quyền địa phương có thể đề ra những biện pháp
cụ thể phù hợp với hoàn cảnh của họ (ví dụ như: đóng góp bằng sức lao động, đóng
góp dần trong thời gian hợp lý).
Đối với công trình xây dựng phục vụ cho nhóm hộ trong một thôn, bản
hưởng lợi việc huy động đóng góp của các hộ phải để các hộ tự bàn bạc và quyết
định, cán bộ xã hoặc thôn, bản phải thông báo cho các hộ biết về yêu cầu kỹ thuật
của công trình, về tổng dự toán công trình và phần vốn được tài trợ, còn đóng góp
như thế nào, bằng cách nào là phải do các hộ hưởng lợi quyết định.
Đối với các công trình phục vụ chung cho toàn xã hoặc cho thôn, phần huy
động đóng góp của dân phải tham khảo ý kiến nhân dân thông qua ý kiến đóng góp
của dân trên cơ sở các cuộc họp thôn, bản hoặc thông qua thảo luận ý kiến của đại
biểu Hội đồng nhân dân, các trưởng thôn, bản, đại diện người hưởng lợi và các tổ
chức đoàn thể từ các thôn,bản. Chỉ tiến hành phân bổ đóng góp cho các thôn khi có
sự đồng thuận ý kiến của đại diện dân hoặc các hộ trong các thôn, bản.
Việc quyết định đóng góp như thế nào (bằng công lao động, bằng hiện vật hay
bằng tiền), những ai sẽ tham gia đóng góp (theo lao động, theo hộ hoặc những đối
tượng nào được miễn) phải để cho các hộ trong thôn, bản bàn bạc và quyết định. Việc
quyết định phương án đóng góp phải được ít nhất 2/3 số người tham gia cuộc họp
đồng ý bằng biểu quyết mới được coi là có hiệu lực và được ghi vào biên bản cuộc
họp của thôn, bản để báo cáo xã, tránh tình trạng chính quyền quyết định phân bổ
theo hộ hoặc theo lao động và người dân chỉ có trách nhiệm thực hiện như hiện nay.
Thực hiện có hiệu quả chủ trương phân cấp xã làm chủ đầu tư: Vấn đề lớn
nhất và cũng là rào cản khiến cho việc phân cấp đầu tư cho xã nghèo chính là hạn
chế về năng lực của cán bộ xã. Xã có thể làm chủ đầu tư nếu như cấp trên hoàn toàn
tin tưởng và tạo điều kiện hỗ trợ cũng như hướng dẫn xã trong quá trình thực hiện.
Vậy cần phải có các biện pháp để xây dựng năng lực làm chủ đầu tư cho các xã
nghèo một cách bền vững và hiệu quả. Xây dựng năng lực ở cấp thôn, bản và xã đòi
162
hỏi các phương pháp tiếp cận mang tính thực tiễn và cần phải có sự hỗ trợ cũng như
hướng dẫn từ các cấp cao hơn.
Thiết lập các tổ chức quản lý, theo dõi và giám sát ở cấp xã: Các hoạt động
đầu tư cần thực hiện và theo dõi, giám sát liên tục. Vì vậy, việc tồn tại các tổ chức
thực hiện chức năng riêng là cần thiết. Các tổ chức này nên được phác họa một cách
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ về "quản lý" và "giám sát"; phải đóng vai trò phối hợp
và lồng ghép các nguồn lực từ các dự án và chương trình khác nhau; trong các tổ
chức nên bao gồm đầy đủ đại diện của các thôn/bản, cả nam giới và phụ nữ, và các
nhóm người nghèo. Ở đây có hai tổ chức cần được duy trì đó là Ban Quản lý xã và
Ban Giám sát xã. Trong đó, Ban Quản lý xã chịu trách nhiệm làm chủ đầu tư, các
khía cạnh quản lý và hành chính và Ban Giám sát xã thay mặt cộng đồng chịu trách
nhiệm giám sát và điều hành các hoạt động.
Thực hiện có hiệu quả mục tiêu xã có công trình, người dân có việc làm tăng
thu nhập: Chính phủ đã nêu mục tiêu ưu tiên và tăng tối đa các cơ hội làm việc có
trả công cho người lao động của địa phương khi tham gia làm việc cho các công
trình CSHT ở cấp xã và thôn thông qua nguyên tắc trong phân bổ vốn đầu tư cho
các công trình công cộng theo nguyên tắc: "xã có công trình, người dân địa phương
có việc làm và có thu nhập từ việc tham gia xây dựng công trình, từ đó góp phần
giảm nghèo cho cả xã và ở từng thôn/bản".
4.2.1.2. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức Chính
trị - Xã hội trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
Với chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cấp chính quyền ở địa
phương có nhiệm vụ tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
của nhà nước ở địa phương mình, trên cơ sở phát huy các tiềm năng, lợi thế của địa
phương, đồng thời huy động và là cầu nối trực tiếp với tổ chức đoàn thể tại địa
phương vào hoạt động triển khai thực hiện chính sách theo kế hoạch của địa phương
và của cơ quan nhà nước cấp trên. Chính quyền sẽ là cơ quan chủ trì trong tất cả các
hoạt động quản lý nhà nước ở địa phương, là cơ quan chịu trách nhiệm chính trong
việc tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương mình. Trong
quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, chính quyền
163
có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên có trụ sở tại địa phương
và các tổ chức CTXH ở địa phương cùng tham gia vào quá trình thực hiện chính
sách. Đồng thời còn đôn đốc, kiểm tra và tiếp thu những ý kiến, kiến nghị của các tổ
chức chính trị - xã hội ở địa phương, tạo điều kiện để những tổ chức này tham gia
sâu rộng vào quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững [62].
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa
phương, chính quyền và các tổ chức CTXH cần phải phối hợp với nhau trong những
nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, phối hợp trong phổ biến, tuyên truyền về chính sách giảm nghèo
bền vững tại địa phương. Khi tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững,
chính quyền và các tổ chức CTXH ở địa phương tiến hành tổ chức triển khai hoạt
động tuyên truyền vận động nhân dân nhất là người nghèo tham gia vào quá trình
thực hiện chính sách. Đây là một hoạt động quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả của chính sách. Công tác phổ biến, tuyên truyền chính sách được thực hiện tốt
sẽ giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân hiểu rõ về mục đích, yêu
cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính sách trong những điều kiện hoàn
cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách, để họ tự giác thực hiện theo yêu
cầu quản lý và yêu cầu của chính sách. Đồng thời còn giúp cho mỗi cán bộ, công
chức từ tỉnh xuống ở cơ sở nhận thức được đầy đủ mục tiêu, tính chất, vai trò, của
chính sách trong phát triển KTXH ở địa phương để từ đó chủ động tích cực tìm
kiếm, đề xuất các giải pháp thích hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của địa
phương mình để triển khai thực hiện có kết quả, hiệu quả kế hoạch tổ chức thực
hiện chính sách. Trong quá trình tuyên truyền về chính sách, các tổ chức CTXH sẽ
là lực lượng nòng cốt, xung kích trong việc tuyên truyền chính sách đến các hội
viên của mình và toàn thể nhân dân địa phương.
Thứ hai, phối hợp trong việc tìm kiếm các biện pháp thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững. Phần lớn các biện pháp của chính sách giảm nghèo bền vững
khi được ban hành chỉ mang tính định hướng, do vậy khi tổ chức triển khai thực
hiện, càng xuống thấp các biện pháp này càng cần phải được cụ thể hoá cho phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và các điều kiện khác để đảm bảo cho
164
chính sách phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững, chính quyền và các tổ chức CTXH ở các cấp cần phải nghiên cứu tình
hình thực tiễn, những điều kiện hiện có về nhân tài, vật lực của địa phương mình, tổ
chức mình để đề ra các biện pháp thực hiện phù hợp. Do vậy, trong quá trình phối
hợp thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, chính quyền có trách nhiệm tạo
điều kiện thuận lợi, để các tổ chức CTXH làm tốt nhiệm vụ của mình. Khi ban hành
và thực hiện các quyết định quản lý liên quan đến quá trình thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững tại địa phương, chính quyền cần lắng nghe những ý kiến của
các tổ chức CTXH, để có cái nhìn tổng quát và đúng đắn về tiến trình thực hiện
chính sách tại địa phương, qua đó tìm kiếm những biện pháp phù hợp với khả năng
của các bên trong quá trình thực hiện chính sách.
Thứ ba, phối hợp trong phân công thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững. Khi tổ chức thực hiện chính sách phải tiến hành phân công, công việc và giao
nhiệm vụ cụ thể giữa chính quyền với các tổ chức CTXH. Khi phân công nhiệm vụ
thường phân công cơ quan chủ trì và các cơ phối hợp thực hiện đồng thời xác định
cơ chế trách nhiệm giữa chính quyền với các tổ chức CTXH một cách cụ thể đúng
thẩm quyền và phù hợp với vị thế vai trò của các bên.
Hoạt động phối hợp giữa chính quyền với các tổ chức CTXH trong phân công
công việc để thực hiện diễn ra theo tiến trình thực hiện chính sách một cách chủ động,
sáng tạo để luôn duy trì chính sách được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của chính sách giảm nghèo bền vững khi được thực hiện ở địa phương.
Thứ tư, phối hợp trong theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững. Trong quá trình thực thi chính sách giảm nghèo bền vững,
các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội liên tục có sự thay đổi, do vậy
trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện, chính quyền phải cùng với các tổ chức
CTXH thường xuyên tiến hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực thi chính sách.
Qua kiểm tra, đôn đốc để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, mỗi đối tượng thực hiện
chính sách tập trung chú ý những nội dung ưu tiên trong qúa trình thực hiện. Kiểm
tra thường xuyên giúp cho chính quyền và các tổ chức CTXH nắm bắt được tình
hình thực hiện, từ đó đánh giá được khách quan về những điểm mạnh, điểm yếu của
165
công tác tổ chức thực hiện chính sách tại địa phương mình, đồng thời giúp phát hiện
những thiếu sót trong công tác lập kế hoạch tổ chức thực hiện để điều chỉnh theo
thẩm quyền; tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng các hoạt động của các cơ quan, đối
tượng thực hiện chính sách; tạo ra sự tập trung thống nhất trong việc chỉ đạo điều
hành thực hiện mục tiêu chính sách. Kịp thời khuyến khích những nhân tố tích cực
trong quá trình thực hiện chính sách để tạo ra những phong trào thiết thực cho việc
thực hiện mục tiêu của chính sách.
Thứ năm, phối hợp trong việc đánh giá quá trình thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững. Đánh giá quá trình thực hiện chính sách là bước đo lường kết quả
và hiệu quả của chính sách giảm nghèo bền vững trong thực tế sau khi đã đưa chính
sách vào thực hiện. Muốn kiểm tra kết quả của chính sách giảm nghèo bền vững,
chính quyền và các tổ chức CTXH phải phối hợp với nhau trong việc thu thập và xử
lý thông tin về những kết quả mà chính sách tạo ra, những hạn chế còn mắc phải
trong quá trình thực hiện và tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó để cùng bàn
bạc, trao đổi, tìm biện pháp tháo gỡ, đồng thời có thể rút ra những bài học kinh
nghiệm cho việc thực hiện những công đoạn tiếp theo của quá trình chính sách hoặc
là rút kinh nghiệm để thực hiện các chính sách tiếp theo được tốt hơn.
Công tác kiểm tra, đánh giá này còn giúp cho chính quyền và các tổ chức
CTXH biết được những hạn chế của mình để điều chỉnh bổ sung, hoàn thiện; giúp
nhận thức đúng được vị trí, vai trò của mình để thực hiện có trách nhiệm, có kết quả
và hiệu quả góp phần giảm nghèo bền vững và phát triển KT-XH tại địa phương.
4.2.1.3. Chính sách cung cấp dịch vụ
Để tạo ra đột biến cho công tác giảm nghèo bền vững, các tỉnh miền núi phía
Bắc Việt Nam cần chủ động, tích cực thực hiện các chính sách có tác động trực tiếp
đến đời sống và sinh hoạt của người nghèo. Tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời
sống vật chất, tinh thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Giảm nhanh số
lượng hộ nghèo, hạn chế đến mức tối đa số hộ tái nghèo và phát sinh mới, thực hiện
hiệu quả giảm nghèo nhanh và bền vững.
Giảm thiểu tình trạng gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa
nông thôn và thành thị, giữa các nhóm dân cư, giữa các dân tộc, tăng cường khả
166
năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo; bảo vệ phụ nữ và trẻ em nghèo. Hỗ trợ sản
xuất nông lâm ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tốt thế mạnh của
từng địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc điểm
của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu
quả. Xây dựng nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng. Cụ
thể như sau:
Thứ nhất, Tăng cường năng lực cho người dân và cộng đồng để phát huy
hiệu quả các công trình cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư, từng bước phát huy lợi
thế của từng địa phương, khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên. Bước đầu
phát triển sản xuất theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô nhỏ và vừa, người dân
tiếp cận các dịch vụ sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm một cách thuận lợi.
Thứ hai, Thực hiện đồng bộ các chính sách của nhà nước đã ban hành để hỗ
trợ cho người nghèo như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ về y tế, giáo dục, khuyến nông -
khuyến lâm, hỗ trợ sản xuất...Trong đó trọng tâm là thực hiện các chính sách tạo
việc làm, tăng thu nhập, giáo dục đào tạo, dạy nghề nâng cao dân trí để xóa đói
giảm nghèo bền vững theo Nghị quyết 30a/2008/NQ - CP. Có các chính sách hỗ trợ
đặc thù cho các dân tộc đặc biệt khó khăn của tỉnh để dần từng bước xoá đói giảm
nghèo bền vững cho các dân tộc này.
Thứ ba, Đảm bảo thực hiện công khai, dân chủ, tăng cường lấy ý kiến của
cấp cơ sở thôn, bản và của người dân trong việc thực hiện các Chương trình, Dự án
của công tác xoá đói giảm nghèo. Thực hiện phân cấp trong tổ chức, quản lý thực
hiện chương trình cho các xã như việc xác định đối tượng, xây dựng kế hoạch và
giám sát kết quả thực hiện.
Thứ tư, Huy động các nguồn vốn để thực hiện chính sách bao gồm nguồn
vốn ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, huy động cộng đồng, quốc
tế…Cần tập trung vào thực hiện các chính sách sau:
Tín dụng ưu đãi cho người nghèo: Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người
nghèo tiếp cận các nguồn vốn, nhất là vốn vay tín dụng ưu đãi từ ngân hàng chính
sách xã hội.
167
Khuyến nông - khuyến lâm và hỗ trợ phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề:
Hỗ trợ người nghèo về kiến thức, kỹ năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào tổ chức sản xuất và kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, tăng thu nhập bền vững.
Hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo: Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ về nhà ở
cho hộ nghèo để cải thiện nhà ở, ưu tiên cho người nghèo là người cao tuổi, người
khuyết tật.
Hỗ trợ về y tế cho người nghèo, cận nghèo và người dân tộc thuộc các xã tại
khu vực khó khăn, đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ tướng Chính phủ: Thực
hiện có hiệu quả chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo, hỗ trợ mua thẻ
bảo hiểm y tế đối với người thuộc hộ cận nghèo. Hỗ trợ người nghèo, cận nghèo và
người dân tộc thuộc các xã tại khu vực khó khăn, đặc biệt khó khăn theo quy định
của Thủ tướng Chính phủ tiếp cận với dịch vụ y tế khi đau ốm thuận lợi hơn, bình
đẳng hơn; giảm thiểu rủi ro, khó khăn cho người nghèo và nhân dân các xã 135.
Hỗ trợ về giáo dục cho người nghèo: Thực hiện có hiệu quả chính sách miễn,
giảm học phí, hỗ trợ học bổng, trợ cấp xã hội và hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh
nghèo ở các cấp học, nhất là bậc mầm non; tiếp tục thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi
đối với học sinh, sinh viên, nhất là sinh viên nghèo; tăng cường hơn nữa chính sách ưu
đãi, thu hút đối với giáo viên công tác ở địa bàn nghèo, khó khăn. Hỗ trợ con em hộ
nghèo được tới trường học tập bình đẳng như trẻ em khác, góp phần nâng cao trình độ
văn hoá của người nghèo để đi tới mục đích giảm nghèo bền vững.
Dạy nghề cho người nghèo: Thực hiện tốt chính sách đào tạo nghề cho lao
động nông thôn, nhất là lao động nghèo; ưu tiên nguồn lực đầu tư cơ sở trường, lớp
học, thiết bị, đào tạo giáo viên dạy nghề; gắn dạy nghề với tạo việc làm đối với lao
động nghèo; đẩy mạnh công tác hỗ trợ xuất khẩu lao động đối với lao động thuộc
diện hộ nghèo.
Trợ giúp pháp lý cho người nghèo: Thực hiện có hiệu quả chính sách trợ
giúp pháp lý miễn phí cho người nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo hiểu biết
được quyền, nghĩa vụ của mình, chủ động tiếp cận các chính sách trợ giúp của nhà
nước, vươn lên thoát nghèo.
168
4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức bộ máy thực hiện quản lý nhà nước về giảm
nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
Lập kế hoạch tổ chức thực hiện là một bước rất quan trọng trong quá trình
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, những kế hoạch này là sự cụ thể hóa
mục tiêu và biện pháp của chính sách hoặc một hoạt động cụ thể của quá trình chính
sách. Phần lớn các kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững
được tiến hành lập từ trên xuống. Việc lập kế hoạch tổ chức thực hiện từ trên xuống
thường không phản ánh hết nhu cầu và thực tiễn đời sống, không tạo được cơ sở
cho việc phát huy sức mạnh của nhân dân, tạo nên tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào cấp
trên của cấp dưới. Từ đó tạo ra nhiều bất cập trong quản lý, thậm chí dẫn đến thất
thoát hoặc sử dụng không hiệu quả nguồn lực của chính sách giảm nghèo bền vững.
Để tránh tình trạng trên, công tác xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam cần thực hiện theo
giải pháp sau:
Tỷ lệ
Tỷ lệ
60.00% 50.00% 40.00% 30.00% 20.00% 10.00% 0.00%
232/413
181/413
Thỉnh thoảng
Thường xuyên được tham gia ý kiến
Hình 4.3. Mức độ tham gia đề xuất các biện thực hiện chính sách
của người nghèo
[nguồn: Kết quả khảo sát từ phiếu điều tra]
Tăng cường sự tham gia tích cực có hiệu quả của các đối tượng chính sách
(người nghèo) vào quá trình xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện. Việc các đối
tượng chính sách được tham gia trực tiếp vào quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện
sẽ thể hiện được nhu cầu, mong muốn và nguyện vọng của nhân dân qua đó làm cho
quá trình thực hiện chính sách phù hợp hơn với tình hình thực tiễn.
169
Qua khảo sát đánh giá về sự tham gia của người dân vào quá trình thực hiện
chính sách ở địa hương cho thấy 31% cán bộ công chức khi được hỏi cho rằng
người dân đã tham gia tích cực và 69% còn lại cho rằng người dân có tham gia
nhưng chưa tích cực, (hình 4.3). điều này cho thấy các đối tượng nghèo đã và đang
tham gia vào quá trình chính sách của nhà nước. Tuy nhiên sự tham gia của các đối
tượng chính sách chưa tích cực và chưa có hiệu quả. Điều này làm ảnh hưởng rất
lớn đến kết quả của chính sách, trực tiếp dẫn đến tình trạng tỷ lệ giảm nghèo hàng
năm được cải thiện không đáng kể. Thực trạng trên được bắt nguồn từ việc người
dân ít được tham gia vào quá trình xây dựng biện pháp để thực hiện chính sách ở
địa phương. Mặt khác các đối tượng của chính sách tham gia vào quá trình xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách đã thể hiện cách thức tổ chức triển khai thực
hiện từ việc thực hiện chính sách từ trên xuống. Với điều kiện thực tiễn của các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay, trong quá trình thực hiện chính sách cần phải
có sự thay đổi về cách thức tổ chức thực hiện thay bằng hình thức thực hiện chính
sách từ trên xuống, quá trình này cần phải được thực hiện từ dưới lên hoặc kết hợp
giữa từ trên xuống và từ dưới lên để các biện pháp thực hiện chính sách khi được
ban hành sẽ phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế của địa phương nơi chính sách
được tổ chức thực hiện. Điều này cũng phù hợp với mong muốn và nguyện vọng
của người nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam khi tham gia vào quá trình
thực hiện chính sách, (Mẫu 01, câu hỏi 16 phụ lục kết quả khảo sát hộ nghèo).
Tạo cơ chế phối hợp giữa chính quyền tỉnh, huyện, xã trong việc xây dựng kế
hoạch thực hiện. Cấp xã là cầu nối giữa huyện và các đơn vị thôn, bản để triển khai các
hoạt động sản xuất và đời sống cho các thôn, bản và người dân. Ban phát triển xã được
thành lập để thống nhất kế hoạch hoạt động và trợ giúp cho ban phát triển thôn, bản
triển khai các hoạt động hội thảo, tập huấn, quản lý và kiểm tra, giám sát tài chính, báo
cáo và đánh giá các hoạt động, kiến nghị lên cấp trên hoặc giải quyết kịp thời các kiến
nghị, thắc mắc của người dân theo thẩm quyền được phân công.
Cấp huyện, là đầu mối xây dựng kế hoạch theo nhu cầu, đề nghị của cấp xã
và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch, điều phối và phân bổ các nguồn lực, kiểm
tra giám sát việc thực hiện theo kế hoạch của cấp xã
Cấp tỉnh, chịu trách nhiệm toàn bộ về phê duyệt kế hoạch, lựa chọn, lồng
ghép các chương trình, huy động điều phối và sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà
170
nước được phân bổ cho tỉnh. Cụ thể hóa cơ chế chính sách cho phù hợp với địa
phương mình đồng thời tổ chức kiểm ra, đánh giá và giám sát việc thực hiện hàng
tháng, hàng quý, hàng năm và giải quyết các vướng mắc phát sinh từ cơ chế chính
sách của địa phương cũng như của các cơ quan trung ương trên địa bàn tỉnh.
Khi luận án tiến hành khảo sát về mối quan hệ phối hợp trong thực hiện
chính sách ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay lại cho thấy một thực
trạng là mặc dù có tới 91% cán bộ, công chức xã được hỏi cho rằng trong quá trình
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương đều có sự phối hợp giữa
các cấp với nhau. Tuy nhiên trong 91% đó lại có tới 72,5% cho rằng sự phối hợp đó
là không có hiệu quả (hình 3.9). Điều này dẫn đến việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở địa phương ít có hiệu quả như đánh giá từ phiếu điều tra của công
chức xã, (Mẫu 02 câu số 7 phụ lục kết quả khảo sát hộ nghèo).
Từ thực tế trên cho thấy để chính sách giảm nghèo bền vững đi vào cuộc
sống các cấp chính quyền đại phương ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam cần
phải tạo ra cơ chế phối hợp thông suốt, thống nhất có kết quả, hiệu quả giữa 3 cấp
tỉnh, huyện, xã theo chiều dọc và chiều ngang. Mối quan hệ phối hợp này không
phải chỉ là một chiều từ tỉnh xuống đến xã mà còn theo cả chiều ngược lại vừa thể
hiện mối quan hệ phối hợp trong lãnh đạo chỉ đạo điều hành vừa thể hiện vao trò
nắm bắt, tập hợp và truyền dẫn tâm tư nguyện vọng của người dân lên cấp trên của
chính quyền xã để cấp có thẩm quyền kịp thời có những điều chỉnh làm cho quá
trình thực hiện chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương.
4.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng các nguồn lực
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển
và ứng dụng khoa học công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và
bền vững.
Để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam nói chung, vùng đồng bào tộc người thiểu số nói riêng, cần phát
huy tốt nguồn nội lực. Trước hết và quan trọng nhất là nguồn lực con người. Nghiên
cứu xây dựng một chương trình tổng thể dài hạn về phát triển nguồn lực nói chung
cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, trong đó ưu tiên đào tạo, bố trí việc làm
171
cho con em đồng bào dân tộc, trước mắt, tổ chức đào tạo lại, coi trọng đào tạo từ
đầu cho các tộc người thiểu số. Chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo nghề
cho lao động nông thôn (theo Quyết định số 1956/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính
phủ: Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020), nhất là
các huyện, xã ở vùng sâu, vùng xa, cho vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất
nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, nhất là nông nghiệp, nông thôn.
Đặc biệt coi trọng các trường nội trú cho con em của họ, có chế độ cử tuyển đến
đối tượng. Có chính sách cho con em của họ tại các trường nội trú. Trong đó đội ngũ
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, cán bộ khoa học - kỹ thuật, đội ngũ trí thức các dân
tộc ít người là một trong những nhân tố giữ vai trò quyết định trực tiếp nhất. Do đó, đào
tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, cán bộ khoa học kỹ thuật, xây dựng đội ngũ trí
thức các dân tộc ít người là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của các
tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào tộc người thiểu số, từng bước khắc phục tình trạng lạc hậu, đưa vùng đồng bào tộc
người thiểu số phát triển hòa nhịp với sự phát triển chung, thực hiện thành công chính
sách giảm nghèo bền vững. Có chính sách ưu đãi đối với cán bộ là tộc người thiểu số
và cán bộ luân chuyển vào vùng tộc người thiểu số.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là những hạt nhân nòng cốt của Đảng, chính
quyền và các đoàn thể từ xã, phường, thị trấn đến các bản, làng. Họ là những người
trực tiếp triển khai các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ở cơ sở, trực
tiếp sống và làm việc với nhân dân. Do đó, họ phải có trình độ văn hóa và nghiệp vụ
chuyên môn nhất định, hiểu biết pháp luật và các chủ trương, chính sách dân tộc của
Đảng, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với nhân dân,…vì vậy, họ cần phải được
đào tạo cơ bản và thường xuyên được bồi dưỡng.
Trên cơ sở thống kê và rà soát lại đội ngũ cán bộ chủ chốt ở tất cả các cơ
quan Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cơ sở hiện có, đánh giá số lượng, chất lượng
theo yêu cầu của địa phương và theo tiêu chuẩn đề ra - các tỉnh cần có kế hoạch
thay thế, bổ sung và tăng cường từ cấp huyện cho những cơ sở yếu kém. Tiến hành
xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức cần thiết cho đội ngũ này,
trong đó quan tâm đến các cán bộ là người dân tộc.
172
Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp cơ sở cần hiểu và nắm được các quan
điểm, chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam trong những năm sắp tới; các kiến thức về quản lý kinh tế, về pháp luật, các
chính sách dân tộc, tôn giáo, đối ngoại của Đảng và Chính phủ, các chính sách về
dân số, về môi trường sinh thái, chủ quyền, an ninh quốc phòng, nhất là những vấn
đề thường xuyên gặp phải tại địa phương. Song song bồi dưỡng về nhận thức, lý
luận, thực tiễn đồng thời phải bồi dưỡng về trình độ học vấn, với cán bộ chưa biết
chữ phải xóa mù và từng bước nâng cao trình độ cho họ, theo ý kiến của chúng tôi,
có thể đưa giáo viên về mở lớp ngắn ngày, theo điều kiện tại cơ sở (như hình thức
vừa làm vừa học và kết hợp với giáo viên tại chỗ ở các cấp học trên địa bàn).
Các tỉnh trong vùng lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận dự nguồn
cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở. Đội ngũ kế cận phải được đào tạo để đảm bảo
trình độ học vấn ít nhất tốt nghiệp phổ thông cơ sở và được đào tạo lý luận ở các
trường chính trị - hành chính, hoặc các trường trung cấp hoặc dạy nghề theo chương
trình sơ hoặc trung cấp.
Các ban, ngành của huyện, tỉnh phải trực tiếp kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ
đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở thông qua việc làm thực tế của họ tại địa phương.
Tạo nguồn cho đội ngũ cán bộ kế cận qua việc tạo điều kiện để các cháu
trong độ tuổi đi học đều được đi học, cố gắng để hoàn thành phổ cập trung học phổ
thông, tiến tới phổ cập trung học phổ thông, đồng thời gửi đi đào tạo ngành nghề.
Nhà nước nên có chính sách học bổng, chính sách miễn giảm học phí cho đối tượng
chính sách, nhất là các tộc người thiểu số, trong đó có các tộc người ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam như Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ rõ: “Quan tâm hơn nữa tới
phát triển giáo dục, đào tạo ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Bảo đảm công
bằng xã hội trong giáo dục, thực hiện tốt chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với người và
gia đình có công, đồng bào dân tộc thiểu số, học sinh giỏi, học sinh nghèo, học sinh
khuyết tật, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn”.
Sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng theo nguyên tắc:
vì việc bố trí người, có chế độ đãi ngộ phù hợp và đề bạt hợp lý theo đúng khả năng
của cán bộ tiến tới viên chức hóa đội ngũ cán bộ chủ chốt.
173
Từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ lãnh đạo,
quản lý, đặc biệt cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
cán bộ khoa học - kỹ thuật là những người lao động có tri thức chuyên môn và có
tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo… và do đó, họ có
đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay, phần lớn cán bộ này là người Kinh, lại tập
trung tại các thành phố hoặc thị xã ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Điều đó
đòi hỏi Đảng bộ và chính quyền các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam phải có các
chủ trương, chính sách hơp lý phù hợp với điều kiện của địa phương đào tạo cho
được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật là người dân tộc ít người ở các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam để cùng với đồng nghiệp trí thức là người Kinh nhằm góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng tại vùng.
Cần có những chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với cán bộ khoa học kỹ thuật
là người dân tộc ít người, trong đó đặc biệt là chính sách nhà ở và đất đai để họ kết
hợp làm kinh tế hộ gia đình.
Thực hiện các biện pháp nhằm huy động tối đa các nguồn lực cho xóa đói
giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Trong bối cảnh và xu hướng phát triển KT-XH việc thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững sẽ gặp nhiều khó khăn nhất là trong khâu huy động vốn để tổ chức
triển khai thực hiện. Nếu chính sách giảm nghèo bền vững chỉ trông chờ vào nguồn
vốn từ NSNN như các giai đoạn vừa qua thì không thể đạt được hiệu quả giảm nghèo
bền vững như mong đợi. Điều đó có nghĩa là vai trò của chính sách giảm nghèo bền
vững với phát triển KT-XH sẽ bị mờ nhạt. Để huy động nguồn lực vốn cho công tác
giảm nghèo bền vững giai đoạn tới cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phải quy hoạch lại dân cư các vùng khó khăn, vùng sâu vùng xa,
thôn bản nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Do dân cư sống rải rác thưa
thớt ở những triền núi cao đường giao thông đi lại khó khăn. Việc đầu tư giao
thông, thủy lợi, điện nước sinh hoạt, trường lớp, trạm y tế..cũng như các công trình
hạ tầng cơ sở thiết yếu phục vụ sản xuất cho bà con đều bị dàn trải phân tán tốn kém
và khó phát huy hiệu quả. Đó là chưa kể đến những khó khăn và chi phí tốn kém
174
cho công tác truyền thông của hoạt động giảm nghèo bền vững. Do đó để đầu tư
vừa tiết kiệm vừa phát huy tối đa hiệu quả đồng vốn, phải thực hiện ngay việc quy
hoạch lại dân cư trước khi thực hiện phân bổ vốn cho thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững.
Thứ hai, thực hiện xã hội hóa và quy định trách nhiệm cộng đồng trong công
tác giảm nghèo bền vững. Để các tổ chức cá nhân, doanh nghiệp cùng gánh vác
trách nhiệm với NSNN thì cần phải đẩy mạnh XHH trong công tác giảm nghèo bền
vững. Coi đây là trách nhiệm chung của cả xã hội và của cả cộng đồng vì sự phát
triển KT-XH của quốc gia. Ngoài việc huy động các nguồn vốn đóng góp tự nguyện
của các cá nhân, tập thể tổ chức, doanh nghiệp, các địa phương khi ký cam kết đầu
tư, thành lập doanh nghiệp cần có những quy định, điều khoản cụ thể về trách
nhiệm đối với cộng đồng của các doanh nghiệp, các đơn vị, tổ chức cá nhân…trong
toàn xã hội bằng cách hình thành “Quỹ xóa đói giảm nghèo” để tạo nguồn vốn. Tạo
ra cơ chế liên kết giữa người nghèo với doanh nghiệp. Cụ thể:
Đối với các tổ chức kinh doanh các cá nhân kinh doanh và các doanh nghiệp:
Để các doanh nghiệp trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam chung tay
giảm nghèo bền vững, các địa phương trong vùng cần ban hành các văn bản, chế tài
ràng buộc trách nhiệm bằng cách quy định các doanh nghiệp đóng trên địa bàn phải
cam kết thực hiện việc tuyển dụng nhân công tại chỗ để giải quyết việc làm cho lao
động địa phương, tham gia thực hiện tốt công tác ASXH hướng tới người nghèo,
người đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với hoạt động sản xuất kinh doanh, các tổ
chức kinh doanh các cá nhân kinh doanh và các doanh nghiệp cần phải có chiến
lược, kế hoạch để bao tiêu, tìm đầu ra cho hàng hóa sản phẩm nhất là hàng thủ công
mỹ nghệ, thổ cẩm, nông sản đặc trưng của địa phương và của vùng.
Đối với các Ngân hàng Thương mại: Do các Ngân hàng Thương mại đều
thực hiện chức năng kinh doanh như các doanh nghiệp nên các ngân hàng này đều
phải có trách nhiệm đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, thực hiện
công tác ASXH và giảm nghèo bền vững cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên đầu tư cho các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam không thể hiệu quả như
đầu tư ở các vùng khác bởi các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam có những điều
175
kiện kinh tế xã hội...không thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xã hội nhưng lại rất
cần thiết cho ASXH và an ninh quốc phòng. Do đó các tổ chức tín dụng trong đó có
các Ngân hàng Thương mại (NHTM nhà nước và NHTM cổ phần) cần phải xác
định trách nhiệm chung với đất nước, nhất là vùng có tỷ lệ đói nghèo và tỷ lệ đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống cao như các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Mặt khác, nhà
nước cần sớm có quy định đối với các Ngân hàng Thương Mại về nghĩa vụ cho vay
của các ngân hàng này đối với người nghèo. Ngân hàng Thương mại phải có trách
nhiệm cùng với Ngân hàng CSXH thẩm định những DA vay vốn của người nghèo,
người cận nghèo để cấp vốn cho họ làm ăn theo mức lãi suất ưu đãi và mức lãi suất
thấp nhất mới có thể đảm bảo được nhu cầu vay vốn phát triển sản xuất của các hộ gia
đình. Thực hiện được giải pháp này sẽ góp phần hỗ trợ người nghèo vươn lên thoát
nghèo, người cận nghèo không bị rơi xuống dưới ngưỡng nghèo. Đồng thời giảm bớt
gánh nặng cho Ngân hàng CSXH hay chính là giảm bớt gánh nặng cho NSNN trong
việc bố trí vốn để thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Thứ ba, đa dạng hóa các nguồn lực thực hiện chính sách. Để thực hiện được
chính sách cần phải có nguồn vốn tuy nhiên thời gian qua cơ bản nguồn vốn này do
Nhà nước cấp nên việc thực hiện chính sách bị động. Bởi vậy việc cần làm đầu tiên
trong quá trình thực hiện chính sách là cần đảm bảo huy động đủ nguồn lực khi đó
mới có thể tính đến giải quyết các vấn đề khác.
Nếu chỉ duy nhất trông chờ vào nguồn hỗ trợ từ Chính phủ thì việc triển khai
sẽ bị động dẫn đến chính sách thiếu bền vững. Bởi vậy, ngoài nguồn vốn cấp từ nhà
nước, về lâu dài cần tìm một nguồn ổn định và bền vững hơn. Nguồn đó chính là
huy động từ chính những người đi vay. Trên thực tế, có một số tổ chức tài chính vi
mô cung cấp các khoản vốn vay cho người nghèo đã hoạt động bền vững ngay cả
khi không có trợ cấp của Chính phủ. Điều đó có nghĩa là vấn đề nghèo đói không
phải là trở ngại lớn khi thực hiện chính sách ngay cả khi không có hỗ trợ từ Chính
phủ, nếu như còn có một vài người có tiền để gửi tiết kiệm. Như vậy, có thể huy
động nguồn lực từ chính người đang vay vốn và từ những người không phải là đối
tượng của chính sách.
176
Huy động tiền tiết kiệm được thực hiện dưới hai hình thức tiết kiệm tự
nguyện và tiết kiệm bắt buộc. Đối với huy động tiết kiệm theo hình thức tự nguyện,
người vay đóng tiết kiệm hàng tháng hoặc quí với số tiền nhất định (số tiền này đảm
bảo phù hợp với khả năng tích lũy của người nghèo - mức đóng này cần được tính
toán một cách cẩn thận để đảm bảo tính khả thi của chính sách). Điều chắc chắn là
số tiền huy động từ một người nghèo theo thời gian nhất định sẽ không nhiều,
nhưng nó có tác dụng khuyến khích người vay với dư nợ tiền vay lớn có thể tiết
kiệm nhiều hơn. Ngoài ra, người vay được khuyến khích gửi tiết kiệm với nhiều
hình thức hợp đồng tiền gửi phù hợp với họ để khuyến khích người vay tiết kiệm
cho các mục đích cụ thể như học tập, mua sắm tài sản…
Ngoài ra, người vay phải bắt buộc đóng tiết kiệm vào một tài khoản có lãi
suất đầu tư và họ có thể được rút ra để sử dụng sau một thời gian nhất định. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy ít nhất là sau ba năm thì số tiền tiết kiệm này mới có ý
nghĩa vì giúp cho người vay có một khoản tiền đáng kể và có thể sử dụng được vào
việc khác. Việt Nam cũng đã bắt đầu thực hiện hình thức này từ năm 2008. Tuy
nhiên, sau một năm thực hiện kết quả rất thấp vì việc triển khai chưa đồng bộ ở các
địa phương và quan trọng hơn với cách huy động như hiện nay thì chưa tạo ra một
sự gắn kết chặt giữa người nghèo và cơ quan thực hiện chính sách. Muốn vậy, đi
kèm với việc huy động dưới hình thức tiết kiệm và bắt buộc cần triển khai các hoạt
động mà nhờ đó vừa đảm bảo quyền lợi cho người nghèo, đồng thời tăng tính trách
nhiệm của họ. Một trong các hoạt động đó là thực hiện các chương trình bảo hiểm
và quỹ lương hưu và các hoạt động này không chỉ có ý nghĩa bảo đảm quyền lợi
cho người nghèo mà đây còn là một nguồn tiền thu hút tiết kiệm ngắn hạn.
Thứ tư, thực hiện đa dạng hóa các phương thức, hình thức hỗ trợ vốn.Giải
ngân vốn vay hỗ trợ giảm nghèo phải kịp thời, đặc biệt với các hộ vay vốn đầu tư
vào sản xuất nông nghiệp, phục vụ có hiệu quả cho các nhu cầu về sản xuất kinh
doanh và đời sống của các hộ nghèo. Phương thức cấp vốn có thể bằng tiền, hoặc
mua hiện vật chuyển thẳng cho các các hộ nghèo theo đơn giá tại địa phương được
thỏa thuận với hộ nghèo, hoặc chuyển trả cho người cung ứng, nhất là đối với các
177
vùng sâu, vùng xa và vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Với phương thức này sẽ hạn
chế được tình trạng sử dụng vốn không đúng mục đích.
4.2.4. Giải pháp về công tác thanh tra, kiểm tra
Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chính sách Đây
là một công việc vô cùng quan trọng vì nó sẽ cho biết chính sách được triển khai
đến đúng đối tượng hay không. Đặc biệt, việc đánh giá chính sách giúp cho chúng
ta phát hiện ra những điểm bất hợp lý của chính sách từ đó có quyết định chỉnh sửa
kịp thời. Do đó ngay từ khi thiết kế chính sách cần xây dựng một hệ thống các chỉ
số đo lường. Biên động giám sát thực sự có chất lượng cần tăng cường chức năng
phản biện của xã hội. Tăng cường kiểm tra, đánh giá của cấp ủy đảng, chính quyền
các cấp trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của tỉnh về xóa
đói giảm nghèo.
Làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá quản lý theo muc tiêu chính sách. Để
đánh giá được kết quả thực hiện chính sách một cách toàn diện cần thiết phải lượng
hóa mục tiêu của chính sách bằng các chỉ số lượng hóa để từ đó làm căn cứu cho
việc đánh giá kết quả cũng như hiệu quả của chính sách..
Để kết quả kiểm tra, đánh giá được khách quan, các địa phương cần thực
hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, công khai các Chương trình, Dự án, nhất là nguồn lực tài chính để
thực hiện chính sách. Việc công khai sẽ giúp cho các cơ quan thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát dễ dàng trong việc tiếp cận thông tin làm nền tảng cho việc đưa ra các kết luận
kiểm tra, giám sát. Đồng thời việc công khai, minh bạch cần phải gắn với trách nhiệm
giải trình của các cơ quan thực hiện, đây là tiền đề để xác định quyền hạn cũng như
trách nhiệm của các cơ quan tham gia vào quá trình thực hiện chính sách.
Công khai thông tin về quá trình chính sách cũng là tạo điều kiện cho người
dân có điều kiện để thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững. Bên
cạnh đó cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho người dân nhất là người nghèo có
được thông tin để thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo đối với những hành vi vi phạm
178
chính sách, pháp luật về giảm nghèo bền vững của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
quá trình thực hiện chính sách.
Thứ hai, trong quá trình thực hiện kiểm tra giám sát, nhất thiết phải có sự
tham gia của đại diện các tổ chức đoàn thể ở địa phương đặc biệt là sự tham gia của
đại diện người dân như: già làng, trưởng bản hoặc đại diện người nghèo, hộ nghèo.
Sự tham gia của các tổ chức đoàn thể, và của chính các đối tượng chính sách trong
hoạt động kiểm tra, đánh giá quá trình tổ chức thực hiện chinh sách giảm nghèo bền
vững sẽ làm cho hoạt động này trở lên minh bạch hơn, tránh bao biện hoặc hạn chế
những biểu hiện tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình kiểm tra, giám sát. Mặt khác,
sự tham gia của các tổ chức đoàn thể và đối tượng chính sách trong quá trình kiểm
tra, giám sát sẽ giúp cho các cấp chính quyền có thể tìm kiếm được những biện
pháp, cơ chế thực hiện chính sách phù hợp hơn với những điều kiện cụ thể của địa
phương mình, ngành mình, bởi hơn ai hết, chính đối tượng chính sách mới biết
được họ đang cần gì ở nhà nước và những biện pháp tổ chức thực hiện của chính
quyền địa phương có phù hợp với hoàn cảnh thực tế của họ không để trên cơ sở đó
có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế.
Không chỉ quan tâm đến công tác giám sát mà cần tổ chức tốt quá trình đánh
giá chính sách và thông thường phải được tiến hành định kỳ hàng năm. Tuy nhiên,
chính sách đặc biệt là chính sách giảm nghèo không thể tác động ngay được. Vì
vậy, sau khoảng ba năm thực hiện cần tiến hành đánh giá nghiêm túc để xem chính
sách đó thực sự có ý nghĩa không.
Như vậy, có theo dõi đánh giá thường xuyên mới rút được kinh nghiệm và
tìm ra các mô hình tốt nhất. Đánh giá giúp gắn trách nhiệm của các chủ thể trong
thực hiện chính sách với kết quả, hiệu quả đạt được. Ngoài ra, còn tăng cường sự
giám sát cộng đồng, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
4.3. Một số kiến nghị để thực hiện các giải pháp
4.3.1. Đối với Quốc hội
Tăng cường giám sát các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức triển khai thực
hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 ngày 24 tháng 6 năm 2014 của Quốc hội về đẩy
mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020. Trong đó, tập trung
179
vào việc định hướng điều chỉnh chính sách giảm nghèo sau 2015 thông qua việc
thay đổi chuẩn nghèo đa chiều; ưu tiên các chính sách đối với những địa bàn khó khăn
nhất, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới,
xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; bảo đảm nguồn lực thực hiện chính
sách giảm nghèo; tăng cường công tác quản lý nhà nước, phân công, phân cấp cụ thể
trách nhiệm, đổi mới cơ chế điều hành, hoàn thiện khung tiêu chí đánh giá hiệu quả
giảm nghèo và khuyến khích xã hội hóa trong công tác giảm nghèo.
Phân bổ ngân sách cho các chính sách giảm nghèo trực tiếp và Chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo theo hướng gắn với mục tiêu cụ thể và kết quả đầu
ra; rà soát, sắp xếp các Chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng lồng ghép các
chính sách và nguồn lực để tăng tính hiệu quả của chính sách giảm nghèo.
Tiếp tục giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo, trong đó quan tâm
giám sát việc thực hiện chính sách giảm nghèo đối với đồng bào dân tộc thiểu số;
địa bàn 30a; chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở đối với người nghèo.
Quan tâm đến các dự án luật có chính sách liên quan đến mục tiêu giảm
nghèo và chính sách phát triển nông thôn, nông nghiệp, nông dân.
4.3.2. Đối với chính phủ
Cần rà soát, sửa đổi, sắp xếp hợp lý các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan đến giảm nghèo, giảm số lượng văn bản, khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp;
phân công trách nhiệm rõ ràng; phân loại địa bàn và đối tượng hỗ trợ gắn với thời
hạn và điều kiện; giảm dần các chính sách cho không và tăng chính sách hỗ trợ có
điều kiện; lồng ghép chính sách và nguồn lực có hiệu quả. Tăng cường, nâng cao
hiệu quả công tác tuyên truyền giáo dục cho người nghèo nâng cao nhận thức vươn
lên thoát nghèo.
Đảm bảo cân đối nguồn lực trung hạn cho các chính sách; lựa chọn chính
sách ưu tiên để sử dụng nguồn lực hợp lý, công bằng; cải cách thủ tục hành chính,
đổi mới phương thức để người dân tham gia xây dựng và tiếp cận chính sách tốt
hơn. Tập trung đầu tư cho địa bàn khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy
kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với các vùng phát triển; đảm
bảo việc gắn kết giữa phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện năng suất với bảo vệ
môi trường.
180
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ cập và có giải pháp để huy động học sinh
ra lớp đúng độ tuổi, tăng số lượng các trường dân tộc nội trú, trường bán trú tuổi ở
vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thay đổi phương thức đào tạo cử tuyển theo
hướng nâng cao chất lượng gắn với hiệu quả sử dụng; chú trọng phân luồng, tổ chức
đào tạo nghề hợp lý, hiệu quả.
Đầu tư cơ sở vật chất, nhân lực để tăng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm
sóc sức khỏe cho người nghèo, đặc biệt người nghèo đồng bào dân tộc thiểu số,
người nghèo các vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn; bổ sung chính sách để đồng bào
dân tộc thiểu số các vùng này khi khám chữa bệnh bảo hiểm y tế vượt tuyến trong
phạm vi địa bàn tỉnh được thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về giảm nghèo theo hướng ban hành
chính sách phải gắn với bố trí nguồn lực và kết quả đạt được; đổi mới cơ chế điều
hành trong tổ chức thực hiện và điều phối nguồn lực theo hướng phân cấp mạnh
hơn cho địa phương, trao thêm quyền cho người nghèo và cộng đồng. Nâng cao
chất lượng bộ máy trực tiếp thực hiện chính sách giảm nghèo trong cả nước theo
hướng chuyên nghiệp, tinh gọn, lồng ghép; quan tâm đào tạo cán bộ tại chỗ đối với
các địa bàn khó khăn, đặc biệt khó khăn và các địa bàn có đông đồng bào dân tộc
thiểu số; đổi mới phương thức khuyến khích và vận động xã hội tham gia nhằm
nâng cao hiệu quả hỗ trợ cho mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Nghiên cứu xây dựng chuẩn nghèo và chính sách giảm nghèo theo phương
pháp tiếp cận đa chiều sau 2015 nhằm bảo đảm an sinh tối thiểu cho người nghèo về
việc làm, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, trợ giúp pháp lý và
thông tin để đảm bảo cho mục tiêu giảm nghèo bền vững; rà soát, phân loại và
chuyển số nghèo kinh niên sang nhóm bảo trợ xã hội. Xây dựng bộ tiêu chí bình
xét, đánh giá chuẩn nghèo, tổ chức công tác thống kê, theo dõi thống nhất trong cả
nước; hiện đại hóa công tác quản lý để thực hiện tốt hơn công tác giám sát, đánh giá
hiệu quả giảm nghèo.
4.3.3. Đối với các địa phương ở miền núi phía Bắc nước ta
- Tiếp tục cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp giảm nghèo bền vững vào
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, các nghị quyết chuyên đề
của HĐND và UBND.
181
- Trước khi triển khai thực hiện chính sách, cần tăng cường hoạt động tuyên
truyền về chủ trương chính sách, các quy định của nhà nước có liên quan đến cán bộ
và nhân dân phù hợp với điều kiện địa lý, văn hóa, ngôn ngữ và năng lực của từng
vùng, từ đó tạo sự đồng thuận giữa các cấp, các ngành và người dân trong quá trình
thực hiện, đồng thời cũng là cơ sở để nhân dân kiểm tra, giám sát quá trình thực
hiện chính sách tại địa phương.
- Đảng bộ, chính quyền các cấp cần xác định công tác thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững là nhiệm vụ chính trị hàng đầu được thực hiện thường xuyên,
liên tục. Quá trình thực hiện phải lấy lợi ích của người dân là lợi ích cao nhất, từ đó
tăng cường chỉ đạo, tập trung công sức, trí tuệ để triển khai, đảm bảo phát huy tối đa
hiệu quả của chính sách tại địa phương. Việc thực hiện chính sách phải công khai,
công bằng, dân chủ, xuất phát từ nhu cầu của người nghèo trên cơ sở định hướng
của cơ quan quản lý nhà nước các cấp.
- Đối với mỗi ngành, mỗi cấp, cần có cơ chế quản lý một cách hệ thống, tăng
cường mối liên hệ chặt chẽ giữa các cấp các ngành với nhau trên địa bàn tỉnh nhằm
tạo sự liên kết, phối hợp, chia sẻ thông tin, bài học kinh nghiệm giữa các cấp, các
ngành để nâng cao tối đa kết quả của chính sách.
- Cần quan tâm đến công tác dự báo, lập kế hoạch, tổng hợp kết quả thực
hiện qua các cuộc họp sơ kết, tổng kết, hội thảo rút kinh nghiệm theo từng chuyên
đề, từ đó kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc
của địa phương, cơ sở và của từng đơn vị thực hiện. Các mục tiêu giảm nghèo cần
phải được gắn liền, lồng ghép vào các mục tiêu chung của kế hoạch hàng năm và 5
năm của ngành và kế hoạch phát triển KTXH của tỉnh, huyện, xã.
- Tăng cường công tác đào tạo, huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn
cho cán bộ, công chức làm công tác giảm nghèo nhất là đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở. Thường xuyên tổ chức các cuộc kiểm tra, giám sát liên ngành tại các huyện,
các xã đặc biệt là những xã vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn.
- Giảm bớt thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho người dân được thụ
hưởng lợi ích của chính sách một cách nhanh chóng và thuận tiện, tránh những thủ
tục phức tạp không cần thiết gây nên khó khăn đối với cả những người thực hiện
chính sách và đối tượng thụ hưởng.
182
- Để đảm bảo đủ kinh phí cho công tác tổ chức triển khai thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững và hiệu quả cho những năm tới đây, các cơ quan quản lý
các cấp cần chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai vận động các nguồn hỗ trợ
khác nhau trong tỉnh, nguồn vốn hỗ trợ của trung ương, các dự án quốc tế, các tổ
chức phi Chính phủ, các doanh nghiệp và thực hiện xã hội hóa công tác giảm nghèo
bền vững. Khi đã huy động được đủ nguồn lực để thực hiện, cần chủ động xây dựng
kế hoạch để triển khai thực hiện và kiểm tra, theo dõi, giám sát ngay từ đầu năm
nhằm hạn chế những thiếu sót có thể xẩy ra trong quá trình thực hiện.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên ở các cấp tiếp tục
phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động sự tham gia của xã hội và cộng đồng
trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững trên cơ sở phối hợp với chính
quyền cùng cấp. Việc tham gia vào quá trình thực hiện chính sách của các tổ chức
chính trị - xã hội cần phải được thực hiện trong tất cả các bước của quy trình thực
hiện chính sách bao gồm: phối hợp để xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính
sách, phối hợp trong phổ biến, tuyên truyền chính sách, phối hợp trong phân công
thực hiện chính sách, phối hợp trong theo dõi kiểm tra, đôn đốc và đánh giá việc
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
- Trong quá trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững, các cấp chính
quyền phải cùng với các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp mình thường xuyên tiến
hành theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Qua kiểm tra, đôn đốc,
để nhắc nhở mỗi cán bộ, công chức, mỗi đối tượng thực hiện chính sách tập trung
chú ý những nội dung ưu tiên trong qúa trình thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững. Kiểm tra thường xuyên giúp cho chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội
nắm bắt được tình hình thực hiện, từ đó đánh giá được khách quan về những điểm
mạnh, điểm yếu của công tác tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tại
địa phương, kịp thời khuyến khích những nhân tố tích cực trong quá trình thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững để tạo ra những phong trào thiết thực cho việc
thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở địa phương mình.
183
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian
tới phải được đặt trong bối cảnh tình hình KT-XH trong nước và quốc tế và tình
hình thực tiễn về điều kiện kinh tế - xã hội của vùng. Chính sách giảm nghèo bền
vững được xây dựng và tổ chức thực hiện phải dựa trên nền tảng và bám sát các
quan điểm, yêu cầu của Đảng và Nhà nước, đặc biệt quan điểm chủ đạo trong Nghị
Quyết số 80/2011/NQ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2011 về định hướng giảm nghèo
bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020.
Với mục đích xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực
hiện chính sách xóa đói giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam của nước ta trong giai đoạn từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo,
trong đó tập trung chủ yếu vào các bước trong quy trình tổ chức thực hiện chính
sách xóa đói giảm nghèo, kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ
trung ương đến các địa phương, các tổ chức chính trị xã hội ở các địa phương về
những cơ chế chính sách, để tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững có
kết quả và hiệu quả trên địa bàn các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, dựa trên cơ
sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở chương 1 và những đánh
giá về thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian qua liên hệ với những điều kiện đặc thù của
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, trong chương này luận án tập trung vào
những nội dung cụ thể sau đây:
Trên cơ sở lý luận dựa trên cơ sở lý luận về thực hiện chính sách giảm nghèo
bền vững, kinh nghiệm thực hiện giảm nghèo bền vững ở một số quốc gia trên thế
giới và một số vùng của Việt Nam, căn cứu vào thực tiễn tổ chức thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian
qua, gắn với những điều kiện đặc thù của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, tác
giả cho rằng việc đổi mới cách thức tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới là cần thiết khách
quan và khoa học nhằm nâng cao kết quả và hiệu quả thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam góp phần giảm nghèo bền
184
vững, nâng cao trách nhiệm giải trình trong thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong quản lý và sử dụng nguồn lực của
nhà nước, nhà tài trợ và xã hội cho giảm nghèo bền vững. Với kết quả nghiên cứu
của mình, luận án cũng chỉ ra rằng để tổ chức thực hiện chính sách giảm nghèo bền
vững bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam thì công tác này cần phải
được tổ chức thực hiện dựa trên những quan điểm và yêu cầu về thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nơi hiện đang
được coi là vùng có những đều kiện phát triển KT-XH đặc biệt khó khăn so với các
vùng khác trên cả nước.
Với mục tiêu thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững bền vững ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam đến năm 2020 và những năm tiếp theo, luận án đã
nghiên cứu xây dựng hệ thống các giải pháp dựa trên cơ sở lý luận và tính thực tiễn
nhằm nâng cao kết quả thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền
núi phía Bắc Việt Nam.
Với đặc thù là vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn nhất cả nước, để
giảm nghèo bền vững bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đòi hỏi cần
phải có sự chung tay tích cực và có hiệu quả của các cấp ủy Đảng, chính quyền các
địa phương và cả hệ thống chính trị trong đó có sự chủ động tích cực tham gia của
chính người nghèo vào quá trình thực hiện chính sách nhằm giảm nghèo bền vững
bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới luận án cũng
đưa ra một số kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ trung ương đến
cơ sở và các tổ chức chính trị - xã hội về những cơ chế chính sách như: ưu tiên các
chính sách đối với những địa bàn khó khăn nhất, ưu tiên người nghèo là đồng bào
dân tộc thiểu số, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt
Nam; bảo đảm nguồn lực thực hiện chính sách giảm nghèo; tăng cường công tác
quản lý nhà nước, phân công, phân cấp cụ thể trách nhiệm; cơ chế phối hợp giữa
chính quyền với các tổ chức chính trị - xã hội...
185
KẾT LUẬN
Chính sách giảm nghèo bền vững và tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững là hai vấn đề của một quá trình, có quan hệ biện chứng, tác
động qua lại lẫn nhau trong suốt quá trình chính sách. Mỗi chính sách đều hướng
đến đạt được những mục tiêu khác nhau trong từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển. Mục tiêu của chính sách giảm nghèo bền vững có đạt được như mong muốn
của nhà nước cũng như mong muốn, nguyện vọng của người nghèo, đối tượng mà
chính sách hướng tới hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tổ chức triển
khai thực hiện của các cấp, các ngành, các địa phương và sự tham gia tích cực của
các đối tượng chính sách và cộng đồng xã hội.
Các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam là vùng có điều kiện KT-XH và vị trí,
ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc phòng. Trong thời gian qua, việc
tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi
phía Bắc Việt Nam đã thu được những kết quả nhất định, điều kiện KT-XH của các
tỉnh trong vùng đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Điều này phản ánh
sự nỗ lực và quyết tâm rất lớn của đảng bộ, chính quyền và nhân dân các tỉnh trong
vùng, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Song
quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, yếu kém làm ảnh hưởng
đến kết quả cũng như hiệu quả của chính sách. Điều này cần phải được khắc phục
để khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, hướng
đến giảm nghèo bền vững bền vững góp phần phát triển kinh tế xã hội và giảm
nghèo bền vững của các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam đến năm 2020 và những
năm tiếp theo.
Luận án, với đề tài “Quản lý nhà nước về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh
miền núi phía Bắc Việt Nam”, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận và
thực tiễn trong tổ chức triển khai thực hiện giảm nghèo bền vững; đồng thời phân
tích thực trạng thực hiện các bước trong quy trình tổ chức triển khai thực hiện chính
186
sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian
qua. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao kết quả quản lý nhà nước
về giảm nghèo bền vững tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam. Những nội dung
cụ thể mà luận án đã đạt được là:
Thứ nhất là hệ thống hóa và phân tích các vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách giảm nghèo bền vững, trong đó tập trung xây dựng và phân tích khung lý
thuyết về quy trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững.
Điều này có ý nghĩa quan trọng làm nền tảng cho việc đánh giá quá trình tổ chức
triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc
Việt Nam trong thời gian qua, đồng thời trên cơ sở đó, có những tổng kết, đánh giá
về những ưu điểm, hạn chế trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Thứ hai là thông qua việc nghiên cứu kinh nghiệm giảm nghèo bền vững của
một số quốc gia trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm và khuyến nghị áp dụng cho
các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong việc nâng cao kết quả và hiệu quả tổ chức
triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững và phát triển kinh tế xã hội.
Thứ ba là thông qua kết quả điều tra, khảo sát, phỏng vấn người dân, cán bộ
quản lý các cấp, kết hợp với các số liệu thứ cấp để phân tích, đánh giá thực trạng tổ
chức triển khai thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững từ khâu xây dựng kế
hoạch tổ chức triển khai thực hiện cho đến khâu kiểm tra, đánh giá quá trình thực
hiện chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong
thời gian qua. Mỗi khâu trong quy trình tổ chức thực hiện đều được đánh giá phân
tích dựa trên hai khía cạnh là kết quả đạt được và những tồn tại hạn chế từ đó làm
tiền đề cho việc xây dựng hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao kết quả thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững cho các tỉnh các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam
trong thời gian tới.
Thứ tư là từ việc khái quát hóa cơ hội, thách thức, xu hướng giảm nghèo bền
vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam để đưa ra quan điểm, định hướng, yêu
cầu và giải pháp nhằm nâng cao kết quả tổ chức triển khai thực hiện chính sách
giảm nghèo bền vững và hướng tới giảm nghèo bền vững, đẩy nhanh tốc độ phát
187
triển KT-XH ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam trong thời gian tới góp phần
cùng với cả nước thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vào năm 2020 và những mục tiêu KT-XH những năm tiếp theo.
Kết quả nghiên cứu của luận án đã luận giải, chứng minh và trả lời được đầy
đủ và sâu sắc các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra trong phần mở đầu của luận án.
Với những phân tích, chứng minh về thực trạng tổ chức thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở chương 3 cùng với những giải pháp ở chương 4 cho thấy giả
thuyết nghiên cứu của luận án đã được chứng minh là phù hợp. Mục đích nghiên
cứu của luận án đã đạt được ở cả hai phương diện lý luận và thực tiễn thực hiện
chính sách giảm nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam.
Nghiên cứu được thực hiện trên phạm vi không gian và thời gian khá rộng
nhưng hệ thống số liệu thống kê nhất quán và liên tục. Tuy nhiên, dù đã có nhiều nỗ
lực để hoàn thành luận án nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được những ý kiến, chia sẻ, đồng cảm của các chuyên gia, các nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước./.
188
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Lê Khánh Cường, “Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững ở các tỉnh miền núi phía Bắc”, Tạp chí Quản lý nhà nước số 263.
2. Lê Khánh Cường, “Kinh nghiệm về giảm nghèo bền vững của Trung quốc
và hàm ý cho Việt Nam”, Tạp chí Châu Á Thái Bình Dương số 5038.
189
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Adam Ford và các tác giả (1996), Vấn đề nghèo ở Việt Nam,Nxb Chính trị Quốc
gia - công ty Aduki dịch, Hà Nội.
2. Lê Đức An (2008), Xóa đói giảm nghèo ở khu vực duyên hải miền Trung, luận
văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Lê Xuân Bá (2001), Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam,Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội.
4. Bộ kế hoach và đầu tư (2007), Tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam,
thành tựu, thách thức và giải pháp, Hà Nội.
5. Bộ lao động thương binh và xã hội và UNDP (2004), Đánh giá cuối kỳ Chương
trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo và chương trình 135-I, Hà Nội.
6. Bộ phát triển Quốc tế Anh (2002), Chiến lược thực hiện các mục tiêu phát triển của
Việt Nam - Cung cấp giáo dục cơ bản có chất lượng cho mọi người, Hà Nội.
7. Đàm Viết Cường (2005), Tác động của quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo
đối với hộ gia đình tại hai tỉnh Hải Dương và Bắc Giang.
8. Trần Thọ Đạt và Đỗ Tuyết Nhung (2008), Tác động của vốn con người đối với
tăng trưởng kinh tế các tỉnh, thành phố Việt Nam,Nxb Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
9. E.Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước phát triển,Nxb Thống kê,
Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện
nay,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Thị Hằng và Lê Duy Đồng (2005), Phân phối và phân hóa giàu nghèo
sau 20 năm đổi mới,Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
12. Hoàng Triều Hoa (2004), Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam: thực trạng và giải
pháp, luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Hoa (2009), Hoàn thiện các chính sách xóa đói giảm nghèo chủ yếu của
Việt Nam đến năm 2015, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường ĐH Kinh tế quốc dân.
14. Phạm Mạnh Hùng và các tác giả (2006), Phân tích thực trạng chi phí trong điều
trị nội trú của bệnh nhân nghèo 139 tại 3 bệnh viện Ung bướu, Nhi, và Phụ sản
Trung ương, Hà Nội.
190
15. Phạm Thái Hưng và các tác giả (2010), Nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số ở
Việt Nam Thực trạng và thách thức tại các xã đặc biệt khó khăn thuộc Chương
trình 135-II, Hà Nội.
16. Phạm Thái Hưng, Lê Đặng Trung, và Nguyễn Việt Cường (2011), Nghèo của
Dân tộc thiểu số ở Việt Nam: Hiện trạng và thách thức ở các xã thuộc Chương
trình 135 Giai đoạn II, 2006 – 2007, Hà Nội.
17. Tạ Đức Khánh (2010), Nâng cao vai trò nhà nước trong xóa đói giảm nghèo ở
Lạng Sơn, luận văn thạc sĩ, Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN.
18. Trần Đức Lương (2002), Đổi mới - sự lựa chọn cách mạng nhằm mục tiêu phát
triển của Việt Nam, Tạp chí Cộng sản, số 4+5, tr. 7-11.
19. Lê Quốc Lý (2011), Tổng kết và đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách XđGN
ở nước ta giai đoạn 2001-2010; xây dựng cơ chế, chính sách và giải pháp
XđGN phục vụ công tác quản lý điều hành của đảng trong giai đoạn 2011-
2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
20. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Vai trò của nhà nước đối với phát triển xã hội và
quản lý xã hội trong tiến trình đổi mới, Đề tài cấp Nhà nước KX.02.22/06-10,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
21. Ngô Quang Minh (1999), Tác động kinh tế của Nhà nước góp phần xóa đói
giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
22.Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Phom Xuân Nam và Peter Boothroyd (2003), về đánh giá chính sách và hoạch
định chính sách giảm nghèo,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (2002), Chiến lược thực hiện các mục tiêu phát
triển của Việt Nam - Cải thiện việc tiếp cận cơ sở hạ tầng thiết yếu, Hà Nội.
25. Ngân hàng phát triển Châu Á và Tổ chức Y tế Thế giới (2002), Cải thiện tình
trạng sức khỏe và giảm bớt bất bình đẳng, Hà Nội.
26. Ngân hàng thế giới (1995), Việt Nam: Đánh giá nghèo đói và chiến lược, Hà Nội.
27. Ngân hàng thế giới (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001:
Tấn công nghèo đói,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
191
28. Nguyễn Thị Nhung (2012), Giải pháp xóa đói giảm nghèo nhằm phát triển kinh
tế xã hội ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh
tế, Trường ĐH Kinh tế quốc dân.
29. Võ Thị Thu Nguyệt (2010), Xóa đói giảm nghèo ở Malaixia và Thái Lan, bài
học kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Chính trị Hành chính quốc gia, Hà Nội.
30. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập. Tập 3. (1845-1847),Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
31. Lê Du Phong và Hoàng Văn Hoa (1999), Kinh tế thị trường và sự phân hoá
giàu nghèo ở vùng Dân tộc và Miền núi phía Bắc nước ta hiện nay,Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Vũ Thị Ngọc Phùng (1999), Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, công bằng xã
hội và xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Nguyễn Duy Sơn (2004), Quyền phát triển của con người Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Nguyễn Đức Thắng (2016), Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở các
tỉnh Tây Bắc đến năm 2020, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
35. Vũ Thị Thanh Thủy (2011), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế, luận văn thạc sĩ, Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN.
36. Nguyễn Thành Trung (2006), Đánh giá việc thực hiện chính sách khám chữa
bệnh cho người nghèo ở miền núi phía Bắc, Thái Nguyên.
37. Thủ Tướng Chính Phủ (2013), QĐ số 2405/QĐ-TTg ngày 10/12/2013, về Phê
duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu
tư của Chương trình 135 năm 2014 và năm 2015, Hà Nội.
38. Thủ Tướng Chính Phủ (2011), QĐ số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011, về
việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-
2015, Hà Nội.
39. Thủ Tướng Chính Phủ (2012), QĐ số 1489/QĐ-TTg ngày 08 tháng 10 năm
2012, Về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai
đoạn 2012 –2015, Hà Nội
40. Thủ tướng Chính Phủ (2011), Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/01/2011,
Về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011-
2015, Hà Nội.
192
41. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng
07 năm 1998, Phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt
khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, Hà Nội.
42. Thủ Tướng Chính Phủ (2013), Quyết định 293/QĐ-TTg ngày 05/02/2013, Về
việc hỗ trợ có mục tiêu từ ngân sách trung ương cho 23 huyện có tỷ lệ hộ nghèo
cao được áp dụng cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng theo quy định của
Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ về
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo,
Hà Nội.
43. Thủ Tướng Chính Phủ (2015), Quyết định Số: 1614/QĐ-TTg, ngày 15 tháng 9 năm
2015, Về phê duyệt đề án tổng thể “chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo
từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020, Hà Nội.
44. Thủ Tướng Chính Phủ (2015), Quyết định Số: 59/QĐ-TTg, ngày 19 tháng 11
năm 2015, về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai
đoạn 2016-2020, Hà Nội.
45. Thủ Tướng Chính Phủ (2007), Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg, ngày 05 tháng
3 năm 2007, Về Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho
đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007 – 2010, Hà Nội.
46. Thủ Tướng Chính Phủ (2007), Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg, ngày 05 tháng
3 năm 2007, Về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, Hà Nội.
47. Thủ Tướng Chính Phủ (2009), Quyết định số 1592/QĐ-TTg, ngày 12 tháng 10
năm 2009, Về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất
ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống
khó khăn, Hà Nội.
48. Thủ tướng Chính Phủ (2005), Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg ngày 08/7/2005,
ban hành kèm theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
49. UNDP (1993), Hội nghị về chống nghèo, Băng Cốc, Thái Lan.
50. UNDP (1995), Xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Hà Nội.
51. UNDP (2003), Đánh giá nghèo có sự tham gia của cộng đồng tại Hà Giang, Hà Nội.
52. UNDP (2003), Đánh giá nghèo theo vùng miền núi phía Bắc, Hà Nội.
53. UNDP (2003), Đánh giá nghèo theo vùng tại đồng bằng sông Hồng, Hà Nội.
193
54. UNDP (2009), Rà soát tổng quan các chương trình dự án giảm nghèo ở Việt
Nam, Hà Nội.
55. UNDP (2012), Tác động của chương trình 135 giai đoạn II qua lăng kính hai
cuộc điều tra đầu kỳ và cuối kỳ, Hà Nội.
56. Ủy ban Dân tộc (2006), Báo cáo kết quả: dự án điều tra, đánh giá hiệu quả đầu
tư chương trình 135 và đề xuất các chính sách, giải pháp hỗ trợ đầu tư cho các
xã đặc biệt khó khăn giai đoạn 2006 -2010, Hà Nội.
57. Ủy ban dân tộc (2008), Báo cáo kết quả thực hiện chương trình 135 năm 2007,
Hà Nội.
58. Ủy ban dân tộc và UNDP (2009), Nhìn lại quá khứ đối mặt thách thức mới:
đánh giá giữa kỳ chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và chương trình
135-II, giai đoạn 2006-2008, Hà Nội.
59. Ủy ban dân tộc (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, NXB.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Ủy ban dân tộc, Viện dân tộc - Hội đồng khoa học (2006), 60 năm công tác dân
tộc thực tiễn và bài học kinh nghiệm, NXB. Lý luận chính trị, Hà Nội.
61. Ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1996),
Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt Nam, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
62. Ủy Ban thường vụ Quốc hội (2014), Báo cáo giám sát của đoàn giám sát việc
thực hiện chính sách, pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005-2012 tại 15 tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, Hà Nội.
63. Ủy ban Dân tộc (2013), Báo cáo kết quả rà soát chính sách dân tộc giai đoạn
2006- 2012 và đề xuất chính sách giai đoạn 2013-2015, định hướng đến 2020,
Hà Nội.
64. WB (1995), Đánh giá đói nghèo và chiến lược”, Hà Nội.
65. www.http://vtv1.vn/đối thoại chính sách
66. www.http://giamngheo.molisa.gov.vn
67. Viện dân tộc (2009), Cơ hội thách thức đối với vùng dân tộc thiểu số hiện
nay,Nxb Văn Hóa dân tộc, Hà Nội.
68. Hoàng Văn Vinh (2012), Xóa đói giảm nghèo trong quá trình tăng trưởng kinh
tế ở Bắc Giang, luận văn thạc sĩ, Trường ĐH Kinh tế, ĐHQGHN.
194
69. Vũ Thị Vinh (2009), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo trong quá trình đổi
mới ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Kinh tế Việt Nam.
70. World Bank (2000), Báo cáo về tình hình phát triển thế giới 2000/2001: Tấn
công nghèo,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Tài liệu Tiếng nước ngoài
71. Asis Kumar Banerjee (2013), “Sustainable Poverty Reduction: Credit for the
Poor”, Springer.
72. Cao Kien Cuong (2007), Major solutions for the sustainable elimination of
poverty and hunger in Vietnam, Singapore.
73. Chen, Martha Alter, và các cộng sự (2004), Mainstreaming informal
employment and gender in poverty reduction: A handbook for policy - makers
and other stakeholders,Nxb London: Commonealth secretariat London.
74. David S Landes (1998), The Wealth and Poverty of Nations: Why Some are So
Rich and Some So Poor, Harvard University, USA.
75. Dillinger và William (2007), Poverty and regional development in Eastern
Europe and central Asia, Washington, DC: World Bank.
76. Dollar. D và and Kraay. A (2002), Growth is Good for the Poor,Journal of
Economic Growth.
77. Hafiz A . Pasha& T. Palanivel (2004), “Policies and growth for the poor: Asian
Experience”
78. Leonora C. Angeles (2004), “Grassroots Democracy and Community
Empowerment: The Quest for Sustainable Poverty Reduction in Asia”.
79. Normaliza Hj Abdul Manaf (2017), “Poverty Reduction for Sustainable
Development: Malaysia's Evidence-Based Solutions", Malaysia.
80. Tuan Phong Don và Hosenin Jalian (1998), Poverty and policy of poverty
reduction in Vietnam, experience from transformation economy, Hà Nội.
81. P. Glewwe, N. Agrawal, và Dollar, D. (egs), (2004), Economic Growth, Poverty
and Household Welfare in Vietnam,World Bank Regional and Sectoral Studies,
Washington D.C.
82. Khan và Mahmood Hasan (2001), Rural poverty in developing countries: Implication
for public policy,Nxb Washington, DC : International monetary fund.
83. Oscar Lewis (1996), The culture of poverty,Waveland Press, In G. Gmelch and
W. Zenner.
195
84. Ulf Narloch (2014), “Sustainable poverty reduction and green growth”, Let
Talk Development.
85. Vishwambhar Prasad Sati (2016), “Sustainable Livelihood Approach to Poverty
Reduction”, Springer, Switzerland.
86. World Bank (2006), Poverty and social impact analysis of reforms: Lessons
and examples from implementation,Nxb Washington, DC.
87. World Bank (2008), Poverty and regional development in Eastern Europe and
central Asia,William Dillinger. Nxb Washington, DC.
88. World Bank (1998), Viet Nam - Poverty Assessment and strategy.
89. World bank, Tara Bedi, Aline Coudouel, Marcus Cox, Markus Goldstein, và
Nigel Thornton (2006), Beyond the numbers: Understanding the institutions for
monitoring poverty reduction strategies,Washington, DC.
90. WorldBank (2008), Land in transition: Reform and poverty in rural Vietnam -
Martin Ravallion, Dominique van de Walle,Nxb Washington, DC.
196
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 01: MỘT SỐ CHÍNH SÁCH VỀ GIẢM NGHÈO VÀ CÁC VĂN
BẢN TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Trích yếu nội dung văn bản
Ghi chú
TT
Số hiệu
Ngày ban hành
Loại văn bản A Chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn chung I Ban chấp hành TW
1 15-NQ/T.Ư
01/06/2012
Nghị quyết
Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020
II Quốc hội
1 76/2014/QH13
24/06/2014
Nghị quyết
2 100/2015/QH13
12/11/2015
Nghị quyết
Đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 Phê duyệt chủ trương đầu tư các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016 - 2020
III Chính phủ - Thủ tướng Chính phủ
1 80/NQ-CP
19/05/2011
Nghị quyết
2 70/NQ-CP
01/11/2012
Nghị quyết
3 705/QĐ-TTg
12/06/2012
Quyết định
4 582/QĐ-TTg
4/28/2017
Quyết định
5 2324/QĐ-TTg
19/12/2014
Quyết định
6 1614/QĐ-TTg
15/09/2015
Quyết định
Định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 Ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-TW ngày 01/6/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020 Thành lập Ban chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 Phê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc miền núi giai đoạn 2016-2020. Ban hành Kế hoạch hành động triển khai Nghị quyết số 76/2014/QH13 của Quốc hội về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 Phê duyệt Đề án tổng thể chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020
7
12/11/2015
118/2015/NĐ- CP
Nghị định
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
PL2 Vùng khó khăn
8
19/11/2015
59/2015/QĐ- TTg
Quyết định
Ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 –
TT
Số hiệu
Trích yếu nội dung văn bản
Ghi chú
Ngày ban hành
Loại văn bản
2020.
Thôn ĐBKK;
9 204/QĐ-TTg
01/02/2016
Quyết định
Phê duyệt danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư của Chương trình 135 năm 2016
xã vùng DT và MN
10
11/03/2016
12/2016/QĐ- TTg
Quyết định
11 1559/QĐ-TTg
05/08/2016
Quyết định
12 1722/QĐ-TTg
02/09/2016
Quyết định
Tiếp tục thực hiện Quyết định số 30/2012/QĐ-TTg ngày 18/7/2012 và Quyết định số 1049/QĐ-TTg ngày 26/6/2014 của Thủ tướng Chính phủ Ban hành tiêu chí xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020 Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020
IV Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo
1
25/03/2016
02/2016/TT- BLĐTBXH
Thông tư
B Chính sách hỗ trợ I Y tế
15/11/2014
1
105/2014/NĐ- CP
Hướng dẫn quy trình xác định hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống TB giai đoạn 2016-2020 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm y tế
2
24/11/2014
Hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế
41/2014/TTLT- BYT-BTC
Nghị định Thông tư liên tịch
II Giáo dục - Đào tạo
1 1956/QĐ-TTg
27/11/2009
Quyết định
2 86/2015/NĐ-CP
30/03/2015
Nghị định
Thông tư
3
30/03/2016
09/2016/TTLT- BGDĐT-BTC- BLĐTBXH
liên tịch
Phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” Quy định về cơ cấu thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ học phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021 Hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính phủ quy định về cơ cấu thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học
TT
Số hiệu
Trích yếu nội dung văn bản
Ghi chú
Ngày ban hành
Loại văn bản
III Tín dụng
phí, hỗ trợ học phí học tập từ năm học 2015-2016 đến năm học 2020-2021
tối đa 50 triệu/hộ
1 78/2002/NĐ-CP 04/10/2002
Nghị định
Tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác
lãi suất: 0,55%
2
27/09/2007
Tín dụng đối với học sinh, sinh viên.
157/2007/QĐ- TTg
Quyết định
3
30/11/2007
27/2007/TT- BLĐTBXH
Thông tư
4
16/07/2009
14/2009/TT- NHNN
Thông tư
Quy trình xác nhận đối tượng được vay vốn theo Quyết định 157/2007/QĐ-TTg ngày 27 tháng 09 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh, sinh viên; Quy định chi tiết thi hành việc hỗ trợ lãi xuất đối với các khoản vay của người nghèo và các đối tượng chính sách khác tại Ngân hàng chính sách xã hội;
tối đa 50 triệu/hộ
5
23/03/2013
Tín dụng đối với hộ cận nghèo
15/2013/QĐ- TTg
Quyết định
lãi suất: 0,55%
1.250.000đ/tháng
6 1196/QĐ-TTg
19/07/2013
Quyết định
Điều chỉnh mức cho vay đối với học sinh, sinh viên;
lãi suất: 0,55%
IV Trợ giúp pháp lý
1 07/2007/NĐ-CP
12/01/2007
Nghị định
2
08/08/2016
32/2016/QĐ- TTg
Quyết định
V Xây dựng nhà ở
1
10/08/2015
33/2015/QĐ- TTg
Quyết định
theo Quyết định
VI Khác
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật TGPL Ban hành chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn giai đoạn 2016-2020 và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển hình Chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở số 167/2008/QĐ-TTg giai đoạn 2)
TT
Số hiệu
Trích yếu nội dung văn bản
Ghi chú
Ngày ban hành
07/04/2014
Cơ cấu biểu giá bán lẻ điện
46.000đ/hộ/tháng
1
Loại văn bản Quyết định
28/2014/QĐ- TTg
30/10/2014
2
Quyết định
60/2014/QĐ- TTg
11/12/2014
3
Bộ T.chính
Thông tư
190/2014/TT- BTC
C Điều tra, rà soát hộ nghèo
23/11/2015
1
4789/LĐTBXH- VPQGGN
28/06/2016
2
17/2016/TT- BLĐTBXH
Thông tư
Quy định tiêu chí hộ chính sách xã hội được hỗ trợ tiền điện; Quy định thực hiện chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo và hộ chính sách xã hội Hướng dẫn tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo năm 2015 Hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020
(Nguồn Vụ Chính sách Ủy ban dân tộc miền núi)
PHỤ LỤC 02: BẢNG TỔNG HỢP HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH GIẢM
NGHÈO VÙNG DÂN TỘC VÀ MIỀN NÚI
(Các chính sách do Thủ tướng Chính phủ ban hành)
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
2
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu 5 4
1 3 I. Các chính sách phát triển kinh tế xã hội theo vùng:
2002
1
Chính sách cho đồng bào DTTTS tại chỗ và hộ dân tộc thuộc diện chính sách ở các tỉnh Tây Nguyên mua nhà trả chậm
2002
2
Giải quyết đất sản xuất và đất ở cho đồng bào dân tộc tại chỗ ở Tây Nguyên
Quyết định số 154/2002/QĐ-TTg ngày 12/11/2002 Quyết định số 132/2002/QĐ-TTg ngày 8/10/2002
2003 2010
3
Về chính sách di dân thực hiện qui hoạch, bố trí dân cư giai đoạn 2003- 2010.
Quyết định số 190/2003/QĐ-TTg ngày 16/9/2003
2003
4
Hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu các xã đBKK vùng bãi ngang ven biển hải đảo
2005
5
Thí điểm giao rừng, khoán bảo vệ rừng cho hộ gia đình và cộng đồng DTTS tại chỗ ở Tây Nguyên
Quyết định số 257/2003/QĐ-TTg ngày 3/12/2003 Quyết định số 304/2005/QĐ-TTg ngày 23/11/2005
2005 2010
6
Dự án quy hoạch ổn định dân cư các xã biên giới Việt – Trung.
Quyết định số 60/2005/QĐ-TTg ngày 24/3/2005
2005
7
Quyết định số 79/2005/QĐ-TTg
Quy hoạch sắp xếp ổn đinh dân cư biên giới Việt – Lào, Việt – Căm Pu Chia
2006 2010
8
Phê duyệt danh sách các xã đBKK xã biên giới xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135 giai đoạn 2
Quyết định số 164/QĐ-TTg ngày 11/7/2006
2006 2010
9
Quyết định 07/2006/ QĐ-TTg ngày 10/1/2006
10
2008 2010
Quyết định số 69/2008/QĐ-TTg ngày 28/05/2008
Phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi giai đoạn 2006 – 2010 (Chương trình 135 giai đoạn II) Phê duyệt bổ sung danh sách xã đBKK, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135-II và danh sách xã ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135 - II
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
11
Quyết định số 1105/QĐ-TTg ngày 28/07/2009
Về việc phê duyệt bổ sung danh sách xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vào diện đầu tư Chương trình 135-II và danh sách xã hoàn thành mục tiêu, ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135-II
2009 2011
12
Quyết định số 101/2009/QĐ-TTg ngày 05/08/2009
2007 2010
13
Ban hành định mức đầu tư năm 2010 đối với một số dự án thuộc Chương trình 135-II và sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007 Chính sách hỗ trợ các dịch vu, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật CT 135-II
Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007
2007 2010
14
Quyết định số 113/2007/QĐ-TTg ngày 20/7/2007
Phê duyệt danh sách xã hoàn thành mục tiêu CT 135-I bổ sung các xã thôn bản vào diện đầu tư của CT 135-II và xã vùng bãi ngang ven biển và hải đảo vào diện đầu tư của CTMTQG-GN giai đoạn 2006 – 2010
2008 2010
15
Ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đối với các tỉnh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010.
2008 2010
16
Một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển KT-XH đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên đến năm 2010.
2008 2010
17
Ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng SCL đến năm 2010.
Quyết định số 24/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2007 QĐ số 25/2008/QĐ- TTg ngày 5/2/2008 Quyết định số 26/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2008
2008 2010
18
Quyết định số 27/2008/QĐ-TTg ngày 5/2/2008
Ban hành một số cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế – xã hội đối với các tỉnh, thành phố vùng Trung du và miền núi Bắc bộ đến năm 2010.
19
2010 2020
Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020
Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/06/2010
20
2008
Quyết định số 246/QĐ-TTg ngày 29/02/2008
21
2010
Quyết định số 45/QĐ-TTg ngày 11/01/2010
22
2004 2010
Quyết định số 124/2004/QĐ-TTg ngày 5/7/2004
Cơ chế đặc thù về thu hồi đất, giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ dân tái định cư dự án thủy điện Sơn La Sửa đổi, bổ sung điều 1 của Quyết định số 246/QĐ-TTg ngày 29/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ quy định cơ chế đặc thù về thu hồi đất, giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp cho các hộ dân tái định cư dự án Thủy điện Sơn La Phê duyệt Chương trình xây dựng mô hình ứng dụng và chuyển giao KH & CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn và miền núi giai đoạn từ nay đến năm
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
2010
Quyết định số
23
2008 2010
74/2008/QĐ-TTg ngày 9/6/2008
Về chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn vùng đồng bằng SCL giai đoạn 2008- 2010. Về chính sách hỗ trợ các dịch vụ, cải thiện và nâng
24
2007
cao đời sống nhân dân, trợ giúp pháp lý để nâng cao nhận thức pháp luật thuộc Chương trình 135 giai đoạn II
Quyết định số 112/2007/QĐ- TTg, ngày 20/7/2007
II. Các chính sách phát triển kinh tế xã hội theo lĩnh vực, theo ngành: Các chính sách về hỗ trợ phát triển sản xuất, nông, lâm nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, tín dụng
Tín dụng thực hiện chiến lược quốc gia về cấp nước
1
2002
sạch vệ sinh môi trường nông thôn.
2
Về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.
2004
Về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà
3
2004 2008
Quyết định số 105/2002/QĐ-TTg ngày 2/8/2002 QĐ số 62/2004/QĐ- TTg ngày 16/4/2004 Quyết định 134/2004/ QĐ-TTg ngày 20/7//2004 Quyết định số
4
2008
198/2007/QĐ-TTg ngày 31/12/2007
5
2005
Quyết định số 146/2005/QĐ-TTg
6
2006 2015
Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24/8/2006
ở và nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn. Sửa đổi, bổ sung QĐ số 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn Về chính sách thu hồi đất sản xuất của các nông trường, lâm trường để giao cho hộ DTTS nghèo. Phê duyệt Chương trình bố trí dân cư các vùng thiên tai, đBKK biên giới, hải đảo, di cư tự do, xung yếu của rừng phòng hộ khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015.
7
Cho vay giải quyết việc làm
2005
Quyết đinh số 71/QĐ- TTg ngày 5/4/2005 Quyết định số
8
Sửa đổi, bổ sung QĐ 146/2005/QĐ-TTg về chính
2007
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
57/2007/QĐ-TTg ngày 15/6/2007
sách thu hồi đất của các nông, lâm trường để giao cho hộ đồng bào DTTS nghèo.
9
2007 2010
Cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn.
Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007
Quyết định số
10
2008 2010
126/2008/QĐ-TTg ngày 15/09/2008
Về việc sửa đổi một số điều của Quyết định số 32/2007/QĐ-TTg ngày 05 tháng 03 năm 2007 về việc cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ DTTS đặc biệt khó khăn
2007 2010
11
Chính sách hỗ trợ di dân thực hiện định canh định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2007-2010
Phê duyệt Kế hoạch định canh, định cư cho đồng
12
2010 2012
bào DTTS du canh, du cư đến năm 2012
Tín dụng đối với gia đình sản xuất, kinh doanh tại
13
2007
vùng khó khăn
Một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai
14
2007 2010
đoạn 2007- 2010.
15
2008
Quyết định Về ban hành một số chính sách hỗ trợ đồng bào DTTS, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân Về việc sửa đổi, bổ sung quyết định số 289/QĐ-
Quyết định số 33/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25/08/2009 Quyết định số 31/2007/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 Quyết định số 147/2007/QĐ-TTg ngày 10/9/2007 Quyết định số 289/QĐ-TTg ngày 18/03/2008 Quyết định số
16
2008
1366/QĐ-TTg ngày 25/09/2008
TTg ngày 18/3/2008 về ban hành một số chính sách hỗ trợ đồng bào DTTS, hộ thuộc diện chính sách, hộ nghèo, hộ cận nghèo và ngư dân
Quyết định số
V/v tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt đến năm
17
2009 2010
2010 cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn
1592/2009/QĐ- TTg ngày 12 tháng 10 năm 2009
18
2010
Về cơ chế, chính sách hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, thủy sản để khôi phục sản xuất vùng bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh
Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31 tháng 12 năm 2009
19
QĐ số
Về việc ban hành Quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái
2010
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
định cư các dự án thuỷ lợi, thuỷ điện
34/2010/QĐ- TTg ngày 08 tháng 4 năm 2010
20
2010 2010
QĐ Số 2213/QĐ- TTg ngày 31 tháng 12 năm 2009
Sửa đổi, bổ sung một số điều của QĐ số 497/QĐ- TTg ngày 17/4/2009 v/v hỗ trợ lãi suất vốn vay mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ SX nông nghiệp và VL xây dựng nhà ở khu vực nông thôn
Quyết định Số
Sửa đổi, bổ sung QĐ 13/2009/QĐ-TTg ngày
21
2009 2015
56/2009/QĐ-TTg ngày 15 tháng 4 năm 2009
21/01/2009 về việc sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước để tiếp tục thực hiện các chương trình kiên cố hoá kênh mương, phát triển đường giao thông nông thôn, CSHT nuôi trồng thuỷ sản và CSHT làng nghề ở nông thôn giai đoạn 2009-2015
1
2001
Về việc điều chỉnh mức học bổng chính sách và trợ cấp xã hội đối với học sinh, sinh viên là người DTTS học tại các trường đào tạo công lập
2
Về chính sách dạy nghề đối với học sinh DTTS nội trú
2005
Lĩnh vực Giáo dục đào tạo Quyết định số 194/2001/QĐ-TTg ngày 21/12/2001 Quyết định số 267/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 Quyết định số
3
2005
244/2005/QĐ-TTg ngày 6/10/2005
Quyết định số
4
2006
82/2006/QĐ-TTg
5
2007
Chế độ phụ cấp ưu đãi đối với nhà giáo đang trực tiếp giảng dạy trong các cơ sở giáo dục trường THCS, THPT, các TTKT tổng hợp hướng nghiệp, TTGD thường xuyên, dạy nghề ở miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa; điều chỉnh mức học bổng chính sách đối với học sinh, sinh viên là người DTTS tại các trường phổ thông dân tộc nội trú và trường dự bị đại học. Về học bổng chính sách đối với học sinh sinh viên đang học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân
định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
6
2004 2010
công chức xã, phường, thị trấn đến năm 2010.
Phê duyệt đề án “ Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc
7
2010 2015
làm giai đoạn 2010 - 2015”
Quyết định số 152/2007/QĐ-TTg ngày 14/9/2007 Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Quyết định số 03/2004/QĐ-TTg ngày 7/1/2004 Quyết định số 295/QĐ-TTg ngày 26/02/2010 Quyết định số
8
2009 2020
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
9
2005
Phê duyệt đề án " đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020" Chính sách dạy nghề đối với học sinh DTTS nội trú áp dụng rộng rãi trong cả nước
10
2009 2012
Phê duyệt đề án “Tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào DTTS từ năm 2009 đến năm 2012”
1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 Quyết định số 67/2005/QĐ-TTg Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 04/05/2009
Lĩnh vực Y tế
1
Khám chữa bệnh cho người nghèo
2002
Phê duyệt đề án xây dựng trạm y tế xã thuộc vùng
2
2008 2010
khó khăn giai đoạn 2008 – 2010.
Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 27/07/2007 Quyết định số
3
2007 2018
1544/QĐ-TTg ngày 14/11/2007
Về phê duyệt “đề án đào tạo nhân lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung, vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng Tây Nguyên theo chế độ cử tuyển trong giai đoạn 2007 - 2018”
Lĩnh vực Văn hoá
1
2003
đề án bảo tồn phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam
Các chính sách ưu đãi hưởng thụ văn hoá cho đồng
2
2003
bào DTTS đặc biệt khó khăn
Phê duyệt phát triển hệ thống thiết chế văn hoá
3
2005 2010
thông tin cơ sở đến năm 2010
Về cấp một số báo tạp chí cho vùng DTTS miền
4
2006
5
2003
núi vùng đặc biệt khó khăn. Bổ sung dự án xây dựng một số làng bản buôn văn hoá có hoàn cảnh đặc biệt vào Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá. Phê duyệt đề án bảo tồn phát triển văn hoá các dân
6
2003
tộc thiểu số Việt Nam
Quyết định số 124/2003/QĐ-TTg ngày 15/6/2003 Quyết định số 170/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 QĐ số 975/QĐ- TTg ngày 20/7/2006 Quyết định số 31/2003/QĐ-TTg ngày 26/2/2003 Quyết định số 124/2003 ngày 17/06/2003 Quyết định số
7
Phê duyệt đề án Phát triển hoạt động văn hoá thông
2005 2010
TT
Nội dung
Số, cơ quan ban hành, trích yếu
Thời gian thực hiện Kết Bắt thúc đầu
tin vùng Tây Nguyên đến năm 2010.
Phê duyệt đề án phát triển hoạt động văn hoá thông
8
2006 2010
tin vùng đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 2010.
25/2004/QĐ-TTg ngày 27/2/2005 Quyết định số 167/2006/QĐ-TTg ngày
(Nguồn Vụ Chính sách Ủy ban dân tộc miền núi)
PHỤ LỤC 03: BẢNG XẾP HẠNG MỨC ĐỘ NGHÈO GIỮA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ NĂM 2016
XẾP HẠNG THEO TỶ LỆ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp)
XẾP HẠNG THEO TỔNG SỐ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp) TỔNG SỐ HỘ NGHÈO
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỶ LỆ (%)
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
105.855
1
1
0
1
Điện Biên
44,82
1
0
Thanh Hóa
Sơn La
87.146
3
2
1
2
Hà Giang
38,75
2
0
Nghệ An
80.168
2
3
-1
3
Cao Bằng
38,60
3
0
Đắk Lắk
76.434
4
4
0
4
Lai Châu
34,81
4
0
Hà Giang 67.297
5
5
0
5
Sơn La
31,91
5
0
Yên Bái
55.437
6
6
0
6
Lào Cai
27,41
6
0
Gia Lai
54.925
7
7
0
7
Yên Bái
26,97
7
0
Điện Biên 54.723
10
8
2
8
Bắc Kạn
26,61
8
0
51.794
8
9
-1
9
23,33
9
0
Bắc Giang
Tuyên Quang
Sóc Trăng 49.501
9
10
-1
10
Kon Tum
23,03
10
0
Cao Bằng 48.070
15
11
4
11
Lạng Sơn
22,37
11
0
47.377
11
12
-1
12
Hòa Bình
20,94
12
0
45.330
17
13
4
15
Đắk Nông 19,20
13
2
45.260
16
14
2
14
Đắk Lắk
17,83
14
0
Tuyên Quang Quảng Nam Quảng Ngãi
Bình Định 44.637
12
15
-3
13
Gia Lai
16,55
15
-2
Hòa Bình 44.112
18
16
2
16
Sóc Trăng 15,32
16
0
Lào Cai
43.835
13
17
-4
18
Quảng Trị 13,49
17
1
Lạng Sơn 42.490
19
18
1
19
Quảng Ngãi 13,06
18
1
Phú Thọ
41.050
20
19
1
21
Hậu Giang 12,55
19
2
Hà Tĩnh
39.033
25
20
5
20
Ninh Thuận 12,54
20
0
Bến Tre
37.541
22
21
1
17
Bạc Liêu
12,24
21
-4
An Giang 36.726
21
22
22
-1
Quảng Bình 12,00
22
0
35.835
23
23
0
23
Bắc Giang 11,72
23
0
35.683
24
24
0
25
11,21
24
1
Thái Nguyên
35.233
26
25
1
27
Trà Vinh
11,16
25
2
Đồng Tháp Thái Nguyên Kiên Giang
XẾP HẠNG THEO TỶ LỆ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp)
XẾP HẠNG THEO TỔNG SỐ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp) TỔNG SỐ HỘ NGHÈO
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỶ LỆ (%)
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
Lai Châu
32.259
28
26
2
28
Quảng Nam 11,13
26
2
Trà Vinh
30.359
29
27
2
24
Thanh Hóa 10,97
27
-3
29.107
27
28
-1
26
Bình Định 10,65
28
-2
Hải Dương
Kon Tum 28.990
33
29
4
32
Phú Thọ
10,51
29
3
28.885
30
30
0
33
Hà Tĩnh
10,46
30
3
Quảng Bình
Thái Bình 28.747
32
31
1
29
Phú Yên
10,23
31
-2
Đắk Nông 28.739
38
32
6
30
Bến Tre
10,01
32
-2
Phú Yên
25.765
35
33
2
31
Nghệ An
9,55
33
-2
Bạc Liêu
24.957
34
34
0
36
Kiên Giang 8,32
34
2
24.695
37
35
2
34
Đồng Tháp 8,14
35
-1
Hậu Giang
Hà Nội
24.215
14
36
-22
Cà Mau
7,96
35
36
-1
Cà Mau
23.646
36
37
-1
37
37
Khánh Hòa 7,44
0
Nam Định 23.477
31
38
-7
39
7,19
38
1
Thừa Thiên Huế
23.334
40
39
1
38
An Giang
6,75
39
-1
Tiền Giang
Quảng Trị 22.313
41
40
1
40
Ninh Bình
5,77
40
0
21.379
39
41
-2
45
Bình Phước 5,37
41
4
Khánh Hòa
Bắc Kạn
20.809
45
42
3
43
Lâm Đồng
5,19
42
1
43
1
41
-2
20.623
44
Hải Dương 5,08
43
20.253
43
44
-1
46
Tiền Giang 5,02
44
2
Thừa Thiên Huế Ninh Thuận
Ninh Bình 16.808
46
45
1
44
Vĩnh Long 4,77
45
-1
Hưng Yên 16.661
42
46
-4
42
Hưng Yên
4,65
46
-4
15.908
48
47
1
50
Thái Bình
4,61
47
3
15.525
47
48
-1
48
Bình Thuận 4,57
48
0
Lâm Đồng Hải Phòng
Long An
14.198
52
49
3
47
Hà Nam
4,24
49
-2
13.753
50
50
0
52
Vĩnh Phúc
3,93
50
2
13.229
49
51
-2
49
Nam Định
3,91
51
-2
Bình Thuận Vĩnh Long
XẾP HẠNG THEO TỶ LỆ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp)
XẾP HẠNG THEO TỔNG SỐ HỘ NGHÈO (Theo thứ tự từ cao đến thấp) TỔNG SỐ HỘ NGHÈO
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỈNH, THÀNH PHỐ
TỶ LỆ (%)
XẾP HẠNG 2015
XẾP HẠNG 2016
TĂNG/GIẢM SO VỚI NĂM 2015
12.772
55
52
3
Cần Thơ
3,75
52
51
-1
Bình Phước
Cần Thơ
11.993
51
53
-2
Long An
3,57
53
54
1
11.901
56
54
2
Quảng Ninh 3,39
54
53
-1
11.582
54
55
-1
2,87
55
56
1
Vĩnh Phúc Quảng Ninh
TP. Đà Nẵng
Hà Nam
11.456
53
56
-3
Hải Phòng
2,81
56
55
-1
Bắc Ninh
8.266
57
57
0
Bắc Ninh
2,59
57
57
0
7.295
58
58
0
Tây Ninh
2,08
58
59
1
TP. Đà Nẵng
Đồng Nai
6.384
59
59
0
1,81
59
60
1
Bà Rịa - Vũng Tàu
Tây Ninh
6.184
60
60
0
Hà Nội
1,29
60
58
-2
4.738
61
61
0
Đồng Nai
0,81
61
61
0
0
62
62
0
0
62
62
0
TP. Hồ Chí Minh
0
63
63
0
Bình Dương 0
63
63
0
Bà Rịa - Vũng Tàu TP. Hồ Chí Minh Bình Dương
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
PHỤ LỤC 04: TỔNG HỢP TỶ LỆ HỘ NGHÈO, HỘ CẬN NGHÈO CUỐI NĂM 2016 CỦA CÁC HUYỆN NGHÈO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC ĐƯỢC ÁP DỤNG CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐẦU TƯ CƠ SỞ HẠ TẦNG THEO QUY ĐỊNH TẠI NGHỊ QUYẾT SỐ 30a/2008/NQ-CP NGÀY 27/12/2008 CỦA CHÍNH PHỦ
Hộ Cận nghèo
Tỉnh/Huyện
Số hộ Tỷ lệ
Số hộ Tỷ lệ
Hộ Nghèo Số hộ tăng/giảm so với năm 2015
Tỷ lệ tăng/giảm so với năm 2015
Số hộ tăng/giảm so với năm 2015
Tỷ lệ tăng/giảm so với năm 2015
Tổng cộng
151.371 35,02
13.925
4,24 52.946 12,25
-6.383
-1,19
Cao Bằng
1. Thạch An
3.667 47,22
-697
-8,70
905 11,65
1.009
13,17
Thái Nguyên
2. Võ Nhai
5.441 31,86
601
4,00 2.211 12,95
-341
-1,85
Tuyên Quang
3. Lâm Bình
3.832 51,42
623
9,36 1.159 15,55
-222
-2,77
Lào Cai
5.425 28,25
1.197
6,92 2.672 13,91
327
2,01
4. Văn bàn
5.529 44,90
501
5,84 1.086
8,82
-68
-0,25
5 Sa Pa
6.110 35,48
1.395
9,62 1.407
8,17
-537
-2,94
6. Bát Xát
Lạng Sơn
7. Bình Gia
5.091 40,11
6,30 2.288 18,03
-390
-2,94
750
8. Đình Lập
2.460 35,95
5,99 1.315 19,22
23
0,60
371
Điện Biên
9. Mường Chà
5.773 66,79
3,87
820
9,49
-198
-1,99
89
10. Tuần Giáo
9.319 52,29
3,30 2.302 12,92
-60
0,06
287
Hòa Bình
11. Đà Bắc
6.505 46,97
617
4,78 2.583 18,65
-677
-4,80
12. Kim Bôi
7.925 29,79
5,26 5.755 21,63
-629
1.311 -2,18 Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
PHỤ LỤC 05: TỔNG HỢP PHÂN TÍCH HỘ NGHÈO CỦA CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC CUỐI NĂM 2016 THEO CÁC NHÓM ĐỐI TƯỢNG
Trong đó:
STT
TỈNH/THÀNH PHỐ
Tổng số hộ nghèo năm 2016
Hộ nghèo về thu nhập
Hộ nghèo dân tộc thiểu số
Hộ nghèo khu vực thành thị
Hộ nghèo khu vực nông thôn
Hộ nghèo thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản
Hộ nghèo thuộc chính sách ưu đãi người có công
Hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã hội
Cả nước
1.986.697 956.820 1.583.764
349.628 185.187 1.881.072 300.385
37.511
I Miền núi Đông Bắc 465.424 352.828 422.772
49.076
22.654 443.274
45.779
5.770
1 Hà Giang
67.297 66.760
62.602
4.695
3.039
64.258
6.217
285
2 Tuyên Quang
47.377 37.502
38.151
9.226
659
46.718
1.451
256
3 Cao Bằng
48.070 47.903
44.154
3.946
2.896
45.174
3.041
572
4 Lạng Sơn
42.490 39.961
40.743
1.749
1.399
41.093
3.781
83
5 Thái Nguyên
35.683 19.097
33.993
8.087
2.357
33.326
6.499
735
6 Bắc Giang
51.794 17.787
46.325
5.569
2.003
49.791
8.251
312
7 Lào Cai
43.835 39.484
41.721
2.114
2.250
41.585
1.937
339
8 Yên Bái
55.437 43.726
50.639
4.798
2.494
52.943
5.290
1.215
9 Phú Thọ
41.050 13.625
35.609
5.334
1.632
39.418
5.214
1.374
10 Quảng Ninh
11.582
7.285
10.094
1.490
2.441
9.643
3.206
276
11 Bắc Kạn
20.809 19.698
18.741
2.068
1.484
19.325
892
323
II Miền núi Tây Bắc
218.240 206.477 198.239
20.001
4.633 213.607
13.798
1.912
12 Sơn La
87.146 79.502
78.865
8.281
1.695
85.451
5.367
930
13 Điện Biên
54.723 54.183
52.851
1.872
814
53.909
3.054
283
14 Lai Châu
32.259 31.268
30.100
2.159
1.245
31.014
2.644
110
15 Hòa Bình
44.112 41.524
36.423
7.689
879
43.233
2.733
589
Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
PHỤ LỤC 06: TỔNG HỢP KẾT QUẢ KHẢO SÁT VỀ THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1. Cách tiến hành khảo sát
Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong luận án để đo lường
các kết quả thực hiện QLNN về giảm nghèo bền vững theo từng tiêu chí đồng thời
kiểm tra tính phù hợp của các chỉ tiểu trong thang đo từng tiêu chí. Trên cơ sở bộ
tiêu chí đã xây dựng thực hiện việc đánh giá các nội dung QLNN về giảm nghèo
bền vững.
Đối tượng điều tra là 3 đối tượng: người nghèo, cán bộ công chức ở các xã,
cán bộ công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên.
Đối với đối tượng là người nghèo: Trên cơ sở khoa học về chọn mẫu điều tra,
tác giả tính toán và chọn đối tượng điều tra là 600 hộ dân trên 6 tỉnh thành, mỗi tỉnh
chọn ngẫu nhiên 5 huyện, mỗi huyện phát 100 phiếu ở 3 xã nghèo, mỗi xã được
phát ngẫu nhiên cho 10 hộ nghèo (mẫu phiếu số 1), tổng số phiếu mỗi tỉnh là 5
huyện x 2 xã x 10 phiếu = 100 phiếu/tỉnh. Phiếu trả lời sẽ được thu thập, xử lý và sử
dụng vào phân tích, đánh giá các nội dung nghiên cứu để có được các kết quả khách
quan, phục vụ cho đề tài nghiên cứu.trong đó:
Tỉnh Hòa Bình: 100 hộ dân.
Tỉnh Sơn La: 100 hộ dân.
Tỉnh Phú Thọ: 100 hộ dân.
Tỉnh Lai Châu: 100 hộ dân.
Tỉnh Lạng Sơn: 100 hộ dân.
Tỉnh Hà Giang: 100 hộ dân.
Đối với đối tượng là cán bộ công chức cấp xã: Những người có trách nhiệm
trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách (mẫu phiếu số 2), chọn 6 tỉnh, mỗi tỉnh
chọn ra 2 huyện, mỗi huyện chọn 3 xã, mỗi xã phát cho 2 phiếu là cán bộ công chức
ở xã nghèo, tổng số phiếu điều tra là: 6 tỉnh x 2 huyện x 3 xã x 2 phiếu = 72 phiếu.
Đối tượng cán bộ công chức lãnh đạo quản lý từ cấp huyện trở lên (tổng 90
phiếu, mẫu phiếu 03): chọn ra 6 tỉnh, mỗi tỉnh chọn ra 5 huyện ngẫu nhiên, mỗi
huyện phát 2 phiếu, như vậy tổng số phiếu là 6 tỉnh x 5 huyện x 2 phiếu = 60 phiếu.
Đồng thời 30 phiếu phát ngẫu nhiên ở 6 tỉnh cho cán bộ quản lý cấp tỉnh bao gồm
lãnh đạo tỉnh lãnh đạo các sở thuộc UBND tỉnh bao gồm: Sở LĐTBXH, Sở Tài
chính, Ban Dân tộc, Sở Giáo dục và Đào tạo, Liên Đoàn Lao động tỉnh. Việc phát
phiếu điều tra dành cho các đối tượng này nhằm có được thông tin tham chiếu 2
chiều giữa một bên là các cơ quan nhà nước và một bên là đối tượng thụ hưởng lợi
ích của chính sách trên cơ sở đó rút ra những kết luận quan trọng trong quá trình
nghiên cứu.
2. Kết quả khảo sát
2.1. Kết quả khảo sát hộ nghèo (Mẫu: 01)
Câu 1. Xin ông/bà cho biết ở địa phương nơi ông/bà sinh sống đang thực
hiện những chính sách nào dưới đây?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 207/600 34.50%
2 319/600 53.17%
3 157/600 26.17%
4 354/600 59.00%
5 151/600 25.17%
6 246/600 41.00%
7 218/600 36.33%
8 134/600 22.33%
9 327/600 54.50% Chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 - 2015 (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-TTg giai đoạn 2) (33/2015/QĐ-TTg ngày 10/08/2015). Chính sách hỗ trợ cho học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú (TT109/2009/TTLT-BTC- BGDĐT) Chăm sóc sức khỏe cho người nghèo(QĐ 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002 Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch và vệ sinh nông thôn Chính sách về tín dụng cho người nghèo và đối tượng chính sách khác(NĐ 78/2002/NĐ-Cp) Chính sách về vốn vay ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (QĐ 32/2007/QĐ- TTg) Chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, giai đoạn 2012-2015 (QĐ 54/2012/QĐ-TTg) Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn (QĐ102/2009/QĐ-TTg) Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn (QĐ 1956/QĐ-TTg)
10 274/600 45.67% Chính sách bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo
11 Chính sách giáo dục hỗ trợ con em đi học. 253/600 42.17%
12 Chương trình về phát triển hạ tầng (CT 135) 140/600 23.33%
13 473/600 78.83%
14 224/600 37.33% Chính sách về hỗ trợ sản xuát nông nghiệp (bao gồm: giống, vật nuôi) Ct135 Hỗ trợ tiếp cận với đất đai, nhà ở và nước sạch (CT134)
15 Chính sách khác 237/600 39.50%
Câu 2. Theo ông/bà, có khoảng bao nhiêu người dân trong bản biết được nội dung
các chính sách trên của nhà nước?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Ít hơn 20% 64/600 10.67%
2 Khoảng 40 đến 50% 191/600 31.83%
3 Trên 80% 254/600 42.33%
4 Khoảng 20% đến 40% 91/600 15.17%
Câu 3. Ông bà biết chính sách trên từ đâu?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
Nghe trên báo, đài, ti vi 1 312/600 52.00%
Người trong bản nói 2 63/600 10.50%
Trưởng bản họp phổ biến 3 223/600 37.17%
Cán bộ xã đến phổ biến 4 430/600 71.67%
Kênh thông tin khác 5 237/600 39.50%
Câu 4. Những chính sách nào đang được thực hiện có thể giúp ông bà thoát nghèo.
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
Chính sách giáo dục 182/600 30.33% 1
Chính sách cho vay vốn để sản xuất 312/600 52.00% 2
Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt 86/600 14.33% 3
Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng 182/600 30.33% 4
Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở 342/600 57.00% 5
Hỗ trợ trực tiếp về lương thực 23/600 3.83% 6
Dạy nghề 152/600 25.33% 7
8 Các chính sách thuộc Chương trình 135 201/600 33.50%
Câu 5. Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương có mang lại
hiệu quả không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Không hiệu quả 19/600 3.17%
2 Hiệu quả ít 323/600 53.83%
3 Rất hiệu quả 197/600 32.83%
4 Không có câu trả lời 61/600 10.17%
Câu 6. Gia đình ông/bà có được hưởng lợi từ các chính sách xóa đói, giảm nghèo
của nhà nước không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
Có 1 337/600 56.17%
Không 2 241/600 40.17%
3 Không có câu trả lời 22/600 3.67%
Câu 7. Khi tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, ông bà có được tham
gia họp bàn không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
Có 1 317/600 52.83%
Không 2 283/600 47.17%
Nếu có thì ai là người tổ chức tiến hành?
1 Thôn bản tổ chức họp 123/317 38.80%
2 Xã tổ chức họp 194/317 61.20%
3 Huyện về tổ chức tại bản, xã 0% 0
Câu 8. Ở xã có thành lập ban quản lý thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo không?
Trả lời Tỷ lệ Phương án trả lời STT
421/600 70.17% 1 Có
120/600 20.00% 2 Không
Không có câu trả lời 59/600 9.83%
3 Câu 9. Công tác tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương
diễn ra như thế nào?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
46/600 7.67% 1 Yếu kém
181/600 30.17% 2 Chưa tốt
283/600 47.17% 3 Đạt yêu cầu
90/600 15.00% 4 Tổ chức tốt
Câu 10. Khi thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, ông bà có được tham gia đề xuất các biện pháp thực hiện không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
413/600 68.83% 1 Có
174/600 29.00% 2 Không
13/600 2.17% 3 Không có câu trả lời
Nếu có thì mức độ tham gia như thế nào
1 Thường xuyên được tham gia ý kiến 232/413 56.17%
2 Thỉnh thoảng 181/413 43.83%
Câu 11. Khi được tham gia đóng góp ý kiến về cách thức thực hiện chính sách, những ý kiến của người dân có được chính quyền tiếp thu và thực hiện theo không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có (thường xuyên) 203/600 33.83%
2 Rất hiếm 328/600 54.67%
3 Không bao giờ 69/600 11.50%
Câu 12. Ông/bà cho biết cách thức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiện nay có phù hợp với điều kiện của địa phương và điều kiện của gia đình ông/bà không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Không Phù hợp 494/600 82.33%
2 Phù hợp 106/600 17.67%
Câu 13. Khi thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở địa phương mình, ông/bà
có được tham gia kiểm tra quá trình thực hiện và đánh giá kết qủa của quá trình
thực hiện không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
Có 1 128/600 21.33%
Không 2 422/600 70.33%
3 Không có câu trả lời 50/600 8.33%
Câu 14. Người dân có được khuyến khích tham gia tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo không? STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 479/600 79.83%
2 Không 91/600 15.17%
3 Không có câu trả lời 30/600 5.00%
Câu 15. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
196/600 32.67% 1
404/600 67.33% 2 Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứ thế thực hiện theo Khi có chính sách của nhà nước, người dân trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định cách thức thực hiện Câu 16. Cuộc sống của gia đình ông/bà từ khi thực hiện các chính sách xóa đói
giảm nghèo đến nay có được cải thiện không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Không thay đổi 72/600 12.00%
Cải thiện nhưng không được nhiều 201/600 33.50% 2
Cải thiện đáng kể 273/600 45.50% 3
54/600 9.00% 4 Thêm nợ nần do được vay tiền của nhà nước nhưng không trả nợ được vì mất mùa, dịch bệnh hoặc nguyên nhân khác.
2.2. Kết quả khảo sát cán bộ, công chức xã (Mẫu: 02)
Câu 1. Những chính sách nào sau đây phù hợp với người dân của địa phương và có
thể giúp họ thoát nghèo?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Chính sách giáo dục 18/72 25.00%
2 Chính sách cho vay vốn để sản xuất 68/72 94.44%
3 Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt 8/72 11.11%
4 Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng 14/72 19.44%
5 Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở 12/72 16.67%
6 Hỗ trợ trực tiếp về lương thực 0/72 0.00%
7 Dạy nghề 21/72 29.17%
8 Các chính sách thuộc Chương trình 135 32/72 44.44%
9 Chính sách khác 19/72 26.39%
Câu 2. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 13/72 18.06% Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứ thế thực hiện theo
2 59/72 81.94% Khi có chính sách của nhà nước, người dân trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định cách thức thực hiện
Câu 3. Khi tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, xã có họp dân để bàn
cách thực hiện không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 72/72 100%
2 Không 0/72 0%
Câu 4. Ở xã có thành lập ban quản lý thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 72/72 100%
2 Không 0/72 0%
Câu 5. Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương có mang lại
hiệu quả không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Không hiệu quả 13/72 18.06%
2 Hiệu quả ít 25/72 34.72%
3 Rất hiệu quả 34/72 47.22%
Câu 6. Ông/bà cho biết cách thức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiện
nay có phù hợp với điều kiện của địa phương và điều kiện của người nghèo không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Phù hợp 14/72 19.44%
2 Không phù hợp 58/72 80.56%
Câu 7. Khi thực hiện chính sách ở cấp mình, ông/bà thấy sự phối hợp giữa các cấp
với nhau không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 68/72 94.44%
2 Không 4/72 5.56%
Nếu có thì hiệu quả thế nào
1 Hiệu quả 5/68 7.35%
2 Không hiệu quả 61/68 89.71%
3 Hiệu quả chưa cao 2/68 2.94%
Câu 8. Công tác vận động tuyên truyền ở địa phương ông bà có được thực hiện
thường xuyên không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 27/72 37.50%
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
2 Không 42/72 58.33%
Không có câu trả lời 3/72 4.17%
Nếu có thì theo ông/bà chất lượng tuyên truyền như thế nào?
1 Tốt 12/27 44.44%
2 Hình thức và không có kết quả 15/27 55.56%
Câu 9. Khi thực hiện chính sách cở cấp mình, UBND xã có phối hợp với các cơ
quan nhà nước ở tỉnh, huyện và với các tổ chức chính trị xã hội không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 19/72 26.39%
2 Không 53/72 73.61%
Nếu có thì hiệu quả thế nào
1 Hiệu quả 5/19 26.32%
2 Không hiệu quả 12/19 63.16%
3 Hiệu quả chưa cao 2/19 10.53%
Câu 10. Người dân có tích cực tham gia thực hiện các chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Tham gia tích cực 15/72 20.83%
2 Tham gia nhưng không tích cực 57/72 79.17%
3 Không tham gia 0
4 Không muốn tham gia 0
Câu 11. Khi thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, người dân có được tham gia
đề xuất các biện pháp thực hiện không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 68/72 94.44%
2 Không 4/72 5.56%
Câu 12. Khi người dân tham gia đóng góp ý kiến về cách thức thực hiện chính sách,
chính quyền có tiếp thu và thực hiện theo không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
14/72 19.44% 1 Có (thường xuyên)
58/72 80.56% 2 Rất hiếm
0 3 Không bao giờ
Câu 13. Khi kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách ở địa phương có sự
tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội không?
Trả lời Tỷ lệ STT Phương án trả lời
29/72 40.28% 1 Có
42/72 58.33% 2 Không
2.3. Kết quả khảo sát cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý (Mẫu: 03)
Câu 1. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 23/90 25.56%
2 67/90 74.44% Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứ thế thực hiện theo Khi có chính sách của nhà nước, người dân trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định cách thức thực hiện
Câu 2. Ông/bà cho biết mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
thực hiện chính sách XĐNG có hiệu quả không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 52/90 57.78%
2 Không 38/90 42.22%
Câu 3. Từ thực tiễn quản lý của mình, ông/bà hãy cho biết công tác vận động tuyên
truyền về thực hiện chính sách ở địa phương mình được thực hiện như thế nào?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Hiệu quả 28/90 31.11%
2 Chưa hiệu quả 62/90 68.89%
Câu 4. Ông/bà có nhận xét gì về tính phù hợp của các chính sách giảm nghèo ở
nước ta nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng hiện nay?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Phù hợp 32/90 35.56%
2 Rất phù hợp 3/90 3.33%
3 Chưa thực sự phù hợp 43/90 47.78%
4 Không phù hợp 12/90 13.33%
Câu 5. Với cách thức tổ chức thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo từ trên
xuống như hiện nay, theo ông/bà có phù hợp với tình hình thực tiễn của vùng nghèo
(xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo) và người nghèo không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Có 28/90 31.11%
2 Không 62/90 68.89%
Câu 6. Ông/bà cho biết công tác kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chính sách
ở địa phương mình có được thực hiện nghiêm túc không?
STT Phương án trả lời Trả lời Tỷ lệ
1 Nghiêm tuc 39/90 43.33%
2 Chưa nghiêm túc 21/90 23.33%
3 Còn hình thức 30/90 33.33%
3. Mẫu phiếu điều tra về thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
MẪU M1. PHIẾU ĐIỀU TRA HỘ NGHÈO VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Để phục vụ cho một nghiên cứu về thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay. Xin ông/bà vui lòng cho chúng tôi
biết những thông tin dưới đây. Chúng tôi cam kết thông tin do ông bà cung cấp chỉ
sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Hiện ông/bà đang sinh sống tại Bản......................xã....................huyện.....................
tỉnh ………………
Phương án nào phù hợp, ông/bà khoanh tròn vào số thứ tự của phương án đó
Câu 1. Xin ông/bà cho biết ở địa phương nơi ông/bà sinh sống đang thực hiện
những chính sách nào dưới đây?
1. Chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011 -
2015 (Chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở theo Quyết định số 167/2008/QĐ-
TTg giai đoạn 2) (33/2015/QĐ-TTg ngày 10/08/2015).
2. Chính sách hỗ trợ cho học sinh các trường phổ thông dân tộc nội trú
(TT109/2009/TTLT-BTC-BGDĐT)
3. Chăm sóc sức khỏe cho người nghèo(QĐ 139/2002/QĐ-TTg ngày 15/10/2002
4. Chương trình mục tiêu Quốc gia về nước sạch và vệ sinh nông thôn
5. Chính sách về tín dụng cho người nghèo và đối tượng chính sách khác(NĐ
78/2002/NĐ-Cp)
6. Chính sách về vốn vay ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn
(QĐ 32/2007/QĐ-TTg)
7. Chính sách cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ dân tộc thiểu số đặc biệt
khó khăn, giai đoạn 2012-2015 (QĐ 54/2012/QĐ-TTg)
8. Chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở vùng khó khăn
(QĐ102/2009/QĐ-TTg)
9. Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn (QĐ 1956/QĐ-TTg)
10. Chính sách bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo
11. Chính sách giáo dục hỗ trợ con em đi học.
12. Chương trình về phát triển hạ tầng (CT 135)
13. Chính sách về hỗ trợ sản xuát nông nghiệp (bao gồm: giống, vật nuôi) Ct135
14. Hỗ trợ tiếp cận với đất đai, nhà ở và nước sạch (CT134)
15. Chính sách khác
Câu 2. Theo ông/bà, có khoảng bao nhiêu người dân trong bản biết được nội dung
các chính sách trên của nhà nước?
1. Ít hơn 20%
2. Trên 80%
3. Khoảng 40 đến 50%
4. Khoảng 20% đến 40%
Câu 3. Ông bà biết chính sách trên từ đâu?
1. Nghe trên báo, đài, ti vi
3. Trưởng bản họp phổ biến
2. Người trong bản nói
4. Cán bộ xã đến phổ biến
5. Kênh thông tin khác
Câu 4. Những chính sách nào đang được thực hiện có thể giúp ông bà thoát nghèo
1. Chính sách giáo dục
2. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở
3. Chính sách cho vay vốn để sản xuất
4. Hỗ trợ trực tiếp về lương thực
5. Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt
6. Dạy nghề
7. Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng
8. Các chính sách thuộc Chương trình 135
9. Chính sách khác
Câu 5. Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương có mang lại
hiệu quả không?
1. Không hiệu quả 2. Hiệu quả 3. Rất hiệu quả
Câu 6. Gia đình ông/bà có được hưởng lợi từ các chính sách xóa đói, giảm nghèo
của nhà nước không?
1. Có 2. Không
Câu 7. Khi tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, ông bà có được tham
gia họp bàn không?
1. Có 2. Không
Nếu có thì ai là người tổ chức tiến hành?
1. Thôn bản tổ chức họp 2. Xã tổ chức họp 3. Huyện về tổ chức tại bản, xã
Câu 8. Ở xã có thành lập ban quản lý thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
không?
1. Có 2. Không
Câu 9. Công tác tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương
diễn ra như thế nào?
1. Yếu kém 2. Chưa tốt 3. Đạt yêu cầu 4. Tổ chức tốt
Câu 10. Khi thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, ông bà có được tham gia đề
xuất các biện pháp thực hiện không?
1. Có 2. Không
Nếu có thì mức độ tham gia như thế nào
1.Thường xuyên được tham gia ý kiến
2. Thỉnh thoảng
Câu 11. Khi được tham gia đóng góp ý kiến về cách thức thực hiện chính sách,
những ý kiến của người dân có được chính quyền tiếp thu và thực hiện theo không?
1. Có (thường xuyên) 2. Rất hiếm 3. Không bao giờ
Câu 12. Ông/bà cho biết cách thức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiện
nay có phù hợp với điều kiện của địa phương và điều kiện của gia đình ông/bà
không?
1. Không Phù hợp 2. Phù hợp
Câu 13. Khi thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở địa phương mình, ông bà
có được tham gia kiểm tra quá trình thực hiện và đánh giá kết qủa của quá trình
thực hiện không?
1.Có 2. Không
Câu 14. Người dân có được khuyến khích tham gia tổ chức thực hiện chính sách
xóa đói giảm nghèo không?
1. Có 2. Không
Câu 15. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
1. Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện,
2. Khi có chính sách của nhà nước, người dân xã), xây dựng kế hoach người dân cứ
thế thực trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định cách hiện theo thức thực hiện
Câu 16. Cuộc sống của gia đình ông/bà từ khi thực hiện các chính sách xóa đói
giảm nghèo đến nay có được cải thiện không?
1. Không thay đổi
2. Cải thiện đáng kể
3. Cải thiện nhưng không được nhiều
4. Thêm nợ nần do được vay tiền của nhà nước nhưng không trả nợ được vì mất
mùa, dịch bệnh hoặc nguyên nhân khác.
Xin trân trọng cám ơn những thông tin của ông bà.
Người được phỏng vấn
(Ký và ghi rõ họ tên)
MẪU 2. PHIẾU ĐIỀU TRA VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
(Dành cho cán bộ, công chức xã )
Để phục vụ cho một nghiên cứu về thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay. Xin ông/bà vui lòng cho chúng tôi
biết những thông tin dưới đây. Chúng tôi cam kết thông tin do ông bà cung cấp chỉ
sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Hiện ông/bà đang công tác tại xã....................huyện............ tỉnh …………………..
Phương án nào phù hợp, ông/bà khoanh tròn vào số thứ tự của phương án đó
Câu 1. Những chính sách nào sau đây phù hợp với người dân của địa phương và có
thể giúp họ thoát nghèo
1. Chính sách giáo dục
2. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở
3. Chính sách cho vay vốn để sản xuất
4. Hỗ trợ trực tiếp về lương thực
5. Chính sách hỗ trợ nước sinh hoạt
6. Dạy nghề
7. Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng
8. Các chính sách thuộc Chương trình 135
9. Chính sách khác
Câu 2. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
1. Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứ
trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết định cách thức thực hiện
2. Khi có chính sách của nhà nước, người dân
huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứthế thực hiện theo
Câu 3. Khi tổ chức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, xã có họp dân để bàn
cách thực hiện không?
1. Có 2. Không
Câu 4. Ở xã có thành lập ban quản lý thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo
không?
1. Có 2. Không
Câu 5. Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở địa phương có mang lại
hiệu quả không?
1. Không hiệu quả
2. Hiệu quả ít
3. Rất hiệu quả
Câu 6. Ông/bà cho biết cách thức thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo hiện
nay có phù hợp với điều kiện của địa phương và điều kiện của người nghèo không?
1. Phù hợp
2. Không phù hợp
Câu 7. Khi thực hiện chính sách ở cấp mình, ông/bà thấy sự phối hợp giữa các
cấp với nhau
1. Tốt 2. Rất rốt 3. Không tốt
Câu 8. Công tác vận động tuyên truyền ở địa phương ông bà có được thực hiện
thường xuyên không
1. Có 2. Không 3. Thỉnh thoảng
Nếu có thì theo ông/bà chất lượng tuyên truyền như thế nào?
1. Tốt . Hình thức và không có kết quả
Câu 9. Khi thực hiện chính sách cở cấp mình, UBND xã có phối hợp với các cơ
quan nhà nước ở tỉnh, huyện và với các tổ chức CT-XH không?
1. Có 2. Không
Nếu có thì hiệu quả thế nào
1. Hiệu quả 2. Không hiệu quả 3. Hiệu quả chưa cao
Câu 10. Người dân có tích cực tham gia thực hiện các chính sách xóa đói giảm
nghèo ở địa phương không?
1. Tham gia tích cực
2. Không tham gia
3. Tham gia nhưng không tích cực
4. Không muốn tham gia
Câu 11. Khi thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, người dân có được tham gia
đề xuất các biện pháp thực hiện không?
1. Có 2. Không
Câu 12. Khi người dân tham gia đóng góp ý kiến về cách thức thực hiện chính sách,
chính quyền có tiếp thu và thực hiện theo không?
1. Có (thường xuyên) 2. Rất hiếm 3. Không bao giờ
Câu 13. Khi kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện chính sách ở địa phương có sự
tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội không?
1. Có 2. Không
Xin trân trọng cám ơn những thông tin của ông bà.
Người được phỏng vấn
(Ký và ghi rõ họ tên)
MẪU 3. PHIẾU LẤY Ý KIẾN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO
(Dành cho cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý)
Để phục vụ cho một nghiên cứu về thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo
ở các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay. Xin ông/bà vui lòng cho chúng tôi
biết những thông tin dưới đây. Chúng tôi cam kết thông tin do ông bà cung cấp chỉ
sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
Hiện ông/bà đang giữ chức vụ gì?.........................................................
Phương án nào phù hợp, ông/bà khoanh tròn vào số thứ tự của phương án đó
Câu 1. Hai hình thức thực hiện chính sách sau đây ông/bà thấy hình thức nào phù
hợp nhất với người dân?
1. Khi có chính sách, nhà nước (tỉnh, huyện, xã), xây dựng kế hoach người dân cứ
thế thực hiện theo
2. Khi có chính sách của nhà nước, người dân trong bản, trong xã họp bàn rồi quyết
định cách thức thực hiện
Vì sao ông bà lựa chọn phương án trên?...................................................
Câu 2. Ông/bà cho biết sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện
chính sách XĐNG có hiệu quả không?
1. Có 2. Không
Câu 3. Từ thực tiễn quản lý của mình, ông/bà hãy cho biết hiệu quả công tác vận
động tuyên truyền về thực hiện chính sách hiện nay thực hiện như thế nào?
1. Hiệu quả 2. Chưa hiệu quả
Câu 4. Ông/bà có nhận xét gì về tính phù hợp của các chính sách giảm nghèo ở
nước ta nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam nói riêng hiện nay?
1. Phù hợp 2. Chưa thực sự phù hợp
3. Rất phù hợp 4. Không phù hợp
Câu 5. Với cách thức tổ chức thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo từ trên
xuống như hiện nay, theo ông/bà có phù hợp với tình hình thực tiễn của vùng nghèo
(xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo) và người nghèo không?
1. Có 2. Không
Xin vui lòng cho biết lý do tại sao?.......................................................
Câu 6. Ông /bà cho biết công tác kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện chính sách
XĐNG hiện nay có được thực hiện nghiêm túc không?
1. Nghiêm túc 2. Chưa nghiêm túc. 3. Còn hình thức
Xin trân trọng cám ơn những thông tin của ông bà.
Người được phỏng vấn
(Ký và ghi rõ họ tên)