BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG THỊ THU THỦY
TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ
ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH ASEAN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Thành phố Hồ Chí Minh - Năm 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
LƯƠNG THỊ THU THỦY
TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ
ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH ASEAN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã ngành: 9 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học: TS NGUYỄN TRẦN PHÚC TS TRẦN VIỆT DŨNG
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi, tác giả đề tài nghiên cứu, cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân. Số liệu đã nêu trong đề tài có nguồn gốc rõ ràng và kết quả của đề
tài là trung thực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm lời cam đoan trên.
Người thực hiện
ThS. Lương Thị Thu Thủy
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Trường Đại học Ngân
hàng TP. HCM đã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình thu thập dữ liệu và tài
liệu nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi dành riêng lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng nghiệp những
người đã giúp đỡ trong việc đóng góp ý kiến rất nhiều trong thời gian thực hiện và
hoàn thành đề tài.
Trân trọng!
iii
TÓM TẮT LUẬN ÁN
Tiêu đề: Nghiên cứu về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính ASEAN
Tóm tắt: Dựa trên bộ mẫu gồm 96 ngân hàng thương mại tại 06 quốc gia
thuộc khu vực ASEAN từ năm 2008 đến năm 2019, nghiên cứu nhằm mục đích
đánh giá tác động của các loại hình dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính các
nước này. Kết quả thực nghiệm đã nêu bật được những vấn đề chính sau: (i) mối
liên quan giữa dòng vốn gián tiếp với sự bất ổn tài chính là khá đáng kể tại Việt
Nam cũng như các nước ASEAN thuộc mẫu nghiên cứu; (ii) xét một cách tương
đối, cả dòng vốn trực tiếp lẫn dòng vốn khác cho kết quả hỗn hợp và ít rõ nét
hơn, mặc dù có bằng chứng cho thấy dòng vốn trực tiếp làm gia tăng ổn định tài
chính và dòng vốn khác có liên quan đến sự gia tăng bất ổn; (iii) sau giai đoạn
khủng hoảng, sự biến động của dòng vốn quốc tế, cụ thể là dòng vốn gián tiếp,
tác động đến sự ổn định tài chính là khá mạnh mẽ khi so với giai đoạn khủng
hoảng và (iv) tác động này cũng thể hiện tương đối rõ ràng hơn thông qua các
ngân hàng lớn so với các ngân hàng nhỏ. Đây có thể là chỉ báo khá quan trọng về
việc sau giai đoạn khủng hoảng, dưới áp lực cạnh tranh thu hút đầu tư, đã có
những nới lỏng nhất định của chính phủ về kiểm soát dòng vốn quốc tế. Tác giả
tin rằng nghiên cứu sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý lẫn hoạch định
chính sách.
Từ khóa: Dòng vốn quốc tế; Dòng vốn gián tiếp, Dòng vốn trực tiếp; Ổn
định tài chính.
iv
ABSTRACT
Title: The study on the impact of international capital flows on financial
stability in ASEAN countries
Summary: Based on the sample from 96 commercial banks in six countries
of the ASEAN spanning from 2011 to 2019, the study aims to estimate the
influences of the types of international captial flow on the financial stability in
these nations. The empirical results emphasize on the main issues as follows.
Firstly, the increase of the indirect capital flow has significant association with
the instability of financial system in both Vietnam and ASEAN countries.
Secondly, The results of the impact of the direct capital flow and other flow are
mixed but the magnitude of these effects is also relatively unclear in comparison
with the indirect capital flow. Thirdly, it seems that these nations have witnessed
the remarkable rise of these influences after the crisis period compared to during
the crisis. Such increase may signal the certain narrow of tightening regulations
to supervise the international capital flows in ASEAN countries, where have
faced the fierce competition in attracting the foreign investments. The author
believes that the study will be of interest for regulators as well as policymakers,
espectially in the time of reform.
Keywords: The international capital flows; The indirect capital flow, The
direct capital flow; The financial stability.
v
DANH MỤC BẢNG
Hình 2.1: Mối liên kết giữa ổn định tài chính và ổn định giá cả .............................. 13
Hình 2.2: Cơ chế truyền dẫn bất ổn tài chính qua kênh ngân hàng toàn cầu ............ 38
Hình 4.1: Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN ..................................................... 68
Hình 4.2: Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán giai đoạn 2011-2019 (%) ................................................................................ 70
Bảng 1.1: Danh sách các quốc gia ASEAN trong mẫu nghiên cứu…………………6
Bảng 2.1: Tổng hợp lược khảo các nghiên cứu ....................................................... 51
Bảng 3.1: Diễn giải các biến sử dụng ....................................................................... 61
Bảng 4.1: Thống kê mô tả ......................................................................................... 71
Bảng 4.2: Ma trận tương quan giữa các biến ............................................................ 75
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy chính ............................................................................... 76
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy với biến phụ thuộc được thay thế .................................. 77
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy với biến giải thích chính có độ trễ 1 kỳ ......................... 79
Bảng 4.6: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến .......................................................... 81
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy theo phương pháp Fixed effects ..................................... 82
Bảng 4.8: Kết quả theo phương pháp GMM ............................................................. 84
Bảng 4.9: Kết quả theo quy mô ngân hàng ............................................................... 88
Bảng 4.10: Kết quả theo giai đoạn trong và sau khủng hoảng ................................. 91
Bảng 4.11: Thống kê mô tả (Việt Nam) .................................................................... 93
Bảng 4.12: Ma trận tương quan giữa các biến (Việt Nam) ....................................... 94
Bảng 4.13: Kết quả hồi quy (Việt Nam) ................................................................... 96
Bảng 4.14: Kết quả hồi quy với biến độc lập được thay thế (Việt Nam) ................. 97
Bảng 4.15: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến (Việt Nam) ..................................... 98
Bảng 4.16: Kết quả theo phương pháp GMM (Việt Nam) ....................................... 99
Bảng 4.17: Kết quả theo tác động từ khủng hoảng (Việt Nam) ............................. 102
Bảng 4.18: Kết quả theo quy mô ngân hàng (Việt Nam) ........................................ 105
vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT Viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
1 ASEAN Association of Southeast Asian Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Nations Á
2 BCTC Báo cáo tài chính
3 IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ quốc tế
4 FDI Foreign Direct Investment Dòng vốn đầu tư trực tiếp
5 FII Foreign Indirect Invesment Dòng vốn đầu tư gián tiếp
6 FEM Fixed Effects Model Mô hình tác động cố định
7 REM Random Effects Model Mô hình tác động ngẫu nhiên
8 OLS Ordinary Least Squares Phương pháp bình phương bé
nhất
9 GMM Generalized Method of moments Phương pháp ước lượng moment
10 GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
11 GNP Gross National Product Tổng sản phẩm quốc dân
12 NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
13 NHTM Ngân hàng thương mại
14 NHTW Ngân hàng trung ương
15 WB World Bank Ngân hàng thế giới
i
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ....................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
TÓM TẮT LUẬN ÁN ............................................................................................. iii
ABSTRACT .............................................................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG .................................................................................................. v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................... vi
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ............................................ 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
1.2 Mục tiêu của đề tài .......................................................................................... 4
1.3 Câu hỏi nghiên cứu ......................................................................................... 4
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu ............................................................................... 4
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 5
1.5 Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 6
1.5.1 Dữ liệu nghiên cứu ................................................................................... 6
1.5.2 Phương pháp phân tích ............................................................................ 7
1.6 Đóng góp của đề tài ......................................................................................... 7
1.7 Kết cấu của đề tài ............................................................................................ 8
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ........... 10
2.1 Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu: ...................................... 10
2.1.1 Khái niệm về dòng vốn quốc tế ............................................................... 10
2.1.2 Khái niệm về sự ổn định tài chính ......................................................... 12
2.1.3 Cơ sở lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu ............................... 17
2.1.1 Lý thuyết về dòng vốn quốc tế ................................................................. 17
2.1.1.1 Lý thuyết về dòng vốn trực tiếp ........................................................... 17
2.1.1.2 Lý thuyết về dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác ............................. 18
ii
2.1.2 Lý thuyết về ổn định tài chính ................................................................ 19
2.1.3 Lý thuyết về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính . 25
2.2 Lược khảo các nghiên cứu liên quan ........................................................... 31
2.2.1 Lược khảo các yếu tố tác động đến ổn định tài chính ........................... 31
2.2.1.1 Tác động đến ổn định tài chính từ hội nhập tài chính toàn cầu ....... 31
2.2.1.2 Tác động đến ổn định tài chính của yếu tố trong nước và yếu tố toàn ............................................................................................................... 33 cầu
2.2.1.3 Tác động đến ổn định tài chính thông qua kênh ngân hàng toàn cầu . ............................................................................................................... 35
2.2.1.4 Tác động vay nợ nước ngoài của các công ty tại thị trường mới nổi 38
2.2.2 Đo lường ổn định tài chính .................................................................... 40
2.2.3 Các bằng chứng thực nghiệm về tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính ....................................................................................................... 43
2.3 Một số nhận xét và khoảng trống nghiên cứu ............................................ 58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 61
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ........................ 62
3.1 Quy trình nghiên cứu .................................................................................... 62
3.2 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu .................................................................. 63
3.3 Mô hình nghiên cứu ...................................................................................... 65
3.3.1 Mô hình .................................................................................................... 66
3.3.2 Đo lường các biến ................................................................................... 66
3.4 Phương pháp phân tích ................................................................................ 71
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 74
CHƯƠNG 4: TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ ĐẾN ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH TẠI CÁC NƯỚC ASEAN ........................................................................ 75
4.1 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại ASEAN và Việt Nam ......................... 75
4.1.1 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại các quốc gia ASEAN ...................... 75
4.1.2 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại Việt Nam.......................................... 76
4.2 Kết quả nghiên cứu mô hình thực nghiệm tại ASEAN .......................... 79
iii
4.3.1 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu .......................................................... 79
4.3.2 Phân tích tương quan ............................................................................. 80
4.3.3 Kết quả hồi quy ...................................................................................... 80
4.3.4 Kiểm tra độ bền và phương pháp đo lường thay thế .......................... 82
4.3.5 Tiếp cận phương pháp hồi quy tác động cố định (FEM-Fixed effects model) 89
4.3.6 Tiếp cận phương pháp hồi quy GMM.................................................. 91
4.3.7 Ảnh hưởng của quy mô ngân hàng ....................................................... 93
4.3.8 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu ................................ 98
4.3 Kết quả nghiên cứu mô hình thực nghiệm tại Việt Nam ..................... 101
4.3.1 Thống kê mô tả và ma trận tương quan ............................................ 101
4.3.2 Kết quả thực nghiệm chính ................................................................. 103
4.3.3 Thay thế đo lường biến độc lập quan tâm chính ............................... 104
4.3.4 Tiếp cận phương pháp hồi quy GMM................................................ 106
4.3.5 Tác động từ cuộc khủng hoảng ........................................................... 108
4.3.6 Ảnh hưởng từ quy mô ngân hàng ....................................................... 111
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 ...................................................................................... 115
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT ........................................................... 116
5.1 Kết luận .................................................................................................... 116
5.2 Một số hàm ý chính sách ......................................................................... 118
5.2.1 Đối với cơ quan quản lý: .................................................................. 118
5.2.2 Đối với các NHTM: ........................................................................... 121
5.3 Hạn chế của luận án và gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo .............. 124
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... i
1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, các yếu tố kinh tế toàn cầu có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế
các quốc gia thông qua thương mại quốc tế và hệ thống tài chính. Theo đó, các dòng
vốn quốc tế đang trở nên ngày một quan trọng và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Chính vì vậy, dòng vốn quốc
tế đang được các nhà nghiên cứu kinh tế và hoạch định chính sách trên thế giới (tại
các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, BIS và ADB) và trong khu vực (ví dụ:
SEACEN) quan tâm. Các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á năm
1997-1998, khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu 2008-2009 và khủng hoảng nợ
Châu Âu 2010-2011 cho thấy dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn quốc tế gián
tiếp là một yếu tố quan trọng góp phần lan truyền khủng hoảng tài chính và tác động
đến chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa của các quốc gia bao gồm cả nền kinh tế
phát triển và nền kinh tế mới nổi (Borio, 2007).
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về cơ chế truyền dẫn cũng như tác động
của dòng vốn quốc tế bao gồm dòng vốn gián tiếp, dòng vốn trực tiếp và dòng vốn
khác đến ổn định tài chính và rủi ro của nền kinh tế tại các nước phát triển như Mỹ,
Thụy Sĩ, Canada, Hà Lan và các quốc gia mới nổi như Brasil, Trung Quốc (theo
Kaminsky, Lizondo và Reinhart, 1998, Illing và Liu, 2003, Van den End, 2006).
Dòng vốn quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính
trong nước (Levine & ctg, 2001) và có tác động tích cực lên tăng trưởng khi quốc
gia đó có nền tảng thể chế mạnh và khi hệ thống tài chính có đủ độ sâu và đã phát
triển (Kose & ctg, 2009). Tuy nhiên, việc thu hút dòng vốn nước ngoài, được cho là
“con dao hai lưỡi” (“doubled-edged sword”) gây ra hiện tượng thất thoát vốn, dẫn
đến dòng vốn đảo chiều ra khỏi các quốc gia và tạo nên khủng hoảng cán cân thanh
toán. Do đó, dòng vốn quốc tế đặc biệt dòng vốn gián tiếp quốc tế (Foreign indirect
investment hay còn gọi là International Portfolio Investment) có thể gây nên khủng
2
hoảng kinh tế, trì hoãn quá trình tăng trưởng và tăng rủi ro cho hệ thống tài chính
(Graham và Krugman, 1995).
Cho đến nay mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về sự ổn định tài chính nhưng có
ít nghiên cứu đến tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính tại các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, nghiên cứu
của Vũ Minh Long và Nguyễn Đức Thành (2015) đã đề cập đến ổn định tài chính
Việt Nam thông qua việc đánh giá mức độ chịu đựng rủi ro của hệ thống ngân hàng
thương mại trước những ảnh hưởng bất lợi từ nền kinh tế nhưng chưa nghiên cứu
các yếu tố tác động đến sự ổn định tài chính này. Đối với tác động của dòng vốn
quốc tế, hầu hết các nghiên cứu tập trung đánh giá tác động của dòng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) đến sự tăng trưởng của nền kinh tế tiêu biểu là nghiên
cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh và ctg (2006). Thực tế cho thấy, dòng vốn gián tiếp
thường biến động nhiều hơn so với sự biến động của dòng vốn trực tiếp và sự biến
động này càng gia tăng trong thời gian gần đây. Sự dịch chuyển các dòng vốn gián
tiếp có thể làm gia tăng các rủi ro và tính dễ tổn thương lên hệ thống tài chính cũng
như lên nền kinh tế vĩ mô. Một số nghiên cứu đề cập đến tác động của dòng vốn đầu
tư gián tiếp đến nền kinh tế vĩ mô của Việt Nam như nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Thị Kim Thanh (2015), Hạ Thị Thiều Dao (2014) và Nguyễn Thanh Cai (2021).
Các nghiên cứu này mang tính chất định tính, chưa đo lường định lượng tác động
của dòng vốn quốc tế gián tiếp đến hệ thống tài chính Việt Nam. Trong khu vực
ASEAN, nghiên cứu của Hadad và ctg (2007) đã đánh giá sự ổn định tài chính
thông qua việc xây dựng chỉ số ổn định tài chính (FSI) sử dụng Indonesia làm điển
hình tuy nhiên các nghiên cứu này chỉ xây dựng chỉ số FSI cho một quốc gia cụ thể
chưa đánh giá tác động của dòng vốn quốc tế đến chỉ số này. Tương tự, nghiên cứu
của Nguyễn Chí Đức và Hồ Thúy Ái (2017) cũng đã xây dựng và đo lường chỉ số
FSI của Việt Nam nhưng chưa đánh giá các tác động đến chỉ số này.
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC – ASEAN Economic Community) được
thành lập vào năm 2015 với mục tiêu hình thành một khu vực kinh tế ASEAN ổn
định, thịnh vượng và có khả năng cạnh tranh cao, trong đó hàng hóa, dịch vụ, đầu tư
3
sẽ được chu chuyển tự do và vốn được lưu chuyển tự do hơn, kinh tế phát triển
đồng đều, đói nghèo và chênh lệch kinh tế - xã hội được giảm bớt. Với sự hình
thành AEC, ASEAN trở thành một khu vực kinh tế có độ mở cao, tăng trưởng phụ
thuộc nhiều vào yếu tố trong khu vực và trên thế giới. Theo báo cáo đầu tư ASEAN
(AIR) năm 2019, dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào ASEAN đã tăng năm thứ 3
liên tiếp, đạt mức kỷ lục 155 tỷ USD trong năm 2018, so với mức 147 tỷ USD năm
2017. Tỷ lệ của ASEAN trong tổng lượng FDI toàn cầu cũng tăng từ 9,6% năm
2017 lên 11,5% năm 2019. Bên cạnh dòng vốn đầu tư FDI, ASEAN cũng đang là
điểm đến tích cực của dòng vốn đầu tư mạo hiểm (VC - Venture Capital). Trong
báo cáo “Điểm lại các quỹ VC Đông Nam Á trong quý I/2020”, Deal Street Asia
nêu các quỹ đầu tư mạo hiểm trong khu vực đã huy động được số vốn cam kết có
tổng trị giá khoảng 5,8 tỷ USD trong năm 2019. Xu hướng này được dự báo sẽ tiếp
tục nhờ sự phát triển công nghiệp năng động, cũng như sự cải thiện môi trường đầu
tư và kinh doanh trong khu vực. Với sự dịch chuyển của dòng vốn quốc tế vào
ASEAN, việc lây nhiễm và chịu tác động lan truyền từ dòng vốn quốc tế là khó
tránh khỏi mà các cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 và 2008-2009 là minh
chứng. Chính vì vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự ổn định tài chính và tác
động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính tại các quốc gia ASEAN trở
thành vấn đề cấp thiết trong việc nghiên cứu và hoạch định các chính sách, đặc biệt
là chính sách tiền tệ và ổn định tiền tệ - tài chính , đóng góp vào việc bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng - tài chính, hạn chế và phòng ngừa rủi ro, khủng hoảng tài
chính trong tương lai, ổn định kinh tế vĩ mô, qua đó nâng cao sức cạnh tranh của
các nền kinh tế và phát triển bền vững trong khu vực. Đề tài nghiên cứu này chỉ giới
hạn trong phạm vi các dòng vốn quốc tế, đảm bảo tính thời sự, tính độc lập và
không hoặc ít có sự trùng lắp khi đặt ra vấn đề nghiên cứu cũng như mục tiêu và
phương pháp nghiên cứu so với các công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đây.
Vì vậy, nghiên cứu “Tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN” có ý nghĩa về cả lý luận lẫn thực tiễn được lựa chọn làm đề tài luận án
tiến sĩ kinh tế.
4
1.2 Mục tiêu của đề tài
Mục tiêu nghiên cứu tổng quát của luận án là nghiên cứu về tác động của dòng
vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính tại các quốc gia ASEAN trong đó có Việt
Nam, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách và đề xuất các giải pháp phù hợp hướng
đến việc phòng ngừa và giám sát an toàn hệ thống tài chính góp phần ổn định tài
chính.
Xuất phát từ mục tiêu tổng quát nêu trên, luận án sẽ được chi tiết hóa với các
mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
Một là, phân tích tác động của dòng vốn quốc tế bao gồm dòng vốn gián tiếp,
dòng vốn trực tiếp và dòng vốn khác đến sự ổn định tài chính ASEAN.
Hai là, so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng.
Ba là, so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN
theo quy mô ngân hàng.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể nói trên, luận án tập trung trả lời
các câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:
Một là, các dòng vốn quốc tế có tác động như thế nào đến sự ổn định tài chính
ASEAN?
Hai là, tác động của các dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN
khác biệt thế nào trong giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng?
Ba là, tác động của các dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN
khác biệt thế nào theo quy mô ngân hàng?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự ổn định tài chính, dòng vốn quốc tế và
tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN trong đó có Việt
Nam.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu sự ổn định tài chính và tác động của dòng vốn
quốc tế đến ổn định tài chính của 6 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan và Việt Nam) dựa trên số liệu thứ cấp thu thập cho giai đoạn
2008-2019.
Luận án giới hạn đánh giá sự ổn định tài chính thông qua ổn định hệ thống
ngân hàng vì một số lý do: hệ thống ngân hàng là thành phần quan trọng nhất trong
hệ thống tài chính và là yếu tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế ở mỗi
quốc gia (theo Anginer & Demirguc-Kunt, 2018). Hoggarth et al. (2002) và Smith
(2002) cảnh báo rằng các sự cố lớn xảy ra đối với hệ thống ngân hàng có thể gây
nên sự gián đoạn nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế của một quốc gia. Các
ngân hàng tại các nước ASEAN mà đặc biệt là ASEAN-6 sẽ cung cấp một bối cảnh
phù hợp cho mục tiêu nghiên cứu của luận án. Thật vậy, sau cuộc khủng hoảng tài
chính Châu Á năm 1997 và gần đây nhất là khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, hệ
thống ngân hàng tại các nước này đã chứng kiến những thay đổi đáng kể, từ việc
được đánh giá là một trong những khu vực năng động và phát triển nhất đến những
cải cách về quy định, năng lực quản lý, tư nhân hóa, tự do hóa tài chính và nhất là
tăng cường nguồn lực vốn của các ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel (Chan et al.,
2015; Turk Ariss, 2010). Hơn nữa, có những dự báo rằng ASEAN sẽ trở thành một
trong những khu vực thương mại lớn nhất và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
tài chính toàn cầu. Do vậy, đây là một trong các khu vực sẽ dành được nhiều sự
quan tâm nhất định từ các nhà đầu tư quốc tế kể cả đầu tư gián tiếp lẫn trực tiếp. Đi
kèm với điều này, dòng vốn quốc tế sẽ chứa đựng những tiềm ẩn rủi ro có thể phát
sinh cho hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung mà bài học
lịch sử năm 1997 đã là minh chứng bởi lẽ hệ thống ngân hàng thương mại tại các
nước này vẫn là nguồn tài chính quan trọng cũng như chi phối hoạt động kinh tế với
6
việc nắm giữ hơn 82% thị phần tổng tài sản tài chính (De Leon, 2020; Pak & Asian
Development Bank, 2013).
Về phạm vi thời gian 2008-2019, giai đoạn 2008-2019 là khoảng thời gian nền
kinh tế ASEAN trải qua giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng để đề tài có thể
nghiên cứu sự khác biệt về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
trong các giai đoạn khác nhau.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu chủ đạo là phương pháp định lượng
để phân tích mức độ tác động của dòng vốn quốc tế gián tiếp cũng như trực tiếp và
dòng vốn khác đến sự ổn định tài chính ASEAN. Bên cạnh đó, luận án cũng kết hợp
các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh theo thời gian để chỉ ra xu hướng
biến động chung của các biến chính trong nghiên cứu.
1.5.1 Dữ liệu nghiên cứu
Đối với dữ liệu vĩ mô, luận án sử dụng dữ liệu thứ cấp được thu thập từ các
nguồn đáng tin cậy như: Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) giai
đoạn 2008 – 2019.
Bên cạnh đó, liên quan đến các chỉ số tài chính của các ngân hàng, luận án thu
thập từ nguồn Datastream với tổng cộng 96 ngân hàng ở 6 quốc gia thuộc mẫu đại
diện trong cùng khoảng thời gian nêu trên.
Bảng 1.1: Danh sách các quốc gia ASEAN trong mẫu nghiên cứu
STT Tên quốc gia Viết tắt
1 Indonesia IDN
2 Malaysia MYS
3 Philippines PHL
7
4 Singapore SNG
5 Thailand THA
6 Vietnam VNM
Sau cùng, dữ liệu được làm sạch (winsorized) ở phân vị 1% và 99% để xử lý
các quan sát ngoại lai.
1.5.2 Phương pháp phân tích
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu trước, luận án xác lập mô
hình hồi quy đa biến để xem xét tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài
chính. Để đạt mục nghiên cứu thứ nhất là kiểm định tác động của các dòng vốn
quốc tế đến ổn định tài chính ASEAN, luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu
định lượng dựa trên mô hình hồi quy OLS (Ordinary least squares), mô hình hồi
quy tác động cố định (FEM-Fixed effect model) và mô hình ước lượng GMM
(Generalized method of moments) với dữ liệu được làm sạch (winsorized) ở mức
phân vị 1% và 99% từ 6 quốc gia trong giai đoạn từ năm 2008 – 2019. Để thực hiện
mục tiêu nghiên cứu thứ hai, luận án tiến hành đo lường mô hình theo thời gian giai
đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng. Cuối cùng, để thực hiện mục tiêu nghiên
cứu thứ ba, luận án đo lường mô hình theo quy mô ngân hàng khác nhau để đánh
giá tác động của quy mô ngân hàng đến mối quan hệ giữa dòng vốn quốc tế và sự
ổn định tài chính. Đồng thời, luận án cũng thực hiện một loạt các kiểm định về tính
bền vững của mô hình nghiên cứu thông qua việc đo lường theo bộ mẫu khác nhau
bao gồm: quy mô, điều kiện từng nước,… cũng như các phương thức đo lường thay
thế của cả biến phụ thuộc lẫn biến giải thích chính và kiểm định đa cộng tuyến.
1.6 Đóng góp của đề tài
Thông qua nghiên cứu này, luận án hy vọng sẽ đóng góp những nội dung sau:
8
Về mặt lý thuyết, luận án sẽ bổ sung bằng chứng thực nghiệm về tác động của
dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN, đặc biệt phân tích vai trò và
mức độ của từng loại dòng vốn quốc tế (dòng vốn gián tiếp, dòng vốn trực tiếp và
dòng vốn khác) đến sự ổn định tài chính của các nước ASEAN. Bên cạnh đó, luận
án nghiên cứu sâu hơn nữa trong việc xem xét và so sánh tác động của dòng vốn
quốc tế đến ổn định tài chính trong các giai đoạn kinh tế khác nhau (khủng hoảng và
sau khủng hoảng) với các đặc điểm quy mô ngân hàng khác nhau.
Về mặt thực tiễn, dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra những gợi ý cho
các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong việc theo dõi và giám sát hệ
thống tài chính, quản lý các dòng vốn quốc tế hướng đến việc phòng ngừa, dự báo
rủi ro nhằm phát triển ổn định tài chính ASEAN trong đó có Việt Nam, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong khu vực.
1.7 Kết cấu của đề tài
Luận án được triển khai bao gồm 5 chương, cụ thể:
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu
Chương 2, luận án giải thích các khái niệm và thuật ngữ chính liên quan đến
nghiên cứu. Luận án trình bày một cách hệ thống và khái quát cơ sở lý thuyết và
lược khảo các nghiên cứu liên quan. Những nghiên cứu này sẽ làm tiền đề cho việc
xác lập mô hình nghiên cứu thực nghiệm cho các nghiên cứu tiếp theo.
Chương 3: Mô hình và phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu của chương 2, chương 3 xây
dựng giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu thực nghiệm, trình bày chi tiết ý
nghĩa và cách xác định các biến trong mô hình. Chương này cũng mô tả dữ liệu
nghiên cứu và các biện pháp kiểm định tính bền vững của mô hình nghiên cứu.
Chương 4: Tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính ASEAN
9
Trong chương 4, luận án lần lượt trình bày kết quả hồi quy chính theo các mô
hình nghiên cứu, giải thích các tác động của các biến chính trong mô hình. Chuyên
đề cũng thực hiện các phương pháp khác nhau để đo lường độ bền của mô hình. Từ
những kết quả hồi quy đã được chỉ ra, luận án liên hệ kết quả theo lý thuyết và thực
nghiệm để đánh giá mức độ phù hợp và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu. Bên cạnh
đó, luận án cũng xem xét riêng bằng chứng thực nghiệm tác động của dòng vốn
quốc tế đến ổn định tài chính của Việt Nam, trên cơ sở đó so sánh kết quả thực
nghiệm tại Việt Nam với ASEAN để làm căn cứ đề xuất hàm ý chính sách trong
việc theo dõi và giám sát hệ thống tài chính, quản lý các dòng vốn quốc tế hướng
đến việc phòng ngừa, dự báo rủi ro nhằm phát triển ổn định tài chính ASEAN trong
đó có Việt Nam.
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Chương 5 kết luận những kết quả nghiên cứu được trình bày ở chương 4. Trên
cơ sở đó, luận án đề xuất một số gợi ý điều hành chính sách liên quan dưới góc độ
cơ quan quản lý và điều hành ngân hàng. Bên cạnh đó, luận án cũng nêu một số hạn
chế trong nghiên cứu của đề tài, những hạn chế này là cơ sở gợi mở hướng phát
triển tiếp theo cho các nghiên cứu trong tương lai.
10
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Ở nội dung này, luận án giải thích các khái niệm và thuật ngữ chính liên quan
đến dòng vốn quốc tế và sự ổn định tài chính. Luận án trình bày một cách hệ thống
và khái quát cơ sở lý thuyết và lược khảo các nghiên cứu liên quan. Những nghiên
cứu này sẽ làm tiền đề cho việc xác lập mô hình nghiên cứu thực nghiệm cho các
chương tiếp theo.
2.1 Các khái niệm liên quan đến vấn đề nghiên cứu:
2.1.1 Khái niệm về dòng vốn quốc tế
Dòng vốn quốc tế bao gồm: dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI-
Foreign direct investment), dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII-Foreign
indirect investment) hay thường được gọi dòng vốn quốc tế theo danh mục
(International Portfolio Investment) và dòng vốn khác. Dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài là dòng vốn đầu tư một phần hoặc toàn bộ dự án hoặc doanh nghiệp
nhằm tìm kiếm lợi ích lâu dài, trực tiếp kiểm soát và quản lý hoạt động đầu tư thông
qua việc sở hữu mức cổ phần nhất định. Dòng vốn gián tiếp nước ngoài bao gồm
dòng vốn đầu tư cổ phiếu, đầu tư trái phiếu và các công cụ nợ ngắn hạn, dòng vốn
vay và gửi thông qua hệ thống ngân hàng (Borio, 2007). Dòng vốn khác là dòng
vốn thực hiện các đầu tư khác như mua bán tài sản tài chính phái sinh, tín dụng
thương mại và các khoản ứng trước, tài sản và nợ của các ngân hàng thương mại ở
nước ngoài,…(Lê Phan Diệu Thảo và Nguyễn Trần Phúc, 2015)
Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OEDC, 2008), đầu tư trực tiếp
nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm tạo ảnh hưởng đối với việc
quản lý doanh nghiệp thông qua việc sở hữu ít nhất 10% vốn cổ phần của doanh
nghiệp hoặc sở hữu ít hơn 10% vốn cổ phần nhưng vẫn duy trì được khả năng kiểm
soát doanh nghiệp.
Tổng cục thống kê Việt Nam đã định nghĩa về đầu tư gián tiếp nước ngoài vào
Việt Nam và đầu tư gián tiếp của Việt Nam ra nước ngoài như sau:
11
(i) Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam là việc đơn vị không
thường trú của Việt Nam đầu tư vào Việt Nam dưới hình thức mua, bán chứng
khoán, các giấy tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán,
các định chế tài chính trung gian khác do đơn vị thường trú của Việt Nam thực hiện
theo quy định của pháp luật mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở
Việt Nam.
(ii) Đầu tư gián tiếp của Việt Nam ra nước ngoài là việc đơn vị thường trú
của Việt Nam đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy
tờ có giá khác hoặc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài
chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động
đầu tư ở nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự phân định giữa hai loại hình dòng vốn này khá mờ
nhạt (Lee, 2004). Graham & Krugman (1995) cho rằng về bản chất sự khác biệt
giữa đầu tư trực tiếp và gián tiếp đến từ động cơ và kỳ vọng của các nhà đầu tư. Với
nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài thì mục đích là kiểm soát và điều hành doanh
nghiệp, tiến trình đầu tư sẽ chậm hơn và tốn kém hơn, lợi nhuận vì vậy sẽ đạt được
trong trung và dài hạn. Đối với nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài, mối quan tâm
chính là việc phân bổ vốn để đạt lợi nhuận tối đa, giảm rủi ro bằng cách đa dạng
hóa đầu tư với thời gian đầu tư ngắn hạn.
Theo nghiên cứu của Lipsey (2000), dòng vốn trực tiếp có xu hướng ổn định
hơn so với dòng vốn gián tiếp. Cấu trúc của dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác
cho phép nhà đầu tư cũng như các ngân hàng bán tài sản và điều chỉnh dòng vốn dễ
dàng và nhanh chóng hơn khiến đây được xem là những thành phần “nóng” nhất và
bất ổn nhất của dòng vốn quốc tế. Những khác biệt trong động cơ và các đặc tính
trên đòi hỏi sự khác biệt trong cách tiếp cận chính sách đối với dòng vốn trực tiếp
và dòng vốn gián tiếp cũng như dòng vốn khác.
12
Nhìn chung, như Lee (2004) đã lưu ý, dù được định nghĩa dưới góc độ nào, sự
khác biệt giữa các loại dòng vốn này là hình thức đầu tư và vấn đề kiểm soát, quản
lý, cam kết dài hạn. Đó là lý do dòng vốn trực tiếp thường có xu hướng ổn định và
dài hạn hơn, trong khi dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác luôn có sự thay đổi và
biến động trong ngắn hạn.
2.1.2 Khái niệm về sự ổn định tài chính
Ổn định tài chính là một trong hai nhiệm vụ chính, truyền thống và không thể
tách rời (ổn định tiền tệ và ổn định tài chính) của một ngân hàng trung ương
(NHTW). Lúc đầu, NHTW Anh đã sử dụng thuật ngữ này vào năm 1994 để xác
định những mục tiêu của ổn định tài chính không liên quan đến ổn định giá hoặc
hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính (Allen & Wood, 2006). Nhìn chung, định
nghĩa về ổn định tài chính còn khá nhiều tranh cãi. Ý nghĩa tổng quát của ổn định
tài chính là sự ổn định nói chung của các tổ chức tài chính chủ chốt hoạt động trong
các thị trường tài chính và sự ổn định của chính các thị trường đó. Đối với các tổ
chức tài chính, điều này có nghĩa là chúng hoạt động tốt, có đủ khả năng để hấp thụ
những rủi ro trong những thời điểm biến động bất thường (và cả thời điểm bình
thường) (Schinasi, 2003).
Mặc dù cả ổn định tài chính lẫn tiền tệ có tầm quan trọng đối với hoạt động
hiệu quả của nền kinh tế thị trường và là cơ sở để cơ quan quản lý ra quyết định phù
hợp trong việc phân bổ nguồn lực vốn. Tuy nhiên, có một sự chồng chéo nhất định
giữa định nghĩa và mục tiêu của ổn định tài chính và ổn định tiền tệ. Do đó, sẽ là
cần thiết khi phân biệt hai loại ổn định này.
Ổn định tiền tệ liên quan đến việc ổn định về giá cả (lạm phát và giảm phát)
(Allen & Wood, 2006; Schinasi, 2003, 2004) và hầu như NHTW các nước đều xác
lập mục tiêu trong việc ổn định giá cả (Allen & Wood, 2006). Trong khi đó, ổn định
tài chính đề cập đến hoạt động trơn tru (smooth-functioning) của các tổ chức tài
chính nói riêng, hệ thống tài chính nói chung (Crockett, 1996) và không nhất thiết
13
gắn liền với sự ổn định giá cả bởi vì ngay cả khi thị trường ổn định cũng có thể có
một sự biến động nhất định về tài sản miễn là sự biến động này không gây nên
những hậu quả nghiêm trọng (Schinasi, 2003). Crockett (1996) cho rằng cả hai có
sự liên quan với nhau bởi lẽ tính ổn định của miền này sẽ bổ sung cho sự ổn định
của miền còn lại và có thể có những yếu tố chung quan trọng giữa các lực lượng tạo
ra sự bất ổn về mặt bằng giá cả và sự mong manh của hệ thống tài chính. Hình 2.1
mô tả mối liên kết giữa ổn định tài chính và ổn định giá cả.
Nguồn: website NHNN1
Hình 2.1: Mối liên kết giữa ổn định tài chính và ổn định giá cả
1 https://www.sbv.gov.vn/webcenter/portal/vi/menu/trangchu/hdk/odtc/gtodtc/odtcvtcod?_afrLoop=18771049 72698891#%40%3F_afrLoop%3D1877104972698891%26centerWidth%3D80%2525%26leftWidth%3D20 %2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.ctrl- state%3D171jpvsu0_299
14
Hiện nay trên thế giới có nhiều định nghĩa khác nhau về ổn định tài chính. Nói
chung, có hai luồng tiếp cận về định nghĩa sự ổn định tài chính, bao gồm: cách tiếp
cận (mô tả) trực tiếp và cách tiếp cận gián tiếp thông qua xác định ổn định tài chính
dưới góc độ phủ định của nó, nghĩa là: định nghĩa sự bất ổn tài chính để xác định sự
ổn định tài chính.
Theo đó, một số định nghĩa về sự ổn định tài chính dưới quan điểm trực tiếp
điển hình như sau:
Theo Bundesbank (2004), ổn định tài chính được sử dụng để mô tả tình trạng
hệ thống tài chính có thể thực hiện tốt các chức năng kinh tế chủ yếu như phân bổ
nguồn lực, phân tán rủi ro, cũng như thực hiện chức năng thanh toán và thậm chí có
thể duy trì các chức năng đó ngay cả khi nền kinh tế gặp phải các “cú sốc” hoặc
trong các thời kỳ tái cấu trúc mạnh mẽ. Định nghĩa này cũng phù hợp với quan điểm
của Klomp & de Haan (2009) và Mishkin (1991).
Ngân hàng Trung ương Châu Âu (Duisenberg, 2001) cho rằng: “Ổn định tài
chính là một trạng thái trong đó hệ thống tài chính gồm các trung gian tài chính, thị
trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ được các cú sốc và những rủi ro
do sự mất cân đối tài chính gây ra, từ đó làm giảm bớt khả năng sụp đổ của các
trung gian tài chính vốn có tác động tiêu cực đối với việc phân bổ tiết kiệm và đầu
tư”. Theo đó, một hệ thống tài chính được cho là ổn định nếu hội tụ đủ các nội dung
sau: (i) Hệ thống tài chính có thể phân bổ nguồn lực hiệu quả từ kênh tiết kiệm sang
kênh đầu tư; (ii) Các rủi ro tài chính được đánh giá và xác định một cách chính xác
và hợp lý để có thể kiểm soát tốt hơn; (iii) Hệ thống tài chính có thể hấp thụ được
các cú sốc tài chính cũng như những biến động trong nền kinh tế thực.
Ngân hàng Trung ương Na Uy định nghĩa ổn định tài chính là khi hệ thống tài
chính đó đủ mạnh trước những xáo trộn trong nền kinh tế, do đó vai trò trung gian
tài chính, thanh toán và phân bổ rủi ro vẫn được duy trì một cách thỏa đáng
(Financial Stability Report 2/2003, n.d.).
15
Tương tự, đối với Ngân hàng Trung ương Úc, ổn định hệ thống tài chính là
một trạng thái mà trong đó các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính
phân bổ tốt các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Schinasi (2004) đề xuất một phạm vi định nghĩa rộng hơn. Theo đó, ổn định
tài chính là khi hệ thống tài chính ở trong một phạm vi ổn định mà bất cứ khi nào
nó có cũng khả năng tạo điều kiện (thay vì cản trở) hiệu quả của nền kinh tế, và làm
giảm thiểu những mất cân đối tài chính phát sinh từ chính nó hoặc từ kết quả của
các sự kiện bất lợi đáng kể và không lường trước được. Hay nói cách khác, ổn định
tài chính là điều kiện trong đó các cơ chế của nền kinh tế về định giá, phân bổ và
quản lý rủi ro tài chính (tín dụng, thanh khoản, thị trường,…) đang vận hành đủ tốt
để đóng góp vào hiệu suất của nền kinh tế.
Đối với cách tiếp cận gián tiếp, các định nghĩa về ổn định tài chính tập trung
vào khía cạnh đối lập của chúng – bất ổn tài chính. Thật vậy, Ferguson (2002) cho
rằng sẽ là hữu ích khi định nghĩa ổn tài chính thông qua việc xác định mặt đối lập
của chúng là bất ổn tài chính. Một số định nghĩa được đưa ra như sau:
Crockett (1996) định nghĩa sự ổn định tài chính là trường hợp không có bất ổn
tài chính. Tác giả lập luận rằng bất ổn tài chính là một tình huống trong đó hiệu quả
kinh tế có khả năng bị suy giảm do biến động giá của tài sản tài chính hoặc khả
năng của các trung gian tài chính trong việc đáp ứng các nghĩa vụ theo hợp đồng
của họ.
Mishkin (1999) cho rằng bất ổn tài chính xuất hiện khi các cú sốc xảy ra đối
với hệ thống tài chính gây trở ngại khiến hệ thống tài chính không thể thực hiện
chức năng phân bổ nguồn vốn đến các nơi đầu tư hiệu quả. Qua đó, ổn định tài
chính sẽ được đảm bảo nếu không có các yếu tố sau: (i) Bong bong giá tài sản; (ii)
Tình trạng thiếu thanh khoản của các thể chế tài chính và thị trường tài chính, đe
16
dọa sự ổn định hệ thống; (iii) Tình trạng vỡ nợ của các thể chế tài chính đe dọa sự
ổn định hệ thống (Buiter, 2008).
Quan điểm của Chant et al. (2003) cho rằng bất ổn tài chính đề cập đến các
điều kiện trên thị trường tài chính gây tổn hại hoặc đe dọa gây hại hiệu quả hoạt
động của nền kinh tế thông qua tác động của chúng đến hoạt động của hệ thống tài
chính....Chính sự bất ổn này sẽ làm tổn hại đến hoạt động của nền kinh tế theo nhiều
cách khác nhau. Nó có thể làm giảm khả năng tiếp cận tài chính của hộ gia đình,
doanh nghiệp và chính phủ. Nó cũng có thể làm gián đoạn hoạt động của các tổ
chức tài chính và thị trường khi không thể tiếp tục tài trợ cho nền kinh tế.
Ngoài ra, khái niệm ổn định tài chính cũng thường được đề cập đến khía cạnh
tránh khủng hoảng tài chính và quản lý rủi ro hệ thống tài chính (Schinasi, 2003).
Theo đó, Schwartz (1987) đã định nghĩa về một cuộc khủng hoảng tài chính như
một cuộc khủng hoảng được thúc đẩy bởi những mối lo sợ rằng các phương tiện
thanh toán có thể không sẵn có ở bất kỳ mức giá nào và hệ quả là những cuộc tranh
dành về tiền có thể diễn ra. Trong khi đó, Group of Ten (2001) đã đưa ra định
nghĩa về rủi ro hệ thống tài chính như sau: rủi ro hệ thống tài chính là rủi ro mà một
sự kiện sẽ gây ra tổn thất về giá trị kinh tế và gia tăng sự không chắc chắn mà có thể
gây nên những tác động bất lợi đáng kể đến nền kinh tế thực. Các sự kiện rủi ro hệ
thống có thể xảy ra đột ngột và không mong muốn, hoặc khả năng xảy ra của chúng
có thể tăng dần theo thời gian nếu không có các phản ứng chính sách thích hợp. Các
tác động bất lợi đến nền kinh tế thực từ các vấn đề hệ thống thường được coi là
phát sinh từ sự gián đoạn hệ thống thanh toán, dòng chảy tín dụng và từ việc phá
hủy giá trị tài sản (the destruction of asset values).
Tóm lại, ổn định tài chính nghĩa là một hệ thống tài chính hiệu quả mà trong
đó các chủ thể - trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính thực
hiện tốt các chức năng của mình và có khả năng chống đỡ được các cú sốc tiềm ẩn.
17
Như vậy, luận án đã tổng hợp những định nghĩa khác nhau về ổn định tài
chính tùy thuộc góc độ nhìn nhận và sự diễn giải của các nghiên cứu cũng như cơ
quan quản lý. Mặc dù có những điểm khác biệt nhất định, nhưng khái niệm về ổn
định tài chính vẫn bám sát vào hiệu quả của hệ thống tài chính.
2.1.3 Cơ sở lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.1.1 Lý thuyết về dòng vốn quốc tế
2.1.1.1 Lý thuyết về dòng vốn trực tiếp
Các lý thuyết giải thích về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm: Mô
hình OLI, Các lý thuyết về thị trường vốn quốc tế, Các lý thuyết về thương mại
quốc tế, Các lý thuyết về doanh nghiệp quốc tế.
Dunning (1981) cho rằng quyết định đầu tư trực tiếp nước ngoài của doanh
nghiệp phụ thuộc vào lợi thế về quyền sở hữu (Ownership), lợi thế về địa điểm đầu
tư (Location) và lợi thế về quốc tế hóa (Internalisation). Mô hình OLI giải thích các
động cơ chính thúc đẩy các doanh nghiệp tiến hành hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài nhằm mục đích gia tăng đáng kể suất sinh lời của vốn đầu tư thông qua việc
sử dụng tối đa các lợi thế kể trên.
Casson (1985) cho rằng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài dựa trên 3 lý
thuyết cơ bản: Lý thuyết về thị trường vốn quốc tế, Lý thuyết về thương mại quốc tế
và Lý thuyết về doanh nghiệp quốc tế.
Lý thuyết về thị trường vốn quốc tế bao gồm hai mô hình chính là mô hình
định giá tài sản vốn (Capital Asset Pricing Model – CAPM) và lý thuyết định giá
kinh doanh chênh lệch (Arbitrage Pricing Theory – APT). Theo đó rủi ro của doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp quốc tế được phân chia thành rủi ro thị trường của quốc gia
nơi công ty thiết lập đầu tư như rủi ro lãi suất, tỷ giá, biến động chính trị là rủi ro
không thể đa dạng hóa và rủi ro cá biệt như rủi ro tài chính, rủi ro về bộ máy quản
trị, đặc thù lĩnh vực sản xuất,… là rủi ro có thể đa dạng hóa. Chính vì vậy, doanh
18
nghiệp quốc tế có thể lựa chọn các quốc gia phù hợp để thiết lập hoạt động sản xuất
nhằm phân tán rủi ro cá biệt và giảm thiểu rủi ro thị trường.
Lý thuyết về thương mại quốc tế lý giải việc phân bổ sản xuất quốc tế tối ưu
thông qua các hoạt động thương mại quốc tế.
Lý thuyết doanh nghiệp quốc tế xác định cấu trúc vốn tối ưu và quy mô doanh
nghiệp trong môi trường quốc tế. Yếu tố quyết định chính cho quyết định đầu tư
trực tiếp nước ngoài là do sự không hiệu quả ở thị trường hiện tại (cơ cấu thị trường
độc quyền và thông tin bất cân xứng) (Lê Phan Diệu Thảo và Nguyễn Trần Phúc,
2015).
2.1.1.2 Lý thuyết về dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác
Cơ sở dịch chuyển của dòng vốn quốc tế được giải thích dựa trên lý thuyết
"Các yếu tố thúc đẩy và kéo" (“The Push and Pull factors theory”) được đề xuất bởi
Lee (1966). Lý thuyết này tổng hợp các điều kiện ảnh hưởng đến dòng vốn giữa các
quốc gia nghèo và các quốc gia giàu. Lý thuyết được sử dụng để giải thích lý do tại
sao các nhà đầu tư danh mục thường dịch chuyển từ môi trường đầu tư này sang
môi trường đầu tư khác để tìm kiếm môi trường đầu tư thuận lợi hơn nhằm đáp ứng
các mục tiêu đầu tư của họ. Bên cạnh đó, lý thuyết định hướng dòng vốn được thừa
nhận bởi Fisher (1980) cũng cung cấp cơ sở phù hợp cho lập luận này vì nó coi việc
giảm tỷ giá hối đoái là yếu tố kéo và đẩy quyết định khả năng cạnh tranh quốc tế,
cán cân thương mại, sản lượng thực tế của các quốc gia và do đó ảnh hưởng đến
dòng tiền dự kiến hiện tại và tương lai của các công ty cũng như giá cổ phiếu của họ
khi dòng tiền tiết kiệm gia tăng từ các nước giàu nguồn lực về vốn (nước xuất khẩu
vốn) để thay thế các nguồn vốn nước ngoài khác ở các nước thiếu nguồn lực vốn
(nước nhập khẩu vốn).
Ngoài ra, lý thuyết ưa thích thanh khoản được công nhận bởi Keynes (1936)
và phát triển bởi Tobin (1967) cũng góp phần giải thích sự biến động của lãi suất
như một yếu tố đẩy hoặc kéo thúc đẩy đa dạng hóa danh mục đầu tư theo địa lý.
19
Theo đó, lý thuyết phù hợp với cơ chế truyền dẫn của Keynes được sử dụng để giải
thích các động cơ khác nhau mà các nhà đầu tư sẽ lựa chọn nắm giữ hoặc đầu tư
tiền mặt tương ứng ở phạm vi trong nước hoặc quốc tế.
Markowitz (1959) đã biểu đạt hai vấn đề quan trọng liên quan đến Lý thuyết
danh mục đầu tư hiện đại. Thứ nhất, tác giả nhận ra rằng toán học không thể chọn ra
một danh mục đầu tư tối ưu duy nhất mà chỉ có thể xác định một tập hợp các danh
mục đầu tư hiệu quả. Thứ hai, ông cũng nhận ra rằng rủi ro thích hợp mà nhà đầu tư
phải đối mặt là rủi ro danh mục đầu tư, dẫn đến một điểm cơ bản là mức độ rủi ro
của một cổ phiếu không nên được đo lường chỉ bằng phương sai của cổ phiếu mà
còn bằng hiệp phương sai của chúng. Markowitz phát hiện ra rằng chính hiệp
phương sai xác định rủi ro của một danh mục đầu tư chứ không phải phương sai của
các tài sản riêng lẻ trong danh mục đầu tư. Danh mục đầu tư tốt nhất sẽ bao gồm các
tài sản có tương quan hoàn toàn âm (nghịch). Theo đó, lợi ích của việc đa dạng hóa
không chỉ cần tồn tại nếu các tài sản có tương quan nghịch hoàn hảo. Trên thực tế,
miễn là hệ số tương quan giữa hai tài sản nhỏ hơn 1,0, sẽ giảm rủi ro bằng cách kết
hợp cả hai tài sản trong một danh mục đầu tư. Đây được xem là nguyên nhân đằng
sau việc thúc đẩy sự dịch chuyển các luồng dòng vốn quốc tế giữa các nơi trên thế
giới.
2.1.2 Lý thuyết về ổn định tài chính
Sự ổn định tài chính đã và đang dành được nhiều sự quan tâm của các học giả
và cơ quan quản lý trên khắp thế giới. Nhiều nỗ lực không ngừng được tiến hành để
khám phá và giải mã những nguyên nhân có thể dẫn đến sự bất ổn này với các các
nghiên cứu của các nhà kinh tế học tiêu biểu như Keynes, Mundell – Fleming, ,
Krugman, Minsky,… Các lý thuyết về ổn định tài chính được nghiên cứu và phát
triển để giải thích cho các cuộc khủng hoảng tài chính như: lý thuyết của trường
phái Trọng tiền (monetarist), lý thuyết của trường phái Hậu Keynes, lý thuyết
Mundell – Fleming, lý thuyết chu kỳ (cyclical) của Minsky, lý thuyết bất cân xứng
thông tin, lý thuyết hành vi, lý thuyết trò chơi.
20
Theo Keynes (1936), những biến động tức thời trong ngắn hạn biểu hiện bằng
các hiện tượng như lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng…là nguyên nhân gây ra
những bất ổn trong hệ thống tài chính. Do đó, để can thiệp cần thực hiện công cụ tài
khóa và tiền tệ để ứng phó trong một thời gian ngắn.
Những người theo chủ nghĩa tiền tệ tin rằng nguyên nhân cơ bản của bất ổn tài
chính xuất phát từ chính sách tiền tệ. Chính những sai lầm về chính sách tiền tệ là
nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn hoặc gây ra những gián đoạn nhỏ nhưng để lại hậu
quả sâu rộng hơn (Friedman & Schwartz, 1963; Schwartz, 1987).
Mô hình Mundell – Fleming phân tích tác động của chính sách kinh tế vĩ mô
trong một nền kinh tế mở. Theo đó, dòng vốn vào sẽ dẫn đến việc đồng nội tệ lên
giá, làm giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu và là nguyên nhân làm mất ảnh hưởng
của tăng tổng cầu. Chỉ có chính sách điều chỉnh lãi suất mới khiến nền kinh tế trở
lại cân bằng. Krugman sau đó cho rằng, chính dòng vốn ra, làm giảm tỷ giá sẽ đưa
nền kinh tế tăng trở lại. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm và nghiên cứu sau
này đã chứng minh, chính sự bùng nổ tín dụng và bong bóng giá tài sản dưới tác
động của dòng vốn vào sẽ dễ dẫn đến bất ổn tài chính (Reinhart & Reinhart, 2009).
Kế thừa tư tưởng của Keynes, nghiên cứu của Minsky & Hyman (1977) và sau
đó là Kindleberger & Aliber (2011) tập trung chính vào các lực khác nhau tạo nên
sự dư thừa theo chu kỳ (cyclical excess). Các nghiên cứu này cho rằng trong thời kì
thịnh vượng của một quốc gia, người dân và các ngân hàng mua hàng hóa và cho
vay quá mức. Sự lạc quan thái quá này tạo ra bong bóng tài chính mà cuối cùng sẽ
đổ vỡ. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007 là một ví dụ điển hình cho
nghiên cứu của Minsky. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính giống với từng
bước xảy ra trong nghiên cứu của Minsky, khiến cho nhiều báo cáo gọi đó là
"Khoảnh khắc Minsky".
Tuy vậy, Crockett (1996) cho rằng cả hai cách lý giải trên đều chưa hoàn toàn
thỏa đáng. Ông lập luận rằng nhược điểm của những người theo chủ nghĩa tiền tệ là
21
họ quá tự bó hẹp (self-contained) vào chính sách tiền tệ và do vậy vô hình chung đã
loại trừ khả năng có thể xảy ra những xáo trộn phát sinh từ các nguyên nhân phi tiền
tệ. Đối với những người dựa trên nguyên do dư thừa theo chu kỳ, ông tin rằng họ
chưa lý giải được những hành vi phi lý và không được hỗ trợ bởi bất kỳ lý thuyết
kinh tế vi mô nào về lý do tại sao các tác nhân kinh tế lại hành xử theo cách gây mất
ổn định. Ông cho rằng chính những hiểu biết sâu sắc thu được từ lý thuyết trò chơi
và kinh tế học trong vấn đề ra quyết định dưới những điều kiện không chắc chắn đã
đưa ra những giải thích thỏa đáng hơn về lý do tại sao các tác nhân hành động theo
những cách có thể tạo ra sự bất ổn trong các tổ chức tài chính như nghiên cứu của
Greenwald & Stiglitz (1992); Williamson (1987). Do đó, ông đã đề xuất rằng cần
phải tập trung chú ý đến nguồn gốc gây bất ổn xuất phát từ các trung gian tài chính
và những gì làm phát sinh sự biến động quá mức đối với giá tài sản.
Đối với các trung gian tài chính, sự bất ổn bắt nguồn từ các vấn đề chính
sau:
(i) Vấn đề về bất cân xứng thông tin (asymmetric information): một cách
trực quan, thông tin đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của hệ thống tài
chính vì chúng là cơ sở để các bên tham gia cân nhắc và ra quyết định tiết kiệm và
đầu tư. Do vậy, bất kỳ yếu tố nào làm gián đoạn thông tin sẽ khiến gia tăng vấn đề
rủi ro đạo đức (moral hazard) và vấn đề lựa chọn bất lợi (adverse selection). Hệ quả
là, làm gián đoạn dòng vốn dòng vốn đầu tư, cho vay và do đó, tác động đến hoạt
động của nền kinh tế (Phan et al., 2021). Về mặt lý thuyết, bốn yếu tố làm gián đoạn
thông tin và gây bất ổn tài chính bao gồm: tăng lãi suất; sự suy giảm thể hiện trên
bảng cân đối tài chính; sự suy giảm thể hiện qua hoạt động ngoại bảng và gia tăng
sự không chắc chắn (uncertaincy) (Mishkin, 1999).
(ii) Vấn đề về niềm tin đối với các trung gian tài chính: việc mất niềm tin
đối với một tổ chức trung gian tài chính hay rộng hơn là hệ thống tài chính có thể
dẫn đến một cuộc “tháo chạy” (“run”) của người gửi tiền. Với cơ sở tiền gửi ổn
định, một ngân hàng thương mại sẽ đủ thanh khoản để đáp ứng nhu cầu rút tiền
22
thông thường (với một biên độ an toàn để cho phép biến động) và đầu tư phần còn
lại của tài sản vào tài sản thanh khoản nhưng có lợi suất cao hơn. Lợi tức của những
tài sản này cho phép ngân hàng cạnh tranh trên thị trường tiền gửi bằng cách cung
cấp các gói sản phẩm, dịch vụ đa dạng để thu hút người gửi tiền. Miễn là người gửi
tiền giữ được niềm tin vào khả năng thanh toán của ngân hàng, tình hình vẫn ở
trạng thái cân bằng (Crockett, 1996). Tuy nhiên, khi niềm tin đổ vỡ việc rút tiền “ồ
ạt” sẽ dẫn đến xói mòn vốn của ngân hàng. Để lý giả cho việc tháo chạy tập thể này,
Diamond & Dybvig (1983, 2000) cho rằng giá trị của ngân hàng phụ thuộc vào
nhiều điểm cân bằng (multiple equilibria). Dưới góc độ lý thuyết trò chơi, việc “lên
đồng tập thể” này có thể biểu thị qua tình trạng “tiến thoái lưỡng nan của tù nhân”
(Luce & Raiffa, 1989). Niềm tin là vấn đề rất quan trọng trong lĩnh vực tài chính
bởi vì khi có niềm tin vào sự phát triển ở tương lai, dòng vốn sẽ được lưu thông tốt
hơn và ổn định hơn. Khi đánh mất niềm tin, khả năng giao dịch của một quốc gia sẽ
bị “sứt mẻ” (Trần Việt Dũng & Lữ Hữu Chí, 2020d). Trên thị trường, tính không
chắc chắn tạo ra bởi những đối tác làm ăn không trung thực sẽ tăng rủi ro tín dụng
và do đó tăng lãi suất thực tế (Greenspan, 2008).
(iii) Vấn đề về sự lây nhiễm (contagion): Crockett (1996) tin rằng một
trong những lý do tạo nên tính dễ thương tổn của hệ thống tài chính là bởi sự lây lan
thất bại (failure contagion) giữa các tổ chức. Điều này càng đặc biệt hơn trong thời
đại mà hoạt động tài chính gắn kết chặt chẽ với nhau (Vives, 2019). Kaufman
(1994) cho rằng nếu so với các lĩnh vực khác, sự lây lan trong lĩnh vực tài chính sẽ
diễn ra nhanh hơn; với mức độ rộng hơn và số lượng nhiều hơn; do vậy sẽ gây nên
tổn thất nặng nề hơn cho cả chủ nợ lẫn hoạt động của nền kinh tế. Cũng chính
nguyên nhân này mà hệ thống tài chính luôn được đặt trong những khuôn khổ quy
định riêng biệt và giám sát chặt chẽ từ cơ quan quản lý các nước.
(iv) Vấn đề về các trung gian tài chính phi ngân hàng: có những cảnh báo
về sự phát triển về đổi mới tài chính có xu hướng làm phai mờ các sự khác biệt giữa
các loại hình trung gian tài chính khác nhau (C. E. Borio & Filosa, 1994; Frame &
White, 2004). Gần đây, sự xuất hiện của đội ngũ công ty tài chính công nghệ
(fintech) cũng gây nên những mối lo ngại về sự ổn định của hệ thống tài chính
23
(Vives (2019); Nguyễn Đức Trung & ctg (2021). Hơn nữa, sự thất bại của một tổ
chức trung gian phi ngân hàng có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của
nền kinh tế, cả trực tiếp thông qua tác động đến khách hàng của chính những tổ
chức này và gián tiếp đến niềm tin trong lĩnh vực tài chính. Chính vì thế, trọng tâm
sự chú ý của những người chịu trách nhiệm duy trì sự ổn định tài chính không thể
loại trừ các trung gian tài chính phi ngân hàng (Crockett, 1996).
Đối với biến động giá trị tài sản, sự bất ổn bắt nguồn từ các thị trường sau:
(i) Thị trường cổ phiếu: sự suy giảm của thị trường cổ phiếu có thể ảnh
hưởng đến nền kinh tế thực theo một số cách thức khác nhau. Đầu tiên, sự suy giảm
này làm giảm của cải của khu vực tư nhân và do đó ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ
sẵn sàng chi tiêu từ thu nhập hiện tại (Crockett, 1996). Thứ hai, nó sẽ tác động đến
giá trị vốn chủ sở hữu. Thật vậy, khi thị trường đánh giá dòng thu nhập trong tương
lai được tạo ra bởi tài sản của một ngành sẽ giảm, việc phát hành cổ phiếu phổ
thông để đầu tư vào tài sản thực sẽ giảm tương ứng (Tobin, 1969). Hệ quả là làm
giảm chi tiêu đầu tư. Thứ ba, sự sụt giảm của thị trường cổ phiếu sẽ làm trầm trọng
vấn đề thông tin bất cân xứng, dẫn đến ảnh hưởng đến vị thế trung gian của các tổ
chức trung gian tài chính (Bernanke & Gertler, 1988; Mishkin, 1994). Điều này sẽ
gây khó khăn trong việc huy động vốn đầu tư và do đó tác động đến hiệu quả nền
kinh tế. Sau cùng, nó sẽ tác động đến mức độ tự tin của nhà đầu tư. Thật vậy, khi
những yếu tố không chắc chắn hiển hiện, các tác nhân kinh tế có khuynh hướng
phản ứng bằng cách giảm mức độ tiếp xúc của họ với những yếu tố này, nghĩa là sẽ
cắt giảm chi tiêu vào đầu tư (Segal et al., 2015).
(ii) Thị trường ngoại hối: Có một mối quan hệ nhân quả giữa khủng
hoảng ngoại hối và khủng hoảng ngân hàng. Một mặt, khi khủng hoảng ngân hàng
nổ ra, ngân hàng trung ương các nước sẽ can thiệp bằng cách cung cấp thanh khoản
cho hệ thống ngân hàng trong nước và dẫn đến làm suy yếu bảng cân đối ngân hàng
trung ương. Hệ quả là, gia tăng tính dễ thương tổn bởi những cuộc tấn công của giới
đầu cơ. Về bản chất và nguồn gốc, hai cuộc khủng hoảng này là các cuộc khủng
24
hoảng song sinh (G. L. Kaminsky & Reinhart, 1999). Mặt khác, thị trường ngoại
hối và khu vực tài chính có mối liên hệ khá mật thiết. Khi khủng hoảng ngoại hối
xuất hiện, lãi suất trong nước sẽ tăng ít nhất là trong ngắn hạn trong khi hoạt động
kinh doanh ngân hàng dựa trên việc vay ngắn hạn và cho vay dài hạn dẫn đến tác
động đáng kể hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Ngoài ra, khủng hoảng trên thị
trường ngoại hối có thể kích hoạt một cuộc tháo chạy của dòng vốn quốc tế. Các
biện pháp ngăn chặn được biểu thị qua các chính sách can thiệp vô hiệu hóa
(sterilization policies) nhằm ngăn chặn khủng hoảng thanh khoản sẽ được cơ quan
quản lý triển khai. Tuy vậy, nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến dự trữ ngoại hối quốc gia
(De Grauwe & Grimaldi, 2002).
(iii) Thị trường trái phiếu và thị trường tài sản thực: Ngoài hai thị trường
đề cập ở trên, Crockett (1996) tin rằng cả thị trường trái phiếu và thị trường tài sản
thực vẫn đóng vai trò quan trọng đối với sự ổn định tài chính. Hậu quả kinh tế đến
từ sự bất ổn trên thị trường trái phiếu là tương tự thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên do
khối lượng đầu tư được tài trợ bởi trái phiếu thường lớn hơn nhiều so với việc huy
động vốn từ phát hành cổ phiếu, sự biến động của lợi tức trái phiếu sẽ tác động đáng
kể đến thay đổi mức tổng đầu tư trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, sự bất ổn về giá cả
tài sản thực (như: bất động sản, năng lượng, v.v.) cũng là nguồn gốc gây nên bất ổn
kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính. Khi giá cả hàng hóa gia tăng dẫn đến làm tăng
chi phí sản xuất và nguy cơ về việc tăng lạm phát. Sự thay đổi chi phí tương đối của
các yếu tố sản xuất đòi hỏi sự thay đổi về nguồn lực và công nghệ sản xuất giữa các
ngành khác nhau. Điều này dẫn đến khả năng ảnh hưởng tỷ lệ thất nghiệp và bào
mòn vốn đầu tư.
Như vậy, nguồn gốc gây nên sự bất ổn tài chính xuất phát từ các trung gian
tài chính và biến động giá trị tài sản. Dưới tác động của dòng vốn quốc tế, các nhà
đầu tư gia tăng đòn bẩy nợ thông qua hoạt động vay vốn từ các trung gian tài chính,
giá tài sản trên thị trường tăng cao tạo bong bóng tài chính. Một sự dừng đột ngột
hoặc đổi chiều của dòng vốn quốc tế có thể gây nên sự thắt chặt tín dụng và vỡ
bong bóng giá tài sản dẫn đến nguy cơ phá sản ngân hàng và khủng hoảng tài chính.
25
2.1.3 Lý thuyết về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
Có một sự thống nhất rộng rãi trong các lý thuyết rằng dòng vốn quốc tế có
thể mang lại cả “mặt tốt” và “mặt xấu” đến hệ thống tài chính của một quốc gia.
Đối với quan điểm lợi ích
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng ở góc độ toàn cầu, dòng vốn do các nhà đầu tư
nước ngoài cho phép phân bổ hiệu quả các khoản tiết kiệm trên thế giới và sử dụng
những nguồn lực vốn này một cách hiệu quả. Ngoài ra, dòng vốn quốc tế còn tạo ra
cơ hội cho thương mại giữa các quốc gia và đa dạng hóa danh mục đầu tư cũng như
chia sẻ rủi ro (Lee, 2004). Nguồn lực từ dòng vốn quốc tế có thể góp phần khơi
thông mức độ chi tiêu của các hộ gia đình lẫn đầu tư của các doanh nghiệp đối với
các quốc gia đang trải qua thời kỳ suy thoái tạm thời hoặc đang bị ảnh hưởng bởi
thiên tai (Backus et al., 1992). Vì vậy, dòng vốn quốc tế góp phần làm giảm nguy
cơ rủi ro chu kỳ kinh doanh (Greenwald et al., 1984). Tác giả Lee (2004) đề xuất
phương trình như sau để lý giải cho lợi ích từ dòng vốn đầu tư quốc tế:
𝑆𝑝 + 𝐾 = 𝐼 + 𝐵𝐷
Theo đó, Sp là tiết kiệm tư nhân; K là dòng vốn thuần; I là đầu tư trong nước
và BD là thâm hụt ngân sách. Như vậy, vấn đề thâm hụt ngân sách và tiết kiệm
trong nước có thể được bù đắp bởi nguồn vốn quốc tế cho đầu tư trong nước. Hay
nói cách khác, đầu tư quốc tế cho phép các nước, nhất là các nước đang phát triển,
có nguồn lực vốn hạn chế trong việc thúc đẩy đầu tư phát triển mà không cần dựa
nhiều vào nguồn lực tiết kiệm.
Đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đây là ngoại lực quan trọng bù
đắp mức độ tiết kiệm thấp của các nước đang phát triển, giúp các quốc gia này thoát
khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói thông qua việc đầu tư nâng cao công nghệ,
kinh nghiệm quản lý và năng suất, phát triển cơ sở hạ tầng xã hội và phát triển
nguồn nhân lực (Salehi, 2005). Bên cạnh đó, dòng vốn FDI góp phần bổ sung việc
26
thiếu hụt ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán dựa trên hoạt động xuất khẩu và di
chuyển vốn giúp lành mạnh hóa hệ thống tài chính (Meier, 1995).
Đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp, các nhà đầu tư quốc tế có thể giúp tăng
tính thanh khoản và kỳ hạn nợ trên thị trường tài chính trong nước. Thông qua các
chiến lược kinh doanh và đầu tư như hoạt động kinh doanh chênh lệch giá và/hoặc
đa dạng hóa danh mục đầu tư, các nhà đầu tư giúp gia tăng thanh khoản thị trường
nợ. Ngoài ra, khi thị trường rộng lớn hơn do sự hiện diện ngày càng nhiều của các
nhà đầu tư nước ngoài, nguồn cung vốn tăng với chi phí thấp hơn giúp chính phủ
giảm chi phí vay nợ. Tuy vậy, đồng thời chúng có thể gây khó khăn hơn cho Chính
phủ trong việc thực hiện các mục tiêu trong nước vì sự phụ thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng giữa các thị trường tài chính (Dalla, 1995, 1997; Dalla & Khatkhate,
1996).
Đối với dòng vốn khác, các nhà đầu tư quốc tế đem đến những diện mạo mới
khi du nhập các sản phẩm dịch vụ tài chính mới để từ đó thúc đẩy quá trình chuyên
môn hóa lĩnh vực tài chính trong nước. Hệ quả là, thị trường tài chính nội địa sẽ trở
nên năng động và hiệu quả hơn vì sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh này
(Blommestein (1997); Mussa et al. (1998)).
Ngoài ra, sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm nước ngoài được thành lập
trong nước có thể mang lại sự đổi mới về: sáng tạo trong cạnh tranh, tiếp thị, sản
phẩm và từ đó mở rộng thị trường dịch vụ tài chính trong nước. Đồng thời, các công
ty này sẽ mang lại năng lực bổ sung cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm, giúp các
doanh nghiệp và cá nhân chuyển đổi tài sản, trách nhiệm pháp lý, thu nhập và các
rủi ro khác của họ phù hợp với tính thanh khoản, bảo mật và các trúc rủi ro khác
theo nhu cầu, đặc biệt trong việc định giá rủi ro – khía cạnh đặc biệt quan trọng
trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bằng những phương tiện đổi mới này, các
nhà bảo hiểm nước ngoài sẽ góp phần nâng cao hiệu quả phân bổ vốn của hệ thống
tài chính trong nước (Skipper, 1997).
27
Như vậy, có thể thấy rằng “làn sóng” từ các nhà đầu tư quốc tế tạo nên “bộ
mặt mới” cho hệ thống tài chính trong nước, nghĩa là thúc đẩy quá trình đổi mới tài
chính. Sự đổi mới tài chính đóng vai trò quan trọng đối với hệ thống tài chính nói
riêng và nền kinh tế nói chung (Frame & White (2004)). Do đó, dòng vốn quốc tế
giữ vai trò hết sức cần thiết, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển.
Đối với quan điểm rủi ro
Một trong những đặc tính khác biệt của dòng vốn quốc tế là tính dễ biến
động và đột ngột, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác. Nguyên nhân
chính xuất phát từ vấn đề bất cân xứng thông tin giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà
đầu tư trong nước. Theo lý thuyết bất cân xứng thông tin, Akerlof (1970) cho rằng
sự bất cân xứng thông tin khiến thị trường trở nên kém hiệu quả hơn, vì tất cả
những người tham gia thị trường không có quyền truy cập thông tin mình cần cho
quá trình ra quyết định. Bên cạnh đó, một phần của vấn đề bất cân xứng thông tin
còn đến từ việc các nhà đầu tư quốc tế ít động lực để có được thông tin về tất cả các
quốc gia mà họ đầu tư. Mô hình nghiên cứu của Calvo & Mendoza (1998) cho thấy
các nhà đầu tư quốc tế ít có động lực thu thập thông tin hơn khi thị trường tài chính
ở nhiều quốc gia đang được tự do hóa.
Mối lo ngại thứ hai đối với nhà đầu tư quốc tế là vai trò trong việc làm lây
lan các cuộc khủng hoảng. Nguyên do đến từ sự dịch chuyển dòng vốn của các nhà
đầu tư này mà Masson (1998) gọi là “hiệu ứng gió mùa” (“monsoon effect”). Ngoài
các yếu tố thúc đẩy bên ngoài trên thực tế đã tạo ra một ảnh hưởng đáng kể đến
dòng vốn nói chung đối với các thị trường mới nổi (Montiel & Reinhart, 2001), lý
thuyết hành vi cho thấy sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài sẽ làm tăng mức
độ “hành vi bầy đàn” (“herding behavior”) trên thị trường tài chính trong nước theo
nghiên cứu của Kim & Wei (2002). Bên cạnh hai lý do nêu trên, “hiệu ứng biểu thị”
(“demonstration effects”) cũng được đề cập để giải thích việc nhà đầu tư quốc tế
góp phần vào việc lây lan các cuộc khủng hoảng. Theo đó, thông tin tiết lộ về một
tài sản hoặc một quốc gia có thể được sử dụng bởi các nhà đầu tư (cả trong nước và
28
nước ngoài) để cập nhật thông tin về các tài sản hoặc quốc gia tương đồng khác.
Chính vì thế King & Wadhwani (1990) chỉ ra rằng một cú sốc đối với yếu tố đặc
trưng trong một thị trường nói chung sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư điều chỉnh hành vi
của mình trên các thị trường khác, bởi lẽ họ không chắc chắn về “cú sốc” vừa nhận
biết. Hơn nữa, Calvo (2004) lập luận rằng nếu các nhà đầu tư chuyên nghiệp thực
hiện giao dịch dựa trên thông tin có được thì các nhà đầu tư không hiểu biết có thể
bắt chước hành vi này mặc dù có thể thông tin này là không hoàn toàn mới.
Mối quan ngại thứ ba đến từ sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài
cùng với tự do hóa tài chính trong nước có thể làm tăng tác động của việc bóp méo
chính sách và vấn đề ủy quyền đại diện (agency problems). Cùng với tiến trình tự
do hóa tài chính, việc tăng cường cạnh canh và siết chặt biên lợi nhuận trong lĩnh
vực tài chính có thể mang đến rủi ro cho nền kinh tế. Do vậy, nếu không có sự giám
sát và quy định một cách thận trọng và đầy đủ, tự do hóa tài chính trong nước có thể
cho phép các tổ chức tài chính mở rộng các hoạt động rủi ro vượt quá khả năng
quản lý của chính các tổ chức này. Song song với đó, tự do hóa tài chính từ bên
ngoài có thể khiến vấn đề thêm trầm trọng. Sự gia nhập của các tổ chức tài chính
nước ngoài làm xói mòn thêm biên lợi nhuận của các tổ chức tài chính trong nước.
Hơn nữa, sự bảo đảm ngầm của chính phủ ở các thị trường mới nổi (như về tỷ giá,
sự đổ vỡ ngân hàng,…) cùng với đặc điểm lãi suất danh nghĩa ở các thị trường này
thường cao hơn, có thể thu hút những dòng vốn quốc tế “nóng” và “ngắn hạn” (J. Y.
Lee, 2004). Điều này sẽ tiềm ẩn nguy cơ khi các quốc gia dựa phần lớn vào nợ nước
ngoài ngắn hạn, bởi lẽ một sự thay đổi đột ngột vào mức độ tín nhiệm đối với các
quốc gia này sẽ tạo nên xu hướng “đảo chiều” dòng vốn quốc tế dẫn đến ăn mòn dự
trữ ngoại hối quốc gia và sau cùng là đưa đến khủng hoảng (Eichengreen & Portes,
1987).
Cơ chế truyền dẫn
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu về dòng vốn quốc tế đã dành sự quan tâm trong
việc phân biệt các yếu tố thúc đẩy (push factors) hay còn gọi là các yếu tố toàn cầu
29
(global factors) chẳng hạn như: rủi ro toàn cầu, thanh khoản toàn cầu, lãi suất hoặc
tăng trưởng ở các nước phát triển, và các yếu tố kéo (pull factors) hay còn gọi là yếu
tố trong nước (local factors) như: các nguyên tắc cơ bản về kinh tế vĩ mô và các
chính sách quản lý ở các nước tiếp nhận dòng vốn. Bên cạnh đó, nhiều phân tích đã
tập trung vào việc hiểu rõ hơn về các cơ chế truyền dẫn đằng sau chu kỳ tài chính
toàn cầu.
Theo Mishkin (2004), các kênh truyền dẫn chính của dòng vốn bao gồm: kênh
lãi suất, kênh tỷ giá, kênh giá tài sản, kênh tín dụng từ đó tác động đến sản lượng,
thất nghiệp và lạm phát trong nền kinh tế, theo đó dòng vốn quốc tế chảy vào thị
trường vốn trong nước tạo dư thừa vốn trong nước, đẩy giá cao làm xuất hiện tình
trạng bong bong giá trong nền kinh tế. Sự dịch chuyển của dòng vốn quốc tế có thể
làm gia tăng các rủi ro và tính dễ tổn thương lên hệ thống tài chính và nền kinh tế vĩ
mô đồng thời đặt ra nhiều thách thức trong việc quản lý hệ thống tài chính, chẳng
hạn như khi dòng vốn vào rất lớn sẽ gây áp lực lên giá của đồng nội tệ. Điều này tạo
ra tình thế tiến thoái lưỡng nan:
(i) Nếu để mặc cho đồng tiền lên giá sẽ làm suy yếu sức cạnh tranh của
hàng hóa trong nước;
(ii) Nếu can thiệp tiền tệ để giữ tỷ giá sẽ làm cho nền kinh tế nóng lên,
gây áp lực lạm phát;
(iii) Nếu sử dụng biện pháp trung hòa sẽ càng thu hút thêm dòng vốn bên
ngoài đổ vào nhiều hơn.
Dòng vốn vào lớn thường gây ra sự bùng nổ tín dụng và làm suy giảm chất
lượng tín dụng. Dòng vốn vào lớn thường thổi bùng giá tài sản tài chính và bất động
sản, gây ra hiệu ứng của cải đối với nền kinh tế (Reinhart and Reinhart, 2008). Rủi
ro của sự phân bổ sai lệch dòng vốn nước ngoài rất quan trọng, đặc biệt khi thị
trường tài chính trong nước chưa phát triển và không được điều tiết tốt.
30
Nghiên cứu của Bruno & Shin (2014) đã chỉ ra rằng dòng vốn có xu hướng
liên quan đến sự tích tụ đòn bẩy trong lĩnh vực ngân hàng. Và do đó, dòng vốn quốc
tế không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế vĩ mô như áp lực lạm phát, tăng
trưởng nóng, lo ngại về khả năng cạnh tranh, xuất khẩu (theo Blanchard et al.
(2016)), mà còn có thể gây nên rủi ro bất ổn tài chính thông qua hệ thống ngân
hàng. Một phần lý do đến từ khả năng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong nước.
Bên cạnh đó, chính sự dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn sẵn có từ bên ngoài này sẽ
khiến các ngân hàng trong nước nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay, làm giảm chất
lượng khoản vay, thúc đẩy nhanh sự tăng giá tài sản và sau cùng là đối mặt với
nguy cơ tăng trưởng không bền vững. Một khi sự gia tăng cho vay bằng ngoại tệ đối
với những người đi vay thuộc khu vực tư nhân là đáng kể thì việc đảo chiều đột
ngột của dòng vốn quốc tế có thể gây nên sự bất ổn đối với hệ thống tài chính trong
nước (Dell’Ariccia et al., 2012; Elekdag & Wu, 2013).
Trên cơ sở đó, các nghiên cứu đã tiếp cận dưới góc độ vi mô thông qua hệ
thống ngân hàng để phân tích sâu hơn về đặc điểm kỹ thuật của các cơ chế cốt lõi
đằng sau việc truyền tải các cú sốc toàn cầu. Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào vai
trò của các ngân hàng toàn cầu trong việc truyền dẫn các cú sốc về thanh khoản
hoặc các vấn đề về tài chính khác. Điều này đã được phản ánh phần nào qua vai trò
của các dòng vốn ngân hàng xuyên quốc gia trong việc truyền dẫn cuộc khủng
hoảng tín dụng dưới chuẩn của Hoa Kỳ trên toàn hệ thống quốc tế trong cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu.
Sự xuất hiện của các xung đột thị trường vốn ảnh hưởng đến bảng cân đối kế
toán của các ngân hàng và các hành vi chấp nhận rủi ro trong cách tiếp cận nền kinh
tế mở của Keynes cho phép kênh ngân hàng toàn cầu truyền tải các cú sốc tài chính
cùng với kênh lãi suất truyền thống. Theo cách tiếp cận này, biến động tỷ giá hối
đoái được truyền đi, không chỉ qua xuất khẩu ròng, mà còn qua bảng cân đối kế
toán của các trung gian tài chính vay bằng ngoại tệ. Chúng có thể tạo ra bất ổn tài
chính, bùng nổ và/hoặc thu hẹp tín dụng.
31
Như vậy, một mặt, dòng vốn quốc tế hỗ trợ tăng trưởng dài hạn thông qua
phân bổ nguồn vốn tiết kiệm quốc tế tốt hơn. Đối với hình thức đầu tư trực tiếp, nhà
đầu tư quốc tế có thể góp phần hỗ trợ vào sự phát triển của công nghệ cũng như cải
tiến quy trình, cách thức quản lý. Đối với hình thức đầu tư gián tiếp, dòng vốn quốc
tế cũng có thể giúp nâng cao tính minh bạch và quản trị công ty. Đối với dòng vốn
khác, dòng vốn quốc tế góp phần phân bổ vốn hiệu quả một cách nhanh nhất, giúp
phát triển thị trường tài chính. Tuy vậy, chúng có thể làm phức tạp trong việc quản
lý kinh tế vĩ mô của các nước nhận vốn đầu tư, gia tăng các lỗ hổng đối với hệ
thống tài chính và có thể dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính. Trong những
trường hợp cực đoan, một sự dừng lại đột ngột của dòng vốn, đặt biệt là dòng vốn
gián tiếp và dòng vốn khác, có thể gây nên những tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế. Dòng vốn cũng có thể khuếch đại những lỗ hổng trong nước thông qua các
kênh truyền dẫn như lãi suất, tỷ giá và giá tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán
của các ngân hàng, đặc biệt là khi trình độ quản trị rủi ro của các công ty trong nước
còn kém và những quy định tài chính liên quan cho phép các doanh nghiệp cũng
như các ngân hàng chấp nhận rủi ro quá mức và mở rộng vay nợ thông qua đòn bẩy
quốc tế (Lane, 2015).
2.2 Lược khảo các nghiên cứu liên quan
2.2.1 Lược khảo các yếu tố tác động đến ổn định tài chính
2.2.1.1 Tác động đến ổn định tài chính từ hội nhập tài chính toàn cầu
Theo Guichard (2017), cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chỉ ra rằng sự
lây lan của các cú sốc đối với hệ thống tài chính trên phạm vi toàn cầu ngày càng
trở nên phức tạp do kết quả của quá trình toàn cầu hóa tài chính. Hội nhập tài chính
toàn cầu không chỉ dẫn đến sự gia tăng quy mô dòng vốn mà còn ảnh hưởng đến
việc kiểm soát các dòng vốn, các cơ chế truyền dẫn và rủi ro lây lan cũng như đưa
ra các hàm ý chính sách liên quan như: giám sát, phòng ngừa và cách thức phản ứng
đối với dòng vốn vào và dòng vốn ra.
32
Trên tinh thần đó, một khía cạnh quan trọng đầu tiên là cần xem xét tác động
tách biệt giữa tổng dòng vốn và dòng vốn ròng. Mihaljek (2016) đã lưu ý về trường
hợp điển hình giữa khu vực đồng Euro và Hoa Kỳ. Theo đó, trong những năm trước
cuộc khủng hoảng, khu vực này có tài khoản vãng lai gần như cân bằng và dòng
vốn ròng chảy vào Mỹ, mặc dù lớn, đã ổn định. Tuy nhiên, tổng dòng chảy giữa hai
khu vực tăng mạnh do các ngân hàng châu Âu gia tăng ký hợp đồng các khoản vay
ngắn hạn từ Hoa Kỳ và đầu tư trở lại vào chứng khoán dưới chuẩn thế chấp tại nước
này. Điều này khiến khu vực đồng Euro dễ bị tổn thương bởi cuộc khủng hoảng nợ
dưới chuẩn của Mỹ. Do vậy, cùng với hội nhập tài chính toàn cầu, các nước thặng
dư không nhất thiết phải “cấp vốn” cho các nước thâm hụt và các nền kinh tế có tài
khoản vãng lai cân bằng vẫn có thể nhận được nguồn tài chính quan trọng từ nước
ngoài. Theo đó, bùng nổ tín dụng từ dòng vốn bên ngoài hoặc việc dừng đột ngột
của dòng vốn có thể xảy ra ngay cả khi không có thâm hụt tài khoản vãng lai hoặc
ngay cả khi một quốc gia có thặng dư tài khoản vãng lai. Nhìn chung, tài khoản
vãng lai cân bằng và xu hướng dòng vốn ròng có thể mang lại một cảm giác an toàn
sai lầm. Hơn nữa, với quy mô của tổng dòng vốn, tác động định giá có xu hướng
làm lu mờ mối quan hệ truyền thống giữa tài khoản vãng lai và vị thế đầu tư ròng.
Cuối cùng, tổng dòng vốn ra có khả năng khuếch đại hoặc giảm thiểu tác động của
biến động tổng dòng vốn là trọng tâm chính của việc giám sát và phân tích thực
nghiệm. Sự tập trung truyền thống vào dòng vốn này phản ánh phần lớn sự liên tiếp
của các đợt bùng nổ do dòng vốn nước ngoài chuyển đến các thị trường mới nổi sau
khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn nhưng đã trở nên ít phù hợp hơn sau quá trình
hội nhập tài chính ngày càng tiến bộ của các nước này (Guichard, 2017; Tarashev et
al., 2016).
Tóm lại, quá trình hội nhập tài chính toàn cầu đã tác động làm gia tăng bất ổn
tài chính thông qua quy mô tổng dòng vốn ngày càng tăng. Tầm quan trọng của
tổng dòng vốn đã chuyển hướng tiếp cận các dòng vốn từ quan điểm thuần túy như
tiết kiệm và đầu tư được phản ánh qua dòng vốn ròng, sang cách tiếp cận xem
chúng như dòng vốn được thúc đẩy bởi các lựa chọn tài chính. Và do đó, trong các
33
nghiên cứu, các động lực của dòng vốn phải được xem xét lại không chỉ tập trung
vào dòng chảy thương mại mà phụ thuộc vào các quyết định đầu tư tài chính trong
đó sự e ngại rủi ro và nhu cầu thanh khoản tốt hơn phải được tính đến (Bonizzi,
2017).
2.2.1.2 Tác động đến ổn định tài chính của yếu tố trong nước và yếu tố toàn
cầu
Việc các nước phát triển thực hiện các chính sách nới lỏng định lượng đã tác
động mạnh đến dòng vốn vào ở các nước mới nổi. Chính những lỗ hổng liên quan
đến việc vay nợ của công ty (và cả ngân hàng) ở các nước này đã làm hồi sinh tranh
luận về tính dễ bị tổn thương liên quan đối với các cú sốc tài chính toàn cầu, đặc
biệt là khi lập trường chính sách tiền tệ thay đổi ở các nền kinh tế tiên tiến
(Khatiwada, 2017). Một mặt, một số lạc quan thận trọng về rủi ro của bất ổn tài
chính đến từ sự cải thiện tình hình ở các nước mới nổi trong thập kỷ qua, bao gồm
các khuôn khổ chính sách mạnh mẽ hơn với các chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt
hơn, lạm phát được kiểm soát tốt hơn, mức dự trữ ngoại hối cao hơn (Bems et al.,
2016) và khả năng của các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô cũng như các công cụ
thận trọng trong việc quản lý các lỗ hổng tài chính (Committee on International
Economic Policy and Reform et al., 2015). Mặt khác, những cải tiến trong các
nguyên tắc cơ bản cũng như việc quản lý kinh tế vĩ mô ở các nước như một lá chắn
chống lại bất ổn tài chính đến từ việc thay đổi đột ngột của dòng vốn có thể bị làm
suy yếu bởi tầm quan trọng ngày càng gia tăng của chu kỳ tài chính toàn cầu đến từ
hội nhập tài chính toàn cầu (Eichengreen & Gupta, 2016).
Mối quan tâm đến các yếu tố đẩy (yếu tố toàn cầu) và kéo (yếu tố trong nước)
trong việc thúc đẩy dòng vốn đã xuất hiện từ đầu những năm 1990 khi dòng vốn
quay trở lại các nước Mỹ Latinh sau cuộc khủng hoảng nợ đầu những năm 80
(Guillermo A. Calvo et al., 1993). Các phát hiện chính được tóm tắt trong tổng quan
tài liệu nghiên cứu của Koepke (2019), đã phân tích 40 nghiên cứu dành cho các
yếu tố đẩy và kéo từ năm 1996 đến năm 2014. Một kết luận chính của tổng quan
34
này là các động lực của dòng vốn thay đổi theo thời gian và giữa các quốc gia cũng
như trên các loại dòng vốn khác nhau. Đặc biệt, kết quả nghiên cứu cho thấy các
yếu tố thúc đẩy (yếu tố toàn cầu) là động lực hàng đầu của dòng vốn gián tiếp và
các yếu tố kéo (yếu tố trong nước) là động lực hàng đầu của dòng vốn vào ngân
hàng và (thậm chí là mạnh hơn) đối với dòng vốn trực tiếp. Nghiên cứu của
European Central Bank (2016) kết luận rằng các yếu tố kéo có xu hướng thống trị
trong thời gian tĩnh, trong khi các yếu tố thúc đẩy có xu hướng chiếm ngự trong các
cuộc khủng hoảng.
Các nghiên cứu cũng đã tiến xa hơn trong việc phân tích các cơ chế mà các
yếu tố thúc đẩy ảnh hưởng đến thị trường mới nổi (và cả thị trường các nước phát
triển) và mức độ nhạy cảm của các loại dòng vốn khác nhau đối với các yếu tố toàn
cầu. Vấn đề không chỉ là liệu các yếu tố toàn cầu có trở nên quan trọng hơn sau hội
nhập tài chính toàn cầu hay không mà còn dựa trên nền tảng tác động khác biệt của
những cơn “dư chấn” và liệu một số nguyên tắc cơ bản có ảnh hưởng đến mức độ
nhạy cảm của chính các quốc gia mới nổi đối với các yếu tố này hay không. Do đó,
thay vì phản đối vai trò của các yếu tố cơ bản đối với vai trò của các yếu tố toàn
cầu, các nghiên cứu ngày càng tập trung vào cách chúng tương tác và vai trò của
các đặc điểm cấu trúc quốc gia trong việc giảm thiểu tác động của chu kỳ tài chính
toàn cầu. Ví dụ nghiên cứu của Byrne & Fiess (2016) đã dựa vào phân tích chuỗi
thời gian và đánh giá vai trò của các yếu tố toàn cầu thông qua việc xác định các
thành phần chung hoặc đồng chuyển động của dòng vốn vào các nước mới nổi hơn
là xác định các yếu tố thúc đẩy toàn cầu theo cách riêng biệt. Hầu hết các nghiên
cứu đã xác nhận tầm quan trọng của các yếu tố toàn cầu như một động lực thúc đẩy
dòng vốn vào các nước nước mới nổi và chúng có thể chiếm hơn 80% chuyển động
của dòng vốn gián tiếp quốc tế (Sarno và cộng sự, 2015) và có ảnh hưởng vĩnh viễn
đến dòng vốn trong khi các cú sốc ở từng quốc gia chỉ có tác động tạm thời (Byrne
& Fiess, 2016; Sarno et al., 2016). Như vậy dòng vốn gián tiếp tác động nhiều hơn
đến ổn định tài chính dưới tác động của yếu tố toàn cầu. Trong số các yếu tố toàn
cầu được xem xét như: tỷ giá, giá cả hàng hóa, sự không chắc chắn và sự e ngại rủi
35
ro, tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên tiến, thì chỉ số e ngại rủi ro được cho là đóng
một vai trò nổi bật trong những năm qua.
2.2.1.3 Tác động đến ổn định tài chính thông qua kênh ngân hàng toàn cầu
Tác động của việc gia tăng quy mô tổng dòng vốn xuyên biên giới và sự tồn
tại của chu kỳ tài chính toàn cầu đã bắt đầu được phản ánh trong các cách tiếp cận
lý thuyết về kinh tế vĩ mô mở bắt đầu từ mô hình Mundell - Fleming, tuy nhiên sau
này, các nghiên cứu đã tiếp cận dưới góc độ vi mô thông qua hệ thống ngân hàng để
phân tích sâu hơn về đặc điểm kỹ thuật của các cơ chế cốt lõi đằng sau việc truyền
tải các cú sốc toàn cầu. Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào vai trò của các ngân hàng
toàn cầu trong việc truyền dẫn các cú sốc về thanh khoản hoặc các vấn đề về tài
chính khác. Một số mô hình nghiên cứu điển hình gần đây được lược khảo như sau:
Bruno & Shin (2017) đã đề xuất một mô hình ngân hàng quốc tế trong đó đòn
bẩy ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài đóng vai trò trung tâm trong
việc truyền tải các điều kiện tài chính toàn cầu qua biên giới. Trong mô hình này,
biến động tỷ giá hối đoái, đặc biệt là biến động đồng đô la Mỹ, trở thành nguồn gốc
của các cú sốc toàn cầu thông qua hệ thống tài chính bằng hiệu ứng đòn bẩy. Trước
đó, theo cách thức tương tự, Aoki et al. (2016) đề xuất một mô hình nền kinh tế có
độ mở nhỏ với thị trường tài chính quốc tế, nơi các ngân hàng trong nước tài trợ vốn
đầu tư bằng cách phát hành tiền gửi cho các hộ gia đình trong nước và đi vay nước
ngoài. Tỷ giá hối đoái trong nước sụt giảm làm giảm giá trị ròng và năng lực trung
gian của các ngân hàng trong nước vay bằng ngoại tệ. Tác động sẽ tăng lên nếu việc
giảm giá tỷ giá hối đoái dẫn đến lạm phát và do đó chính sách tiền tệ thắt chặt hơn.
R. Banerjee et al. (2016) sử dụng mô hình DSGE với các ngân hàng toàn cầu và
ngân hàng trong nước đối mặt với các hạn chế trong bảng cân đối kế toán để khám
phá các nguồn lan tỏa thông qua chênh lệch, đòn bẩy và giảm các khoản vay ở các
ngân hàng thuộc thị trường mới nổi. Các tác giả đã kết luận rằng chính trong một
khuôn khổ như vậy, sự linh hoạt của tỷ giá hối đoái không đủ để bảo vệ các nền
kinh tế khỏi tác động của các cú sốc toàn cầu.
36
Ở đây, cần phân tích để làm rõ hơn mô hình nghiên cứu của R. Banerjee et al.
(2016). Trong phần phân tích lý thuyết, các tác giả đã phát triển một mô hình DSGE
ngoại vi cốt lõi đơn giản (simple core-periphery) được thúc đẩy bởi chính sách tiền
tệ và các cú sốc tài chính ở quốc gia trung tâm (the core country) có đồng tiền chi
phối dòng vốn tài chính xuyên biên giới. Mô hình này dựa trên mối quan hệ giữa
các tổ chức tài chính trong một trung tâm tài chính lớn (các ngân hàng toàn cầu
hoặc các nhà quản lý tài sản) và các ngân hàng đi vay hoặc các tổ chức tài chính ở
một quốc gia ở thị trường mới nổi. Khi các tổ chức tài chính này phải đối mặt với
những ràng buộc của cơ quan quản lý làm hạn chế sự tăng trưởng của bảng cân đối
kế toán, thì những cú sốc về chính sách tiền tệ hoặc những cú sốc về tài chính ở
quốc gia trung tâm có thể tạo ra những biến động mạnh trong dòng vốn quốc tế ở
các quốc gia mới nổi. Sự thắt chặt tiền tệ ở các nước trung tâm dẫn đến dòng vốn
chảy ra nước ngoài giảm đáng kể, dòng vốn ra khỏi vùng ngoại vi cũng giảm, tỷ giá
hối đoái thực tế ở các nước ngoại vi giảm và chênh lệch lãi suất tăng dẫn đến suy
thoái hoạt động kinh tế trong thực tế. Ngoài ra, phản ứng của giá tài sản và chênh
lệch lãi suất ở các nền kinh tế mới nổi đối với sự thu hẹp tiền tệ ở các quốc gia trung
tâm trên thực tế có thể lớn hơn phản ứng trực tiếp của chúng ở chính quốc gia trung
tâm. Do đó, sự đảo ngược đột ngột trong lập trường chính sách tiền tệ của các quốc
gia này có thể tạo ra những phản ứng thái quá trên thị trường tài chính của các nền
kinh tế mới nổi. Điều này xảy ra ngay cả khi nền kinh tế mới nổi cho phép tỷ giá hối
đoái tự do điều chỉnh. Cơ chế chính trong mô hình là tác động phóng đại của các cú
sốc đối với bảng cân đối kế toán của những người cho vay toàn cầu kết hợp với
những tác động của những người đi vay tại thị trường mới nổi trong nước. Việc thắt
chặt tiền tệ ở quốc gia trung tâm làm tăng lãi suất, làm tăng chi phí huy động vốn
đối với các nhà cho vay toàn cầu. Điều này làm xói mòn giá trị tài sản ròng của họ,
buộc họ phải giảm các khoản cho vay cho những người đi vay ở thị trường mới.
Mặt khác, các nước mới nổi phải chịu sự sụt giá tỷ giá hối đoái thực ngay lập tức.
Sự kết hợp giữa chi phí đi vay tăng và sự sụt giảm giá trị đồng nội tệ, làm tăng chi
phí trả nợ hiện có, dẫn đến giá trị ròng của các tổ chức vay vốn ở thị trường mới nổi
giảm mạnh làm gia tăng chênh lệch giá ở các thị trường mới nổi. Phân tích cũng cho
37
thấy mức chênh lệch tăng nhiều hơn đáng kể ở các quốc gia thị trường mới nổi so
với các quốc gia trung tâm, vì chúng bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng "double agency".
Trái ngược với mô hình DSGE ngoại vi cốt lõi đơn giản không có các tổ chức tài
chính bị ràng buộc, quy tắc lạm phát mục tiêu đơn giản (như quy tắc Taylor) không
tách biệt nền kinh tế ngoại vi khỏi sự lan tỏa tiền tệ quốc tế. Sự lan tỏa này vẫn lớn
và làm các nền kinh tế mới nổi vẫn rất dễ bị tổn thương do dòng vốn trực tiếp bị cắt
giảm và sự gia tăng chi phí tài trợ đến từ quốc gia trung tâm ngay cả khi việc vay nợ
được bù đắp bởi chính đồng tiền ở các nước này. Những kết quả này dường như ủng
hộ quan điểm “tiến thoái lưỡng nan” trước đó của Rey (2015). Thật vậy, Rey lập
luận rằng đối với các nước có độ mở cửa nhỏ trong thị trường tài chính toàn cầu,
chính sách cổ điển “bộ ba bất khả thi” cho rằng chính sách độc lập có thể được tuân
theo miễn là tỷ giá hối đoái linh hoạt theo mô hình Mundell-Fleming, trên thực tế
rơi vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” vì sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái không thể dễ
dàng chống lại sự đảo chiều lớn của dòng vốn. Tình trạng tiến thoái lưỡng nan là
tình huống mà các quốc gia thị trường mới nổi có thể duy trì một tài khoản vốn mở
nhưng vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi chu kỳ tài chính toàn cầu, hoặc chọn áp đặt các biện
pháp kiểm soát vốn để đạt được mức độ độc lập về chính sách vĩ mô hơn. Cơ chế
phân tích truyền dẫn R. Banerjee et al. (2016) được biểu thị qua sơ đồ hình 2.2.
38
Nguồn: National Bureau of EconomicResearch
Hình 2.2: Cơ chế truyền dẫn bất ổn tài chính qua kênh ngân hàng toàn cầu
Các nghiên cứu này nhấn mạnh vai trò của ngân hàng trong việc lan truyền các
bất ổn tài chính thông qua dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác.
2.2.1.4 Tác động vay nợ nước ngoài của các công ty tại thị trường mới nổi
Đã có cảnh báo rằng trong khi tổng dòng vốn đến các thị trường mới nổi được
đo lường bằng dữ liệu cán cân thanh toán quốc tế đã tương đối chậm lại kể từ năm
2010, nợ nước ngoài tích lũy của các tập đoàn phi tài chính (non-financial
corporations - NFCs) ở các nước này đã tăng lên đáng kể và trở thành một nguồn
gốc quan trọng cần quan tâm (Guichard, 2017). Trước cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, dòng vốn ngân hàng xuyên quốc gia, đặc biệt là giữa các nền kinh tế tiên
tiến và thị trường mới nổi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng dòng vốn quốc tế. Tuy
nhiên, hiện nay việc phát hành trái phiếu của NFCs tại các quốc gia mới nổi, bao
gồm cả ở các trung tâm tài chính nước ngoài, chiếm một tỷ trọng lớn trong dòng
vốn quốc tế. Việc giảm tỷ trọng của dòng chảy ngân hàng đối với các nước mới nổi
39
không chỉ phản ánh sự suy giảm hoạt động ngân hàng toàn cầu sau khủng hoảng,
mà còn là sự suy giảm tài chính trong nước ở các nước này (Obstfeld, 2015). Và sự
gia tăng vay nợ nước ngoài của các tổ chức này được đánh giá là một vấn đề nợ
doanh nghiệp chưa được hiểu rõ (Eichengreen, 2016).
Các nghiên cứu đã cho thấy rằng đòn bẩy doanh nghiệp tại các nước mới nổi
đã gia tăng đáng kể, đặc biệt là trong các lĩnh vực dễ bị tổn thương như: như khí
đốt, dầu mỏ, khai thác mỏ thường nhạy cảm với chu kỳ kinh tế toàn cầu. Sự gia tăng
này dường như cũng đi kèm với sự suy giảm các đặc tính ở các công ty. Trong bối
cảnh đó, một câu hỏi nảy sinh là liệu sự gia tăng tiếp xúc với bên ngoài của các
doanh nghiệp này có khả năng tạo ra những xung động gây mất ổn định tài chính
hay không, đặc biệt là khi đồng đô la tăng giá và NFCs có nợ phải trả bằng chính
đồng tiền này và do vậy, tài sản bằng nội tệ đối mặt với tình trạng xấu đi trên bảng
cân đối kế toán. Các nghiên cứu gần đây đều chỉ ra vấn đề này tiềm ẩn rủi ro cao.
Dữ liệu về phòng ngừa rủi ro tiền tệ cho thấy rằng NFCs đã không phòng ngừa rủi
ro một cách có hệ thống trước sự biến động tiền tệ (Caballero et al., 2019). Ngoài
ra, các nghiên cứu về việc sử dụng tài trợ bằng đô la Mỹ ở các nước mới nổi chỉ ra
những điểm dễ bị tổn thương. Mặc dù rủi ro có thể được hạn chế khi hoạt động vay
ngoại tệ được thúc đẩy bởi động lực tài trợ thương mại và đầu tư trực tiếp. Thế
nhưng, đây cũng là trường hợp khi vay ngoại tệ tài trợ cho các khoản đầu tư tài sản
cố định vào các lĩnh vực có thể giao dịch trong nước, mặc dù trong trường hợp đó,
nguồn vốn bên ngoài NFCs có thể tạo ra sự không khớp về kỳ hạn trên bảng cân đối
kế toán của công ty và làm tăng tính biến động (Converse, 2018). Bên cạnh đó, rủi
ro có thể gia tăng khi vay ngoại tệ tài trợ cho các khoản đầu tư tài sản cố định vào
lĩnh vực phi giao dịch (Department, 2015). Khi việc vay ngoại tệ được sử dụng để
tài trợ cho các khoản đầu tư tài chính trong và ngoài nước và được thúc đẩy bởi các
hoạt động mua và bán thì rủi ro sẽ càng lớn hơn. Thực tế cho thấy, rất khó để ghi
nhận cách thức vay ngoại tệ đang được sử dụng nhất là khi nguồn vốn vay nước
ngoài của các chi nhánh sau đó có thể cho những NFCs vay trực tiếp tại trụ sở
chính, tại các tổ chức tài chính phi ngân hàng hoặc gửi tiền vào một ngân hàng
40
trong nước. Một số nghiên cứu khác cũng cho thấy tầm quan trọng của việc NFCs
đang cố gắng tận dụng chênh lệch lãi suất thông qua vay nợ nước ngoài (Bruno &
Shin, 2017; Chui et al., 2014; Serena & Moreno, 2016). Nhìn chung, các nghiên cứu
thừa nhận rằng một phần đáng kể khoản vay ngoại tệ mới của NFCs tại các nước
mới nổi đã được tài trợ cho các hoạt động mua lại tài sản tài chính hoặc gửi vào các
ngân hàng trong nước thay vì đầu tư vào tài sản cố định. Điều này được hỗ trợ bởi
các cơ hội thương mại mang do lãi suất đồng đô la thấp. Do vậy, khi đồng đô la và
lãi suất đồng tiền này tăng có thể dẫn đến tình trạng tháo chạy nhanh chóng đối với
dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác. Kết quả là có thể kéo theo sự bất ổn định tài
chính và nền kinh tế vĩ mô trong nước.
Tóm lại, như những phân tích đã đề cập ở trên, những nghiên cứu gần đây đều
lưu ý về cơ chế truyền dẫn khủng hoảng thông qua vai trò của NFCs khi chúng gia
tăng vay nợ nước ngoài. Ngoài ra, rủi ro tiềm ẩn đến từ các khuôn khổ pháp lý đối
với tình trạng mất khả năng thanh toán, việc giải quyết các khoản nợ xấu (NPL) và
quy định tài chính liên quan có thể khuếch đại cơ chế này.
2.2.2 Đo lường ổn định tài chính
Khái niệm ổn định tài chính mang tính chất định tính và khó có thể định
lượng. Vì vậy để xây dựng mô hình định lượng người ta đo lường mức độ rủi ro
không ổn định của hệ thống tài chính xuất phát từ các rủi ro từ nền kinh tế vĩ mô, thị
trường tài chính và các định chế tài chính.
Dattels và cộng sự (2008) đã tóm tắt một số hướng tiếp cận để đo lường độ
ổn định của hệ thống tài chính. Hướng tiếp cận đầu tiên nhấn mạnh vào sự bất ổn
của yếu tố thị trường. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp đồ thị và kinh tế lượng
để tính toán chỉ số cảnh báo sớm (Early Warning Indicator – EWI) nhằm dự đoán
khủng hoảng của hệ thống ngân hàng, tiền tệ, nợ và thị trường cổ phiếu. Kaminsky,
Lizondo và Reinhart (1998) đã sử dụng hệ thống cảnh báo sớm để dự đóan khủng
41
hoảng tiền tệ. Berg, Borensztein và Pattillo (2004) đã phát triển những mô hình
khác nhau để dự đóan khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng cán cân thanh toán.
Một nghiên cứu mới hơn là nghiên cứu của Aspachs và công sự năm 2006 đã
phát triển một mô hình tính toán để dự đóan khủng hoảng tài chính cho 07 quốc gia
(Phần Lan, Đức, Nhật, Hàn Quốc, Na Uy, Thụy Điển và Anh) với số liệu tính toán
từ năm 1990 đến năm 2004 và việc đánh giá chủ yếu dựa trên xác suất rủi ro của hệ
thống ngân hàng. Hạn chế của hướng tiếp cận này chỉ tập trung vào việc giải thích
thời điểm xảy ra khủng hoảng và các nguyên nhân có thể gây nên khủng hoảng
trong khi không phản ánh tình trạng của hệ thống tài chính trong suốt thời gian
chưa/ không khủng hoảng.
Một hướng nghiên cứu khác sử dụng tổ hợp các chỉ số theo chuỗi thời gian
để đo lường khái niệm rộng hơn của ổn định hệ thống tài chính. Fell và Schinasi
(2005) đã chi tiết hóa các chỉ số được sử dụng để đo lường sự ổn định của hệ thống
tài chính. Nghiên cứu đã đưa ra một số ví dụ về tổ hợp các chỉ số. Illing và Liu
(2003) đã thiết lập chỉ số bất ổn tài chính (FSI – Financial Stress Index) cho Canada
bao gồm đánh giá các yếu tố hệ thống ngân hàng, tỷ giá, thị trường cổ phiếu và thị
trường trái phiếu. Nghiên cứu đã đưa ra mô hình và phương pháp tính toán FSI phù
hợp nhất với Canada dựa trên một loạt các yếu tố từ hệ thống tài chính và so sánh
kết quả với thực tế từ năm 1980 đến 2001. Balakrishman và ctg (2009) đã xây dựng
chỉ số bất ổn tài chính dành riêng cho các quốc gia mới nổi (EM-FSI) bao gồm 5 hệ
số: hệ thống ngân hàng (bêta ngân hàng), thị trường cổ phiếu (biến động giá và lợi
nhuận cổ phiếu), thị trường trái phiếu (chênh lệch lãi suất trái phiếu phát hành quốc
tế) và tỷ giá (biến động của tỷ giá thực, thay đổi dự trữ ngoại hối). Chỉ số được áp
dụng cho 26 quốc gia với số liệu tính toán từ năm 1997 đến 2009. So sánh với kết
quả thực tế, chỉ số giải thích tương đối chính xác các biến động tài chính trong quá
khứ tại các quốc gia. Van den End (2006) đã xây dựng chỉ số điều kiện ổn định tài
chính (FSCI – Financial Stability Conditions Index) bao gồm hầu hết các yếu tố của
hệ thống tài chính như lãi suất, tỷ giá, hệ thống ngân hàng (bêta và tỷ lệ nợ xấu), thị
trường bất động sản (biến động giá bất động sản), thị trường cổ phiếu (biến động
42
giá cổ phiếu), thị trường trái phiếu (chênh lệch lãi suất trái phiếu) cho Hà Lan và 6
nước OECD; so sánh kết quả với thực tế từ năm 1989 đến 2005. Nghiên cứu còn
xây dựng ngưỡng giới hạn (giới hạn trên và giới hạn dưới) để cảnh báo khủng
hoảng cho chỉ số này. Hadad và ctg (2007) đã xây dựng chỉ số ổn định tài chính sử
dụng Indonesia làm điển hình, tập trung vào hệ thống ngân hàng và thị trường cổ
phiếu, trái phiếu. Hạn chế của các nghiên cứu này là chỉ xây dựng chỉ số FSI cho
một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia cụ thể và công thức tính chỉ số FSI có thể
chưa phù hợp với các quốc gia đang phát triển, nơi hệ thống tài chính chưa phát
triển hoàn chỉnh mà tập trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng trung ương các nước đều nhận thức tầm quan trọng của ổn định
hệ thống tài chính là điều kiện cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô do sự gắn kết chặt
chẽ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và ổn định hệ thống tài chính. Họ đã quan tâm và cố
gắng xây dựng hệ thống giám sát về ổn định tài chính cho quốc gia. Họ thường
xuyên xuất bản tạp chí báo cáo về sự ổn định tài chính (FSRs – Financial Stability
Reviews) và thực hiện các nghiên cứu đánh giá rủi ro của hệ thống tài chính. Cihak
(2006) cung cấp một nghiên cứu thống kê các báo cáo ổn định tài chính và chỉ số
liên quan.
IMF (2007) đã giới thiệu Bản đồ ổn định hệ thống tài chính toàn cầu (Global
Financial Stability Map) để theo dõi mức độ ổn định tài chính trên thế giới dựa trên
tổng hợp các yếu tố đa phương. Bản đồ diễn giải các rủi ro và yếu tố ảnh hưởng đến
sự ổn định tài chính dưới hình thức đồ thị. Cervantes và ctg (2014) đã đưa ra Bản đồ
ổn định tài chính quốc gia cung cấp một cách hệ thống các bằng chứng thực nghiệm
về đánh giá rủi ro tài chính vĩ mô cho các quốc gia thành viên IMF để phản ánh
mức độ ổn định tài chính dưới góc độ toàn cầu. Bản đồ xác định 4 yếu tố rủi ro tác
động đến ổn định tài chính: rủi ro kinh tế vĩ mô, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và
rủi ro thanh khoản cũng như điều kiện chính sách tiền tệ - tài chính, thái độ với rủi
ro và khả năng lan truyền rủi ro.
43
Một hướng tiếp cận khác đo lường sự ổn định tài chính dưới góc độ vi mô
thông qua việc đánh giá sự ổn định của các ngân hàng trong hệ thống. Rất nhiều
nghiên cứu theo hướng này đã sử dụng chỉ số Z-score đại diện cho sự ổn định tài
chính (financial stability - FS) như các nghiên cứu trước khủng hoảng tài chính toàn
cầu của Boy & Runkle (1993), Mercieca at al (2007), Laeven & Lavine (2009),
Demirguc & Huizinga (2010) và sau khủng hoảng như nghiên cứu của Fu et al
(2014) Fiordelisi & Mare (2014). Nghiên cứu của Chiaramonte et al (2016) thu thập
số liệu của các ngân hàng thương mại Mỹ từ năm 2004 đến 2012 cho thấy chỉ số Z-
score có thể dự báo chính xác 76% rủi ro mất khả năng thanh toán (insolvency risk)
ngân hàng và được xem như một chỉ số đặc biệt thể hiện rủi ro của ngân hàng cũng
như của hệ thống tài chính. Việc đánh giá mức độ ổn định tài chính thông qua chỉ số
Z-score phù hợp với các quốc gia mà hệ thống tài chính tập trung chủ yếu vào hệ
thống ngân hàng như các nước đang phát triển hay các nước ASEAN.
2.2.3 Các bằng chứng thực nghiệm về tác động của dòng vốn quốc tế đến
ổn định tài chính
Shin (2012) phân biệt hai giai đoạn của dòng vốn quốc tế. Giai đoạn 1 bắt
đầu từ năm 2003 cho đến khủng hoảng tài chính năm 2008: giai đoạn dòng vốn
quốc tế đặc biệt là dòng vốn gián tiếp quốc tế tăng lên mạnh mẽ thông qua hệ thống
ngân hàng và thị trường chứng khoán. Giai đoạn 2 bắt đầu từ năm 2010, khi thị
trường trái phiếu, đặc biệt thị trường trái phiếu tại các quốc gia mới nổi mở cửa và
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài dẫn đến giá trái phiếu tăng, lợi nhuận trái phiếu
giảm và ảnh hưởng đến lãi suất giảm ở các nền kinh tế. Theo đó, dòng vốn vào lớn
thường gây nên sự bùng nổ tín dụng và làm suy giảm chất lượng tín dụng. Ngoài ra,
chúng thường góp phần thổi bùng giá tài sản tài chính và bất động sản, gây ra hiệu
ứng của cải đối với nền kinh tế (Reinhart & Reinhart, 2009). Rủi ro của sự phân bổ
sai lệch dòng vốn nước ngoài rất quan trọng, đặc biệt khi thị trường tài chính trong
nước chưa phát triển và không được điều tiết tốt. Ngay cả ở các nước phát triển,
điều này vẫn xảy ra. Nghiên cứu của Furceri et al. (2011) chỉ ra rằng 60% trong số
268 trường hợp quốc gia đối mặt với dòng vốn vào lớn đã kết thúc bởi những “cú
44
dừng” đột ngột, khoảng 1/10 kết thúc với một cuộc khủng hoảng ngân hàng hoặc là
khủng hoảng tiền tệ. Do vậy, trong những trường hợp này, các chính sách vĩ mô và
chính sách cơ cấu có thể hỗ trợ cho các cải cách tài chính và củng cố niềm tin nhằm
hạn chế các tổn thương này có thể xảy ra.
Mặt khác, đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến việc phân tách tác động của từng
loại dòng vốn quốc tế khác nhau để tìm hiểu tác động riêng biệt của chúng, nhất là
đối với thị trường các nước mới nổi. Theo đó, phần lớn các nghiên cứu cho thấy tầm
quan trọng của đầu tư trực tiếp đến tăng trưởng của nền kinh tế và ủng hộ quan
điểm về sự dịch chuyển tự do của dòng vốn quốc tế. Kết quả nghiên cứu của Alfaro
et al. (2010) và Borensztein et al. (1998) đều nhận thấy rằng dòng vốn trực tiếp
đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế khi nước tiếp nhận đầu tư đáp ứng một
ngưỡng nhất định về phát triển nguồn nhân lực cũng như tiềm lực tài chính. Trước
đó, Bekaert et al. (2001) đã chỉ ra rằng tự do hóa thị trường vốn mang lại tác động
tích cực đáng kể đến sự tăng trưởng, điều này sẽ có ý nghĩa lớn hơn đối với các
quốc gia đáp ứng đủ nguồn nhân lực với khu vực nhà nước không chiếm vị thế quá
lớn và theo chuẩn mực của hệ thống pháp luật Anglo-Saxon. Các nghiên cứu khác
thể hiện lợi ích gián tiếp từ dòng vốn quốc tế. Levine (2001) khẳng định rằng tự do
hóa dòng vốn đầu tư gián tiếp làm tăng tính thanh khoản của thị trường chứng
khoán, từ đó thúc đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, tác giả còn phát
hiện rằng sự hiện diện nhiều hơn của các ngân hàng nước ngoài sẽ kích thích tính
hiệu quả của hệ thống ngân hàng trong nước và do vậy, góp phần phát triển kinh tế.
Trong khi đó, một số bằng chứng thực nghiệm lại cho thấy dòng vốn gián tiếp mà
đặc biệt là từ vay nợ là yếu tố dự báo mạnh mẽ về khả năng xảy ra các cuộc khủng
hoảng so với nguồn đầu tư trực tiếp đối với các nước đang phát triển (Ghosh et al.,
2015; Gourinchas & Obstfeld, 2012) và một trong số những chỉ báo quan trọng là tỷ
lệ giữa nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại hối (Berg & Pattillo, 1999; Blanchard et al.,
2010).
Bên cạnh đó, các nghiên cứu tiến hành điều tra về mối quan hệ giữa các loại
hình dòng vốn quốc tế và sự bùng nổ tín dụng cũng như sự tăng giá tiền tệ. Đối với
45
ảnh hưởng đến giá trị nội tệ, kết quả thực nghiệm dường như chưa có sự nhất quán.
Trong khi Combes et al. (2012) nhận thấy rằng dòng vốn gián tiếp dẫn đến sự tăng
giá thực tế của đồng nội tệ nhiều hơn so với dòng vốn trực tiếp, Saborowski (2009)
chứng minh điều ngược lại khi tìm thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa dòng vốn trực tiếp
và sự lên giá của đồng tiền trong nước mặc dù tác động này mất đi ở các nước có hệ
thống tài chính phát triển. Về bùng nổ tín dụng, kết quả thể hiện tương đối thống
nhất hơn. Cụ thể, Calderón & Kubota (2012) cho thấy khả năng bùng nổ tín dụng,
đặc biệt là những dòng vốn ở giai đoạn kết thúc khủng hoảng, cao hơn đáng kể nếu
sự bùng nổ này được thúc đẩy bởi các dòng vốn đầu tư khác (other investment) -
danh mục chủ yếu bao gồm các dòng vốn ngân hàng - và ở một mức độ thấp hơn
nếu từ dòng vốn đầu tư chứng khoán (portfolio investment). Tương tự, Furceri et al.
(2012) và Igan & Tan (2017) tìm thấy tác động lớn tạo nên tăng trưởng tín dụng
trong nước bắt nguồn từ dòng vốn nợ hơn là dòng vốn đầu tư chứng khoán hoặc đầu
tư trực tiếp.
Như nghiên cứu của Bruno & Shin (2014) đã chỉ ra rằng dòng vốn có xu
hướng liên quan đến sự tích tụ đòn bẩy trong lĩnh vực ngân hàng. Và do đó, dòng
vốn quốc tế không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế vĩ mô như áp lực lạm phát,
tăng trưởng nóng, lo ngại về khả năng cạnh tranh, xuất khẩu Blanchard et al. (2016),
mà còn có thể gây nên rủi ro về sự ổn định tài chính. Một phần lý do đến từ khả
năng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng trong nước. Ngoài ra, chính sự dễ dàng tiếp cận
với nguồn vốn sẵn có từ bên ngoài này sẽ khiến các ngân hàng trong nước nới lỏng
các tiêu chuẩn cho vay, làm giảm chất lượng khoản vay, thúc đẩy nhanh sự tăng giá
tài sản và sau cùng là đối mặt với nguy cơ tăng trưởng không bền vững. Một khi sự
gia tăng cho vay bằng ngoại tệ đối với những người đi vay thuộc khu vực tư nhân là
đáng kể, việc đảo chiều đột ngột của dòng vốn có thể gây nên sự bất ổn đối với hệ
thống tài chính (Dell’Ariccia et al., 2012; Elekdag & Wu, 2013). Kết quả từ mô
hình thực nghiệm của Ghosh (2016) đã phần nào làm sáng tỏ những vấn đề trên.
Dựa trên bộ mẫu của 53 quốc gia thuộc thị trường mới nổi giai đoạn 1980- 2013,
phát hiện của tác giả đã cho thấy: (i) về mặt tổng thể, dòng vốn quốc tế nói chung
46
dẫn đến mất cân đối kinh tế vĩ mô và gây nên bất ổn tài chính cũng như khả năng
xảy ra khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ; (ii) trong các loại dòng vốn quốc tế, dòng
vốn gián tiếp và dòng vốn khác tạo nên nguy cơ rủi ro hơn dòng vốn trực tiếp; (iii)
việc định giá tiền tệ quá cao và mở rộng tín dụng trong nước là hai kênh chính yếu
mà thông qua đó các dòng vốn bên ngoài có thể kích hoạt một cuộc khủng hoảng tài
chính. Những phát hiện này phù hợp với cơ sở lý thuyết đã được phân tích ở nội
dung trước. Một số nghiên cứu gần đây nhấn mạnh vào ảnh hưởng của dòng vốn
gián tiếp đến thị trường chứng khoán (Derbali & Lamouchi, 2020), thị trường trái
phiếu và tỷ giá (Anggitawati & Ekaputra, 2020).
Việc tìm hiểu nguyên nhân và động lực đằng sau sự bất ổn tài chính mà đặc
biệt là hệ thống ngân hàng đã thu hút khá nhiều nghiên cứu thực nghiệm dưới
những góc độ khác nhau:
Các nghiên cứu tập trung tìm hiểu nguyên nhân bất ổn hệ thống ngân hàng
xuất phát từ vấn đề về quản trị (Anginer, Demirguc-Kunt, et al., 2018); sự suy yếu
của quy định (Cabrera et al., 2018); tổ chức giám sát (Shaddady & Moore, 2019);
vấn đề thanh khoản (Acharya & Mora, 2015); mức độ an toàn vốn (Anginer,
Demirguc-Kunt, et al., 2018); hiệu quả hoạt động, vấn đề tập trung ngân hàng và
cạnh tranh (Schaeck & Cihák, 2014; Vives, 2019); và thời gian gần đây là đổi mới
công nghệ (Uddin, Mollah, et al., 2020), rủi ro an ninh mạng (Uddin, Ali, et al.,
2020). Một số nghiên cứu khác đi vào tìm hiểu tác động lan tỏa từ sự không chắc
chắn của chính sách kinh tế (economic policy uncertainty – EPU) đối với sự ổn định
tài chính. Sử dụng dữ liệu của 23 quốc gia trong giai đoạn từ 1996 đến 2016, Phan
et al. (2021) tìm thấy bằng chứng thực nghiệm về tác động tiêu cực của chính sách
kinh tế không chắc chắn đối với sự ổn định tài chính, đặc biệt là ở các quốc gia có
mức độ cạnh tranh cao hơn, yêu cầu vốn thấp và hệ thống tài chính kém phát triển.
Tuy vậy, nghiên cứu của Li and Zhong (2020) chứng minh rằng chỉ số lan tỏa từ tác
động của EPU toàn cầu đối với chỉ số điều kiện tài chính của Trung Quốc (China's
financial conditions index – CFCI) tập trung chủ yếu ở các giai đoạn khủng hoảng,
nhưng hầu như không đáng kể đối với các giai đoạn bình thường
47
Nhiều nghiên cứu tập trung vào điều tra khía cạnh rủi ro tín dụng và rủi ro
thanh khoản dẫn đến sự bất ổn tài chính trong lĩnh vực ngân hàng. Ví dụ, dựa trên
bộ mẫu dữ liệu các ngân hàng thương mại Hoa Kỳ trong giai đoạn 1998–2010, kết
quả thực nghiệm của Imbierowicz & Rauch (2014) cho thấy rủi ro tín dụng và rủi ro
thanh khoản có ảnh hưởng đến xác suất vỡ nợ của các ngân hàng. Ngoài ra, bằng
chứng thực nghiệm của Banerjee & Mio (2018) thể hiện rằng các quy định liên
quan đến thắt chặt thanh khoản không có khả năng ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng
của các ngân hàng, ít nhất là đối với hệ thống ngân hàng Vương quốc Anh. Qua đó,
các chính sách hỗ trợ thanh khoản từ chính phủ trong một cuộc khủng hoảng sẽ
không giúp ích cho ngân hàng nếu như ngân hàng đó đã gặp vấn đề về khả năng
thanh toán (Boyson et al., 2014). Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu đồng thuận về
rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản chủ yếu ảnh hưởng đến lành mạnh về tài chính
của các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung (Acharya et al., 2011;
Acharya & Mora, 2015).
Một hướng nghiên cứu khác tập trung vào năng lực vốn và sự ổn định của các
ngân hàng. Nghiên cứu thực nghiệm của Berger & Bouwman (2013) cho kết quả
rằng năng lực vốn góp phần đảm bảo cho sự sống sót và thị phần của các ngân hàng
nhỏ bất kể trong giai đoạn khủng hoảng ngân hàng, khủng hoảng thị trường hay là
thời điểm bình thường. Bên cạnh đó, năng lực vốn cũng nâng cao hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng vừa và lớn nhưng chủ yếu trong giai đoạn khủng hoảng
ngân hàng. Tuy nhiên, bằng chứng thực nghiệm của Allen et al. (2011) cho thấy
việc các ngân hàng nắm giữ vốn vượt quá mức quy định tối thiểu sẽ không tạo điều
kiện ngăn chặn được cuộc khủng hoảng tài chính. Ngoài ra, kỷ luật thị trường là
một trong những động lực thúc đẩy các ngân hàng tích cực nắm giữ vốn. Mặc dù
chưa có sự thống nhất rằng vấn đề cấu trúc vốn thích hợp cho sự ổn định, nhìn
chung các nghiên cứu đều thừa nhận rằng tỷ lệ an toàn vốn cao hơn sẽ đóng vai trò
giảm thiểu rủi ro hệ thống và do đó thúc đẩy sự ổn định các ngân hàng (Anginer,
Demirgüç-Kunt, et al., 2018; Laeven et al., 2016).
48
DellʼAriccia et al. (2014) cảnh báo rằng mức độ sử dụng đòn bẩy sẽ ảnh hưởng đến
động cơ chấp nhận rủi ro của các ngân hàng và xác định khả năng chịu đựng trước
những cú sốc về kinh tế. Do vậy, những năm qua đã có nhiều đề xuất về việc áp đặt
các quy tắc kiểm soát mức vốn trong các ngân hàng để đảm bảo sự ổn định chung
của hệ thống tài chính. Tuy vậy, kết quả đạt được không phải lúc nào cũng tích cực
khi các cơ quan quản lý điều chỉnh yêu cầu vốn đối với ngân hàng. Thật vậy, bằng
cách sử dụng quy trình ước tính hai bước (the two-step estimation) và kiểm soát các
yếu tố khác như: rủi ro, thành phần tài sản,…, nghiên cứu gần đây của de Bandt et
al. (2018) đã thể hiện vốn tự nguyện, tức là vốn do các ngân hàng nắm giữ bất kể
các yêu cầu quy định, là thành phần duy nhất của vốn ảnh hưởng tích cực đến hiệu
quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ngược lại, ảnh hưởng của vốn điều tiết
đến khả năng sinh lời của các ngân hàng dường như không đáng kể. Điều này cho
thấy sự gia tăng yêu cầu về vốn không gây phương hại đến lợi nhuận của ngân
hàng, ít nhất là các ngân hàng tại Pháp.
Trên cơ sở đó, một hướng nghiên cứu liên quan đến ổn định tài chính khám
phá liệu sự yếu kém trong quản trị và quy định có đóng vai trò trong chấp nhận rủi
ro và sự ổn định của các ngân hàng hay không. Nhìn chung bằng chứng thực
nghiệm ghi nhận những kết quả trái chiều nhau. Dựa trên bộ dữ liệu bảng với 2.210
ngân hàng trên 47 quốc gia tại Châu Âu trong giai đoạn 2000 – 2016, kết quả thực
nghiệm gần đây của Shaddady & Moore (2019) chỉ ra rằng mặc dù quy định yêu
cầu về vốn lớn hơn có liên quan tích cực đến sự ổn định của ngân hàng, tuy nhiên
các hạn chế nghiêm ngặt hơn, quy định về bảo hiểm tiền gửi và gia tăng giám sát
dường như có tác động tiêu cực đến sự ổn định của ngân hàng. Kết quả cũng cho
thấy các ngân hàng nhỏ hơn và ngân hàng ở các nước mới nổi tương đối nhạy cảm
hơn với các cú sốc từ những quy định này. Trong khi đó, khai thác sự khác biệt của
tư cách thành viên giữa các ngân hàng trong chương trình tái cấu trúc nợ doanh
nghiệp (corporate debt restructuring programme) ở Ấn Độ, Ahamed & Mallick,
(2017) phát hiện ra rằng các ngân hàng tuân thủ lệnh cấm theo quy định đối với các
khoản vay doanh nghiệp được tái cấu trúc có thể tăng tính ổn định đáng kể do việc
49
gia hạn trích lập dự phòng thấp đối với các khoản cho vay cơ cấu lại. Tuy nhiên, tác
động tích cực của việc này giảm dần ở các ngân hàng chiếm thị phần lớn. Điều đó
cho thấy những ngân hàng này có xu hướng tạo ra các tài sản rủi ro hơn dưới sự bảo
trợ của chương trình tái cấu trúc nợ.
Tiếp theo, các nghiên cứu nhấn mạnh vào sự tập trung ngân hàng (bank
concentration) và sự cạnh tranh tác động đến mức độ chấp nhận rủi ro của các ngân
hàng và sự ổn định tài chính. Một lần nữa, các phát hiện thể hiện sự không nhất
quán giữa các quốc gia. Thật vậy, một số nghiên cứu nhìn chung cho thấy cạnh
tranh góp phần cải thiện sự ổn định của ngân hàng ở Hoa Kỳ, Cộng đồng các quốc
gia độc lập (the Commonwealth of Independent States - CIS) và 14 quốc gia Châu
Á - Thái Bình Dương (Clark et al., 2018; Fu et al., 2014; Goetz, 2018). Trong khi
đó, các nghiên cứu khác cho thấy rằng, gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng tiêu cực đến
sự ổn định ngân hàng ở các nước Trung Đông và Bắc Phi (the Middle East and
North African - MENA) và các nền kinh tế khác nơi cả ngân hàng Hồi giáo và ngân
hàng truyền thống hoạt động cùng nhau ( Albaity et al., 2019; Azmi et al., 2019).
Ngoài ra, gần đây đã có những lời cảnh báo về sự phát triển công nghệ và
cùng với đó là sự xuất hiện của đội ngũ công ty công nghệ (fintech) với khả năng
cung cấp các sản phẩm dịch vụ cũng như tiện ích tối ưu hơn, đã và đang tác động
đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Theo đó, ngân hàng không có sự lựa chọn nào
ngoài việc hoặc gia tăng đầu tư vào công nghệ và bất chấp các khoản đầu tư này có
đem lại hiệu quả hay không, hoặc hợp tác với các công ty fintech và chấp nhận
giảm thị phần (Uddin, Ali, et al., 2020; Vives, 2019). Bằng chứng thực nghiệm của
Uddin, Mollah, et al. (2020) chỉ ra rằng mặc dù đầu tư vào công nghệ có tác động
tích cực đến sự ổn định ngân hàng tuy nhiên khi đạt đến một ngưỡng nhất định sẽ
ảnh hưởng xấu đến sự ổn định này. Trong khi đó phát hiện của Nguyễn Đức Trung
& ctg (2021) lại không tìm thấy bằng chứng về sự bất ổn tài chính và gia tăng đầu
tư công nghệ tại thị trường Việt Nam.
50
Đối với nghiên cứu trong nước, hầu hết các nghiên cứu tập trung đánh giá tác
động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đến sự tăng trưởng của nền kinh tế
tiêu biểu là nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh & ctg (2006). Một số nghiên cứu
đề cập đến tác động của dòng vốn đầu tư gián tiếp đến nền kinh tế vĩ mô của Việt
Nam như nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thanh (2015) và Hạ Thị Thiều Dao
(2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu này mang tính chất định tính, chưa đo lường
định lượng tác động của dòng vốn quốc tế đến hệ thống tài chính Việt Nam.
Nhìn chung, dựa vào cơ sở lý thuyết, các nghiên cứu liên quan và các bằng
chứng thực nghiệm, dòng vốn quốc tế có thể tác động đến ổn định tài chính theo hai
hướng khác nhau tích cực hoặc tiêu cực. Một mặt, dòng vốn quốc tế giúp phân bổ
nguồn vốn hiệu quả và góp phần phát triển hệ thống tài chính. Mặt khác, dòng vốn
quốc tế có thể dẫn đến mất cân đối kinh tế vĩ mô và gây nên bất ổn tài chính cũng
như khả năng xảy ra khủng hoảng ngân hàng và tiền tệ. Trong các loại dòng vốn
quốc tế, dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác tạo nên nguy cơ rủi ro hơn dòng vốn
trực tiếp. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc định giá tài sản quá cao và mở rộng tín
dụng trong nước là hai kênh chính yếu mà thông qua đó các dòng vốn bên ngoài có
thể kích hoạt một cuộc khủng hoảng tài chính. Tác động của dòng vốn quốc tế đến
hệ thống tài chính trong nước có thể được phản ánh thông qua bảng cân đối kế toán
của các ngân hàng. Xu hướng nghiên cứu thực nghiệm gần đây tập trung vào vai trò
của hệ thống ngân hàng như là nguyên nhân chính gây nên bất ổn tài chính. Theo
đó, các yếu tố như quản trị ngân hàng, các quy định chính sách, tổ chức giám sát,
mức độ an toàn vốn, hiệu quả hoạt động, vấn đề tập trung ngân hàng và cạnh tranh,
đổi mới công nghệ và rủi ro an ninh mạng, rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản có
ảnh hưởng đến sự ổn định của các ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói
chung.
51
Bảng 2.1: Tổng hợp lược khảo các nghiên cứu về dòng vốn quốc tế và ổn định
tài chính
Tác Thời Biế Các M Kết quả
giả gian và n phụ biến độc ô hình nghiên cứu
khu vực thuộc lập
nghiên cứu
Levin 15 Tha Tự do V Tự do hóa dòng
e (2001) quốc gia từ nh khoản hóa dòng AR vốn quốc tế giúp
năm 1980- thị trường vốn quốc tế tăng tính thanh
1993 chứng khoản của thị trường
khoán, chứng khoán. Thanh
tăng khoản thị trường
trưởng chứng khoán giúp
năng suất tăng trưởng năng
suất và tăng trưởng
kinh tế.
Reinh 181 Dòn Giá cả Lo Các yếu tố toàn
art & quốc gia g vốn hàng hóa, gistic cầu như lạm phát, lãi
Reinhart phát triển quốc tế lãi suất, tăng model suất quốc tế, tăng
(2009) và đang vào các trưởng trưởng GDP thế giới
phát triển nền kinh GDP, tỷ giá có ảnh hưởng đến
từ năm tế mới dòng vốn quốc tế ở
1980-2007 nổi cả các quốc gia phát
và nhóm (capital triển và đang phát
66 quốc gia flow triển. Dòng vốn quốc
từ năm bonanzas) tế làm gia tăng khả
1960-2007 năng khủng hoảng
kinh tế
52
Sun 5 Dự Thanh FE Thanh khoản
(2015) quốc gia trữ ngoại khoản toàn M toàn cầu có tác động
ASEAN( hối, tiền cầu (global làm tăng dự trữ
Thái Lan, vay và liquidity), ngoại hối, tăng tỷ lệ
Singapore, gửi nước kinh tế vĩ tiền vay và gửi nước
Indonesia, ngoài, chỉ mô trong ngoài, tăng bất ổn tài
Malaysia, số căng nước (GDP, chính
Philippines) thẳng tài tỷ giá, lạm
từ năm chính phát, M2)
2003 -2015 (Financail
Stress
Index)
Gosh 53 Tỷ Dòng OL Dòng vốn quốc
(2016) nước mới giá thực, vốn trực S, FEM tế nói chung dẫn đến
nổi từ năm tăng tiếp, gián mất cân đối kinh tế
1980-2013 trưởng tiếp và dòng vĩ mô và gây nên bất
GDP thực vốn khác. ổn tài chính cũng
Real GDP, như khả năng xảy ra
chế độ tỷ khủng hoảng ngân
giá, độ mở hàng và tiền tệ.
thương mại, Trong các loại dòng
GDP cap vốn quốc tế, dòng
vốn gián tiếp và
dòng vốn khác tạo
nên nguy cơ rủi ro
hơn dòng vốn trực
tiếp. Việc định giá
tiền tệ quá cao và mở
rộng tín dụng trong
53
nước là hai kênh
chính yếu mà thông
qua đó các dòng vốn
bên ngoài có thể kích
hoạt một cuộc khủng
hoảng tài chính.
Demi 80 Hiệ Thị OL Sự xuất hiện
rgüç-Kunt quốc gia từ u quả của phần của S của ngân hàng nước
et al. năm 1988- ngân ngân hàng ngoài làm tăng hiệu
quả của hệ thống (1998) 1995 hàng nước ngoài,
ngân hàng trong trong biến vĩ mô
nước nước (GDP, Lạm
phát, lãi
suất) và biến
đặc điểm
ngân hàng
(tổng tài
sản, tỷ lệ
khách hàng,
tỷ lệ vốn
ngắn hạn)
Houst 2.400 Ổn Quyền OL Quyền của chủ
on et ngân hàng định ngân của chủ nợ S nớ và mức độ chia sẻ
al.(2010) thương mại hàng (Z- (creditor thông tin đều ảnh
tại 69 quốc score) right) hưởng tích cực đến và
gia từ năm sự ổn định ngân sẻ chia
1986-2006 hàng tin thông
(Information
sharing)
54
Christ 16 Biế Tổng SU Dòng vốn quốc
opher et al. quốc gia n đại diện dòng vốn R model tế tác động mạnh đến
(2017) mới nổi từ cho ổn trực tiếp, ổn định tài chính
năm 1989- định tài gián tiếp và nhưng kết quả là hỗn
2011 chính: tỷ dòng vốn hợp. Dòng vốn trực
lệ tiền gửi khác cùng tiếp có tác động tăng
và cho các biến ổn định tài chính và
vay trong kiểm soát vĩ dòng vốn khác có tác
nước, lãi mô (Real động giảm ổn định
suất biên GDP, tỷ giá, tài chính. Kết quả
của ngân tỷ lệ xuất cũng không đồng
hàng, tỷ khẩu ròng, nhất giữa các quốc
lệ nợ xấu, lạm phát) gia và đặc điểm kinh
tỷ lệ tế và tài chính mỗi
thanh quốc gia giải thích
khoản sự khác biệt này.
Elekd 60 Bùn Yều tố Str Yếu tố toàn cầu
ag & Wu, nền kinh tế g nổ tín toàn cầu uctual như dòng vốn quốc
2013 mới nổi từ dụng (tỷ (Dòng vốn model tế có mối quan hệ
năm 1960- lệ tăng quốc tế, lãi đồng biến với tăng
2010 trưởng tín suất quốc tế, trưởng tín dụng
dụng, tỷ tỷ giá), yếu trong khi tỷ giá
lệ nợ xấu, tố trong không có mối liên
nước (GDP, quan chặt chẽ. Yếu
lạm phát, tố trong nước, đăc
cầu tiêu biệt là chính sách
dùng) tiền tệ có mối quan
hệ chặt chẽ với tăng
trưởng tín dụng ở
55
các nền kinh tế mới
nổi.
Laeve 1721 Rủi Quy OL Rủi ro hệ thống
n et al., định chế tài ro hệ mô tổng tài S tỷ lệ thuận với Quy
2015 chính của thống sản, tỷ lệ mô ngân hàng và tỷ
nhiều quốc (CoVaR vốn chủ sở lệ nnghịch với Vốn
gia từ and hữu, tỷ lệ ngân hàng.
12/2006- SRISK) huy động và
12/2008 cho vay,
GDP per
capita
Fazio 5.458 Ổn Chính OL Ổn định tài
&ctg, 2017 ngân hàng định tài sách lạm S, FEM chính và chính sách
thương mại chính (Z- phát mục lạm phát mục tiêu có
tại 66 quốc score) tiêu và biến quan hệ tỷ lệ nghịch
theo hình chữ U gia từ năm kiểm soát vĩ
1998-2014 mô (GDP,
lạm phát),
biến đặc
điểm ngân
hàng (quy
mô, tỷ lệ
vốn chủ sở
hữu, tỳ lệ
thanh
khoản)
Ashra Các Rủi Thể OL Thể chế chính
f, 2017 NHTM từ ro của chế chính S trị tốt hơn làm tăng
56
98 quốc gia ngân trị, biến hành vi chấp nhận
từ năm hàng (Z- kiểm soát vĩ rủi ro ở các ngân
1998-2007 score) hàng mô, biến
đặc điểm
ngành, biến
đặc điểm
ngân hàng
Berge 8235 Ổn Cấu G Ngân hàng với
r et al., NHTM từ định tài trúc thị MM sức mạnh thị trường
2017 23 quốc gia chính: Z- trường, đặc lớn làm giảm rủi ro
từ năm score, điểm ngân bất ổn tài chính (Z-
1999-2005 NPL, tỷ hàng, môi score) nhưng làm
lệ vốn trường kinh tăng rủi ro cho vay
sở doanh chủ (NPL). Rủi ro NPL
hữu có thể được bù trừ
bởi tỷ lệ vốn chủ sở
hữu cao.
Phan 914 Ổn EPU OL EPU làm giảm
et al. ngân hàng định tài Index, biến S, FEM sự ổn định tài chính
(2021) thương mại chính (Z- kiểm soát vĩ được đo lường bởi
từ năm score) mô (GDP, Z-score
1996-2016 lạm phát,
tập trung
ngân hàng),
biến đặc
điểm ngân
hàng (quy
mô, tỷ lệ
vốn chủ sở
57
hữu, tỷ lệ
vay, cho
lãi biên
ròng)
Perrin 150.0 Ổn Tỷ lệ OL Tăng khả năng
& Weill, 00 người và định tài giới tính, S, FEM tiếp cận tín dụng cho
2021 1.762 chính (Z- biến kiểm phụ nữ là gia tăng ổn
NHTM từ score) soát vĩ mô định tài chính
145 quốc (GDP, lạm
gia trong phát, GDP
các năm capita, tập
2011, trung ngân
2014,và hàng, luật
2017. định) và
biến đặc
điểm ngân
hàng (quy
mô, tỷ lê
cho vay, tỷ
lệ nợ, chi
phí vốn)
Osei- 1401 Rủi Sự RE Có mối liên
Tutu & NHTM từ ro của khác biệt về M quan giữa sự khác
Weill, 2021 81 quốc gia ngân ngôn ngữ biệt ngôn ngữ và rủi
từ năm hàng (Z- (FTR), biến ro ngân hàng: sự
2010-2017 score) kiểm soát vĩ khác biệt ngôn ngữ
mô, biến càng cao thì rủi ro
đặc điểm ngân hàng càng lớn
ngân hàng
58
2.3 Một số nhận xét và khoảng trống nghiên cứu
Từ lược khảo các nghiên cứu và bằng chứng thực nghiệm về dòng vốn quốc tế
bao gồm dòng vốn gián tiếp, dòng vốn trực tiếp, dòng vốn khác và tác động của
chúng đến sự ổn định của hệ thống tài chính, luận án đã tổng hợp các tác động của
dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính dưới các góc độ khác nhau. Một mặt, dòng
vốn quốc tế góp phần gia tăng và phân bổ hiệu quả vốn đầu tư cho nền kinh tế đồng
thời đem lại cơ hội phát triển thị trường tài chính, thu hút các nhà đầu tư để thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và ổn định tài chính. Mặt khác, dòng vốn quốc tế cũng có thể
gây nên sự bùng nổ tín dụng và gia tăng bong bóng giá tài sản tài chính là nguy cơ
dẫn đến phá sản ngân hàng và khủng hoảng tài chính. Theo các nghiên cứu, dòng
vốn trực tiếp có xu hướng ổn định và dài hạn, có tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế và ổn định tài chính. Trong khi đó, dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác có
sự thay đổi và biến động trong ngắn hạn, có thể có tác động tiêu cực đến ổn định tài
chính.Tuy nhiên, mức độ tác động này sẽ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện kinh tế
và mức độ phát triển hệ thống tài chính của từng quốc gia. Kết quả nghiên cứu cũng
cho thấy, dòng vốn quốc tế không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế vĩ mô như tỷ
giá, lạm phát, tăng trưởng mà còn liên quan đến sự tích tụ đòn bẩy trong lĩnh vực
ngân hàng do khả năng thúc đẩy tăng trưởng tín dụng và làm tăng giá tài sản từ đó
có thể gây nên rủi ro về sự ổn định tài chính. Vì vậy, xu hướng nghiên cứu gần đây
đánh giá ổn định tài chính không chỉ dưới góc độ vĩ mô mà còn dưới góc độ vi mô
thông qua việc đánh giá sự ổn định của các ngân hàng trong hệ thống. Kết quả khảo
lược các nghiên cứu cho thấy có những khoảng trống nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính theo hai hướng
khác nhau tích cực và tiêu cực và mức độ tác động có sự khác biệt tùy thuộc vào
đặc điểm của mỗi quốc gia hoặc nhóm các quốc gia, vì vậy cần có thêm bằng chứng
thực nghiệm về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN.
Việc xem xét riêng biệt tác động của từng loại dòng vốn quốc tế bao gồm: trực tiếp,
59
gián tiếp và dòng vốn khác sẽ cung cấp một bức tranh tổng thể cho từng tác động
riêng biệt đến từ các dòng vốn này.
Thứ hai, các nghiên cứu về tác động của dòng vốn quốc tế nói chung thường
tập trung chủ yếu vào ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế và thường dựa
trên dữ liệu vĩ mô các quốc gia nghiên cứu. Xu hướng nghiên cứu gần đây nhấn
mạnh vào vai trò của các ngân hàng là nguyên nhân chính gây bất ổn tài chính. Tuy
nhiên các nghiên cứu này chỉ đánh giá các yếu tố như quản trị ngân hàng, các quy
định chính sách, tổ chức giám sát, mức độ an toàn vốn, hiệu quả hoạt động, vấn đề
tập trung ngân hàng và cạnh tranh, đổi mới công nghệ và rủi ro an ninh mạng, rủi ro
tín dụng và rủi ro thanh khoản ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng mà chưa có nghiên
cứu thực nghiệm đánh giá tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định ngân hàng
cũng như ổn định tài chính. Đây chính là khoảng trống nghiên cứu thứ hai mà luận
án cần quan tâm: đo lường tác động dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính dưới
góc độ vi mô từ các ngân hàng.
Thứ ba, ngoài việc đánh gía tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài
chính, việc xem xét mức độ tác động trong các điều kiện khác nhau như giai đoạn
khủng hoảng và sau khủng hoảng, xem xét theo quy mô ngân hàng sẽ đánh giá sâu
hơn các tác động. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng các biến thay thế biến phụ
thuộc Z-score là tỷ lệ nợ xấu (NPL) và dự phòng rủi ro (LLR) để đo lường mức độ
rủi ro tại các ngân hàng.
Từ các khoảng trống nghiên cứu nêu trên, luận án cần giải quyết ba mục tiêu
chính:
(i) Nhằm đánh giá tác động của dòng vốn quốc tế bao gồm dòng vốn gián
tiếp, dòng vốn trực tiếp và dòng vốn khác đến sự ổn định tài chính
ASEAN trong đó có Việt Nam.
(ii) Nhằm so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng.
60
(iii) Nhằm so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN theo qui mô ngân hàng.
Dựa trên các kết quả nghiên cứu, luận án sẽ đưa ra các hàm ý chính sách và đề
xuất cho các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách trong việc theo dõi và giám
sát hệ thống tài chính, quản lý các dòng vốn quốc tế hướng đến việc phòng ngừa, dự
báo rủi ro nhằm phát triển ổn định tài chính ASEAN trong đó có Việt Nam, góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững trong khu vực.
61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trong chương 2, luận án đã giải thích được các khái niệm và thuật ngữ liên
quan của nghiên cứu. Luận án cũng đã đưa ra cơ sở lý luận và các lý thuyết nền để
giải thích tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính. Trên cơ sở đó, luận
án tiến hành lược khảo các nghiên cứu có liên quan và trình bày một cách hệ thống
và khái quát các nghiên cứu liên quan đến ổn định tài chính và tác động của dòng
vốn quốc tế đến ổn định tài chính. Sau khi phân tích các bằng chứng thực nghiệm
trong quá khứ, luận án xác định được khoảng trống nghiên cứu và xây dựng mục
tiêu nghiên cứu. Đây là những cơ sở cho việc xác lập mô hình nghiên cứu thực
nghiệm sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.
62
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
Dựa trên cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu của chương 2, chương
3 xây dựng giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu thực nghiệm, trình
bày chi tiết ý nghĩa và cách xác định các biến trong mô hình. Chương này
cũng sẽ mô tả dữ liệu nghiên cứu và các biện pháp kiểm định tính bền vững
của mô hình nghiên cứu.
3.1 Quy trình nghiên cứu
Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu đề ra, các bước nghiên cứu
được thực hiện theo sơ đồ sau:
Bước 1: Lựa chọn vấn đề nghiên cứu
Bước 2: Lược khảo tài liệu nghiên cứu
Bước 3: Xác định khoảng trống nghiên cứu
Bước 4: Xác định khung lý thuyết và khung nghiên cứu
Bước 5: Xây dựng câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
Bước 6: Thu thập dữ liệu
Bước 7: Ước lượng mô hình
Bước 8: Thảo luận kết quả và hàm ý chính sách
63
3.2 Xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận án là đánh giá tác động của dòng vốn
quốc tế đến sự ổn định tài chính tại các quốc gia ASEAN.
Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu trên, thông qua kết quả lược khảo
các nghiên cứu liên quan tại chương 2, luận án xác định được khoảng trống
nghiên cứu và đưa ra các mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
Một là, kiểm định và phân tích định lượng tác động của dòng vốn
quốc tế bao gồm dòng vốn gián tiếp, dòng vốn trực tiếp và dòng vốn khác
đến sự ổn định tài chính ASEAN.
Với mục tiêu thứ nhất, câu hỏi nghiên cứu là:
(i) Các dòng vốn quốc tế có tác động như thế nào đến sự ổn định
tài chính ASEAN?
Hai là, so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính ASEAN giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng.
Câu hỏi nghiên cứu của mục tiêu thứ hai là:
(ii) tác động của các dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN khác biệt thế nào trong giai đoạn khủng hoảng và sau khủng
hoảng?
Ba là so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính ASEAN theo qui mô ngân hàng.
Câu hỏi nghiên cứu của mục tiêu thứ ba là:
(iii) Tác động của các dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính
ASEAN khác biệt thế nào theo qui mô ngân hàng?
64
Từ ba câu hỏi nghiên cứu xuất phát từ ba mục tiêu, căn cứ vào cơ sở
lý thuyết và các bằng chứng thực nghiệm về tác động của các loại hình
dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính đã trình bày ở chương 2, luận án
xây dựng bốn giả thuyết nghiên cứu sau:
Thứ nhất, mặc dù dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác làm tăng tính
thanh khoản của thị trường tài chính, giúp phân bổ vốn hiệu quả từ đó thúc
đẩy năng suất và tăng trưởng kinh tế (Levine, 2001), các dòng vốn này
mang tính chất ngắn hạn và dễ thay đổi hơn dòng vốn trực tiếp. Dưới tác
động của các dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác, nhà đầu tư gia tăng đòn
bẩy nợ thông qua hoạt động vay vốn từ các trung gian tài chính, làm gia
tăng bong bóng giá tài sản. Một sự dừng đột ngột hoặc đổi chiều của dòng
vốn gián tiếp và dòng vốn khác có thể gây nên sự bất ổn đối với hệ thống
tài chính trong nước (Dell’Ariccia et al., 2012; Elekdag & Wu, 2013; Gosh,
2016). Vì vậy, luận án xem xét tác động của dòng vốn gián tiếp và dòng
vốn khác đối với ổn định tài chính với Giả thuyết 1.
Giả thuyết nghiên cứu 1 (H1): Dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác làm
suy giảm ổn định tài chính của các quốc gia ASEAN
Thứ hai, dòng vốn trực tiếp thường có xu hướng ổn định và dài hạn
hơn. Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là ngoại lực quan trọng bù đắp
mức độ tiết kiệm thấp của các nước đang phát triển, giúp các quốc gia này
thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói thông qua việc đầu tư nâng cao
công nghệ, kinh nghiệm quản lý và năng suất, phát triển cơ sở hạ tầng xã
hội và phát triển nguồn nhân lực (Salehi, 2005). Bên cạnh đó, dòng vốn FDI
góp phần bổ sung việc thiếu hụt ngoại tệ, cân bằng cán cân thanh toán dựa
trên hoạt động xuất khẩu và di chuyển vốn giúp lành mạnh hóa hệ thống tài
chính (Meier, 1995). Vì vậy, dòng vốn trực tiếp giúp gia tăng ổn định tài
chính tại các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.
Giả thuyết nghiên cứu 2 (H2): Dòng vốn trực tiếp làm gia tăng sự ổn định
tài chính của các quốc gia ASEAN
65
Thứ ba, Calderón & Kubota (2012), Furceri et al. (2012) và Igan &
Tan (2017) cho thấy khả năng bùng nổ tín dụng, đặc biệt là những dòng vốn
ở giai đoạn kết thúc khủng hoảng, cao hơn đáng kể nếu sự bùng nổ này
được thúc đẩy bởi các dòng vốn đầu tư khác (other investment) - danh mục
chủ yếu bao gồm các dòng vốn ngân hàng - và ở một mức độ thấp hơn nếu
từ dòng vốn đầu tư chứng khoán (portfolio investment). Vì vậy, luận án xây
dựng giả thuyết nghiên cứu 3 như sau:
Giả thuyết nghiên cứu 3 (H3): Tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính ASEAN trong giai đoạn sau khủng hoảng mạnh hơn giai
đoạn khủng hoảng.
Thứ tư, về mặt lí thuyết kinh tế theo qui mô, ngân hàng có tổng tài
sản càng lớn thì sẽ ít gặp rủi ro thanh khoản và vì thế mức độ ổn định của
các ngân hàng này cũng sẽ cao hơn (Cihak & Hesse, 2010; Dinger, 2009).
Tuy nhiên, những lập luận gần đây dựa trên thuyết “quá lớn nên khó sụp
đổ” (“Too big to fail”) cho rằng các ngân hàng lớn, do được hưởng những
đảm bảo và lợi thế do qui mô, có thể giảm thiểu chi phí huy động vốn và
mạnh dạn đầu tư vào những tài sản nhiều rủi ro hơn, từ đó gia tăng rủi ro
thanh khoản và ảnh hưởng đến mức ổn định của ngân hàng (Köhler, 2014).
Bên cạnh đó, các ngân hàng có quy mô lớn thường tập trung cho vay ở một
nhóm đối tượng khách hàng lớn như các tập đoàn, tổng công ty… phát sinh
rủi ro tín dụng tiềm ẩn khi các doanh nghiệp này hoạt động không hiệu quả
hoặc bị ảnh hưởng bởi biến động kinh tế. Do đó, luận án đi đến giả thuyết
nghiên cứu 4.
Giả thuyết nghiên cứu 4 (H4): Tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính ASEAN thể hiện rõ hơn ở các ngân hàng lớn so với ngân
hàng nhỏ.
Ngoài ra, luận án còn thực hiện nghiên cứu riêng ở Việt Nam để xem
xét và so sánh các tác động với các nước ASEAN.
3.3 Mô hình nghiên cứu
66
3.3.1 Mô hình
Dựa trên nghiên cứu của Laeven & Levine (2009), Houston & ctg
(2010), Phan & ctg (2021), luận án xác lập mô hình hồi quy đa biến để xem
xét tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính như sau:
𝐹𝑆𝑖𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐼𝑛𝑡 + 𝛽2𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝑀𝑎𝑐𝑟𝑜𝑛𝑡 + 𝛽3𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝐵𝑎𝑛𝑘𝑖𝑡 +
𝜀𝑖𝑛𝑡 (1)
Trong đó i, n và t lần lượt là ngân hàng, quốc gia và năm. 𝐹𝑆
(Financial Stability) là biến phụ thuộc đại diện cho sự ổn định tài chính đo
lường bằng mức độ ổn định của ngân hàng i tại thời điểm t thông qua chỉ số
logarit tự nhiên của Z-score. FI – dòng vốn quốc tế là biến độc lập chính
bao gồm tập hợp các biến dòng vốn quốc tế gián tiếp, trực tiếp và dòng vốn
khác {PORTINVESTR, DIRECTINVESTR, OTHERINVESTR}.
𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝑀𝑎𝑐𝑟𝑜𝑛𝑡 là tập hợp các biến giải thích vĩ mô: lạm phát và tăng
trưởng GDP {GDPGR, IFL, GDPCAP}. 𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝐵𝑎𝑛𝑘𝑖𝑡 là tập hợp các
biến giải thích vi mô (đặc điểm ngân hàng): tổng tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở
hữu, tỷ lệ tiền gửi, tỷ lệ cho vay {SIZE, CAPITAL, DEPOSITSHARE,
LOANSHARE}. Chi tiết diễn giải các biến được thể hiện ở Bảng 3.1.
3.3.2 Đo lường các biến
Biến phụ thuộc: luận án sử dụng logarit tự nhiên của Z-score đại diện
cho sự ổn định tài chính (financial stability - FS) được xem như một chỉ số
đặc biệt thể hiện rủi ro mất khả năng thanh toán (insolvency risk). Bên cạnh
đó, luận án cũng sử dụng tỷ lệ nợ xấu (NPL) và dự phòng rủi ro (LLR) như
là các phương pháp đo lường thay thế.
Chỉ số Z-score được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu về tài chính
- ngân hàng để đo lường sự ổn định tài chính (Laeven & Levine, 2009;
Houston & ctg, 2010; Fazio &ctg, 2017, Phan & ctg, 2021):
(2) Z − scoreit = ROAit + Eit/TAit σROAit
67
Trong đó, tỷ suất sinh lợi trên tài sản bình quân của ngân hàng tại
thời điểm i được chỉ ra bởi ROA. Ngoài ra, Eit/TAit được giải thích là tỷ lệ
tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t. Cuối
cùng, độ lệch chuẩn của lợi tức trên tài sản trung bình của ngân hàng được
biểu thị bằng σROAit. Chỉ số Z-score càng cao thì khả năng thanh toán càng
tốt và gia tăng sự ổn định của ngân hàng hay ổn định của hệ thống tài chính.
Luận án lựa chọn đánh giá ổn định hệ thống ngân hàng thay vì sự ổn
định tài chính nói chung vì một số lý do chính yếu sau. Đầu tiên, như
Anginer & Demirguc-Kunt (2018) đã lưu ý các ngân hàng vẫn là nguồn tài
chính chủ đạo đối với các doanh nghiệp và hộ gia đình và do vậy hoạt động
tốt của hệ thống ngân hàng là yếu tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng
kinh tế ở mỗi quốc gia. Ngoài ra, Hoggarth et al. (2002); Smith (2002) cảnh
báo rằng các sự cố lớn xảy ra đối với hệ thống ngân hàng có thể gây nên sự
gián đoạn nghiêm trọng đến các hoạt động kinh tế của một quốc gia. Hệ quả
là gia tăng đáng kể chi phí tài chính lẫn chi phí xã hội. Bên cạnh đó, hậu
quả đến từ các vấn đề phát sinh bởi hệ thống ngân hàng là khá lớn về mặt
ngắn hạn và dài hạn. Thật vậy, khi khủng hoảng ngân hàng nổ ra, chính phủ
thường ban hành các gói cứu trợ khẩn cấp như: hỗ trợ thanh khoản, tăng chi
tiêu các chương trình hỗ trợ an sinh xã hội và chính các gói hỗ trợ này mà
bản chất đến từ túi tiền của người đóng thuế sẽ tác động trực tiếp đến tình
hình ngân sách cũng như các vấn đề bất bình đẳng khác về mặt xã hội. Hơn
nữa, khi hoạt động ngân hàng rơi vào hoảng loạn sẽ làm tê liệt hệ thống
thanh toán, trong khi nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc rất lớn vào hệ thống
này và do đó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động thương mại. Về mặt dài
hạn, khi tăng trưởng kinh tế thấp sẽ kéo theo gia tăng tỷ lệ thất nghiệp làm
phát sinh chi phí xã hội (Anginer & Demirguc-Kunt, 2018).
Trong đó, ngân hàng tại các nước ASEAN mà đặc biệt là ASEAN-6 sẽ
cung cấp một bối cảnh phù hợp cho mục tiêu nghiên cứu của luận án. Sau
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997 và gần đây nhất là khủng
68
hoảng tài chính toàn cầu 2008, hệ thống ngân hàng tại các nước này đã
chứng kiến những thay đổi đáng kể, từ việc được đánh giá là một trong
những khu vực năng động và phát triển nhất đến những cải cách về quy
định, năng lực quản lý, tư nhân hóa, tự do hóa tài chính và nhất là tăng
cường nguồn lực vốn của các ngân hàng theo tiêu chuẩn Basel (Chan & ctg,
2015; Turk Ariss, 2010). Điều này đặc biệt đúng với các nước như
Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan, những nước chịu ảnh hưởng
nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 và đã chứng kiến những
thay đổi mạnh mẽ về cấu trúc tài chính (Cook, 2008). Hơn nữa, có những
dự báo rằng ASEAN sẽ trở thành một trong những khu vực thương mại lớn
nhất và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. Bên cạnh
đó, sự cạnh tranh đang trở nên gay gắt hơn đối với thị trường ngân hàng ở
những nước này do tốc độ mở cửa tài chính ngày càng tăng (Moudud-Ul-
Huq, 2019). Vì vậy, đây là một trong các khu vực sẽ dành được nhiều sự
quan tâm nhất định từ các nhà đầu tư quốc tế kể cả đầu tư gián tiếp lẫn trực
tiếp. Các hoạt động tài chính hội nhập quốc tế khu vực này sẽ chứa đựng
những tiềm ẩn rủi ro có thể phát sinh cho hệ thống ngân hàng nói riêng và
hệ thống tài chính nói chung mà bài học lịch sử năm 1997 đã là minh chứng
cho điều đó bởi lẽ hệ thống ngân hàng thương mại tại các nước này vẫn là
nguồn tài chính quan trọng cũng như chi phối hoạt động kinh tế với việc
nắm giữ hơn 82% thị phần tổng tài sản tài chính (De Leon, 2020; Pak &
Asian Development Bank, 2013).
Biến giải thích chính (main explanatory variable): Để đo lường các
dòng vốn quốc tế bao gồm: gián tiếp, trực tiếp và dòng vốn khác, nghiên
cứu thu thập dữ liệu (số tuyệt đối) từ IMF so với GDP từng nước qua các
năm. Ngoài ra, luận án sử dụng logarit tự nhiên của các giá trị tuyệt đối này
để làm phương pháp đo lường thay thế. Theo đó, cách thức đầu tiên được
xem xét như là phương pháp đánh giá dưới khía cạnh tương đối trong khi
cách thức thứ hai đánh giá khía cạnh tuyệt đối (Baum et al., 2017; Broner et
al., 2013; Ghosh, 2016; Hannan & Pagliari, 2017).
69
Biến kiểm soát vĩ mô (ControlMacro): Đối với các biến số vĩ mô
nghiên cứu xem xét đo lường tác động của các biến vĩ mô bao gồm: tăng
trưởng GDP hàng năm (GDPGR), tỷ lệ lạm phát (IFL) hàng năm và logarit
tự nhiên của GDP đầu người (GDPCAP) qua các năm. Đây là các chỉ số
được sử dụng khá nhiều trong các nghiên cứu liên quan (Ghosh, 2016;
Perrin & Weill, 2021; Phan et al., 2021; Sun, 2015; D. V. Tran & Lu,
2021).
Biến kiểm soát ngân hàng (ControlBank): Đối với các biến số cơ bản
ngân hàng, nghiên cứu đánh giá chất lượng ngân hàng qua các chỉ số:
(logarit) tổng tài sản (SIZE), tỷ lệ vốn chủ sở hữu (CAPITAL), tỷ lệ giữa
tổng tiền gửi so với tài sản (DEPOSITSHARE), tỷ lệ giữa tổng cho vay so
với tài sản (LOANSHARE). Đây cũng là các biến số được sử dụng nhiều
trong các nhiên cứu liên quan (ví dụ như: Ashraf, 2017; Berger et al., 2017;
Osei-Tutu & Weill, 2021; Perrin & Weill, 2021; Phan et al., 2021; D. V.
Tran & Lu, 2021).
Bảng 3.1: Diễn giải các biến sử dụng
Nguồn tính Biến phụ thuộc Diễn giải toán
Logarit tự nhiên của Z-score. Trong đó,
Z-score bằng tỷ lệ giữa tổng của ROA Tác giả tính bình quân và CAPITAL chia cho độ Z-score toán từ dữ liệu lệch chuẩn của ROA. Với ROA là tỷ lệ Datastream giữa lợi nhuận trên tổng tài sản và độ
lệch chuẩn tính trong 2 năm
Biến phụ thuộc Nguồn tính Diễn giải thay thế toán
NPL Tỷ lệ nợ xấu hàng năm Datastream
Tỷ lệ giữa số dư dự phòng rủi ro hàng LLR Datastream năm trên tổng dư nợ hàng năm
70
Nguồn tính Biến giải thích Diễn giải chính toán
Tỷ lệ giữa đầu tư gián tiếp so với GDP PORTINVESTR IMF hàng năm
Tỷ lệ giữa đầu tư trực tiếp so với GDP DIRECTINVESTR IMF hàng năm
Tỷ lệ giữa đầu tư khác so với GDP OTHERINVESTR IMF hàng năm
Nguồn tính Biến giải thích Diễn giải chính thay thế toán
Logarit tự nhiên của đầu tư gián tiếp PORTINVEST IMF hàng năm
Logarit tự nhiên của đầu tư trực tiếp DIRECTINVEST IMF hàng năm
Logarit tự nhiên của đầu tư khác hàng OTHERINVEST IMF năm
Biến kiểm soát vĩ Nguồn tính Diễn giải mô toán
GRGDP Tăng trưởng (%) GDP hàng năm WB
IFL Tỷ lệ (%) lạm phát hàng năm WB
Logarit tổng thu nhập bình quân đầu GDPCAP WB người hàng năm
Biến kiểm soát Nguồn tính Diễn giải ngân hàng toán
Tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu hàng năm CAPITAL Datastream trên tổng tài sản hàng năm
Logarit tổng tài sản hàng năm của SIZE Datastream NHTM
71
Tỷ lệ giữa tổng tiền gửi so với tổng tài DEPOSITSHARE Datastream sản hàng năm
Tỷ lệ giữa tổng cho vay so với tổng tài LOANSHARE Datastream sản hàng năm
3.4 Phương pháp phân tích
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu (1) nhằm kiểm định tác động của các
dòng vốn quốc tế đến ổn định tài chính ASEAN, nghiên cứu sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng thông qua các mô hình hồi quy dữ liệu
bảng: mô hình ước lượng dựa trên mô hình hồi quy OLS (Ordinary least
squares), mô hình hồi quy tác động cố định (FEM-Fixed effect model) và
mô hình ước lượng GMM (Generalized method of moments). Như vậy,
nghiên cứu thực hiện đồng thời ba mô hình là OLS, FEM và GMM, so sánh
và đưa ra các kiểm định để lựa chọn mô hình tối ưu cho các ngân hàng
thương mại ASEAN.
- Mô hình OLS là mô hình bình phương tối thiểu thông thường, bỏ
qua các đặc điểm riêng biệt của từng ngân hàng
- Mô hình tác động cố định (FEM): phát triển từ mô hình OLS, đồng
thời kiểm soát từng đặc điểm khác nhau giữa các ngân hàng và xem xét sự
tương quan giữa phần dư của mô hình và các biến độc lập
- Mô hình ước lượng GMM được sử dụng để khắc phục nhược điểm
của 02 mô hình trên là các vấn đề nội sinh, tự tương quan và phương sai
thay đổi.
Nghiên cứu kiểm định tác động của dòng vốn quốc tế đến ổn định tài
chính thông qua các mô hình trên lần lượt với 5 bước: mô hình (1) chỉ xem
xét riêng biệt dòng vốn gián tiếp (PORTINVEST), mô hình (2) xem xét
dòng vốn gián tiếp trong bối cảnh giữa các dòng vốn khác, mô hình 3, 4
72
tiến hành kiểm soát lần lượt các đặc điểm của các ngân hàng và các biến số
vĩ mô, mô hình (5) bao gồm tất cả các biến.
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu (2) nhằm so sánh tác động của dòng
vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN giai đoạn khủng hoảng và sau
khủng hoảng, nghiên cứu tiến hành đo lường tác động của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu đến mối quan hệ giữa dòng vốn quốc tế và sự ổn
định tài chính bằng cách chia mẫu nghiên cứu làm hai giai đoạn: giai đoạn
khủng khoảng (crisis) bao gồm các năm 2007, 2008 và 2009 và giai đoạn
sau khủng khoảng (after crisis) từ năm 2010 trở đi, sau đó áp dụng mô hình
ước lượng hồi quy (1) để so sánh kết quả (theo Phan et al., 2021).
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu (3) nhằm so sánh tác động của dòng
vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN theo qui mô ngân hàng, luận
án tiến hành đo lường mô hình theo quy mô ngân hàng khác nhau để đánh
giá tác động của quy mô ngân hàng đến mối quan hệ giữa dòng vốn quốc
tế và sự ổn định của các ngân hàng. Luận án chia mẫu nghiên cứu thành
hai nhóm (ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ) dựa trên giá trị trung bình của
tổng tài sản toàn bộ mẫu. Theo đó, các ngân hàng lớn và nhỏ (large banks
& small banks) là những ngân hàng có tổng tài sản trên và dưới giá trị
trung bình tương ứng (theo Uddin et al., 2020).
Nhằm so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính Việt Nam với ASEAN, nghiên cứu tiến hành thực nghiệm lại mô
hình cơ sở theo các bước nêu trên dựa trên phương trình ước lượng hồi quy
cơ sở (1) với dữ liệu của 26 ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bên cạnh đó, nghiên cứu tiến hành một loạt các biện pháp đo lường độ
bền của mô hình như sau:
- Đầu tiên, nghiên cứu thực hiện các biện pháp thay thế biến phụ thuộc
cũng như biến giải thích chính. Nghiên cứu sử dụng tỷ lệ nợ xấu (NPL) và
tỷ lệ dự phòng rủi ro (LLR) làm phương pháp đo lường thay thế cho chỉ số
73
Z-score. Bên cạnh đó, luận án cũng sử dụng logarit tự nhiên tổng dòng vốn
gián tiếp (PORTINVEST), tổng dòng vốn trực tiếp (DIRECTINVEST) và
tổng dòng vốn khác (OTHERINVEST) là biến thay thế đối với các biến phụ
thuộc là các dòng vốn quốc tế.
- Tiếp theo, để kiểm định sâu hơn về tác động của các dòng vốn quốc
tế đến ổn định tài chính, nghiên cứu đưa thêm biến độ trễ của biến phụ
thuộc vào mô hình nghiên cứu ban đầu. Đồng thời, biến phụ thuộc cũng
được xem xét trên các chỉ số đo lường khác nhau.
- Cuối cùng, luận án sẽ kiểm định lại mô hình cơ sở thông qua sử
dụng phương pháp định lượng thay thế như GMM và kiểm soát ảnh hưởng
cố định thời gian cũng như theo từng quốc gia và kiểm định đa cộng tuyến.
74
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Trong chương này, luận án mô tả cụ thể dữ liệu và cách thức thu thập
dữ liệu nghiên cứu được thực hiện trong luận án, bao gồm: dữ liệu thứ cấp
của 96 ngân hàng thương mại ở 6 nước ASEAN, chỉ số dòng vốn quốc tế và
các yếu tố vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, tỷ lệ lạm phát và các chỉ số
của ngân hàng trong giai đoạn 2008 – 2019. Dữ liệu của các biến số được
thu thập từ các cơ sở dữ liệu đáng tin cậy như Datatream, IMF, WB.
Luận án đã đưa ra mô hình nghiên cứu đo lường tác động của dòng
vốn quốc tế đến ổn định tài chính, trình bày chi tiết ý nghĩa và cách xác
định các biến trong mô hình. Đồng thời, luận án cũng liệt kê trình tự các
bước thực hiện ước lượng hồi quy và kiểm định tính bền vững đối với mô
hình đã xây dựng.
75
CHƯƠNG 4: TÁC ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN QUỐC TẾ ĐẾN
ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH TẠI CÁC NƯỚC ASEAN
Ở nội dung này, luận án trình bày kết quả thực nghiệm từ mô hình
nghiên cứu đã được nêu ở chương trước cũng như các biện pháp đo lường
độ bền của mô hình nghiên cứu về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính tại các nước ASEAN trong đó có so sánh với Việt Nam.
4.1 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại ASEAN và Việt Nam
4.1.1 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại các quốc gia ASEAN
Theo báo cáo đầu tư ASEAN (AIR), dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI)
vào ASEAN giảm xuống 42 tỷ USD năm 2008 và 2009 dưới tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nhưng sau đó đã chứng kiến sự tăng
lên mạnh mẽ từ năm 2010 và đạt mức kỷ lục 182 tỷ USD trong năm 2019.
Tỷ lệ vốn FDI vào ASEAN trên tổng lượng FDI toàn cầu cũng tăng từ 5,6%
năm 2016 lên 11,9% năm 2019.
ASEAN tiếp tục là điểm đến quan trọng của dòng vốn đầu tư trên toàn
cầu, đặc biệt là khi cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc trở nên
căng thẳng. Theo báo cáo của Phòng thương mại Mỹ, đang có xu hướng
chuyển dịch đầu tư của các công ty Mỹ từ Trung Quốc sang các nước khu
vựa ASEAN và Mexico. Làn sóng dịch chuyển này cũng thể hiện rõ nét ở
các quốc gia Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các lĩnh vực thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất khu vực ASEAN là xây
dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ tài chính, y tế và công nghệ.
So với các khu vực khác, ASEAN có lợi thế về nguồn nhân lực cùng
nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thái Lan đã thiết kế các
gói hỗ trợ chi tiết và linh động dành cho các công ty nước ngoài muốn
chuyển khỏi Trung Quốc, Indonesia lên kế hoạch kiến thiết khu công
nghiệp có qui mô lớn nhất ở phía Bắc đảo Java nhằm thu hút các công ty
sản xuất ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, các hiệp định thương mại tự do song
76
phương và đa phương được ký kết giữa các quốc gia ASEAN với các nước
phát triển cũng tạo ra lợi thế xuất khẩu cho các công ty sản xuất ở trong
140,000.0
120,000.0
100,000.0
80,000.0
60,000.0
40,000.0
20,000.0
0.0
Cambodia Indonesia Lao PDR Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Viet Nam
Brunei Darussalam
-20,000.0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
nước.
Nguồn: ASEANStatsDataPortal
Hình 4.1: Đầu tư trực tiếp vào các nước ASEAN
Bên cạnh dòng vốn đầu tư trực tiếp, ASEAN cũng đang là điểm đến
tích cực của dòng vốn gián tiếp thông qua các quỹ đầu tư mạo hiểm (VC -
Venture Capital). Trong báo cáo “Điểm lại các quỹ VC Đông Nam Á trong
quý I/2020”, Deal Street Asia nêu các quỹ đầu tư mạo hiểm trong khu vực
đã huy động được số vốn cam kết có tổng trị giá khoảng 5,8 tỷ USD trong
năm 2019. Trong đó, Indonesia và Singapore là hai quốc gia đứng đầu về
thu hút dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác. Xu hướng của các dòng vốn
quốc tế này được dự báo sẽ tiếp tục nhờ sự phát triển công nghiệp năng
động, cũng như sự cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh trong khu
vực.
4.1.2 Thực trạng dòng vốn quốc tế tại Việt Nam
Tính đến nay, Việt Nam đã mở cửa đón nhận dòng vốn đầu tư quốc tế
được hơn 30 năm kể từ thời điểm Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được
77
ban hành. Tuy vậy, cột mốc quan trọng nhất là việc Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 với sự gia tăng rất mạnh của
dòng vốn đầu tư quốc tế mà nhất là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Theo
báo cáo nghiên cứu gần đây nhất của Phùng Thị Lan Phương & ctg (2021),
Việt Nam được đánh giá là một trong những nước thu hút vốn đầu tư trực
tiếp lớn nhất trong khu vực ASEAN và đặc biệt số liệu năm 2020 ghi nhận
Việt Nam nằm trong tốp 20 nước thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp
nhất mặc dù đây là năm chứng kiến sự biến động ở hầu hết các nền kinh tế
vì đại dịch Covid-19. Hơn nữa, kể từ năm 2015, Việt Nam đã chính thức
vượt Malaysia để trở thành một trong ba nước có lượng vốn đầu tư trực tiếp
lớn nhất trong khu vực này (chỉ xếp sau Singapore và Indonesia).
Trong năm 2021, mặc dù Việt Nam có 1.738 dự án được cấp phép
mới giảm 31,1% về số dự án so với năm 2020, nhưng số vốn đăng ký của
các dự án mới lại đạt 15,2 tỉ USD, tăng 4,1% so với năm trước đó. Điều này
cho thấy, các dự án quy mô lớn, chất lượng đang dần thay thế các dự án
nhỏ. Vốn đăng ký điều chỉnh có 985 lượt dự án, với tổng vốn đăng ký điều
chỉnh tăng thêm đạt trên 9 tỉ USD, tăng 40,5% so với năm 2020. Đây được
đánh giá là mức tăng rất mạnh, đồng thời là điểm sáng trong bức tranh thu
hút FDI cả năm, cho thấy niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài vào môi
trường đầu tư của Việt Nam vẫn rất khả quan. Cũng trong năm 2021, có
3.797 lượt vốn góp, mua cổ phần, mua phần vốn góp của các nhà đầu tư
nước ngoài vào các dự án của Việt Nam, với giá trị vốn góp đạt gần 6,9 tỉ
USD. Theo đó, lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo vẫn thu hút được sự
quan tâm lớn nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài. Trong năm 2021, các nhà
đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành của nền kinh tế lĩnh vực,
trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư
đạt 18,1 tỷ USD, chiếm 58,7% tổng vốn đầu tư đăng ký; tiếp theo là lĩnh
vực sản xuất, phân phối điện, với tổng vốn đầu tư trên 5,7 tỷ USD, chiếm
58,2%; sau đó lần lượt là các lĩnh vực hoạt động kinh doanh bất động sản,
78
bán buôn bán lẻ với tổng vốn đăng ký tương ứng trên 2,6 tỷ USD và trên
1,4 tỷ USD theo Nguyễn Đức Trung (2022).
Đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp, giai đoạn 2000-2007, dòng vốn bắt
đầu đổ vào Việt Nam khá mạnh do môi trường đầu tư thuận lợi cùng với sự
ra đời của thị trường chứng khoán. Giai đoạn 2008-2011, dòng vốn gián
tiếp giảm mạnh do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Ước
tính năm 2008- 2009 dòng vốn gián tiếp ròng âm khoảng 600 triệu USD đã
tác động không nhỏ đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Sang giai đoạn
2012-2013, dòng vốn này có dấu hiệu phục hồi và duy trì ở mức khá cao
đạt 1,9 tỷ USD năm 2012 và 1,4 tỷ USD năm 2013. Năm 2014-2015, dưới
tác động của khủng hoảng giá dầu và biến động của thị trường chứng khoán
Trung Quốc, dòng vốn gián tiếp lại rút khỏi thị trường Việt Nam và phục
hồi tăng mạnh trở lại vào những năm 2017-2019. Tuy nhiên, sang năm
2020, do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19 và những biến động mạnh
trên thị trường tài chính - tiền tệ thế giới, dòng vốn gián tiếp đã giảm sút rõ
rệt (Nguyễn Thanh Cai, 2021).
Nguồn: Ủy Ban Chứng Khoán Nhà nước
Hình 4.2: Tỷ trọng giá trị giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán giai đoạn 2011-2019 (%)
79
Nhìn chung, giai đoạn 2008-2019, dòng vốn gián tiếp vào Việt Nam
có nhiều biến động và tăng trưởng nhanh tùy thuộc vào sự phát triển của thị
trường chứng khoán và điều kiện kinh tế trong nước cũng như thế giới. Tuy
nhiên, qui mô giao dịch của nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài còn thấp so với
qui mô toàn thị trường (tối đa chiếm 14.1% qui mô toàn thị trường vào năm
2019).
4.2 Kết quả nghiên cứu mô hình thực nghiệm tại ASEAN
4.3.1 Thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Bảng 4.1 thể hiện số liệu thống kê mô tả từ mẫu dữ liệu nghiên cứu
với các biến được làm sạch (winsorized) ở phân vị 1% và 99%. Biến logarit
tự nhiên của chỉ số Z-score có giá trị trung bình 4.606 cho 6 quốc gia và có
sự chênh lệch khá lớn giữa các ngân hàng với độ lệch chuẩn là 1.32, giá trị
thấp nhất là 1.967 và giá trị cao nhất là 8.055. Về các biến giải thích, dòng
vốn gián tiếp chiếm tỷ trọng khá nhỏ so với GDP ở các nước ASEAN trong
giai đoạn 2008-2019, trong khi đó dòng vốn trực tiếp vẫn giữ vai trò khá
lớn so với các loại dòng vốn quốc tế, tiếp đó là dòng vốn khác. Các biến
kiểm soát vĩ mô và ngân hàng cũng chỉ ra sự thay đổi đáng kể so với giá trị
trung bình của mẫu nghiên cứu, đặc biệt là biến quy mô ngân hàng với độ
lệch chuẩn 3.02. Trong giai đoạn nghiên cứu, ASEAN cũng chứng kiến
dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác có giá trị ròng âm thể hiện sự rút vốn
khỏi khu vực vào năm 2009 do tác động của khủng hoảng kinh tế đồng thời
Thái Lan có mức tăng trưởng GDP âm (-0.69%) trong thời gian này.
Bảng 4.1: Thống kê mô tả
VARIABLES ZSCORE PORTINVESTRATE OTHERINVESTR DIRECTINVESTR SIZE CAPITAL
(1) N 683 1,152 1,152 1,152 1,139 1,138
(2) mean 4.606 0.00957 0.0144 0.0347 22.51 0.140
(3) sd 1.320 0.0199 0.0246 0.0339 3.018 0.0567
(4) min 1.967 -0.0756 -0.0221 0.00487 15.24 0.0416
(5) max 8.055 0.0861 0.171 0.227 27.83 0.387
80
LOANSHARE DEPOSITSHARE GDPGR INF GDPCAP
1,139 1,137 1,152 1,152 1,152
0.643 0.715 0.0529 0.0458 8.263
0.142 0.111 0.0164 0.0412 0.688
0.216 0.251 -0.00691 -0.00639 7.277
0.944 0.893 0.0751 0.199 10.96
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.2 Phân tích tương quan
Bảng 4.2 thể hiện hệ số tương quan giữa các biến với dữ liệu được làm
sạch (winsorized) ở phân vị 1% và 99% với Z-score là biến phụ thuộc. Ở
bảng ma trận tương tương quan, có thể thấy dòng vốn gián tiếp quốc tế và
dòng vốn quốc tế khác tác động tiêu cực đến chỉ số Z-score (hệ số tương
quan âm) trong khi dòng vốn trực tiếp quốc tế ảnh hưởng tích cực (hệ số
tương quan dương). Tuy vậy tất cả đều không có ý nghĩa thống kê. Các biến
còn lại đều có mức ý nghĩa thống kê 10%. Theo đó, đối với các biến đặc
điểm ngân hàng, ngoại trừ quy mô có ảnh hưởng ngược chiều, các biến còn
lại (vốn, thị phần cho vay và tiền gửi) đều tác động cùng chiều đến chỉ số Z-
score. Đối với các biến vĩ mô, GDP bình quân đầu người tác động tích cực
đáng kể bên cạnh lạm phát và tăng trưởng GDP có ảnh hưởng tiêu cực đến
chỉ số Z-score. Hầu hết các hệ số tương quan giữa các biến đều khá nhỏ cho
thấy không có khả năng xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến nghiêm trọng
trong mô hình hồi quy giữa các biến độc lập.
4.3.3 Kết quả hồi quy
Bảng 4.3 trình bày kết quả hồi quy chính với dữ liệu được làm sạch
(winsorized) ở phân vị 1% và 99%. Như đã đề cập ở nội dung cơ sở lý
thuyết, phần lớn các nghiên cứu đều cho rằng dòng vốn gián tiếp và dòng
vốn khác có tác động tương đối tiêu cực nghĩa là làm giảm sự ổn định tài
chính nói riêng và nền kinh tế nói chung so với dòng vốn trực tiếp (Ghosh
& ctg, 2015; Gourinchas & Obstfeld, 2012). Do vậy, để đo lường riêng
biệt ảnh hưởng này, nghiên cứu bắt đầu với mô hình thu gọn (Mô hình (1))
81
trong đó chỉ xem xét riêng biệt dòng vốn gián tiếp (PORTINVESTRATE).
Kết quả cho thấy, dòng vốn gián tiếp có mối quan hệ nghịch biến với Z-
score ở mức ý nghĩa thống kê 10%. Điều này thể hiện rằng khi dòng vốn
gián tiếp gia tăng sẽ làm giảm chỉ số Z-score đồng nghĩa với việc ảnh
hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài chính các nước ASEAN. Ở Mô hình (2),
nghiên cứu tiến hành cùng lúc xem xét dòng vốn gián tiếp trong bối cảnh
giữa các dòng vốn khác. Kết quả tiếp tục cho thấy dòng vốn gián tiếp và
dòng vốn khác tác động làm giảm sự ổn định tài chính. Mặt khác, dòng
vốn trực tiếp thể hiện kết quả hoàn toàn trái ngược: sự gia tăng dòng vốn
trực tiếp có tác động làm tăng sự ổn định tài chính. Hệ số của dòng vốn
khác và dòng vốn trực tiếp đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Tiếp theo,
ở Mô hình (3) và (4), nghiên cứu lần lượt tiến hành kiểm soát các đặc điểm
của các ngân hàng và các biến số vĩ mô. Kết quả gần như không thay đổi
so với Mô hình (2), tuy vậy hệ số của dòng vốn gián tiếp có ý nghĩa thống
kê lần lượt là 5% và 1% bên cạnh hệ số của dòng vốn khác có ý nghĩa
thống kê ở mức 1% trong khi dòng vốn trực tiếp không có ý nghĩa thống
kê ở Mô hình (4). Kế đến, luận án trình bày mô hình cơ sở ở Mô hình (5)
với việc bao gồm tất cả các biến kiểm soát. Kết quả đối với dòng vốn gián
tiếp và dòng vốn khác là không thay đổi so với các mô hình trước đó trong
khi dòng trực tiếp mặc dù tác động tích cực nhưng không có ý nghĩa thống
kê.
Nhìn chung, đối với dòng vốn gián tiếp và dòng vốn khác, bằng
chứng thực nghiệm cho thấy sự nhất quán trong việc gia tăng các loại hình
dòng vốn này sẽ góp phần làm suy giảm sự ổn định tài chính ở các nước
ASEAN. Kết quả trái ngược ở dòng vốn trực tiếp khi tác động của dòng
vốn trực tiếp cho thấy một tín hiệu tương đối tích cực đối với sự ổn định
tài chính. Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây
(Blanchard et al., 2016; Bruno & Shin, 2014; Dell’Ariccia et al., 2012;
Elekdag & Wu, 2013; Ghosh, 2016).
82
4.3.4 Kiểm tra độ bền và phương pháp đo lường thay thế
Ở bảng 4.4, luận án thực hiện ước tính lại các phát hiện với thước đo
thay thế đối với biến phụ thuộc. Theo Perrin & Weill (2021), nghiên cứu
sử dụng tỷ lệ nợ xấu (NPL) và tỷ lệ dự phòng rủi ro (LLR) làm phương
pháp đo lường thay thế cho chỉ số Z-score. Qua đó, từ Mô hình (1) đến (3),
biến phụ thuộc là LLR và từ Mô hình (4) đến (6), biến phụ thuộc là NPL.
Nghiên cứu tuần tự kiểm soát các biến số đặc điểm ngân hàng, các biến vĩ
mô và tất cả biến số. Theo đó, kết quả cho thấy dòng vốn gián tiếp tác
động tích cực đến tỷ lệ dự phòng và đều có mức ý nghĩa thống kê 1% tuy
nhiên đối với tỷ lệ nợ xấu tất cả các hệ số của dòng vốn này đều không có
ý nghĩa thống kê. Điều này cho thấy, khi dòng vốn gián tiếp gia tăng sẽ
khiến chỉ số LLR tăng theo, đồng nghĩa với làm tăng nguy cơ rủi ro ổn
định tài chính. Ngoài ra, dòng vốn trực tiếp cho thấy tác động âm đến cả
hai chỉ số NPL và LLR và đều có ý nghĩa thống kê ở mức 1% (ngoại trừ ở
Mô hình (6), ở mức ý nghĩa 10%). Qua đó có thể nhận thấy rằng sự gia
tăng dòng vốn trực tiếp sẽ khiến giảm tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ dự phòng và do
vậy không đưa đến nguy cơ bất ổn tài chính. Bên cạnh đó, dòng vốn khác
ở tất cả mô hình đều không có ý nghĩa thống kê.
83
Bảng 4.2: Ma trận tương quan giữa các biến
Variables
(ZSCORE)
(SIZE)
(CAPITAL)
(GDPGR)
(INF)
(GDPCAP)
1.000 -0.072 (0.059) -0.044 (0.250) 0.048 (0.209) -0.156* (0.000) 0.133* (0.000) 0.197* (0.000) 0.146* (0.000) -0.107* (0.005) -0.215* (0.000) 0.267* (0.000)
(PORTINVES TRATE) 1.000 0.064* (0.029) -0.073* (0.013) 0.051 (0.083) 0.027 (0.356) 0.087* (0.003) 0.127* (0.000) 0.118* (0.000) -0.028 (0.349) 0.009 (0.768)
(OTHERINV ESTR) 1.000 0.781* (0.000) 0.037 (0.210) -0.144* (0.000) -0.106* (0.000) -0.253* (0.000) 0.168* (0.000) 0.056 (0.057) 0.352* (0.000)
(DIRECTINVE STR) 1.000 0.009 (0.765) -0.167* (0.000) -0.111* (0.000) -0.259* (0.000) 0.057 (0.053) 0.088* (0.003) 0.487* (0.000)
1.000 -0.208* (0.000) -0.052 (0.080) -0.139* (0.000) 0.285* (0.000) 0.299* (0.000) -0.448* (0.000)
(LOANSH ARE) 1.000 0.372* (0.000) -0.223* (0.000) -0.299* (0.000) 0.362* (0.000)
(DEPOSITSH ARE) 1.000 0.019 (0.527) -0.328* (0.000) 0.105* (0.000)
1.000 0.174* (0.000) -0.167* (0.000) -0.182* (0.000) -0.074* (0.013) 0.099* (0.001)
1.000 0.219* (0.000) -0.313* (0.000)
1.000 -0.490* (0.000)
1.000
ZSCORE PORTINVESTRATE OTHERINVESTR DIRECTINVESTR SIZE CAPITAL LOANSHARE DEPOSITSHARE GDPGR INF GDPCAP *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
84
VARIABLES PORTINVESTRATE
OTHERINVESTR
DIRECTINVESTR
(2) -5.259* (2.957) -10.53*** (2.880) 7.468*** (2.128)
(4) -7.493*** (2.843) -9.605*** (2.995) 0.0773 (2.388)
SIZE
CAPITAL
LOANSHARE
DEPOSITSHARE
(3) -7.108** (2.826) -9.218*** (2.906) 7.789*** (2.142) -0.0392** (0.0175) 1.809* (0.989) 1.117*** (0.413) 1.180** (0.513)
GDPGR
INF
GDPCAP
Constant
4.658*** (0.0574)
4.562*** (0.0817)
3.676*** (0.631)
4.653 (3.168) -1.245 (1.595) 0.606*** (0.0942) -0.377 (0.849)
(5) -7.711*** (2.853) -9.203*** (2.999) 0.833 (2.595) 0.0241 (0.0218) 1.425 (0.975) 0.175 (0.455) 0.616 (0.538) 4.592 (3.237) -0.549 (1.714) 0.594*** (0.123) -1.626 (1.306)
683 0.026
682 0.089
683 0.115
682 0.120
683 Observations R-squared 0.005 Robust standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy chính (1) -5.266* (3.085)
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
Nhằm kiểm chứng hơn nữa các phát hiện, nghiên cứu cũng tiến hành sử dụng
phương pháp đo lường thay thế đối với các biến phụ thuộc là các dòng vốn quốc tế.
Thật vậy, các nghiên cứu trước đây đã cho thấy tổng dòng vốn đóng vai trò quan
trọng đối với sự ổn định so với dòng vốn ròng (Baum et al., 2017; Broner et al.,
2013; Hannan & Pagliari, 2017). Do vậy, nghiên cứu thực hiện lại các mô hình trên
với biến phụ thuộc là (logarit tự nhiên) tổng dòng vốn gián tiếp (PORTINVEST),
tổng dòng vốn trực tiếp (DIRECTINVEST) và tổng dòng vốn khác
(OTHERINVEST). Theo đó, từ Mô hình (7) đến (9) biến phụ thuộc là Z-score, từ
Mô hình (10) đến (12) biến phụ thuộc là LLR và NPL là biến phụ thuộc ở Mô hình
(13) đến (15).
85
Kết quả cho thấy, tổng dòng vốn gián tiếp đều tác động dương đến tỷ lệ dự
phòng và tỷ lệ nợ xấu và có ý nghĩa thống kê 1% trong khi đối với Z-score các hệ số
mặc dù là âm tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê. Đối với dòng vốn trực tiếp, tất
cả hệ số đều có ý nghĩa thống kê ở mức 5% hoặc 1% ngoại trừ ở Mô hình (15) là
không có ý nghĩa thống kê. Theo đó, dòng vốn trực tiếp tác động dương đến Z-score
và một lần nữa tác động âm đến NPL và LLR. Trong khi đó, hệ số của dòng vốn
khác đều không có ý nghĩa thống kê. Các kết quả này, một lần nữa cho thấy khá
tương đồng đối với kết quả ở Mô hình (1)-(6).
Như vậy, đến tại thời điểm này, có thể thấy rõ rằng sự gia tăng dòng vốn gián
tiếp có thể đưa hệ thống tài chính đối mặt với nguy cơ bất ổn trong khi ảnh hưởng
VARIABLES
đến dòng vốn trực tiếp dường như cho kết quả ngược lại.
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy với biến phụ thuộc được thay thế (5)
(4)
(2)
(1)
(3)
(6)
FS=LLR
FS=NPL
PORTINVESTRATE
0.0625***
0.0727***
0.0638***
-0.00850
0.00610
0.0167
(0.0144)
(0.0130)
(0.0568)
(0.0603)
(0.0574)
(0.0143)
OTHERINVESTR
0.0251
0.0306
-0.0314
-0.0132
0.0226
-0.0177
(0.0278)
(0.0245)
(0.0438)
(0.0471)
(0.0452)
(0.0248)
DIRECTINVESTR
-0.0519***
-0.163***
-0.0950***
-0.141***
-0.123***
-0.0670*
(0.0167)
(0.0251)
(0.0226)
(0.0290)
(0.0337)
(0.0352)
SIZE
-0.000517***
-0.000486***
-0.00211***
-0.00241***
(0.000158)
(0.000372)
(0.000430)
(0.000137)
CAPITAL
0.0663***
0.0109
0.0180
0.0650***
(0.00908)
(0.0226)
(0.0216)
(0.00911)
LOANSHARE
0.00888**
-0.0402***
-0.0361***
0.0110***
(0.00425)
(0.0123)
(0.0130)
(0.00382)
DEPOSITSHARE
0.0101**
0.0393***
0.0511***
-0.00479
(0.00490)
(0.0113)
(0.0117)
(0.00485)
GDPGR
-0.186***
-0.165***
-0.299***
-0.326***
(0.0245)
(0.0223)
(0.0795)
(0.0776)
INF
0.127***
0.127***
-0.0201
0.00809
(0.0152)
(0.0156)
(0.0238)
(0.0258)
GDPCAP
0.00614***
0.00215**
-0.00351**
-0.00813***
(0.00113)
(0.00105)
(0.00178)
(0.00194)
Constant
0.00462
-0.0378***
-0.0194*
0.0808***
0.155***
0.0800***
(0.00557)
(0.00979)
(0.0108)
(0.0122)
(0.0169)
(0.0248)
Observations
1,115
1,118
1,115
1,045
1,049
1,045
R-squared
0.105
0.122
0.173
0.122
0.062
0.152
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
86
VARIABLES
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
(13)
(14)
(15)
FS=Z-score
FS=LLR
FS=NPL
PORTINVEST
-0.0253
-0.00412
-0.0436
0.00393***
0.00449***
0.00349***
0.00314***
0.00368***
0.00338***
(0.0395)
(0.0352)
(0.0435)
(0.000676)
(0.000597)
(0.000685)
(0.000665)
(0.000578)
(0.000685)
OTHERINVEST
-0.0402
-0.0602
-0.0394
-0.000296
-0.000212
0.000321
0.000454
0.00116
0.00173
(0.0619)
(0.0700)
(0.0660)
(0.000594)
(0.000662)
(0.000624)
(0.00102)
(0.00104)
(0.00108)
DIRECTINVEST
0.489***
0.270***
0.320**
-0.00481***
-0.00385***
-0.00372***
-0.00534**
-0.00914***
0.00336
(0.0971)
(0.0861)
(0.158)
(0.000900)
(0.000786)
(0.00120)
(0.00267)
(0.00232)
(0.00337)
SIZE
-0.0610**
-0.0127
0.000225
-0.000204
-0.00106***
-0.00342***
(0.0239)
(0.0449)
(0.000144)
(0.000255)
(0.000376)
(0.000746)
CAPITAL
1.848
2.378*
0.0531***
0.0606***
0.0322
0.00758
(1.129)
(1.212)
(0.0114)
(0.0120)
(0.0242)
(0.0251)
LOANSHARE
-0.289
-0.352
0.00789
0.00868
-0.0590***
-0.0562***
(0.526)
(0.539)
(0.00566)
(0.00555)
(0.0196)
(0.0181)
DEPOSITSHARE
1.709***
1.663***
-0.0109*
0.00218
0.0616***
0.0520***
(0.556)
(0.611)
(0.00628)
(0.00694)
(0.0149)
(0.0146)
GDPGR
2.570
2.090
-0.144***
-0.127***
-0.311**
-0.0381
(4.775)
(5.409)
(0.0440)
(0.0452)
(0.133)
(0.121)
INF
-1.595
0.681
0.108***
0.122***
-0.0733**
-0.0585*
(1.701)
(1.927)
(0.0149)
(0.0194)
(0.0289)
(0.0336)
GDPCAP
0.324**
0.277
0.000274
-0.000603
-0.00447***
-0.0168***
(0.127)
(0.225)
(0.000937)
(0.00148)
(0.00160)
(0.00337)
Constant
0.662
-0.255
-1.196
0.00451
0.00202
0.00865
0.0639***
0.117***
0.191***
(0.849)
(0.996)
(1.806)
(0.00637)
(0.00827)
(0.0145)
(0.0198)
(0.0180)
(0.0315)
Observations
499
499
499
794
795
794
742
745
742
0.094
0.080
0.097
0.174
0.185
0.219
0.139
0.077
0.167
R-squared Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
Để củng cố các phát hiện, trong bảng 4.5, theo Sun (2015), luận án tiếp tục
ước tính lại các phát hiện được mô tả trong bảng 4.4 với biến độc lập chính là các
dòng vốn quốc tế được làm trễ một kỳ vì dòng vốn quốc tế sẽ có độ trễ nhất định
khi tác động đến nền kinh tế một quốc gia do cơ chế truyền dẫn cần thời gian để
tác động, phản ánh trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng và các chỉ số kinh
tế vĩ mô trong nước. Trước hết, luận án tiến hành với các biến giải thích chính là
tăng trưởng ròng của các loại hình dòng vốn quốc tế với độ trễ một kỳ từ Mô hình
(1) đến (5). Ở Mô hình (1)-(3), nghiên cứu lần lượt thực hiện kiểm soát các biến số
đặc điểm ngân hàng, các biến vĩ mô và tất cả các biến bên cạnh sử dụng Z-score
làm biến phụ thuộc. Kết quả cho thấy, dòng vốn quốc tế gián tiếp đều tác động âm
87
đáng kể đến Z-score và đều ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Điều này phù hợp với
phát hiện trước đó. Tuy vậy, dòng vốn trực tiếp lúc này lại cho kết quả âm lần lượt
ở mức ý nghĩa 1% và 5% ở Mô hình (2) và (3). Đối với dòng vốn quốc tế khác, các
hệ số đều không có ý nghĩa thống kê. Ở Mô hình (4)-(5), nghiên cứu thực hiện lại
mô hình (3) với biến phụ thuộc thay thế là LLR và NPL. Một lần nữa, dòng vốn
quốc tế gián tiếp tiếp tục ảnh hưởng cùng chiều với LLR với mức ý nghĩa thống kê
1% tuy nhiên đối với NPL mặc dù hệ số là dương nhưng không có ý nghĩa thống
kê. Đối với hai dòng vốn còn lại, hệ số tương quan của dòng vốn trực tiếp đều âm
tuy nhiên chỉ có ý nghĩa thống kê 10% ở Mô hình (5) (NPL là biến phụ thuộc)
trong khi dòng vốn quốc tế khác cho kết quả tương tự nhưng có mức ý nghĩa thống
kê 5% ở Mô hình (4) (LLR là biến phụ thuộc).
Từ Mô hình (6)-(8), luận án thực hiện lại Mô hình cơ sở với việc sử dụng
tổng dòng vốn làm biến giải thích thay thế. Đối với dòng vốn gián tiếp, một lần
nữa kết quả củng cố phát hiện ở trên với việc 2/3 mô hình hệ số của dòng vốn này
có ý nghĩa thống kê. Theo đó, kết quả tác động đều có hệ số dương ở mức ý nghĩa
1% đối với biến phụ thuộc là LLR và NPL trong khi với Z-score, hệ số mặc dù là
âm nhưng không có ý nghĩa thống kê. Cả hai dòng vốn còn lại đều tác động nghịch
biến đối với LLR ở mức ý nghĩa 5% đối với dòng vốn trực tiếp và 1% đối với dòng
vốn khác. Ở hai mô hình còn lại (mô hình (6) và (8)), hệ số của cả hai dòng vốn
này đều không có nghĩa thống kê.
Ở thời điểm này, kết quả cho thấy ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định tài
chính xuất phát từ dòng vốn gián tiếp gần như đứng vững qua các mô hình. Trong
khi đó, dòng vốn khác và dòng vốn trực tiếp có kết quả tương đối hỗn hợp.
Ngoài ra, khi luận án tiến hành kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Hệ số VIF
cho thấy đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ mô hình cơ sở của nghiên cứu không có dấu
hiệu xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến.
88
(3)
(1)
VARIABLES L.PORTINVESTRATE
L.OTHERINVESTR
L.DIRECTINVESTR
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy với biến giải thích chính có độ trễ 1 kỳ (2) FS=Z-score -8.720*** (2.829) 0.101 (2.949) -5.860*** (2.208)
SIZE
CAPITAL
LOANSHARE
DEPOSITSHARE
-6.861*** (2.553) -0.0373 (2.717) 2.046 (2.050) -0.0334* (0.0179) 2.056** (1.019) 1.087*** (0.418) 1.339** (0.521)
GDPGR
INF
GDPCAP
Constant
3.449*** (0.646)
5.033 (3.506) -0.927 (1.650) 0.615*** (0.0980) -0.453 (0.908)
(4) FS=LLR 0.0436*** (0.0156) -0.0526** (0.0220) -0.0330 (0.0206) -0.000603*** (0.000172) 0.0768*** (0.00969) 0.00991** (0.00474) 0.00881 (0.00545) -0.191*** (0.0243) 0.139*** (0.0193) 0.000918 (0.00105) -0.00747 (0.0110)
(5) FS=NPL 0.0355 (0.0470) -0.0323 (0.0384) -0.0631* (0.0334) -0.00172*** (0.000392) 0.0362* (0.0212) -0.0456*** (0.0133) 0.0434*** (0.0125) -0.321*** (0.0700) -0.00465 (0.0258) -0.00612*** (0.00189) 0.132*** (0.0235)
-9.730*** (2.821) 0.284 (2.948) -5.243** (2.310) 0.0385* (0.0215) 1.831* (1.007) 0.104 (0.450) 0.730 (0.535) 5.661 (3.589) -0.0844 (1.730) 0.652*** (0.126) -2.550* (1.329)
683 0.110
682 0.119
1,030 0.177
970 0.148
682 0.075
Observations R-squared Robust standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1 VARIABLES L.PORTINVEST
L.OTHERINVEST
L.DIRECTINVEST
SIZE
CAPITAL
LOANSHARE
DEPOSITSHARE
GDPGR
(6) FS=Z-score -0.0531 (0.0488) 0.0538 (0.0650) 0.0352 (0.158) 0.0237 (0.0426) 3.998*** (1.370) -0.319 (0.566) 1.501** (0.694) 17.78*** (6.702) -0.582
(7) FS=LLR 0.00185*** (0.000567) -0.00238*** (0.000580) -0.00188** (0.000925) 3.17e-05 (0.000244) 0.0608*** (0.0129) 0.0120** (0.00586) 0.00865 (0.00703) -0.321*** (0.0546) 0.135***
(8) FS=NPL 0.00278*** (0.000556) -0.000141 (0.00102) 0.000289 (0.00246) -0.00180*** (0.000613) 0.0206 (0.0226) -0.0490*** (0.0152) 0.0363** (0.0142) -0.230** (0.101) -0.0612**
INF
89
GDPCAP
Constant
(2.014) 0.437** (0.222) -2.387 (2.105)
(0.0215) 0.00107 (0.00116) 0.00545 (0.0141)
(0.0247) -0.0104*** (0.00258) 0.150*** (0.0263)
452 0.088
713 0.226
665 0.142
Observations R-squared Robust standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
Bảng 4.6: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
VIF
1/VIF
4.84 4.48 2.91 2.07 2.05 1.81 1.73 1.50 1.37 1.07
0.206742 0.223299 0.343584 0.484139 0.488140 0.552353 0.577348 0.664653 0.729430 0.931692
Variable GDPCAP DIRECTINVESTRATE OTHERINVESTRATE SIZE LOANSHARE INF DEPOSITSHARE CAPITAL GDPGR PORTINVESTRATE Mean VIF
2.38
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.5 Tiếp cận phương pháp hồi quy tác động cố định (FEM-Fixed effects
model)
Để kiểm soát ảnh hưởng cố định theo thời gian cũng như theo từng quốc gia,
luận án tiếp tục ước tính lại các phát hiện trước đó bằng cách tiếp cận phương pháp
hồi quy FEM. Bảng 4.7 trình bày kết quả hồi quy. Theo đó, đầu tiên, nghiên cứu
tiến hành lại các phát hiện ở Bảng 4.3 theo phương pháp hồi quy FEM với biến phụ
thuộc là Z-score. Kết quả tiếp tục cho thấy dòng vốn quốc tế gián tiếp tác động
nghịch biến đến chỉ số này, đồng nghĩa với việc gia tăng bất ổn tài chính. Kết quả
này một lần nữa nhất quán với phát hiện ở Bảng 4.3. Kết quả cũng tương tự đối với
dòng vốn quốc tế khác và dòng vốn trực tiếp như ở Bảng 4.3. Ở Mô hình (6) luận
án thay biến phụ thuộc là LLR và tiến hành lại mô hình cơ sở. Kết quả khá tương
90
đồng với Mô hình (3) ở Bảng 4.4. Qua đó, dòng vốn quốc tế gián tiếp làm tăng tỷ
lệ LLR trong khi dòng vốn trực tiếp cho kết quả ngược lại. Tuy vậy, điểm khác biệt
ở đây là hệ số đối với dòng vốn khác là dương và có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.
Khi nghiên cứu thay thế biến phụ thuộc là NPL ở Mô hình (7) thì các hệ số của 3
loại dòng vốn đều không có ý nghĩa thống kê.
Từ Mô hình (8)-(10), nghiên cứu thay thế dòng vốn ròng bằng tổng dòng vốn
và thực hiện lại mô hình cơ sở. Kết quả là tương đối tương đồng với kết quả ở
Bảng 4.4. Theo đó, dòng vốn gián tiếp tiếp tục làm tăng tỷ lệ LLR và NPL trong
khi dòng vốn trực tiếp tác động cùng chiều với Z-score và dòng vốn khác ảnh
hưởng tích cực đến NPL.
Như vậy, kết qủa nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng tiêu cực của dòng vốn gián
tiếp đến sự ổn định tài chính là khá nhất quán, trong khi tác động của dòng vốn
trực tiếp và dòng vốn khác cho kết quả tương đối hỗn hợp thông qua quá trình đo
VARIABLES
lường độ bền vững mô hình.
Bảng 4.7: Kết quả hồi quy theo phương pháp Fixed effects (6)
(3)
(4)
(5)
(2)
(1)
(7)
FS=Z-score
FS=LLR
FS=NPL
PORTINVESTRATE
-6.762***
-6.815***
-7.376***
-7.428***
-7.500***
0.0471***
0.0240
(2.485)
(2.340)
(2.290)
(2.554)
(2.463)
(0.0140)
(0.0328)
OTHERINVESTR
-10.41***
-9.299***
-9.685***
-9.341***
0.0303**
-0.0169
(1.573)
(1.544)
(1.638)
(0.0149)
(1.641)
(0.0326)
DIRECTINVESTR
7.783***
8.188***
0.224
-0.0489*
1.187
-0.0465
(1.523)
(1.724)
(1.470)
(0.0290)
(1.860)
(0.0431)
SIZE
-0.0317*
0.0290
-0.00135***
-0.00239**
(0.0183)
(0.000429)
(0.0215)
(0.00105)
CAPITAL
2.326**
0.0494***
1.818*
0.0350
(1.023)
(0.0135)
(0.960)
(0.0316)
LOANSHARE
1.095**
0.0141
0.158
-0.0641***
(0.478)
(0.0120)
(0.513)
(0.0170)
DEPOSITSHARE
1.211**
-0.0148*
0.625
0.0598***
(0.514)
(0.00858)
(0.512)
(0.0138)
GDPGR
4.726
-0.113***
4.683
-0.227***
(3.021)
(0.0238)
(3.036)
(0.0524)
INF
-1.244
0.104***
-0.570
-0.00661
(1.662)
(0.0217)
(1.702)
(0.0205)
GDPCAP
0.608***
0.601***
-0.00334**
-0.00639*
(0.109)
(0.00169)
(0.133)
(0.00375)
Constant
-0.409
0.0590***
-1.860
4.682***
4.574***
3.417***
0.146***
91
(0.0729)
(0.0992)
(0.639)
(0.975)
(1.307)
(0.0174)
(0.0497)
683
682
683
682
1,115
1,045
Observations
683
0.0052
0.0259
0.0889
0.1148
0.1197
0.1282
0.1396
R-squared
Number of BANK
74
74
74
74
96
96
74
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
VARIABLES
(9)
(8)
(10)
FS=Z-score
FS=LLR
FS=NPL
PORTINVEST
0.00270***
-0.0449
0.00273***
(0.000572)
(0.0388)
(0.000475)
OTHERINVEST
0.000664
-0.0356
0.00146**
(0.000512)
(0.0667)
(0.000692)
DIRECTINVEST
-0.00119
0.358**
-0.00284
(0.00116)
(0.178)
(0.00543)
SIZE
-0.00135***
-0.00695
-0.00145
(0.000471)
(0.0412)
(0.00128)
CAPITAL
0.0557***
2.904***
0.0656**
(0.0159)
(1.073)
(0.0325)
LOANSHARE
0.0111
-0.414
-0.0716***
(0.0121)
(0.606)
(0.0208)
DEPOSITSHARE
-0.00959
1.657***
0.0619***
(0.00901)
(0.560)
(0.0185)
GDPGR
-0.145***
1.267
-0.150
(0.0427)
(5.608)
(0.138)
INF
0.106***
0.738
-0.0497**
(0.0257)
(1.841)
(0.0211)
GDPCAP
-0.00637***
0.286
-0.00594
(0.00234)
(0.231)
(0.00488)
Constant
0.0652***
-1.760
0.108***
(0.0221)
(1.613)
(0.0415)
794
499
742
Observations
0.1939
0.0966
0.1480
R-squared
96
96
73
Number of BANK Robust standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.6 Tiếp cận phương pháp hồi quy GMM
Để củng cố niềm tin vào tính thuyết phục của những kết quả phát hiện, nghiên
cứu sử dụng phương pháp hệ thống động GMM (the dynamic system GMM
method) bằng cách thêm biến phụ thuộc có độ trễ vào mô hình cơ sở. Điều này sẽ
giúp tăng khả năng khắc phục các vấn đề về nội sinh, phương sai thay đổi và tự
92
tương quan cũng như mối tương quan giữa tất cả các biến độc lập (Arellano &
Bond, 1991; Blundell & Bond, 1998) và do đó, kiểm tra ước tính nhất quán của kết
quả đạt được. Thật vậy, như Arellano & Honoré (2001) đã lưu ý, phương pháp
OLS có thể xử lý các ước tính sai lệch một cách không phù hợp. Kết quả được mô
tả trong Bảng 3.7 trong đó nghiên cứu sử dụng công cụ ước tính bảng điều khiển
động GMM hai bước với (Windmeijer, 2005) đã được sửa chữa sai số tiêu chuẩn.
Kiểm định Arellano Bond và Hansen cho thấy mô hình đều phù hợp.
Từ Mô hình (1)-(3), luận án sử dụng dòng vốn ròng làm biến giải thích chính
và Zscore, LLR, NPL lần lượt là biến phụ thuộc. Theo cùng phương pháp tương tự
được triển khai ở Mô hình (4)-(6) tuy nhiên biến giải thích chính lúc này là tổng
dòng vốn. Một cách tổng quan, dòng vốn quốc tế gián tiếp và dòng vốn khác tác
động tiêu cực đến chỉ số Zscore và tăng tỷ lệ NPL cũng như LLR. Kết quả này phù
hợp với những phát hiện trước đó của luận án. Trong khi đó, một lần nữa dòng vốn
quốc tế trực tiếp và dòng vốn khác tiếp tục cho kết quả hỗn hợp. Thật vậy, ở Mô
hình (1)-(3) dòng vốn khác ảnh hưởng tiêu cực đến cả 3 chỉ số nhưng mức độ thấp
hơn đối với LLR và NPL. Tuy nhiên, từ Mô hình (4)-(6), trong khi ảnh hưởng này
là không đổi đối với Zscore (mặc dù mức độ thấp hơn), kết quả cho thấy ngược lại
đối với LLR và NPL. Một cách tương tự, dòng vốn trực tiếp tác động cùng chiều
đáng kể đến Zscore và ngược chiều đến LLR tuy nhiên đối với NPL kết quả là
không nhất quán.
Tóm lại, bằng chứng đã chứng minh những phát hiện trước đây của nghiên
cứu rằng sự gia tăng dòng vốn gián tiếp có liên quan đến sự bất ổn tài chính. Nói
cách khác, các bằng chứng thực nghiệm cho đến nay hỗ trợ quan điểm nhấn mạnh
VARIABLES
khía cạnh bất ổn của dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp.
Bảng 4.8: Kết quả theo phương pháp GMM (3) (1)
(2)
(4)
(5)
(6)
FS=Z-score
FS=LLR
FS=NPL
FS=Z-score
FS=LLR
FS=NPL
L.ZSCORE
-0.215***
-0.362***
(0.0207)
(0.0249)
L.NPL
0.469***
0.435***
93
(0.00508)
(0.00838)
L.LLR
0.0672***
-0.0503***
(0.00918)
(0.00649)
0.269***
0.313***
PORTINVESTRATE
-5.481**
(0.0242)
(0.0219)
(2.242)
OTHERINVESTR
-8.106***
-0.0114*
-0.0991***
(1.772)
(0.00611)
(0.0119)
DIRECTINVESTR
42.54***
-0.208***
-0.341***
(5.332)
(0.0350)
(0.0466)
PORTINVEST
-0.137***
0.00488***
0.00523***
(0.0407)
(0.000202)
(0.000226)
OTHERINVEST
-0.0651***
0.000937***
0.00489***
(0.0216)
(0.000145)
(0.000435)
DIRECTINVEST
3.885***
-0.0236***
0.00565***
(0.173)
(0.00135)
(0.00138)
SIZE
0.388***
-0.00332***
0.00174***
-0.359***
0.00268***
-0.00208***
(0.0457)
(0.000433)
(0.000398)
(0.0402)
(0.000499)
(0.000430)
CAPITAL
23.16***
0.202***
0.181***
8.626***
0.294***
0.0196
(2.534)
(0.0117)
(0.0149)
(1.280)
(0.0102)
(0.0166)
LOANSHARE
1.945***
0.0540***
-0.0910***
-5.827***
0.112***
-0.163***
(0.735)
(0.00373)
(0.00543)
(0.729)
(0.00337)
(0.00521)
DEPOSITSHARE
16.48***
0.0160***
0.169***
9.948***
0.0856***
0.197***
(1.330)
(0.00385)
(0.00624)
(0.00314)
(1.256)
(0.00885)
GDPGR
-7.559*
-0.260***
-0.277***
-0.153***
-3.904
-0.641***
(4.460)
(0.0172)
(0.0286)
(0.0256)
(3.999)
(0.0337)
INF
18.98***
0.149***
0.127***
17.87***
0.238***
0.0299**
(1.170)
(0.0119)
(1.516)
(0.00831)
(0.0114)
(0.0119)
GDPCAP
0.370**
0.00331
-0.401*
0.000194
0.00557***
-0.00130
(0.174)
(0.00235)
(0.228)
(0.00184)
(0.00189)
(0.00315)
Constant
-24.10***
0.0128
-0.137***
-21.62***
-0.0906***
-0.0651***
(2.170)
(0.0150)
(0.0184)
(1.571)
(0.0180)
(0.0201)
AR(2)
0,0000
0,523
0,504
0,149
0,458
0,581
AR(1)
0,0000
0,006
0,000
0,0000
0,014
0,001
Hansen
0,537
0,442
0,573
0,535
0,557
0,393
Observations
591
756
436
1,016
936
693
Number of BANK
71
96
71
96
95
95
Standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.7 Ảnh hưởng của quy mô ngân hàng
Trong phần này, nghiên cứu tiếp tục tiến hành lại mô hình cơ sở theo quy mô
ngân hàng khác nhau để ước tính những ảnh hưởng có thể có của chúng đối với
những phát hiện trước đó. Do vậy, theo Uddin et al. (2020), luận án chia mẫu
nghiên cứu thành hai nhóm (ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ) dựa trên giá trị trung
94
bình của tổng tài sản toàn bộ mẫu. Theo đó, các ngân hàng lớn và nhỏ (large banks
& small banks) là những ngân hàng có tổng tài sản trên và dưới giá trị trung bình
tương ứng.
Kết quả được mô tả ở bảng 4.8, trong đó từ Mô hình (1) đến Mô hình (6) ước
tính theo mẫu các ngân hàng lớn và Mô hình (7)-(12) ước tính theo mẫu các ngân
hàng nhỏ với biến phụ thuộc lần lượt được sử dụng là Z-score, LLR và NPL. Theo
đó, ở mỗi nhóm ngân hàng, 03 mô hình đầu nghiên cứu sử dụng dòng vốn ròng và
03 mô hình sau nghiên cứu sử dụng tổng dòng vốn. Đối với nhóm các ngân hàng
lớn, dòng vốn gián tiếp đều làm gia tăng chỉ số LLR khi sử dụng dòng vốn ròng lẫn
dòng vốn tổng trong mô hình cơ sở, tuy vậy chỉ làm giảm chỉ số Z-score ở Mô hình
(4) với dòng vốn tổng được tiến hành như là biện pháp thay thế. Mặt khác, dòng
vốn trực tiếp đều thể hiện ảnh hưởng tích cực đến Z-score khi áp dụng cho cả dòng
vốn ròng và tổng dòng vốn. Trong khi đó, các hệ số của dòng vốn khác đều không
có ý nghĩa thống kê. Đối với nhóm các ngân hàng nhỏ, dòng vốn gián tiếp chỉ làm
tăng NPL ở Mô hình (12) với việc sử dụng tổng dòng vốn nhưng chỉ ở mức ý nghĩa
10%. Ngoài ra, dòng vốn khác cũng cho kết quả tương quan nghịch biến đến Z-
score nhưng cũng chỉ thể hiện ở Mô hình (7) với dòng vốn ròng được sử dụng làm
biến độc lập. Đối với dòng vốn trực tiếp kết quả cho thấy sự hỗ trợ.
Nhìn chung, rõ ràng là dòng vốn quốc tế mà đặc biệt là dòng vốn gián tiếp tác
động tương đối rõ nét hơn ở các ngân hàng lớn so với các ngân hàng nhỏ. Điều này
có thể được giải thích do các ngân hàng có tổng tài sản lớn thường là các ngân
hàng có thương hiệu và uy tín trên thị trường, vì vậy, họ có thể dễ dàng huy động
dòng vốn gián tiếp từ các định chế tài chính nước ngoài thông qua các chương trình
cấp tín dụng, từ việc mở L/C, mua bán các giấy tờ có giá… Bên cạnh đó, các ngân
hàng có quy mô tổng tài sản lớn thì rủi ro phá sản và rủi ro thanh khoản thấp nhưng
rủi ro tín dụng cao hơn. Các ngân hàng lớn thường đầu tư vào nhiều dự án lớn, thời
gian thu hồi vốn dài nên rất nhạy cảm với sự biến động của kinh tế vĩ mô. Mặt
khác, dựa trên lý thuyết “to big to fail” (quá lớn để thất bại), các ngân hàng lớn có
thể sẽ tham gia các dự án có rủi ro cao (Laeven et al., 2016), vì vậy, tỷ lệ dự phòng
95
rủi ro tín dụng sẽ cao hơn. Kết quả nghiên cứu phản ánh việc các ngân hàng lớn có
lợi thế nhất định trong việc tiếp cận và phân bổ dòng vốn quốc tế so với các ngân
hàng nhỏ, ít nhất là tại thị trường các nước ASEAN.
96
Bảng 4.9: Kết quả theo quy mô ngân hàng
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
large banks
small banks
VARIABLES
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
PORTINVESTRATE
18.50
0.545***
0.0436
-4.810
0.00573
-0.0380
(13.35)
(0.120)
(0.159)
(2.961)
(0.00779)
(0.0612)
OTHERINVESTR
-5.514
0.0485
0.0743
-8.300***
0.00273
0.0617
(6.913)
(0.105)
(0.0757)
(3.179)
(0.0109)
(0.0501)
DIRECTINVESTR
36.35***
-0.420***
-0.0461
-1.136
0.0191*
0.0224
(10.70)
(0.0758)
(0.116)
(2.991)
(0.0101)
(0.0500)
PORTINVEST
-0.0937*
0.00497***
0.000876
-0.183
0.000683
0.00399*
(0.0534)
(0.00107)
(0.000757)
(0.121)
(0.000555)
(0.00226)
OTHERINVEST
0.0182
0.000363
0.00186
0.00474
0.000456
0.00237
(0.121)
(0.00143)
(0.00169)
(0.0975)
(0.000457)
(0.00214)
DIRECTINVEST
1.093***
0.00257
-0.0105
0.309
-0.00276**
0.00318
(0.286)
(0.00295)
(0.00665)
(0.250)
(0.00119)
(0.00608)
SIZE
0.0929
0.178**
0.00209***
- 0.00391***
0.0539
0.00199***
-0.00450***
0.120
0.000877***
-0.00340
0.000281
- 0.00465**
(0.0673)
(0.0687)
(0.000536)
(0.000971)
(0.0688)
(0.000575)
(0.00103)
(0.000267)
(0.00205)
(0.102)
(0.000305)
(0.00261)
CAPITAL
0.0354**
-0.0296
2.524
0.0460***
-0.0276
3.977**
3.605*
0.00298
-0.0423
1.901
0.00596
-0.0354
(0.0142)
(0.0201)
(1.817)
(0.0155)
(0.0204)
(1.709)
(2.092)
(0.00846)
(0.0432)
(2.768)
(0.0124)
(0.0576)
LOANSHARE
0.0310***
-0.0318**
-0.999
0.0257***
-0.0347**
-1.220*
0.0732
0.00391
-0.0316
-0.168
0.00213
-0.0794**
(0.00905)
(0.0124)
(0.719)
(0.00960)
(0.0140)
(0.707)
(0.663)
(0.00297)
(0.0225)
(0.906)
(0.00484)
(0.0349)
DEPOSITSHARE
-0.0157
0.0257**
1.499*
-0.00325
0.0225*
1.964**
2.338**
-0.00331
0.0114
3.010**
0.00102
0.00751
(0.00997)
(0.0118)
(0.824)
(0.0104)
(0.0127)
(0.817)
(1.080)
(0.00448)
(0.0247)
(1.517)
(0.00535)
(0.0283)
GDPGR
-0.471***
-0.664***
2.723
-0.680***
-0.573***
-9.771
6.659*
-0.0502***
-0.356***
6.976
0.0314
-0.416**
(0.135)
(0.200)
(12.34)
(0.131)
(0.165)
(15.69)
(3.519)
(0.0140)
(0.0864)
(7.924)
(0.0316)
(0.201)
INF
0.118***
0.0216
3.343
0.0742***
0.00991
1.503
-14.63**
-0.0276
0.0212
0.244
0.129
-40.10***
(0.0198)
(0.0247)
(2.187)
(0.0231)
(0.0245)
(2.068)
(5.699)
(0.0177)
(9.418)
(0.0381)
(0.275)
(0.115) - 0.0156***
-0.0390
-0.000161
-0.0171**
GDPCAP
1.216***
-0.0226***
0.0166**
-0.141
-0.0324***
0.0303***
0.688***
-0.00433***
(0.329)
(0.00130)
(0.00661)
(0.465)
(0.00451)
(0.00750)
(0.584)
(0.00661)
(0.00800)
(0.194)
(0.000729)
(0.00357)
-0.218
0.000497
0.235***
Constant
-9.706***
0.144***
0.0350
-6.742**
0.157***
0.0178
-6.755**
0.0408***
0.294***
97
(3.202)
(0.0324)
(0.0622)
(2.905)
(0.0299)
(0.0413)
(2.939)
(0.0120)
(0.0685)
(3.455)
(0.0118)
(0.0789)
Observations
367
586
561
338
516
496
315
529
484
161
278
246
R-squared
0.095
0.324
0.135
0.106
0.314
0.161
0.167
0.120
0.177
0.225
0.119
0.195
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
98
4.3.8 Ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu
Ở nội dung này luận án tiến hành đo lường tác động của cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu đến mối quan hệ giữa dòng vốn quốc tế và sự ổn định tài chính.
Đã có nhiều nghiên cứu đề cập đến cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến sự ổn
định tài chính cũng như những nguy cơ bất ổn đến từ sự đảo chiều của dòng vốn
quốc tế trong những giai đoạn bất ổn. Theo Phan et al. (2021), luận án chia mẫu
nghiên cứu làm hai giai đoạn: giai đoạn khủng khoảng (crisis) bao gồm các năm
2007, 2008 và 2009; giai đoạn sau khủng khoảng (after crisis) từ năm 2010 trở đi.
Kết quả được mô tả trong bảng 3.10 với từ Mô hình (1)-(6) theo giai đoạn sau
khủng hoảng và từ Mô hình (7)-(12) là giai đoạn trong khủng hoảng. Các mô hình
được thực hiện tuần tự như kết quả thể hiện ở bảng 3.8.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, dòng vốn quốc tế tác động khá rõ nét ở giai
đoạn sau khủng hoảng. Cụ thể, dòng vốn gián tiếp góp phần làm gia tăng chỉ số
LLR và NPL và đều ở mức ý nghĩa thống kê 1% ở các mô hình. Trong khi đó,
dòng vốn trực tiếp có tác động dương đến Z-score (Mô hình (4)) và tác động âm
đến LLR và NPL (Mô hình (2), (3), (5)). Dòng vốn khác cho kết quả tương tự dòng
vốn gián tiếp nhưng ở mức độ ít nhất quán hơn. Trong giai đoạn khủng hoảng,
bằng chứng thực nghiệm cho thấy kết quả thiếu rõ ràng trong việc tác động của
dòng vốn quốc tế. Điều này có thể xuất phát từ 02 nguyên nhân chính sau: (i) ảnh
hưởng dòng vốn có độ trễ nhất định để lan tỏa đến sự ổn định tài chính; (ii) trong
giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu, các quốc gia ASEAN đã có những bài
học kinh nghiệm sâu sắc trước đó khi đối mặt với khủng hoảng năm 1997, do vậy
có thể cơ quan quản lý ở các quốc gia này đã có những biện pháp ứng phó và kiểm
soát nhất định nhằm làm giảm thiểu những ảnh hưởng không mong muốn từ sự
biến động của dòng vốn quốc tế, (iii) sau khủng hoảng, trong khi các luồng vốn
khác vào các thị trường mới nổi chưa hồi phục, thì sự phục hồi của các luồng vốn
đầu tư gián tiếp đã hỗ trợ sự bình phục của các tài sản của thị trường mới nổi, đặc
biệt là cổ phiếu và bất động sản nhưng ở một chừng mực thấp hơn và điều này
được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của các ngân hàng.
99
Bảng 4.10: Kết quả theo giai đoạn trong và sau khủng hoảng
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
after crisis
crisis
VARIABLES
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
Y=Zscore
Y=LLR
Y=NPL
PORTINVESTRATE
-7.397**
0.0843***
0.145***
-67.71
0.0142
0.229
(3.071)
(0.0190)
(0.0395)
(45.91)
(0.0373)
(0.241)
OTHERINVESTR
-9.498***
0.0132
0.111**
14.02
-0.0957*
-0.410
(0.0446)
(3.102)
(0.0298)
(14.11)
(0.0531)
(0.344)
DIRECTINVESTR
0.982
-0.0981***
-0.0860**
-0.809
0.0368
0.0938
(2.889)
(0.0263)
(0.0354)
(13.87)
(0.0290)
(0.149)
PORTINVEST
-0.0491
0.00420***
0.00306***
-0.441**
0.000160
0.00784
(0.0465)
(0.000769)
(0.000679)
(0.194)
(0.00123)
(0.00580)
OTHERINVEST
-0.0361
-0.000540
0.00145
0.00648
0.0295
(0.0684)
(0.000701)
(0.00104)
(0.00734)
(0.0306)
DIRECTINVEST
0.446***
-0.00558***
0.00386
-0.00362
0.0214
-1.780**
(0.171)
(0.00144)
(0.00379)
(0.756)
(0.00306)
SIZE
0.0319
0.168
0.000880
(0.0160) - 0.0129***
- 0.000544***
- 0.00139***
-0.0299
0.000229
-0.00285***
0.216
0.000918*
- 0.00913***
(0.0250)
(0.000178)
(0.000354)
(0.0491)
(0.000276)
(0.000729)
(0.155)
(0.000476)
(0.00311)
(0.169)
(0.000837)
(0.00484)
CAPITAL
1.398
0.0844***
0.0678***
2.633**
0.0690***
0.0358*
3.861
-0.0225*
-0.205**
4.112
-0.0221
-0.237*
(1.074)
(0.0101)
(0.0178)
(1.304)
(0.0126)
(0.0198)
(3.348)
(0.0129)
(0.0824)
(3.746)
(0.0230)
(0.126)
LOANSHARE
0.102
0.00944*
-0.0513***
-0.438
0.00772
-0.0670***
-0.0600
-0.00482
0.0435
0.0255
-0.00439
0.0164
(0.494)
(0.00508)
(0.0136)
(0.584)
(0.00603)
(0.0179)
(1.539)
(0.00389)
(0.0298)
(1.706)
(0.00808)
(0.0697)
DEPOSITSHARE
0.799
0.00970*
0.0463***
1.772***
0.00629
0.0436***
0.139
0.00851
0.0265
0.840
0.0170
0.0128
(0.584)
(0.00585)
(0.0135)
(0.633)
(0.00770)
(0.0139)
(2.170)
(0.00812)
(0.0427)
(2.279)
(0.0145)
(0.0700)
GDPGR
3.661
-0.150***
-0.258***
3.771
-0.0536
-0.249**
-75.43***
-0.0419
0.345
(5.247)
(0.0342)
(0.0633)
(6.779)
(0.0571)
(0.0984)
(26.44)
(0.0648)
(0.404)
INF
-0.801
0.150***
-0.0345
0.150
0.142***
-0.0992***
-0.0197
-0.0306
(1.734)
(0.0200)
(1.967)
(0.0232)
(0.0252)
(0.0782)
GDPCAP
(0.0240) - 0.00760***
-0.0430
(0.0176) - 0.00325***
-0.0154**
0.592***
0.00376**
0.111
0.00407**
-0.0157***
(0.166)
(0.363)
(0.00121)
(0.00686)
(0.00150)
(0.00205)
(0.252)
(0.00170)
(0.00319)
Constant
-1.786
1.905
0.0188
0.335***
-0.0362**
0.129***
-0.695
-0.0371**
0.176***
16.71***
-0.0387
-0.138
100
(1.826)
(0.0156)
(0.0235)
(2.137)
(0.0175)
(0.0227)
(3.625)
(0.0151)
(0.0728)
(3.801)
(0.0350)
(0.161)
Observations
622
939
886
458
704
664
60
176
159
41
90
78
0.109
0.206
0.150
0.091
0.260
0.200
0.301
0.135
0.266
0.292
0.103
0.252
R-squared Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
101
4.3 Kết quả nghiên cứu mô hình thực nghiệm tại Việt Nam
Nhằm đào sâu hơn nữa về ảnh hưởng của các loại hình dòng vốn quốc tế tới sự
ổn định tài chính, luận án tiến hành lấy bối cảnh Việt Nam làm môi trường thực
nghiệm bởi vì Việt Nam tương đối hội đủ các điều kiện trong việc lựa chọn làm môi
trường nghiên cứu sự ổn định ngân hàng dưới tác động của dòng vốn quốc tế. Giai
đoạn thực hiện nghiên cứu từ 2006 - 2019 bao gồm cả thời kỳ mà Việt Nam đối
mặt với không chỉ khủng hoảng tài chính toàn cầu mà còn là khủng hoảng thanh
khoản trong nước (2008 - 2011) và tiếp sau đó là giai đoạn chuyển mình của những
đổi mới quy định và phương cách quản lý. Do vậy, việc lượng hóa tác động của
dòng vốn quốc tế đến sự ổn định ngân hàng nói riêng và tài chính nói chung tại Việt
Nam sẽ hàm ý những chính sách quan trọng cho cả trong nước lẫn những quốc gia
có cấu trúc tài chính tương đồng.
4.3.1 Thống kê mô tả và ma trận tương quan
Luận án tiến hành thực nghiệm lại mô hình cơ sở dựa trên phương trình mô
hình hồi quy cơ sở (1) nhằm đánh giá tác động của các loại hình dòng vốn quốc tế
đến sự ổn định tài chính trong nước. Bảng 4.11 trình bày thống kê mô tả các biến và
Bảng 4.12 thể hiện ma trận tương quan giữa các biến. Tất cả các biến được làm sạch
VARIABLES ZSCORE PORTINVESTRATE OTHERINVESTR DIRECTINVESTR SIZE CAPITAL LOANSHARE DEPOSITSHARE GDPGR INF GDPCAP
(4) min 2.067 -0.00463 0.00555 0.0285 20.89 0.0416 0.216 0.251 0.0525 0.00597 6.904
(5) max 7.229 0.0634 0.0503 0.0768 27.83 0.387 0.771 0.878 0.0713 0.199 8.136
(1) N 315 364 364 364 348 348 348 347 364 364 364
(winsorized) ở phân vị 1% và 99%.
Bảng 4.11: Thống kê mô tả (3) (2) sd mean 1.210 4.222 0.0160 0.00997 0.0107 0.0245 0.0116 0.0504 24.89 1.407 0.0649 0.109 0.133 0.536 0.137 0.614 0.00650 0.0631 0.0569 0.0760 0.373 7.628 Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
102
Bảng 4.12: Ma trận tương quan giữa các biến
Variables
(ZSCORE)
(SIZE)
(INFR)
1.000 -0.009 (0.869) -0.092 (0.104) -0.105 (0.063) 0.147* (0.009) -0.079 (0.164) 0.074 (0.188) 0.175* (0.002) 0.210* (0.000) -0.186* (0.001) 0.185* (0.001)
(PORTINVE STRATE) 1.000 -0.070 (0.185) 0.216* (0.000) -0.197* (0.000) 0.060 (0.262) -0.052 (0.329) -0.242* (0.000) 0.498* (0.000) 0.221* (0.000) -0.444* (0.000)
(OTHERIN VESTR) 1.000 0.231* (0.000) 0.043 (0.427) -0.035 (0.517) -0.049 (0.364) -0.105 (0.051) -0.248* (0.000) 0.077 (0.142) 0.024 (0.645)
(DIRECTI NVESTR) 1.000 -0.094 (0.079) 0.111* (0.039) -0.008 (0.880) -0.111* (0.038) -0.050 (0.343) 0.495* (0.000) -0.198* (0.000)
1.000 -0.716* (0.000) 0.184* (0.001) 0.462* (0.000) 0.074 (0.171) -0.316* (0.000) 0.572* (0.000)
(CAPIT AL) 1.000 -0.083 (0.124) -0.387* (0.000) -0.118* (0.027) 0.282* (0.000) -0.379* (0.000)
(LOANSH ARE) 1.000 0.545* (0.000) 0.242* (0.000) -0.287* (0.000) 0.283* (0.000)
(DEPOSIT SHARE) 1.000 0.090 (0.093) -0.494* (0.000) 0.479* (0.000)
(GDPG R) 1.000 -0.187* (0.000) 0.064 (0.225)
1.000 -0.566* (0.000)
(GDPC AP) 1.000
ZSCORE PORTINVESTRATE OTHERINVESTR DIRECTINVESTR SIZE CAPITAL LOANSHARE DEPOSITSHARE GDPGR INFR GDPCAP *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
103
4.3.2 Kết quả thực nghiệm chính
Bảng 4.13 trình bày kết quả hồi quy chính với dữ liệu được làm sạch
(winsorized) ở phân vị 1% và 99%. Đầu tiên, nghiên cứu thực hiện mô hình cơ sở
ở Mô hình (1) với chỉ số Z-score làm biến phụ thuộc. Kết quả cho thấy dòng vốn
gián tiếp tác động tiêu cực đáng kể đến chỉ số này và ở mức ý nghĩa thống kê 5%.
Điều này phù hợp với phát hiện trước đó đối với thị trường các nước ASEAN
nghĩa là việc gia tăng dòng vốn gián tiếp sẽ dẫn đến nguy cơ bất ổn tài chính cao
hơn. Đối với hai dòng vốn còn lại, dòng vốn trực tiếp lúc này cho thấy kết quả
tương đồng với dòng vốn gián tiếp nhưng ở mức ý nghĩa 10% bên cạnh dòng vốn
khác cũng thể hiện tương tự và không có ý nghĩa thống kê. Ở mô hình kế tiếp,
nhằm đo lường ảnh hưởng của việc sở hữu bởi nhà nước tại các NHTM trong
nước, nghiên cứu tạo biến giả STATE có giá trị bằng 1 đối với các NHTM thuộc
sở hữu nhà nước và bằng 0 đối với các ngân hàng còn lại. Kết quả thể hiện là
không đổi, trong đó hệ số của biến STATE là dương nhưng không có ý nghĩa
thống kê.
Ở Mô hình (3)-(4), luận án tiến hành lại mô hình cơ sở với biến phụ thuộc
được thay thế lần lượt bởi LLR và NPL. Theo đó, dòng vốn gián tiếp lúc này cho
thấy mối quan hệ cùng chiều đến hai chỉ số trên, tuy nhiên không có ý nghĩa thống
kê. Mặt khác, dòng vốn trực tiếp lúc này đều ảnh hưởng ngược chiều đến LLR và
NPL và lần lượt ở mức ý nghĩa 10% và 1%. Qua đây, một lần nữa dòng vốn trực
tiếp cho kết quả hỗn hợp như đã trình bày ở thị trường ASEAN. Bên cạnh đó, hệ số
của dòng vốn khác chỉ có ý nghĩa thống kê ở mức 10% và dương ở Mô hình (3) với
LLR là biến phụ thuộc.
Từ Mô hình (5)-(7), nghiên cứu thực hiện lại mô hình cơ sở với cách tiếp cận
theo mô hình Fixed-effects với biến phụ thuộc lần lượt là Z-sore, LLR và NPL
trong đó theo Perrin & Weill (2021), luận án sử dụng LLR và NPL như là phương
pháp thay thế cho Z-score. Kết quả đối với mối quan hệ giữa dòng vốn gián tiếp và
chỉ số Z-score một lần nữa không thay đổi. Tương tự đối với mối quan hệ giữa
dòng vốn trực tiếp và LLR cũng như NPL. Đối với dòng vốn khác cũng thể hiện
104
như Mô hình (3) tuy nhiên ở mức ý nghĩa thống kê 1%.
Tại thời điểm này, có thể nhận thấy rằng, kết quả thực nghiệm tại Việt Nam
Bảng 4.13: Kết quả hồi quy (2)
(3)
(4)
(5)
(1)
(6)
(7)
Fixed-effects
Ols
FS=
Zscore
Zscore
LLR
NPL
Zscore
LLR
NPL
PORTINVESTRATE
-16.20**
-16.23**
0.0533
-16.61**
0.109
0.123
0.0717
(7.731)
(0.128)
(0.0830)
(7.743)
(7.276)
(0.132)
(0.0777)
OTHERINVESTR
-5.256
0.339*
-0.0778
-5.122
-5.146
0.345***
-0.0521
(6.743)
(0.181)
(0.0633)
(6.720)
(5.288)
(0.0906)
(0.0394)
DIRECTINVESTR
-21.92*
-0.237*
-0.299***
-21.84*
-22.55
-0.247*
-0.334***
(12.40)
(0.128)
(0.115)
(12.45)
(14.62)
(0.135)
(0.0765)
SIZE
0.0956
0.0665
0.00795***
-0.000637
0.00695**
-0.000643
0.0963
(0.0782)
(0.107)
(0.00246)
(0.000822)
(0.0976)
(0.00326)
(0.00149)
CAPITAL
2.917
3.140
0.0747
0.0282*
2.824
0.0748*
0.0206
(2.052)
(2.172)
(0.0501)
(0.0149)
(2.099)
(0.0383)
(0.0169)
LOANSHARE
-0.947
-1.007
0.0567
-0.0109
-1.073
0.0514***
-0.00696
(0.673)
(0.873)
(0.0445)
(0.0118)
(0.723)
(0.0184)
(0.00771)
-0.0378*
0.0388***
DEPOSITSHARE
1.670**
1.728**
-0.0510**
0.0235***
1.745**
(0.0221)
(0.0114)
(0.720)
(0.720)
(0.0201)
(0.00828)
(0.868)
-0.312
-0.479**
-0.337
GDPGR
75.91***
76.59***
-0.517***
77.20***
(19.85)
(19.14)
(0.326)
(0.233)
(19.81)
(0.378)
(0.192)
INF
-2.363
-2.399*
0.147**
0.0526***
-2.357
0.132***
0.0397**
(1.715)
(1.362)
(0.0597)
(0.0119)
(1.721)
(0.0336)
(0.0163)
GDPCAP
-1.145*
-1.159*
0.00234
-1.088*
-0.0318***
0.00278
-0.0342***
(0.592)
(0.597)
(0.616)
(0.00606)
(0.00545)
(0.00942)
(0.00742)
STATE
0.130
(0.294)
Constant
6.669
6.675
0.0771*
0.0424
6.930
0.0462
0.0494
(0.0412)
(0.0349)
(4.480)
(4.518)
(0.0469)
(0.0380)
(4.338)
Observations
314
338
316
314
338
316
314
Number of BANK
26
26
26
26
26
26
26
0.104
0.105
0.184
0.132
0.1042
0.1814
0.1243
R-squared Robust standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
là khá tương đồng với các phát hiện tại thị trường ASEAN đã trình bày trước đó.
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.3 Thay thế đo lường biến độc lập quan tâm chính
Ở bảng 4.14, luận án ước tính lại các phát hiện của mình với thước đo thay
thế đối với biến phụ thuộc quan tâm chính, các loại hình dòng vốn quốc tế. Các
105
nghiên cứu trước đây đã nêu bật về vai trò của tổng dòng vốn đối với sự ổn định tài
chính so với dòng vốn ròng (Baum et al., 2017; Broner et al., 2013; Hannan &
Pagliari, 2017). Do vậy, luận án thực hiện lại các mô hình ở Bảng 5.3 (ngoại trừ
Mô hình (2) với việc xem xét biến giả STATE) với biến phụ thuộc là (logarit tự
nhiên) tổng dòng vốn gián tiếp (PORTINVEST), tổng dòng vốn trực tiếp
(DIRECTINVEST) và tổng dòng vốn khác (OTHERINVEST). Theo đó, từ Mô
hình (1) đến (3) biến phụ thuộc lần lượt là là Z-score, LLR và NPL và tương tự cho
Mô hình (4)-(6). Ở ba mô hình đầu, nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy OLS
và 03 mô hình sau là phương pháp hồi quy Fixed-effects.
Điều dễ dàng nhận thấy là trong tất cả mô hình, dòng vốn quốc tế gián tiếp
đều tác động ngược chiều đến chỉ số Z-score và tương quan cùng chiều với LLR và
NPL, tất cả hệ số đều có ý nghĩa thống kê. Điều này phù hợp với các phát hiện
trước đó của nghiên cứu là dòng vốn gián tiếp làm gia tăng sự bất ổn tài chính.
Trong khi đó, dòng vốn trực tiếp góp phần suy giảm LLR và NPL, cũng phù hợp
với kết quả mô tả ở Bảng 4.13. Đối với dòng vốn khác, chỉ có hệ số ở Mô hình (5)
với LLR là biến phụ thuộc có ý nghĩa thống kê ở mức 5% và thể hiện âm, tương tự
như phát hiện ở trên.
Như vậy, trong 03 loại hình dòng vốn quốc tế, có thể thấy rằng dòng vốn gián
tiếp ảnh hưởng tiêu cực rõ nét nhất đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam. Cho đến
hiện tại, kết quả thực nghiệm là tương đối nhất quán.
Bảng 4.14: Kết quả hồi quy với biến độc lập được thay thế
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
Ols
Fixed-effects
FS=
Zscore
LLR
NPL
Zscore
LLR
NPL
PORTINVEST
-0.226**
0.00747*
0.00209**
-0.226**
0.00768**
0.00225***
(0.0938)
(0.00400)
(0.000855)
(0.0898)
(0.00350)
(0.000848)
OTHERINVEST
0.0801
0.00314
-0.00144
0.0801
0.00329**
-0.00135
(0.149)
(0.00363)
(0.00151)
(0.140)
(0.00138)
(0.00102)
DIRECTINVEST
0.0797
-0.0225*
-0.0170**
0.0797
-0.0224**
-0.0177***
(1.333)
(0.0117)
(0.00785)
(1.546)
(0.0101)
(0.00670)
SIZE
0.0734
0.00854***
-0.00136
0.0734
0.00750*
-0.00137
(0.0895)
(0.00278)
(0.000914)
(0.0988)
(0.00385)
(0.00154)
CAPITAL
2.944
0.0998**
0.00558
2.944
0.111
0.00573
(2.460)
(0.0448)
(0.0187)
(2.305)
(0.0687)
(0.0198)
106
LOANSHARE
-0.601
0.0376**
-0.00971
-0.601
0.0352
-0.0132
(0.800)
(0.0176)
(0.00927)
(0.950)
(0.0363)
(0.0139)
DEPOSITSHARE
1.305
-0.0396*
0.0212**
1.305
-0.0186
0.0331**
(0.812)
(0.0227)
(0.0100)
(0.915)
(0.0278)
(0.0134)
GDPGR
51.36**
-0.451
-0.628***
51.36*
-0.388
-0.596**
(24.70)
(0.395)
(0.207)
(28.13)
(0.377)
(0.255)
INF
0.848
0.106**
-0.00340
0.848
0.125**
0.00978
(2.810)
(0.0466)
(0.0218)
(2.816)
(0.0637)
(0.0164)
GDPCAP
-0.106
-0.00598
0.0217***
-0.106
-0.00786
0.0219***
(1.123)
(0.0118)
(0.00817)
(1.388)
(0.0119)
(0.00713)
Constant
0.248
0.127
0.299**
0.248
0.140
0.299***
(0.125)
(20.98)
(0.1000)
(24.45)
(0.0873)
(0.113)
Observations
247
268
250
247
268
250
Number of BANK
26
26
26
26
26
26
R-squared
0.082
0.191
0.174
0.0823
0.1877
0.1681
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
Ngoài ra, khi luận án tiến hành kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Hệ số VIF
cho thấy đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ mô hình cơ sở của nghiên cứu không có dấu
hiệu xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến.
Bảng 4.15: Kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến
VIF
1/VIF
7.99 0.125104 3.92 0.254888 3.57 0.279835 3.16 0.316052 2.32 0.430567 2.28 0.438847 2.26 0.442306 2.08 0.481176 1.81 0.553267 1.11 0.904737
Variable GDPCAP GDPGR PORTINVESTRATE DIRECTINVESTR SIZE DEPOSITSHARE INFR CAPITAL LOANSHARE OTHERINVESTR Mean VIF
3.05
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.4 Tiếp cận phương pháp hồi quy GMM
Để củng cố niềm tin vào tính thuyết phục của những phát hiện của nghiên
cứu, luận án sử dụng phương pháp hệ thống động GMM (the dynamic system
107
GMM method) bằng cách thêm biến phụ thuộc có độ trễ vào mô hình cơ sở. Điều
này sẽ giúp tăng khả năng khắc phục các vấn đề về nội sinh, phương sai thay đổi
và tự tương quan cũng như mối tương quan giữa tất cả các biến độc lập (Arellano
& Bond, 1991; Blundell & Bond, 1998) và do đó, kiểm tra ước tính nhất quán của
kết quả đạt được. Thật vậy, như Arellano & Honoré (2001) đã lưu ý, phương pháp
OLS có thể xử lý các ước tính sai lệch một cách không phù hợp. Kết quả được mô
tả trong Bảng 4.16 trong đó nghiên cứu sử dụng công cụ ước tính bảng điều khiển
động GMM hai bước với (Windmeijer, 2005) đã được sửa chữa sai số tiêu chuẩn.
Từ Mô hình (1)-(3), luận án sử dụng dòng vốn ròng làm biến giải thích chính
và Z-score, LLR, NPL lần lượt là biến phụ thuộc. Ở Mô hình (1), mô hình cơ sở,
dòng vốn quốc tế gián tiếp ảnh hưởng ngược chiều đến chỉ số Z-score ở mức ý
nghĩa 1%, củng cố thêm về phát hiện trước đó của nghiên cứu về tác động của loại
hình dòng vốn này. Hơn nữa, dòng vốn trực tiếp cũng cho thấy kết quả tương tự,
đồng nhất với kết quả ở mô hình cơ sở Bảng 4.13. Dòng vốn khác lúc này cũng
góp phần làm suy giảm đáng kể chỉ số Z-score. Ở Mô hình (2), khi nghiên cứu thay
thế biến phụ thuộc là LLR, chỉ có hệ số của dòng vốn khác có ý nghĩa thống kê ở
mức 1% và dương, phù hợp với phát hiện trước đó. Ở Mô hình (3), khi thay thế
biến phụ thuộc là NPL, hệ số của dòng vốn gián tiếp là dương và có ý nghĩa ở mức
1%, thể hiện sự gia tăng loại hình dòng vốn này sẽ làm tăng tỷ lệ nợ xấu.
Tóm lại, kết quả thực nghiệm khẳng định một cách tương đối mạnh mẽ về tác
động bất ổn mà dòng vốn gián tiếp đem lại tại thị trường Việt Nam. Kế đến là dòng
vốn khác nhưng ở mức độ ít rõ nét hơn. Trong khi đó, dòng vốn trực tiếp cho kết
quả hỗn hợp.
Bảng 4.16: Kết quả theo phương pháp GMM
(2) LLR
(3) NPL
FS L.ZSCORE
(1) Zscore 0.0298 (0.0734)
L.LLR
0.470*** (0.0320)
L.NPL
0.270***
108
PORTINVESTRATE
OTHERINVESTR
DIRECTINVESTR
SIZE
CAPITAL
LOANSHARE
DEPOSITSHARE
GDPGR
INFR
GDPCAP
Constant
AR(2) AR(1) Hansen
-31.66*** (10.72) -10.40*** (3.449) -26.65*** (8.544) 0.172** (0.0673) 4.241*** (1.566) -0.404 (0.541) 1.327 (0.832) 79.48*** (11.03) -2.902*** (0.932) -1.548*** (0.390) 7.737*** (2.510) 0.250 0.000 0.414
-0.0573 (0.0438) 0.342*** (0.0741) -0.0409 (0.0633) 0.00262*** (0.000970) 0.0202 (0.0158) 0.0155* (0.00942) -0.0246*** (0.00607) 0.258** (0.109) 0.0636*** (0.0105) -0.0142*** (0.00277) 0.0183 (0.0350) 0.822 0.034 0.128
(0.0427) 0.203*** (0.0299) -0.0149 (0.0171) 0.0368 (0.0392) -0.000753 (0.000608) 0.0478*** (0.00997) -0.00377 (0.00422) 0.0141** (0.00561) -0.713*** (0.0990) 0.0574*** (0.00973) 0.0191*** (0.00213) -0.0880*** (0.0191) 0.248 0.011 0.448
311 26
288 26
283 26
Observations Number of BANK Standard errors in parentheses *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
4.3.5 Tác động từ cuộc khủng hoảng
Tại Việt Nam, giai đoạn nghiên cứu của luận án không chỉ bao gồm cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu mà còn cả cuộc khủng hoảng thanh khoản trong
nước. Thật vậy, theo Đỗ Hoài Linh & Lại Thị Thanh Loan (2019), giai đoạn từ
2008 đến 2011, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã chứng kiến về sự căng thẳng
thanh khoản khi tỷ lệ tín dụng/huy động vốn của hệ thống vượt 100% và lãi suất
liên ngân hàng có sự gia tăng đột biến. Do đó, nhằm đo lường tác động của không
chỉ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng như khủng hoảng thanh khoản tại
Việt Nam, luận án chia mẫu nghiên cứu làm hai giai đoạn: giai đoạn khủng khoảng
109
(crisis) bao gồm các năm từ 2008 đến 2011 và giai đoạn sau khủng khoảng (non-
crisis) từ năm 2012 trở đi. Kết quả được mô tả trong Bảng 4.17.
Từ Mô hình (1)-(3) là giai đoạn sau khủng hoảng với các biến phụ thuộc lần
lượt được sử dụng là Zscore, LLR và NPL. Tương tự phương cách này, giai đoạn
khủng hoảng được thể hiện ở Mô hình (4)-(6). Một cách tổng thể, có thể nhận thấy
rằng giai đoạn sau khủng khoảng dòng vốn quốc tế thể hiện kết quả một cách
tương đối mạnh mẽ hơn trong giai đoạn khủng hoảng trong đó một lần nữa, dòng
vốn gián tiếp cho thấy mức độ rõ nét nhất về khả năng đưa đến nguy cơ bất ổn. Cụ
thể, ảnh hưởng của dòng vốn gián tiếp ở giai đoạn sau khủng hoảng đến chỉ số Z-
score là tương quan âm đáng kể trong khi có tương quan dương đối với chỉ số dự
phòng và nợ xấu. Đối với hai loại hình dòng vốn còn lại, chỉ có hệ số của dòng vốn
trực tiếp với tương quan âm là có ý nghĩa về mặt thống kê (10%) ở Mô hình (2) khi
LLR được sử dụng làm biến phụ thuộc. Đối với giai đoạn khủng hoảng, kết quả thể
hiện cả dòng vốn gián tiếp lẫn trực tiếp đều tác động gia tăng tỷ lệ nợ xấu tuy chỉ ở
mức ý nghĩa 10%. Khi sử dụng Z-score và LLR làm biến phụ thuộc, các hệ số của
các dòng vốn khác đều không có ý nghĩa thống kê.
110
Bảng 4.17: Kết quả theo tác động từ khủng hoảng
(2)
(3)
(4)
(1)
(5)
(6)
Non-crisis
Crisis
FS= PORTINVESTRATE
OTHERINVESTR
Zscore 8.243 (8.146) -43.34 (45.75)
DIRECTINVESTR
SIZE
CAPITAL
LOANSHARE
DEPOSITSHARE
0.0542 (0.137) 1.599 (2.785) -0.503 (1.007) 1.354 (1.358)
LLR -0.0165 (0.0240) -0.0718 (0.125) 0.0228 (0.0571) 0.00294*** (0.000604) 0.0200*** (0.00720) 0.00388 (0.00346) 0.00785* (0.00411)
NPL -0.139* (0.0762) 0.141 (0.319) -0.297* (0.158) 0.00214 (0.00174) 0.0314 (0.0216) 0.00782 (0.0123) 0.0161 (0.0138)
GDPGR
INFR
GDPCAP
Constant
Zscore -99.12** (38.19) 1.231 (7.312) -45.66 (64.73) 0.151 (0.102) 5.097 (3.443) -1.176 (0.950) 1.306 (0.924) 77.91 (141.5) 6.357 (16.75) 0.734 (4.340) -8.491 (27.98)
LLR 2.308* (1.341) 0.157 (0.170) -4.423* (2.627) 0.00867** (0.00385) 0.151 (0.100) 0.0853** (0.0343) -0.0682* (0.0364) 8.016 (5.567) 0.746 (0.480) -0.304 (0.184) 1.803 (1.188)
NPL 0.782** (0.361) -0.0521 (0.0694) 0.242 (0.558) -0.00150* (0.000878) 0.0377 (0.0307) -0.0141 (0.0111) 0.0113 (0.0120) -1.155 (1.213) -0.0911 (0.154) 0.0109 (0.0398) 0.0336 (0.266)
-5.475 (5.515) 1.598 (1.149) -7.844 (7.274)
-0.0115 (0.0200) 0.00515 (0.00532) -0.105*** (0.0332)
0.108** (0.0520) -0.0252 (0.0164) 0.136 (0.102)
Observations R-squared
206 0.128
199 0.216
115 0.057
132 0.411
117 0.166
199 0.135
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
111
Như nghiên cứu đã luận giải trước đó, việc giai đoạn sau khủng hoảng phản
ánh tương đối rõ nét hơn tác động của dòng vốn quốc tế mà đặc biệt là dòng vốn
gián tiếp, có thể xuất phát từ 02 nguyên nhân chính sau: (i) ảnh hưởng dòng vốn có
độ trễ nhất định để lan tỏa đến sự ổn định tài chính; (ii) trong giai đoạn khủng
hoảng tài chính toàn cầu, các quốc gia ASEAN kể cả Việt Nam đã có những bài
học kinh nghiệm sâu sắc trước đó khi đối mặt với khủng hoảng năm 1997, do vậy
có thể cơ quan quản lý ở các quốc gia này đã có những biện pháp ứng phó và kiểm
soát nhất định nhằm làm giảm thiểu những ảnh hưởng không mong muốn từ sự
biến động của dòng vốn quốc tế.
4.3.6 Ảnh hưởng từ quy mô ngân hàng
Trong phần này, luận án tiếp tục tiến hành lại mô hình cơ sở theo quy mô
ngân hàng khác nhau để ước tính những ảnh hưởng có thể có của chúng đối với
những phát hiện trước đó. Do vậy, theo Uddin & ctg. (2020), luận án chia mẫu
nghiên cứu thành hai nhóm (ngân hàng lớn và ngân hàng nhỏ) dựa trên giá trị trung
bình của tổng tài sản toàn bộ mẫu. Theo đó, các ngân hàng lớn và nhỏ (large banks
& small banks) là những ngân hàng có tổng tài sản trên và dưới giá trị trung bình
tương ứng. Kết quả được mô tả ở bảng 4.18, trong đó từ Mô hình (1) đến Mô hình
(6) ước tính theo mẫu các ngân hàng lớn và Mô hình (7)-(12) ước tính theo mẫu
các ngân hàng nhỏ với biến phụ thuộc lần lượt được sử dụng là Z-score, LLR và
NPL. Theo đó, ở mỗi nhóm ngân hàng, 03 mô hình đầu nghiên cứu sử dụng dòng
vốn ròng và 03 mô hình sau nghiên cứu sử dụng tổng dòng vốn.
Đối với nhóm các ngân hàng lớn, dòng vốn gián tiếp đều làm giảm chỉ số Z-
score khi sử dụng dòng vốn ròng lẫn dòng vốn tổng trong mô hình cơ sở và đều ở
mức ý nghĩa thống kê 1%. Tuy vậy, dòng vốn này chỉ làm gia tăng chỉ số LLR khi
sử dụng tổng dòng vốn thay vì dòng vốn ròng. Với hai dòng vốn còn lại, dòng vốn
gián tiếp ròng một lần nữa cho thấy tác động gia tăng đến chỉ số LLR. Đối với
nhóm các ngân hàng nhỏ, dòng vốn trực tiếp góp phần làm giảm NPL và LLR
nhưng có quan hệ ngược chiều với Z-score. Điều này phù hợp với ảnh hưởng hỗn
hợp từ dòng vốn này trong các kết quả nghiên cứu trước. Dòng vốn gián tiếp thể
112
hiện ảnh hưởng cùng chiều đến NPL nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê khi sử dụng
tổng dòng vốn. Hệ số của dòng vốn khác đều không có ý nghĩa về mặt thống kê.
Như vậy, nhìn chung ở nhóm các ngân hàng lớn, tác động của dòng vốn quốc
tế, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp, thể hiện tương đối rõ nét hơn so với nhóm ngân
hàng nhỏ. Điều này có thể được giải thích dựa trên lý thuyết “quá lớn nên khó sụp
đổ” (Too big to fail”) do các ngân hàng lớn thường được hưởng những đảm bảo và
lợi thế mang tính ngầm định, đặc biệt là các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, có
thể giảm thiểu chi phí huy động vốn và điều đó cho phép họ có thể mạnh dạn đầu tư
vào những tài sản nhiều rủi ro hơn, từ đó gia tăng rủi ro thanh khoản và ảnh hưởng
đến mức ổn định của ngân hàng (Köhler, 2014). Bên cạnh đó, các ngân hàng có quy
mô lớn thường tập trung cho vay ở một nhóm đối tượng khách hàng lớn như các tập
đoàn, tổng công ty…rủi ro tín dụng tiềm ẩn khi các doanh nghiệp này hoạt động
không hiệu quả. Vì vậy, trong tương lai mức độ ổn định của những ngân hàng này
cũng không được đảm bảo khi có những biến động trong nước và thế giới.
Đối với các ngân hàng nhỏ, dòng vốn trực tiếp cho thấy mức độ ảnh hưởng
khá đáng kể tuy nhiên kết quả là hỗn hợp.
113
Bảng 4.18: Kết quả theo quy mô ngân hàng
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
(11)
(12)
Large banks
Small banks
FS=
Zscore
LLR
NPL
Zscore
NPL
Zscore
LLR
NPL
Zscore
NPL
LLR
LLR
PORTINVESTRATE
-42.79***
0.0292
-4.978
0.124
0.111
0.372
(12.79)
(0.199)
(10.02)
(0.195)
(0.0869)
(0.242)
OTHERINVESTR
-1.129
-0.0847
-7.413
0.344
-0.109
0.240**
(8.496)
(0.0736)
(10.96)
(0.452)
(0.125)
(0.103)
DIRECTINVESTR
-29.49
-0.139
-11.34
-0.429*
-0.392***
0.0310
(18.41)
(0.294)
(18.27)
(0.231)
(0.139)
(0.215)
PORTINVEST
-0.429***
0.00777*
0.00108
0.0882
0.00591
0.00338**
(0.126)
(0.00405)
(0.00122)
(0.112)
(0.00771)
(0.00135)
OTHERINVEST
0.244
0.00252
-0.000848
-0.213
0.00312
-0.00303
(0.164)
(0.00192)
(0.00131)
(0.271)
(0.0110)
(0.00432)
DIRECTINVEST
2.216
-0.0151
-0.0170
-3.555**
-0.0246
-0.0188**
(1.766)
(0.0211)
(0.0171)
(1.663)
(0.0232)
(0.00878)
SIZE
0.208
0.000280
-0.00189
0.0140**
-0.00178
0.261
-0.00158
-0.00190
0.458*
0.549
0.0163
-0.00297
(0.173)
(0.00300)
(0.00120)
(0.166)
(0.00213)
(0.00127)
(0.00604)
(0.00220)
(0.338)
(0.0107)
(0.00288)
(0.237)
CAPITAL
12.38**
0.00441
12.54***
-0.0250
0.0161
0.113**
0.0222
3.912
3.238
0.159**
0.00247
-0.131
(4.847)
(0.0384)
(4.587)
(0.0591)
(0.0373)
(2.521)
(0.0462)
(0.0249)
(3.423)
(0.0798)
(0.0262)
(0.123)
LOANSHARE
-0.360
-0.00871
-0.541
0.0284
-0.0103
-0.332
0.0895**
-0.00396
0.0779
0.0813**
-0.00900
0.0245
(0.996)
(0.0129)
(1.089)
(0.0223)
(0.0127)
(1.075)
(0.0376)
(0.0112)
(1.393)
(0.0385)
(0.0159)
(0.0269)
DEPOSITSHARE
1.682*
0.0190
1.193
-0.0386
0.0131
1.221
-0.0580*
0.0244**
1.195
-0.0529
0.0239*
-0.0561
(0.991)
(1.124)
(0.0397)
(0.0141)
(0.0129)
(1.053)
(0.0443)
(0.0140)
(0.0303)
(0.0112)
(1.410)
(0.0398)
GDPGR
93.55***
-0.249
15.08
-0.278
-0.196
60.23**
-0.939
-0.752***
108.0***
-1.021
-0.852***
-0.286
(28.62)
(0.358)
(32.41)
(0.330)
(0.363)
(27.34)
(0.744)
(0.268)
(34.59)
(0.763)
(0.319)
(0.402)
INF
-0.621
0.0137
7.530*
0.0687
-0.0455
-2.587
0.137**
0.0564***
-6.462
0.147
0.0168
0.125**
(2.637)
(0.0333)
(3.844)
(0.0730)
(0.0378)
(2.348)
(0.0535)
(0.0204)
(4.053)
(0.0949)
(0.0292)
(0.0505)
GDPCAP
-1.560*
-0.00629
-1.262
-0.00641
0.00876
-0.901
-0.0508***
0.00906
2.369
-0.0234
0.0331***
-0.0106
(0.863)
(0.0102)
(1.516)
(0.0173)
(0.0157)
(0.864)
(0.00964)
(0.00712)
(1.435)
(0.0206)
(0.0122)
(0.0116)
Constant
5.069
0.135
-43.31
0.239
0.403
-3.576
0.0695
0.0445
49.92*
0.162
0.311**
0.102
(7.558)
(0.0850)
(27.41)
(0.340)
(0.279)
(8.219)
(0.106)
(0.0599)
(27.67)
(0.164)
(0.132)
(0.137)
114
Observations
157
164
162
134
139
137
157
174
154
113
129
113
R-squared
0.147
0.195
0.104
0.177
0.219
0.158
0.162
0.226
0.225
0.166
0.224
0.259
Robust standard errors in parentheses
*** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Nguồn: Kết quả từ Stata theo nghiên cứu của tác giả
115
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Trong chương 4, luận án đã phân tích tổng quan về xu hướng dòng vốn quốc
tế khu vực ASEAN và Việt Nam trong thời gian nghiên cứu. Luận án cũng lần lượt
trình bày giá trị thống kê mô tả của các biến trong nghiên cứu và kết quả hồi quy
chính cũng như các phương pháp đo lường độ bền khác nhau áp dụng đối với các
nước ASEAN. Kết quả thực nghiệm khẳng định tác động bất ổn mà dòng vốn gián
tiếp quốc tế đem lại tại thị trường ASEAN, kế đến là dòng vốn khác nhưng ở mức
độ ít rõ nét hơn, còn dòng vốn trực tiếp cho kết quả hỗn hợp. Tác động của dòng
vốn quốc tế mà đặc biệt là dòng vốn gián tiếp phản ánh tương đối rõ nét hơn ở giai
đoạn sau khủng hoảng so với giai đoạn khủng hoảng cũng như ở các ngân hàng lớn
so với ngân hàng nhỏ. Kết quả này phù hợp với cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu
trước đây.
Luận án cũng thực hiện đo lường tác động của các dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính tại Việt Nam. Dựa trên số liệu phân tích giai đoạn 2006-2019, luận án
đưa ra kết quả nghiên cứu: trong 03 loại hình dòng vốn quốc tế, dòng vốn gián tiếp
ảnh hưởng tiêu cực rõ nét nhất đến sự ổn định tài chính tại Việt Nam. Kết quả thực
nghiệm tại Việt Nam là khá tương đồng với các phát hiện tại thị trường ASEAN.
Từ những kết quả hồi quy đã được chỉ ra, luận án sẽ đi đến đề xuất một số gợi
ý về chính sách sẽ được trình bày ở chương tiếp theo.
116
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
5.1 Kết luận
Vấn đề tác động của dòng vốn quốc tế đã và đang dành được mối quan tâm
của khá nhiều các học giả cũng như các cơ quan quản lý trên khắp thế giới. Sau
cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu, những hậu quả từ biến động của dòng vốn quốc tế càng gây nên những quan
ngại nhất định. Mặc dù vậy, bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của các loại
hình dòng vốn quốc tế đến sự ổn định của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh
tế nói chung vẫn chưa đạt được sự thống nhất. Trên cơ sở đó, luận án xây dựng mục
tiêu nghiên cứu như sau:
Mục tiêu tổng quát: nghiên cứu về tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính tại các quốc gia ASEAN, từ đó đưa ra những gợi ý chính sách, đặc
biệt là các đề xuất hướng đến việc phòng ngừa và giám sát an toàn hệ thống tài
chính và giảm thiểu các rủi ro tài chính, cả vĩ mô và vi mô.
Mục tiêu thứ nhất: kiểm định và phân tích định lượng tác động của dòng vốn
quốc tế bao gồm dòng vốn gián tiếp, dòng vốn trực tiếp và dòng vốn khác đến sự ổn
định tài chính ASEAN.
Mục tiêu thứ hai: so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính ASEAN giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng.
Mục tiêu thứ ba: so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính ASEAN theo qui mô ngân hàng.
Mục tiêu thứ tư: so sánh tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài
chính Việt Nam với ASEAN.
Luận án cũng xây dựng bốn giả thuyết nghiên cứu xuất phát từ ba mục tiêu
chính của luận án:
H1: Dòng vốn gián tiếp quốc tế làm suy giảm ổn định tài chính của các quốc
gia ASEAN
117
H2: Dòng vốn trực tiếp làm gia tăng sự ổn định tài chính của các quốc gia
ASEAN
H3: Tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN trong
giai đoạn sau khủng hoảng mạnh hơn giai đoạn khủng hoảng
H4: Tác động của dòng vốn quốc tế đến sự ổn định tài chính ASEAN thể
hiện rõ hơn ở các ngân hàng lớn so với ngân hàng nhỏ.
Luận án xây dựng mô hình thực nghiệm để xem xét tác động của dòng vốn
quốc tế đến ổn định tài chính như sau:
𝐹𝑆𝑖𝑡 = 𝛼 + 𝛽1𝐹𝐼𝑛𝑡 + 𝛽2𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝑀𝑎𝑐𝑟𝑜𝑛𝑡 + 𝛽3𝐶𝑜𝑛𝑡𝑟𝑜𝑙𝐵𝑎𝑛𝑘𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑛𝑡 (1)
Luận án được tiến hành nhằm đào sâu hơn nữa vào việc tìm kiếm bằng chứng
thực nghiệm về mối quan hệ giữa sự biến động của các loại hình dòng vốn quốc tế
và sự ổn định tài chính với bối cảnh là thị trường tài chính các nước ASEAN và
Việt Nam. Dựa trên giai đoạn kéo dài từ 2008-2019, giai đoạn bao gồm cả cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu nói chung và khủng hoảng thanh khoản tại Việt
Nam nói riêng, kết quả thực nghiệm của luận án có cơ sở để khẳng định các giả
định đưa ra ban đầu của luận án là phù hợp:
(i) Mối liên quan giữa dòng vốn gián tiếp với sự bất ổn tài chính là đáng
kể tại Việt Nam cũng như các nước ASEAN thuộc mẫu nghiên cứu;
(ii) Xét một cách tương đối, cả dòng vốn trực tiếp lẫn dòng vốn khác cho
kết quả hỗn hợp và ít rõ nét hơn, mặc dù tại Việt Nam dòng vốn khác cũng cho thấy
mối liên hệ đến sự gia tăng bất ổn (thông qua làm tăng tỷ lệ dự phòng);
(iii) Sau giai đoạn khủng hoảng, sự biến động của dòng vốn quốc tế, cụ
thể là dòng vốn gián tiếp, tác động đến sự ổn định tài chính là khá mạnh mẽ khi so
với giai đoạn khủng hoảng
(iv) Điều này cũng thể hiện một cách tương đối rõ ràng hơn thông qua các
ngân hàng lớn.
Theo kết quả nghiên cứu, đây có thể là một chỉ báo khá quan trọng với việc
sau khi vượt qua giai đoạn khủng hoảng các quốc gia đang dần có xu hướng nới
lỏng các quy định, điều kiện trong việc quản lý dòng vốn quốc tế nhằm cạnh tranh
118
thu hút đầu tư nước ngoài. Dưới áp lực tăng trưởng kinh tế và đón đầu làn sóng
chuyển dịch đầu tư khỏi thị trường Trung Quốc, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài
như là chiến dịch nhằm thúc đẩy và hỗ trợ phát triển của các chính phủ ở mỗi nước,
nhất là các nước thị trường mới nổi. Do vậy, ảnh hưởng bất ổn gây nên bởi sự gia
tăng dòng vốn quốc tế trở thành vấn đề nên được các cơ quan quản lý cân nhắc,
nhằm một mặt vừa đảm bảo thu hút đầu tư nước ngoài, một mặt kiểm soát những
rủi ro đi kèm.
Dưới đây, luận án sẽ đề xuất một số hàm ý chính sách mà luận án tin rằng cơ
quan quản lý cần lưu ý cân nhắc khi thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài, đặc biệt
là đang hình thành ý tưởng về xây dựng trung tâm tài chính tại thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian tới.
5.2 Một số hàm ý chính sách
5.2.1 Đối với cơ quan quản lý:
Giải pháp thu hút dòng vốn gián tiếp
Một trong những điểm quan trọng để thu hút cũng như kiểm soát biến động
của dòng vốn gián tiếp quốc tế với đặc tính dễ dàng biến động là duy trì sự ổn định
về môi trường kinh tế. Mặc dù biến giải thích quan tâm chính của luận án trong mô
hình thực nghiệm tập trung vào các loại hình dòng vốn quốc tế, các biến kiểm soát
vĩ mô vẫn có tầm quan trọng đáng kể. Hầu hết các mô hình đều chỉ ra mối tương
quan tích cực giữa tăng trưởng kinh tế và sự ổn định tài chính bên cạnh tác động
ngược của gia tăng lạm phát. Do đó, chính sách quản lý phát triển bền vững trong
hoạt động kinh tế trở thành điều then chốt mà chính quyền trung ương lẫn địa
phương nên hướng đến trong chiến lược phát triển.
Do dòng vốn gián tiếp tác động làm gia tăng bất ổn tài chính, cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý như Bộ Tài chính và NHTW trong việc quản lý
dòng vốn gián tiếp ra, vào trong phạm vi quốc gia. Việt Nam nên chú trọng một số
biện pháp như: Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước và gắn với việc
niêm yết trên TTCK để thu hút các dòng vốn đầu tư nước ngoài; Thực hiện chính
119
sách nới lỏng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài để thu hút dòng vốn gián tiếp;
Tăng cường quản lý thị trường ngoại hối, quản lý chặt chẽ việc mua bán và thu đổi
ngoại tệ, ngăn chặn hiện tượng đầu cơ ngoại tệ và hiện tượng nhà đầu tư gián tiếp
nước ngoài rút ngoại tệ trái phép; Kiểm soát chặt chẽ dòng vốn ra, nhằm ngăn chặn
nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ tiền vào rồi lại rút ra trong một thời gian quá
ngắn, dễ gây sốc đối với thị trường tài chính và ngoại hối.
Hơn nữa, chính sách cần giảm thiểu vấn đề bất cân xứng thông tin là một
trong những nguyên nhân gây bất ổn tài chính. Để thực hiện được điều này, vấn đề
minh bạch thông tin cần được chú trọng. Việc công bố thông tin để không chỉ cơ
quan quản lý mà còn đại bộ phận công chúng quan tâm và chuyên gia độc lập có
thể đánh giá, là nền tảng cho cơ chế kỷ luật thị trường.
Tại Việt Nam, công tác này đang được củng cố và thực hiện như tăng cường
giám sát, rà soát thị trường, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tổ chức điều hành thị
trường. Cơ quan quản lý cần đưa ra những quy định chặt chẽ hơn nhằm nâng cao
tính minh bạch, trung thực trong công tác kế toán quản trị đối với các công ty cổ
phần đại chúng và các thể chế tài chính trung gian nhằm tạo niềm tin cho các nhà
đầu tư gián tiếp quốc tế. Tăng cường phối hợp giữa các bộ, ngành và các cơ quan
có liên quan trong việc quản lý và giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán
đảm bảo minh bạch thông tin, cạnh tranh lành mạnh, an toàn tài chính, nhằm giảm
thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Đối với kết quả nghiên cứu tác động của dòng vốn đến sự ổn định tài chính
ASEAN cho giai đoạn khủng hoảng và sau khủng hoảng, các quốc gia ASEAN cần
có sự cân nhắc thận trọng trong việc kiểm soát vốn và phối hợp hiệu quả với các
chính sách kinh tế vĩ mô. Các nền kinh tế mới nổi này có thể cân nhắc sử dụng kết
hợp giữa can thiệp tỷ giá có mục tiêu với các biện pháp quản lý dòng vốn hay
những nghiệp vụ khác để tạo thuận lợi trong việc điều chỉnh tỷ giá, góp phần giảm
bớt rủi ro bất ổn tài chính và duy trì khả năng truyền tải chính sách tiền tệ một cách
phù hợp.
Khi dòng vốn vào làm bùng nổ cầu nội địa, và tăng giá tài sản trên các thị
120
trường chứng khoán, thị trường bất động sản, gây sức ép lạm phát, NHTW phải ưu
tiên điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt bằng cách thực hiện thực
hiện hàng loạt biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc, bán tín phiếu bắt buộc, tăng lãi
suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu, kiểm soát tăng trưởng tín
dụng... Tuy nhiên điều này có thể gây nên những ảnh hưởng bất lợi đến khu vực
ngân hàng. Quan trọng nhất là cần thực thi các chính sách giảm thiểu rủi ro thanh
khoản hệ thống ngân hàng và thị trường, nhằm tránh khả năng phóng đại các cú
sốc. Các nhà tạo lập chính sách cần kiềm chế nguy cơ hình thành những bất ổn tài
chính tiếp theo bằng cách điều chỉnh các công cụ chính sách vĩ mô lựa chọn khi
cần thiết để kiểm soát những tổn thương của nền kinh tế trên cơ sở cân nhắc các
điều kiện kinh tế trong và ngoài nước, những thách thức kinh tế trong ngắn
hạn. Chủ động cân bằng giữa việc kiềm chế khả năng hình thành những tổn thương
với việc tránh thắt chặt điều kiện tài chính theo chu kỳ và thiếu trật tự. Đây là việc
làm cần thiết trong bối cảnh bất ổn kinh tế tăng cao.
Giải pháp thu hút dòng vốn trực tiếp
FDI là nguồn vốn quan trọng của nền kinh tế, nó không chỉ là động lực góp
phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mà
còn góp phần tạo ra nhiều vệc làm, bổ sung vốn, công nghệ, năng lực quản lý, khả
năng kinh doanh. Điều này đã tác động tích cực đến phát triển cơ sở hạ tầng,
chuyển giao công nghệ, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất góp phần gia tăng ổn định
kinh tế cũng như tài chính. Vì vậy, các quốc gia ASEAN cần rà soát, điều chỉnh
kịp thời chính sách đầu tư nước ngoài cho phù hợp và theo kịp với những biến
động của kinh tế toàn cầu và những thay đổi trong chiến lược thu hút doanh nghiệp
FDI của các nước trên thế giới. Đồng thời, tạo môi trường đầu tư kinh doanh cạnh
tranh, thông thoáng, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về chính sách để tạo điều
kiện thuận lợi nhất cho hoạt động của các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài.
Một vấn đề cần xem xét là bất ổn tài chính liên quan đến biến đổi khí hậu.
Giải pháp quan trọng là thúc đẩy tài chính xanh và bền vững bởi vì tài chính bền
vững dựa trên quản lý rủi ro hợp lý góp phần vào khả năng phục hồi tài chính. Do
121
đó cơ quan quản lý nên đưa điều kiện “đầu tư xanh và sạch” khi thu hút đầu tư
nước ngoài. Tài chính xanh đã và đang là vấn đề mà các tổ chức tài chính quốc tế
quan tâm trong thời gian gần đây. Tài chính xanh không chỉ thể hiện trách nhiệm
doanh nghiệp đến cộng đồng nói chung mà còn có những hiệu quả nhất định về lợi
ích dài hạn trong việc phát triển tài chính bền vững và ổn định tài chính, đặc biệt là
vấn đề biến đổi khí hậu và môi trường.
Ở Việt Nam, nguồn vốn FDI có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội. Trong khi đó, sự cạnh tranh thu hút FDI giữa các quốc gia ASEAN có sự
tương đồng về thị trường, trình độ phát triển của khoa học công nghệ và nguồn
cung lao động đang ngày càng gay gắt. Chính vì vậy, để duy trì và tăng cường sức
hấp dẫn trong thu hút nguồn vốn FDI, Việt Nam cần triển khai thực hiện một số
giải pháp như: chuẩn bị sẵn sàng các điều kiện cần thiết để thu hút đầu tư như rà
soát, bổ sung quỹ đất sạch; rà soát lại quy hoạch điện và đôn đốc triển khai các dự
án điện; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; bổ sung chính sách và
các biện pháp để phát triển công nghiệp hỗ trợ, cải thiện thủ tục hành chính…
Bên cạnh đó, cần có chế tài thật sự “mạnh mẽ” đối với những địa phương thu
hút đầu tư một cách bất chấp, chạy theo số liệu báo cáo thành tích. Điều này sẽ tạo
nên tính răn đe từ chính quyền trung ương tới các địa phương và hướng đến lợi ích
dài hạn từ đầu tư nước ngoài với việc tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu ở cấp
độ cao hơn, từ lượng sang chất.
Sau cùng, việc đánh giá thường xuyên về sự biến động của dòng vốn quốc tế
để có những kịch bản ứng phó kịp thời nhằm chuẩn bị cho các tình huống xấu nhất
là điều nên cần được thực hiện định kỳ. Bởi lẽ, trong môi trường toàn cầu hóa với
sự gắn kết chặt chẽ hiện nay, bất kỳ điều bất ổn nào cũng có khả năng lan rộng ra
phạm vi toàn cầu mà cuộc xung đột Nga-Ukraine và khủng hoảng năng lượng tại
Châu Âu hiện nay là ví dụ điển hình.
5.2.2 Đối với các NHTM:
Mặc dù đã có những cải cách đáng kể trong hệ thống tài chính sau khủng
hoảng, kết quả nghiên cứu cho thấy sự ổn định tài chính vẫn còn rất mong manh
122
dưới tác động của dòng vốn quốc tế, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp tại các nền kinh
tế mới nổi và hội nhập sâu rộng như ASEAN. Vì vậy, việc cải thiện sức khỏe của
các NHTM đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đảm bảo hệ thống tài chính
hoạt động hiệu quả và chống đỡ được những cú sốc từ nền kinh tế.
Thứ nhất, các NHTM cần phải tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu để đảm bảo tỷ lệ an
toàn vốn và có thể áp dụng mô hình quản lý rủi ro hiệu quả nhằm cải thiện sự ổn
định tài chính. Các ngân hàng nắm giữ nhiều vốn hơn sẽ có tính thanh khoản cao
hơn và ít đòn bẩy hơn. Điều này cho phép họ có bộ đệm chống đỡ thay vì khuếch
đại cú sốc kinh tế vĩ mô. Trong thời gian qua, vốn của một số ngân hàng đã tăng,
nhưng có thể cần có sự tăng vốn bổ sung lớn để hỗ trợ sự phục hồi của tín dụng và
tăng trưởng kinh tế bền vững theo các chuẩn mực đủ vốn mới của Ủy ban Basel.
Các ngân hàng không chỉ đối mặt với nhiệm vụ tăng vốn thêm nữa, mà còn cần phải
giải quyết những sự thiếu hụt nguồn vốn tiềm tàng liên quan đến rủi ro tín dụng và
rủi ro thanh khoản xuất phát từ thị trường bất động sản, thị trường tài chính và thị
trường tài sản thực cũng như những bất ngờ tiêu cực có thể xảy ra như dịch bệnh,
khủng hoảng năng lượng, chiến tranh. Biện pháp tăng vốn từ khu vực tư nhân và
thu hút vốn đầu tư nước ngoài là khả thi nhất, tuy nhiên nó cần được thực hiện sớm,
từ khi khủng hoảng chưa xảy ra.
Thứ hai, cần cải thiện tình trạng minh bạch thông tin tại các NHTM. Trong khi
xu hướng các nhà đầu tư nước ngoài gia tăng sở hữu cổ phần tại các NHTM trong
nước, việc minh bạch hóa thông tin và kỷ luật thị trường sẽ cho thấy tầm quan trọng
đáng kể trong việc duy trì sự ổn định không chỉ cho chính các NHTM mà còn cho
cả hệ thống tài chính. Do vậy, việc các NHTM và nhà đầu tư công bố thông tin một
cách đầy đủ nhất sẽ góp phần giảm thiểu vấn đề bất cân xứng thông tin, một trong
những nguyên nhân của sự bất ổn tài chính. Điều này không chỉ góp phần cải thiện
hình ảnh Việt Nam trong mắt nhà đầu tư mà còn thúc đẩy sự giám sát của các chủ
thể tham gia trên thị trường. Đây cũng là điều kiện phù hợp với lộ trình áp dụng và
triển khai các tiêu chuẩn Basel II đã và đang được NHNN thực hiện cũng như tiến
tới tiêu chuẩn Basel III.
123
Thứ ba, việc áp dụng các công nghệ mới và tăng tốc số hóa trong các dịch vụ
tài chính là xu hướng tất yếu đồng thời làm nảy sinh những thách thức và lỗ hổng
mới trong hệ thống tài chính. Các NHTM cần cập nhật những thành tựu công nghệ
thông tin tiên tiến nhất để tránh các cuộc tấn công từ tội phạm mạng nhằm đáp ứng
nhu cầu bảo mật thông tin của khách hàng. Trong bối cảnh thay đổi công nghệ
nhanh chóng trong nền kinh tế và hệ thống tài chính toàn cầu, việc áp dụng đổi mới
công nghệ là điều cần thiết để giảm thiểu rủi ro hoạt động và an ninh mạng nhằm
đảm bảo ổn định tài chính. Việt Nam cần tránh những sự cố về hạ tầng công nghệ
như đã chứng khiến ở sàn giao dịch chứng khoán cuối năm 2021. Điều này không
chỉ là việc đảm bảo an toàn thông tin mà còn ngăn chặn những kẽ hở công nghệ mà
qua các sự cố có thể càng được nêu bật rõ.
Bên cạnh đó, công tác chuẩn bị về nhân sự chất lượng cao trong lĩnh vực công
nghệ cũng như cơ sở hạ tầng công nghệ là điều cần được đầu tư đúng mức cả dưới
góc độ cơ quan quản lý lẫn các NHTM. Trong báo cáo gần đây nhất từ Ngân hàng
Thế giới đã nêu bật vấn đề thiếu hụt nguồn nhân sự trong mảng công nghệ tại Việt
Nam. Do vậy việc đào tạo và chuẩn bị nguồn lực nhân sự công nghệ trở thành vấn
đề khá cấp thiết hiện nay. Mỗi NHTM cần chủ động trong chiến lược chuẩn bị nhân
sự này vì đây là xu thế tất yếu trong thời gian tới.
Một trong những nghiên cứu gần đây về phát triển công nghệ đã cho thấy
những lợi ích tiềm năng từ gia tăng đầu tư công nghệ tại các NHTM, từ việc góp
phần tăng trưởng thị phần đến gia tăng biên lợi nhuận (Nguyễn Đức Trung & ctg
(2021), Trần Việt Dũng & ctg (2021)). Tuy vậy mức độ đầu tư cho công nghệ, theo
các tác giả, là còn khá thấp. Do vậy, các NHTM cần tăng cường hơn nữa vào chi
tiêu công nghệ trong thời gian tới. Điều này một mặt củng cố cơ sở hạ tầng công
nghệ của chính các ngân hàng, mặt khác sẽ tạo nền tảng nâng cao vị thế cạnh tranh
khi thị trường tài chính xuất hiện các đối thủ “nặng ký” mà các công ty Fintech là
điển hình.
Sau cùng, NHTM cần thiết thành lập các bộ phận với đội ngũ nhân sự chuyên
môn chất lượng cao nhằm phân tích và đánh giá tình hình biến động kinh tế không
124
chỉ trong nước mà còn ở cả bình diện khu vực và thế giới để có những biện pháp
ứng phó kịp thời vì tính dễ thương tổn của dòng vốn quốc tế (nhất là dòng vốn gián
tiếp) một khi phát triển kinh tế có dấu hiệu xấu đi. Mô hình thực nghiệm của luận án
cho thấy tăng trưởng GDP ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân
hàng thông qua hệ số tương quan dương đối với chỉ số Z-score và âm đối với hai
chỉ số còn lại là NPL và LLR. Định kỳ các cơ quan quản lý cũng như các NHTM
cần có báo cáo đánh giá tổng thể về sự biến động của dòng vốn quốc tế trong nước
bên cạnh những diễn biến vĩ mô khu vực, thế giới, yếu tố địa chính trị, v.v. Chính
việc này sẽ tạo sự chủ động cho các nhà quản lý, điều hành nắm bắt tình hình để kịp
thời điều chỉnh và triển khai các quyết định, chính sách, sách lược phù hợp với thực
tế.
5.3 Hạn chế của luận án và gợi mở hướng nghiên cứu tiếp theo
Trong phạm vi nghiên cứu này, luận án đã cố gắng xác lập mô hình thực
nghiệm nhằm đo lường các tác động của các loại hình dòng vốn quốc tế đến sự ổn
định tài chính các nước ASEAN cũng như Việt Nam với giai đoạn kéo dài từ 2008-
2019. Tuy vậy, luận án vẫn còn có một số hạn chế nhất định mà các nghiên cứu
tương lai có thể bổ sung. Ví dụ, bộ mẫu dữ liệu có thể mở rộng thêm các thành viên
còn lại trong khu vực ASEAN và/hoặc có thể kéo dài thêm giai đoạn Covid-19 và
hậu Covid-19 để đo lường thêm về tác động của dòng vốn quốc tế đối với loại
khủng hoảng này. Hơn nữa, một yếu tố cần xem xét là mức độ quy định ràng buộc ở
từng quốc gia. Việc thắt chặt ràng buộc trong quy định sẽ ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư (vào lẫn ra) của nhà đầu tư nước ngoài mà Trung Quốc là điển hình trong các
năm gần đây. Do vậy, tác giả hy vọng, nghiên cứu này sẽ mở đường cho những
nghiên cứu chuyên sâu sẽ được thực hiện trong tương lai gần nhằm lấp đầy những
khoảng trống này.
i
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Đỗ Hoài Linh và Lại Thị Thanh Loan (2019). Thanh khoản hệ thống ngân
hàng thương mại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị. Tạp chí Ngân hàng, bản
online truy cập ngày 02/03/2022: https://tapchinganhang.gov.vn/thanh-khoan-he-
thong-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-thuc-trang-va-khuyen-nghi.htm.
Greenspan, A (2008). Kỷ nguyên hỗn loạn những cuộc khám phá trong thế
giới mới. TPHCM, NXB Trẻ.
Nguyễn Đức Trung, Trần Việt Dũng & Lữ Hữu Chí (2021). Tác động của
phát triển công nghệ đến hoạt động ngân hàng Việt Nam. Tạp chí Thị trường Tài
chính Tiền tệ, số 10(571), 37-41.
Nguyễn Thanh Cai (2021). Giải pháp quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
FPI ở Việt Nam. Diễn đàn tài chính tiền tệ. Bản online truy cập ngày 02/03/2022
tại địa chỉ: https://thitruongtaichinhtiente.vn/giai-phap-quan-ly-von-dau-tu-gian-
tiep-nuoc-ngoai-fpi-o-viet-nam-38439.html
Nguyễn Tuấn Anh (2020). Thúc đẩy chuyển đổi số tại Việt Nam. Tạp chí
Khoa học Công nghệ Việt Nam. Bản online truy cập ngày 02/03/2022 tại địa chỉ:
https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3302/thuc-day-chuyen-doi-so-tai-viet-nam.aspx
Phùng Thị Lan Phương, Nguyễn Thanh Trà, Hoàng Phương Yến, Lê Thị
Huyền Trang (2021). Báo cáo nghiên cứu: Đầu tư trực tiếp của Australia tại Việt
Nam, đánh giá hiệu quả thực tế và những giải pháp chính sách. Hà Nội, NXB
Công Thương.
Hạ Thị Thiều Dao (2013) “Tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu đến
kinh tế vĩ mô Việt Nam”, Tạp chí Công nghệ ngân hàng tháng 07/2013, Trường
ii
ĐH Ngân hàng TP.HCM.
Le Bon, G (2017). Tâm lý học đám đông. Hà Nội, NXB Tri Thức.
Lê Phan Thị Diệu Thảo và Nguyễn Trần Phúc (2015). Tài chính quốc tế.
Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Phương Đông.
Lê Thị Lanh, Huỳnh Thị Cẩm Hà và Lê Thị Hồng Minh (2015) “Tác động
của các chỉ số kinh tế vĩ mô đến dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài tại Việt
Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, số 20 (30) tháng 01-02/2015.
Lê Thị Thùy Vân (2015) “Bất ổn kinh tế vĩ mô và hàm ý chính sách cho Việt
Nam”, Đề tài nghiên cứu cấp Viện 2015, Viện Chiến lược và chính sách tài chính,
Bộ Tài chính.
Lê Thị Thùy Vân (2015) “Ứng dụng mô hình cảnh báo sớm khủng hoảng tiền
tệ tại Việt Nam”, Tài chính Việt Nam: Ổn định vĩ mô, Hội nhập toàn diện, Viện
Chiến lược và Chính sách Tài chính, Bộ Tài chính, NXB Tài Chính, trang 405-419.
Trần Việt Dũng, Lữ Hữu Chí, Lương Thị Thu Thuỷ, Nguyễn Ngọc Minh, Lê
Minh Đảo (2020a). Kỷ luật thị trường ngành ngân hàng: Đánh giá tổng quan một
số vấn đề nổi bật. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu Á, số 175/2020, 38-49.
Trần Việt Dũng và Lữ Hữu Chí (2020b). Kỷ luật thị trường ngân hàng Việt
Nam dưới góc nhìn của người đi vay. Tạp chí Ngân hàng, số 158/2020, 23-26.
Trần Việt Dũng và Lữ Hữu Chí (2020c). Kỷ luật thị trường Việt Nam: Góc
nhìn từ thực trạng các ngân hàng thương mại. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng Châu
Á, số 177/2020, 59-68.
Trần Việt Dũng & Lữ Hữu Chí (2020). Nghiên cứu Các yếu tố tác động tới
huy động tiền gửi của ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Tạp chí Kinh tế và
Quản lý, số 35 (Quý III/2020).
Trần Việt Dũng & Lữ Hữu Chí (2021). Hoạt động ngân hàng Việt Nam:
iii
Người gửi tiền có phải là kênh giám sát hiệu quả. Tạp chí Kinh tế và Ngân hàng
châu Á, số 181/2021, 67-78.
Trần Việt Dũng, Lữ Hữu Chí, Lê Phương Anh (2021). Phát triển công nghệ
và hướng đi gợi mở trong tương lai đối với các ngân hàng Việt Nam. Tạp chí Thị
trường Tài chính Tiền tệ, số 23, tháng 12/2021.
Võ Xuân Vinh và Đặng Bửu Kiếm (2016). Năng lực cạnh tranh, lợi nhuận và
sự ổn định của các ngân hàng Việt Nam. Tạp chí phát triển kinh tế, số 27, tháng
12/2016. Bản online truy cập ngày 02/03/2022 tại địa chỉ:
http://jabes.ueh.edu.vn/Home/SearchArticle?article_Id=f819e5a6-b14a-41b1-8227-
d880ee10c014
Vũ Nhữ Thăng (2014) “Một số vấn đề đặt ra trong ổn định tài chính”, Kỷ yếu
Hội thảo: Vai trò của NHNN Việt Nam đối với sự ổn định hệ thống tài chính,
tháng 5/2014, Ngân hàng Nhà nước.
Vũ Minh Long và Nguyễn Đức Thành (2015) Chương 4: “Phân tích an toàn
vĩ mô cho hệ thống ngân hàng Việt Nam 2015 – Ứng dụng phương pháp kiểm tra
sức chịu đựng”, Nguyễn Đức Thành và Nguyễn Thị Thu Hằng (2015) Báo cáo
thường niên kinh tế Việt Nam 2015: Tiềm năng hội nhập Thách thức hòa tan, Viện
nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Trường ĐH Kinh tế, ĐH Quốc gia Hà
Nội.
Tài liệu tiếng Anh
Acharya, V. V., & Mora, N. (2015). A Crisis of Banks as Liquidity Providers. The
Journal of Finance, 70(1), 1–43. https://doi.org/10.1111/jofi.12182
Acharya, V. V., Shin, H. S., & Yorulmazer, T. (2011). Crisis Resolution and Bank
Liquidity. The Review of Financial Studies, 24(6), 2166–2205.
https://doi.org/10.1093/rfs/hhq073
iv
Ahamed, M. M., & Mallick, S. (2017). Does regulatory forbearance matter for bank
stability? Evidence from creditors’ perspective. Journal of Financial
Stability, 28, 163–180. https://doi.org/10.1016/j.jfs.2017.01.001
Albaity, M., Mallek, R. S., & Noman, A. H. Md. (2019). Competition and bank
stability in the MENA region: The moderating effect of Islamic versus
conventional banks. Emerging Markets Review, 38, 310–325.
https://doi.org/10.1016/j.ememar.2019.01.003
Alfaro, L., Chanda, A., Kalemli-Ozcan, S., & Sayek, S. (2010). Does foreign direct
investment promote growth? Exploring the role of financial markets on
linkages. Journal of Development Economics, 91(2), 242–256.
https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2009.09.004
Allen, F., Carletti, E., & Marquez, R. (2011). Credit Market Competition and
Capital Regulation. The Review of Financial Studies, 24(4), 983–1018.
https://doi.org/10.1093/rfs/hhp089
Allen, W. A., & Wood, G. (2006). Defining and achieving financial stability.
Journal of Financial Stability, 2(2), 152–172.
https://doi.org/10.1016/j.jfs.2005.10.001
Amadi, A. A., & Bergin, P. R. (2008). Understanding international portfolio
diversification and turnover rates. Journal of International Financial
Markets, Institutions and Money, 18(2), 191–206.
https://doi.org/10.1016/j.intfin.2006.09.003
Anggitawati, D., & Ekaputra, I. A. (2020). Foreign Portfolio Investment Flows and
Exchange Rate: Evidence in Indonesia. Emerging Markets Finance and
Trade, 56(2), 260–274. https://doi.org/10.1080/1540496X.2018.1496419
Anginer, D., & Demirguc-Kunt, A. (2018). Bank Runs and Moral Hazard: A
Review of Deposit Insurance. 31.
Anginer, D., Demirguc-Kunt, A., Huizinga, H., & Ma, K. (2018). Corporate
governance of banks and financial stability. Journal of Financial Economics,
130(2), 327–346. https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2018.06.011
v
Anginer, D., Demirgüç-Kunt, A., & Mare, D. S. (2018). Bank capital, institutional
environment and systemic stability. Journal of Financial Stability, 37, 97–
106. https://doi.org/10.1016/j.jfs.2018.06.001
Aoki, K., Benigno, G., & Kiyotaki, N. (2016). Monetary and financial policies in
emerging markets. mimeo.
Arellano, M., & Bond, S. (1991). Some Tests of Specification for Panel Data:
Monte Carlo Evidence and an Application to Employment Equations. The
Review of Economic Studies, 58(2), 277–297.
https://doi.org/10.2307/2297968
Arellano, M., & Honoré, B. (2001). Chapter 53 - Panel Data Models: Some Recent
Developments. In J. J. Heckman & E. Leamer (Eds.), Handbook of
Econometrics (Vol. 5, pp. 3229–3296). Elsevier.
https://doi.org/10.1016/S1573-4412(01)05006-1
Ashraf, B. N. (2017). Political institutions and bank risk-taking behavior. Journal of
Financial Stability, 29(C), 13–35.
Azmi, W., Ali, M., Arshad, S., & Rizvi, S. A. R. (2019). Intricacies of competition,
stability, and diversification: Evidence from dual banking economies.
Economic Modelling, 83, 111–126.
https://doi.org/10.1016/j.econmod.2019.02.002
Backus, D. K., Kehoe, P. J., & Kydland, F. E. (1992). International Real Business
Cycles. Journal of Political Economy, 100(4), 745–775.
https://doi.org/10.1086/261838
Banerjee, R., Devereux, M. B., & Lombardo, G. (2016). Self-oriented monetary
policy, global financial markets and excess volatility of international capital
flows. Journal of International Money and Finance, 68, 275–297.
https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2016.02.007
Banerjee, R. N., & Mio, H. (2018). The impact of liquidity regulation on banks.
Journal of Financial Intermediation, 35, 30–44.
https://doi.org/10.1016/j.jfi.2017.05.008
vi
Bartram, S. M., & Dufey, G. (2001). International Portfolio Investment: Theory,
Evidence, and Institutional Framework. Financial Markets, Institutions and
Instruments, 10(3), 85–155. https://doi.org/10.1111/1468-0416.00043
Baum, C. F., Pundit, M., & Ramayandi, A. (2017). Capital Flows and Financial
Stability in Emerging Economies (SSRN Scholarly Paper ID 3187832).
Social Science Research Network. https://doi.org/10.2139/ssrn.3187832
Bekaert, G., Harvey, C. R., & Lundblad, C. (2001). Emerging equity markets and
economic development. Journal of Development Economics, 66(2), 465–504.
https://doi.org/10.1016/S0304-3878(01)00171-7
Bems, R., Catao, L., Koczan, Z., Lian, W., & Poplawski-Ribeiro, M. (2016).
Understanding the slowdown in capital flows to Emerging Markets. IMF.
Berg, A., & Pattillo, C. (1999). What Caused the Asian Crises: An Early Warning
System Approach. Economic Notes, 28(3), 285–334.
https://doi.org/10.1111/1468-0300.00015
Berger, A. N., & Bouwman, C. H. S. (2013). How does capital affect bank
performance during financial crises? Journal of Financial Economics,
109(1), 146–176. https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2013.02.008
Berger, A. N., Klapper, L. F., & Turk-Ariss, R. (2017). Bank competition and
financial stability. In Chapters (pp. 185–204). Edward Elgar Publishing.
https://ideas.repec.org/h/elg/eechap/16878_10.html
Bernanke, B., & Gertler, M. (1988). Agency Costs, Net Worth, And Business
Fluctuations. In SSRI Workshop Series (No. 292693; SSRI Workshop
Series). University of Wisconsin-Madison, Social Systems Research
Institute. https://ideas.repec.org/p/ags/uwssri/292693.html
Blanchard, O. J., Faruqee, H., Das, M., Forbes, K. J., & Tesar, L. L. (2010). The
Initial Impact of the Crisis on Emerging Market Countries [with Comments
and Discussion]. Brookings Papers on Economic Activity, 263–323.
vii
Blanchard, O., Ostry, J. D., Ghosh, A. R., & Chamon, M. (2016). Capital Flows:
Expansionary or Contractionary? American Economic Review, 106(5), 565–
569. https://doi.org/10.1257/aer.p20161012
Blommestein, H. J. (1997). Institutional Investors, Pension Reform, and Emerging
Securities Markets (SSRN Scholarly Paper ID 1815985). Social Science
Research Network. https://doi.org/10.2139/ssrn.1815985
Blundell, R., & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in
dynamic panel data models. Journal of Econometrics, 87(1), 115–143.
https://doi.org/10.1016/S0304-4076(98)00009-8
Bonizzi, B. (2017). An Alternative Post-Keynesian Framework for Understanding
Capital Flows to Emerging Markets. Journal of Economic Issues, 51, 137–
162. https://doi.org/10.1080/00213624.2017.1287502
Borensztein, E., De Gregorio, J., & Lee, J.-W. (1998). How does foreign direct
investment affect economic growth? Journal of International Economics,
45(1), 115–135. https://doi.org/10.1016/S0022-1996(97)00033-0
Borio, C. (2007). Change and Constancy in the Financial System: Implications for
Financial Distress and Policy | Conference – 2007 (Australia).
https://www.rba.gov.au/publications/confs/2007/borio.html
Borio, C. E., & Filosa, R. (1994). The changing borders of banking: Trends and
implications.
Boyson, N., Helwege, J., & Jindra, J. (2014). Crises, Liquidity Shocks, and Fire
Sales at Commercial Banks. Financial Management, 43(4), 857–884.
https://doi.org/10.1111/fima.12056
Broner, F., Didier, T., Erce, A., & Schmukler, S. L. (2013). Gross capital flows:
Dynamics and crises. Journal of Monetary Economics, 60(1), 113–133.
Bruno, V., & Shin, H. S. (2014). Assessing Macroprudential Policies: Case of South
Korea*. The Scandinavian Journal of Economics, 116(1), 128–157.
https://doi.org/10.1111/sjoe.12037
viii
Bruno, V., & Shin, H. S. (2017). Global Dollar Credit and Carry Trades: A Firm-
Level Analysis. The Review of Financial Studies, 30(3), 703–749.
https://doi.org/10.1093/rfs/hhw099
Buiter, W. H. (2008, September 14). Central banks and financial crises
(Monograph No. 619). Financial Markets Group, London School of
Economics and Political Science. http://fmg.lse.ac.uk
Bundesbank, D. (2004). Report on the Stability of the German Financial System,
Monthly Report. October.
Byrne, J. P., & Fiess, N. (2016). International capital flows to emerging markets:
National and global determinants. Journal of International Money and
Finance, 61, 82–100. https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2015.11.005
Caballero, J., Fernández, A., & Park, J. (2019). On corporate borrowing, credit
spreads and economic activity in emerging economies: An empirical
investigation. Journal of International Economics, 118, 160–178.
https://doi.org/10.1016/j.jinteco.2018.11.010
Cabrera, M., Dwyer, G. P., & Nieto, M. J. (2018). The G-20′s regulatory agenda
and banks’ risk. Journal of Financial Stability, 39, 66–78.
https://doi.org/10.1016/j.jfs.2018.09.001
Calderón, C., & Kubota, M. (2012). Gross Inflows Gone Wild: Gross Capital
Inflows, Credit Booms and Crises (SSRN Scholarly Paper ID 2178916).
Social Science Research Network. https://papers.ssrn.com/abstract=2178916
Calvo, G. A. (2004). Contagion in Emerging Markets: When Wall Street is a
Carrier. In E. Bour, D. Heymann, & F. Navajas (Eds.), Latin American
Economic Crises: Trade and Labour (pp. 81–91). Palgrave Macmillan UK.
https://doi.org/10.1057/9781403943859_5
Calvo, G. A., & Mendoza, E. G. (1998). Rational Herd Behavior and the
Globalization of Securities Markets (SSRN Scholarly Paper ID 114723).
Social Science Research Network. https://doi.org/10.2139/ssrn.114723
ix
Ch, R. J. (2004). Market Discipline in Banking: Where do we stand. Market
Discipline across Countries and Industries. MIT Press, Cambridge.
Chan, S.-G., Koh, E. H. Y., Zainir, F., & Yong, C.-C. (2015). Market structure,
institutional framework and bank efficiency in ASEAN 5. Journal of
Economics and Business, 82, 84–112.
https://doi.org/10.1016/j.jeconbus.2015.07.002
Chant, J., Lai, A., Illing, M., & Daniel, F. (2003). Essays on Financial Stability.
Bank of Canada Technical Report No. 95 (Ottawa: Bank of Canada), 130.
Christopher F. B., Madhavi P., and Arief R. (2017). Capital
Flows and Financial Stability in Emerging
Economies, ADB Economics, No. 522,
Chui, M., Fender, I., & Sushko, V. (2014). Risks related to EME corporate balance
sheets: The role of leverage and currency mismatch. BIS Quarterly Review.
https://ideas.repec.org/a/bis/bisqtr/1409f.html
Clark, E., Radić, N., & Sharipova, A. (2018). Bank competition and stability in the
CIS markets. Journal of International Financial Markets, Institutions and
Money, 54, 190–203. https://doi.org/10.1016/j.intfin.2017.12.005
Combes, J.-L., Kinda, T., & Plane, P. (2012). Capital flows, exchange rate
flexibility, and the real exchange rate. Journal of Macroeconomics, 34(4),
1034–1043. https://doi.org/10.1016/j.jmacro.2012.08.001
Committee on International Economic Policy and Reform, Acharya, V. V.,
Cecchetti, S. G., De Gregorio, J., Kalemli-Ozcan, S., Lane, P. R., Panizza,
U., Allen, F., Brunnermeier, M. K., Eichengreen, B., Erian, M. A. el-, Itō, T.,
Knight, M. D., Lombardi, D., Prasad, E. S., Rey, H., Velasco, A., Weder, B.,
& Yu, Y. (2015). Corporate debt in emerging economies: A threat to
financial stability? Waterloo, ON : CIGI.
Converse, N. (2018). Uncertainty, capital flows, and maturity mismatch. Journal of
International Money and Finance, 88, 260–275.
https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2017.07.013
x
Cook, M. (2008). Banking Reform in Southeast Asia: The region’s decisive decade.
Routledge.
Crockett, A. (1996). The theory and practice of financial stability. De Economist,
144(4), 531–568. https://doi.org/10.1007/BF01371939
Dalla, I. (1995). The Emerging Asian Bond Market. World Bank Publications.
Dalla, I. (1997). Asia’s Emerging Bond Markets. Pearson Professional.
Dalla, I., & Khatkhate, D. (1996). The Emerging East Asian Bond Market. Finance
& Development, 0033(001).
https://doi.org/10.5089/9781451953190.022.A003
de Bandt, O., Camara, B., Maitre, A., & Pessarossi, P. (2018). Optimal capital,
regulatory requirements and bank performance in times of crisis: Evidence
from France. Journal of Financial Stability, 39, 175–186.
https://doi.org/10.1016/j.jfs.2017.03.002
De Grauwe, P., & Grimaldi, M. (2002). Exchange rate regimes and financial
vulnerability. EIB Papers, 7(2), 33–48.
De Leon, M. (2020). The impact of credit risk and macroeconomic factors on
profitability: The case of the ASEAN banks. Banks and Bank Systems, 15(1),
21–29.
Dell’Ariccia, G., Igan, D. O., Laeven, L., Tong, H., Bakker, B. B., Vandenbussche,
J., & Blanchard, O. J. (2012). Policies for Macrofinancial Stability: How to
Deal with Credit Booms. Staff Discussion Notes, 2012(006).
https://doi.org/10.5089/9781475504743.006.A001
DellʼAriccia, G., Laeven, L., & Marquez, R. (2014). Real interest rates, leverage,
and bank risk-taking. Journal of Economic Theory, 149, 65–99.
https://doi.org/10.1016/j.jet.2013.06.002
Department, I. M. F. M. and C. M. (2015). Global Financial Stability Report,
October 2015: Vulnerabilities, Legacies, and Policy Challenges - Risks
Rotating to Emerging Markets. In Global Financial Stability Report, October
2015. International Monetary Fund.
xi
https://www.elibrary.imf.org/view/books/082/22746-9781513582047-
en/22746-9781513582047-en-book.xml
Derbali, A., & Lamouchi, A. (2020). Global financial crisis, foreign portfolio
investment and volatility: Impact analysis on select Southeast Asian markets.
Pacific Accounting Review, 32(2), 177–195. https://doi.org/10.1108/PAR-07-
2019-0090
Diamond, D. W., & Dybvig, P. H. (1983). Bank runs, deposit insurance, and
liquidity. Journal of Political Economy, 91(3), 401–419.
Diamond, D. W., & Dybvig, P. H. (2000). Bank runs, deposit insurance, and
liquidity. Federal Reserve Bank of Minneapolis Quarterly Review, 24(1),
14–23.
Driessen, J., & Laeven, L. (2007). International portfolio diversification benefits:
Cross-country evidence from a local perspective. Journal of Banking &
Finance, 31(6), 1693–1712. https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2006.11.006
Duisenberg, W. (2001). The contribution of the euro to financial stability.
Globalisation of Financial Markets and Financial Stability : Challenges for
Europe.
Dunis, C. L., & Shannon, G. (2016). Emerging Markets of South-East and Central
Asia: Do They Still Offer a Diversification Benefit? In S. Satchell (Ed.),
Asset Management: Portfolio Construction, Performance and Returns (pp.
224–257). Springer International Publishing. https://doi.org/10.1007/978-3-
319-30794-7_10
Durham, J. B. (2003). Foreign portfolio investment, foreign bank lending, and
economic growth.
Eichengreen, B. (2016). Global monetary order 29. The Future of the International
Monetary and Financial Architecture, 21.
Eichengreen, B., & Gupta, P. (2016). Managing Sudden Stops [Working Paper].
World Bank. https://doi.org/10.1596/1813-9450-7639
xii
Eichengreen, B., & Portes, R. (1987). The Anatomy of Financial Crises (Working
Paper No. 2126; Working Paper Series). National Bureau of Economic
Research. https://doi.org/10.3386/w2126
Elekdag, S., & Wu, Y. (2013). Rapid Credit Growth in Emerging Markets: Boon or
Boom-Bust? Emerging Markets Finance and Trade, 49(5), 45–62.
https://doi.org/10.2753/REE1540-496X490503
European Central Bank. (2016). Dealing with large and volatile capital flows and
the role of the IMF.N° 180 / September 2016. Publications Office of the
European Union. https://data.europa.eu/doi/10.2866/017330
Ferguson, R. (2002). Should Financial Stability Be An Explicit Central Bank
Objective ? https://www.semanticscholar.org/paper/Should-Financial-
Stability-Be-An-Explicit-Central-
Ferguson/6df87d3323fa101eb05a3d16017bac04245ec293
Financial Stability Report 2/2003. (n.d.). 48.
Fischer, S. (2001). Exchange Rate Regimes: Is the Bipolar View Correct? Journal
of Economic Perspectives, 15(2), 3–24. https://doi.org/10.1257/jep.15.2.3
Forbes, K., Hjortsoe, I., & Nenova, T. (2017). Current Account Deficits During
Heightened Risk: Menacing or Mitigating? The Economic Journal, 127(601),
571–623. https://doi.org/10.1111/ecoj.12482
Frame, W. S., & White, L. J. (2004). Empirical Studies of Financial Innovation:
Lots of Talk, Little Action? 40.
Friedman, B. A., Corrigan, E. G., Sprague, I. H., Strunk, N., & Grundfest, J. A.
(1991). The Risks of Financial Crises. In The Risk of Economic Crisis (pp.
19–83). University of Chicago Press. https://www.nber.org/books-and-
chapters/risk-economic-crisis/risks-financial-crises
Friedman, M., & Schwartz, A. J. (1963). A Monetary History of the United States,
1867–1960 (No. frie63-1). National Bureau of Economic Research.
https://www.nber.org/books-and-chapters/monetary-history-united-states-
1867-1960
xiii
Fu, X. (Maggie), Lin, Y. (Rebecca), & Molyneux, P. (2014). Bank competition and
financial stability in Asia Pacific. Journal of Banking & Finance, 38, 64–77.
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.09.012
Furceri, D., Guichard, S., & Rusticelli, E. (2011). Episodes of Large Capital Inflows
and the Likelihood of Banking and Currency Crises and Sudden Stops.
OECD. https://doi.org/10.1787/5kgc9kpkslvk-en
Furceri, D., Guichard, S., & Rusticelli, E. (2012). The effect of episodes of large
capital inflows on domestic credit. The North American Journal of
Economics and Finance, 23(3), 325–344.
https://doi.org/10.1016/j.najef.2012.03.005
Ghosh, A. R. (2016). Capital Inflow Surges and Consequences. SSRN Electronic
Journal. https://doi.org/10.2139/ssrn.2838069
Ghosh, A. R., Ostry, J. D., & Qureshi, M. S. (2015). Exchange Rate Management
and Crisis Susceptibility: A Reassessment. IMF Economic Review, 63(1),
238–276. https://doi.org/10.1057/imfer.2014.29
Goetz, M. R. (2018). Competition and bank stability. Journal of Financial
Intermediation, 35, 57–69. https://doi.org/10.1016/j.jfi.2017.06.001
Gourinchas, P.-O., & Obstfeld, M. (2012). Stories of the Twentieth Century for the
Twenty-First. American Economic Journal: Macroeconomics, 4(1), 226–
265. https://doi.org/10.1257/mac.4.1.226
Graham, E. M., & Krugman, P. (1995). Foreign direct investment in the United
States. Washington, DC, 123–125.
Greenwald, B. C., Stiglitz, J. E., & Weiss, A. (1984). Informational imperfections in
the capital market and macro-economic fluctuations. National Bureau of
Economic Research.
Greenwald, B., & Stiglitz, J. E. (1992). Information, Finance, and Markets: The
Architercute of Allocative Mechanisms 1. Industrial and Corporate Change,
1(1), 37–63. https://doi.org/10.1093/icc/1.1.37
xiv
Group of Ten, Group of Ten, & Working Party on Financial Sector Consolidation.
(2001). Report on consolidation in the financial sector.
Grubel, H. G. (1968). Internationally Diversified Portfolios: Welfare Gains and
Capital Flows. The American Economic Review, 58(5), 1299–1314.
Guichard, S. (2017). Findings of the recent literature on international capital flows:
Implications and suggestions for further research. OECD.
https://doi.org/10.1787/2f8e1d6d-en
Guillermo A. C., Leonardo L., & Reinhart*, C. M. (1993). Capital Inflows and Real
Exchange Rate Appreciation in Latin America: The Role of External Factors.
IMF Staff Papers, 1993(004).
https://doi.org/10.5089/9781451956986.024.A005
Hannan, M. S. A., & Pagliari, M. S. (2017). The Volatility of Capital Flows in
Emerging Markets: Measures and Determinants. In IMF Working Papers
(No. 2017/041; IMF Working Papers). International Monetary Fund.
https://ideas.repec.org/p/imf/imfwpa/2017-041.html
He, D., & McCauley, R. N. (2013). Transmitting Global Liquidity to East Asia:
Policy Rates, Bond Yields, Currencies and Dollar Credit (SSRN Scholarly
Paper ID 2390172). Social Science Research Network.
https://papers.ssrn.com/abstract=2390172
Hoggarth, G., Reis, R., & Saporta, V. (2002). Costs of banking system instability:
Some empirical evidence. Journal of Banking & Finance, 26(5), 825–855.
https://doi.org/10.1016/S0378-4266(01)00268-0
Igan, D., & Tan, Z. (2017). Capital Inflows, Credit Growth, and Financial Systems.
Emerging Markets Finance and Trade, 53(12), 2649–2671.
https://doi.org/10.1080/1540496X.2017.1339186
Imbierowicz, B., & Rauch, C. (2014). The relationship between liquidity risk and
credit risk in banks. Journal of Banking & Finance, 40, 242–256.
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.11.030
xv
Jeevanandam, C. (2020). Foreign Exchange: Practice, Concepts and Control:
(Including International Financial Management). Sultan Chand & Sons.
Kaminsky, G. L., & Reinhart, C. M. (1999). The Twin Crises: The Causes of
Banking and Balance-of-Payments Problems. American Economic Review,
89(3), 473–500. https://doi.org/10.1257/aer.89.3.473
Kaminsky, G., Lyons, R. K., & Schmukler, S. L. (2004). Managers, investors, and
crises: Mutual fund strategies in emerging markets. Journal of International
Economics, 64(1), 113–134. https://doi.org/10.1016/S0022-1996(03)00075-8
Kaufman, G. G. (1994). Bank contagion: A review of the theory and evidence.
Journal of Financial Services Research, 8(2), 123–150.
Kaufman, H. (1986). Debt: The threat to economic and financial stability. Economic
Review, 71(Dec), 3–11.
Khatiwada, S. (2017). Quantitative easing by the fed and international capital flows
(Working Paper No. 02–2017). Graduate Institute of International and
Development Studies Working Paper.
https://www.econstor.eu/handle/10419/162463
Kim, W., & Wei, S.-J. (2002). Foreign portfolio investors before and during a crisis.
Journal of International Economics, 56(1), 77–96.
https://doi.org/10.1016/S0022-1996(01)00109-X
Kindleberger, C. P., & Aliber, R. Z. (2011). Manias, Panics and Crashes: A History
of Financial Crises, Sixth Edition. Palgrave Macmillan.
King, M. A., & Wadhwani, S. (1990). Transmission of Volatility between Stock
Markets. The Review of Financial Studies, 3(1), 5–33.
https://doi.org/10.1093/rfs/3.1.5
Klomp, J., & de Haan, J. (2009). Central bank independence and financial
instability. Journal of Financial Stability, 5(4), 321–338.
https://doi.org/10.1016/j.jfs.2008.10.001
xvi
Koepke, R. (2019). What Drives Capital Flows to Emerging Markets? A Survey of
the Empirical Literature. Journal of Economic Surveys, 33(2), 516–540.
https://doi.org/10.1111/joes.12273
Laeven, L., Ratnovski, L., & Tong, H. (2016). Bank size, capital, and systemic risk:
Some international evidence. Journal of Banking & Finance, 69, S25–S34.
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2015.06.022
Lane, P. R. (2015). Cross-border financial linkages: Identifying and measuring
vulnerabilities. CEPR Policy Insight, 77.
Le, T. (2018a). Bank Risk, Capitalisation and Technical Efficiency in the
Vietnamese Banking System. Australasian Accounting, Business and
Finance Journal, 12(3), 41–61. https://doi.org/10.14453/aabfj.v12i3.4
Le, T. (2018b). The interrelationship between liquidity creation and bank capital in
Vietnamese banking. Managerial Finance, 45(2), 331–347.
https://doi.org/10.1108/MF-09-2017-0337
Le, T. D. (2020). Market discipline and the regulatory change: Evidence from
Vietnam. Cogent Economics & Finance, 8(1), 1757801.
https://doi.org/10.1080/23322039.2020.1757801
Le, T. D. (2021). Geographic expansion, income diversification, and bank stability:
Evidence from Vietnam. Cogent Business & Management, 8(1), 1885149.
https://doi.org/10.1080/23311975.2021.1885149
Lee, C.-C., Li, X., Yu, C.-H., & Zhao, J. (2021). Does fintech innovation improve
bank efficiency? Evidence from China’s banking industry. International
Review of Economics & Finance, 74, 468–483.
https://doi.org/10.1016/j.iref.2021.03.009
Lee, J. Y. (2004). Foreign portfolio investors and financial sector stability: Lessons
from the Asian Crisis. Working paper.
Levine, R. (2001). International Financial Liberalization and Economic Growth.
Review of International Economics, 9(4), 688–702.
https://doi.org/10.1111/1467-9396.00307
xvii
Li, Z., & Zhong, J. (2020). Impact of economic policy uncertainty shocks on
China’s financial conditions. Finance Research Letters, 35, 101303.
https://doi.org/10.1016/j.frl.2019.101303
Lipsey, R. (2000). The Role of Foreign Direct Investment in International Capital
Flows (NBER Working Paper No. 7094). National Bureau of Economic
Research, Inc. https://econpapers.repec.org/paper/nbrnberwo/7094.htm
Love, I. (2003). Financial Development and Financing Constraints: International
Evidence from the Structural Investment Model. The Review of Financial
Studies, 16(3), 765–791. https://doi.org/10.1093/rfs/hhg013
Luce, R. D., & Raiffa, H. (1989). Games and decisions: Introduction and critical
survey. Courier Corporation.
Markellos, R. N., & Siriopoulos, C. (1997). Diversification benefits in the smaller
European stock markets. International Advances in Economic Research,
3(2), 142–153. https://doi.org/10.1007/BF02294935
Masson, P. R. (1998). Contagion: Monsoonal Effects, Spillovers, and Jumps
between Multiple Equilibria (SSRN Scholarly Paper ID 882708). Social
Science Research Network. https://papers.ssrn.com/abstract=882708
Middleton, C. A. J., Fifield, S. G. M., & Power, D. M. (2008). An investigation of
the benefits of portfolio investment in Central and Eastern European stock
markets. Research in International Business and Finance, 22(2), 162–174.
https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2007.04.001
Mihaljek, D. (2016). Global Drivers and Effects of Capital Flows.
Https://Www.Jvi.Org. https://www.jvi.org/special-events/2016/global-
drivers-and-effects-of-capital-flows.html
Minsky, & Hyman, P. (1977). A Theory of Systemic Fragility. Undefined.
https://www.semanticscholar.org/paper/A-Theory-of-Systemic-Fragility-
Minsky-Hyman/9f6ce6f9acd85caeb8b8e44c8bf8ca098b26e9aa
xviii
Mishkin, F. S. (1991). Anatomy of a Financial Crisis (Working Paper No. 3934;
Working Paper Series). National Bureau of Economic Research.
https://doi.org/10.3386/w3934
Mishkin, F. S. (1994). Preventing Financial Crises: An International Perspective
(Working Paper No. 4636; Working Paper Series). National Bureau of
Economic Research. https://doi.org/10.3386/w4636
Mishkin, F. S. (1999). Global financial instability: Framework, events, issues.
Journal of Economic Perspectives, 13(4), 3–20.
Montiel, P., & Reinhart, C. (2001). The dynamics of capital movements to
emerging economies during the 1990s. Short-Term Capital Flows and
Economic Crises, 3–28.
Moudud-Ul-Huq, S. (2019). Can BRICS and ASEAN-5 emerging economies
benefit from bank diversification? Journal of Financial Regulation and
Compliance, 27(1), 43–69. https://doi.org/10.1108/JFRC-02-2018-0026
Mussa, M., Dell’Ariccia, G., Eichengreen, B. J., & Detragiache, E. (1998). Capital
Account Liberalization: Theoretical and Practical Aspects. In Capital
Account Liberalization. International Monetary Fund.
https://www.elibrary.imf.org/view/books/084/01071-9781557757777-
en/01071-9781557757777-en-book.xml
Naranjo, A., & Porter, B. (2007). Including emerging markets in international
momentum investment strategies. Emerging Markets Review, 8(2), 147–166.
https://doi.org/10.1016/j.ememar.2007.01.001
Obstfeld, M. (2015). Trilemmas and Tradeoffs: Living with Financial Globalization.
In Central Banking, Analysis, and Economic Policies Book Series (Vol. 20,
pp. 013–078). Central Bank of Chile.
https://ideas.repec.org/h/chb/bcchsb/v20c02pp013-078.html
Osei-Tutu, F., & Weill, L. (2021). How language shapes bank risk taking. Journal
of Financial Services Research, 59(1), 47–68.
xix
Pak, Y., & Asian Development Bank (Eds.). (2013). The road to ASEAN financial
integration: A combined study on assessing the financial landscape and
formulating milestones for monetary and financial integration in ASEAN.
ADB.
Perrin, C., & Weill, L. (2021). No Men, No Cry? How Gender Equality in Access to
Credit Enhances Financial Stability. In Working Papers of LaRGE Research
Center (No. 2021–02; Working Papers of LaRGE Research Center).
Laboratoire de Recherche en Gestion et Economie (LaRGE), Université de
Strasbourg. https://ideas.repec.org/p/lar/wpaper/2021-02.html
Phan, D. H. B., Iyke, B. N., Sharma, S. S., & Affandi, Y. (2021). Economic policy
uncertainty and financial stability–Is there a relation? Economic Modelling,
94, 1018–1029. https://doi.org/10.1016/j.econmod.2020.02.042
Prati, A., & Schinasi, G. (1999). Financial Stability in European Economic and
Monetary Union. Princeton Studies in International Finance.
Reinhart, C. M., & Reinhart, V. R. (2009). Capital flow bonanzas: An
encompassing view of the past and present. NBER International Seminar on
Macroeconomics, 5(1), 9–62.
Rey, H. (2015). Dilemma not Trilemma: The Global Financial Cycle and Monetary
Policy Independence (Working Paper No. 21162; Working Paper Series).
National Bureau of Economic Research. https://doi.org/10.3386/w21162
Saborowski, C. (2009). Capital inflows and the real exchange rate: Can financial
development cure the Dutch disease? International Monetary Fund.
Sarno, L., Tsiakas, I., & Ulloa, B. (2016). What drives international portfolio flows?
Journal of International Money and Finance, 60, 53–72.
https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2015.03.006
Schaeck, K., & Cihák, M. (2014). Competition, Efficiency, and Stability in
Banking. Financial Management, 43(1), 215–241.
https://doi.org/10.1111/fima.12010
xx
Schinasi, G. J. (2003). Responsibility of Central Banks for Stability in Financial
Markets. IMF Working Papers, 2003(121).
https://doi.org/10.5089/9781451854404.001.A001
Schinasi, G. J. (2004). Defining Financial Stability (SSRN Scholarly Paper ID
879012). Social Science Research Network.
https://papers.ssrn.com/abstract=879012
Schwartz, A. J. (1987). Real and Pseudo-Financial Crises. In Money in Historical
Perspective (pp. 271–288). University of Chicago Press.
https://www.nber.org/books-and-chapters/money-historical-perspective/real-
and-pseudo-financial-crises
Segal, G., Shaliastovich, I., & Yaron, A. (2015). Good and bad uncertainty:
Macroeconomic and financial market implications. Journal of Financial
Economics, 117(2), 369–397. https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2015.05.004
Serena, J. M., & Moreno, R. (2016). Domestic Financial Markets and Offshore
Bond Financing (SSRN Scholarly Paper ID 2842333). Social Science
Research Network. https://papers.ssrn.com/abstract=2842333
Shaddady, A., & Moore, T. (2019). Investigation of the effects of financial
regulation and supervision on bank stability: The application of CAMELS-
DEA to quantile regressions. Journal of International Financial Markets,
Institutions and Money, 58, 96–116.
https://doi.org/10.1016/j.intfin.2018.09.006
Shin, H. S. (2012). Global Banking Glut and Loan Risk Premium. IMF Economic
Review, 60(2), 155–192. https://doi.org/10.1057/imfer.2012.6
Skipper, H. (1997). Foreign Insurers in Emerging Markets: Issues and Concerns.
Smith, B. D. (2002). Monetary Policy, Banking Crises, and the Friedman Rule. The
American Economic Review, 92(2), 128–134.
Solnik, B. H. (1974). Why Not Diversify Internationally Rather Than Domestically?
Financial Analysts Journal, 30(4), 48–54.
https://doi.org/10.2469/faj.v30.n4.48
xxi
Solnik, B. H. (1995). Why Not Diversify Internationally Rather Than Domestically?
Financial Analysts Journal, 51(1), 89–94.
https://doi.org/10.2469/faj.v51.n1.1864
Solnik, B. H., & McLeavey, D. (2004). International Investments. Pearson
Education.
Stewart, C., Matousek, R., & Nguyen, T. N. (2016). Efficiency in the Vietnamese
banking system: A DEA double bootstrap approach. Research in
International Business and Finance, 36, 96–111.
https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2015.09.006
Sun, T. (2015). The impact of global liquidity on financial landscapes and risks in
the ASEAN-5 Countries. International Monetary Fund.
Tarashev, N., Avdjiev, S., & Cohen, B. (2016). International capital flows and
financial vulnerabilities in emerging market economies: Analysis and data
gaps. BIS, 23.
Tobin, J. (1969). A General Equilibrium Approach To Monetary Theory. Journal of
Money, Credit and Banking, 1(1), 15–29. https://doi.org/10.2307/1991374
Tovar-García, E. D. (2016). Who Can Better Monitor a Bank than Another Bank?
Mechanisms of Discipline in the Mexican Interbank Market. Revista de
Métodos Cuantitativos para la Economía y la Empresa, 21, áginas 205 a
229-áginas 205 a 229.
Tran, D., Nguyen, C., & Hoang, H. V. (2021). How do banks manage their capital
during uncertainty? Applied Economics Letters, 0(0), 1–5.
https://doi.org/10.1080/13504851.2021.1980488
Tran, D. V., Hoang, K., & Nguyen, C. (2021). How does economic policy
uncertainty affect bank business models? Finance Research Letters, 39,
101639. https://doi.org/10.1016/j.frl.2020.101639
Tran, D. V., & Lu, C. H. (2021). Market Discipline in the Interbank Market:
Evidence from an Emerging Country. Wseas Transactions on Business and
Economics, 18, 1028–1037. https://doi.org/10.37394/23207.2021.18.97
xxii
Turk Ariss, R. (2010). On the implications of market power in banking: Evidence
from developing countries. Journal of Banking & Finance, 34(4), 765–775.
https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.09.004
Uddin, M. H., Mollah, S., & Ali, M. H. (2020). Does cyber tech spending matter for
bank stability? International Review of Financial Analysis, 72, 101587.
https://doi.org/10.1016/j.irfa.2020.101587
Uddin, Md. H., Ali, Md. H., & Hassan, M. K. (2020). Cybersecurity hazards and
financial system vulnerability: A synthesis of literature. Risk Management,
22(4), 239–309. https://doi.org/10.1057/s41283-020-00063-2
Vives, X. (2019). Competition and stability in modern banking: A post-crisis
perspective. International Journal of Industrial Organization, 64, 55–69.
https://doi.org/10.1016/j.ijindorg.2018.08.011
Williamson, S. D. (1987). Costly Monitoring, Loan Contracts, and Equilibrium
Credit Rationing. The Quarterly Journal of Economics, 102(1), 135–145.
https://doi.org/10.2307/1884684
Windmeijer, F. (2005). A finite sample correction for the variance of linear efficient
two-step GMM estimators. Journal of Econometrics, 126(1), 25–51.
https://doi.org/10.1016/j.jeconom.2004.02.005