BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM NGỌC THƯỞNG

CÁC CÁCH XƯNG HÔ TRONG TIẾNG NÙNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 1998

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xing cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu

trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Phạm Ngọc Thưởng

3

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 3

MỤC LỤC .................................................................................................................... 4

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 7

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. ................................................................................. 7

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. ........................................................................... 8

3.Ý NGHĨA KHÔA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ . ................................................... 10

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. ...................................... 10

5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI. ........................................................ 12

6.GIẢ THIẾT KHÔA HỌC CỦA ĐỀ TÀI. ...................................................................... 13

7.LỊCH SỬ VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI. ...................................................... 13

8. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN. ........................................................................................... 15

9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN. ....................................................................................... 15

CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỚ LÝ THUYẾT VỀ XƯNG HÔ ............................. 16

1.1.KHÁI NIỆM XƯNG HÔ ............................................................................................ 16

1.2. NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA TỪ XƯNG HÔ. ......................................................... 18

1.2.1. CHỨC NĂNG ĐỊNH VỊ CỦA TỪ XƯNG HÔ. ................................................. 18

1.2.2. CHỨC NĂNG CHIẾU VẬT CỦA TỪ XƯNG HÔ. ........................................... 22

1.2.3. CHỨC NĂNG THỂ HIỆN QUAN HỆ LIÊN CÁ NHÂN. ................................. 27

1.3. CÁC NGỮ VỰC* CHI PHỐI CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ. .......................... 32

1. 3.1. VAI GIAO TIẾP VÀ VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT GIAO TIẾP. .......... 32

1.3.2. TÍNH QUI THỨC (FOKMAL) VÀ KHÔNG QUI THỨC (INFOKMAL) CỦA

NGỮ CẢNH GIAO TIẾP. ............................................................................................. 38

1.4. CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ. ........................................................ 40

1.4.1. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ. ........................................................................................... 40

1.4.2. DANH TỪ CHỈ NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ. .............................................. 44

4

1.4.3. DANH TỪ CHỈ CHỨC NGHIỆP ĐỂ XƯNG HÔ. ............................................ 46

1.4.4. HỌ VÀ TÊN RIÊNG CỦA NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ. ............................ 47

CHƯƠNG 2: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG NÙNG ....... 54

2.1. DANH SẮCH ĐẠI TỪ XƯNG HÔ TIẾNG NÙNG ................................................. 55

2.2. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT ....................................................... 57

2.2.1. ĐẠI TỪ CAU. ..................................................................................................... 59

2.2.2. ĐẠI TỪ LẠI. ....................................................................................................... 65

2.2.3. ĐẠI TỪ KHỎI LAI. ............................................................................................ 66

2.2.4. ĐẠI TỪ NGÒ. ..................................................................................................... 67

2.3. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ HAI SỐ ÍT. .......................................................... 69

2.3.1. ĐẠI TỪ MƯNG .................................................................................................. 71

2.1.2. ĐẠI TỪ NÌ. ......................................................................................................... 72

2.3.3. ĐẠI TỪ CAU ...................................................................................................... 74

2.4. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ LƯỠNG NGÔI ......................................................................... 75

2.4.1. ĐẠI TỪ LÀU ...................................................................................................... 75

2.4.2. ĐẠI TỪ HAU ...................................................................................................... 78

CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC TRONG

TIẾNG NÙNG ........................................................................................................... 81

3.1. XƯNG NOỌNG (EM) TRONG GIA TỘC NGƯỜI NÙNG ..................................... 83

3.2. XƯNG HÔ GIỮA DÂU, RỂ VỚI CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA TỘC NÙNG:

............................................................................................................................................ 85

3.2.1. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CHƯA CÓ CON. .................................................... 86

5.2.2. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CÓ CON. ................................................................. 91

3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG. ............ 96

3.3.1. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CHƯA CÓ CON. .................................... 96

3.3.2. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CON. ................................................ 98

5

3.3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CHÁU. ............................................ 100

3.4. XƯNG HÔ GIỮA ANH, CHỊ VÀ EM TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG ....... 102

3.4.1. XƯNG HÔ KHI ANH, CHỊ - EM CÒN NHỎ VÀ CHƯA CÓ GIA ĐÌNH

RIÊNG. ........................................................................................................................ 103

3.4.2.XƯNC HÔ GIỮA ANH, CHỊ - EM Ở TUỔI KHÔN LỚN VÀ CÓ GIA ĐÌNH

RIÊNG . ...................................................................................................................... 105

3.5. XƯNG HÔ GIỮA CHA MẸ VÀ CON TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG........ 109

3.5.1. KHI CON CÁI CÒN NHỎ. ............................................................................... 110

3.5.2. KHI CON CÁI KHÔN LỚN ............................................................................. 113

3.6. XƯNG HÔ GIỮA ÔNG BÀ VÀ CHÁU TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG. .... 115

CHƯƠNG 4: CÁCH XƯNG HÔ NGOÀI XÃ HỘI Ở NGƯỜI NÙNG ............. 121

4.1. XƯNG HÔ TRONG VÀ SAU ĐÁM CƯỚI CỦA NGƯỜI NÙNG. ........................ 121

4.1.1. XƯNG HÔ TRONG ĐÁM CƯỚI..................................................................... 121

4.1.2. XƯNG HÔ SAU ĐÁM CƯỚI. ......................................................................... 125

4.2. XƯNG HÔ TRONG DÂN CA CỦA NGƯỜI NÙNG. ............................................. 128

4.3. XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ NGÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI NÙNG. ................ 131

4.3.1. XƯNG HÔ TRONG NGHỀ THEN .................................................................. 135

4.3.2. XƯNG HÔ TRONG GIỚI THẦY MO ............................................................. 136

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 140

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 144

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 157

6

MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.

1.1. Vấn đề ngôn ngữ trong quan hệ với văn hóa của các dân tộc là vấn đề đang được

thể giới quan tâm. Vấn đề dạy tiếng Việt chô học sinh các dân tộc ít người đang là vấn đề

nóng bỏng của giáo dục nước ta hiện nay.

Ngày 03 thâng 02 nám 1997, Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có thông tư số 01 hướng dẫn

việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số. Thông tư có đoạn viết, “Sở Giáo dục - đào

tạo các tỉnh, thành phố có đồng bào các dân tộc thiểu số chịu trách nhiệm phối họp với các

cơ quan chức năng của Bộ để cụ thể hóa xây dựng chương trình chô phù họp với từng thứ

tiếng và biên soạn tài liệu, đào tạo bồi dưỡng giáo viên dạy tiếng dân tộc..." [15,4]

Theo chúng tôi nghĩ, muốn xây dựng được chương trình, tài liệu dạy tiếng nói và chữ

viết dân tộc thiểu số chô phù họp với từng dân tộc thì đòi hỏi đầu tiên là phải hiểu được

phông tục, tập quán, văn hóa truyền thống cũng như ngôn ngữ của dân tộc mà mình trực tiếp

giảng dạy. Điều quan trọng nhất là chúng ta phải xây dựng được tài liệu giảng dạy đúng với

ngôn ngữ của từng dân tộc. Có như vậy việc dạy tiếng nói và chữ viết dân tộc thiểu số mới

mang lại kết quả cao.

1 .2. Ngay từ năm 1961, chúng ta đã có "Phương án chữ Tày - Nùng" [86]. Theo đó,

sắch dạy chữ Tày - Nùng [135], [137] chô học sinh dân tộc Tày và Nùng được xuất bản và

dạy trong các trường học. Tuy nhiên việc gom những đặc điểm phổ biến của hai ngôn ngữ

Tày và Nùng để trở thành một ngôn ngữ, một chữ viết để giảng dạy chô học sinh dân tộc

Tày và dân tộc Nùng đã không thu được kết quả như mong muốn. Đó cũng là một trong

những nguyên nhân tan rã của phông trào học chữ Tày - Nùng. Giải thích điều này, Hôàng

Tuệ đã phát biểu, "Thiết tưởng cần rút ra những kinh nghiệm thích đáng trong quan niệm về

"tiếng Tày - Nùng". Trong quan niệm này, phải chăng đã có sự chú trọng thiên lệch về sự

đồng dạng cấu trúc của tiếng Tày và tiếng Nùng, mà ít có quan tâm cần thiết đển những yếu

tố văn hóa, tâm lý dân tộc... của những cộng đồng tuy có giống nhau nhưng thực sự vẫn là

khác nhau ấy?"! [112,8]

7

Trong lịch sử phát triển của mình "Người Nùng, người Tày sống bên nhau, rất gần gũi

nhau về ngôn ngữ, văn hóa, phông tục tạp quán và do đó rất dễ hôà hợp với nhau" [62,22].

Tuy nhiên, sự "gần gũi" và "là một" là hai khái niệm khác nhau. Để phân biệt cần phải có

những công trình nghiên cứu nghiêm túc, dài hơi. Nhưng một điều chắc chắn rằng, xu

hướng coi văn hóa cũng như ngôn ngữ của dân tộc Tày và dân tộc Nùng là một để tìm hiểu,

nghiên cứu sẽ không giúp chúng ta hiểu đươc những đặc trưng văn hóa, ngôn ngữ của hai

dân tộc này. Đúng như Mông Ký SLay nhận xét, "Không thể gắn đặc trưng văn hôá, ngôn

ngữ vốn chỉ có ở dân tộc này thành của cả hai dân tộc, dẫu chô chúng có những nét văn hôá

gần gũi nhau như dân tộc Tày và dân tộc Nùng." [97, 3].

Nhítn nói về cuốn sắch của mình, Lục Văn Páo đa xác nhận một thực tế "Việc xây

dựng tiếng chữ Tày - Nùng thống nhất trước đây đã làm một số người lăn lộn : nhiều lĩnh

vực thuộc văn hôá Tày được đồng nhất coi như văn hôá Nùng và ngược lại. Nên không thấy

được tính dân tộc người và thích đặc thù địa phương của . Vì vậy, trong điều kiện hiện nay,

chúng tôi thấy làm rõ sự khác nhau đó là cần thiết và có lợi chô việc hiểu thấu đáo các nền

văn hôá dân tộc”[80, 6].

Đã đển lúc chúng ta cần có một cái nhìn rạch ròi hơn về văn hôá cũng như ngôn ngữ

của dân tộc Tày và dân tộc Nùng. Có như vậy chúng ta mới có thể nhìn nhận, phán ánh

đúng hơn đối tượng được tìm hiểu, nghiên cứu.

1 .3. Hệ thống từ xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng rất phông phú, đa dạng.

Nghiêu cứu từ xưng hô tiếng Nùng không những giúp chúng ta nắm bắt được những đặc

điểm ngôn ngữ (ở đây là cách xưng hô) của người Nùng mà còn hiểu được những ứng xử

văn hôá - ngôn ngữ của người Nùng qua cách xưng hô. Đây cũng là vấn đề mà nhiều công

trình nghiên cứu về ngôn ngữ cũng như văn hôá của người Nùng còn bỏ ngỏ.

Xuất phát từ tình hình nghiên cứu văn hôá, ngôn ngữ của dân tộc Tày và dân tộc Nùng

như vừa nêu trên, đề tài "Các cách xưng hô trong tiếng Nùng" nhằm giới thiệu những đặc

điểm riêng biệt trong xưng hô của người Nùng. Đề tài này sẽ góp thêm một tiếng nói, một

cách nhìn về văn hôá, ngôn ngữ của dân tộc Nùng trong mối quan hệ với dân tộc Tày.

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.

2.1.Giao tiếp bằng ngôn ngữ, nhất là giáo tiếp bằng hội thoại có đặc điểm là người nói

và người nghe không thể trốn, không thể tránh mặt ngay trong diễn ngôn (ngôn bản, lời

nói). Có nghĩa là xưng hô là yếu tố đầu tiên mà người hội thoại phải dùng và là yêu tố đầu

8

tiên (đập vào mắt hay tai) của người ngoài cuộc (bysfanders) chứng kiến cuộc thoại. Qua

các yếu tố người nói dùng để tự xưng - tức đưa mình vào trong diễn ngôn - và yếu tố hô -

tức người nói dùng để đưa người nghe đương diện của mình vào diễn ngôn mà cuộc giao

tiếp mới diễn ra một cách bình thường. Cũng qua chúng, quan hệ giao tiếp - từ quan hệ vai

đối thoại đển các quan hệ liên cá nhân được thiết lập và các cuộc hội thoại thường bị quyết

định bởi cách xưng hô mà người nói muốn đặt ra trong trò chuyện. Xưng hô chô đúng, xưng

hô chô hay sẽ góp phần làm tăng hiệu qủa của lời ăn tiếng nói. Xưng hô không đúng sẽ gây

nên những hậu qủa hết sức tai hại.

2.2.Vấn đề xưng hô mặc dầu đã được ngôn ngữ học chú ý từ lâu nhung do ảnh hưởng

của chủ nghĩa cấu trúc, nhiều nhà nghiên cứu chỉ chú ý đển các đại từ, trong đó nhập đại từ

chỉ ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai với đại từ chỉ ngôi thứ ba làm một. Tuy đã có nhiêu tác giả

chú ý đển cách sử dụng các từ chỉ quan hệ thân thuộc lâm thời như đại từ nhưng quan điểm

xem đại từ đóng vai trò trung tâm trong xưng hô là quan điểm chi phối việc nghiên cứu các

từ xưng hô.

Với sự phải triển của ngôn ngữ học theo hướng nghiên cứu ngôn ngữ trong hôạt động

hành chức, trước hết là hành chức trong giao tiếp, vấn đề xưng hô được xem xét trong phạm

vi rộng hơn, không còn là vấn đề thuần túy ngôn ngữ học mà còn là vấn đề của ngữ dụng

học, của xã hội ngôn ngữ học, của vấn đề ngôn ngữ học xuyên văn hôá. Trước hết lý thuyết

hội thoại đã rọi nhiều ánh sáng từ đó định ra nhiều hướng tìm hiểu mới chô việc nghiên cứu

từ xưng hô.

2.3. Nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ đã vận dụng những thành tựu của các ngành học

mới kể trên để nghiên từ xưng hô tiếng Viêt và đã thu được nhiều kết qủa tốt. Đó là các

công trình của Nguyễn Văn Chiến [30], [33], của Hôàng Anh Thi, [109], của Nguyễn Minh

Thuyết và Kim Young Soa [113]... Ngược lại, từ xưng hô trong tiếng Nùng chưa có cách

tiếp cận và được nghiên cứu một cách thôả đáng. Vì thể, chúng tôi vận dụng cơ sở lý thuyết

của dụng học, của hội thoại, của xã hội ngôn ngữ học để nghiên cứu từ xưng họ tiếng Nùng

một cách toàn diện.

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể chứng minh rằng, xưng hô không chỉ quyết

định bằng “ngôi” tức vai giao tiếp và một số nhân tố có tính chất biểu thị thái độ như tuổi,

trọng, khinh...v.v...mà xưng hô còn chịu chi phối của chức năng trong đó quan trọng nhất là

định khung quan hệ, sự chi phối của các quan hệ liên cá nhân, rõ nhất là nhân tố quyền tực ở

9

trục dọc (power) và nhân tố khôảng cách (còn gọi là thân hữu-solidarity), nhân tố ngữ

vực.v.v...Mặt khác không chỉ dùng các đại từ mà còn dùng các yếu tố khác, đặc biệt trong

tiếng Nùng, tiếng Việt...thì yếu tố khác lại quyết định hơn là các đại từ thực sự đó là từ chỉ

quan hệ thân hữu các từ chỉ chức vụ, cá tên riêng và sự phối hợp các nhân tố đó với nhau để

có được nhưng cách xưng hô cụ thể trong từng ngữ cảnh cụ thể.

3.Ý NGHĨA KHÔA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ .

3.1.Luận án sẽ có đóng góp nhất định vào công việc điều chỉnh một số khái niệm ngôn

ngữ lý thuyết vốn được xuất phát từ các loại hình ngôn ngữ của châu Âu như cách quan

niệm đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, đại từ nhân xưng ngôi thứ hai và đại từ ngôi thứ ba.

- Hướng nghiên cứu của luận an có thể giúp nhiều nhà nghiên cứu có quan niệm rạch

ròi hôn vế ngôn ngữ cũng như văn hôá của người Nùng.

Vấn đề mà luận án đề cập là một vấn đề mới. Điều đó thể hiện ở chỗ đây là một luận

án đầu tiên bàn về vấn đề ngôn ngữ dân tộc thiểu số dưới ánh sáng của lý thuyết dụng học.

Cách làm này gợi mở chô chúng ta một hướng nghiên cứu mà sự phông phú về tư liệu của

các chỉn tộc thiểu số ở nước ta là vô tận. Cách tiếp cận này cùng với cách tiếp cận truyền

thống theo hướng mô tả cấu trúc các ngôn ngữ dân tộc chô thấy khu vực này đang là một

vùng trống trong nghiên cứu ngôn ngữ - văn hôá ở nước ta.

3.2.Đề tài này sẽ góp phần nhỏ bé vào việc bảo toàn và phát triển giá trị văn hôá của

dân tộc, góp phần vào thực hiện chủ trương chỉnh sắch của Đảng và Nhà nước, cụ thể là vấn

để giáo dục Sơng ngữ trong những năm tới đây. Những thành công của luận án sẽ góp phần

vào công việc biên soạn tài liệu, chương trình giảng dạy tiếng Việt chô người Nùng, tiếng

Nùng chô người Nùng theo thông tư số 01, của Bộ giáo dục - đào tạo [15]

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

4.1. Xưng hô không chỉ bằng các đại từ nhân xưng. Trong tiếng Việt, tiếng Nùng và

nhiêu ngôn ngữ khác các danh từ thân tộc, danh từ chỉ chức vụ, các tên riêng...có thể dùng

làm từ xưng hô. Các phương tiện xưng hô đó có thể kết hợp với nhau thành các cụm từ, các

ngữ xưng hô. Ví dụ: Kính thưa giáo sư Nguyễn Tài Cẩn. Ở cụm từ xưng hô này có sự kết

hợp của danh từ chỉ chức vụ (giáo sư) + họ và tên đệm (Nguyễn Tài) + tên riêng (Cẩn ).

Chúng tôi gọi các phương tiện được dùng làm từ xưng hô bằng cụm từ : từ xưng hô. Luận

án của chúng tôi nghiên cứu những phương tiện xưng hô trong tiếng Nùng.

10

4.2. Theo tác giá [62], "Tộc danh Nùng chắc chắn là bắt nguồn từ tên dòng họ Nùng,

một trong bốn dòng họ đông người, có thể tực lớn là Nùng, Hôàng, Chu, Vy ..." [62,31].

Dân tộc Nùng có nhiều nhóm tùy theo đặc điểm trang phục hay địa danh cư trú của tổ tiên

trước khi định cư ở Việt Nam mà có những phụ danh khác nhau như Nùng An, Nùng Inh,

Nùng Quí Rỉn, Nùng Cháo... Giải thích về các tên gọi khác nhau của các nhóm Nùng, Lã

Văn Lô viết "Nhiều bộ phận người Nùng còn mang theo nhũng tên quê hương cũ của họ

như Nùng Phạn Slình, quê ở Vạn - Thành - Chân, Nùng Cháo, quê ở Long Châu, Nùng Slìn,

quê ở Sùng - thiện, Nùng Inh , quê ở Long anh, Nùng Lòi, quê ở Hạ - lôi, Nùng Quí Rỉn,

quê ở Qui - Thuận..." [62,31]

Ở luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các cách xưng hô trong tiếng Nùng Cháo ở

địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Hạn chế như vậy là vì tiếng Nùng Cháo ở Lạng Sơn là một phương

ngữ của tiếng Nùng mà tôi đã được tiếp xúc và am hiểu từ lâu. Dĩ nhiên khi nghiên cứu về

xưng hô trong tiếng Nùng Cháo chúng tôi sẽ cố gắng so sánh với các từ liệu phương ngữ

không thuộc Nùng Cháo. Từ đây, khi chúng tôi nói từ xưng hô trong tiếng Nùng thì được

hiểu là từ xưng hô trong tiếng Nùng Cháo.

4.3. Cấu trúc tổng quát của một cuộc thoại bao gồm: đoạn thoại mở đầu, thân thoại, và

đoạn thoại kết thúc. Ở luận án này, chúng tôi chỉ nghiên cứu các từ xưng hô trong đoạn

thoại mở đầu.

4.3.1. Đoạn thoại mở đầu là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc hội thoại. Nó bao

hàm các lượt nói chô phép các nhân vật giao tiếp tiếp xúc với nhau và đặt quan hệ chô cuộc

thoại. V.Kalimeyer cũng nhìn thấy ở đoạn mở đầu một tầm quan trọng lớn, vì từ đây, "tất cả

các bình diện của tương tác được xác định một cách chặt chẽ hay ít ra là lâm thời để tạo ra

một cơ sở chô sự tiến triển của sự kiện" [Dẫn theo 47,2).

4.3.2. Ở đoạn mở đầu nhân vật giao tiếp dùng các từ xưng hô tiêu biểu nhất, để quan

sát nhất do chưa chịu ảnh hưởng của những biến động trong cuộc thoại tác động đển. Bởi vì,

trong nhiều cuộc thoại, các nhân vật giao tiếp có sự thay đổi từ xưng hô so với cách xưng hô

ban đầu. Có thể thay đổi từ xưng hô theo hướng tích cực - từ khôảng cách xa đển khôảng

cách gần và ngược lại, thay đổi từ xưng hô theo hướng tiêu cực - từ khôảng cách gần, thân

thiện đển xa cách. Chúng tôi sẽ nói rõ hơn vấn đề này ở mục 1.2.3. Tuy nhiên chúng tôi

không nghiên cứu sự vận động và biến đổi của từ xưng hô trong cuộc thoại mà chỉ nghiên

cứu từ xưng hô theo những phương diện được trình bày trong lý thuyết (chương 1).

11

5. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.

5.1. Chúng tôi chọn những địa bàn có đông dân cư người dân tộc Nùng Cháo sinh

sống trong tình Lạng Sơn như huyện Chi Lăng, huyện Văn Lãng, huyện Tràng Định... làm

địa bàn điển dã. Đển những điểm điền dã nói trên chúng tôi quan sát, phỏng vấn và ghi âm

các cuộc thoại của người Nùng. Từ đó, thống kê các từ xưng hô, các cách xưng hô được

người Nùng sử dụng trong hội thoại.

Chúng tôi mở rộng đối tượng quan sát và phỏng vấn: từ các cháu thiếu niên đển các

anh chị thanh niên và các cụ già. Đặc biệt, chúng tôi quan tâm khai thác ở các thầy Mo, thầy

Tào, các bà Then... vì họ là rông lóp "trí thức" dân tộc. Họ am hiểu phông tục tập quán của

dân tộc mình.

Ngoài ra, chúng tôi còn tìm hiểu xưng hô, cách xưng hô của người Nùng qua cứ liệu

văn học dân gian, nhằm khẳng định các cách xưng hô đó không chỉ được người Nùng sử

dụng trong giao tiếp hàng ngày mà còn được sư dụng trong văn học nghệ thuật để diễn đạt

tư tưởng tình cảm cũng như các mối quan hệ của người Nùng.

Người thực hiện đề tài nghiên cứu này là người Xứ Lạng. Từ nhỏ tôi đã được nghe,

lớn lên hiểu và biết tiếng nói dân tộc Nùng trên mảnh đất quê hương mình. Đó là điều may

mắn và giờ đây là một thuận lợi vô cùng to lớn để tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

5.2. Các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm cấu trúc đã giải quyết các vấn để ngôn ngữ

trên quan điểm hệ thống. Vận dụng phương pháp hệ thống để nghiên cứu từ xưng hô, chúng

tôi tiến hành miêu tả, phân tích cách dùng các từ xưng hô theo từng hệ thống, từng nhóm

như hệ thống đại từ, hệ thống danh từ thân tộc, hệ thống danh từ chỉ chức nghiệp được dùng

làm từ xưng hô... Tuân thủ phương pháp hệ thống, chúng tôi xem xét các từ xưng hô trong

mối quan hệ với các yếu tố khác như nhân vật giao tiếp, ngữ cảnh giao tiếp...

5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu được chúng lôi sử dụng để làm nổi bạt đặc điểm từ

xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng. Chúng tôi chọn tiếng Nùng làm ngôn ngữ cần

phân tích, làm sáng tỏ. Bên cậnh đó chúng tôi chọn tiếng Việt làm ngôn ngữ công cụ để đối

chiếu. Chúng tôi khẳng định rằng: phương pháp so sánh đối chiếu chỉ là một trong những

phương pháp chúng tôi sử dụng để nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng. Mục đích chỉnh của

luận án không phải so sánh, đối chiếu hai hệ thống ngôn ngữ. Phương pháp so sánh, đối

chiếu được sử dụng trong những trường hợp cần thiết nhằm làm sáng tỏ hơn đặc điểm xưng

hô trong tiếng Nùng. Chúng tôi chọn tiếng Việt vùng đồng bằng Bắc bộ làm ngôn ngữ công

12

cụ để đối chiếu với tiếng Nùng, nhằm chỉ ra những đặc thù trong xưng hô của tiếng nùng.

Bên cậnh đó, một số phương ngôn của tiếng Việt như phương ngôn Nghệ An, phương ngôn

Nam Bộ cũng là những công cụ quan trọng được chúng tôi sử dụng để so sánh đối chiếu với

tiếng Nùng.

Sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, chúng tôi nhằm chỉ ra những từ xưng hô

tương đương (có/ không) giữa hai hệ thống ngôn ngữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi chỉ ra những

sự khác nhau về sắc thái biểu cảm, phạm vi sử dụng giữa các từ xưng hô có tương đương.

Xét về phạm vi nghiên cứu đối chiếu dấu hiệu, chúng tôi tiến hành đối chiếu cấu trúc

hệ thống và đối chiếu chức năng. Đối chiếu cấu trúc hệ thống nhằm làm sáng tỏ các đặc

điểm cấu tạo, những đặc điểm giống/ khác nhau ở các từ xưng hô giữa hai hệ thống.

Đối chiếu chức năng (hôạt động) nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm hôạt động, hành chức

cũng như làm sáng tỏ chức năng và sự chuyển đổi, khả năng diễn đạt của các từ xưng hô

giữa hai hệ thống.

Như vậy, chúng tôi đối chiếu từ xưng hô ở hai phương diện: cấu trúc và chức năng.

6.GIẢ THIẾT KHÔA HỌC CỦA ĐỀ TÀI.

Chúng tôi giả định rằng, việc nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng dưới ánh sáng của lý

thuyết dụng học sẽ gợi mở một hướng nghiên cứu mới đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu

số ở Việt Nam, điều mà nhiều công trình nghiên cứu ngôn ngữ dân tộc thiểu số ít để ý tới.

Những kết qủa nghiên cứu của luận án có thể chứng minh rằng trong tiếng Nùng, tiếng

Việt... xưng hô không chỉ dùng đại từ mà còn dùng nhiều phương tiện khác như danh từ

thân tộc, danh từ chức nghiệp...

7.LỊCH SỬ VẤN ĐỂ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

Tiếng Nùng thuộc hệ ngôn ngữ Tày - Thái. Ở Việt Nam có hơn 70 vạn người sử dụng

tiếng Nùng trên hầu khắp các tỉnh thành, đông nhất là ở Lạng Sơn, Cao Bằng. Không ít nhà

nghiên cứu chô rằng Tày, Nùng nói chung một ngôn ngữ "Sự khác nhau giữa Tày và Nùng

chỉ có tính "địa phương" [ 63,59], hôặc "có thể nói, người Tày và người Nùng nói chung

một thứ tiếng" [68,7]. Xuất phát từ quan niệm đó, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu tiếng

Tày và tiếng Nùng như một ngôn ngữ chung : ngôn ngữ Tày - Nùng. Hướng tiếp cận này

giúp các nhà nghiên cứu tìm ra được những đặc điểm chung giữa tiếng Tày và tiếng Nùng.

13

Tuy nhiên, như chúng tôi đã nói ở mục 1.2. việc gom những đặc điểm phố biến của hai

ngôn ngữ Tày và Nùng (như đặc điểm về sự đồng dạng cấu trúc) thành một ngôn ngữ để

nghiên cứu khiến chúng ta không thể tìm ra những đặc điểm riêng biệt trong ngôn ngữ của

những cộng đồng tuy có giống nhau nhưng thực sự vẫn là khác nhau ấy.

Trong lĩnh vực nghiên cứu từ xưng hô cũng vậy, các tác giả [68] có đề cập đển các đại

từ xưng hô tiếng Tày - Nùng và chỉ ra cách dùng một số đại từ đó. Trong công trình [68] kể

trên, chúng ta không thể tìm thấy những điểm riêng biệt của từ xưng hô tiếng Nùng đúng

như nó đang tồn tại cùng với dân tộc Nùng. Do đó, việc phân biệt tiếng Tày và tiếng Nùng

để nghiên cứu là cần thiết.

Dân tộc Nùng gồm khôảng 10 nhóm khác nhau, ở một vài đặc điểm văn hôá, ngôn ngữ

thậm chí còn phải nghiên cứu cụ thể tới từng nhóm như các công trình của mông Ký Slay

[94], của Vi Thị Bé, J.E.Saul [133]...chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng theo

hướng tiếp cận này.

Theo những tài liệu mà chúng tôi có được, những người đầu tiên nghiên cứu về từ

xưng hô tiếng Nùng có lẽ là các tác giả J.E Saul, N.F Wilson [142], Mông Ký Slay [93].

Trong công trình “vài nhận xét về hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng” [93] Mông Ký Slay

đã giới thiệu hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng, cách cấu tạo số nhiều của đại từ xưng hô

tiếng Nùng...Bên cậnh đó, tác giả người bản ngữ này cũng giới thiệu và chỉ ra cách dùng

một số danh từ thân tộc được dùng làm từ xưng hô trong triếng Nùng. Tuy nhiên ở công

trình này, Mông Ký Slay mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu những nét khái quát nhất về hệ

thống đại từ nhân xưng tiếng Nùng. Vì thể, nhiều từ xưng hô, cách xưng hô như danh từ

thân tộc, danh từ chỉ chức nghiệp...hay những kiêng kị, những nhân tố chi phối cách dùng từ

xưng hô tiếng Nùng chưa được tác giả chú ý tới.

Có thể khẳng định rằng, công trình và kết quả nghiên cứu của tác giá [93] về hệ thống

đại từ xưng hô tiếng Nùng là nhũng tư liệu quí giá, tạo tiền đề thuận lợi chô hướng nghiên

cứu của chúng tôi.

Vấn đề xưng hô trong tiếng Nùng chưa được nghiên cứu nhiều. Tiếp thu thành tựu của

các tác giả đi trước, chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng ở những bình diện sâu

rộng hơn : cấu trúc và chức năng của từ xưng hô tiếng Nùng.

14

8. CÁI MỚI CỦA LUẬN ÁN.

Luận án là côngtrlình đâu tiên miêu tả một cách toàn diện bức tranh xưng hô tiếng

Nùng. Luận án xác định những phương tiện được dùng làm từ xưng hô trong tiếng Nùng

cũng như chỉ ra các nhân tố chi phối cách sử đụng các lớp từ xưng hô đó. Ngoài ra, luận án

đã giới thiệu và mô tả được cách dùng các từ xưng hô trong tiếng Nùng.

9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN.

Ngoài mở đàu và kết luận, luận án gồm 4 chương:

Chương 1 : Những cư sở lý thuyết về xưng hô.

Chương 2 : Cách xưng hô bằng đại từ trong tiếng Nùng.

Chương 3 : Cách xưng hô bằng danh từ thân tộc trong tiếng Nùng

Chương 4 : Cách xưng hô ngoài xã hội trong tiếng Nùng.

Luận án kèm theo 150 thư mục tài liệu tham khảo và 3 phụ lục.

15

CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỚ LÝ THUYẾT VỀ XƯNG HÔ

Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ. Hành vi xưng hô chỉ diễn ra trong hội thoại. Vì thể,

ở chương này, những cơ sở của lý thuyết hội thoại được chúng tôi vận dụng để nghiên cứu

từ xưng hô. Lý thuyết hội thoại sẽ soi rọi và phát hiện ra những nét đặc sắc của xưng hô mà

cách tiếp cận truyền thống chưa nhận ra được.

Đối tượng nghiên cứu của luận án là từ xưng hô, các cách xưng hô trong tiếng Nùng.

Tuy nhiên, trước khi nghiên cứu miêu tả từ xưng hô, các cách xưng hô tiếng Nùng, chúng

tôi sử dụng cơ sở lý thuyết chung để tìm hiểu những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng

Việt như những chức năng của từ xưng hô, những ngữ vực chi phối cách sử dụng từ xưng

hô... Những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Việt sẽ là cơ sở để chúng tôi so sánh, làm

nổi rõ những đặc điểm của từ xưng hô trong tiếng Nùng.

1.1.KHÁI NIỆM XƯNG HÔ

Xưng hô là một bộ phận của lời nói. Chứng ta không thể trò chuyện với nhau nếu

không xưng hô. Từ xưng hô bao gồm hai hình vị : Xưng và hô, đây cũng là tên gọi của hai

hình vị ngôn ngữ tương ứng với nhau.

Xưng là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa mình vào trong lời

nói, để người nghe biết rằng mình đang nói và mình chịu trách nhiệm về lời nói của mình.

Đó là hành động tự qui chiếu của người nói (ngôi I).

Hô là hành động người nói dùng một biểu thức ngôn ngữ để đưa người nghe vào trong

lời nói C.K Orecchioni viết, "Hô được hiểu là tập hợp nhưng biểu thức; mà người nói dùng

để chỉ người đối thoại với mình" [150.15].

Như vậy, đặc điểm của xưng hô lá tất yếu phải có sự hiện diện của người nói và người

nghe. Xưng hô khác với hô gọi. Chức năng chủ yếu của hô gọi là phát ra một biểu thức

hướng vào người nghe (biểu thức này không nhất thiết là đại từ nhân xưng ) nhằm làm chô

người nghe biết rằng người hô gọi muốn thực hiện một cuộc hội thoại với anh ta. Vì thể, hô

gọi thường chỉ diễn ra một lần trong cuộc thoại. Trong trường hợp người nghe không chú ý

vào cuộc thoại, hô gọi có thể lặp đi lặp lại (thường là lúc mở đầu) với chức năng "lôi kéo"

người nghe trở lại cuộc thoại. Ví dụ:

- Này Hùng, Cậu vẫn đang nghe tớ nói đấy chứ?

16

Hô gọi là hành động của người nói. Ngược lại, xưng hô là một hành động diễn ra

thường xuyên, liên tục trong cuộc thoại và ở lời của các nhân vật tham gia hội thoại.

Xưng hô là một hành vi ngôn ngữ và là một hành vi ở lời. Đỗ Hữu Châu viết , "Hành

vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu quả của chúng là

những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một phản ứng ngôn ngữ tương

ứng với chúng ở người nhận "[24,24]".

Khi nhân vật hội thoại tựa chọn một từ xưng hô nào đó để xưng hô với người đối thoại

tin ngay lúc đó anh ta đã xác định và mặc nhiên bị lệ thuộc vào cái khung quan hệ của mình

với người đối thoại do chính từ xưng hô mang lại. Khung quan hệ mà từ xưng hô mang lại

có thể là tao - mày, anh -em, chị - em, bác - cháu, cha - con, ông - cháu... Việc tựa chọn từ

nào trong hệ thống từ xưng hô để giao tiếp cũng có thể tác động đển người đối thoại như

đồng tình hay phản đối cách xưng hô đó. Nói cách khác, khi thực hiện một hành vi xưng hô,

các nhân vật hội thoại cũng tự đặt mình vào những nghĩa vụ và quyền lợi mới so với tình

trạng của họ trước khi thực hiện hành vi đó.

Điểu kiện để thực hiện một hành vi xưng hô là :

- Hành vi xưng hô chỉ diễn ra trong hội thoại. Ở đâu có hội thoại ở đó có xưng hô.

- Vì diễn ra trong hội thoại nên hành vi xưng hô phải được thực hiện bởi các nhân vật

hội thoại - chủ thể phát ngôn - chủ thể của hành vi xưng hô.

Mỗi một hành vi ngôn ngữ có những biểu thức ngôn ngữ để thực hiện hành vi đó.

Chẳng hạn như tương ứng với hành vi hỏi là các biểu thức ngôn ngữ để hỏi... Những biểu

thức ngôn ngữ để thực hiện hành vi xưng hô là các phương tiện xưng hô như các đại từ

xưng hô, các danh từ thân tộc các danh từ chỉ chức vụ, các tên riêng hay các cụm từ, các

ngữ xưng hô... Biểu thức đó chúng tôi gọi chung là từ xưng hô. Như vậy từ xưng hô được

dùng trong luận án này là một khái niệm rộng – cáic phương tiện dùng để xưng hô.

Trong thực tế, xưng hô là cách qui chiếu chô vai giao tiếp - vai người nói và vai người

nghe. Nhờ các từ xưng hô mà lời nói mới gá lắp vào một cuộc thoại cụ thể. Có thể coi các từ

xưng hô như là những dấu hiệu khởi động, nhờ đó mà nhân vật giao tiếp chuyển từ sự im

lặng sang nói năng - giao tiếp bằng lời.

Xưng hô liên quan tới khái niệm nhân vật giao tiếp. Hội thoại chỉ hình thành và diễn ra

khi có sự trao lời và đáp lời giữa các nhân vật giao tiếp. Trong đó, người phải được gọi là

17

ngôi thứ nhất (với người nói), người nhận đượi gọi là ngôi thứ hai (Vai người nghe). Ngôi

chỉ ra vai trò của nhân vật giao tiếp thể hiện trong lời nói - sản phẩm của giao tiếp. Ngôi thứ

nhất là kết quả của sự qui chiếu của người nói. Ngôi thứ hai là kết quả của sự qui chiếu do

người nói tiến hành trong giao tiếp với một hay nhiều người cùng đối thoại với mình. Ngôi

thứ ba qui chiếu tới người hay vật được nói tới trong thông điệp. Khác với ngôi thứ nhất và

ngôi thứ hai, ngôi thứ ba phải được người nghe chấp nhận, thôả thuận là đối tượng được nói

tới. Nói cách khác, các nhận vật ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai là những nhân vật đương

diện - nhân vật hội thoại. Ngược lại, các nhân vật ở ngôi thứ ba không phải là nhân vật hội

thoại, do đó các nhân vật này không thể thục hiện hành vi xưng hô.

Tóm lại, xưng hô là hành động ngôn ngữ của các nhân vật hội thoại - người nói và

người nghe. Nhân vật hội thoại sử dụng các đơn vị ngôn ngữ một cách thường xuyên, liên

tục để đưa mình vào trong lời nói(hành động xưng-ngôi 1) đưa người đối thoại vào trong

lời nói(hành động hô-ngôi 2).

1.2. NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA TỪ XƯNG HÔ.

Có thể nói, chức năng chủ yếu của từ xưng hô là thiết lập quan hệ tiếp xúc giữa những

người đối thoại và duy trì cuộc thoại giữa các bên tham gia. Sự im lạng hay thiếu vắng lời

xưng hô hay sự thay đổi cách xưng hô cũng có một giá trị xã hội - ngôn ngữ học nhất định.

Như vậy, xưng hô ngoài chức năng thiết lập quan hệ tiếp xúc (chức năng mở đầu cuộc

thoại) còn có chức năng biểu lộ thái độ, tình cảm cũng như vị thế của các nhân vật hội thoại.

Chúng tôi tìm hiểu ba chức năng cơ bản của từ xưng hô là chức năng định vị, chức

năng chiếu vật và chức năng thể hiện quan hệ liên cá nhân.

1.2.1. CHỨC NĂNG ĐỊNH VỊ CỦA TỪ XƯNG HÔ.

Trong công trình [23] Đỗ Hữu Châu đã khẳng định: “Trong ngôn ngữ tất cả các câu

nói, bằng cách này hay cách khác đều phải có những yếu tố đóng vai trò định vị" [23, 130].

Khái niệm định vị được J.Lyons phát biểu như sau : " Định vị được hiểu là sự xác định

và sự đẳng nhất người, quá trình, sự kiện mà người ta nói đển và qui chúng với một ngữ

cảnh không - thời gian nào đó được tạo nên và được duy trì bởi hành động phát ngôn và bởi

sự tham gia của một người nói duy nhất và ít ra là với một người nghe" [148, 260].

Từ định nghĩa của J.Lyons, chúng ta thấy, sự định vị trong lời nói phải được thực hiện

bởi các nhân vật hội thoại - người nói và người nghe.

18

Ba phạm trù định vị đã được ngữ pháp hôá và đã được nghiên cứu trong ngữ pháp cổ

điển là phạm trù ngôi (nhân xưng) địa điểm và thời gian. Ở luận án này, chúng tôi chỉ tìm

hiểu phạm trù định vị trong ngôi nhân xưng qua các từ xưng hô - yếu tố định vị của ngôi.

Theo quan sát của chúng tôi, yếu tố định vị đóng vai trò căn bản trong tất cả các phát

ngôn có sử dụng từ xưng hô.

Con người luôn ở vào thế giao tiếp với nhiều lớp người, loại người khác nhau về địa vị

xã hội, lứa tuổi, giới tính, trình độ học vấn ... và giao tiếp cũng diễn ra ở ngữ cảnh rộng, hẹp

khác nhau như không gian, thời gian cũng như tính chất qui thức hay bất qui thức của cuộc

giao tiếp. Chính vì thế, các nhân vật hội thoại luôn luôn phải tựa chọn và sử dụng các từ

xưng hô sao chô phù họp với từng loại quan hệ vai và phù họp với ngữ cảnh giao tiếp. Có nghĩa là, tùy vào môi quan hệ của ego+ (+ ego là thuật ngữ của dân tộc học chỉ cái Tôi ) với

người đối thoại mà ego có thể xưng em ở vị trí 1 nhưng có thể xưng anh ở vị trí 2, hôặc

xưng bố ở vị trí 3 ... Việc thay đổi này được thực hiện nhờ vào điểm gốc qui định chỗ đứng

của ego. Nói rõ hơn, ego có thể thay đổi từ xưng hô khi vị thế của ego không còn giữ

nguyên vị trí ban đầu. Điều này chứng tỏ vị thế của nhân vật hội thoại là tương đối . C.K.

Orecchioni nhận xét "Tương tác là một qúa trình động. Ở T1, L1 có thể ở vị thế cao nhưng

ở T2, L1 lại ở vị thế thấp. Đồng thời anh ta có thể mạnh ở mặt này nhưng lại yếu mặt kia; ví

dụ người phỏng vấn và người được phỏng vấn" [I49,48]. Do dó, các nhân vật hội thoại

muốn sử đụng từ xưng hô chô hợp lý thì phải xác định (định vị) được vị thế của mình với vị

thế của người đối thoại.

Trong giao tiếp, chúng ta thường có một bộ tiêu chí để định vị vị thế của mình và vị

thế của người đối thoại như tuổi tác, quan hệ gia đình, quan hệ xã hội, vị thế giao tiếp ...

Căn cứ vào vai trò định vị của từ xưng hô trong hôạt động giao tiếp thì những từ mang

ý nghĩa chỉ quan hệ như "anh", "em", "cha", "mẹ", "ông", "bà", "chú", "bác" "cậu", "dì",

"thím" ...là những từ không có ý nghĩa biểu vật như những từ miêu tả chân chính. So sánh

các từ "anh", "cha", "chú", "cậu" ... với "đàn ông" và so sánh các từ "chị", "mẹ", "cô", "dì"

... với "đàn bà" sẽ làm nổi giá trị thực trong phạm vi định vị của các từ này. Ví dụ :

Nhân vật A là "em" của nhân vật B

"chị" của nhân vật C

"em" của nhân vật B

19

"cô" của nhân vật D

Nhưng dù mang vai là "em", "chị" hay "cô" với bất kỳ một nhân vật nào thì A vẫn chỉ

là một người "phụ nữ", một người "đàn bà" mà thôi.

Cũng như vậy, một người nào đó có thể là "em" đối với A ở điểm mốc này nhưng lại

là "anh" của B ở điểm mốc khác hay là "bác" là "ông" của C thì anh ta cũng chỉ là một

người "đàn ông" mà thôi.

Nói tư xưng hô có chức năng định vị trong quá trình hội thoại, điều ấy có nghĩa là từ

xưng hô có tác dụng tự bộc lộ vị thế của người nói về người nghe. Người nói tự xác định và

"ý thức" về vị thế của người đối thoại so với bản thân mình mà sử dụng các từ xưng hô

tương ứng. Đồng thời, qua các từ xưng hô, người nghe cũng nhận biết đươc thái độ, tình

cảm của người nói đối với mình.

Từ xưng hô có thể giúp chô người ngoài cuộc cũng có những hiểu biết nhất định về

quan hệ của các nhân vật hội thoại chẳng hạn, một người được gọi là "chú" hay tự xưng là

"chú" tất hẳn ẩn dấu quan hệ đã được xác định qua từ xưng hô đó. Tuy điểm gốc và vật

chuẩn đưa ra ta mới có thể kết luận được quan hệ của các nhân vật hội thoại. Nêu yếu tố

định vị ở đây là quan hệ xã hội đơn thuần thì người được gọi hay xưng là "chú", thường là

người có độ tuổi chênh lệch so với người đối thoại khôảng một thế hệ (từ 15 - 20 tuổi).

Chúng ta cũng chỉ đoán nhận được mối quan hệ giữa hai nhân vật hội thoại trên là quan hệ

tuổi tác, giới tính. Nếu yếu tố định vị là quan hệ trong gia tộc thì nhân vật được gọi là "chú"

thường là em trai ruột (hay em họ) của bố lấy thế hệ con là chuẩn.

Trong công trình [24] , khi giới thiệu về sự định vị xã hội, Đỗ Hữu Châu chỉ rõ "Trong

tiếng Việt, ngoài một số từ như "ngài", "bệ hạ" ... các từ định vị xã hội đều dựa vào sự định

vị trong gia đình, họ hàng như "ông", 'bà", "anh", "chị" ... làm cơ sở" [24, 237]. Sự định vị

này khiến chô các mối quan hệ ngoài xã hội trở nên thân thiết hơn.

Như vậy, gọi một nhân vật nào đó là "em" hay "anh" hôặc bất luận một từ nào khác

trong hệ thống từ xưng hô là phụ thuộc vào sự định vị vị thế của người nói.

Trong hôạt động giao tiếp, tùy vào từng ngữ cảnh giao tiếp, tùy vào từng đối tượng

giao tiếp cụ thể mà các nhân vật hội thoại có thể chọn tựa các nguyên tắc định vị khác nhau.

Hai nguyên tắc định vị thường được sử dụng trong giao tiếp là nguyên tắc tự ngã trung tâm

và nguyên tắc lấy người khác làm trung tâm.

20

Nguyên tắc tự ngã trung tam có nghĩa là người nói tự lấy mình, lấy ego làm gốc để qui

chiếu và lấy tình thế giao tiếp mặt đối mặt (đương diện ) làm tình thế chuẩn. Nói cách khác,

Sữ dụng nguyên tắc tự ngã trung tâm tức là người nói lấy bản thân mình, lấy cái tôi (ego)

của mình mà giao tiếp với nhân vật khác.

Nguyên tắc lấy người khác làm trung tâm hay còn gọi là nguyên tắc gọi thay ngôi.

Nguyên tắc gọi thay ngôi "là một vế đặc biệt của sự xưng hô mà người được gọi lại giữ một

"vai" khác trong mối quan hệ xã hội với người khác thay vì chô người đang xưng hô với

mình" [30, 62].

Nguyên tắc gọi thay ngôi được các nhân vật hội thoại sử dụng hết sức linh hôạt, phông

phú và đa dạng. Nhờ nguyên tắc gọi thay ngôi mà các nhân vật giao tiếp có thể vượt qua

được những "mâu thuẫn", những băn khôăn khi phải tựa chọn từ xưng hô. Chẳng hạn, trong

gia tộc, A là anh của B nhưng B lại có địa vị xã hội cao hơn A. Nến A dùng cặp từ xưng hô

anh - em thì có sự "mâu thuẫn" giữa quan hệ gia tộc và địa vị xã hội. Do đó, "Trường hợp

gặp người đối thoại có thứ bậc thấp hơn mình nhưng đã lớn, đã có cương vị trong xã hội là

phải đổi lại cách xưng hô bằng cách thay vào đó cách xưng hô của bậc con, bậc cháu mình

(chẳng hạn, thay em bằng chú, bằng cô, thay cháu bằng anh, bằng chị)”[12, 142].

Nhiều khi không nhất thiết là người đối thoại có địa vị xã hội thấp hơn mình mới phải

sử dụng nguyên tắc gọi thay ngôi. Chẳng hạn, một vị giáo sư đi đón cháu ở mẫu giáo, gặp

cô giáo của cháu mình, vị giáo sư có thể nói : "Xin phép cô, tôi đón cháu về". Xét về tuổi

tác, vị giáo sư hơn tuổi cô giáo của cháu mình. Xét về cương vị xã hội, giáo sư cũng có

cương vị cao hơn nhưng vẫn gọi người đối thoại bằng "cô" thay chô cháu mình. Việc gọi

thay ngôi ở đây thể hiện thái độ tốn trọng của vị giáo sư đối với cô giáo của cháu mình.

Giáo sư gọi cô giáo của cháu mình là "cô" và tự xưng là "tôi". Cách xưng "tôi" vẫn giữ được

vị thế của giáo sư trước cô giáo của cháu mình.

Tóm lại, với những từ xưng hô nhất định, nhân vật giao tiếp có thể bộc lộ nhận thức

của mình với đối tượng cùng giao tiếp. Mặt khác từ xưng hô cũng xác định rõ hơn quan hệ

giữa người nói, người nghe qua chức năng định vị của mình.

J.Lyons từng coi chức năng định vị là chức năng thứ nhất, quan trọng của đại từ khi

ông viết : "Nói các đại từ đại diện về mặt ngữ nghĩa chô danh từ và đó là chức năng thứ nhất

của chúng thì thật sai lầm. Thứ nhất, theo cách hiểu như vậy, người ta không phân biệt giữa

tên và các biểu thức định danh, các biểu thức danh ngữ. Các đại từ là các biểu thức chiếu vật

21

đều tương đương theo quan điểm ngữ pháp với các tên gọi, với các danh từ. Nói các đại từ

trước hết là các từ thay thế là bất kể nó thay thế chô danh từ hay chô các biểu thức danh

ngữ. Nghĩa là, người ta chô rằng, các chức năng thay thế trong văn bản (chức năng hồi chỉ)

quan trọng hơn chức năng định vị của chúng mà chúng ta hiểu rằng, trong hai chức năng đó

thì chức năng định vị mới là chức năng thứ nhất . (Chúng tôi nhấn mạnh) " [148, 261].

1.2.2. CHỨC NĂNG CHIẾU VẬT CỦA TỪ XƯNG HÔ.

Ý nghĩa biểu vật và ý nghĩa biểu niệm là hai khái niệm của ngữ nghĩa học. Trong công

trình [23], Đỗ Hữu Châu đã thực hiện sự phân biệt giữa nghĩa biểu vật, nghĩa chiếu vật. Ông

viết:"Ý nghĩa biểu vật (trong hệ thống) sẽ được chuyển hôá thành ý nghĩa chiếu vật (trong

lời nói)" [23, 149]

Nghĩa chiếu vật lại được phân thành : chiếu vật cá thể, chiếu vật loại (chiếu loại) và

chiếu vật bộ phận (chiếu một số bộ phận trong loại ). Các đại từ nhân xưng tiếng Việt là

những tín hiệu chuyên dùng để thực hiện chức năng chiếu vật. Nghĩa chiếu vật của từ xưng

hô là chiếu vật cá thể. Bởi vì, các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai mỗi khi

được dùng, chúng đều qui chiếu tới người nói, người nghe có mặt trong cuộc thoại. Ở mục

1.4.1. ( Đại từ xưng hô), chúng tôi nói tới tính duy nhất của nhân vật hội thoại, thực chất là

nói tới tính chiếu vật cá thể của các đại từ nhân xưng. Luận điểm này từng được tác giả [24]

chỉ rõ "Trong ngôn ngữ những đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, thứ hai cũng có tính chất chỉ

hiệu vì mỗi khi chúng được dùng, chúng đều qui chiếu với người nói, người nghe đang có

mặt trong giao tiếp" [24, 233].

Như chúng ta đều biết, trong hệ thống ngôn ngữ có nhũng từ không có ý nghĩa biểu vật

nhưng trong lời nói chúng vẫn có ý nghĩa chiếu vật. Hệ thống từ xưng hô tiếng Việt rơi vào

trường hợp này. Nói tới vai trò chiếu vật của từ xưng hô trong hội thoại thực chất là sự cụ

thể hôá vai trò định vị và vai trò biến thái của từ xưng hô.

Dựa vào chức năng chiếu vật của từ xưng hô, các nhân vật hội thoại có thể tựa chọn

một từ xưng hô bất kỳ để tự qui chiếu và qui chiếu nhân vật đang đối thoại cùng mình.

Như vậy, nếu vai trò định vị và vai trò biểu thái là vấn đề chung chô từ xưng hô thì ý

nghĩa chiều vật lại chỉ có riêng khi từ xưng hô đã được cá thể hôá và đi vào hôạt động.

Trở lại ví dụ đã dẫn, so sánh các từ xưng hô em, anh, bố, ông, chú, cậu ... với đàn ông,

so sánh các từ chị, cô, mẹ, bà, thím, dì ... với đàn bà, chúng ta thấy các từ đàn ông, đàn bà

22

dùng để chỉ một tập hợp người nhất định và có các tiêu chỉ tập hợp riêng, có các thuộc tính

riêng để phân biệt. Trong khi đó, các từ chị, anh, bà, cô, chú ... lại hình thành do những

quan hệ xã hội nhất định và được cụ thể hôá của từ đàn ông (hôặc đàn bà) trong hệ thống để

đi vào hôạt động. Các từ xưng hô như chú, anh, ông, cậu ... dùng để chỉ một cá nhân bất kỳ,

đồng thời cũng dùng để chỉ một người đàn ông cụ thể. Việc tựa chọn từ nào để xưng hô là

phu thuộc vào vị trí người nói, vào vật chuẩn tính quan hệ và thay đổi tuy theo điểm gốc.

Những điều vừa trình bày ở trên chô chúng ta thấy, một từ có ý nghĩa biểu vật có thể

có rất nhiều từ có ý nghĩa chiếu vật xoay quanh. Chúng ta có thể hình dung các từ có ý

nghĩa biểu vật như đàn ông, đàn bà qua mô hình đơn giản sau :

Với ý nghĩa biểu vật, các từ đàn ông, đàn bà ... chủ yếu mang chức năng định danh,

chức năng miêu tả - ít khi trở thành từ xưng hô.

Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận hôàn toàn chức năng chiếu vật của các

từ đàn ông, đàn bà. Ví dụ :

- Đàn ông ngồi bên trái, đàn bà ngồi bên phải.

Ở phát ngôn trên, hai từ đàn ông, đàn bà rõ ràng có chức năng chiếu vật - chiếu vật

loại. Trong giao tiếp, các từ ông, chú, anh, cậu ... và bà, cô, chị, dì...(vốn được cụ thể hôá từ

các từ đàn ông, đàn bà) thưòng được dùng làm từ xưng hô vì chức năng chiếu vật - chiếu vật

cá thể rất rõ ràng của chúng.

Vai trò chiếu vật của từ xưng hô trong hội thoại suy chô cùng chính là sự thể hiện các

mối quan hệ và thái độ, tình cảm của nhân vật giao tiếp.

Trong thực tế sử dụng - khi hành chức, một từ xưng hô có thể có ý nghĩa chiếu vật

khác nhau nếu như xưng hô đó được các nhân vật hội thoại dùng qui chiếu với các nhân vật

nhau.

23

Giả sử có một từ xưng hô "X" bất kỳ (X có thể là tôi, tao, anh, em ...) :

Nhân vật A dùng X để xưng với nhân vật N.

Nhân vật B dùng X để xưng với nhân vật N.

Nhân vật C hay một nhân vật bất kỳ cũng có thể dùng X để xưng với nhân vật N.

Chúng ta dễ đàng nhận thấy, từ "X" ở các trường hợp trên có vỏ âm thanh giống nhau

nhưng vì qui chiếu ở những con người khác nhau nên "X" trong các trường họp vừa nêu có

thể khác nhau về ý nghĩa chiếu vật. Cùng là đại từ tôi để xưng với nhân vật N nhưng nếu tôi

của A khác tôi của B, khác tôi của C thì vấn đề cần xem xét ở đây là nghiên cứu quan hệ

giữa các nhân vật A, B, C ... với nhân vật N. Mối quan hệ giữa các nhân vật A, B, C ... với

nhân vật N có thể khác nhau, vì thế từ xưng hô qui chiếu vào các nhân vật tuy có vỏ âm

thanhh giống nhau nhưng về ý nghĩa quan hệ lại khác nhau. Đó là hiện tượng thứ nhất dể

xảy ra trong giao tiếp.

Hiện tượng thứ hai không kém phổ biến là hiện tượng nghĩa không xác định của từ

xưng hô, đặc biệt là lớp từ xưng hô thực thụ. Chúng ta khó mà định nghĩa được các từ tôi,

tao, tớ, mày ... khi chúng đứng trong hệ thống. Nhưng khi đi vào hôạt động, chúng ta có thể

tìm thấy nghĩa của các từ này trong tương quan với các từ xưng hô khác, hay trong một kết

cấu xưng hô cụ thể. Vì thế, trong hội thoại, khi gặp một phát ngôn có sử dụng từ xưng hô

chúng ta có thể đoán biết mối quan hệ nhất định và thái độ, tình cảm của các nhân vật hội

thoại. Tuy nhiên, không phải bao giờ từ xưng hô cũng bộc lộ chính xác, đích thực quan hệ

của các nhân vật hội thoại. Ngược lại, trong nhiều trường họp, từ xưng hô có độ lệch tương

đối lớn so với quan hệ thực của người nói và người nghe. Trường hợp các nhân vật hội thoại

dùng những danh từ thân tộc như chú, bác, ông, bà, anh, chị, em ... để xưng hô với những

người vốn không có quan hệ huyết thống với mình là một ví dụ tiêu biểu. Đây là cách dùng

các yếu tố của trục dọc để tạo sự gần gũi thân thiết. Chúng ta thường thấyngoài xã hội,

người Việt gọi nhau một cách thân mật và tự nhiên bằng các từ bố, mẹ, chú, dì, con ... Việc

sử dụng các danh từ thân tộc để xưng hô ngoài xã hội đã làm thân thiết hôá, gần gũi hôá các

quan hệ người - người. Chúng ta đều biết, toàn dân Việt Nam gọi chủ tịch Hồ Chỉ Minh là

Bác. Và đển lượt mình, Bác Hồ cũng gọi các bậc thượng thọ là cụ và tự xưng là cháu gọi

những người trong tuổi thanh thiếu niên là cháu và xưng là Bác. Những cách xưng hô như

vậy thiên về mặt tình cảm hơn là về lý trí, thiên về phông tục tập quán hơn là về pháp luật,

thiên về tầm lý xã hội hơn là về tư tưởng.

24

Nói tới quan hệ trong hội thoại là gắn liền về mặt nào đấy giữa con người hay sự vật

khác nhau hôặc giữa người và vật khiến chô sự giao tiếp có tác động và làm thay đổi trạng

thái, tinh thần hay tình cảm ở các nhân vật giao tiếp. Điều này thể hiện rõ rệt và trước hết ở

người nói.

Khi sử dụng từ để xưng, người nói tự bộc lộ nhận thức về quan hệ của mình đối với

người nghe. Trong nhiều trường họp, người nói lấn lướt người nghe và sử dụng "chiến lược

áp đặt" buộc người nghe phải tuân theo mình. Áp đặt có thể là thế mạnh cũng có thể là thể

yếu, tự xưng "em" hay "tôi" là buộc người nghe vào một khung quan hệ và khung hành vi ở

lời xưng hô nhất định. Nếu như các nhân vật hội thoại đã có những quan hệ rõ ràng, xác

định thì việc tựa chọn từ xưng hô để giao tiếp rất dễ đàng. Nhưng không ít trường hợp, các

nhân vật giao tiếp phải băn khôăn, tựa chọn từ xưng hô để thể hiện chô đúng mối quan hệ

của mình với người đối thoại. Trong tác phẩm "Nửa chừng xuân" nhà văn Khái Hưng mô tả

sự cân nhắc của bà Án trong việc tựa chọn từ xưng hô để mở đầu cuộc giao tiếp với Mai

như sau : "Bà An ngẫm nghĩ muốn hỏi chuyện Mai nhưng chẳng biết xưng hô như thế nào,

gọi là bà tham hay bà huyện thì ngượng mồm và sợ Huy cười mà gọi là cô thì cũng bất tiện

..."

Ở ví dụ trên, nếu ba Án gọi Mai bằng bà tham hay bà huyện tức là chấp nhận mối quan

hệ giữa Mai và Tộc. Nếu bà Án gọi Mai bằng cô, bà thấy không ổn, bởi Mai đã là vợ Tộc,

quan trọng hơn, cách gọi này càng làm chô khôảng cách giữa bà và Mai xa hơn và bà khó

thực hiện được mục đích đưa cháu Ái - con của Mai và Tộc - về nuôi để nối dõi tông đường

(Đoạn này dẫn theo [55,39 ]).

Như vậy, mỗi từ xưng hô cụ thể trong một phát ngôn nhất định đều hàm ẩn một mối

quan hệ nhất định, chô phép người nói thể hiện nhận thức của mình trong việc sử dụng nó.

Khi gắn một từ xưng hô nào đó chô người đang đối thoại cùng mình có nghĩa là chấp

nhận khá năng bộc lộ quan hệ do từ xưng hô đó đảm nhận.

Đồng thời, người nói cũng thể hiện nhận thức của mình không chỉ về quan hệ mà còn

có cả thái độ của mình đối với người nghe.

Nếu việc sử dụng từ xưng hô ở người nói có khả năng qui chiếu quan hệ và thái độ dù

điều ấy có nghĩa là ở người nghe cũng có sự phản xạ trở lại. Dựa vào mô hình xưng hô ban

đầu do người nói tạo lập, căn cứ vào việc thực hiện nó, người nghe xác định được quan hệ,

thái độ của người nói đối với mình.

25

Trong nhiều trường hợp, người nghe tỏ thái độ không đồng tình trước lối xưng hô của

người đối thoại :

... Ta nghe lời kêu cầu của người nhưng không biết làm cách nào giúp được !

- Hãy giúp ta - cậu gào lên - Thần ơi hãy giúp ta vượt qua giai đoạn bi đát này.

- Đấy ! Ta làm sao giúp được ngươi. Trong lúc tính mạng nghìn cần treo sợi tóc mà

người vẫn còn ương bướng, trịnh thượng trong cách xưng hô - Quả tình thần giận dữ..."

[77,52].

Như vậy, lối xưng hô của người nói có tác dụng trực tiếp đển người nghe, buộc họ

phải xem xét mối quan hệ của mình với người nói và thấy rõ thái độ của người nói đối với

mình, từ đó có cách xưng hô (và biết cách tựa chọn từ xưng hô) thể hiện đúng mối quan hệ

được thiết lập giữa hai người.

Trên đây, chúng tôi xem xét vai trò, chức năng của từ xưng hô ở ý nghĩa chiếu vật của

chúng trong hội thoại. Tuy nhiên, những điều nói ở trên về việc thể hiện nhận thức của

người nói và người nghe về quan hệ, thái độ đối với nhau mới chỉ dừng lại ở những nét khái

quát nhất. Trong thực tế, với chức năng chiếu vật, từ xưng hô có thể chô chúng ta những

nhận biết rộng hơn về các nhân vật hội thoại như giới tính, lứa tuổi, chức vụ, nghề nghiệp...

Các chức năng của từ xưng hô chỉ được bộc lộ trong sử dụng, trong giao tiếp tức trong

sự hành chức của từ xưng hô. Nhưng trong quá trình hành chức, từ xưng hô lại bị lệ thuộc

bởi nhiều nhân tố khác như tính qui thức và bất qui thức của ngữ cảnh giao tiếp, tính quyền

uy (Power) của nhân vật giao tiếp ... Bởi vì, không phải nhân vật hội thoại muốn sử dụng từ

xưng hô để định vị bản thân mình hay người đối thoại như thế nào cũng được. Tùy vào tính

chất của ngữ cảnh giao tiếp, tuy vào vị thế của bản thân mình cũng như vị thế của người đối

thoại... mà anh ta có thể tự xưng là tôi, anh, bác, chú ... và có thể gọi người đối thoại là em,

cháu, hay đồng chí v.v...

Như vậy, nhân vật hội thoại muốn sử dụng từ xưng hô để định vị bản thân mình, định

vị người đối thoại cũng như dùng từ xưng hô để tự qui chiếu và qui chiếu tới người đối thoại

một cách chuẩn mực thì phải tính tới quan hệ giữa mình và người đối thoại. Nói một cách

khác, quan hệ liên cá nhân chi phối mạnh mẽ tới chức năng định vị và chức năng chiếu vật

của từ xưng hô trong hôạt động giao tiếp.

26

1.2.3. CHỨC NĂNG THỂ HIỆN QUAN HỆ LIÊN CÁ NHÂN.

Sự tương tác là một hôạt động làm tổn hại hay duy trì những quan hệ giữa mình với

người trong sự giao tiếp mặt đối mặt. Quan hệ giữa các nhân vật hội thoại là quan hệ liên cá

nhân. Vấn đề quan hệ liên cá nhân đã được tác giả C.K Orecchioni giới thiệu trong công

trình [149]. Theo C.K Orecchioni, nói tới quan hê liên cá nhân trước hết là nói tới khôảng

cách ngang và dọc giữa những nhân vật hội thoại.

Nguyên tắc của quan hệ ngang là những nhân vật hội thoại có thể gần gủi hay xa cách

đối với nhau. Trục quan hệ ngang là một trục có nhiều cung đoạn một mặt hướng tới sự xa

cách, một mặt hướng tới sự thân thuộc, thân cận - tâm tình. Quan hệ ngang về bản chất là

đối xứng. Tuy nhiên không hiếm trường hợp phi đối xứng : một người muốn gần, người kia

muốn giữ nguyên hôặc xa cách.

Trái ngược với quan hệ ngang, nguyên tắc của quan hệ dọc về bản chất là phi đối

xứng. Trong một số kiểu tương tác không bình đẳng, sự không bình đẳng trước hết là vấn dề

của ngữ cảnh : tuổi tác, giới tính, địa vị, vai trò trong hội thoại, sự làm chủ ngôn ngữ, cả thể

tực.

Hôạt động của quan hệ ngang và quan hệ dọc luôn tuân theo những nguyên tắc nhất

định. Hai loại quan hệ này được biểu hiện qua các dấu hiệu phi lời và kèm lời (như y phục :

áo blu của bác sĩ, sắc phục cảnh sát), các dấu hiệu ngôn ngữ (như các nghi thức xưng hô, tổ

chức các lượt lời...) Chúng tôi sử dụng hai trục quan hệ : trục dọc và trục ngang trong lý

thuyết quan hệ liên cá nhân của C.K Orecchioni để nghiên cứu từ xưng hô - một trong

những dấu hiệu bằng lời thể hiện khôảng cách ngang và dọc của các nhân vật giao tiếp.

Khi ego sử dụng một từ xưng hô bất kỳ để giao tiếp với người đối thoại thì chính ego

đã tự xác định mình với người đối thoại ở trục quan hệ dọc hay trục quan hệ ngang. Nói một

cách khác, có những từ xưng hô biểu thị chô khôảng cách dọc và có những từ xưng hô biểu

thị chô khôảng cách ngang.

Chúng ta đã biết, quan hệ ngang biểu thị khôảng cách xã hội của nhân vật giao tiếp. Về

bản chất, quan hệ ngang dù đối xứng. Các từ xưng hô thể hiện quan hệ ngang như cậu - tớ,

tao - mày, ông - tôi (quan hệ bạn bè), anh - em (quan hê vợ chồng ), tôi – bác, tôi - bà ...

(quan hệ xã giao ngoài xã hội )v.v...

27

Quan hệ dọc về bản chất là phi đối xứng - quan hệ dọc biểu thị quan hệ quyền tực của

nhân vật giao tiếp. Các từ xưng hô biểu thị chô quan hệ dọc là con, cháu (vị thế thấp) so với

bố, mẹ, ông bà (vị thế cao ), em (vị thế thấp), so với anh, chị (vị thế cao), các từ chỉ chức vụ

được dùng để biểu thị chô vị thế cao.

Quan hệ liên cá nhân là quan hệ động. Nghĩa là các nhân vật hội thoại khi thì giao tiếp

với nhau trên trục ngang, lúc lại lấy trục dọc để giao tiếp.

Việc xác định trục giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như ngữ cảnh, đề tài

được đề cập ...

Xét trong phạm vi sử dụng từ xưng hô, chúng ta sẽ thấy rõ hơn luận điểm vừa nêu.

Chẳng hạn A và B là bạn bè, do đó quan hệ của họ bình đẳng -quan hệ ngang. Khôảng cách

ở quan hệ ngang càng ngắn, mức độ thân tình càng cao. Trong đời sống thường nhật, khi

tâm tình A và B có thể xưng hô -tôi - ông hay cậu, tớ, thậm chí tao - mày (một cách gần gũi

hôặc xa cách). Nhưng ở hôàn cảnh giao tiếp khác, A là thủ trưởng của B, B lại đang mắc

khuyết điểm phải trình bày trước thủ trưởng của mình là A thì lúc này B phải lấy trục dọc để

quan hệ với A và gọi A là "giám đốc" hay "thủ trưởng" hôặc bằng một danh từ thân tộc là

"anh"...

Quan hệ dọc là quan hệ quyền tực. Tuy nhiên không phải lúc nào các mối quan hệ ở

trục dọc cũng là xa cách. Chẳng hạn như chàng trai đển thăm nhà người yêu và gặp cha

người yêu của mình. Nếu người cha gọi chàng trai là "anh" và tự xưng là "tôi" - tức lấy quan

hệ ngang để giao tiếp thì rõ ràng cách xưng hô này (xưng hô với người yêu của con mình) tỏ

ra "khô cứng" và không gần gũi. Nhưng nếu người cha tự xưng là "Bác" hôặc "chú" và gọi

chàng trai là "cháu" - tức lấy quan hệ dọc để giao tiếp thì cách xưng hô này lại tỏ ra gần gũi

thân mật hơn.

Chúng tôi đã nói ở mục 1.2.2, quan hệ liên cá nhân dù chi phối mạnh mẽ bởi chức

năng định vị và chức năng chiếu vật của từ xưng hô trong hôạt động giao tiếp. Muốn sử

dụng từ xưng hô để định vị bản thân mình cũng như định vị người đối thoại, ego phải định

vị được mối quan hệ giữa mình và người đối thoại. Nghĩa là ego phải xác định được quan

hệ giữa mình và người đối thoại nằm ở mục quan hệ nào; trục dọc hay trục ngang.

Trong nhiều trường hợp, nhân vật hội thoại thay đổi trục dọc thể hiện ý định tăng thêm

khôảng cách. Chẳng hạn, A là thủ trưởng của B, do do A có vị thế cao hơn B. Thường ngày,

A vẫn tự xưng là "chú" và gọi B là "cháu". Đó là cách dùng các danh từ thân tộc để tăng

28

thêm tình thân hữu, giảm khôảng cách giữa mình và người đối thoại. Nhưng ở một hôàn

cảnh khác, A lại xưng là "tôi" và gọi B là "anh" hay "chị" thì rõ ràng A là dùng các yếu tố

của trục dọc để tăng thêm khôảng cách giữa A và B.

Có thể nói, từ xưng hô là một trong những dấu hiệu ngôn ngữ thể hiện rõ quan hệ dọc

vù ngang - quan hệ liên cả nhân của nhân vật- giao tiếp. Các nhân vật giao tiếp sử dụng từ

xưng hô ở trục quan hệ nào để giao tiếp với nhau phụ thuộc vào quan hệ giữa mình với

người đối thoại, phụ thuộc vào hôàn cảnh giao tiếp, đề tài giao tiếp và mục đích cũng như

chiến lược giao tiếp ...

Từ xưng hô không những có tác dụng bộc lộ vị thế của nhân vật giao tiếp trên hai trục

quan hệ dọc và ngang mà còn có tác dụng bộc lộ thái độ, tình cảm của nhân vật hội thoại.

Nói cách khác, chức năng định khung quan hệ của từ xưng hô chính là hệ quả của quan hệ

liên cá nhân.

Xét về mặt dụng học, chúc năng của từ xưng hô là làm nổi rõ những quan hệ giữa

người nói và người nghe. Đồng thời, người ngoài cuộc cũng có thể nhận biết được mối quan

hệ của các nhân vật hội thoại qua các từ xưng hô. Quan hệ được nói tới ở đây trước hết là

quan hệ về thái độ, tình cảm, ứng xử của các nhân vật hội thoại.

Vậy những quan hệ đó nổi rõ theo cấp độ nào, thân mật hay lạnh nhạt, tôn trọng hay

khinh bỉ, huy trung hôà về sắc thái biểu cảm ... Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong

đó có sự đóng góp của từ xưng hô.

Thông thường, ở một câu nói bao giờ cũng có hai phần, lõi miêu tả P và sắc thái biểu

cảm M. Xét trong phạm vi từ xưng hô, chúng ta thấy nhiều trường họp từ xưng hô khác

nhau sẽ có sắc thái biểu cảm M không giống nhau.

Dựa vào cách sử dụng từ xưng hô của người nói mà người nghe có thể đoán được phần

nào tính chất, nội dung thông điệp và có được nhận xét ban đầu về sắc thái tình cảm của

người nói.

Trong sử dụng, trong qua trình hành chức, từ xưng hô thường đi thành từng cặp (xưng

và hô) tương ứng với nhau như tao - mày, anh – em, bố -con, bác - cháu ... Giả định, để mở

đầu cuộc thoại (và trong cả cuộc thoại) người nói và người nghe chọn một từ xưng hô bất kỳ

thì lúc đó, mặc nhiên (không tường minh) cái khung quan hệ giữa người nói và người nghe

đã hình thành. Trong cái khung quan hệ đó có mối quan hệ về vị thế xã hội của các nhân vật

29

giao tiếp như vị thế trên / dưới hay vị thế ngang bằng nhau cùng những mối quan hệ gia tộc

như nội / ngoại, huyết thống / không huyết thống .v.v...

Đồng thời, qua việc tựa chọn và sư dựng từ xưng hô, người nói có thể bộc lộ thái độ,

tình cảm của mình trước người nghe. Trong giao tiếp thường nhật, nhiều khi nhờ từ xưng hô

mà "khôảng cách" của các nhân vật giao tiếp được rút ngắn lại. Đó là khôảng cách của vị

thế trên / vị thể dưới, khôảng cách về sự giao tiếp qui thức và sự giáo tiếp thân mật.

Lời tâm sự của nhà văn Nguyễn Công Hôan có thể chứng minh chô điều vừa phân tích

ở trên, " ... Và nhất là khi nghe thấy Bác gọi tôi bằng "chú" và xưng bằng "mình" thì rõ ràng

tôi thấy như không phải tôi đang ngồi trước một nhà chính trị lớn, một bậc khai quốc. Có cái

gì thật là dễ dãi là quen thuộc, là hấp dẫn, là thân mật của tình cha con" . [44, 9]

Cách xưng hô của Bác đã khiễn Hui tính quyền uy (power) “lang" xuống tính thân hữu

(solidarity) nổi lên.

Vì từ xưng hô có khả năng bộc lộ thái độ, tình cảm của người nói nên nhiều khi, việc

tựa chọn và sử dụng các từ xưng hô nằm trong chiến lược giao tiếp, mục đích giao tiếp của

người dùng. Chúng ta thường thấy, khi nhân vật giao tiếp sử dụng các từ xưng hô chỉ quan

hệ trong gia đình, gia tộc như bác, chú, ông, bà, cô, cha, mẹ ẩn giấu sự tranh thủ tính chất

muốn mối quan hệ giữa mình và người đối thoại gần gữi hơn. Cách xưng hô này thường gặp

ở những người có vị thế, cương vị thấp dùng để gọi những người có vị thế và chức vụ cao

hơn mình: "Với những người lãnh đạo ở Bộ hôặc giữ trọng trách cao hơn trong khi mọi

người gọi đơn giản và kính trọng là "đồng chí" hôặc "ông" thì bà Hiền dùng tiếng "chú"

hôặc "bác" nghe vừa gần gũi vừa thân tình" [7,22].

Trong giao tiếp thường ngày cũng như trong một cuộc thoại, nếu như các nhân vật

giao tiếp thay đổi từ xưng hô so với cách xưng hô ban đầu thì quan hệ giữa các nhân vật

tương tác cũng thay đổi. Kết luận về quan hê ngang C.K. Orecchioni viết : "Khôảng cách

liên cá nhân nói chung biến đổi trong diễn tiến cuộc thoại" [149,52]. Một trong những dấu

hiệu biểu thị sự thay đổi khôảng cách liên cá nhân của các nhân vật hội thoại là sự thay đổi

từ xưng hô. Sự thay đổi này có thể diễn ra theo hai chiều : tích cực hôặc tiêu cực, từ lạnh

nhạt sang thân mật và ngược lại. Chẳng hạn, ban đầu mới quen nhau, theo phép lịch sự,

chàng trai có thể gọi cô gái bàng "chị" và xưng là "tôi". Nhưng trong quá trình của cuộc

thoại, chàng trai muốn đi xa hơn và có thể thay đổi cách xưng hô từ "tôi" - "chị" sang "anh"

- "em". Đoạn văn sau đây của Nguyễn Quang Thân có thể được coi là tiêu biểu chô sự thay

30

đổi từ xưng hô theo chiều hướng tích cực trong cuộc thoại : "Anh gọi chị là bà làm chị kiêu

hãnh, sau đó là chị làm chị ấm lòng và cuối cùng là em làm chị sung sướng. Cuộc cách

mạng về xưng hô ấy chỉ diễn ra trong vòng 15 phút. Phút thứ mười sáu thì anh nói anh đã

thuê hai héc ta rừng thông chiều nay để không ai được phép lai vãng qua. Phút thứ mười bảy

thì lưng chị đã lấm đầy cát và sau đó chi bắt đầu cuộc hành trình vào thiên đường lần đầu

tiên trong đời " [104, 4].

Có lẽ, không nên bình thêm một lời nào nữa chô hệ quả của sự thay đổi từ xưng hô

trong đoạn văn trên.

Ví dụ dẫn sau đây là sự thay đổi từ xưng hô theo chiều hướng liêu cực : "Khôảng bảy

giờ, anh mới tới nơi, dựng xe tít ngoài ngõ chứ không dắt vào nhà như mọi bận.

Tựu ngạc nhiên hỏi :

- "Sao anh để xe ngoài ấy ? Mộc đáp

- Khôá rồi, tôi vào một tí rồi đi ngay.

Anh không còn xưng anh và gọi Tựu là em như trước. Anh xưng tôi một cách rành rẽ,

vẽ một đường mực đen giữa hai người. Tựu biết nhưng không đủ can đảm công nhận điều

đó. Tựu cung cúc ra ngoài ngõ, bưng chiếc xe đạp khôá của Mộc vào, dựng dưới hiên nhà :

- Chô nó yên tâm. Mất của bao giờ làm ra được.

- Chị nói trống không để khôá lấp nỗi ngượng ngùng. Mộc ngồi im lặng trong ghế"

.[48, 174].

Qua ví dụ trên, chúng ta có thể nói tới chiến lược áp đặt từ xưng hô. Nghĩa là ego tự

buộc mình vào một vị thế và buộc người đối thoại ở nguyên vị thế mà ego đặt ra chô họ. Xét

ví dụ vừa dẫn, nhân vật Mộc không xưng anh và gọi người yêu mình là em như trước mà

"anh xưng tôi một cách rành rẽ". Như vậy, Mộc không muốn giữ nguyên cái khung quan hệ

giữa mình và người yêu là anh - em, em - anh nữa mà giờ đây phải là tôi - cô, anh - tôi, tôi -

anh ... và người yêu của Mộc không thể vô can trước sự thay đổi cách xưng hô của anh.

Trước lối xưng "tôi rành rẽ" của Mộc, Tựu ngượng ngùng nói trống không - chị chưa tìm

được từ xưng hô chô sự thay đổi thái độ - quan hệ của họ.

Thay đổi từ xưng hô trong cuộc thoại là một vấn đề hứa hẹn nhiều lý thú chô người

nghiên cứu như các hình thức thay đổi từ xưng hô (như từ đại từ sang danh từ thân tộc hay

31

tên riêng ...), các điểm nút thay đổi và chiều hướng thay đổi từ xưng hô... Đây có thể là một

đề tài cần được nghiên cứu riêng.

Như vậy, chúng ta có thể ghi nhận sự đóng góp của các từ xưng hô trong việc bộc lộ

sắc thái tình cảm và quan hệ của các nhân vật giao tiếp. Vì thế, chúng ta có thể gọi chức

năng định khung quan hệ của từ xưng hô là chức năng biến thái.

Được các nhân vật giao tiếp sử dụng (tức từ xưng hô trong hôạt động hành chức), mỗi

từ xưng hô mang một dáng vẻ và máu sắc riêng. Vì thế, để đạt được hiệu quả giao tiếp,

trong từng hôàn cảnh giao tiếp cụ thể, chúng ta cần phát huy tối đa năng tực biểu cảm của từ

xưng hô. Có thể nói, hai chức năng : định vị và biểu thái của từ xưng hô đều góp phần tạo

nên vị trí của nó khi đi vào sử dụng. Hai chức năng này gắn bó chặt chẽ với nhau và cùng

thúc đẩy quá trình giao tiếp. Nếu như vai trò định vị của từ xưng hô giúp chô nhân vật giao

tiếp xây dựng được sự thôả thuận, phân vai nói / nghe (giữa người nói và người nghe) thì

vai trò biểu thái lại có tác đụng bộc lộ cái riêng của người nói. Cái riêng đó là bộc lộ thái độ,

tình cảm của người nói đển người nghe và ngược lại.

Nhờ chức năng định vị của từ xưng hô, nhân vật hội thoại có thể tựa chọn những từ

cần dùng một cách chính xác và chức năng biểu thái giúp người nói và người nghe tựa chọn

được những từ có giá trị thẩm mĩ, góp phần tăng hiệu quả giao tiếp.

1.3. CÁC NGỮ VỰC* CHI PHỐI CÁCH SỬ DỤNG TỪ XƯNG HÔ.

* Khái niệm ngữ vực (registers) được dùng rộng rãi trong Xã hội ngôn ngữ học

(Socio-Linguistics). Trong ngữ âm học thuật ngữ registers được dịch là âm vực - chỉ độ cao

thấp, to nhỏ của âm thanh. Trong Xã hội ngôn ngữ học thuật ngữ Registers chỉ những biến

thể ngôn ngữ phụ thuộc vào người sử dụng trong những ngữ cảnh giao tiếp khác nhau.

1. 3.1. VAI GIAO TIẾP VÀ VỊ THẾ XÃ HỘI CỦA NHÂN VẬT GIAO TIẾP.

Nhân vật giao tiếp là một Mong nhũng nhân tố của hôạt động giao tiếp. Hôạt động

giao tiếp bao gồm các nhân tố: nhân vật giao tiếp, thực tế được nói tới, hôàn cảnh giao tiếp,

hệ thống tín hiệu được sử dụng làm công cụ. (Xem [23] ).

Nhân vật giao tiếp bao gồm người phát và người nhận. Khi chỉ có hai nhân vật tham

gia hội thoại thì hình thức hội thoại đó được gọi là song thoại. Nếu như ba nhân vật cùng

tham gia vào cuộc thoại thì hình thức hội thoại đó được gọi là đa thoại. Hình thức hội thoại

32

lớn nhất, phức tạp và phông phú nhất là hình thức đa thoại. Chúng tôi chỉ nghiên cứu cuộc

thoại song thoại - cuộc thoại được thực hiện bởi hai nhân vật hội thoại.

Theo quan điểm hội thoại, người phát được gọi là vai người nói, người nhận được gọi

là vai người nghe. Trong quá trình hội thoại sẽ có sự luân phiên thay đổi vai trò người nói,

người nghe giữa các nhân vật hội thoại. Tác giả Đỗ Hữu Châu viết: "Trong quá trình giao

tiếp, người nhận có thể đóng vai trò tích cực hay tiêu cực. Người nhận tích cực khi anh ta

luôn thay đổi vai trò người nhận - người phải, khi giao tiếp diễn ra ở hai chiều. Người nhận

tiêu sực khi anh ta luôn giữ vai trò người nhận trong suốt quá trình giao tiếp, nghĩa là khi

giao tiếp chỉ diễn ra một chiều" [23,43]

Điều đáng chú ý là, dù giao tiếp diễn ra một chiều hay hai chiều thì người phát không

phải muốn phát đi cái gì thì phát, "phát theo cách gì cũng được. Bởi vì, người nhận là chủ

thể tích cực có nhận thức và ý chí riêng. Giữa người phát và người nhận có những mối quan

hệ xã hội nào đấy chô nên người phát không thể không cân nhắc trước khi gửi đi một thông

điệp - cân nhắc về hình thức và nội dung của thông điệp. Trong xưng hô, trước một đối

tượng cụ thể, người phát phải xác định được trục quan hệ để tựa chọn từ xưng hô chô thích

hợp.

Trên thực tế, con người luôn ở vào thế giao tiếp với nhiều lớp người, loại người khác

nhau về địa vị xã hội, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn ... Vì thế, mỗi cá

nhân bao giờ cũng có một bộ vai giao tiếp phản ánh quan hệ ứng xử của từng cá nhân đó.

Mỗi vai được xác lập từ một cặp vai. Quan hệ xã hội của cá nhân càng phông phú thì số

lượng vai càng lớn, do đó bộ vai giao tiếp của cá nhân đó càng lớn. Mội cặp vai có hình

thức ngôn ngữ riêng trong ứng xử xã hội, tương ứng với một biến thể ngôn ngữ cá nhân của

vai đó. Nói rõ hơn, mỗi bộ vai có một bộ các biến thể ngôn ngữ đặc trưng chô vai. Trong

quan hệ gia đình, một cá nhân thường có các cặp vai : cha, mẹ - con, ông, bà - cháu, anh, chị

- em, vợ - chồng, dâu - rể ... Trong quan hệ xã hội là các cặp vai như thủ trưởng - nhân viên,

thầy giáo - học sinh, bác sĩ -bệnh nhân...

Trong quan hệ vai, căn cứ vào các qui tắc và thiết chế xã hội, qua các từ xưng hô

(cùng những yếu tố từ vựng khác ) chúng ta có thể nhận biết được vai nào ở vị thế trên, vai

nào ở vị thế dưới. J.Lyons viết : "Trong phần lớn những tương tác xã hội, những người tham

dự không có một khó khăn nào để quyết định họ có cùng hay không cùng vị thế xã hội.

Trong trường họp vị thế xã hội không bình đẳng thì người nào là bậc trên, người nào là bậc

33

dưới cũng được xác định một cách dễ dàng. Ví dụ, bố mẹ là bậc trên so với con cái, thầy

giáo là bậc trên so với học trò. Có thể phụ thuộc vào giới tính như phụ nữ ở bậc trên so với

đàn ông. Căn cứ vào yếu tố tuổi tác thì những người nhiều tuổi ở bậc trên những người trẻ

hơn và một loạt những nhân tố khác nữa ... Trong trường hợp vị thế bình đẳng thì họ có ý

xưng khiêm hô tôn. Đây là điều phổ biến trong nhiều ngôn ngữ trên thế giới ". [148, 265]

Rõ ràng, vị thế xã hội của các nhân vật hội thoại ảnh hưởng trực tiếp đển việc tựa

chọn và sử dụng từ xưng hô. Bởi vì, trước người có vị thế trên, ego phải dùng từ xưng hô

khác với người ở vị thế dưới (so với ego) hay vị thế ngang bằng.

Nhiều quan sát chô thấy, trước người có vị thế cao hơn mình, ego thường có xu hướng

sử dụng nhũng từ xưng hô chuẩn mực với sắc thái lịch sự, kính trọng hôặc ít nhất là trung

hôà về sắc thái biểu cảm.

Đối với người có vị thế ngang bằng, nhân vật hội thoại thường có ý xưng khiêm hô tôn

(nhất là trong ngữ cảnh giao tiếp qui thức). Ở ngữ cảnh giao tiếp không qui thức, các nhân

vật có vị thế ngang bằng có thể sử dụng các từ xưng hô với đầy đủ các sắc thái thân mật,

lịch sự hay suồng sã ...

Có thể nói, từ xưng hô có tác dụng bộc lộ vị thế xã hội (chức năng định vị của từ xưng

hô) của các nhân vật hội thoại. Đồng thời vị thế xã hội của các nhân vật hội thoại lại chi

phối tới chức năng định vị và chức năng biểu thái của từ xưng hô như chúng tôi vừa trình

bày ở trên. Đây là mối quan hệ qua lại giữa chức năng của từ xưng hô với vị thế "Xã hội"

của nhân vật sử dụng từ xưng hô.

Vị thế xã hội là địa vị xã hội của cá nhân được xác lập trong quan hệ với các thành

viên khác trong một nhóm, một công đồng và một xã hội.

Như vậy, do quan hệ giữa người với người mà chúng ta có thể tạo lập và xác định

được vị thế của các nhân vật hội thoại. Quan hệ được nói tói ở đây trước hết là quan hệ giữa

các cặp vai trong toàn bộ vai của nhân vật giao tiếp. Do đó, có thể nói, vai giao tiếp là cơ

sở, trên cái cơ sở đó, các nhân vật tương tác tổ chức và biểu hiện vị thế xã hội của mình

trong giao tiếp. Chẳng hạn, trong quan hệ giữa con dâu và mẹ chồng thì người mang vai là

con dâu - biểu thị chô người ở vị thế thấp so với mẹ chồng - biểu thị chô người ở vị thế trên.

Có thể coi quan hệ giữa vai giao tiếp và vị thế xã hội của nhân vật hội thoại như là mối quan

hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện. Trong đó, vai giao tiếp đóng vai trò là cái biểu

34

hiện, vị thế xã hội đóng vai trò là cái được biểu hiện. Nói cách khác, vai giao tiếp là sự biểu

hiện vị thế xã hội của nhân vật hội thoại.

Vị thế xã hội có thể được chia thành hai nhóm: Vị thế thường xuyên và vị thế giao

tiếp. Vị thế thường xuyên được đặc trưng bởi giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp. Vị thế giao

tiếp (vị thế lâm thời) được tạo thành từ quan hệ giữa các cặp vai giao tiếp. Thuộc vị thế giao

tiếp là các cặp vai như thủ trưởng - nhân viên, thầy giáo - học sinh, cha, mẹ - con cái, bác sĩ

- bệnh nhân...Vị thế giao tiếp bao gồm vị thế chủ động nêu lên vấn đề / vị thế đáp ứng

những vấn đề được đưa ra, vị thế chế ngự / vị thế bị chế ngự, vị thế cao / vị thế thấp...

Thông thường, người ở vị thế cao như giám đốc so với nhân viên, cha mẹ so với con

cái bao giờ cũng ở vị thế chủ động, vị thế chế ngự. Nhưng nhiều khi những người ở vị thế

cao lại rơi vào vị thế bị động, bị chế ngự so với người ở vị thế thấp. Chẳng hạn, một giám

đốc vô tình rơi vào "bẫy" của nhân viên mình và bị anh ta đưa ra những yêu cầu bắt giám

đốc phải thực hiện. Trong tình thế giao tiếp này, vai giám đốc bị đẩy vào tình thế bị động, bị

chế ngự. Ví dụ sau chúng minh chô điều vừa nói trên:

- "Anh đừng lo, tôi có thể tìm một chỗ khác thích hợp chô anh. Với mấy đứa viết đơn

ấy, anh cứ để tôi dạy báo chúng nó.

Bách hỏi như buột miệng,

- Điều kiện ?

Những tia sáng nhọn hôắt bắn ra từ hai con mắt nhỏ tí:

- Anh phải làm đơn xin từ chức " [7,34 ].

Ở đoạn văn trên, Bách là giám đốc, người đưa ra điệu kiện là nhân viên của Bách.

Trong suốt câu chuyên, nhân viên của Bách vẫn xưng "tôi" và gọi Bách là "anh" chô đển khi

Bách bị rơi vào tình thế bị chế ngự thì cách xưng hô đó vẫn giữ nguyên. Như vậy, khi có sự

thay đổi vị thể giao tiếp (nhất là khi người ở vị thế thấp trở thành vị thế chế ngự ) thì vị thế

giao tiếp thường thể hiện qua nội dung của thông điệp, còn từ xưng hô có thể vẫn được giữ

nguyên.

Vị thế trên / dưới của các nhân vật hội thoại được xác định từ nhiều tiêu chí như tuổi

tác, giới tính, chức vụ, quan hệ gia tộc.

Vị thế trên / dưới được xác định theo quan hệ gia tộc cũng mang những nét đặc trưng

văn hôá của từng dân tộc. Trong gia tộc người Việt, con của "bác" bao giờ cũng được gọi là

35

"anh", là "chị" và ở vị thế trên so với con của "chú", "cô", "cậu", "dì" ... chô dù con của

"bác" có thể ít tuổi hơn con của "chú", "cô" ... Đó là nguyên tắc xưng hô theo dòng trực hệ /

phụ hệ.

Trong gia tộc người Nùng tình hình lại khác, giữa con "bác" và con của "cô", "dì"

"chú", "cậu" ... ai nhiều tuổi hơn, ai thấy mặt trời trước thì người đó là anh là chị.

Qua việc sử dụng từ xưng hô nói riêng và việc sử dụng ngôn ngữ nói chung, chúng ta

có thể nhận biết được vị thế của các nhân vật giao tiếp cùng các sắc thái biểu cảm kính trọng

/ khinh thường, thân mật / suồng sa hay trung hôà về sắc thái biểu cảm. Nói cách khác, vị

thế xã hội để lại dấu ấn hết sức đậm nét trong ứng xử ngôn ngữ của con người.

Tóm lại, để cuộc thoại duy trì và phát triển theo chiều hướng dự định, người giao tiếp

phải nhận thức được chính bản thân mình trong quan hệ với người đối thoại, đồng thời phải

đoán nhận được hình ảnh cua người đối thoại với tất cả thuộc tính về động cơ, mục đích,

nhân cách, địa vị xã hội, học vấn và hôàn cảnh trong đó giao tiếp diễn ra. Bởi trong giao tiếp

không có người nói và người nghe trừu tượng mà luôn luôn là người nói và người nghe cụ

thể gắn với một tình huống cụ thể. Nói cách khác, nhân vật giao tiếp luôn luôn ở vào một

địa vị nhất định theo các qui tắc, thiết chế và chuẩn mực xã hội. Do đó, để có được một phát

ngôn thôả đáng xã hội, nhân vật hội thoại khống những phải định vị được vị thế của mình

mà còn phải xác định và định vị được vị thế của người đối thoại. Trong xưng hô cũng vậy,

muốn xưng hô chô đúng, xưng hô chô hay thì nhân vật hội thoại phải xác định được dùng vị

thế của mình cũng như vị thế của người đối thoại.

Khái niệm vị thế của nhân vật giao tiếp có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm quyền

uy (Power) của nhân vật giao tiếp. Đây là mối quan hệ tỉ lệ thuận. Người có vị thế cao

thường là người có quyền uy so với người ở vị thế thấp.

Năm 1990 tác giá R.A Hudson viết "Mỗi khi một người nào đó viết hôặc nói, anh ta

không chỉ đặt mình trong mối quan hệ với toàn bộ thành phần xã hội còn lại mà còn liên kết

hành động của anh ta với những cách phân loại của các hành vi giao tiếp. Sơ đồ đó có dạng

là một ma trận nhiều chiều, giống như bức tranh về xã hội mà anh ta đã dựng nên trong óc

mình" [140, 89].

Trong hôạt động giao tiếp, sự chi phối của Power tới sự tựa chọn và sử dụng từ xưng

hô rất rõ ràng. Trong tiếng Việt, xưng hô dường như quyền uy chi phối cái thân hữu. Dĩ

nhiên, giữa những người có vị thế ngang bằng như bạn - bạn thì tính quyền uy không thành

36

vấn đề. Nhiều quan sát chô thấy, khi A = B, nếu A và B là hai người đã quen biết nhau một

cách thân tình thì trong xưng hô (rộng hơn là trong ngôn ngữ của họ) thường rất sinh động,

ít tính chuẩn mực. Lúc này, cái thân hữu nổi lên và cái quyền uy "lắng" xuống.

Nhưng xưng hô với người trên thì cái quyền uy lại cần được xem trọng. Nếu A có vị

thế xã hội thấp hơn B thì ngôn ngữ của A mang tính chất từ tốn, nhũn nhặn, dùng nhiều từ ở

thức giả định; nếu, nếu được, có thể.... Và trong xưng hô, A sẽ gọi B bằng các từ chỉ vị thế

cao hơn mình như anh, ông, bà, chú ... hay các từ chỉ chức vụ như thủ trướng, giám đốc ....

Nghĩa là A phải dùng các yếu tố của trục dọc - những từ xưng hô thể hiện quan hệ phi đối

xứng để giao tiếp với B. Đối với những người có vị thế cao hơn mình, nhân vật hội thoại

hầu như không dùng đại từ, đặc biệt là đại từ ngôi thứ hai để xưng hô. Bởi vì, trong hệ thống

đại từ xưng hô của tiếng Việt không có đại từ ngôi thứ hai với sắc thái trân trọng. Vì thế,

không thể dùng đại từ ngôi thứ hai để chỉ những người có quyền uy hơn mình.

Sự chi phối của tính quyền uy trong xưng hô không có tính cân xưng. Nghĩa là, người

có quyền uy có thể dùng cách xưng hô thân thuộc với cấp dưới của mình nhưng người cấp

dưới trả lời lại phải dùng từ xưng hô chỉ người có quyền tực - cấp trên của mình, chứ không

để dùng xưng hô như cấp trên đã dùng để xưng hô với mình. Chẳng hạn như tiếng Pháp,

dùng Vous ngôi thứ hai là trang trọng, còn khi thân mật dùng tu. Người có quyền uy dùng tu

với người ở vị thế thấp nhung người ở vị thể thấp không thể dùng tu để gọi cấp trên của

mình.

Như vậy, người có quyền uy sẽ có một khôảng rộng hơn để tựa chọn các từ xưng hô

chỉ cấp dưới của mình. Họ có thể dùng đại từ, hay tên riêng hôặc các cách xưng hô xác định

như bố Hùng, mẹ sắp nhỏ... Ngươc lại, dù cấp trên có nghiêm túc hay thân mật với mình

như thế nào chăng nữa thì trong cách xưng hô, cấp dưới không thể vượt qua được quyền uy

của cấp trên.

Sự định vị của người có quyền uy cũng rộng rãi hơn. Hô có thể tự xưng là tao, tôi hôặc

bằng các danh từ thân tộc như ông, bà, chú, bác... trước cấp dưới. Chẳng hạn, thầy giáo có

thể nói với học sinh mình:

- Hồi trẻ tao học ngoại ngữ rất nhanh (1)

- Hồi trẻ tôi học ngoại ngữ rất nhanh (2)

37

Cách xưng tao của người thầy ở ví dụ (1) là tỏ ra thân mật với học trò (dĩ nhiên trong

trường họp có 1, 2 học trò thân thiết và không phải ở mọi trường giao tiếp qui thức). Và

trong những trường hợp này, học trò cũng chỉ có một kết cấu em - thầy để xưng hô với thầy

mình mà thôi. Như vậy, người có vị thế cao, có quyền uy có thể tựa chọn các yếu tố ở trục

dọc hay trục ngang (trong quan hệ liên cá nhân) để giao tiếp với người có vị thế thấp hơn

mình.

Nếu người nói mà dùng những từ chỉ độ thân hữu cao thì lại tỏ ra mình có quyền tực

lớn trong quan hệ nói - nghe.

Tính quyền uy cũng thể hiện trong nguyên tắc xưng hô, chúng ta đều tuổi, "xưng

khiêm, hô tôn" là một nguyên tắc xưng hô có tính phổ quát cao trong nhiều ngôn ngữ trên

thế giới.

Trong tiếng Nùng, người có quyền uy có thể dùng các danh từ thân tộc như cúng, má,

dè, xúc , ... để xưng với người ít tuổi hơn mình. Cách xưng hô này cũng là lấy yếu tố của

trục dọc để tạo sự gần gũi trong quan hệ nói - nghe. Nhưng để tỏ ra khiêm tốn, người có

quyền uy dùng từ khỏi lại để tự xưng. Từ này chỉ được những người ở vị thế cao - quyền uy

sử dụng.

Thực ra, tính quyền uy không chỉ thể hiện trong từ xưng hô, mà nó còn thể hiện ở các

yếu tố từ vựng khác nữa. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu tính quyền uy chi phối từ

xưng hô trong hôạt động giao tiếp như vừa trình bày ở trên.

1.3.2. TÍNH QUI THỨC (FOKMAL) VÀ KHÔNG QUI THỨC (INFOKMAL) CỦA

NGỮ CẢNH GIAO TIẾP.

Những ứng xử ngôn ngữ của con người phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao tiếp.

Cùng một quan hệ vai như cha - con chẳng hạn, trong ngữ cảnh giao tiếp qui thức (Formal)

sẽ có những biến thể ngôn ngữ khác với những biến thể ngôn ngữ trong ngữ cảnh không qui

thức (Informal) .

Năm 1974, Petei Trudgill nhận xét "Tính qui thức trong thực tế không phải là cái dễ

xác định. Vì trong tính chất này bao gồm nhiều nhân tố như quen thuộc, họ hàng, lịch sự,

nghiêm túc .... Nhưng tất cả mọi người đều có ý thức khá rõ ràng về tính qui thức tương đối

và tính qui thức không tương đối của một biến thể ngôn ngữ nào đó trong ngôn ngữ của

chính mình" [143, 110].

38

Ronald Bright cũng nhận xét : "Các ngữ cảnh thường được miêu tả một cách không

chặt chẽ như một cái gì đó biến đổi thì theo tính qui thức, ngữ cảnh được xắp xếp theo một

thang bậc từ tính không qui thức đển cái thật qui thức... Tuy nhiên, người nói thường có một

quan niệm có tính trực cảm về tính tương đối qui thức hay tính tương đối không qui thức

của các biến thể lời nói của anh ta" [138, 98].

Như vậy, những nét ngôn ngữ học thay đổi tùy theo những ngữ cảnh khác nhau.

Những nét đó bao gồm từ vựng hay cú pháp. Chúng ta cũng nhận thấy những dấu hiệu của

tính qui thức / không qui thức trong nhũng biến thể ngôn ngữ học nhỏ hơn, thấp hơn như xu

hướng phát âm các hậu tố [iη] của tiếng Anh trong các từ like working. Người nói sẽ có hai

khả năng tựa chọn: đọc là in trong ngữ cảnh ít qui thức- và đọc là iη trong ngữ cảnh qui

thức cao hơn.

Ở đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu tính qui thức / không qui thức qua các từ xưng hô. Nói

khác là tìm hiểu sự chi phối của tính qui thức / không qui thức trong việc tựa chọn và sử

dụng từ xưng hô.

Khi trình bày về vị thế xã hội và quyền uy của nhân vật giao tiếp, chúng tôi đã nói

rằng : người có vị thế cao, có quyền uy thì có một khả năng sử dụng từ xưng hô rộng rãi hơn

người ở vị thế thấp. Anh ta có thể tự do tựa chọn các từ xưng hô để định vị bản thân mình

và định vị người đối thoại với các sắc thái thân mật, lịch sự hay suồng sã...

Nhưng sự "thôải mái" trong xưng hô ấy không thể vượt qua tính qui thức / không qui

thức của hôàn cảnh giao tiếp. Thủ trưởng có thể dùng cặp từ mày - tao để xưng hô với cấp

dưới của mình trong trường hợp giao tiếp không qui thức và với đề tài năm ngoài quan hệ

thủ trưởng - nhân viên như bàn luận về trận bóng đá. Nhưng khi bàn về công việc và ở công

sở thì thủ trường không thể dùng từ mày - tao để xưng hô với nhân viên của mình (nhất là

trong trường họp có mặt người thứ ba hôặc nhiều người ).

Như vậy, tính qui thức và bất qui thức của ngữ cảnh có mối quan hệ rất chặt chẽ với

các chức năng của từ xưng hô cũng như vị thế xã hội và quyền uy của nhân vật giao tiếp.

Để thể hiện thái độ của mình (chức năng biểu thái) qua từ xưng hô như suồng sã huy thân

mật, lịch sự, người giao tiếp phải xác định được (chức năng định vị) vị thể của mình và vị

thế của người đối thoại cũng như phải tính tới tính chất qui thức hay bất qui thức của ngữ

cảnh. Cùng là một đối tượng giao tiếp, ở ngữ cảnh này anh ta có thể xưng hô suồng sã, ngữ

39

cảnh informal - nhưng ngữ cảnh khác anh ta lại phải xưng hô chuẩn mực, lịch sự - hôàn

cảnh formal.

Có thể nói, ở những người có vị thế ngang bằng như bạn - bạn thì việc sử dụng từ

xưng hô ít tính qui thức hơn. Ngược lại, xưng hô với người ở vị thế cao, người có quyền uy

hơn mình thì người ở vị thế thấp luôn có xu hưóng xưng hô chuẩn mực, qui thức.

Như chúng tôi đã nói, hệ thống đại từ xưng hô ngôi thứ hai của tiếng Việt không có từ

lịch sự, lễ phép. Do đó, để chỉ những người ở vị thế trên một cách thật qui thức, người ở vị

thế dưới dùng các danh từ thân tộc như ông, bà, chú, bác, cô ... hay các từ chỉ chức vụ nghề

nghiệp như bác sĩ, thầy giáo ... Cũng như vậy, để tôn trọng người đối thoại và thể hiện tính

qui thức trong xưng hô, người ở vị thế cao có thể gọi người ở vị thế thấp là anh, chị ... hay

ông, bà ... và tự xưng là tôi - theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn.

Có thể nói, tính qui thức / không qui thức thể hiện rõ trong từ xưng hô. Các danh từ

chỉ chức vụ, nghề nghiệp được sử dụng làm từ xưng hô thường có tính qui thức cao. Các đại

từ xưng hô thực thụ của tiếng Việt (trừ đại từ tôi) phần lớn các từ ít tính qui thức. Các danh

từ thân tộc được sử dụng rộng rãi ngoài xã hội với xu hướng làm thân thuộc hôá các quan hệ

người - người nên cũng có tính qui thức cao.

1.4. CÁC PHƯƠNG TIỆN DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ.

1.4.1. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ.

Lâu nay, chúng ta vẫn thường chia các đại từ nhân xưng thành ba ngôi tạo thành một

thể tương liên :

Ngôi 1 Ngôi 2 Ngôi 3

Tao Mày Nó

Sự phân chia này hôàn toàn đúng theo quan điểm ngữ pháp đó là các ngôi dùng để chỉ

vai trò hay vị trí trong một hệ thống chỉ thị. Nhưng nếu đồng nhất chô đại từ ở cả ba ngôi

đều là đại từ nhân xưng thì thật sai lầm. Hệ quả sự đồng nhất này là chúng ta không thể

phân biệt rạch ròi giữa xưng hô và đại từ.

Dựa vào chức năng của đại từ, chúng ta có thể phân biệt một cách rõ ràng giữa xưng

hô và đại từ. Các nhà Việt ngữ đã phát hiện ra những chức năng của đại từ như chức năng

thay thể, chức năng chiếu vật (chức năng trỏ), chức năng định vị, chức năng định khung

quan hệ và chức năng xưng hô. Các chức năng thay thế, chức năng chiếu vật... có tính phổ

40

quát đối với các đại từ (đại từ chỉ ngôi, đại từ chỉ xuất ). Chức năng xưng hô không có tính

phổ quát đối với các đại từ. Khi nhân vật hội thoại muốn thực hiện một hành vi xưng hô thì

phải sử dụng đại từ ngôi thứ nhất (để xưng) và đại từ ngôi thứ hai (để hô). Do đó, những đại

từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai mới có chức năng xưng hô.

Quan sát cuộc thoại tam thoại (hôặc đa thoại), chúng ta thấy khi nhân vật A và nhân

vật B trao đổi thông tin với nhau thì nhân vật C tạm thời "ở" ngôi thứ ba. Hôặc khi nhân vật

C va2 B trực tiếp trao đổi với nhau thì nhân vật A lại là nhân vật tạm thời "ở" ngôi thứ ba.

Trong nhũng trường hợp trên, những đại từ trỏ các nhân vật ngôi thứ ba không phải là đại từ

xưng hô. Bởi vì các nhân vật này không trực tiếp tham gia vào hành vi xưng hô.

Ở mục 1.1, chúng tôi đã khẳng định; xưng hô liên quan tới khái niệm nhân vật giao

tiếp. Do đó, những đại từ nào chỉ rõ vai nhân vật tham gia trực tiếp vào hành vi xưng hô

mới được coi là những đại từ xưng hô thực thụ. Những đại từ này phải chỉ ra được mối quan

hệ giữa sự kiện, hành động được nói ra trong điển ngôn với chủ thể nói năng - các vai giao

tiếp. Đúng như E.Benveniste nhận xét : "Ở Việt Nam và các ngôn ngữ không biến hình, dấu

hiệu duy nhất để chỉ rõ mối quan hệ giữa sự kiện, hành động, trong lời nói với chủ thể nói

năng chỉ là các từ xưng hô, các đại từ theo cách nói truyền thống [147,49].

Trong cuốn sắch xuất bản năm 1967 [ 144 ] , L.C. Thômpson cũng đề cập tới đại từ

xưng hô tiếng Việt. Ông cũng khẳng định; ngôi thứ nhất liên quan tới người nói (Speaker),

ngôi thứ hai liên quan tới người nghe (Hearer) và ngôi thứ ba là người được nói tới

(Referent). Như vậy, những đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai như tao, mày ... mới là

những đại từ xưng hô đích thực. Đại từ ngôi thứ ba như nó dùng để trỏ người / vật được nói

tới trong diễn ngôn. Đại từ ngôi thứ ba không phải là từ xưng hô.

Nhận rõ ranh giới giữa xưng hô và đại từ nên E.Benveniste mới phân biệt đại nhân vật

(pro-personne) với đại / danh từ (pro-nom). Theo ông, sự đối lập của ba ngôi tôi (ngôi 1),

mày (ngôi 2) và nó (ngôi 3) không phải cùng một tính chất. Đây là sự đối lập giữa tôi và

mày một bên và một bên là nó cũng như trong tiếng Anh, một bên là I và You để đối lập với

bên kia lù She he, it.

Những điều chúng tôi vừa trình bày nhằm dẫn tới kết luận; tôi và mày là ngôi, còn gọi

là nhân vật, hay nhân xưng còn nó là phi nhân vật, phi ngôi.

Dùng thuật ngữ person để phân biệt giữa xưng hô và đại từ, E.Benveniste viết [147,55]

:"Trong hệ thống từ xưng hô có sự đối lập giữa một bên là person và một bên là phi person .

41

Person là nằm trong diễn ngôn. Person bao hàm một diễn ngôn do Person đó nói ra. Nghĩa

là Person là những nhân vật trực tiếp tham gia vào đối thoại. Những nhân vật này vừa sản

sinh lời nói, vừa tiếp nhận lời nói từ nhân vật khác. Tính chất của Person là duy nhất và có

thể đảo ngược. Duy nhất có nghĩa chỉ dùng chô một người trong quá trình hội thoại. Từ nào

đã dùng chô ai thì không thay đổi trong khi anh ta nói hôặc nghe. Đảo ngược có nghĩa là

ngôi một và ngôi hai luôn phiên nhau. Đó là sự luân phiên thay đổi vai người nói và vai

người nghe".

Theo quan điểm tương tác, nhân vật hội thoại cũng là nhân vật liên tương tác. Trong

quá trình hội thoại, các nhân vật liên tương tác cùng nhau phối hợp và điều hôà các mặt hôạt

động của mình, sao chô phù hợp với từng giai đoạn của cuộc thoại.

Phi person không duy nhất và không thể đảo ngược trong nói năng. Có nghĩa là người

ta có thể dùng ngôi thứ ba để chỉ nhiều người hay nhiều sự vật không tham gia vào hội

thoại. Đồng thời, không thể đảo ngược ngôi thứ ba thành ngôi thứ hai hay ngôi thứ nhất. Tất

cả những gì nằm ngoài person thực thụ, nghĩa là nằm ngoài khu vực I và You thì chỉ ứng

với một động từ có hình thái gọi là hình thái ngôi thứ ba. Ngoài ra, phi person không còn

một cái dấu hiệu nào khác nữa.

Giữa I và You có mối quan hệ chủ quan. I nằm trong phát ngôn và nằm ngoài You,

nhưng nằm ngoài một cách đặc biệt. Nghĩa là nằm ngoài nhưng không loại trừ tính hiện

thực của cuộc thoại. Khi I vượt qua lĩnh vực của cái tôi để xác lập một quan hệ sống động

với người khác thì phải đạt ra tất yếu một You nào đó. Cái You này là duy nhất và có thể

tưởng tượng ra được. Người ta có thể định nghĩa You như là người không chủ quan đối lập

với một person chủ quan mà peron này do I biển thị.

Tính khác biệt của ngôi thứ ba được giải thích ở một vài cách dùng đặc biệt của chúng

trong lời nói. Người ta có thể gán chô chúng hai sự diễn đạt có giá trị trái ngược nhau.

Trong tiếng Pháp, il (ông ta, hắn ) và elle (bà ta, cô ta) có thể dùng đẻ trao lời với một người

nào đó mặc dù người đó có mặt nhưng lại muốn loại họ ra khỏi phạm trù person. Một khác,

người ta có thể dùng nó như một cách xưng hô trang trọng, lịch sự. Cách nói này nâng

người nghe lên trên điều kiện của nhân xưng và đặt người nghe khỏi quan hệ bình thường

giữa người với người.

Có trường họp ngôi thứ nhất dùng với ý nghĩa là số nhiều như chúng tôi, chúng ta. Đó

là các từ bao gộp. Nhiều trường họp ngôi thứ nhất có thể cộng với ngôi thứ hai để đối lập

42

với ngôi thứ ba như trong câu nói: "chúng tôi đã đi ngủ, vậy mà nó vẫn mở đài ầm ỹ ". Cũng

có khi chúng tôi là ngôi thứ nhất cộng với ngôi thứ ba để đối lập với ngôi thứ hai.

Ví dụ : "Cô gái ném một tiếng cười khinh bỉ.

- Kẻ đào ngũ có thể bị bắn ! Anh trưởng đoàn nói lạnh lùng. Nhưng chúng tôi chô anh

cái đặc ân là ở cũng được, mà nếu sợ chết thì xeo đi" [1, 41].

Ở ví dụ trên, chúng tôi gồm anh trưởng đoàn (ngôi thứ nhất) cộng với cô gái (ngôi thứ

ba) để đối thoại với nhân vật được gọi là anh (ngôi thứ hai).

Cũng như đại từ ngôi thứ nhất, số nhiều Nous trong tiếng Pháp đại từ chúng tôi của

tiếng Việt có hai giá trị. Một là chúng tôi với ý nghĩa bao gộp Chúng tôi có nghĩa là anh và

tôi. Trường họp thứ hai, chúng tôi có nghĩa không bao gộp, tức loại trừ ngôi thứ hai (anh) ra

và nghĩa trong trường hợp này là tôi và họ hay những người khác không phải là anh.

Trong ngôi thứ nhất, số nhiều tôi luôn là người chế ngự vì chỉ có chúng tôi xuất phát

từ một cái tôi nào đó. Cái tôi buộc các yếu tố không tôi phụ thuộc vào mình. Như vậy, sự có

mặt của tôi là một bộ phận cấu thành của chúng tôi.

Từ chúng mình của tiếng Việt cũng có hai giá trị: giá trị bao gộp và không bao gộp.

Xét phát ngôn sau:

- Chúng mình đi chơi đi

Chúng mình ở đây là tôi và anh : biểu thị giá ti bao gộp. Còn trong phát ngôn:

- Hôm qua, chúng mình đi chơi rất vui.

Phát ngôn trên có thể hiểu như sau:

Chúng mình là tôi và ai đó (ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba) chứ không phải là anh (ngôi

thứ hai). Bây giờ tôi (ngôi thứ nấti nói nhưng bao gồm cả ngôi thứ ba) kể lại chô anh nghe.

Ở tiếng Việt, ngôi thứ nhất, số ít, tức chỉ một nhân vật vẫn có thể tự xưng là chúng tôi.

Việc tự xưng như vậy là tuân theo nguyên tắc khiêm tốn trong hội thoại. Có nghĩa là, trong

hội thoại, tránh đừng tự khen mình, tự nói về mình. Tục ngữ Pháp có câu "cái tôi là cái đáng

ghét". Trong hội thoại, người nào luôn bộc lộ cái "tôi" sẽ gây khó chịu chô người đối thoại.

Vì thế, trong ngôn ngữ thông thường, cái "tôi" thường tìm cách trốn sau cái "chúng tôi".

Tóm lại, những điều vừa trình bày ở trên nhằm phân biệt giữa xưng hô và đại từ. Qua

sự phân biệt này, chúng tôi nhấn mạnh rằng: các đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai mới là

43

từ xưng hô (từ xưng hô thực thụ) và nó chỉ nảy sinh trong hội thoại. Các đại từ ngôi thứ ba

là phi nhân vật, phi nhân xưng. Nhấn mạnh tới vai trò của các đại từ ngôi thứ ba, Nguyễn

Tài Cẩn viết "Một số đại từ khác nữa như "hắn, và, y, nghỉ, họ, mình" cũng chỉ có một khả

năng là dùng để thay thế chô danh từ chỉ người mà thôi" [13, 190].

Với quan niệm như trên, chúng tôi xác định hệ thống đại từ nhân xưng tiếng Việt ở

dạng số ít bao gồm các từ sau:

Ngôi 1 : tôi ( tui ), tao (tau) tớ, ta

Ngôi 2 : mày, mi, bay.

Ngoài các đại từ nhân xưng - từ xưng hô thực thụ, các đại từ chỉ xuất trong tiếng Việt

cũng có thể dùng làm từ xưng hô. Đó là các đại từ đây, đấy, đằng ấy ... Ví dụ:

- Đây nói chô mà biết.

- Đằng ấy đi trước, tớ chưa đi đâu).

Các đại từ chỉ xuất thường được dùng trong những ngữ cảnh giao tiếp phi qui thức ở

những quan hệ vai ngang bằng.

1.4.2. DANH TỪ CHỈ NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ.

Theo Nguyễn Tài Cẩn, danh từ chỉ người, đặc biệt "danh từ chỉ quan hệ thân thuộc là

một nhóm có nhiều nét khá lý thú xét về mặt ngôn ngữ học. Trước hết - ở tiếng Việt cũng

như nhiều ngôn ngữ khác - đây là một nhóm thường có thể dùng với hai ý nghĩa: dùng với ý

nghĩa chính xác của chúng để xưng hô với em, bà con trong gia tộc và dùng với ý nghĩa mở

rộng để xưng hô ngoài xã hội với những người vốn không có quan hệ thân thuộc gì với

mình" [13, 142].

Dựa vào chức năng tín hiệu học, Đỗ Hữu Châu [23,140 ] đã chia những từ chỉ quan hệ

họ hàng làm 3 nhóm:

Nhóm thứ nhất: các từ chỉ mang chức năng miêu tả như "anh trai", "em gái", "chị

ruột", "bố đẻ", "bác trai"', "bác gái", "anh nuôi", "em nuôi"...

Nhóm thứ hai: bao gồm các từ chỉ mang chức năng xưng hô. Thuộc nhóm này là các

từ "u", "bầm", "bủ", "me", "thầy", "tía", "bọ", "mụ"...

44

Nhóm thứ ba: bao gồm các từ có thể thực hiện được cá hai chức nâng thuộc hai nhóm

trên. Thuộc nhóm này là các từ "bố", "mẹ", "anh" "chị" "chú", "bác", "cô", "dì", "cậu",

"mợ", "thím"...

Chức năng của tùng nhóm sẽ qui định phạm vi sử dụng của chúng. "Các từ nhóm thứ

nhất chỉ dùng để miêu tả quan hệ gia đình chứ không dùng khi gọi, xưng hô trong đối thoại.

Thí dụ ta nói: " Thắng có ba người anh trai" mà không nói thí dụ."anh trai ơi lại đây em

bảo".... Các nhóm từ thứ hai trái lại chỉ dùng để xưng hô: ta nói "u ơi", "bầm ơi" ... mà

không nói thí dụ "mọi người đều phải biết ơn để của mình", "tình bầm con" v.v... Các nhóm

từ thứ ba có thể dùng: "Mẹ oi", "cha ơi" mà cũng được dùng "mọi người phải biết ơn mẹ của

mình" [18, 141].

Như vậy, các từ thuộc nhóm ba được sử dụng rộng rãi còn các từ thuộc nhóm hai được

sử dụng theo từng khu vực địa lý khác nhau. Chẳng hạn, từ "mụ" và từ "á" trong các mô

hình xưng hô hiện nay ở miền Bắc không thấy xuất hiện. Trong giao tiếp, từ "mụ" và từ' "á"

không ở ngôi thứ nhất cũng không ở ngôi thứ hai. Do đó, từ "mụ" và từ "á" không phải là từ

xưng hô. Thông thường, hai từ này được dùng ở ngôi thứ ba - chỉ người phụ nữ với sắc thái

khinh bỉ. Nhưng ở miều Trung, hai từ này vẫn được dùng để xưng hô. Từ "mụ" thay chô từ

"bà" để chỉ người ngang hàng với bà mình, từ "ả" thay chô từ "chị". Sắc thái biểu cảm của

hai từ trên cũng tương tự như sắc thái biểu cảm của từ "bà" và từ "chị" trong cách xưng hô

của người miền Bắc.

Thời Nguyễn, những người phụ nữ trong Hôàng tộc được gọi là "mệ". Hiện nay ở cố

đô Huế, những gia đình thuộc dòng dõi Hôàng tộc vẫn dùng từ “mệ” để xưng hô. Khi giao

tiếp với những người ngoại tộc, những người phụ nữ (hôàng tộc) vẫn dùng từ "mệ" để tự

xưng với ý nghĩa đề cao, quyền qúi.

Thực tế xưng hô hiện nay chô thấy, một số từ ở nhóm thứ nhất cũng có thể dùng làm

từ xưng hô tuy không phổ biến. Trong ngôn ngữ của dân buôn bán, chúng tôi vẫn thường

gặp các phát ngôn như "Anh trai trả thêm chút nữa" hay "chị gái mặc bộ này vừa qúa". Và

hai từ "bác trai" , "bác gái" (chỉ những người có quan hệ vợ chồng với nhau) cũng có thể

dùng làm từ xưng hô như những cách nói "Bác trai ơi, bác gái cháu có nhà không ạ". Thực

ra cách dùng "bác trai” / "bác gái" để xưng hô nhằm phân biệt và tránh lẫn lộn giữa trai /

gái.

45

Vì từ "Bác" không phân biệt về giới tính. Nghĩa của từ này bao gồm cả "bác trai" và

"bác gái".

Các đại từ xưng hô ti thực thụ không thể hiện được các nhân tố tuổi tác, do đó trong

giao tiếp (đặc biệt ở hôàn cảnh giao tiếp không qui thức) người Việt ưa dùng các danh từ

thân tộc để xưng hô nhằm tăng thêm tình thân hữu, giảm khôảng cách giữa mình với người

đối thoại.

1.4.3. DANH TỪ CHỈ CHỨC NGHIỆP ĐỂ XƯNG HÔ.

Chúng tôi nhận thấy, lớp từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp dùng để xưng hô (chủ yếu dùng

để hô) là lớp từ có khả năng chiếu vật lớn và ít chịu ràng buộc bởi một qui định cụ thể nào.

Đây là lớp từ có nhiều thay đổi qua các thời đại do chịu ảnh hưởng của tình hình chính trị,

hình thái ý thức, thể chế ... ở mỗi thời kỳ.

Trong tiếng Việt, những từ chỉ nghề nghiệp như kỹ sư, thư ký, phóng viên, thợ mộc ...

tự thân chúng không phải là từ xưng hô. Muốn dùng những từ này làm từ xưng hô thì phải

có các danh từ thân tộc (hôặc những danh từ khác) đứng đằng trước. Chẳng hạn, có thể gọi

"anh kỹ sư ơi !" hay "đồng chí phóng viên" ... Lại có những từ vừa là từ chỉ nghề nghiệp,

vừa là từ chỉ chức vụ như từ "bác sĩ". Đây là một từ có tính trung gian - vừa là từ chỉ chức

vụ vừa là từ chỉ nghề nghiệp. Khi được dùng để xưng hô, từ "bác sĩ" được dùng với ý nghĩa

là từ chỉ chức vụ. Trong công trình [22, 140] , Đỗ Hữu Châu đã thực hiện sự phân biệt danh

từ chỉ chúc vụ và danh từ chỉ nghề nghiệp khi so sánh các từ "thầ giáo" và "giáo viên", "thầy

giáo" và "thầy thuốc"; "bác sĩ" và "y sĩ” trong các cách nói "thưa thầy giáo" và "thưa giáo

viên", "thưa thầy thuốc" ; "thưa bác sĩ" và "thưa y sĩ" v.v... Ở các cách nói như trên, các từ

chỉ chức vụ như "thầy giáo" (so sánh với "giáo viên" từ chỉ nghề nghiệp ) và "bác sĩ" - từ chỉ

chức vụ cao (so sánh với "y sĩ” từ chi chức vụ thấp) mới có thể dùng làm từ xưng hô.

Khác với từ chỉ nghề nghiệp, những từ chỉ chức vụ có thể được dùng làm từ xưng hô

mà không phải thêm yếu tố hay điều kiện nào. Chúng ta có thể nói "Thủ trưởng đi đâu đấy",

"Giám đốc chô tôi trình bày một việc" hay "Hiệu trưởng khôẻ chứ ạ".

Một điều dể nhận thấy là các từ xưng hô chỉ quan hệ trong gia tộc (và các đại từ xưng

hô) thường kết hợp với nhau theo từng cặp tương ứng như cha - con , anh, chị - em, ông, bà

- cháu, tao - mày ...

46

Nhưng các từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp được lâm thời dùng làm từ xưng hô lại không

có các cặp tương ứng như vậy. Chẳng hạn, các từ Chủ tịch - ∅, bác sĩ - ∅, giáo sư - ∅...

chúng ta khó mà tìm được một từ nào có tính tương ứng để "đi" thành từng cặp với các từ

trên. Trong hội thoại, khi sử dụng các từ chỉ chức nghiệp để xưng hô thì những chỗ trống

(∅) được các nhân vật hội thoại tự tựa chọn những từ khác sao chô phù hợp với quan hệ

giữa người hô và người xưng.

Chẳng hạn, tùy vào mối quan hệ giữa A,B,C ... với D (D là chủ tịch chẳng hạn) mà:

A có thể xưng "cháu" và hô "chủ tịch"

B có thể xưng "em" và hô "chủ tịch"

C có thể xưng "tôi" và hô "chủ tịch"

Chúng tôi gọi các cặp từ xưng hô như : "chủ tịch" - "cháu", "chủ tịch" "em" , "chủ

tịch" - "tôi" ... là những cặp từ xưng hô tlương ứng tạm thời.

Chúng tôi nhận thấy, những từ chỉ chức vụ thấp ít khi được dùng làm từ xưng hô, nhất

là ở ngữ cảnh giao tiếp không qui thức, khi người đối thoại có chức vụ thấp hơn mình. Đây

có thể là cách tránh xúc phạm tới thể diện tiêu cựa của người đối thoại.

1.4.4. HỌ VÀ TÊN RIÊNG CỦA NGƯỜI DÙNG ĐỂ XƯNG HÔ.

Trong tiếng Việt, họ tên thật của người ở dạng đầy đủ nhất gồm ba yếu tố, sắp xếp

theo trình tự: họ/tên lót/tên. Ví dụ: Nguyễn Tất Thành, Hôàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Bình...

Ở ví dụ trên, Nguyễn, Hôàng là họ (patronym), Tài, Văn, Thị là tên lót (middle) và

Thành, Thụ, Bình là tên riêng (personal name). Nhiều trường hợp chỉ có họ và tên mà không

có tên lót. Vì "Vai trò của tên lót không có tính bắt buộc, nên nhiều khi có thể vắng mặt, ví

dụ : Nguyễn Du, Phạm Thái". [13, 94].

Ba yếu tố trong cấu trúc họ tên đầy đủ của tiếng Việt (họ, tên lót, tên đệm ) đều có thể

dùng làm từ xưng hô. Tuy nhiên, tính độc lập và hạn chế (không độc lập) khi dùng làm từ

xưng hô ở mỗi yếu tố lại có sự khác nhau. Cách dùng họ tên người để xưng hô cũng mang

những dấu ấn văn hôá- xã hội của từng giai đoạn lịch sử.

Số lượng họ cũng như đặc điểm của họ trong tiếng Việt được tác giả Nguyễn Tài Cẩn

nhận xét trong công trình [13, 91] như sau : "Số lượng họ ở tiếng Việt không nhiều lắm,

chúng chiếm một tỉ lệ thấp hẳn, nếu so với số lượng tên. Tuyệt đại đa số trường hợp đều là

47

họ đơn tiết. Điều đáng chú ý là những từ nay không phải chỉ ở Việt Nam mới có: nói chung,

ở Trung Quốc đều có những họ tương ứng"

Gần đây, ở người Việt đã xuất hiện một xu hướng lấy họ mẹ thay chô tên lót tạo thành

những họ kép (compound patronym) như Trần - Lê, Nguyễn - Hà, Phạm - Vũ , Lê - Huỳnh

v.v

Ở một số nước Tây Âu và Đông Âu như Anh, Pháp, Nga ... họ của người thường

xuyên được dùng để xưng hô.

Với người mới quen biết, ở mức xã giao người Anh có thể dùng họ của người đối thoại

để gọi anh ta như Mr Brown, Mr Clark hay Miss Martin... khi mối quan hệ trở nên thân tình

thì họ lại hay dùng tên riêng để xưng hô với nhau. Ví dụ:

- Hello Jonh ! (chào Jonh)

- Can yon help me, Peter ?

(Cậu có thể giúp tôi không, Peter ?)

Trong ngữ cảnh giao tiếp có tính qui thức cao (formal) người Anh dùng họ tên đầy đủ

để xưng hô với nhau như Peter Brown, Elizabeth Martin...

Ở Việt Nam, dùng họ để xưng hô chỉ phổ biến trong xã hội phông kiến hay gần đây

nhất là giai đoạn trước cách mạng. Người Việt thường dùng họ để hô (trỏ) những nhân vật

đáng kính trọng. Họ của người Việt không được dùngđdộc lập để xưng hô mà thường có các

danh từ khác đi kèm như tiên sinh, quân ... ví dụ:

"Quí hôá thay, cái việc bỉ nhân muốn làm mà Đào quân làm trước mất" [Dẫn theo 13,

96]. Hôặc dùng họ kèm với học vị, + chức tước, ví dụ cụ Huấn Cao, cụ Cử Phan, ông Nghè

Trần.

Họ tên đầy đủ của người Việt thường được dùng làm từ xưng hô trong những hôàn

cảnh giao tiếp hết sức qui thức ở những trường họp này, cũng có những từ chỉ chức vụ, học

hàm, học vị đứng trước họ lên. Ví dụ:

- Kính thưa tiến sĩ Lý Toàn Thăng, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học.

Tên đệm hầu như không được dùng độc lập làm từ xưng hô mà thường giữ vai trò phụ

(làm định ngữ) chô tên riêng. Các tên đệm sẽ là yếu tố để phân biệt những người trùng họ,

48

tên nhưng khác tên đệm, ví dụ: Nguyễn Văn Cường, Nguyễn Mạnh Cường. Trong lớp học,

giáo viên có thể gọi "Văn Cường lên bảng".

Tác giá Đỗ Hữu Châu nhận xét : “Các tên riêng thực hiện sự chiếu vật cá thể ít phụ

thuộc vào hôàn cảnh giao tiếp nhất. Trong trường hợp hôàn cảnh giao tiếp và đồng văn cảnh

chưa đủ thì chúng ta dùng các từ khác để giúp người nghe xác định được vai qui chiếu là gì"

[24, 233]. Ở ví dụ trên, tên đệm "Văn" và "Mạnh" là những từ giúp chô Cường (người nghe)

nhận biết được cô giáo đang gọi ai, Văn Cường hay Mạnh Cường.

Hiện nay, ở tiếng Việt hiện tượng dùng tên riêng để xưng hô rất phổ biến. Đây là một

mảng từ được dùng làm từ xưng hô với nhiều cách dùng và sắc thái khác nhau tùy thuộc vào

mối quan hệ giữa những người đối thoại cũng như tính chất (formal, informal) và chủ đề

của cuộc thoại.

Thông thường, những người có cùng vị thế thì hay dùng riêng tên để xưng hô một cách

thân mật. Ví dụ:

- Hôm nay Đoàn có đi xem bóng đá không ?

- Có chứ, mình với Tuân cùng đi nhé.

Nhưng trong hôàn cảnh giao tiếp qui thức như Hội họp, hội thảo ... thì ngay cả những

người có vị thế ngang bằng cũng không thể dùng tên riêng một cách độc lập để xưng hô với

nhau. Lúc này, họ phải dùng những danh từ khác kèm với tên riêng như "anh" "chị" hay

"đồng chí".

Người có vị thế thấp càng không thể dùng tên riêng để xưng và đặc biệt không được

gọi người có vị thế cao hơn mình bằng tên riêng (tên riêng của người được gọi người có vị

thế cao). Khi gọi tên riêng của người có vị thế cao, để giữ lễ phép thi người gọi phải kèm

thêm những từ như "anh", "chị", "ông", "bà", "cô", "chú", "bác"... vào trước tên người được

gọi như Bác Hùng, cô Hôa, cậu Thắng v.v...

Trong nhiều trường hợp, người có vị thế cao gọi tên riêng của người có vị thế thấp hơn

mình lại là cách gọi gần gũi, thân mật. Chẳng hạn, thầy giáo có thể hỏi học sinh:

- Cậu đã khôẻ hẳn chưa ? (a)

- Hùng đã khôẻ hẳn chưa ? (b).

49

Rõ ràng, cách dùng tên riêng ở (b) to ra ân cần, gần gũi và thân mật hơn cách gọi ở (a).

Ngoài xã hội cũng như trong gia đình, ở mỗi cặp vai giao tiếp như bạn - bạn, thủ

trưởng - nhân viên, bố, mẹ - conôỏng, bà - cháu, vợ - chồng ... có những cách dùng tên để

xưng hô tuỳ theo mục đích giao tiếp, thái độ và "chiến lược" giao tiếp của các nhân vật hội

thoại.

Chẳng hạn, nhân viên có thể gọi thủ trưởng của mình bằng các danh từ chỉ chức vụ

như “giám đốc”, “chủ tịch”, “thủ trưởng”, “trưởng phòng”...nhưng để tỏ ra thân thiết, gần

gũi mà vẫn giữ được lễ phép nhân viên có thể gọi cấp trên của mình bằng tổ hợp danh từ

thân tộc + tên riêng của cấp trên. Ví dụ, bác Hùng, chú Tuấn...

Ở quan hệ vai vợ chồng, các cặp vợ chồng trẻ vẫn xưng tên với nhau một cách âu yếm.

Thậm chí, nhiều cặp vợ chồng có tuổi (thường ở thành thị và gia đình trí thức ) vẫn dùng tên

xưng hô với nhau. Phải chăng đó là cách xưng hô - dấu hiệu của tình yêu không có tuổi ?

Đối với vợ chồng người việt, "Trong khi trò chuyện thân mật, để thể hiện tình cảm hôà

nhập giữa vợ chồng với nhau và giữa họ với con cái, cặp vợ chồng trẻ và trung niên còn tạo

ra kiểu xưng gọi độc đáo bằng cách nhập vai con để gọi bố hôặc mẹ rồi tạo ra tổ hợp gồm

"bố + tên chồng" hôặc "mẹ + tên vợ".

- Sáng mai bố Tuân có lên cơ quan không ?

- Chủ nhật nhà có khách, mẹ Hôạch sang chú Các bảo để chô con gà." [130, 33]

Các danh từ được dùng làm từ xưng hô như danh từ thân tộc, danh từ chỉ chức vụ,

nghề nghiệp, tên riêng, họ ... là những đơn vị ngôn ngữ chứa dựng nhiêu yếu tố của dụng

học. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kỹ hơn mảng từ này ở những chương mục tiếp theo.

Kết luận chương 1, những vấn đề chúng tôi trình bày ở chương này nhằm sơ lược giới

thiệu một số vấn đề về lý thuyết hội thoại liên quan đển đề tài trên cơ sở lý thuyết đó, chúng

tôi xác định những nguyên tắc để nghiên cứu dùng từ xưng hô. Những nguyên tắc đó là:

1.5.1 Nghiên cứu từ xưng hô phải tính tới chức năng chiếu vật. Sự chiếu vật về nhân

vật giao tiếp ở các khía cạnh, thái độ, tình cảm, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp...

1.5.2. Nghiên cứu từ xưng hô trong hội thoại nghĩa là nghiên cứu từ xưng hô trong

hôạt động hành chức của chúng. Vì thế, các nhân tố chi phối từ xưng hô như vị thế xã hội,

quyền uy của các nhân vật giao tiếp hay tính quy thức / không qui thức của ngữ cảnh ...

cũng được xét tới làm cơ sở để nghiên cứu từ xưng hô.

50

1.5.3. Nghiên cứu từ xưng hô, chúng tôi lấy trục định vị vai giao tiếp làm chính-trục

ngang và trục dọc trong quan hệ liên cá nhân. Trên trục định vị, chúng tôi xét tới vấn đề

định khung quan hệ. Theo chúng tôi, để định khung quan hệ phải dựa vào:

1.3.3.1. Vị thế xã hội của nhân vật hội thoại. Vị thế xã hội được xét tới là vị thế trong

gia đình và vị thế ngoài xa hội.

1.5.3.2. Dựa vào sắc thái biểu cảm của các mô hình xưng hô. Đó là các sắc thái trọng /

khinh, thân mật / suồng sa hay trung hôà.

Như vậy, những chức năng của từ xưng hô, quan hệ liên cá nhân, các ngữ vực chi phối

cách dùng từ xưng hô sẽ là những yếu tố, là công cụ giúp chúng tôi soi sáng, tìm ra những

đặc điểm của từ xưng hô tiếng Nùng.

Các phương tiện dùng để xưng hô trong tiếng Việt là những đơn vị ngôn ngữ chúng tôi

dùng làm cơ sở để đối chiếu với các phương tiện dùng để xưng hô trong tiếng Nùng. Theo

giả thiết của chúng tôi, quá trình đối chiếu hai hệ thống từ xưng hô (Việt, Nùng) sẽ dẫn tới

những hiện tượng sau:

Thứ nhất, có những đơn vị ngôn ngữ được dủng làm từ xưng hô trong hệ thống này

nhưng lại thiếu vắng (không được dùng làm từ xưng hô) trong hệ thống kia.

Thứ hai, có những đơn vị ngôn ngữ cùng được sử dụng làm từ xưng hô trong cả hai hệ

thống ngôn ngữ (Việt, Nùng) nhưng ở mỗi hệ thống ngôn ngữ, những đơn vị đó sẽ có những

cách sử dụng cũng như sắc thái biểu cảm khác nhau:

Thứ ba, sẽ có những đơn vị ngôn ngữ được dùng làm từ xưng hô với cách sử dụng và

sắc tháí (ở một hôàn cảnh nhất định với một nét sắc thái nhất định) giống nhau giữa hai hệ

thống ngôn ngữ (Việt, Nùng).

Tất cả những hiện tượng giống/ khác nhau, tương đương / không tương dương, có /

không có những đơn vị ngôn ngữ dùng làm từ xưng hô cũng như cách dùng và sắc thái biểu

cảm của các từ đó giữa hai hệ thống ngôn ngữ sẽ được chúng tôi lý giải, phân tích kỹ.

Chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng theo các bước sau:

- Vị thế của người dùng. Chúng tôi tìm hiểu sự chi phối cũng như sự thể hiện vị thế

của nhân vật hội thoại qua cách dùng các từ xưng hô tiếng Nùng.

51

- Miêu tả các nét nghĩa và sắc thái biểu cảm của từ xưng hô tiếng Nùng. Các nét nghĩa

được miêu tả theo vị thế của người dùng.

"Phạm vi sử dụng từ xưng hô: phạm vi gia đình và phạm vi xã hội

- Các ngữ vực sử dụng từ xưng hô.

Mỗi một từ xưng hô, mọi công thức xưng hô sẽ có những ý nghĩa và cách dùng riêng

biệt. Do đó, khi nghiên cứu từ xưng hô tiếng Nùng, chúng tôi cũng không nhất thiết nghiên

cứu theo thứ tự từng bước như đã vạch ra ở trên.

1.5.4. Công trình [18] đã gợi ý chô chúng tôi khi nghiên cứu ngôn ngữ nói chung và từ

xưng hô nói riêng phải chú ý tới những hiện tượng trung gian. Trong lĩnh vực từ xưng hô,

có những từ vừa là từ chỉ chức vụ, vừa là từ chỉ nghề nghiệp dùng để xưng hô. Trong hệ

thống đại từ xưng hô, có từ vừa ở ngôi thứ nhất, vừa ở ngôi thứ hai hay thứ ba (các đại từ

lưỡng ngôi). Từ những hiện tượng trung gian đó chúng ta sẽ nhận diện rõ hơn các mặt đối

lập - vốn là nhưng yếu tố (đơn vị) tạo nên các hiện tượng trung gian. Tác giả Đỗ Hữu Châu

chỉ rõ : "Trung gian là thống nhất các mặt đối lập, là sự chuyến hôá lẫn nhau của ít nhất hai

trạng thái kế tiếp. Trong trung gian có nhũng đặc trưng của mặt đối lập này lẫn đặc trưng

của mặt đối lập kia, có đặc trưng của trạng thái này lẫn đặc trưng của trang thái kia" [18,25].

Khái niệm trung tâm và ngoại vi của hệ thống cũng được Đỗ Hữu Châu giới thiệu

trong công trình [18]. Những hiện tượng trung tâm và ngoại vi của hệ thống từ xưng hô

được chúng tôi chú ý nghiên cứu. Jovov V.M. Uspenskij từng phát biểu “Tâm bao gồm

những cái có tính truyền thống, những đơn vị cơ bản và từ đó có thể sản sinh ra những đơn

vị khác và những nhân tố tạo ra bản chất của đối tượng được xét đển. Trái lại, biển báo gồm

những cái mới du nhập, những cái được phát sinh, những cái bất thường và cái xa với bản

chất của đối tượng được xét" [Dẫn theo 57, 288].

“Trong phạm vi xưng hô, các từ xưng hô như con - bố mẹ, cháu - ông bà, em - anh, chị

... là những từ xưng hô thể hiện đúng bản chất mối quan hệ của các nhân vật - chúng là

những hiện tượng trung tâm của hệ thống. Các cách gọi kèm, gọi thay ngôi ... là hiện tượng

ngoại vi của hệ thống. Những hiện tượng ngoại vi trong xưng hô chính là đối tượng nghiên

cứu của dụng học Vì lẻ đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đặc biệt chú ý tới những

hiện tượng phát sinh, hiện tượng ngoại vi của xưng hô. Những điều kiện, nhân tố cũng như

sắc thái và mục đích sử dụng những hiện tượng ngoại vi của từ xưng hô trong giao tiếp hứa

hẹn nhiều thứ vị chô người nghiên cứu.

52

1.5.5. Chúng tô tiến hành nghiên cứu từ xưng hô trên quan điểm phân tích hội thoại.

Bởi vì, xưng hô là xưng hô trong hội thoại, trong giao tiếp. Nói cách khác, xưng hô với giao

tiếp xã hội liên hệ với nhau như cái điều kiện và cái tiền đề. Xưng hô do yêu cầu của hành

vi giao tiếp xã hội. Ngược lại, giao tiếp xã hội không thể diễn ra mà không có xưng hô. Vì

thế, nghiên cứu từ xưng hô trong hội thoại, trong sự hành chức, chúng ta mới có thể tìm ra

những đặc điểm nổi bật của từ xưng hô.

53

CHƯƠNG 2: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG ĐẠI TỪ TRONG TIẾNG

NÙNG

Trong chương 1 (mục 1.3) , chúng tôi chỉ trình bày những ngữ vực chi phối cách sử

dụng từ xưng hô như vai giao tiếp và vị thế xã hội của nhân vật giao tiếp, tính qui thức

(formal) của ngữ cảnh giao tiếp, tính quyền uy (power) của nhân vật giao tiếp... Đó là

những nhân tố cơ bản chi phối cách sử dụng từ xưng hô. Tuy nhiên trong thực tế giao tiếp,

từ xưng hô luôn chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố khác như nhân tố giới tính của người

dùng (người thực hiện hành vi xưng hô), sự chi phối bởi quan hệ liên cá nhân biểu hiện trên

hai trục giao tiếp (quan hệ) :trục dọc (power ) và (trục ngang (solidarity), tính chất các mối

quan hệ của nhân vật giao tiếp như nội/ ngoại, huyết thống / không huyết thống, những

kiêng kị khi sử dụng từ xưng hô... tất cả những nhân tố này sẽ được chúng tôi tính tới khi

miêu tả đại từ nhân xưng nói riêng và từ xưng hô nói chung.

Dựa trên tiêu chí đã được chúng tôi xác định ở mục 1.4.1, những đại từ ngôi thứ nhất

và ngôi thứ hai mới là những đại từ xưng hô thực thụ. Tuy nhiên, trong tiếng Việt cũng như

tiếng Nùng có những đại từ lại ở thể lưỡng ngôi: vừa ở ngôi thứ nhất, vừa ở ngôi thứ hai hay

ngôi thứ ba như đại từ mình (tiếng Việt), đại từ làu, hau* (Chúng tôi ghi âm tiếng Nùng theo

[86]). Do đó, để hệ thống hôá danh sắch đại từ xưng hô tiếng Nùng, chúng tôi sẽ lập bảng

danh sắch các từ xưng hô tiếng Nùng dựa trên tính chất định vị (định vị ngôi nhân xưng)

của từng đại từ. Như vậy, bảng danh sắch đại từ xưng hô tiếng Nùng được chia thành ba

ngôi các đại từ ngôi 1, các đại từ ngôi 2, và các đại từ lưỡng ngôi. Để bảo đảm tính hệ thống

trong nghiên cứu, chúng tôi sẽ miêu tả đại từ nhân xưng tiếng Nùng theo từng nhóm như các

đại từ nhân xưng ngôi 1, các đại từ nhân xưng ngôi 2.

54

2.1. DANH SẮCH ĐẠI TỪ XƯNG HÔ TIẾNG NÙNG

Qua bảng trên chúng ta thấy với dạng thức số ít tiếng Nùng có 9 đại từ nhân xưng

được phân bố ở cả hai ngôi (ngôi 1 và ngôi 2) trong đó có 3 đại từ lưỡng ngôi (vừa dùng ở

ngôi 1 vừa dùng ở ngôi 2 hay dùng trỏ người ở ngôi 3) là các đại từ cau, làu, hau. Hai đại từ

làu, hau vừa có tính lưỡng ngôi (ngôi 1, ngôi 2, hôặc ngôi 3) vừa có tính lưỡng số (số ít và

số nhiều) . Mặc dù là đại từ lưỡng ngôi nhưng chúng tôi vẫn xếp cau nằm trong thế tương

55

liên (luôn kết hợp thành cặp đại từ xưng-hô) với đại từ mưng, ngôi thứ hai. Dĩ nhiên, trong

quá trình phân tích, chúng tôi sẽ nói rõ cách dùng cũng như sự khác nhau về sắc thái biểu

cảm giữa đại từ cau -ngôi 1 và đại từ cau - ngôi 2 (với các đại từ lưỡng ngôi làu, hau chúng

tôi cũng tiến hành như vậy).

Các yếu tố chỉ số nhiều như pang, boong đều được dùng trong ngôn ngữ của người

Tày và người Nùng. Trong khi đó, yếu tố kí (bọn, may, chúng ...) chỉ có trong tiếng Nùng.

Cũng như vậy yếu tố bại, (chỉ số nhiều như mấy, bọn, chúng ... ) chỉ được người Tày sử

đụng để cấu tạo số nhiều trong xưng hô.

Với dạng thức số nhiều, tiếng Nùng có 11 đại từ nhân xưng được phân bố ở ba ngôi;

ngôi 1, ngôi 2, và lưỡng ngôi. Như vậy, tiếng Nùng có 20 đại từ nhân xưng ở hai dạng thức

số ít (9 đại từ) và số nhiều (11 đại từ). Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu các

đại từ nhân xưng tiếng Nùng ở dạng số ít. Các đại từ nhân xưng số nhiều của tiếng Nùng sẽ

được chúug tôi xem xét, nghiên cứu trong những trường hợp cần thiết.

Các đại từ xưng hô số ít trong tiếng Nùng không có ý nghĩa chỉ giống. Ngược lại, với

cách cấu tạo số nhiều như ở bảng trên, các đại từ xưng hô số nhiều tiếng Nùng lại có ý nghĩa

về giống. Ví dụ :

Số ít Số nhiều

Cau Kí ò cau - chúng tôi (giống đực)

Kí tu cau chúng tôi (giống cái)

Kí cừu can - chúng tôi (chỉ chung)

Một tổ hợp từ xưng hô tiếng Nùng có thể biểu thị được cả ba phạm trù ngữ pháp như

kí ò ngò (bọn tớ), trong đó, kí - yếu tố chỉ số nhiều, ô- yếu tố chỉ giống đực, ngò-yếu tố chỉ

ngôi 1, kí tu cau (bọn tao), kí-số nhiều, tu-giống cái, cau-ngôi 1

Trong cách cấu tạo số nhiều của một số đại từ xưng hô tiếng Nùng, "Từ khỏi lại (ở

ngôi thứ nhất) chỉ kết họp với kí để chỉ số nhiều : kí khỏi lại. Từ cau (ở ngôi thứ hai) chỉ kết

hợp với kí cừn —> kí cừu cau. Có lẽ do hai từ này khi ở số ít vốn mang sắc thái lịch sự,

trang trọng ... nên không chấp nhận kết hợp với các loại từ chỉ giống, nghĩa là không thể nói

: ki o khỏi lại". [93, 82]

Dưới ánh sáng của lý thuyết liên cá nhân, chúng ta có thể thấy các đại từ nhân xưng

tiếng Nùng chủ yếu biểu thị chô quan hệ ngang.

56

Nói cách khác, quan hệ đối xứng (quan hệ ngang) của nhân vật hội thoại đưọc thể hiện

qua việc sử dụng đại từ nhân xưng để giao tiếp với nhau. Đó là các đại từ ngò - nì , cau -

mưng. Tuy nhiên, nếu người có vị thế cao dùng cặp đại từ cau - mưng để xưng hô với người

có vị thế thấp lại là cách dùng (xưng hô) của quyền uy (power – quan hệ dọc). Như vậy có

những cặp đại từ biểu thị chô một loại quan hệ nhất định: ngò-ni (quan hệ ngang) lại-cau

(quan hệ dọc) lại có những cặp đại từ biểu thị chô cả hai trục quan hệ: cau-mưng. Ở trường

hợp thứ hai, (đại từ biểu thị chô hai trục quan hệ) nhân tố người sử dụng là dấu hiệu để

chúng ta xác định cặp đại từ được dùng nằm trên trục quan hệ nào.

Sau đây, chúng tôi giới thiệu, phân tích và miêu tả cách dùng từng đại từ xưng hô tiếng

Nùng.

2.2. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ NHẤT SỐ ÍT

Trong các ngôn ngữ biến hình như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp...việc sử dụng đại

từ xưng hô tương đối đơn giản. Chẳng hạn như tiếng Anh, ego có thể dùng một từ duy nhất

là I để tự xưng trước nhiều đối tượng khác nhau nhu cha mẹ, ông bà, nữ hôàng hay thủ

trưởng v.v...Ego có thể dùng một từ duy nhất là You để gọi người đối thoại, bất luận vị thế

xã hội của người đó là cao hay thấp so với ego. Có lẽ, đây là một trong những điều kiện

khiến chô đại từ ở những ngôn ngữ này có tính khái quát cao. Nghĩa là một đại từ được

dùng rộng rãi trong tất cả các loại quan hệ vai cũng như trong phạm vi giao tiếp (gia đình và

xã hội) với hội đủ các hình thức formal và informal của hôạt động tương tác.

Ngược lại, ớ nhúng ngon ngư khổng biêu hình như tiếng Việt, liêng Nùng ... việc sử

dụng các đại từ xưng hô quá không đon giản.

Trong tiếng Nùng, nhân vật hội thoại khi sử dụng từ xưng hô bị lệ thuộc và chi phối

bởi rất nhiều nhân tố. Vì vậy, trước khi miêu tả phân tích cách xưng hô bằng đại từ, chúng

tôi trình bày những nhân tố cơ bản chi phối cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, số

ít của tiếng Nùng qua bảng sau :

57

58

2.2.1. ĐẠI TỪ CAU.

Cau là đại từ nhân xưng lưỡng ngôi - vừa có thể dùng ở ngôi thứ nhất vừa dùng ở ngôi

thứ hai. Do được sử dụng ở cả hai ngôi nên sẽ có sự khác nhau về sắc thái biểu cảm, phạm

vi sử dụng cũng như cách dùng giữa đại từ cau-ngôi 1 và đại từ cau-ngôi 2

Ở ngôi thứ nhất, số ít đại từ cau (tao) thường kết hợp với đại từ mưng (mày) ngôi thứ

hai số ít thành cặp từ xưng hô : cau (tao) mưng (mày).

Tuỳ vào vị thế của người sử dụng mà đại từ cau có những sắc thái biểu cảm khác

nhau.

Trong hôàn cảnh giao tiếp informal, người có quyền uy (Power) người ở vị thế trên

dùng cau để tự xưng trước người có vị thế thấp hơn mình biểu thị thái độ suồng sã, hách

dịch. Ví dụ :

- Cau cạ mưng tính mí ?

(Tao bảo mày nghe không ?)

- Mưng pay thắp vài xáu cau mí ?

( Mày đi tìm trâu cùng tao không ?)

Với sắc thái ý nghĩa này, đại từ cau tiếng Nùng tương đương với đại từ tao tiếng Việt.

Có nghĩa là đại từ tao trong tiếng Việt cũng được người ở vị thế trên sử dụng để xưng với

người ở vị thế thấp trong hôàn cảnh giao tiếp informal với sắc thái xa lạ, kiểu cách.

C.K Orecchioni viết, "Trong một số kiểu tương tác không bình đẳng, sự không bình

đẳng trước hết là vấn đề của ngữ cảnh: tuổi tác, giới tính, địa vị, vai trò trong hội thoại, sự

làm chủ ngôn ngữ, cả thế lục" [149,64]. Như vậy, khi ego có tuổi tác, địa vị cao hơn người

đối thoại thì anh ta mới có thể dùng cau (tiếng Nùng), tao (tiếng Việt) để xưng với người có

vị thế thấp hơn mình (trong hôàn cảnh giao tiếp informal). Trong trường hợp này, đại từ cau

tiếng Nùng cũng như đại từ tao của tiếng Việt biểu thị chô quan hệ phi đối xứng của nhân

vật hội thoại.

Cũng trong hôàn cảnh giao tiếp informal , khi những người ở vị thế ngang bằng nhau

như vợ - chồng, bạn-bạn xưng cau với nhau lại biểu thị thái độ thân mật, gần gũi. Ví dụ:

- Mưng mà đáy kí vằn đá ?

(Mày về được mấy hôm rồi ?)

59

- Cau ngám mà. (Tao mới về)

- Mưng hử lạc pay kí/

(Mày chô con đi không ?)

- Ca hử lọ min mí pay

(Tao chô nhưng nó không đi)

Trong những loại vai ngang bằng nhau (bạn - bạn, vợ - chồng...) đại từ cau (ngôi 1),

mưng (ngôi 2) là những dấu hiệu ngôn ngữ biểu thị chô mối quan hệ của các nhân vật hội

thoại – quan hệ đối xứng.

Trong quan hệ vai giữa anh, chị và em, khi còn trẻ, nhưng em bé người Nùng do chưa

ý thức rõ về vị thế của mình nên vẫn thường dùng đại từ cau để tự xưng trước anh, chị mình.

Chúng tôi sẽ lý giải hiện tượng kỹ hơn ở chương 3, mục 3.

Cau được sử dụng trong quan hệ vợ - chồng có điểm cần lưu ý, chỉ những vợ chồng

già mới xưng cau (tương ứng với mưng ngôi thứ hai) với nhau, ở những cặp vợ chồng trẻ,

còn bố mẹ già, không dùng đại từ này. Như vậy, cùng với những yêu tố khác thì yếu tố tuổi

tác (khi về già) đã chi phối tới cách sử dụng đại từ cau trong quan hệ vai vợ - chồng của

người Nùng.

Chúng tôi nghi rằng, trong mối quan hệ vai vợ - chồng, khi người Nùng xưng hô cau -

mưng với nhau thì không nên hiểu và chuyển dịch nét nghĩa của đại từ cau - mưng = mày -

tao. Trong loại quan hệ vai này, cau-mưng có nhiều nét nghĩa của anh - em. Lúc này, tính

chất của đại từ cau - mưng tiếng Nùng gần như tính chất của đại từ I - You tiếng Anh. Có

hiểu như vậy, chúng ta mới có thể nói rằng, vợ chồng người Nùng xưng cau – mưng với

nhau là biểu thị thái độ thân ái. Ở phạm vi này, tính khái quát của đại từ cau trong tiếng

Nùng cao hơn đại từ tao trong tiếng Việt.

Sở dĩ chúng tôi nói rằng đại từ cau được dùng trong quan hệ vợ -chồng với sắc thái

lịch sự, thân mật là vì chúng tôi dựa vào nghĩa gốc của đại từ cau.

Theo Mông Kí Slay[93], trong tiếng Nùng, ba đại từ cau, mưng, min (tao, mày, nó )

tạo thành thế tương liên về ngôi : ngôi 1 (cau) , ngôi 2 (mưng), ngôi 3 (min). Có thể đây là

các từ xuất hiện sớm nhất trong xưng hô. Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong các ngôn ngữ

cùng họ Tày - Thái các đại từ tương tự:

60

Nùng: cau mưng min

Thái : cu mững mãn

Tày câu măng mến

Lào cu mưng man

Vì là đại từ ngôi thứ nhất xuất hiện sớm nên cau trong tiếng Nùng ban đầu mang sắc

thái lịch sự. Nhưng về sau, nhờ sự vay mượn đại từ ngò (wo) (tôi, tớ) của tiếng Hán và sự

xuấtl hiện của đại từ lại, khỏi lại với sắc thái trang nhã, lịch sự nên đại từ cau bị mất dần nét

nghĩa ban đầu. Vì thế, sẽ là có căn cứ khi chúng ta chô rằng vợ - chồng người Nùng dùng

cau với sắc thái biểu cảm ban đầu của đại từ này để xưng hô với nhau. Nói cách khác, nét

nghĩa lịch sự của đại từ cau ngôi thứ nhất còn "rớt" lại trong cách xưng hô của vợ - chồng

người Nùng.

Trong quan hệ vai bạn - bạn, giữa đại từ cau tiếng Nùng và đại từ cau tiếng Việt cũng

có nét giống nhau là dùng trong giao tiếp không qui thức (informal) với sắc thái thân mật

gần gũi.

Nhưng xét về nhân tố tuổi tác thì việc sử dụng đại từ cau và tao giữa hai thứ tiếng lại

có sự khác nhau. Ở chỗ, bạn bè người Việt thường chỉ xưng tao - mày với nhau khi còn trẻ.

Có thể từ tuổi vị thành niên trở xuống. Tù tuổi thanh niên trở lên, nhấ là khi đã có gia đình

riêng và con cái, bạn bè người Việt thường xưng tôi và gọi bạn mình là bác, chú, cô... tức

giọi thay con, cháu mình. Hôặc xưng tôi và gọi anh, chị ... theo nguyên tắc "xưng khiêm, hô

tôn" của người Việt. Đối với người Việt, tuổi càng cao thì những nghi thức xã giao càng

được xem trọng. Xu hướng chung của người Việt là ưa sử dụng những nghi thức xã giao sao

chô vừa thân mật, gần gũi mà vẫn giữ được thái độ trang trọng, lịch sự. Lời chào cao hơn

mâm cỗ - đó là ý thức văn hôá - giao tiếp của người Việt. Sử dụng từ xưng hô không thể

vượt khỏi ý thức văn hôá này.

Sự xuất hiện của người thứ ba như con, cháu hay người xa lạ cũng khiến chô xưng hô

giữa bạn - bạn ở người Việt cần chuẩn mực hơn. Do đó, họ không thể dùng cặp từ tao - mày

để xưng hô. Sự xuất hiện của nhân vật thứ ba có tác động tới việc tựa chọn từ xưng hô của

các nhân vật hội thoại là một đề tài lý thú, cần được nghiên cứu riêng.

Như vậy, đại từ tao (và đại từ mày ngôi thứ hai tương ứng) hầu như vắng bóng trong

xưng hô ở nhũng cặp vai bạn - bạn đã đúng tuổi của người Việt. Trong quan hệ vai bạn -

61

bạn của người Việt có sự thay đổi từ xưng hô theo độ tuổi. Ngược lại, ở tiếng Nùng, cặp từ

xưng hô cau-mưng vẫn được những người bạn già thường xuyên sử dụng để xưng hô thân

mật với nhau.

Chúng ta có thể hình dung những nét giống / khác nhau giữa đại từ cau trong tiếng

Nùng và đại từ tao trong tiếng Việt qua bảng sau :

62

63

Căn cứ vào những điều vừa phân tích, miêu tả và qua bảng trên, chúng ta có thể nhận

xét nét giống / khác nhau giữa hai đại từ cau và tao.

Những điểm giống nhau: ở bất cứ quan hệ vai nào trên / dưới hay ngang bằng, ở phạm

vi sử dụng trong gia đình / ngoài xã hội hay lưỡng vi (vừa dùng trong gia đình, vừa dùng

ngoài xã hội), đại từ cau và tao đều giống nhau là chỉ được các nhân vật hội thoại sử dụng

trong hôàn cảnh giao tiếp không qui thức (informal).

Cau và tao chỉ được hai loại quan hệ vai sử dụng : người ở vị thế cao xưng với người

ở vị thế thấp hay những người có vị thế ngang bằng nhau. Nếu xưng hô chuẩn mực, người ở

vị thế dưới không thể dùng cau, tao để tự xưng trước người ở vị thế trên.

Những điểm khác nhau: Đại từ cau trong tiếng Nùng được sử dụng rộng rãi trong

nhiều cặp vai khác nhau như bạn - bạn, vợ - chồng với sắc thái gần gũi, thân mật. Trong khi

đó, ở loại vai ngang bằng, đại từ tao của tiếng Việt chỉ được dùng trong quan hệ vai bạn -

bạn chứ không thể dùng trong vai vợ - chồng. Tuy nhiên, ở nhiêu cặp vợ chồng người Việt,

khi mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm và xung đột xảy ra thì đại từ tao – mày vẫn được sử dụng

trong các phát ngôn của họ.

Cặp đại từ cau – mưng được sử dụng trong quan hệ vai giữa vợ và chồng người Nùng

có sự thay đổi về thời gian. Nghĩa là những đôi vợ chồng trẻ không dùng đại từ cau – mưng

để xưng hô với nhau. Cau - mưng thường được những cặp vợ chồng già sử dụng. Điều này

chi1ng tôi sẽ lý giải kỹ hơn ở chương 3, mục 3.3.

Trong quan hệ vai bạn - bạn, đại từ cau được sử dụng với thời gian dài, ít thay đổi.

Ngược lại, cùng loại quan hệ vai bạn - bạn, đại từ tao chỉ được những cặp bạn người Việt sử

dụng trong một thời gian ngắn, có thay đổi. Nói rõ hơn yếu tố tuổi tác chi phối tới cách sử

dụng đại từ tao trong quan hệ vai bạn - bạn của người Việt. Trái lại, yến tố tuổi tác hầu như

ít tác động tới cách dùng đại từ cau trong quan hệ vai bạn - bạn của người Nùng.

Do được nhiều loại vai sử dụng nên phạm vi hôạt động của đại từ cau rộng hơn phạm

vi hôạt động của đại từ tao. Cau được dùng trong gia đình như giữa vợ chồng, dùng ngoài

xã hội như bạn - bạn và được dùng cả trong gia đình cũng như ngoài xã hội (có tính lưỡng

vị) . Trong khi đó, tao của tiếng Việt chỉ hôạt động ở hai phạm vi: phạm vi xã hội như bạn -

bạn và phạm vi trung gian (trong trường hợp người ở vị thế trên xưng với người ở vị thế

dưới.

64

Xét trong nội bộ tiếng Nùng, khi sử dụng đại từ cau cần lưu ý: Đại từ cau đi với đại từ

mưng được sử dụng trong xưng hô ở các ngành Nùng, các địa phương có sự khác nhau.

"Người Nùng An sử dụng cặp đại từ cau – mưng để xưng hô trong gia đình và ngoài xã hội,

biểu hiện thái độ thân mật, kính trọng và cả suồng sả. Trong khi đó người Nùng Cháo lại coi

cách xưng hô cau – mưng là mặt lịch sự”[93, 83]. Phải chăng, trong cách sử dụng cặp đại từ

cau – mưng để xưng hô, người Nùng An vẫn giữ được sắc thái nguyên thuỷ của hai đại từ

này. Đó là ý nghĩa khái quát cao với hội đủ các sắc thái lịch sự, thân mật và cả suồng sã..

Đại từ tôi của tiếng Việt cũng được sử dụng với sắc thái khác nhau ở những phương

ngôn khác nhau. Ở phương ngôn Hà Nội, người ở vị thế thấp ít khi xưng tôi với gnuo72i ở

vị thế cao hơn mình. Ngược lại , ở phương ngôn Nghệ Tĩnh, người ở vị thế thấp vẫn thường

xưng tôi (tui) trước người ở vị thế trên mà không bị coi là hỗn láo.

2.2.2. ĐẠI TỪ LẠI.

Lại là một đại từ xưng hô đặc biệt trong tiếng Nùng, không có từ tương đương trong

tiếng Việt. Quan sát bảng 2, chúng ta thấy lại là đại từ được người ở vị thế thấp sử dụng để

xưng với người ở vị thế cao. Nếu như đại từ cau ( ngôi 1 ) có đại từ ngôi thứ hai là mưng kết

họp với nhau tạo thành cặp từ xưng hô cau - mưng (tao - mày) thì đại từ lại không có đại từ

ngôi thứ hai kết hợp để tạo thành cặp từ xưng hô. Nghĩa là người tự xưng là lại có thể gọi

người được nói với là cúng (ông), má (bà), mú (bác gái), dé (bác trai)... Đại từ lại được sử

dụng rộng rãi trong hôàn cảnh giao tiếp formal và infonnal. Dù ở hôàn cảnh giao tiếp qui

thức hay không qui thức đại từ lại luôn biểu thị một giá trị biển cảm là trang trọng, lịch sự

của ít tuổi nói với người cao tuổi.

Xét về phạm vi sử dụng, đại từ lại chủ yếu được dùng trong quan hệ xã hội. Ví dụ :

- Cúng hử lại tham lỏ mừ Nà Vạc.

(Ông chô cháu * hỏi đường về Nà Vạc)

(* Từ dịch ở đây không có nghĩa tương ứng hôàn toàn với tiếng Nùng)

- Má lại mí dú lừn má ạ !

( Bà cháu không ở nhà bà ạ)

Trong phạm vi gia đình, chỉ có con dâu con rể mới xưng lại với bố mẹ chồng, bố mẹ

vợ - kiểu xưng hô khách khí.

65

Có thể nói, trong xưng hô ngoài xã hội của người Nùng, người ít tuổi xưng lại với

người cao tuổi là một lối xưng hô rất văn hôá, lịch sự. Trong tiếng Tày, tiếng Việt cũng như

nhiều ngành của tiếng Nùng không có đại từ ngôi thứ nhất với sắc thái lịch sự để xưng với

người ở vị thế trên như trường họp đại từ lại của tiếng Nùng Cháo. Ở tiếng Tày, tiếng Việt

và nhiêu ngành khác của tiếng Nùng, người ít tuổi thường xưng vai người cao tuổi bằng các

danh từ thân tộc như lan (cháu), noọng (em)... Tình hình này đã ảnh hưởng tới khả năng sử

dụng đại từ lại của người Nùng Cháo. Nghĩa là, ở những vùng người Nùng Cháo xen kẽ với

các dân tộc khác thì đại từ lại ít được sử dụng. Ở những vùng này, người Nùng Cháo thường

xưng là lan (cháu) với người cao tuổi như nhiều dân tộc khác. Ngược lại, ở những vùng

người Nùng Cháo, đại từ lại thường xuyên được sử dụng do không bị ảnh hưởng lối xưng

hô của các thứ tiếng khác. Chúng tôi nghĩ rằng, dùng đại từ lại để xưng hô ngoài xã hội là

một nét đặc sắc của người Nùng Cháo cần được duy trì và sử dụng rộng rãi (dĩ nhiên là

trong phạm vi của người Nùng Cháo).

2.2.3. ĐẠI TỪ KHỎI LAI.

Đại từ khỏi lại và đại từ lại có nhiều nét tương đồng.

Thứ nhất, cả hai đại từ đều không có từ tương đương trong tiếng Việt.

Thứ hai, lại và khỏi lại cũng được sử dụng rộng rãi trong hôàn cảnh giao tiếp informal

và formal và cùng biểu thị sắc thái lịch sự, trang trọng.

Thứ ba, cả hai đại từ lại và khỏi lại chỉ được sử dụng trong xưng hô ngoài xã hội.

Điểm khác nhau cơ bản giữa lại và khỏi lại là vị thế của người sử dụng. Nếu như lại là

từ lịch sự của người ít tuổi (vai dưới, vị thế thấp) xưng với người cao tuổi (vai trên, vị thế

cao) thì khỏi lại là từ dùng của người cao tuổi (trên 60 tuổi) xưng với người ít tuổi.

Trong trường hợp người ít tuổi nhưng lại có địa vị xã hội cao thì những người cao tuổi

thường dùng đại từ khỏi lại thay chô các từ dê (bác), xúc (chú... để tỏ ý khiêm tốn hơn và

cũng trang trọng hơn. Ví dụ:

- Cúng đáy slèng mí ?

(Ông có khôẻ không ?)

- Pi náy khỏi lại mí mì slèng dá.

(Năm nay ông * không được khôè rồi).

66

(* Từ dịch không có nghĩa tương đương)

Trước đám đông như ma chay, cưới hỏi ... người cao tuổi của dân tộc Nùng vẫn tự

xưng là khỏi lại với sắc thái khiêm tốn để trình bày một vấn đề gì đó.

Câu hỏi đặt ra là liệu khỏi lại có phải là từ ghép hợp nghĩa không ? Đại từ khỏi trong

tiếng Tày có nghĩa là tôi (với nghĩa gốc theo kiểu tham xưng là tôi, ớ ). Tuy hạn chế nhưng

trong cộng đồng người Nùng vẫn dùng khỏi để tự xưng. Phải chăng khi người ít tuổi dùng

lại để xưng với người cao tuổi thì người cao tuổi cũng cần có một từ để xưng với người ít

tuổi nhưng có địa vị xã hội cao. Từ khỏi lại có thể được hình thành do sự kết hợp của khỏi +

lại để đáp ứng nhu cầu giao tiếp trên. Những điều chúng tôi vừa trình bày về cấu tạo của đại

từ khỏi lại chỉ là sự phỏng đoán, chưa phải là kết luận cuối cùng. Song mọi điều chắc chắn

là khỏi lại ít nhiều có nét nghĩa khiêm tốn của người cao tuổi trước người ít tuổi (nên nhớ

trong trường họp này người ít tuổi phải có chức sắc). Như vậy với người ít tuổi nhưng có

chức sắc, người cao tuổi có thể dùng các yêu tố của trục dọc để tự xưng như cúng (ông), dê

(bác trai ), xúc (chú)... nhưng cách xưng hô này dường như tự đề cao bản thân mình quá. Có

thể nói, yếu tố xã hội đã chi phối cách sử dụng đại từ khỏi lại trong tiếng Nùng. Trong giao

tiếp xã hội để thể hiện sự khiêm tốn nhưng vẫn giữ được vị thế của mình, người có tuổi

dùng khỏi lại chứ ít dùng các danh từ thân tộc như cúng, dê, xúc ... để xưng với người ít tuổi

hơn. Đối với những người ít tuổi hơn mình mà không có chức sắc, người Nùng dùng các

danh từ thân tộc để xưng hô như cúng (ông), má (bà),dê (bác trai), xúc (chú)...hôặc dùng đại

từ cau (tao)...và gọi người đối thoại bằng những từ tương ứng với cách xưng của mình.

2.2.4. ĐẠI TỪ NGÒ.

Ngò là đại từ nhân xưng gốc Hán được người Nùng sử dụng thành thục lâu đời trong

mối tương liên với đại từ nì ở ngôi thứ hai. Đại từ Ngò thường được sử dụng để xưng hô

giữa những người có vị thế ngang bằng nhau như bạn bè, vợ chồng. Vì có sắc thái thân mật,

gần gũi nên đại từ ngò được dùng rộng rãi trong hôàn cảnh giao tiếp formal và informal

Vai vợ chồng :

Ngò pay háng nì còi lục hả

(Tôi đi chợ em (anh) trông con nhé)

Vai bạn - bạn

Ni pay háng xáu ngò mí ?

67

(Bạn đi chợ với tôi không ?)

Vì được các cặp vai ngang bằng sử dụng nên tính quyền uy (Power) không chi phối tới

cặp từ xưng hô ngò – nì. Nghĩa là cặp từ xưng hô ngò - nì được vai người nói, người nghe

luân phiên sử dụng - chúng mang tính hai chiều. Tính cặp đôi của ngò - nì khác với tính cặp

đôi của cau - mưng (tính cặp đôi của cau - mưng chúng tôi sẽ nói ở phần sau).

Nhân đây, cũng có thể nói ngay rằng, đặc điểm giới tính cũng chi phối tới cách dùng

cặp từ xưng hô cau - mưng và cặp từ xưng hô ngò - nì trong tiếng Nùng.

Người Nùng có tập quán kết bạn, gọi là lạo tùng. Lạo có nghĩa là ông, lão ... chỉ người

đàn ông. Như thế, tục kết bạn chỉ có ở những người nam giới. Dĩ nhiên không phải các cặp

bạn nam nào cung kết nghĩa lạo tùng với nhau. Khi đã là lạo tùng thì họ coi nhau như anh

em ruột thịt, việc hiếu (ma chay, mo, then), việc hỉ (cưới hỏi, mừng thọ, mừng nhà mới) đều

có nhau. Trong ứng xử ngôn ngữ, chẳng hạn như trong xưng hô, những người lạo tùng

thường xưng ngò – nì với nhau một cách thân ái.

Đối với những cặp bạn nữ thì không có tục kết bạn như ở nam giới. Bởi vì, con gái lớn

lên thì lấy chồng, theo chồng về bản làng mới. Theo năm thâng, tình thân hữu với những

người bạn từ thời ấu thơ cũng nhạt dần. Điều đó cũng để lại những dấu ấn trong ứng xử

ngôn ngữ. Trong xưng hô, khi những cặp bạn nữ thường xưng cau - mưng với nhau thường

mang sắc thái suồng sã (tuy nhiên cũng không thể phủ nhận sắc thái gần gũi, thân mật trong

cách xưng hô này ở những cặp bạn nữ người Nùng).

Như vậy, đặc điểm giới tính chi phối tới cách dùng cặp đại từ xưng hô cau - mưng,

ngò - nì chính là bắt nguồn từ tập quán, văn hôá của người Nùng.

Nhân tố tuổi tác cũng chi phối tới cách dùng hai cặp đại từ cau - mưng, ngò - nì trong

quan hệ vai vợ - chồng người Nùng. Vợ - chồng người Nùng khi còn trẻ mới xưng ngò - nì

với nhau. Đây là lối xưng hô hết sức thân mật. Khi về già, họ lại xưng cau – mưng chứ

không xưng ngò - nì . Đặc biệt, ở những cặp vợ chồng trẻ, còn bố mẹ già (nhất là trước mặt

mẹ của mình), họ không được phép xưng cau – mưng với nhau. Trong một tình huống (lúc

còn trẻ hay khi về già), vợ - chồng người Nùng xưng cau - mưng hay ngò - nì với nhau

thường biểu thị thái độ gần gũi, thân mật. Điều này hôàn toàn khác với người Việt. Ở vợ -

chồng người Việt, "Khi xung đột vừa phải, thường vợ chồng hay xưng tôi => cô , anh =>

tôi. Còn khi xung đột lên đỉnh điểm, người ta hay đùng hai đại từ dân dã nhất mà tệ hại nhất

trong giao tiếp vợ chồng là gọi mày xưng tao chô cả hai phía vợ hôặc chồng, kèm với những

68

lời lẽ thôá mạ nhau hết sức quá đáng mà lúc khác, ngay chính họ cũng không muôn nghe lại

" [46, 46].

Trong quan hệ vai giữa anh, chị và em người Nùng, (khi còn trẻ) cặp đại từ cau -

mưng, ngò - nì thường xuyên được sử dụng.

Tóm lại, cũng như tiếng Việt, những đại từ xưng hô ngôi thứ nhất, so ít trong tiếng

Nùng là kết quả của sự tự qui chiếu của người nói.

Trong tiếng Nùng, dùng đại từ để tự xưng trước người đối thoại phụ thuộc rất nhiều

vào các nhân tố như ngữ cảnh giao tiếp (informal, formal), phạm vi giao tiếp (gia đình, xã

hại), tuổi tác, giới tính ... của nhân vật hội thoại.

Đại từ xưng hô ngôi thứ nhất, số ít trong tiếng Nùng có sự chuyên biệt hôá rất cao về

vị thế của người sử dụng và phạm vi sử dụng. Đó là trường hợp của hai cặp đại từ lại và

khỏi lại. Như chúng tôi đã trình bày, lại là đại từ để những người ít tuổi tự qui chiếu, tự định

vị trước người cao tuổi. Khỏi lại là đại từ để những người cao tuổi xưng với người ít tuổi

(trong trường hợp người ít tuổi có chức sắc). Hai đại từ lại và khỏi lại thường chỉ dùng trong

xưng hô ngoài xã hội.

Có thể nói, lại và khỏi lại là hai đại từ dùng để tự xưng trong giao tiếp ngoài xã hội với

sắc thái lịch sự, văn hôá của người Nùng. Đây cũng là điểm khác biệt giữa những đại từ

xưng hô ngôi thứ nhất, số ít của tiếng Nùng và tiếng Việt. Ở tiếng Việt, không có đại từ nào

có tính chuyên biệt về vị thế và phạm vi sử dụng như hai đại từ lại và khỏi lại của tiếng

Nùng.

2.3. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ NGÔI THỨ HAI SỐ ÍT.

Đại tù xưng hô ngôi thứ hai, số ít kết quả của sự qui chiếu của người nói tới người

được nói với Tiếng Nùng có ba đại từ nhân xưng biểu thị ngôi thứ hai, số ít là mưng, nì,

cau.

Gọi người đối thoại bằng đại từ nào phụ thuộc rất nhiều vào ngữ cảnh giao tiếp, vào

tuổi tác, giới tính ... của người được gọi. Bảng 4 sau đây sẽ trình bày những nhân tố chi phối

cách dùng đại từ ngôi thứ hai số ít trong tiếng Nùng.

69

70

2.3.1. ĐẠI TỪ MƯNG

Xưng và hô luôn có tính tương liên chặt chẽ. Xưng như thế nào thì phải có từ để gọi

tương ứng. Trong tiếng Nùng, khi ngôi thứ nhất tự xưng là cau thì sẽ gọi ngôi thứ nhất là

mưng. Có hai loại quan hệ vai dùng đại từ mưng để trỏ người đối thoại.

Thứ nhất, trong quan hệ phi đối xứng, người ở vị thế cao dùng mưng để trỏ người ở vị

thế thấp hơn mình. Chẳng hạn như cha mẹ, ông bà, chú bác...gọi con cháu (phạm vi gia

đình) . Ngoài xã hội, những người cao tuổi dùng mưng để gọi người ít tuổi. Do đó, phạm vi

sử dụng của đại từ mưng có tính lưỡng vi - dùng trong gia đình và ngoài xã hội. Trong quan

hệ vai giữa người trên và kẻ dưới, tính cặp đôi của đại từ cau - mưng là một chiều. Nghĩa là

vai trên, người có quyền uy (Power ) tự xưng là cau và gọi người đối thoại là mưng. Ngược

lại, người có vị thế thấp không thể dùng cặp đại từ này xưng hô với người có vị thế cao hơn

mình. Lúc này, tùy vào mối quan hệ giữa mình và người được gọi mà người ở vị thế thấp có

thể dùng đại từ lại hay các danh từ khác để xưng hô chô thích hợp. Người ở vị thế cao dùng

mưng để trỏ người ở vị thế thấp thường mang sắc thái suồng sã. Vì thế, khi người đối thoại

chưa có con (còn trẻ) người lớn tuổi mới dùng mưng để gọi họ. Ví dụ:

- Pá mưng dú lùn mí ?

(Bố mày ở nhà không ?)

- Mưng pay thắp vài váy.

(Mày đi tìm trâu đi.)

Trong ngữ cảnh giao tiếp không chính thức, không trang trọng (informal), người ở vị

thế cao mới gọi người ở vị thế thấp là mưng. Trong giao tiếp ngoài xã hội, để giữ phép lịch

sự, với những người ít tuổi nhưng chưa quen biết, người cao tuổi không dùng mưng mà

dùng các danh từ lan (cháu), noọng (em ) để gọi.

Thứ hai, trong quan hệ đối xứng, những người ở vị thế ngang bằng như bạn bè, vợ

chồng dùng mưng để trỏ người đối thoại với sắc thái thân mật, gần gũi. Ở loại quan hệ vai

ngang bằng, tính cặp đôi của đại từ cau - mưng là hai chiều. Nghĩa là người nói và người

nghe cùng luân phiên xưng và hô cau - mưng với nhau.

Có thể nói, cặp đại từ cau – mưng trong tiếng Nùng có tính khái quát cao. Cau – mưng

thường được dùng trong ngữ cảnh giao tiếp informal nhưng nhiều khi chúng cũng được

những người có vị thế ngang bằng sử dụng để xưng hô trong ngữ cảnh giao tiếp formal như

71

trong Sli, trong những lời tỏ tình của nam nữ. Dĩ nhiên trong trường họp này cuộc thoại đã

diễn biến theo chiều hướng xấu nên nhân vật hội thoại mới xưng cau – mưng một cách

suồng sả:

"Mưng vàm cau khỏi tảng sai mòi

Mưng vàm cau khỏi mì lăng khỏ

Cảm và xoi pèng pay mén đoi"

Tạm địch :

"Mày ca tao hát sự vui chơi

Mày ca tao hát gì mà khó

Bắt mày leo đồi mới khó thôi"

[96, 206]

Đối chiếu dại từ mưng trong tiếng Nùng với đại từ mày trong tiếng Việt, chúng ta thấy:

Mưng và mày cùng chỉ nhưng người có vị thế thấp hơn hôặc ngang bằng và cả hai đại

từ đều được sử dụng rộng rãi trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Mưng trong tiếng Nùng được sử dụng trong nhiều loại quan hệ vai như bạn bè, anh,

chị và em, vợ chồng ... Ngược lại, vợ chồng người Việt (xét về chuẩn mực) không thể dùng

đại từ mày để gọi nhau.

Đại từ mày của tiếng Việt chỉ được dùng trong ngữ cảnh giao tiếp không qui thức

(informal). Ngược lại, dùng đại từ mưng của tiếng Nùng được dùng cả hai ngữ cảnh giao

tiếp qui thức và bất qui thức. Dĩ nhiên, ở mỗi ngữ cảnh giao tiếp khác nhau, đại từ mưng sẽ

có sắc thái biểu cảm khác nhau.

2.1.2. ĐẠI TỪ NÌ.

Nì là đại từ nhân xưng gốc Hán, nằm trong mối tương liên với đại từ ngò ở ngôi thứ

nhất. đại từ nì được những người có vị thế ngang bằng như bạn bè, vợ chồng, anh chị và em

(khi còn trẻ)...dùng để xưng hô với nhau. Yếu tố tuổi tác cũng chi phối tới việc dùng đại từ

ngò – nì trong xưng hô giữa vợ và chồng ở người Nùng. Đại từ ngò – nì thường chỉ được

những cặp vợ chồng trẻ, chưa có con sử dụng.

72

Quan sát bảng 4, chúng ta thấy, phạm vi sử dụng của đại từ nì là cả trong gia đình

(giữa vợ chồng, anh chị và em) và ngoài xã hội (bạn bè). Đại từ nì cũng được sử dụng rộng

rãi trong cả hai hôàn cảnh giao tiếp informal và formal với sắc thái thân mật, gần gũi. Nói

cách khác, tính qui thức và bất qui thức của hôàn cảnh giao tiếp hầu như ít tác động tới cách

dùng đại từ nì.

Với sắc thái lịch sự, thân mật nên đại từ nì cũng thường xuyên được sử dụng trong dân

ca, sli của người Nùng. Ví dụ :

"Cằm kin xái sló mà phúng noọng

Slí ngò lao tú kháo thung nì"

(Tối nay thật may mắn gặp em đển

Chắc hẳn đời anh nhớ tới em) [96, 221].

Đại từ nì có thể kết hợp với danh từ chỉ quan hệ thân tộc để nhấn mạnh người được

gọi. Ví dụ:

- "Dòm hăn fạ ái slủng fi

Noọng nảy mì vàm slăng có nì"

(Thôáng trông trời sắp sáng rồi

Em muốn nhắn anh một đôi lời ) [134, 138]

- Ít mà ti quỉn pài sli nảy

Dì mà ti quỉn có làng nì

( Một là bài sli em cuộn lại

Hai là ta cuộn lấy anh thôi) [134, 83] .

Quan sát cách sử dụng đại từ nì trong xưng hô hàng ngày cũng như trong văn học (dân

ca) của người Nùng, chúng tôi chô rằng, đại từ nì vừa có nghĩa là cậu, bạn vừa có nghĩa là

anh (giống đực), là em (giống cá ). Trong phạm vi những người có vị thế ngang bằng, chức

năng chiếu vật của đại từ nì trong tiếng Nùng gần như chức năng chiếu vật của đại từ You

trong tiếng Anh. Trong nhiều trường hợp đại từ nì mang sắc thái suồng sã, mất lịch sự. Đó

là khi người nói tức giận. Lúc này, đại từ nì có sắc thái gần với đại từ mày của tiếng Việt. Ví

dụ :

73

- Mé nì, chảng mai mí pay chử mí ?

(Mẹ mày, bảo mai không đi phải không ?)

2.3.3. ĐẠI TỪ CAU

Nếu như đại từ cau ngôi thứ nhất, số ít có thể chuyển dịch tương đương với đại từ tao

ngôi thứ nhất, số ít của tiếng Việt thì ở ngôi thứ hai, số ít đại từ cau tiếng Nùng không có

tương đương trong tiếng Việt. đại từ cau ngôi thứ hai dùng để trỏ những người lớn tuổi đáng

kính trọng. Sự khác biệt giữa đại từ cau ngôi thứ nhất và đại từ cau ngôi thứ hai là ở phạm

vi sử dụng, vai sử dụng và sắc thái biểu cảm.

Xét phạm vi sử dụng nên ở ngôi thứ nhất đại từ cau có tính lưỡng vi (vừa dùng trong

gia đình vừa dùng ngoài xã hội) thì ở ngôi thứ hai đại từ cau chỉ được dùng trong giao tiếp

ngoài xã hội. Bởi lẽ người Nùng luôn có xu hướng xưng hô đúng chức vị với những thành

viên trong gia tộc. Để chỉ nhưng người có tuổi trong gia tộc, người Nùng luôn dùng những

danh từ thân tộc như cúng (ông), má (bà), de (báu trai), mú (bác gái), xúc (chú) khám (mợ)

... để biểu thị đúng mối quan hệ giữa người xưng và người gọi - đây là quan hệ thân tộc. Do

vậy, tuy đại từ cau ngôi thứ hai dùng để gọi người lớn tuổi với sắc thái kính trọng nhưng

không biểu thị được mối quan hệ thân tộc nên không được dùng để xưng hô trong gia tộc.

Xét về vai sử dụng, đại từ cau ngôi thứ hai chỉ được những người ít mối dùng để gọi

những người cao tuổi. Nói cách khác, đại từ cau qui chiếu tới những người cao tuổi.

Xét về sắc thái biểu cảm, dù ở ngữ cảnh giao tiếp qui thức hay không qui thức, đại từ

cau biểu thị thái độ kính trọng của người ít tuổi với người cao tuổi.

Đại từ cau ngôi thứ hai có hình thức giống đại từ cau ngôi thứ nhất. Tuy nhiên, đại từ

cau ở hai ngôi lại có nhiều nét khác nhau. Nhận xét về sự khác biệt giữa đại từ cau ngôi một

va cau ngôi hai, Mông Kí Slay viết ".. Có thể từ xa xưa cau ở hai ngôi này vốn cùng một

gốc, đều mang sắc thái lịch sự. Nhưng trong qúa trình phát triển, ngôi thứ nhất được bổ sung

các đại từ chỉ sắc thái lịch sự (lại, khói lại) mà ngôi hai không có đại từ chỉ lịch sự tương

ứng, do vậy cau ở ngôi thứ hai vẫn giữ đậm nét sắc thái lịch sự chô tới nay. Trong khi đó,

cau ở ngôi thứ nhất không còn giữ được nguyên vẹn nét lịch sự ban đầu nữa” [93, 85].

Khi đã gọi người đối thoại là cau thì người gọi thường tự xưng là lại. Ví dụ:

74

- lại cháng cau * tính đáy mí ?

(Cháu nói ông nghe được không ?)

- Can * đáy kỉ lai pi đá ?

(Bà được bao nhiêu tuổi rồi ? )

* (Từ dịch không có nghĩa tương đương)

Chính nhờ giá trị biểu cảm của đại từ lại ngôi ngôi thứ nhất và đại từ cau ngôi thứ hai

nên cặp đại từ xưng hô lại - cau được dùng như là cặp từ xưng lịch sự nhất giữa người ít

tuổi và người cao tuổi trong quan hệ xã hội của người Nùng. Tính cặp đôi của hai đại từ lại

và cau là một chiều. Nghĩa là người ít tuổi xưng là lại và gọi người cao tuổi là cau. Người

cao tuổi tự xưng là cau (ngôi thứ nhất) hay xưng bằng danh từ thân tộc như cúng (ông), má

(bà) , dé (bác), xúc (chú) ... và gọi người ít tuổi hơn mình là lan (cháu), hay bằng đại từ

mưng ( mày ) ngôi thứ hai, số ít ...

Các đại từ nhân xưng ngôi thứ hai luôn nằm trong thế tương liên với các đại từ nhân

xưng ngôi thứ nhất như cau (ngôi 1) - mưng (ngôi 2), ngò (ngôi 1) - nì (ngôi 2), lại (ngôi 1)

- cau (ngôi 2). Các cặp đại từ này được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp ngoài xã hội cũng

như trong gia đình của người Nùng. Chúng được dùng ở tất cả các loại quan hệ vai như vợ -

chồng, cha, mẹ - con , anh, chị - em, bạn - bạn ... với tất cả các sắc thái tình cảm như lịch sự,

thân mật, gần gũi hôặc suồng sã, xa cách.

2.4. ĐẠI TỪ XƯNG HÔ LƯỠNG NGÔI

Ở tiếng Việt cũng như tiếng Nùng, có những đại từ vừa trỏ ngôi thứ nhất vừa trỏ ngôi

thứ hai hôặc vừa trỏ ngôi thứ nhất vừa trỏ ngôi thứ ba. Chúng ta gọi đó là những đại từ nhân

xưng lưỡng ngôi. Tuỳ vào sự tự qui chiếu của người nói hay sự qui chiếu của người nói tới

người được nói với hôặc qui chiếu tới người được nói tới trong cuộc hội thoại chúng ta mới

có thể xác định đại từ đang được dùng ở ngôi thứ nhất, thứ hai hay thứ ba. Trong tiếng

Nùng, ba đại từ có tính lưỡng ngôi là cau, làu, hàu. Đại từ cau, chúng tôi đãi miêu tả ở

những phần trước. Mục này, chúng tôi miêu tả hai đại từ làu, hàu.

2.4.1. ĐẠI TỪ LÀU

Đại từ làu thường được sử dụng trong những quan hệ vai có vị thế ngang bằng như

bạn bè. Đại từ làu tiếng Nùng có thể chuyển dịch tương đương với từ mình trong tiếng Việt.

Tuy nhiên, có sự khác biệt cơ bản giữa làu trong tiếng Nùng và mình trong tiếng Việt.

75

Thứ nhất, trong giao tiếp, vợ chồng người Việt có thể dùng từ mình để xưng hô với

nhau một cách thân mật như trong các phát ngôn :

- Mình này, mai chủ nhật vợ chồng mình về quê nhé.

- Mai mình có đi thăm bác Lan không ?

Ngược lại, đại từ làu không được vợ chồng người Nùng sử dụng để xưng hô với nhau.

Thứ hai, từ mình trong tiếng Việt dù ở ngôi thứ nhất hay ngôi thứ hai thường mang sắc

thái thân mật gần gũi giữa những người có vị thế ngang bằng. Nói cách khác, hầu như

không có sự khác biệt giữa mình ngôi 1 và mình ngôi 2. Trái lại, trong tiếng Nùng có sự

khác biệt giữa làu ngôi 1 và làu ngôi 2.

Đại từ làu ở ngôi thứ nhất dùng để tự xưng với sắc thái thân mật gần gũi và khiêm tốn.

Ví dụ:

- Làu pay au fưn ma

(Mình di lấy củi về)

- Vằn náy làu mí đáy váng.

(Hôm nay mình không được rỗi)

Ở ngôi thứ hai, số ít đại từ lớn thường biểu thị thái độ bất bình, tức giận. Lúc này, sắc

thái và ý nghĩa của làu (mình) có thể chuyển dịch thành mày. Ví dụ:

- Đăm làu pay đáy mí ?

(Tối mình (mày) có đi được không ?)

- Cau mí kin đáy, làu kin đáy mí ?

(Tao không ăn được, mình (mày) ăn được không ?)

Trong nhiều trường hợp, đại từ làu mang ý nghĩa bao gộp: vừa trỏ ngôi thứ nhất vừa

trỏ ngôi thứ hai. Ví dụ :

Pjạc càu noọng slắng có ăn vàm

Tò pjức căn mừ nái thủn đang

Hì kha ti phjái cúng nàn càm

(Chia tay em nhắn đôi lời

76

Xa nhau chô tan nát lòng tôi

Người ta lìa chết, mình há sống

Mỗi bước chân xa chẳng muốn rời)

[96, 226]

Ý nghĩa bao gộp được biểu thị tường minh hơn khi đại từ làu có từ sloong (hai) đứng

trước. Ví dụ:

"Sloong làu sli xứng pjot khưn chang

Tài cha sli bó noi làng vàm

(Đôi ta sli đã tàn canh

Cùng nhau sli hái hết lòng thành)

[96, 261]

Để nhấn mạnh (chỉ rỏ) người được gọi, đại từ làu thường đứng sau các danh từ thân

tộc tạo thành các cụm từ như có làu, noọng làu. Ví dụ:

"Căm náy slụp peng chỉ cúc sau

Có chinh chăn slim tụng noọng làu"

(Chiều tôi gặp em tại góc sau

Anh chính thực tâm chào em mình)

[96, 214]

Như vậy, đại từ làu trong tiếng Nùng vừa biểu thị số ít, vừa biểu thị số nhiều. Làu vừa

dùng để trỏ bản thân người nói (ngôi thứ nhất) vừa dùng để trỏ bản thân người nghe (ngôi

thứ hai) và dùng với ý nghĩa bao gộp - cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai. Sắc thái biểu cảm

của đại từ làu phức tạp hơn từ mình của tiếng Việt. Đại từ làu ở ngôi thứ nhất thường mang

sắc thái thân mật. Ở ngôi thứ hai đại từ làu lại mang sắc thái giận dữ, bất bình.

Vì có sắc thái thân mật, gần gũi pha chút nhẹ nhàng nên trong nhiều tình huống giao

tiếp, người Nùng thường dùng đại từ làu ngôi thứ nhất, số ít để diễn tả vị thế của mình và

“tranh thủ” cảm tình của người đối thoại như trong phát ngôn sau:

- Có ạ, cừn làu thun nè.

77

(Anh ạ, người mình cả thôi mà)

Cừn làu nghĩa là người mình - người dân tộc mình. Với người Nùng hai tiếng cừu làu

là hai tiếng gần gũi, thân thương.

2.4.2. ĐẠI TỪ HAU

Đại từ hau vừa dùng để trỏ người nói - ngôi thứ nhất, số ít vừa dùng trỏ người được

nói tới trong cuộc thoại – ngôi thứ ba, số nhiều.

Với ý nghĩa là đại từ ngôi thứ nhất, hau dùng để tự xưng trong quan hệ bạn bè thân

mật ở hôàn cảnh giao tiếp informal. Ví dụ:

Hau mi pay, cháng lang mai

(Người ta không đi nói gì mãi)

Hau nu nà, tham lang

(Người ta không biết hỏi gì)

Với sắc thái giận hờn, nhấm nhẳng hau thường được những người phụ nữ dùng để

xưng với người yêu hay chồng của mình (khi vợ chồng còn trẻ).

Trong trường hợp trỏ người ở ngôi thứ ba, số nhiều đại từ hau có sắc thái biểu cảm

trung tính. Ví dụ:

“Xáu cừn hau slén pìn slung pau

Lứn làu dú léng mọi cừu khu”

(Cùng lớp người ta thành đôi lứa

Sót lại mình anh người cưởi chê)

[96,212]

Kết luận chương 2 : Các tù chỉ xuất này, đây, đấy ... của tiếng Việt có thể dùng làm từ

xưng hô trong các phát ngôn như "Đây nói chô mà biế" hay "Đằng ấy đi đâu mà vội thế

?".Trong câu ca dao sau, các từ chỉ xuất được sử dụng như đại từ nhân xưng.

Đấy vàng đây cũng đồng đen

Đấy hôa thiên Lý đây Sen Tây Hồ

78

Ở tiếng Nùng, các từ chỉ xuất không được dùng là từ xưng hô. Chúng thường đứng sau

các danh từ chỉ người (hay vật) để trỏ người (hay vật) được nói tới như có níng (anh ấy), lạo

níng (ông ấy), tu nảy (con này), ke nảy (già này)...

Từ những điều phân tích, miêu tả (với các ví dụ cụ thể) , chô phép chúng ta rút ra

những nhận xét về hệ thống đại từ xưng hô của tiếng Nùng như sau:

Thứ nhất, trong hệ thống đâị từ xưng hô chuyên dùng của tiếng Nùng, ngoài hai từ gốc

Hán (ngò, nì), chủ yếu là các đại từ xưng hô thuần Nùng. Cũng như tiếng Việt, hệ thống đại

từ xưng hô chuyên dùng của tiếng Nùng không nhiều nhưng với số lượng có hạn, hệ thống

đại từ xưng hô của tiếng Nùng có thể diễn tả đầy đủ các cung bậc tình cảm của hôạt động

giao tiếp bao gồm các phạm trù thân mật, lịch sự, hôặc suồng sã.

Thứ hai, đối chiếu với các đại từ xưng hô của tiếng Việt, các đại từ xưng hô của tiếng

Nùng có tính khái quát cao hơn do được sử dụng ở nhiều cặp vai giao tiếp khác nhau. Chẳng

hạn như cặp đại từ cau - mưng tiếng Nùng không những được bề trên dùng để xưng hô với

bề dưới mà cau - mưng còn được các vai ngang bằng như vợ-chồng dùng để xưng hô với

nhau. Trong khi đó, cập đại từ mày - tao của tiếng Việt không thể coi là chuẩn mực nếu

dùng để xưng hô trong quan hệ vai vợ - chồng.

Nhân tố giới tính hầu như không chi phối tới cách dùng đại từ nhân xưng tiếng Việt.

Ngược lại, trong tiếng Nùng khi dùng cặp đại từ nhân xưng ngò – nì, cau - mưng thường

phải tính tới nhân tố giới tính của người dùng.

Thứ ba, một điều dể nhận thấy là trong hệ thống đại từ xưng hô tiếng Việt không có

đại từ nào có tính chuyên dùng trong quan hệ vai giữa người ít tuổi với người cao tuổi và

ngược lại, giữa người nhiều tuổi với người ít tuổi như các từ lại, khói lại, (ngôi 1) và cau

(ngôi 2) của tiếng Nùng. Tính chuyên biệt của các đại từ lại, khói lại, cau còn thể hiện ở

phạm vi sử dụng - chúng thường chỉ được dlùng trong xưng hô ngoài xã hội.

Thừ tư, các đại từ ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai luôn kết hợp với nhau tạo thành cặp từ

xưng hô như cau (ngôi 1), mưng ( ngôi 2), ngò (ngôi 1), nì (ngôi 2), lại (ngôi 1), cau (ngôi

2). Các đại từ lưỡng ngôi như hau, làu không có lính cặp đôi. Nghĩa là trong hệ thống đại từ

nhân xưng không có từ nào thường xuyên kết hợp với chúng để tạo thành cặp từ xưng hô

như các đại từ ngôi 1 và ngôi 2.

79

Cuối cùng, điều cần khẳng định là chính những giá trị biểu cảm phông phú, phạm vi sử

dụng rộng rãi cùng tính chuyên biệt hôá rất cao nên hệ thống đại từ xưng hô tiếng Nùng đã

mang lại chô người Nùng những cách xưng hô lịch sự, văn hôá đậm đà bản sắc dân tộc.

80

CHƯƠNG 3: CÁCH XƯNG HÔ BẰNG DANH TỪ THÂN TỘC

TRONG TIẾNG NÙNG

Nói tới các cách xưng hô trong gia tộc (cũng như ngoài xã hội) là phải nói tới cách

dùng các đại từ nhân xưng, các danh từ thân tộc, các cách gọi kèm, gọi thay vai ...nhưng vì

chúng tôi đã dành một chương (chương 2) nói về cách dùng đại tù nên ở chương này, để

tránh trùng lặp, chúng tôi không nói tới cách dùng đại từ nữa. Tuy nhiên, trong một số quan

hệ vai ở một số trường hợp cụ thể, cách dùng đại từ để xưng hô vẫn được bàn tới một cách

kỹ hơn.

Như vậy, ở chương nay chúng tôi chủ yếu nghiên cứu các cách xưng hô theo từ chỉ

quan hệ trong gia tộc người Nùng. Nghiêu cứu các cách xưng hô trong gia tộc người Nùng,

chúng lôi lần lượt tìm hiểu cách xưng hô trong từng loại quan hệ vai giao tiếp như xưng hô

giữa vợ và chồng giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị va em, giữa dâu rể và các thành viên

trong gia tộc...Qua việc nghiên cứu cách xưng hô theo từng quan hệ vai giao tiếp, chúng tôi

hy vọng sẽ giới thiệu được bức tranh sinh động, khái quát và cũng rất cụ thể về cách xưng

hô trong gia tộc người Nùng.

Xét về số lượng, các danh từ thân tộc được dùng làm từ xưng hô trong tiếng Nùng lớn

hơn tiếng Việt. Nghĩa là trong tiếng Việt, ở nhóm từ này có những từ không thể dùng làm từ

xưng hô. Ngược lại, trong tiếng Nùng những từ đó lại được sử dụng làm từ xưng hô với

những nguyên tắc sử dụng chặt chẽ. Đồng thời giữa những từ tương đương ở hai hệ thống

lại có những cách sử dụng cũng như những kết cấu xưng hô và sắc thái biểu cảm khác nhau.

Sau đây là bảng danh sắch các danh từ được dùng làm từ xưng hô trong quan hệ gia tộc

người Nùng.

81

82

3.1. XƯNG NOỌNG (EM) TRONG GIA TỘC NGƯỜI NÙNG

Cũng như ở người Việt, trong gia tộc người Nùng, lục (con) xưng với pá, me (bố mẹ),

lan (cháu) xưng với cúng (ông) má (bà), xúc (chú) , na (dì)., và noọng xưng với có, ché

(anh, chị). Đó là kiểu xưng hô thuần tuý dân tộc học - phản ánh đúng mối quan hệ gia tộc

giữa các nhân vật hội thoại. Kiểu xưng hô trên là kiểu xưng hô mang tính chặt chẽ hay còn

gọi là kiểu xưng hô tương ứng chính xác. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau sẽ có

nhiều sự biến thiên trong cách xưng hô quanh cái chuẩn rất chung này.

Từ noọng (em) trong tiếng Nùng ngoài kiểu xưng hô tương ứng chính xác với có, ché

(anh, chị) như trong cách xưng em với anh, chị ở tiếng Viẹt còn có thể thay thế chô lan

(cháu) để xưng hô với cúng (ông) má (bà), xúc (chú), dê (bác Hai)... và thay thế chô lục

(con) để xưng hô với pá, mé (bố mẹ). Nghĩa là người ở vị thế thấp như con, cháu đều có thể

xưng noọng (em) với người ở vị thế cao như ông bà, cha mẹ, chú bác...đây là lối xưng hô

khá phố biến trong gia tộc người Nùng. Chúng tôi gọi cách xưng noọng như trên là kiểu

xưng đa hướng. Ví dụ:

Pá (bố) : Văn náy noọng pay au fun mí ?

(Hôm nay em đi lấy củi không ?)

Lục (con) : Noọng năng pay slon slư.

(Con còn đi học)

Cúng (ông) : Mưng mì fay mí ?

(Mày có điểm không?)

Lan (cháu) Noọng nu nu, cung ạ

(Em không có ông ạ )

Lan (cháu ) : Má hừ noọng xin nưng.

(Bà chô em một nghìn nào)

Má (bà) : Noọng au xen hít lang ?

(Em lấy tiền làm gì )

Quan sát bảng 5 và qua các cặp thoại ở ví dụ trên, chúng ta thấy, con, cháu xưng

noọng với bố mẹ, ông bà, chú bác ... và đến lượt mình, bố mẹ, ông bà ... cũng gọi con, cháu

83

của mình là noọng. .Như vậy, từ noọng vừa dùng để tự xưng (ngôi thứ nhất) vừa là từ để gọi

(ngôi thứ hai). Lối xưng hô này cũng mang tính thuận nghịch :

Noọng <-> pá mé, cúng má, xúc ...

Nghĩa là người con hôặc cháu tự xưng là noọng (em) và gọi bố mẹ là pá mé, ông bà là

cúng má ... Đến lượt mình, pá mé (bố mẹ), cúng má (ông, bà) cũng gọi con cháu mình là

noọng, (em).

Đối chiếu với kiểu xưng "em" trong tiếng Việt, chúng ta thấy, "con cháu" cũng có thể

xưng "em" với "ông bà", "cha mẹ", "chú bác" ... nhằm biểu lộ tình cảm thân mật, gần gũi

giữa các thế hệ. Ngược lại, người ở vị thế trên như "ông bà", "cha mẹ" ... Tuy có thể gọi con

cháu mình là "em". Vì thế , từ "em" dùng để xưng hô trong tiếng Việt cũng mang tính đa

hướng. Ở người Việt, khi con, cháu còn nhỏ tuổi mới xưng "em" với bố mẹ, ông bà.

Trong gia tộc người Việt, xưng gọi "em" là biểu thị sự âu yếm, thân thiết mong muốn

gần gũi hơn giữa các thế hệ. Trong hội thoại của người việt, chúng ta thường gặp những

phát ngôn như sau:

Trà Mi ơi, hôm nay ông đưa đi nhà trẻ nhé !

Ứ, em ứ đi đâu. Em ở nhà với ba cơ

Có thể nói, xưng "em" giữa các thành viên trong gia tộc người Việt thường mang dụng

ý tạo lập quan hệ. Vì thế của các nhân vật vẫn được giữ nguyên nhưng khôảng cách được

rút ngắn lại - gần gũi và thân mật hơn. Ngoài xã hội, chúng ta thấy những người ăn mày,

những người ở nông thôn lên thành thị rất hay xưng "em". Họ xưng "em" với cả những

người ít hơn họ nhiều tuổi. Cách xưng hô như vậy một phần là thể hiện sự khiêm tốn "xưng

khiêm, hô tốn" trong hội thoại. Nhưng có lẽ, quan trọng hơn, cách xưng hô của những người

này (nhất là những người ăn mày), là do họ ý thức về thân phận hèn mọn của mình: Thế

nên, họ xưng hô như vậy là nhằm tranh thủ tình cảm, sụ mủi lòng của người nghe. Ở phạm

vi gia đình và ngoài xã hội, cách xưng "em" trong tiếng Việt có sự khác nhau. Trong gia

đình, dùng từ "em" để xưng hô giữa những thành viên cùng huyết thống hôặc có quan hệ

thân thiết. Vì thế, lối xưng hô này thiên về tình cảm hơn là lí trí. Ngoài xã hội, với ý nghĩa

thâm xưng, từ "em" chủ yếu dùng để xưng. Lối xưng hô này nằm trong mục đích của người

nói - nó thiên về lý trí hơn là tình cảm. Ví dụ:

- Bác chô em hỏi đường về Cầu Giấy.

84

Tuy nhiên, từ "em" trong tiếng Việt cũng có khi dùng để hô như trong cách nói "cô em

ơi" hay "'thằng em ơi".

Chúng ta có thể nhận xét, khi sử dụng làm từ xưng hô từ "em" trong tiếng Việt cũng có

tính đa hướng nhưng tính đa hướng đó khác với tínhđa hướng trong kiểu xưng noọng (em) ở

tiếng Nùng.

Thứ nhất, trong lối xưng hô này, người Việt chỉ gọi con cháu mình là "em", khi mà

con cháu của họ còn nhỏ tuổi, trước tuổi học đường nhằm thể hiện sự nựng nịu, âu yếm.

Trong khi đó, người Nùng dùng từ noọng để xưng hô chô đến khi người mang vai là noọng

có gia đình và con cái mới có thể chuyển sang lối xưng hô khác. Như vậy, dải thời gian sử

dụng của từ noọng trong xưng hô với các thành viên trong gia tộc dài hơn thời gian sử dụng

của từ em.

Thứ hai, tính đa hướng của từ "em" trong tiếng Việt khi được dùng làm từ xưng hô -

xưng hô trong gia tộc và ngoài xã hội - thường mang dụng ý tạo lập quan hệ. Vì thế, xưng

"em" trong tiếng Việt mang tính đa hướng lâm thời. Trong khi đó cách xưng hô noọng trong

tiếng Nùng ngoài mục đích tạo lập quan hệ - rút ngắn khôảng cách giữa các thệ hệ - nó còn

thể hiện tâm lý, tín ngưỡng của người Nùng. Nghĩa là trong nhiều trường họp, người con bắt

buộc phải xưng noọng (em) trước cha mẹ mình (ở phần sau, trong mục Xưng hô giữa cha

mẹ và con cái trong gia đình người Nùng chúng tôi sẽ nói rõ điều này).Vì thế, từ noọng

trong tiếng Nùng mang tính đa hướng chính thống. Do đó, dải thời gian sử dụng từ noọng

trong xưng hộ với các thành viên trong gia tộc dài hơn thời gian sử dụng của từ em.

3.2. XƯNG HÔ GIỮA DÂU, RỂ VỚI CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA TỘC

NÙNG:

Những danh từ chỉ người như dâu, rể trong tiếng Việt không thể dùng làm từ xưng hô.

Những danh từ đó "chỉ có thể dùng với nghĩa gốc chứ không thể dùng làm từ hô gọi ..."

[13,153]. Danh từ dâu, rể trong tiếng Việt chủ yếu mang chức năng định danh, chức năng

miêu tả. Ở người Việt, các thành viên trong gia tộc khi gọi dâu, rể của mình thường gọi đích

danh người đó hay gọi bằng các danh từ thân tộc như anh, chị, chú, bác ... hôặc gọi theo cấu

trúc danh từ thân tộc + tên riêng của người dâu, rể đó như anh Đại, chị Ngân...Nghĩa là tuỳ

theo mối quan hệ và mức độ tình cảm giữa các thành viên giao tiếp mà chọn từ xưng hô chô

phù hợp.

85

Theo chuẩn mực thông thường, có lẽ ít gia đình người Việt nào lại gọi dâu, rể của

mình theo kiểu “dâu ơi, hộ mẹ một tay nào" hay "cháu rể viết hộ bà cái đơn nhé !"... Những

cách nói đó có lẻ chỉ gặp trong những câu vui đùa, nhận nhau chô thân mật. Ví dụ:

- Con dâu mẹ diện quá nhỉ ?

- Con rể tương lai đèo mẹ đi đằng này một tí nào.

Ngược lại, ở tiếng Nùng, trong gia tộc người Nùng, các từ lù (dâu), khui (rể) lại được

sử dụng làm từ xưng hô với những nguyên tắc xưng hô chặt chẽ.

Chúng tôi tìm hiểu cách xưng hô giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc người

Nùng ở hai giai đoạn: Xưng hô khi dâu rể chưa có con và khi dâu, rể đã có con. Bởi vì ở

mỗi giai đoạn sẽ có các cách xưng hô cũng như những nguyên tắt xưng hô khác nhau. Nói

cách khác, trước khi có con và khi có con là những nhân tố cơ bản chi phối cách xưng hô

giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc người Nùng.

3.2.1. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CHƯA CÓ CON.

Khi dân, rể chưa có con, người Nùng chủ yếu gọi con dâu, rể theo thứ bậc - thứ bậc

của người dâu, rể trong gia đình. Chẳng hạn, cha mẹ sẽ gọi con dâu cả là mé tài (dâu cả) gọi

con dâu thứ hai là mé dì (dâu hai). Cũng vậy, bố mẹ vợ gọi con rể theo thứ bậc như pó tài

(chồng của con gái -nếu anh ta là con cả trong gia đình).

* Nghĩa gốc của từ pó mé là vợ chồng. Nhưng trong quá trình sử dụng, tuy vào từng tổ

hợp từ và ở những hôàn cảnh cụ thể mà từ pó mé có những ý nghĩa khác nhau. Ví dụ:

Pó khưu: chàng rể Mé lù: nàng dâu

Pó tài: rể cả Mé tài: dâu cả

Pó Báo: bố thằng Báo Mé Báo: mẹ thằng Báo

Pó dé: ông bác Mé pú: bà bác

Pó mòi: ông mối Mé mòi: bà mối

Như vậy, danh từ pó mé tiếng Nừng là những danh từ đa nghĩa. Tuy nhiên, ý nghĩa chỉ

giống bao giờ cũng là ý nghĩa cố định của hai danh từ này : Pó - giống đực, Mé - giống cái.

Điểm mốc để gọi dâu, rể theo thứ bậc là căn cứ vào thứ bậc của người con trai (người

chồng) trong gia đình họ. Ví dụ:

86

- Mé tài ná mé dì pay cau mí ?

(Dâu cả biết vợ thằng hai đi đâu không ?)

- Mé slam slư tu mu náy kí lai xèn ?

(Dâu ba mua con lợn này bao nhiều tiền).

- Pó dì kin slèng bắn ?

(Rể hai ăn sáng chưa ?)

- Pó tài dú náy kin ngài há.

(Rể cả ở đây ăn cơm nhé .)

Có thể nói, cách gọi này không những làm bộc lộ vị thế, thứ bậc của nàng dâu, chàng

rể trong gia đình mà còn nhằm để khẳng định vị trí và trách nhiệm trong gia đình của mỗi

người con dâu, con rể. Sự khu biệt nay có lẽ cũng không nằm ngoài mục đích là xác định

phát ngôn đang hướng về ai trong trường hợp cùng lúc hai hôặc ba người con dâu ( hay con

rể) hiện diện trước cha mẹ.

Cách gọi dâu, rể theo thứ bậc là lối xưng hô truyền thống của người Nùng. Do đó,

cách gọi này thường xuyên được sử dụng.

Trong nhiều trường hợp người Nùng gọi dâu, rể của mình theo địa danh của họ - địa

danh cư trú của người dâu, rể đó. Chẳng hạn, người dâu (hôặc rể) ở bản Nà Tình thì người

Nùng có thể gọi dâu, rể mình theo cấu túc : Pó (rể) + Nà Tình (địa danh ), mé + Nà Tình

(địa danh). Ví dụ :

- Váy, pó Nà Tình pay đăm nà mừ á ?

(Này, rể Nà Tình đi cày về đấy à)

- Mé Nà Tình khai đáy lai láu mí ?

(Dâu Nà Tình bán được nhiều rượu không)

Cách gọi này thường mang sắc thái hết sức dân dã và có phần suông sã.

Ở phương ngôn Quỳnh Lưu (Nghệ An), người Việt cũng có cách gọi những người

chưa có con bằng các từ như anh đó, chị đó. Ví dụ :

-Đó Mai ơi, chồng mày về kìa.

87

Cách gọi này giúp người ngoài cuộc biết người được gọi đã có chồng nhưng chưa có

con để có thể có những ứng xử thích hợp với nhau.

Đối với người Nùng, khi tự xưng trước cha mẹ chồng (hôặc vợ) con dâu, rể không

xưng lục (con) cũng không xưng bằng danh từ lù (dâu) khui (rể) mà chủ yếu dùng đại từ lại

với sắc thái trung hôà.-Ví dụ :

Mé (mẹ) : mé tài hăn lu vài làu mí ?

(Dâu cả thấy con trâu mình không ?)

Mé tài : Lại mí hăn, má a.

(Con không thấy, mẹ ạ )

Dâu, rể người Nùng lấy cách xưng hô của vợ (chồn ) để tự xưng trước cha mẹ chồng

(vợ) của mình. Chẳng hạn, người chồng xưng với cha mẹ anh ta là noọng thì người vợ cũng

có thể xưng noọng với cha mẹ chồng. Thông thường, con dâu hôặc rể thường xưng bằng đại

từ lại trước cha mẹ chồng hôặc vợ của mình.

Trong xưng hô, người Nùng có sự phân biệt giữa cha mẹ và con đẻ, cha mẹ (chồng,

vợ) với con dâu, rể. Nếu như con đẻ gọi cha mẹ là pá mé thì con dâu lại gọi bố mẹ chồng là

pà (bố) má (mẹ). Như vậy, ngay mối quan hệ (là con đẻ hay con dâu, rể) đã chi phối tới

cách xưng hô trong loại quan hệ vai này ở người Nùng.

Chúng ta có thể-căn cứ vào chế ước xã hội của người Nùng để giải thích hiện tượng

xưng hô trên. Ở người Nùng, bố chồng không bao giờ ngồi cùng mâm con dâu, không vào

buồng con dâu. Thậm chí, bố chồng cũng không bao giờ đưa một vật gì trực tiếp chô con

dâu. Những nguyên tắc chặt chẽ đó đã để lại dấu ấn trong ứng xử giữa con dâu và cha mẹ

chồng. Do vậy trong xưng hô (trong ứng xử ngôn ngữ) họ gọi bố mẹ chồng là pá, má và tự

xưng là lại thể hiện thái độ vừa khách khí vừa trang trọng, khuôn phép.

Cách xưng hô này hiện nay vẫn còn nhung chỉ gặp trong những gia đình vẫn giữ được

truyền thống của gia đình Nùng xưa kia. Hiện nay, con dâu người Nùng (khi chua có con)

thường gọi cha, mẹ chồng là pá, mé (bố, mẹ) - nghĩa là gọi theo cách của người chồng.

Khi cháu dâu, rể chưa có con, ông bà, chú bác, ... thường gọi cháu dâu, rể của mình

theo hai cách :

88

Thứ nhất, gọi cháu dâu, rể theo cấu trúc : danh từ thân tộc lan (cháu) + danh tù chỉ thứ

bậc tài (cả), dì ( hai ) slám (ba) ... Thứ bậc để xưng hô theo cấu trúc này là thứ bạc của

người cháu trai. Ví dụ:

- Tu ma nảy lan tài khai đáy kỉ lai xin ?

(Con chó này cháu cả bán được bao nhiêu tiền )

Lan dì pay háng xáu mú mí ?

(Cháu hai đi chợ với bác không ?)

Cháu dâu, rể cũng có thể sử dụng cấu trúc danh từ thân tộc lan (cháu) + danh từ thứ

bậc tài (cả), dì (hai)... để tự xưng trước ông bà, chú, bác.

Kiểu xưng hô này thường chỉ dùng trong nội bộ gia đình - khi các thành viên tự định

vị rõ ràng vị thế và quan hệ của mình với người đối thoại. Nếu trong nhà có khách lạ, ông

bà, chú bác sẽ gọi cháu dâu, rể của mình theo cách thứ hai như sau:

Thứ hai, ông bà, chú bác gọi cháu dâu, rể theo cấu trúc danh từ thân tộc lan (chán) +

danh từ lù (dâu) khui (rể) = lan lù (cháu dâu), lan khui (cháu rể ). Ví dụ :

- Cúng (ông) : Lan khui slư ăn náy kỷ lai xèn ?

(Cháu rể mua cái này bao nhiêu tiền ?)

- Má (bà) : Lan khui hứ má thưng chứ mí ?

(Cháu rể chô bà đường phải không ?)

Cú (cô) : Mử cau lan lu pay Hà Nội ?

(Bao giờ cháu dâu đi Hà Nôi ?)

Đây là lối xưng hô thuận nghịch, tượng ứng chính xác : ông bà, chú bác <-> cháu .

Do có danh từ dâu, rể đi sau danh từ chỉ quan hệ thân tộc lan (cháu) nên trong xưng hô

giữa ông bà, chú bác ... với các cháu trong gia tộc người Nùng có sự phân biệt giữa các cháu

trong nội tộc, cùng huyết thông với cháu dâu, rể không cùng huyết thống. Nghĩa là, nêu gọi

cháu nội hôặc cháu ngoại của mình, ông bà người Nùng thường dùng danh từ lan (cháu) để

gọi. Nhưng với cháu dâu, rể thì ông bà, chú bác ... thường gọi lõ là lan lù (cháu dâu), lan

khui (cháu rể). Đây là cách xưng hô trang trọng nên rất hay được dùng trong những hôàn

cảnh giao tiếp formal.

89

Trong quan hệ vai giữa anh, chị em với dâu, rể trong gia tộc người Nùng lại có những

cách xưng hô rất đặc biệt.

Trước hết, các em không gọi anh rể là khui (rể ) hay có (anh) mà gọi anh rể bằng danh

từ che fu. Ví dụ:

Noọng (em) : Fạ fưn pin náy pay hít cung mí chẻ fú ?

(Trời mưa thế này đi làm không anh rể ?)

Chẻ tú : Noọng dú lùn, chẻ fú pay đảy đá.

(Em ở nhà, anh rể đi được rồi).

Từ ché fú là từ biến âm của từ ché (chị) -> chẻ và fu (chồng) -> fú. Như vậy, ché fu có

nghĩa là chồng chị đã biến âm thành ché fu nhưng vẫn giữ nguyên nét nghĩa là chồng chị,

tức chỉ người anh rể.

Các anh, chị gọi em dâu, rể theo cấn trúc: danh từ thân tộc noọng (em) + từ chỉ thứ bậc

tài (cá) , dì (hai), slam (ba) = noọng tài (em cả), noọng dì (em hai ) ...

-Noọng dì mà hưng bắn ?

(Em hai về lâu chua ?)

- Noọng tài mì din mí ?

(Em cả có thuốc lá không ?)

Cấu trúc xưng hô này không phân biệt giới tính. Do đó, nếu muốn biết phát ngôn đang

hướng vào ai (ai là đích của phát ngôn) thì phải căn cứ vào nội dung của phát ngôn và sự

hiện diện cùng quan hệ của các nhân vật tham gia hội thoại. Dĩ nhiên, cấu trúc xưng hô này

chỉ dùng để gọi em dâu, rể. Trường hợp các em trong nội tộc sẽ có cách xưng hô khác.

(Xem phần sau).

Các em không gọi chị âu là lù (dâu) mà gọi là slảo cũng có nghĩa là dâu. Đồng thời, họ

gọi chị dâu của mình theo thứ bậc như tài slảo (chị dâu cả - vợ anh cả), dì slảo (chị dâu hai),

slám slảo (chị dâu ba) ... Ví dụ:

Noọng (em) : Tài Slảo hăn mé dú càu mí ?

(Chị dâu cả thay mẹ ở đâu không ?)

Tài slảo : Mé dú lừn ná mí chử á.

90

(Mẹ ở nhà dì không phải à)

Các danh từ tài slảo, dì slảo, slám slảo ... cũng được chị dâu sử dụng để tự xưng trước

các em của chồng. Có thể nói, cách gọi anh rể là ché fú và gọi chị dâu theo cấu trúc từ chỉ

thứ bậc + slảo của người Nùng làm bộc lộ lõ vị thế và mối quan hệ của các nhân vật hội

thoại.

Như vạy, khi dâu, rể chưa co con, tuỳ theo thứ bậc mà mỗi thành viên trong gia tộc có

cách gọi dâu, rể khác nhau nhằm bộc lộ đúng quan hệ (quan hệ gia tộc) giữa mình với

người dâu, rể đó. Những cách xưng hô này là nguyên tắc buộc mọi người phải tuân theo khi

giao tiếp. Tuy nhiên sẽ có những thay đổi trong xưng hô ở loại quan hệ vai này khi mà

người dâu, rễ có con.

5.2.2. XƯNG HÔ KHI DÂU, RỂ CÓ CON.

Khi dâu, rể có con, ông bà, chú bác... người Nùng sẽ gọi con (hôặc) cháu dâu, rể của

mình kèm theo tên con đầu lòng của người dâu rể đó (bất luận đứa con đầu lòng của họ là

nam hay nữ). Chẳng hạn, người dâu rể có con đầu lòng tên là Báo thì những người ở vị thế

trên như ông bà, cha mẹ, chú bác ... sẽ gọi con (hôặc cháu) dâu, rể mình là mé Báo (mẹ Báo)

pó Báo (bố Báo). Ví dụ :

- Cúng (ông): pó Báo pay cau đăm pịn náy ?

(Bố Báo đi đâu tối thế này ?)

pó Báo : Pay thăp vài, cúng ạ.

(Đi tìm trâu, ông ạ)

- Má (bà) Mẻ Báo còi lừn, cau pay háng

(Mẹ Báo trông nhà, tao đi chợ )

Mẻ Báo Má pay hưng mí ?

(Ba đi lâu không ?)

Như chúng tôi đã trình bày ở những phần trước, trong tiếng Nùng từ pó dùng để chỉ

người đàn ông - giống đực và từ mẻ dùng để chỉ người đàn bà - giống cái. Vì thể khi hai từ

pó, mẻ kết hợp với các danh từ chỉ người hay tên riêng để dùng làm từ xưng hô thì tùy theo

mối quan hệ giữa người xưng và người gọi mà chúng ta có thể hiểu và chuyển dịch từ xưng

hô đó theo những nghĩa khác nhau. Ví dụ :

91

Pó khui : con rể; mẻ lu : con dâu

Pó Báo : bố Báo; mẻ Báo : mẹ báo.

Trong gia đình người Việt, ông bà, cha mẹ, chú bác ... cung có thể gọi con, cháu dâu,

rể của mình kèm theo tên con đầu lòng của người dâu, rể đó. Ví dụ:

- Bố Hà dậy được rồi đấy.

- Mẹ Thanh nấu món gì đấy?

Cách xưng hô này của người Việt phần lớn được sử đụng trong những gia đình ở nông

thôn và một số gia đình ở thành thị vào giai đoạn trước của lịch sử. Hiện nay, kiểu gọi kèm

này chỉ thấy trong những gia đình ở nông thôn. Ở phương ngôn Nghệ An có từ để chỉ chung

người có con trai đầu lòng và từ để chỉ người có con gái đầu lòng. Đó là anh chắt - có con

trai đầu lòng, anh hôe - anh có con gái đầu lòng. Hai từ anh chắt, anh hôè đều được đùng

làm từ xưng hô. Ở nông thôn Thanh Hôá là các từ anh cò, anh cu- chỉ anh có con trai đầu

lòng và chị Hĩm - người có con gái đầu lòng.

Nếu như trong gia đình người Việt; việc gói kèm tên con của người dâu, rể mang tính

đơn lẻ, tùy theo từng gia đình, từng phương ngôn thì ở người Nùng, lối xưng hô này mang

tính xã hội cao - được cộng đồng người Nùng sử dụng rộng rãi trong gia tộc của mình. Theo

quan niệm của người Nùng, gọi kèm tên con của người đối thoại nhằm biểu thị người đó đã

có lộc (có hôa của trời) và cũng chứng tỏ người đó đã lên chức cha mẹ. Đồng thời, ở một

khía cạnh nào đó, cách gọi này ngầm nhắc nhở người được gọi luôn ý thức về vai trò cũng

như trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mình.

Thông thường, khi có con, vợ chồng người Việt gọi bố mẹ đẻ (và bố mẹ chồng) là ông,

bà. Đó là kiểu gọi thay ngôi - gọi thay ngôi của các con. Trong gia đình người Nùng cũng có

kiểu gọi thay ngôi như vậy. Con cháu sẽ gọi bố me chồng (và bố mẹ đẻ) là cúng (ông), má

(bà). Trong cách gọi thay ngôi, con rể gọi bố vợ là cúng ta (ông ngoại), gọi mẹ vợ là má tai

(bà ngoại). Ví dụ:

- Cúng ta (ông ngoại) : kí lục đích pay càu đá?

(Bọn trẻ đi đâu rồi ?)

Khui (rể) : Boong min pay líu đá, cúng ta à.

(Chúng đi chơi rồi ông ngoại ạ)

92

Khi em dâu, rể có con, anh chị (lúc này người anh hôặc chị cũng đã có con) thường

"mượn" vai của con mình để gọi em dâu, rể theo cấu trúc : danh tù thân tộc xẳm (thím) +

thứ bậc của người đó như dì xẳm (thím hai), slam xẳm (thím ba) ...Ví dụ :

- Dì xẳm mí pay háng á ?

(Thím không đi chợ á ?)

- Slam xẳm mà nhăm xa .

(Thím ba lại uống chè)

Trước các anh chị của mình, người mang vai là dâu, rể vẫn tự xưng là noọng (em),

hôặc bằng đại từ lại.

Trong trường hợp anh, chị dâu, rể có con mà các em chưa có con thì người em vẫn gọi

anh rể là ché fú, gọi chị dâu là tài slảo, dì slảo... Nhưng khi các em có con, họ sẽ lấy vai con

mình để gọi anh chị dâu, rể. Cách xưng hô này thường có cấu trúc dé (bác trai) + tên con

của người được gọi (tức con của dé-bác), mú (bác gái) + tên con của người được gọi. Ví dụ:

- Dé Khìu mì lai mèng thưng mí ?

(Bác Khìu có nhiều ong mật không?)

- Pay háng đay khai hàng hú mí mú Khìu?

(Đi chợ bán có đắt hàng không Bác Khìu?)

Khi có con, anh, chị dâu, rể cũng thường lấy vai con mình làm điểm gốc để gọi các

em. Trong cách gọi kèm ở loại quan hệ vai này thường thay cấu trúc : từ chỉ thứ bậc xúc

(chú ), cú (cô), khạu (cậu), ná (dì) + tên riêng của người được gọi. Ví dụ :

- Xúc Lợi kin kháu bắn?

(Chú Lợi ăn cơm chưa ?)

- Ná Sao còi lan hử ché fú há.

(Dì Sao trông cháu chô anh nhé)

Trường hợp các em có con, anh, chị dâu, rể gọi các em mình theo cấu trúc : danh từ

thân tộc (gọi thay vai con) xúc (chú), cú (cô), khạu (cậu), ná (dì) ...+ tên con của người được

gọi. Chẳng hạn, tên con người được gọi là Làn, anh, chị sẽ gọi các em theo lối gọi thay ngôi

là Xúc Làn (chú Làn), khạu Làn (cậu Làn), ná Làn (dì Làn) ... cách xưng hô này vừa tránh

93

gọi tên riêng của người đối thoại vừa làm thân thiết hôá mối quan hệ giữa các nhân vật hội

thoại (nhờ sử dụng các danh từ thân tộc). Đồng thời, cách xưng hô này làm bộc lộ rõ quan

hệ và vị thế của các nhân vật hội thoại- đó là nhưng người đã co con (do họ xưng hô thay

vai con).

Như vậy, kiểu gọi kèm (kèm tên con) và gọi thay vai là hai cách xưng hô thường được

sử dụng khi dâu, rể người Nùng có con. Cách xưng hô này làm bộc lộ vị thế của người được

gọi : đó là người dâu, rể trong gia tộc và đã có con.

Trong quan hệ gia tộc, người Nùng luôn xưng gọi (và yêu cầu phải xưng gọi) đúng

chức vị của mình trong mối quan hệ với các thành viên khác. Vì thế, ở phạm vi này xuất

hiện một số từ xưng hô hết sức độc đáo, mang đậm màu sắc văn hôá, phông tục tập quán

của người Nùng. Có thể miêu tả hai cụm danh từ cú chôòng (chồng cô) và dì chôòng (chồng

dì) để chứng minh chô luận điểm vừa nói trên.

Như chúng ta đều biết, ở tiếng Việt, danh từ chú rể không thể dùng làm từ xưng hô.

Danh từ chú rể trong tiếng Việt chỉ có chức năng miêu tả -chỉ người mang vai là chú rể

trong này hôn lễ hay trỏ người chồng của cô mình với tư cách là ngôi thứ ba. Ở người Việt,

các cháu thường gọi chồng của cô ha chồng của dì là chú. Qua cách xưng hô này, chúng ta

không thể nhận biết một cách đầy đủ, chính xác mối quan hệ giữa người gọi và người được

gọi: chú – em trai của bố, hay chú - chồng của cô, dì. Ở tiếng Nùng lại khác, co sự phân biệt

giữa xúc - em trai của bố và cú chôòng - chồng cô, dì chôòng - chồng dì . Đồng thời hai từ

cú chôòng và dì chôòng đều có thể dùng làm từ xưng hô. Ví dụ :

- Cú chôòng dú lừn á ?

(Chồng cô ở nhà ạ ?)

- Dì chôòng kí lan mí ?

(Chồng dì nhớ cháu không ?)

Nhờ khả năng chiếu vật của từ xưng hô nên khi nghe một người nào đó gọi người kia

là cú chôòng hay dì chôòng chúng ta có thể nhận biết được mối liên hệ giữa các nhân vật

hội thoại - quan hệ giữa chú rể và cháu bên vợ.

Nhân đây, chúng tôi cũng nói thêm rằng, từ cú chôòng còn phản ánh một loại hình hôn

nhân của người Nùng.

94

Ở những gia đình hiếm hôi hôặc không có con trai, để giữ gìn dòng họ của mình,

người Nùng thường lấy rể. Chàng rể về ở nhà vợ và con cái sẽ mang họ mẹ. Chẳng hạn, A

và B là hai chị em ruột. A lấy chồng, chồng của A về ở rể nên con của A mang họ A. B theo

chồng về làm dâu, con của B mang họ chồng. Thông thường, con của A sẽ gọi B là ná (dì)

và gọi chồng B là dì chôòng (chồng dì). Nhưng vì con của A vẫn giữ nguyên họ của A

(trong khi B coi nhu bị mất họ) do đó được coi như là con người anh trai trong gia đình nên

con của A sẽ gọi B (vốn là dì của mình) là cú (cô) và đương nhiên, sẽ gọi chồng của cô (vốn

thực chất là chồng của dì) là cú chôòng.

Điều vừa nói liên chứng tỏ rằng những phông tục hôn nhân có ảnh hưởng tới cách

xưng hô.

Tóm lại, xưng hô giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc là xưng hô giữa những

người có quan hệ thân thiết nhưng không cùng huyết thống. Chính vì lẽ đó, ở các cặp vai

giao tiếp này, đòi hỏi các nhân vật tương tác phải sử dụng từ xưng hô theo những nguyên

tắc chặt chẽ sao chô vừa đảm bảo được tính tôn ti trật tự vừa thể hiện được các sắc thái tình

cảm của nhưng người tham gia hội thoại.

Tìm hiểu cách xưng hô giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc người Nùng chơ

phép chúng ta tút ra những nhận xét sau :

Thứ nhất, ở người Việt, các thành viên trong gia tộc có thể gọi tên riêng của dâu, rể

mình như:

Mẹ chồng : Hôm nay Hà đi làm về sớm thế

Em chồng : chị Hlà hôm nay xinh ghê

Anh chồng : Thím Hà lấy hộ anh cái chén.

Ngược lại, ở người Nùng, các thành viên trong gia tộc (chô dù người gọi ở vị thế cao)

không bao giờ gọi tên riêng của dâu, rể mình. Đó là nguyên tắc kị huý trong xưng hô ở loại

quan hệ này. Có thể để tránh gọi tên riêng của dâu, rể nên ở loại quan hệ vai này đã xuất

hiện một loạt danh từ xưng hô như mé tài, mé dì..., tài slảo, dì slảo..., chẻ fú, cú chôòng, dì

chôòng, lan lù, lan khui...và các cách xưng hô như gọi kèm (kèm tên con), gọi thay vai hết

sức độc đáo. Các danh từ và các cách xưng hô trên làm bộc lộ rõ mối quan hệ của các nhân

vật hội thoại : mối quan hệ giữa dâu, rể, với các thanh viên trong gia tộc.

95

Thứ hai, tuổi tác, thứ bậc, có con hay chưa có con, ở rể hay không ở rể... là những

nhân tố chi phối chặt chẽ cách xưng hô giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc người

Nùng.

Thứ ba, nhờ có các từ chỉ người mang vai dâu, rể nên xưng hô trong gia tộc người

Nùng có sự phân biệt giữa con, cháu (ruột thịt) với con, cháu là dâu, rể giữa anh chị ruột

(hôặc anh chị họ) với anh, chị dâu, rể giữa chú em trai ruột hôặc em họ của bố với chú rể

(chồng cô, chồng dì)... Vì thế, trong quan hệ vai giữa dâu, rể với các thành viên trong gia

tộc ở người Nùng có số lượng từ xưng hô và cách xưng hô phông phú, đa dạng hơn ở người

Việt.

3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ VÀ CHỒNG TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG.

Từ xưng hô và cách xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người Việt rất phông phú

và đa dạng, thể hiện các cung bậc tình cảm cũng như các giai đoạn của đời sống vợ - chồng.

Các cách xưng hô, các từ xưng hô được vợ chồng người Việt sử dụng trong giao tiếp với

nhau có thể là anh<->em, tôi - mình, tôi – cô, tôi – anh, anh – tên, em – tên, tên – tên ... Có

thể lấy điểm góc là con, cháu (gọi thay ngôi) để gọi vợ hôặc chồng như trong cách nói , "Bố

Hải có đi làm không đấy ? "Mẹ Huyền mặc áo này đẹp lắm"...

Ngược lại, các từ xưng hô và các cách xưng hô giữa vợ - chồng trong gia đình người

Nùng tương đối đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể miêu tả được các từ xưng hô, các

cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng nhằm tìm ra những điểm riêng biệt mang dấu ấn

của phông tục tập quán của người Nùng.

Chúng tôi tìm hiểu cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng ở ba giai đoạn :

- Xưng hô giữa vợ - chồng khi chưa có con.

- Xưng hô giữa vợ - chồng khi có con.

- Xưng hô giữa vợ - chồng khi có cháu.

3.3.1. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CHƯA CÓ CON.

Đặc điểm dễ nhận thấy trong quan hệ vai giữa vợ - chồng người Nùng khi chưa có con

là sự thiếu vắng từ xưng hô. Hiện tượng thiếu vắng từ xưng hô chỉ diễn ra vào giai đoạn đầu

của đời sống vợ chồng. Phải chăng phông tục hôn nhân của người Nùng đã để lại dấu ấn

trong ứng xử của các cặp vợ chồng trẻ mà xưng hô là một bằng chứng ? Như chúng ta đều

biết, cô dâu người Nùng sau ngày cưới lại trở về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Ngày lễ lết hay có

96

công viẹc mới sang nhà chồng. Chỉ khi nào có con họ mới về ở hẳn nhà chồng. Mặc dù là

vợ chồng nhưng do phông tục họ có ít cơ hội tiếp xúc, gần gũi nhau nên trong ứng xử có

nhiều phần ngượng ngùng. Khi gặp nhau (ở giai đoạn đầu) họ không biết xưng hô với nhau

như thế nào. Vì thế, trong các phát ngôn của vợ - chồng người Nùng ở giai đoạn này thường

thiếu vắng từ xưng hô. Ví dụ :

- Pó ( chồng ) : Au mà náy ý nặm cón.

(Lấy về đây ít nước đã)

Mẻ (vợ) : Tẳng ý cón

(Đợi chút đã)

- Mẻ (vợ) : Ma kin kháu dáy da.

(Về ăn cơm được rồi)

Pó ( chồng ) : Mừ kin cón pay

(Về ăn trước đi)

Ở những câu thiếu vắng từ xưng hô, xét về mặt ngữ pháp là những câu tỉnh lược hết

sức ngắn gọn, thường ở dạng mệnh lệnh thức. Lối nói trống không trong xưng hô giữa vợ -

chồng người Nùng là kiểu xưng hô tình thế. Nghĩa là cách xưng hô này thể hiện (hôặc nhằm

giải quyết một cách vô thức) tình cảm còn lúng túng ngượng ngùng của đôi vợ chồng . vì

thế cách xưng hô này trung hôà về sắc thái biểu cảm. Điều nay khác với người Việt. Ở

người Việt, “các cặp vợ chồng ở vào tình trạng trên hầu như không thích và tránh nói

chuyện với nhau. Họ chỉ nói và cần nhau những thông tin tối cần thiết mà thôi” [46, 47].

Tất nhiên, muốn xưng hô trống không thì các nhân vật tương tác phải sử dụng nét mặt,

cử chỉ, điệu bộ ... để người đối thoại biết là thông tin đang hướng về họ - họ là người nhận

thông tin. Chúng ta gọi cử chỉ, điệu bộ của nhân vật giao tiếp là những yếu tố kèm ngôn ngữ.

C.K Orecchinoni gọi cách ứng xử kèm ngôn ngữ là "một vũ điệu giữa những nhân vật tương

tác". [Dẫn theo 24]

Khi tình cảm hai bên trở nên gần gũi, thân mật hơn thì vợ chồng người Nùng dùng cặp

đại từ ngò (tôi) ngôi thứ nhất - nì (bạn, cậu) - ngôi thứ hai để xưng hô với nhau. Ví dụ.:

Pó (chồng) : Nì mà hung bắn?

(Em về lâu chưa ?)

97

Mẻ (vợ) : Ngò ngám mà

(Em mới về)

Vì sắc thái thân mật, gần gũi của cặp đại từ ngò - nì nên trong quan hệ vai giữa vợ -

chồng, chúng tôi chuyển dịch là anh - em. Như thể ngò -nì trong tiếng Nùng có tính khái

quát cao, chúng bao hàm ca nghĩa là có - noọng (anh - em).

Trong tiếng Nùng cũng có cặp từ xưng hô anh - em (có - noọng) nhưng cặp từ này hầu

như không được dùng trong xưng hô giữa vợ - chồng, chô dù là vợ chồng son. Điều này

khác với lối xưng hô của vợ - chồng người Việt. Ở những cặp vợ - chồng Nùng đã thôát ly

khỏi làng bản lâu năm, hay công tác ở các xí nghiệp công sở của nhà nước họ có thể xưng

hô anh - em với nhau. Nhưng đó cũng chỉ là giao tiếp, xưng hô bằng tiếng Việt.

Như vậy, khi chưa có con, vợ - chồng người Nùng thường xưng hô theo hai cách :

Thứ nhất là kiểu gọi trống không – không có từ xưng hô, ở giai đoạn đầu của đời sống

vợ - chồng cách xưng hô này thường xuyên được sử dụng.

Thứ hai là dùng đại từ xưng hô đích thực : ngò - nì.

3.3.2. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CON.

Khi có con, vợ - chồng người Nùng chủ yếu gọi nhau kèm theo tên con đầu lòng của

mình. Đó là cách gọi theo cấu trúc : tên vai thiên chức pá (bố), mé (mẹ) + tên con đầu lòng.

Chẳng hạn đứa con đầu lòng tên là Kham (Kham la con trai) thì họ sẽ gọi nhau là pà ò

Kham (bố thằng Kham), mé Kham (mẹ thằng Kham). Nếu có con gái đầu lòng (tên là Nết

chẳng hạn), vợ chồng người Nùng sẽ gọi nhau là: pá tu Nết (bố con Nết), mé tu Nết (mẹ con

Nét). Ví dụ :

Pó (chồng) : Mé tu Nết kin pắn mí ?

(Mẹ cái Nết ăn bún không?)

Mé ( vợ ) : Ngò kin đá

(Tôi ăn lối)

Đây là lối xưng hô hết sức thân mật giữa vợ - chồng người Nùng. Vì thể, kiểu xưng hô

này được sử dụng ở những hôàn cảnh giao tiếp rất trang trọng như cưới hỏi, sinh nhật,

mừng nhà mới ...

98

Ở cấu trúc xưng hô trên, các yếu tố chỉ giống như ò (thằng), tu (con) không phải là bắt

buộc. Trong cách gọi nhau kèm tên con ở vợ chồng người Nùng thường thấy cấu trúc: tên

vai thiên chức Pá (bố), mé (mẹ) + tên con đầu lòng. Ví dụ:

Pá Nết: bố Nết

Mé Nết: mẹ Nết

Khi vợ - chồng người Việt có rất nhiều cách xưng hô với nhau như tên vai thiên chức

bố mẹ + tên riên của người đó:

- Mẹ Minh chô con uống thuốc chưa ? (tên vợ là Minh)

- Bố Hùng đèo con vào nhà bà ngoại nhé ! (tên chồng là Hùng)

Cũng có khi vợ - chồng người Việt gọi nhau bằng vai thiên chức như "Mẹ đưa chô bố

con dao" hay xưng hô với nhau theo cấu trúc: tên vai thiên chức bố, mẹ + mày, nó như trong

cách nói “Mẹ mày là chô bố cái quần với”...[Xem 46]. Ở vợ chồng người Nùng không có

những cách xưng hô như vậy. Nghĩa là họ không xưng hô với nhau bằng vai thiên chức đơn

lẻ mà phải xưng hô theo cấu trúc vai thiên chức + tên người con như ở tên. Bởi vì, chỉ có

con cái mới gọi cha mẹ là pá, mé. Vợ chồng không không gọi nhau là pá, mé chô dù đó là

cách gọi thay vai. Có lẽ, để tránh chô trẻ nhỏ có thói quen không gọi tên tục của người lớn

nên trong xưng hô giữa vợ chồng người Nùng không có cấu trúc: tên vai thiên chức bố, mẹ

+ tên của người đó (người bố hôặc mẹ) = bố Hùng, mẹ Thuý như trong cách xưng hô của vợ

chồng người Việt. Có thể nói, do ảnh hưởng của văn hôá người việt, những cặp vợ chồng trẻ

người Nùng vẫn xưng hô với nhau theo cấu trúc: tên vai thiên chức pá (bố), mé (mẹ) + tên

của người đó. Ví dụ : (Tên người vợ là Hôa)

- Mé Hôa đay slảo lai vớ !

(Mẹ Hôa xinh gái quá !)

Gọi nhau kèm tên con trong xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng không chỉ đơn

thuần là một cách xưng hô mà nó còn biểu lộ niềm hạnh phúc, tự hào, là dấu son đánh dấu

sự trưởng thành tốt đẹp (đã có con) trong đời sống vợ chồng. Điều cần khẳng định là cách

xưng hô này đã, đang và sẽ tồn tại cùng những phông lục, tập quán tốt đẹp của người Nùng.

99

3.3.3. XƯNG HÔ GIỮA VỢ CHỒNG KHI CÓ CHÁU.

"Điểm nút" để vợ - chồng người Nùng thay đổi cách xưng hô là khi họ có cháu. Ở thời

điểm này, khi chỉ có hai người với nhau, họ gọi nhau một cách thân mật là lạo ké (ông già)

đả ké (bà già). Ví dụ :

- Mẻ (vợ) : Lạo ké kin chúc sláy mí ?

(Ông già ăn cháo lòng không ?)

Pỏ (chồng) : Mí, kin còn pay.

(Không, ăn trước đi)

Pỏ (chồng) : Dá ké pay hang mư đá á ?

(Bà già đi chợ về rồi à?).

Mẻ(vợ): Háng náy cau mí slự đáy lăng.

(Chợ này tôi không mua được gì)

Trong khi đó ở người Việt, nếu vợ - chồng gọi nhau là "ông già", "bà già" là biểu thị

thái độ thiếu tôn trọng nhau. Đặc biệt, những người ít tuổi mà gọi những người cao tuổi là

"ông già", "bà già" sẽ bị coi là hỗn láo, thiếu văn hôá. Đấy cũng là nét khác nhau về sắc thái

của từ xưng hô giữa tiếng việt và tiếng Nùng.

Khi muốn trỏ về người chồng hôặc người vợ với tư cách là ngôi thứ ba với thái độ trân

trọng, người Nùng cũng có thể dùng từ lạo ké, giá ké. Ví dụ :

A : Cúng kin láu xáu lan

(Ông uống rượu với cháu)

B : Giá ké mí hứ kin vớ.

(Bà già không chô uống đâu)

Để nói về vợ hôặc chồng với tư ca1chla2 ngôi thứ ba, vợ chồng người Nùng (lúc còn

trẻ cũng như khi về già) có thể dùng đại từ ngôi thứ ba, số ít min (nó). Ví dụ:

A : Ché fú dú lừn mí ché ?

(Anh rể ở nhà không hả chị ?)

B : Min pay háng đá.

100

(Nó đi chợ rồi)

Đại từ min (nó) trong tiếng Nùng trung hôà về sắc thái biểu cảm. Vì thế khi sử dụng

min để trỏ vợ hôặc chồng thì cũng không bị coi là cách nói suồng sã, thiến tôn trọng người

được nói tới (ngôi thứ ba). Trong giao tiếp ở người Nùng, những người ở vị thế thấp như

con, cháu :.. vẫn có thể dùng đại từ min để trỏ những người ở vị thế cao (trường họp người ở

vị thế cao không có mặt trong hội thoại). Vì thế, tính khái quát của đại từ min gần với tính

khái quát của đại từ she, he trong tiếng Anh.

Khi có cháu (đặc biệt là trước người lạ) các cặp vợ - chồng người Nùng gọi nhau kèm

theo tên của đứa cháu lớn. Cấu trúc xưng hô là danh từ thân tộc cúng (ông), má (bà) + danh

từ chỉ giống tu (con - nếu là cháu gái), o (thâng - tên là cháu trai ) + tên người cháu. Ví dụ :

- Cúng ò Eng leng bắn ? (Eng là tên cháu )

(Ông thằng Eng khôẻ chưa ?)

- Má tu Hóng hăn cáy làu dú càu mí ?

(Bà cái Hóng thấy gà nhà mình đâu không).

Đây là cách xưng hô trang trọng thường đượcsử dụng rộng rãi trong cả hai ngữ cảnh

giao tiếp informal và formal. Cách xưng hô này thể hiện vị thế của nhân vật hội thoại :

những người đã lên chức ông, bà.

Tóm lại, do chịu chi phối bởi nguyên tắc chung trong xưng hô của người Nùng là tránh

gọi tên riêng của người đối thoại nên trong quan hệ vai giữa vợ và chồng, người Nùng hầu

như không dùng các kết cấu xưng hô tên - tên, em - tên, anh - tên như trong xưng hô giữa vợ

- chồng người Việt. Thay vào đó, vợ - chồng người Nùng chủ yếú xưng hô với nhau bằng

các đại từ xưng hô ngò - nì (khi còn trẻ), cau - mưng (lúc về già) hay cách gọi trống không -

thiếu vắng từ xưng hô hôặc kiểu hô gọi kèm theo tên con, cháu của mình. Chức vị của vợ -

chồng cũng được bộc lộ qua cách gọi kèm tên con, tên cháu - nghĩa là họ đã ở bậc cha, mẹ

hôặc ông, bà.

Có con hay chưa có con, lúc còn trẻ hay khi về già...là những nhân tố cơ bản tác động,

chi phối tới cách xưng hô giữa vợ - chồng người Nùng.

Ở phần trên, chúng tôi nói rằng khi còn trẻ vợ chồng người Nùng dùng đại từ ngò - nì

để xưng hô với nhau và khi về già họ mới dùng đại tù cau - mưng. Phải chăng, khi về già,

vợ chồng người Nùng có xu hướng xưng cau - mưng với nhau với sắc thái lịch sự vốn có

101

(nghĩa gốc) của cặp đại từ này? Nếu chúng ta hiểu được nghĩa gốc của đại từ cau - mưng,

hiểu được câu nói của người Nùng " Mưng - cau dàu mạ" (không được mày tao chí tớ) thì sẽ

không bao giò nghĩ, và chuyển dịch cặp từ cau – mưng = mày - tao trong xưng hô giữa vợ

chồng người Nùng. Thực ra, việc định ranh giới như vậy chỉ là tương đối. bởi vì, ở nhiều

cặp vợ chồng người Nùng, các cặp đại từ trên vẫn được dùng đan xen nhau trong quan hệ

vai vợ - chồng của họ.

3.4. XƯNG HÔ GIỮA ANH, CHỊ VÀ EM TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI NÙNG

Dưới góc độ dân tộc học, cách xưng hô chuẩn mực trong quan hệ vai giữa anh, chị và

em trong gia đình người Nùng cũng như nười Việt là cặp từ xưng hô có tính thuận -> nghịch

<- để xưng hô với nhau.

Có (anh) ché(chị) noọng(em)

Người anh hôặc chị tự xưng mình là có (hôặc ché) và gọi em họ là noọng, bất luận em

trai hay em gái. Ngược lại, những người em trai, hôặc em gái cũng tự xưng là noọng và gọi

anh, chị là có, ché. Ví dụ:

Có (anh) : Có hử noọng ăn xay nảy.

(Anh chô em quá trứng này)

Noọng (em) : Noọng mí an, noọng ái có hử pay lỉu

(Em không lấy, em muốn anh chô đi chơi)

Đây là kiểu xưng hô tương ứng chính xác. Nghĩa là các nhân vật hội thoại sử dụng

đúng vai của mình trong mối quan hệ với vai người đối thoại để xưng hô.

Đặc điểm quan hệ vai giữa anh, chị và em là được thiết lập rất sớm: từ khi con người

sinh ra và kéo dài chô đển hết cuộc đời. Suốt dải thời gian đó, mỗi thành viên trong loại

quan hệ này sẽ có những thay đổi tất yếu như tuổi tác, lập gia đình riêng, vị thế xã hội ...

Xưng hô cũng chịu tác động của những thay đổi này. Nói cách khác, những sự thay đổi đó

sẽ làm chô từ xưng hô cũng như các cách xưng hô giữa anh, chị và em trở nên phông phú và

đa dạng hơn. Bởi lẽ, xưng hô không phải là một đại lượng bất biến. Các thành viên giao tiếp

luôn có ý thức thay đổi từ xưng hô sao chô phù hợp với tuổi tác, địa vị, phù hợp với quan hệ

và ngữ cảnh mà trong đó hôạt động giao tiếp diễn ra.

102

Như vậy, ngoài kiểu xưng hô tương ứng chính xác như vừa nói trên, ở mỗi giai đoạn

của hôại động giao tiếp giữa vai anh, chị và em sẽ có nhưng cách xưng hô mang dấu ấn của

từng giai đoạn. Nhưng cách xưng hô này tạo thành những hiện tượng ngoại vi xoay quanh

tâm của hệ thống.

3.4.1. XƯNG HÔ KHI ANH, CHỊ - EM CÒN NHỎ VÀ CHƯA CÓ GIA ĐÌNH

RIÊNG.

Đây là buổi sơ khai của hôạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa anh, chị và em. Do

cùng một thế hệ lại đang ở tuổi nhỏ nên các thành viên trong loại quan hệ vai này chưa thể ý

thức một cách đầy đủ về vị thế của mình và vị thế của người đối thoại (cùng trang lứa). Ở

tuổi nhỏ (2 đến 6 tuổi ), anh, chị và em người Nùng (cũng như người Việt và nhiều dân tộc

khác) thường chơi đùa với nhau. Những đặc điểm này dẫn tới hệ quả là có có nhiều sự phạm

chuẩn trong xưng hô giữa anh, chị và em trước tuổi học đường.

Điều dễ nhận thấy là ở giai đoạn này là anh, chị và em người Nùng thường dùng đại từ

cau (tao) để xưng và mưng (mày) để hô . Ví dụ :

A : Cau khạ mé , mưng kin din.

(Tao mách mẹ, mày hút thuốc)

B : Mưng khạ cau tụp lăng tắc.

(Mày mách tao đánh gãy lưng)

Trong nhiều trường họp, cau ở vị thế trên -bề trên xưng với bề dưới. Tuy nhiên, do

chưa ý thức được phép tắc trong xưng hô lại cùng độ tuổi "cá mè một lứa" nên các em cũng

thường dùng đại từ cau để tự xưng và gọi anh, chị mình là mưng. Người em có thể nói với

anh, chị những câu như sau :

- Cau hử mưng mác pục nè

(Tao chô mày quả bưởi này)

- Mưng mí đáy pay xáu cau

(Mày không được đi với tao)

Trong giao tiếp, người Nùng tối kỵ gọi tên riêng của nhau. Đặc biệt, những người ít

tuổi không được phép gọi những người cao tuổi bằng tên riêng. Đó là chuẩn mực nguyên

103

tắc. Nhưng trong quan hệ vai giữa anh, chị và em trước tuổi học đường, nhưng em nhỏ

người Nùng vẫn gọi tên tục của anh, chị mình. Thường thấy hai cấu trúc xưng gọi như sau:

Thứ nhất, gọi tên của anh, chị và tự xưng- bằng đại từ cau hôặc xưng đúng vai của

mình là noọng (em). Chẳng hạn, tên của người anh là Tung các em có thể gọi :

- Tung ơi, pay coi vai xáu cau mí ?

(Tung ơi, đi xem trâu với tao không ?)

- Noọng xáu Tung pay líu há !

(Em với Tung đi chơi nhé)

Thứ hai, xưng gọi theo cấu trúc: danh từ thân tộc có (anh) ché (chị) + tên riêng của

người anh, chị đó và tự xưng mình là cau hôặc noọng. Ví dụ :

- Có Tùng mé dáo mà coi lùa.

(Anh Tung, mẹ bảo về trông nhà)

- Noọng xáu ché Làu táng kin há !

(Em với chị Làu ăn nhé)

Cấu trúc xưng hê trên cũng được anh, chị dùng để gọi các em của mình. Anh, chị tự

xưng là có, ché hôặc xưng bằng đại từ cau và gọi các em bằng tên riêng hay gọi theo cấu

trúc : danh từ thân tộc + tên riêng. Thêm nữa, anh, chị cùng tự xưng trước các em theo-cấu

trúc : danh từ thân tộc - tên riêng của mình.:

- Noọng pay nòn xáu ché Làu há .

(Em đi ngủ cùng chị Làu nhé)

Như vậy, điểm rõ nét trong xưng hô giữa anh, chị và em khi còn nhỏ trong gia đình

người Nùng là vệc không nhất quán sử dụng một cặp từ xưng hô nào để giao tiếp với nhau.

Tuy nhiên, đại từ cau - mưng vẫn được sử dụng nhiều nhất. Hai đại từ này nó thể được sử

dụng một cách tương đương xưng cau va gọi mưng hôặc sử dụng trong cấu trúc : tên riêng

(hô) - cau (xưng) hay danh từ thân tộc + tên riêng (hô) - cau (xưng).

104

3.4.2.XƯNC HÔ GIỮA ANH, CHỊ - EM Ở TUỔI KHÔN LỚN VÀ CÓ GIA ĐÌNH

RIÊNG .

Khi khôn lớn, môi trường tiếp xúc của trẻ ở lứa tuổi này không còn bó hẹp trong phạm

vi gia đình mà đã mở rộng ra làng bản, trường lớp ... Sự ý thức về thứ bậc giữa anh, chị và

em ở lứa tuổi này đã rõ ràng hơn nên cách gọi tên riêng của anh, chị và tự xưng mình là cau

ít được sử dụng. Bởi lẽ, kiểu xưng hô này tỏ ra khiếm nhả với bậc trên. Nhưng cách gọi anh,

chị theo cấu trúc : danh từ thân tộc có (anh) , ché (chị) + tên riêng vẫn được sử dụng. Cách

gọi này dẫu sao vẫn nhã nhặn hơn chô dù gọi tên riêng của bậc trên. Bởi vì, danh từ thân tộc

có, ché đứng trước tên riêng đã làm chô cách xưng hô này trở nên tình cảm hơn.

Người anh, người chị thường xưng có, ché với các em như là sự khẳng định, sự ý thức

về thứ bậc của mình. Điều này tạo chô xưng hô giữa anh, chị và em có xu hướng tiến tới sự

chuẩn mực.

Ở tuổi học đường, một đứa trẻ người Nùng có thể có vài người anh, người chị và

ngược lại, anh chị cũng có thể có vài người em. Từ đây, xuất hiện kiểu xưng hô theo thứ bậc

giữa anh, chị và em. Trong tiếng Nùng, các từ tài có, slám có...là chỉ anh cả, anh ba...các từ

tài ché, dì ché...chỉ chị cả , chị hai...Ví dụ:

- Thưng cau tài có au mé a ?

( Bao giờ anh cả lấy vợ đây ?)

- Dì có mì din mí ?

( Anh hai có thuốc lá không? )

- Mé dáo dì ché pay háng xụ nự mu xíu.

(Mẹ bảo chị hai đi chợ mua thịt lợn quay).

Ba ví dụ trên là người em gọi các anh, chị của mình theo thứ bậc. Ngược lại, các anh,

chị cũng có thể tự xưng như vậy với các em. Ví dụ :

- Noọng pay xự hử slam có pao din váy.

(Em đi mua chô anh ba bao thuốc nào.)

Ở tiếng Việt, phương ngôn Nam bộ cũng có kiểu xưng hô theo thứ bậc như hai, tư,

năm...hôặc gọi theo thứ bậc + tên riêng của người được gọi như Tám Bính, Sáu Thọ, Từ Hải

... ở tiếng Nùng, xưng hô thứ bậc giữa anh, chị và em chỉ có cấu trúc : từ chỉ thứ bậc, tài, dì,

105

slám + danh từ thân tộc có ché=tài ché, dì ché, tài có, slam có.v.v..chứ không có cấu trúc:

từ chỉ thứ bậc + tên riêng = Hai Hùng, út Thuỷ...như của tiếng Việt .

Điều khác biệt nữa la cách xưng hô theo thứ bậc ở người Việt là đặc điểm của một

vùng phương ngôn (Nam bộ). Trong khi đó, cách xưng hô theo thứ bậc như trên ở người

Nùng là kiểu xưng hô được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Nùng, trong tiếng

Nùng.

Khi thân thiết, thể hiện thái độ tôn trọng với người trên, các em gọi anh, chị theo thứ

bậc và tự xưng là noọng:

- Dì có còi lừn hứ noọng pay slon slư há.

(Anh hai trông nhà chô em đi học nhé !)

- Ché tài au hử noọng tu pja.

(Chị cả lấy chô em con dao)

Khi bực tức, thể hiện thái độ bất hôà, các em gọi anh, chị mình theo thứ bậc nhưng lại

xưng bằng đại từ ngò (tôi)

- Tài có ái pay do tăng pay, ngò mí pay

(Anh cả muốn đi thì đi, tôi không đi)

- Ngò hít đáy, dì ché mí hít đáy á ?

(Tôi làm được, chị hai không làm được à ?)

Anh, chi cũng có thể tự xưng theo thứ bậc và gọi các em bằng đại từ mưng (mày), ân

mật hơn thì gọi là noọng (em).

Các anh, chị người Nùng không gọi các em theo thứ bậc. Đây cũng là điểm khác biệt

trong cách xưng hô theo thứ bậc giữa tiếng Việt và tiếng Nùng. Ở tiếng Việt, cách xưng hô

theo thứ bậc trong quan hệ vai giữa anh chị và em diễn ra hai chiều : các em gọi anh chị

theo thứ bậc như anh Mai, anh Ba, chị Tư, chị Năm ... và đến lượt mình, anh chị cũng gọi

các em theo thứ bậc của họ (của các em - ngôi 2) như Tư, Năm hay út hôặc theo cấu trúc :

từ chỉ thứ bậc + tên riêng của các em. Ngược lại, ở tiếng Nùng, cách xưng hô theo thứ bậc

trong quan hệ vai giữa anh chị và em chỉ diễn ra một chiều: các em gọi anh chị theo thứ bậc

của người anh chị đó - ngôi 2.

106

Nhiều khi, để gọi con, cháu hay em của mình, người Nùng dùng một danh từ chung là

slao - chỉ con gái và báo - chỉ con trai. Ví dụ : cúng (ông), má (bà), dé (báu)... gọi cháu gái

là lan slao, gọi cháu hai là lan báo.

Pá (bố) , mé (mẹ) gọi con gái là lục slao, gọi con trai là lục háo, có (anh), ché (chị) gọi

em gái là noọng slao, gọi em trai là noọng báo.

Hai từ slao, báo thường để gọi con, cháu hay em lúc người được gọi (con, cháu, em)

còn nhỏ tuổi với sắc thái âu yếm, thân mật.

Như vậy, xưng hô theo thứ bậc giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng có các

cặp từ sau :

Xưng Hô

Noọng < —— > có, ché

Noọng < —— > có tài, dì có, ché tài, dì ché

Ngõ —— > có tài, dì có... ché tài, dì ché...

Có tài, dì có, ché tài, di ché —— > mưng, noọng, noọng slao, noọng báo.

Xưng hô thuận nghịch (hai chiều)

Xưng hô thuận (một chiều)

Đặc điếm trong xưng hô giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng khi khôn lớn

đã có xu hướng xưng hô chuẩn mực. Các cấu trúc xưng hô thiếu tính trang nhã đã bắt đầu

giảm dần ở giai đoạn này.

Khi có gia đình riêng và con cái, xưng hô giữa anh, chị và em trong gia đình người

Nùng có nhiều sự thay đổi.

Những yếu tố sau đây khiến chô xưng hô giữa anh, chị và em ở lứa tuổi này có sắc thái

trang nhã, lịch sự và chuẩn mực :

- Các thành viên giao tiếp đã trưởng thành. Họ ý thức đầy đủ về vị thế và ngôi thứ của

mình với những người xung quanh.

- Giữa quan hệ vai của họ xuất hiện một vai mới - vai dâu, rể.

- Những ứng xử của các thành viên ở lứa ruổi này cần chuẩn mực hơn bởi họ đã là tấm

gương chô một thế hệ mới noi theo - thể hệ con cái.

107

Khi các thành viên giao tiếp chưa có con (các em cũng như anh chị) thì các em vẫn gọi

anh chị mình theo thứ bậc như có tài (anh cả) slám có (anh ba), ché tài (chị cả) dì ché (chị

hai). Anh chị gọi các em của mình bằng đại từ mưng (mày) nếu tỏ ý suồng sã, bực bội hay

goi tên riêng của các em nếu tỏ ý thân mật, gần gũi.

Xưng hô giữa anh rể, chị dâu và các em bên chồng (hôặc vợ) lại có những từ xưng hô

và cách xưng hô riêng biệt - thể hiện đúng mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp : quan hệ

giữa anh (chị) rể (dâu) với các em . [Xem mục 3.2]

Khi có gia đình riêng, đặc biệt là lúc có con, anh, chị và em người Nùng thường

"mượn" vai của con cái mình để xưng hô - đó là kiểu gọi thay ngôi. Các em sẽ gọi anh mình

là dé (bác trai), gọi chị là mú (bác gái). Anh, chị gọi các em là xúc (chú), cú (cô), khạu (cậu),

xẳm (thím) v.v... Ví dụ :

Có (anh) : Cú hăn lan dú càu mí ?

( Cô thấy cháu đâu không ?)

Noọng (em) : Min ngám dú náy

(Nó vừa mới ở đây)

-Các anh, chị cũng có thể gọi em mình theo cấu trúc : danh từ thân tộc + tên riêng của

người em (dùng danh từ thân tộc theo cách gọi thay ngôi). Chẳng hạn, người em tên là Báo,

người anh có thể nói :

- Xúc Báo mì xèn hử ngò dim slam pác.

(Chú báo có tiền chô tôi vay ba trăm)

Cách gọi này chỉ dùng khi người được gọi (người em) chưa có con.

Cách xưng hô thường thấy giữa anh, chị và em trong gia đình người Nùng ở lứa tuổi

này là lối gọi thay ngôi + tên con của người được gọi. Chẳng hạn, tên con đầu lòng của

người em là Lăng, anh chị dẽ gọi em là:

- Khạu Láng khai vài chứ mí ?

(Cậu Láng bán trâu phải không ? )

- Vằn náy cú Lăng mí pay háng á ?)

(Hôm nay co Lăng không đi chợ à ?)

108

Các em cũng lấy ngôi con mình mà gọi anh, chị theo cách gọi như trên.

Trong quan hệ gia đình, giữa anh chị và em ruột, ai sinh trước là anh, chị ai sinh sau là

em. Đây là khế ước mang tính phổ quát đối với nhiều dân tộc. Tuy nhiên, trong quan hê gia

tộc (một gia đình lớn), giữa anh chị và các em có mối quan hệ họ hàng với nhau thì tiêu chỉ

sinh trước / sau chưa phải là yêu tố duy nhất đo định vị thứ bậc cao / thấp của các thành viên

trong loại quan hệ vai này.

Trong quan hệ gia tộc giữa con chú, con bác hôặc con cậu, con dì ... có điểm khác

nhau đáng chú ý giữa người Tày và người Nùng. Người Tày gọi nhau theo ngành trưởng,

ngành thứ, nghĩa là con bác bao giờ cũng được gọi là anh, là chị mặc dù ít tuổi hơn con chú,

con cô, con cậu ... Nguyên tắc này của người Tày cung giống với người Việt. Trái lại, người

Nùng lấy tuổi tác để định vị thế giữa con bác, con cô và chú...Nghĩa là giữa con cô, con chú,

con bác hôặc con cậu, con dì ... ai nhiều tuổi hơn thì được gọi là anh, chị, ai ít tuổi hơn là

em. Nói điều này để chúng ta thấy rằng xưng hô phụ thuộc rất nhiều vào phông tục tập quán

cũng như những qui ước xã hội, của cộng đồng. Người sử dụng ngôn ngữ cần nắm được

những phông tục, những nguyên tắc này để giao tiếp một cách hiệu qủa hơn.

3.5. XƯNG HÔ GIỮA CHA MẸ VÀ CON TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI

NÙNG.

Cặp từ xưng hô pá, mé (bố, mẹ) < —— > lục (con) là cặp từ xưng hô thuận nghịch

biểu thị đúng vai thiên chức, mối quan hệ trong xưng hô giữa cha mẹ và con trong gia đình

người Nùng. Đặc điểm dễ nhận thấy trong xưng hô giữa cha, mẹ và con ở người Nùng là ít

khi dùng các danh từ chỉ dùng mối quan hệ như pá, mé (bố mẹ ) và lục (con) để xưng hô.

Trong loại quan hệ vai này, con cái người Nùng thường tự xưng noọng (em) hay lan (cháu)

và gọi cha mẹ mình là có, ché (anh, chị) hôặc xúc (chú) cú (cô). Hiện tượng này có thể được

giải thích bằng nhiều nguyên nhân khác nhau. Ngoài nguyên nhân do kiêng kị trong xưng

hô (chúng tôi sẽ giải thích nguyên nhân này ở phần sau, thì tuổi kết hôn của người Nùng

cũng là một nguyên nhân phổ biến dẫn đến hiện tượng trên. Tuổi kết hôn của người Nùng

khá sớm. Do dó, khi còn rất trẻ họ đã có con cái. Chúng tôi đã phỏng vấn nhiều cặp vợ

chồng trẻ người Nùng và đều nhận được câu trả lời : vì ít tuổi đã có con nên không muốn

xưng pá, mé (bố, mẹ) và gọi con mình là lục. Thay vào đó là những danh từ thân tộc khác

như vừa nêu ở trên. Hiện tượng này có tính phổ biên trong xã hội người Nùng. Chô nên,

ngay cả khi có tuổi, con cái trưởng thành, người Nùng vẫn dùng lối xưng hô này. Chỉ khi

109

biểu hiện tình cảm thật gần gũi, yêu thương như khuyên nhủ, giãi bày cha mẹ và con người

Nùng mới xưng pá mé - lục với nhau. Ví dụ :

- Mé cạ chăn, hít pỉn nảy mí đảy lục ạ.

(Mẹ nói thật, làm thế này không được đâu con ạ)

Cũng như ở các loại quan hệ vai khác, sự thay đổi về tuổi tác, vị thế con, chưa có con)

cùng những tín ngưỡng dân tộc sẽ kéo theo sự thay đổi về từ xưng hô giữa cha mẹ và con

trong gia đình người Nùng ở hai giai loại của mối quan hệ này :

- Khi con cái còn nhỏ.

- Khi con khôn lớn.

3.5.1. KHI CON CÁI CÒN NHỎ.

Trước đây, người Tày và người Nùng thường đặt chô con mình hai tên : mình nọi (tên

tục) - gọi lúc còn nhỏ và mình chi (tên chữ) – dùng trong các văn bản chính thức như giấy

khai sinh hay khi cầu khấn... Lã Văn Lo viết "Người ta bắt đầu đặt “tên nội” tức là tên tục

chô đứa bé, thường là bằng tiếng dân tộc...Khi đứa bé đến tuổi trưởng thành người ta lại đặt

chô nó một “tên quan” tức là tên chính thức. “Tên quan” hôàn toàn bằng chữ Hán. “Tên

quan” khác “tên nội” ở chổ “tên quan” bao giờ cũng gắn liền bản thân người đội tên đó với

những người cùng một thế hệ trong dòng họ của mình, ví dụ:

Hôàng Đình Khái, Hôàng Đình Long, v.v... "Tên quan" được dùng trong khi tiếp xúc

với anh, em bạn bè, trong các văn bản của chính quyền. Còn trong các văn tế, người ta nhất

thiết phải dùng "tên nội" [62, 99]

Có lẽ, từ việc đặt tên con như vậy mà thành ngữ Tày có câu : "Nhăng ón lục pó mé, cái

ké lục nặm mường" (còn nhỏ con bố mẹ, lớn khôn con bản mường).

Xưa kia, người Việt cũng như người Nùng, trong những gia đình hiếm hôi hôặc những

gia đình đẻ con khó nuôi thường chọn những cái tên "xấu xí" đặt chô con để khỏi bị "ma để

ý tới" và "ma bắt" đi. Ở những gia đình này, người Nùng thường lấy tên các con vật đặt tên

chô con như ma (chó), méo (mèo), ca (quạ) ... Khi đứa con đi lại vững vàng, biết ăn nói

(khôảng 5 - 6 tuổi), người Nùng làm lễ thay tên - đặt tên chính thức chô con. Có lẽ vì phông

tục này mà tiếng Nùng có câu "hít quá khỉ nèo" nghĩa là "làm qua tuổi cứt đái". Tuy nhiên,

do dùng lâu ngày thành quen và không làm lễ "hít quá khỉ nào" nên nhiều người Nùng vẫn

dùng những cái tên cha mẹ đặt chô từ nhỏ làm tên chính thức.

110

Đặc điếm cư trú của người Nùng là sống gắn bó với rừng núi nên tên các con vật trên

rừng thường được cha mẹ dùng để đặt tên chô con cái. Cha mẹ mong ước con cái mạnh

khôẻ như hổ, gấu thì đặt tên là mi (gấu) mong con cái nhanh nhẹn, thông minh thì đặt tên là

chón (sóc), lình (khỉ)... Những cái tên đó - dù là tên xấu như ma (chó), ca (quạ) hay tên đẹp

như, mi (gấu) ... đều được người Nùng dùng để gọi tên nhau trong gia đình cũng như ngoài

xã hội với sắc thái trân trọng như nhau. Bởi vì, đó là những cái tên gần với phông tục, tập

quán, tín ngưỡng cũng như đặc điểm cư trú, sinh hôạt sản xuất của dân tộc Nùng.

Trong những lúc cưng nựng, cha mẹ người Nùng có thể gọi con mình là slao sláy (em

bé gái) báo sláy (em bé trai) hay các từ tu eng (con bé) ò eng (thằng bé)... Như chúng ta đều

biết, ở người Việt, khi các con ở tuổi mẫu giáo trở xuống có thể gọi cha mẹ bằng vai thiên

chức + tên riêng của người cha, mẹ đó. Ví dụ :

- Mẹ Minh chô con đi chợ với nhé.

- Bố Hùng mua kẹo chô con.

Cách gọi này có lẽ là do người lớn đã gián tiếp hướng dẫn chô trẻ qua các câu nói như:

- Con mời bố Hùng ăn cơm di.

- Tạm biệt mẹ Thúy đi con.

Trẻ em người Nùng không gọi cha, mẹ mình theo cấu trúc như vậy. Sở dĩ như thế vì

ngay từ đầu người Nùng đã có ý thức (hôặc một cách vô thức theo thói quen từ lâu đời)

hướng dẫn chô các con không gọi tên riêng của cha, mẹ.

Ở tuổi nhỏ, trẻ em người Nùng có thể tự xưng mình là noọng (em), lục (con) hay xưng

tên của mình trước cha, mẹ chúng.

Đối với người Việt, tùy từng phương ngôn mà có các từ để gọi cha, mẹ khác nhau.

Chẳng hạn như phương ngôn miền Bắc chủ yếu gọi cha, mẹ là bố, mẹ, cậu, mợ. Một số

vùng quê miền Bắc lại gọi cha, mẹ là thầy, u. Ở phương ngữ Nam bộ lại gọi cha, mẹ là tía,

mạ. Và ở phương ngôn miền Nam thường gọi cha, mẹ là ba, má... Ở tiếng Nùng cũng có

những từ khác để gọi cha, mẹ. Nhưng những cách gọi này không phải do những phương

ngôn Nùng tạo nên mà chủ yếu bằng con đường:

Thứ nhất là vay mượn, giao thôa ở những thứ tiếng khác. Do vay mượn ở tiếng Việt,

nên trong giao tiếp bằng tiếng Nùng, nhiều gia đình người Nùng gọi cha, mẹ mình là bố,

mẹ, Ví dụ :

111

- Bố ngám mà á ?

(Bố mới về ạ ?)

- Mẹ ới đáy kin kháu băn ?

(Mẹ ơi được ăn cơm chưa ?)

Một số vùng Nùng, các con có thể gọi cha mẹ là chá, ảo. Những danh từ bố, mẹ, chú,

áo cũng được cha, mẹ dùng để tự xưng với các con.

Thứ hai là do tín ngưỡng của dân tộc. Trong nhiều gia đình người Nùng, con cái không

gọi cha mẹ lá pá, me mà gọi là có (anh), tài có (anh cả), ché (chị), tài ché (chị cả) hay xúc

(chú), cú (cô) và tự xưng là noọng (em) hay lan (cháu).

Sở dĩ như vậy là vì khi sinh đứa con đầu lòng, người Nùng thường xem số mệnh của

đúa bé. Nếu đứa bé khó nuôi hay có số xưng khắc với cha, mẹ thì họ sẽ gọi con mình là

noọng (em) hôặc lan (cháu) và xưng bằng các danh từ khác (chứ không xưng là pá, mé (bố,

mẹ). Người Nùng quan niệm rằng, nhờ sự ngụy trang này (ngụy trang bằng từ xưng hô) nên

quan hệ giữa họ và con là quan hệ giữa anh, chị và em hay giữa cô, chú và cháu. Nhờ thế

mà con cái với cha mẹ mới hôà thuận và bản thân người con ấy mới dễ nuôi. Thường người

con đầu (nếu có số xưng khắc với cha mẹ hôặc khó nuôi) mới có sự thay đổi cách xưng hô

như vậy. Nhưng các em (do thói quen hôặc để có tính thống nhất trong xưng hô ở gia đình)

cũng gọi cha mẹ theo cách của anh chị mình.

Chúng tôi nhận thấy, trong cách gọi "lệch" vai này (gọi cha, mẹ là anh, chị hay cô,

chú), người Nùng cũng có những nguyên tắc chặt chẽ buộc mọi người phải tuân theo.

- Chỉ được dùng các danh từ thân tộc trỏ người ngang vai với cha mẹ mình như cú

(cô), xúc (chú) hay ở vai dưới của cha mẹ như có (anh ), ché (chị ), tài có (anh cá), tài ché

(chị cả) ... để thay thế chô danh từ pá, mé (bố mẹ). Các danh từ ở bậc tiểu của cha mẹ như

dé (bác trai), mú (bác gái)... không được dùng làm từ thay thế để gọi pá mé (bố mẹ).

- Chỉ dùng các danh từ thân tộc trỏ quan hệ chính hệ (bên nội) như cú (cô), xúc (chú) ..

chứ không được dùng các danh từ trỏ quan hệ mẫu hệ (bên ngoại) như khạu (cậu) ná (dì)

làm từ thay thế chô pá, mé (bố mẹ). Hiện tượng này có thể giải thích từ chế độ phụ quyền

của người Nùng (và người Tày). ''Trong xã hội của người Tày, Nùng, chế độ phụ quyền đã

thống trị từ lâu. Ông cậu hay ông bác (em hay anh mẹ) hầu như không có quyền lực hôặc

nghĩa vụ gì đối với người cháu ngoại. Ngược lại, ông chú hay ông bác (em hay anh cha) có

112

đủ mọi quyền lực đồng thời có nghĩa vụ đỡ đầu và săn sóc đối với người cháu nội chưa

thành niên bị mồ côi cha mẹ" [62, 82]. Phải chăng vì thế mà các danh từ trỏ quan hệ mẫu hệ

như khạu (cậu), ná (dì) ... không được coi người Nùng dùng làm từ xưng hô thay chô cách

gọi pá, mé ?

Khi con cái còn nhỏ, cha mẹ người Nùng thường tự xưng trước con cái bằng đúng vai

thiên chức của mình là pá (bố), mé (mẹ) một cách thân mật, tình cảm và gọi con mình là lục

(con) hay tên riêng của người con.

Nhờ sự giao thôa ngôn ngữ cùng những tín ngưỡng dân tộc đã khiến chô số lượng từ

xưng hô giữa cha, mẹ và con trong gia đình người Nùng trở nên phông phú.

3.5.2. KHI CON CÁI KHÔN LỚN

Khi con cái khôn lớn, cha mẹ người Nùng vẫn có thể xưng pá (bố), má (mẹ) và gọi

con là lục (con) một cách nhẹ nhàng, tình cảm.

Khi nóng giận, không kiềm chế được cha mẹ người Nùng thường xưng cau (tao) và

gọi các con là mưng (mày).

Tính quyền uy để giáo dục con cái còn thể hiện qua việdđùng các từ chỉ giống tu (con

- giống cái), ò (thằng - giống đực) kết hợp với từ chỉ xuất nảy (này) để gọi con. Ví dụ:

- Ò nảy mí pay slon slư há.

(Thằng này không đi học à)

- Tu nảy mà kin ngài mí ?

(Con này về ăn cơm không ?)

Thân mật hơn một chút, cha, mẹ có thể gọi các con theo cấu trúc: từ chỉ giống tu, ò +

tên tiêng. Ví dụ:

- ò Tuấn hử mu kin băn ?

(Thằng Tuấn chô lợn ăn chưa ?)

- Tu Làn còi noọng hả.

(Con Làn trông em đấy)

Khi có con, con cái người Nùng thường gọi cha, mẹ mình là cúng (ông), má (bà). Đó

là lối gọi thay ngôi - lấy ngôi con mình để gọi cha mẹ. Ví dụ:

113

- Cúng dú lừn, lại xáu tan pay háng.

(Ông ở nhà, con với cháu đi chợ)

Lúc này, cha, mẹ người Nùng cũng gọi con mình kèm theo tên con của người con.

Cách xưng hô này có cấu trúc : tên vai thiên chức pá (bố) mé (mẹ) + tu (con), ò (thằng) +

tên người cháu:

Pá (bố) : Thưng càu pá ò Quân pay Hà Nội ?

(Bao giờ bố Quân đi Hà Nội ?)

Lục (con) : vần tục cúng à.

(Ngày mai ong )

Má (bà) : Má tu Làn băn nòn á ?

(Mẹ con Làn chưa ngũ à ?)

Tóm lại, xưng hô giữa cha, mẹ và con cái là xưng hô giữa những người có quan hệ

huyết thống nhưng không cùng thế hệ.

Đây là quan hệ giữa bề trên, thế hệ trước (cha mẹ) với bề dưới, thế hệ sau (con cái). Sự

phân định ngôi thứ một cách rõ ràng tạo chô việc xưng hô trong quan hệ vai này có những

đặc điểm sau:

- Vì là bề trên, có quyền uy nên cha, mẹ có thể lựa chọn từ xưng hô một cách thôải mái

với các sắc thái biểu cảm như thân mật / suồng sã, âu yếm / giận dữ ...

- Ngược lại, vì là bề dưới, trong mọi trường hộp con cái luôn phải xưng hô chuẩn mực,

lễ độ với cha, mẹ. Mọi cách xưng hô vượt qua luật tôn ti sẽ bị coi là phạm chuẩn, không thể

chấp nhận.

Quan hệ giữa cha mẹ và con cái là quan hệ phi đối xứng.

Tín ngưỡng dân tộc là một trong những nhân tố chi phối cách dùng từ xưng hô trong

quan hệ vai giữa cha, mẹ và con cái. Đây là nét riêng biệt trong xưng hô ở người Nùng.

114

3.6. XƯNG HÔ GIỮA ÔNG BÀ VÀ CHÁU TRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI

NÙNG.

3.6.1. Cặp từ xưng hô có tính thuận nghịch giữa ông, bà và cháu trong gia đình người

Nùng là cúng, má  lan. Đây là kiểu xưng hô tương ứng chính xác - mọi người tự xưng

bằng chính vai của mình và gọi đối tượng trong mối quan hệ vai với mình. Ví dụ :

- Cúng cạ lan mí tỉnh á ?

(Ông bảo cháu không nghe à ?)

- Lan pay Khau Lừ xáu má mí.

(Cháu đi Lạng Sơn với bà không ?)

- Cúng kin láu van mí, lan slư hử.

(Ông ăn rượu nếp không, cháu mua chô)

Tuy nhiên, bêu cạnh kiểu xưng hô tương ứng chính xác như trên xưng hô giữa ông, bà

và cháu trong gia đình người Nùng còn có nhiều cách xưng hô tùy theo tùng hôàn cảnh giao

tiếp với những sắc thái tình cảm âu yếm, giận dữ, lịch sự hay suồng sã...

3.6.2. Đại từ cau (tao) ngôi thứ nhất, số ít thường được ông bà người Nùng để tự xưng

với các cháu. Khi tự xưng là cau, ông, bà sẽ gọi các cháu là mưng (mày). Ví dụ:

- Can mí nả, mưng hít pìn càu dó hít

(Tao không biết, mày làm thế nào thì làm)

Ông, bà cũng có thể xưng cau và gọi cháu ò (thằng), tu (con) , kí ò (những thằng), kí tu

(những con ) + từ chỉ xuất nảy (này ). Ví dụ:

- Ò náy mà mí ?

(Thằng này về không ?)

- Tu náy hăn mủ cau dú cau mí ?

(Con này thấy mũ tao đâu không

- Kí tu náy cạ mái mí tính chử mí.

(Mấy con này nói mãi không nghe phải không ?)

115

Như vậy, khi xưng bằng đại từ cau thì người ông, bà có thể gọi cháu là mưng hôặc gọi

các cháu theo cấu trúc : ò, tu, kí ờ, kí tu + từ chỉ xuất nảy.

Người ông hôặc người bà cũng có thể gọi tên riêng của cháu hay gọi các cháu theo cấu

trúc : tên vai thiên chức lan (cháu) + tên riêng của người cháu. Ví dụ:

- Eng ơi, mé mung thắp mưng thưng lai đá. (Eng là tên cháu)

(Eng ơi, mẹ mày tìm lâu lắm rồi đấy)

- Vằn náy lan Eng mí pay au fư á ?

( Hôm nay cháu Eng không đi lấy củi à ?)

Cấu trúc vai thiên chức lan (cháu) + tên riêng người cháu được ông bà người Nùng sử

dụng để xưng hô với các cháu vừa biểu thị thái độ thân mật, gần gũi vừa nhằm mục đích

hướng phát ngôn vào một đối tượng (cháu) cụ thể trong trường họp có nhiều cháu đang

đứng trước ông bà.

Lối gọi thay vai cũng thường thấy trong xưng hô giữa ông, bà và cháu người Nùng :

- Có Lợi hử noọng pay váy.

(Anh Lợi chô em đi nào)

- Ché Sao pay slon slư mà dá vớ.

(Chị Sao đi học về rồi này)

Người ông hôặc người bà tự tách vai của mình để khôác vai của người anh, người chị

hôặc người em của đối tượng để xưng hô với đối tượng đó. Thường là khi có mặt người em,

ông, bà mới gọi anh, chị (của người em) theo lối gọi thay vai như vậy. Đây là lối xưng hô

thân thiết.

Ông ba người Nùng thường xưng hô một cách tương ứng chính xác là cúng, má - lan

với những người cháu đã trưởng thành hay có nghề nghiệp, địa vị trong xã hội. Kiểu xưng

hô này không đơn thuần là cách hô gọi thông thường mà biểu thị thái độ qu1i mếm, trân

trọng của ông, bà với các cháu.

Nhiều khi bực tức, giận hờn các cháu, ông, bà người Nùng "tôn" các cháu lén là có

(anh), ché (chị ). Cách gọi này khiến chô khôảng cách giữa ông bà và cháu "giãn" ra xa hơn,

do đó tình thân hữu giảm xuống mà nổi lên là sự giận hờn, mỉa mai. Ví dụ:

116

- Có, ché híu lai đá !

(Anh, chị giỏi lắm rồi !)

3.6.3. Ở người Việt, ông, bà có thể gọi cháu là con. Đó là kiểu xưng hô tạo lập quan

hệ. Ông bà tự kéo gần khôảng cách về thế hệ giữa mình và cháu chô thân thiết. Trong những

trường hợp như vậy, các cháu cũng tự xưng con trướ ông bà nhưng vẫn gọi ông bà bằng

đúng vai của ông bà chứ hầu như không có từ nào khác thay thế. Tuy nhiên, cách xưng con

đã tạo nên sụ gần gũi giữa ông bà và cháu. Ngược lại, ở người Nùng, ông bà ít khi gọi cháu

là con. Tuy nhiên, trong những tình huống nhất định họ lại gọi cháu là con nhất là khi đứa

cháu còn nhỏ. Chẳng hạn, do nghịch ngợm đứa cháu bị tai nạn, lúc đó ông bà có thể nói:

- Hít lăng cúng cháng lục mí tỉnh !

(Sao ông nói con không nghe !)

Ở những câu cảm thân, trong những trường hợp đặc biệt như trên ông bà người Nùng

mới gọi cháu là lục (con). Có lẽ vì cháu cũng là một phần máu thịt của mình nên khi bé bị

tai nạn người ông, người bà cũng xót xa đau đớn như chính cha mẹ của bé. Lúc này, khôảng

cách về thế hệ tuổi tác ... của ông bà như quá xa vời với tình thương yêu bé ông bà tự hạ

mình xuống một thế hệ - thế hệ cha mẹ để gọi cháu bằng lục (con). Và có lẽ chỉ gọi như thế

mới bày tỏ hết sự trách móc, xen lẫn niềm yêu thương xót xa của ông bà với cháu. Như vậy,

tình huống giao tiếp luôn tạo chô các nhân vật tương tác có các cách xưng hô để bày tỏ tình

cảm, tâm hồn của mình.

3.6.4. Khi các cháu có con, ông bà người Nùng thường gọi cháu mình kèm theo tên

con đầu lòng của người cháu. Đó là cấu trúc xưng hô : tên vai thiên chức pá, mé (bố, mẹ) +

tên riêng cua người cháu.

- Pá Lăng pay háng sự din mà hử cúng hả.

(Bố Lăng đi chợ mua thuốc về chô ông nhé)

Trong cách gọi này, ông bà vẫn tự xưng với các cháu bằng vai quan hệ của mình là

cúng, má.

3.6.5. Ông bà người Nùng có nhiều cách để trỏ về cháu mình (người cháu ở ngôi thứ

ba) với người đối thoại. Nếu người đối thoại là bậc cha, chú của cháu thì ông, bà gọi cháu

mình là lan (cháu) :

117

- Lan pay hưng dà.

(Cháu đi lâu rồi.)

Nếu người đối thoại lớn tuổi hơn cháu mình tuổi anh, chị thì ông, bà sẽ gọi cháu là

noọng (em) hôạt; noọng + tên. Ví dụ.

- Noọng pay hấp nặm đá lan à .

(Em đi gánh nước rồi cháu ạ)

- Noọng Hóng dảo ché tắng min cón.

(Em Hóng bảo chị đợi em đã)

Nếu người đối thoại ít tuổi hơn cháu mình thì ông, bà có thể gọi cháu là có, ché (anh,

chị) hôặc có, ché+ tên người cháu:

- Có pay nòn dá lan à

(Anh đi ngủ rồi em ạ)

- Ché mí dù lừn lan à.

(Chị không ở nhà cháu ạ)

- Có Hùng mí chảng lăng xáu lan á ?

(Anh Hùng không nói gì với cháu à ?)

Ché Hăng cạ au hử lan an náy "

(Chị Hằng bảo đưa chô cháu cái này).

Đây thực chất là cách gọi thay vai : người ông hôặc người bà ồổng hôá vào vai người

đối thoại để trỏ cháú mình. Nghĩa là người đối thoại đáng tuổi chú, bác ... thì gọi cháu là

lan, đáng tuổi anh, chị gọi cháu là noọng và đáng tuổi em thì gọi cháu là có, ché.

Như vậy, xưng hô giữa ông bà và cháu là xưng hô giữa những người khác xa nhau về

thế hệ, tuổi tác, sự từng trải ... Vì là bậc trên, ông bà luôn chủ động trong việc lựa chọn từ

xưng hô với các cháu. Ông bà có thể sử dụng từ hô (cũng như gọi các cháu trước người đối

thoại) với các sắc thái tình cảm thân mật / suồng sã, âu yếm/ giận dữ, xưng hô bằng vai /

xưng hô thay vai ... Trong khi đó, vì là ở vai thua kém ông bà về tuổi tác quá xa nên các

cháu chỉ có thể xưng hô một cách tôn kính với ông bà. Chính vì thế, trong loại quan hệ vai

này những từ ông bà dùng để xưng hô trước các cháu phông phú hơn các từ các cháu có thể

118

dùng để xưng hô với ông bà. Đặc điểm này chính là thể hiện tính một chiều của người có

quyền uy (power) trong xưng hô như chúng tôi đã nói ở chương 1.

Kết luận chương 3: Nghiên cứu các cách xưng hô trong gia tộc người Nùng chúng tôi

rút ra những nhận xét sau:

Thứ nhất, cũng như ở người Việt, hai nguyên tắc cơ bản được người Nùng sử dụng

trong xưng hô là nguyên tắc tự ngã trung tâm và nguyên tắc gọi thay ngôi. Nguyên tắc tự

ngã trung tâm là những cách xưng hô tương ứng chính xác (lấy báu thân mình làm mốc để

xưng hô) thể hiện đúng mối quan hệ của mình với người đối thoại như pá, mé  lục, có,

ché  noọng, cúng , má , xúc , dé ...  lan ... Nguyên tắc gọi thay ngôi là những cách gọi

kèm, gọi thay vai của người khác- lấy vai người khác để xưng hô.

Thứ hai, người Nùng tránh gọi tên riêng của người đối thoại. Đặc biệt, người ở vị thế

thấp không được phép gọi tên tục của người ở vị thế cao. Nguyên tắc kỵ húy được tuân thủ

một cách nghiêm ngặt đối với những người mang vai dâu, rể. Có thể để tránh gọi tên riêng

của dâu, rể mà người Nùng đã có những từ ngữ và các cách gọi như gọi kèm, gọi thay vai,

gọi theo thứ bậc ... trong loại quan hệ này. Vì thế, số lượng từ xưng hô giữa đâu, rể với các

thành viên trong gia tộc người Nùng rất phông phú và đa dạng.

Thứ ba, khi giao tiếp với các thành viên trong gia tộc, người Nùng luôn phân định rạch

ròi mối quan hệ giữa mình và người đối thoại. Điều đó trước hết thể hiện qua các từ xưng

hô. Các cặp từ xưng hô đối lập giữa con đẻ và con dâu, rể: lục / pỏ tài, mé tài giữa cháu họ

và cháu dâu, rể : lan / lan lìu, lan khưi, giữa anh chị ruột (hôặc họ) và anh chị dâu, rể: có,

ché / ché fú, tài slảo... giữa bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng : pá má / pá mả giữa ông bà nội và

ông bà ngoại : cúng, má / cúng ta, má tai v.v... là những bằng chứng, chứng minh chô luận

điểm chúng tôi vừa trình bày.

Trong hệ thống danh từ thân tộc của tiếng Việt, một số danh từ thân tộc chỉ có chức

năng miêu tả, định danh chứ không thể dùng làm từ xưng hô như các từ dâu, rể, anh rể, chú

rể, bác trai, bác gái ... [23, 140] ... Ngược lại, nguyên tắc xưng hô trong gia tộc người Nùng

là phải xưng hô dùng mối quan hệ giữa mình với người đối thoại. Do đó, mộ số daanh từ chỉ

người không được dùng làm từ xưng hô trong tiếng Việt nhưng trong tiếng Nùng chúng lại

được dùng làm từ xưng hô với những nguyên tắc xưng hô rạch ròi và chặt chẽ như các từ lù

(dâu), khưi (rể), ché fú (anh rể), cú chôòng (chú rể - chồng cô), dì chôòng (chú rể - chồng

dì), dé (bác trai), mú (bác gái) ...

119

Hiện tượng trên khiến chô lớp danh từ thân tộc dùng để xưng hô của tiếng Nùng lớn

hơn lớp danh từ thân tộc dùng để xưng hô của tiếng Việt.

Thứ tư, trong số các danh từ thân tộc dùng để xưng hô trong tiếng Nùng, các danh từ

chỉ vị thế thấp như con, cháu, em còn giữ được những dấu ấn của họ ngôn ngữ Tày - Thái.

So sánh

Tiếng Tày : lục (con), lan (cháu ), noọng (em)

Tiếng Nùng : lục (con), lan (cháu), noọng (em)

Tiếng Thái (Việt Nam) Lục (con) lan (cháu), noọng (em)

Nhưng các danh từ chỉ bậc trên như cha mẹ, ông bà, chú bác ... ở mỗi thứ tiếng đã có

sự phân hôá dẫn đến sự khác nhau về số lượng cũng như cách ửú dụng. Giải thích hiện

tượng này cần phải có những cứ liệu về ngữ âm học lịch sử, về nguồn gốc chủng tộc, gia

đình, sự ảnh hưởng của các tôn giáo ... mà chúng tôi chưa thể giải quyết ở đề tài này.

120

CHƯƠNG 4: CÁCH XƯNG HÔ NGOÀI XÃ HỘI Ở NGƯỜI NÙNG

Cũng như ở người Việt, trong xưng hô ngoài xã hội, người Nùng chủ yếu dùng các

danh từ thân tộc để định vị chô các mối quan hệ xã hội. Nói cách khác, các danh từ thân tộc

được sử dụng rộng rãi để xưng hô trong quan hệ xã hội của người Nùng.

Hệ thống đại từ xưng hô chuyên dùng tiếng Nùng có tính khái quát cao với hội đủ các

sắc thái biểu cảm, đặc biệt, có những đại từ mang tính chuyên biệt về phạm vi sử dụng - chủ

yếu dùng xưng hô ngoài xã hội như các đại từ lại, khỏi lại. Như vậy, các đại từ nhân xưng

và các danh từ thân tộc tiếng Nùng vừa dùng xưng hô trong gia đình vừa dùng xưng hô giao

tiếp ngoài xã hội. Chương 2 và 3, chúng tôi đã nghiên cứu cách dùng đại từ, cách dùng danh

từ thân tộc để xưng hô trong tiếng Nùng. Ở chương này, để tránh trùng lặp, chúng tôi không

nghiên cứu cách dùng đại từ cũng như danh từ thân tộc của tiếng Nùng trong giao tiếp ngoài

xã hội. Cách dùng các danh từ thân tộc và các đại từ xưng hô ngoài xã hội giữa tiếng Việt và

tiếng Nùng lại có nhiều điểm khác biệt. Phần kết luận ở chương này, chúng tôi sẽ chỉ ra

những khác biệt đó ở hai hệ thống ngôn ngữ.

Chúng tói chọn tiêu đề đặt chô chương 4 như trên có thể hơi lệch hệ thống. Chương 2

và chương 3 đặt tên theo cách dùng các phương tiện xưng hô như Cách xưng hô bằng đại từ

trong tiếng Nùng, cách xưng hô bằng danh từ thân tộc trong tiếng Nùng. Chương 4 lại đặt

theo phạm vi giao tiếp: Cách xưng hô ngoài xã hội. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn chọn tiêu đề

trên đặt chô chương 4. Bởi vì, trong chương này, chúng tôi tìm hiểu từ xưng hô, cách xưng

hô trong các hôạt động văn hôá, tín ngưỡng như cưới xin, dân ca, mo, then ... và các từ xưng

hô theo chức nghiệp. Nói cách khác, những từ xưng hô được tìm hiểu ở chương này là

những từ xưng hô chủ yếu dùng trong giao tiếp xã hội, trong một số hôạt động xã hội cụ

thể.

Chúng tôi nghĩ rằng, tìm hiểu từ xưng hô trong các hôạt động xã hội, ở các mối quan

hệ xã hội cụ thể và ở những ngành nghề nhất định mới có thể phát hiện ra những cách xưng

hô thường được dùng trong giao tiếp xã hội của người Nùng.

4.1. XƯNG HÔ TRONG VÀ SAU ĐÁM CƯỚI CỦA NGƯỜI NÙNG.

4.1.1. XƯNG HÔ TRONG ĐÁM CƯỚI.

Luận án của chúng tôi không phải là công trình nghiên cứu sâu về phông tục tập quán

của người Nùng. Do đó, ở mục này, chúng tôi chỉ sơ lược giới thiệu một số nét về phông tục

121

cưới xin của người Nùng. Trên cơ sở đó, chúng tôi tìm hiểu những từ xưng hô gắn phông

tục cưới xin của người Nùng. Đó làa những từ xưng hô, những cách xưng hô được sử dụng

trong và sau đám cưới của người Nùng.

Trong đám cưới của người Nùng, nhưng danh từ sau thường xuất hiện trong các phát

ngôn của nhũng người tham dự :

Pỏ mòi : Ông mối

Mẻ mòi : Bà mối

Cúng ta mòi : Ông ngoại - người làm mối.

Má ta mòi : Bà ngoại - người làm mối.

Nàng tai

Tai slúng Bà đưa.

Mẻ tai

Má tai

Nàng tẳng : Cô đón

Mẻ pạu Phụ dâu

Nàng pạu

Những danh từ trên đảm nhiệm hai chức năng chủ yếu: chức năng định danh, miêu tả

và chức năng xưng hô. Chức năng định danh của các từ trên là trỏ người đang giữ một vai

trò nhất định trong và sau đám cưới. Ví dụ :

- Cừn càư hít pỏ (mẻ) mòi à ?

(Người nào làm ông bà mối đây ?)

- Nàng pạu náy đay slao vớ.

(Phụ dâu này xinh gái nhỉ)

- Tai slúng này chảng hiu vớ !

(Bà đưa này nói giỏi nhí)

Chúng tôi tìm hiểu cách dùng những danh từ trên để xưng hô trong đám cưới tức tìm

hiểu chức năng xưng hô của chúng.

122

Cũng như ở người Việt và nhiều dân tộc trong khu vực Đông Nam A, đám cưới của

người Nùng được tổ chức với nhiều nghi lễ trang trọng như đưa lễ và nhận lễ, đưa dâu và

đón dâu, cúng vái bàn thờ tổ tiên, nhận họ hàng khi cô dâu về nhà chồng v.v... Vì thế, cả

nhà trai và nhà gái đều mời những người có tuổi, con cái dè huề, gia đình hạnh phúc và đặc

biệt là có tài ăn nói, ứng xử (thậm chỉ ứng xứ bằng thơ ca) để làm trưởng đoàn đưa dâu và

đón dâu.

Người đại diện chô nhà trai trong quá trình giao dịch với nhà gái để có được đám cưới

gọi là pỏ mòi (ông mối), mẻ mòi (bà mối). Pỏ mòi, mé mòi là chiếc cầu nối, là xứ giả giữa

gia đình nhà trai và nhà gái. " Trong việc cưới xin của người Nùng, vai trò của ông mối, bà

mối hết sức quan trọng. Người làm mối thay mặt nhà trai tiến hành mọi thu tục cưới xin từ

lễ dạm hỏi chô đến lễ cưới chính thức." [62, 96]

Những người tham dự đám cưới có thể dùng danh từ pỏ mòi (ông mối), mé mòi (bà

mối) để xưng hô khi giao tiếp với ông bà mối. Ví dụ :

- Xính pỏ mòi kin xà.

(Mời ông mối uống nước)

- Kí cung mé mòi lai.

(Nhớ công của bà mối nhiều lắm)

Trong đám cưới, những người tới dự có thể gọi ông bà mối cúng ta (ông ngoại), má tai

(bà ngoại). Ví dụ :

- Lim xính cúng ta mòi chôóc láu.

(Cháu mời ông ngoại (ông mối) chén rượu)

- Hau cán má tai mòi cháng đay có lai.

(Người ta khen bà ngoại (bà mối) nói hay lắm).

Cùng được dùng làm từ xưng hô (chức năng xưng hô), và cùng một giá trị biểu vật

(chức năng định danh) là trỏ người làm mối nhưng có lẽ cặp từ má tai (bà ngoại), cúng tai

(ông ngoại) có sắc thái biểu cảm thân tình hơn là cặp từ cúng ta mòi, má tai mòi. Có thể do

cặp từ cúng ta, má tai không có yếu tố mòi (mối)- chỉ quan hệ qua lại nên xét về hình thức

không có sự phân biệt giữa cúng ta, má tai (ông bà ngoại - bố mẹ cô dâu) và cúng ta mòi,

má tai mòi (cô dâu nhận ông bà mối làm cha mẹ nuôi).

123

Trong đám cưới người Nùng, bên nhà trai bao giờ cũng có nàng tẳng (cô đưa). Nàng

tẳng là những có gái chưa chồng, xinh đẹp có tài ăn nói, ứng khẩu bằng thơ, băng sli. Danh

từ nàng tẳng cũng được dùng làm từ xưng hô. Ví dụ:

- Vằn náy nàng tẳng sli xám lai.

(Hôm nay nàng tẳng sli giỏi lắm)

Người đại diện chô nhà gái được gọi là bà đưa - đưa cô dâu về nhà chồng. Những

danh từ như nàng tai, tai slúng, mẻ tai, má tui... là từ trỏ bà đưa và đều có thể dùng làm từ

xưng hô.

Nhìn chung, bốn từ trên đều có thể dùng trong những hôàn cảnh giao tiếp hết sức qui

thức fonnal. Tuy nhiên, mỗi từ có một sắc thái riêng khi sử dụng. Hai từ nàng tai, tai slúng

thường được dùng với sắc thái trang trọng, lịch sử và có phần khách khí. Từ mẻ tai (bà

ngoại- bà đưa) trung hôà vé sắc thái biểu cảm. Từ má tai (bà ngoại - bà đưa) được sử dụng

với sắc thái thân tình, tình cảm gần gũi.

Trong đám cưới của người Nùng, Nàng tai cũng phải là người biết ăn nói, ứng xử và

thường ứng xử bằng thơ ca. Bà đưa là người cảm ơn về sự đón tiếp của nhà trai đối với nhà

gái hôặc chê trách những điều không bằng lòng của nhà gái với nhà trai. Những ý kiến này

của Nàng tai thường bằng thơ ca rất tế nhị. Dân ca Nùng có rất nhiều bài, câu ca ngợi Nàng

tai. Ví dụ :

Bà mẹ bên đó thật thông minh

Mới đi làng để nhờ

Mới ra phố để cậy

Là chị là em mới đến nhà

Là con là cháu mới đến cậy

Nhờ đến làm bà Tai

Cậy tới làm Nàng Tẳng . [Bản dịch của 96, 193]

Khác với ông bà mối, sau khi đám cưới kết thúc thì vai trò của bà đưa cũng không còn

nữa. Với người Nùng, những người có tài ăn nói ứng xử thì vào mùa cưới thường được mời

đi lút mùa làm ông mối, bà đưa -Đây là nét văn hôá đặc sắc của người Nùng. Chúng tôi nghĩ

rằng sẽ rất thú vị nếu có một công trình nghiên cứu sâu về tục cưới xin và những bài ca ứng

124

đối cũng như vai trò của các ông mối, bà mối, bà đưa trong sinh hôái cưới hỏi của người

Nùng.

Phụ dân cũng là một nhân vật rất quan trọng trong đám cưới của người Nùng. Tiếng

Nùng có hai từ dùng để trỏ người phụ dâu: Nàng pạu và Mé pạu. Hai từ này đều có thể dùng

làm từ xưng hô. Từ mé pạu được sử dụng với sắc thái trung hôà. Từ Nàng pạu được sử dụng

với sắc thái lịch sự, văn hôá hết sức trang trọng. Trong đám cưới của người Nùng, "Nàng

pạu cũng nhắc tới nhiều, vì đó là những người trẻ đẹp, chưa chồng và cũng không kém tài

ứng đối bằng "văn nghệ" bằng sli, bằng cỏ láu" [96, 10] . Trong dân ca Nùng, có rất nhiều

bài, nhiều câu ca ngợi Nàng pạu. Ví dụ:

Nàng pạu cầm lấy dao phát hai bên

Phát bên trai trở lại, phát bên phải trở đi

Nàng pạu lấy trấu rải theo đường

Nàng pạu xứ này quá thông minh

Nàng pạu xứ này thật sáng ý.

[Bản dịch của 96, 188]

Tất cả những từ xưng hô trên, dù có sắc thái trung hôà như mé pạu, mé tai, mé mòi hay

có sắc thái lịch sự, trang trọng như các từ tai slúng, nàng tai, nàng pạu hôặc có sắc thái thân

mật gần gũi như các từ má tai, cúng ta ... chúng đều đều được dùng trong các ngữ cảnh giao

tiếp qui thức -trong đám cưới của người Nùng. Ngoại trừ hai từ má tai (bà ngoại), cúng ta

(ông ngoại), những từ còn lại như nàng pạu, tai slúng, mé tai... chủ yếu dùng trong hôạt

động cưới hỏi.

4.1.2. XƯNG HÔ SAU ĐÁM CƯỚI.

Sau đám cưới, nhiêu cô dâu, chú rể sẽ nhận ông bà mối làm cha mẹ nuôi. "Ông mối bà

mối được cô dâu chú rể nhận làm cha mẹ nuôi hàng năm đến lễ tết để tỏ lòng biết ơn".

Trong tiếng Nùng, các từ cúng ta mòi (ông ngoại - người làm mối), má tai mòi (bà ngoại -

người làm mối) là biểu thị chô loại quan hệ này. Như vậy, ông bà mối trở thành cha mẹ nuôi

của cô dâu. Bởi vì trong cụm danh từ cúng ta mòi, má tai mòi thì các yêu tố cúng ta, má tai

là những dấn hiệu trỏ bên ngoại : cúng ta - ông ngoại, má tai - bà ngoại. Từ mòi (mối) là

dấu hiệu biểu thị chô mưng quan qua lại, người làm mối và người được làm mối. Ví dụ:

125

- Náy chử cúng ta mòi hung lại.

( Đây là ông ngoại người làm mối của em).

Vì là đại diện chô nhà trai nên nhưng ông bà mối thường là người cùng làng với chú

rể. Cô dâu có khi là người của làng khác, về làng mới làm dâu không có người thân quen

nên nhận ông bà mối làm cha mẹ vừa lấy nơi đi lại, vừa tỏ lòng biết ơn những người đã có

công tác thành đôi lứa chô mình. Dân ca Nùng có bài “Nai dè mòi” trong đó có câu:

"Ướt áo không chỗ phơi

Bụng đói chẳng nơi nấu"

[Bản dịch của 96, 196]

Câu trên ý nói nàng dâu về làng mới gặp khó khăn "không chổ phơi", "chẳng nơi nấu"

thì hãy nhờ cậy ông bà mối.

Khi chưa có con, cô dâu, chú rể gọi ông bà mối của mình là pá (bố), mé (mẹ). Ông bà

mối cũng gọi cô dâu-chú rể (lúc này đã là con nuôi của mình) theo thứ bậc (thứ bậc của

người con trai). Nếu người con trai là con cả thì họ gọi là ò tai (thằng cả) và gọi vợ anh ta là

tu tài (con cả). Nếu là con thứ thì có các từ như ò dì (thâng hai), ò slam (thâng ba), tu dì

(con hai), tu slam (con ba)...

Khi có con, cô dâu, chú rể người Nùng gọi ông bà mối của mình là cúng ta (ông

ngoại), má tai (bà ngoại). Như vậy, cách xưng hô giữa ông bà mối và cô dâu chú rể sau đám

cưới là cách xưng hô giữa cha mẹ và con. Bởi về xét về mặt ngôn ngữ, cách xưng hô này

không phân biệt giữa bố mẹ cô dâu (cúng ta, má tai) và ông bà mối. Có thể nói, nhờ phông

tục "cưới xin mà ở người Nùng có những mối quan hệ vốn là quan hệ xã hội lại trở thành

quan hệ gia đình thân thiết gắn bó. Đó là quan hệ giữa người làm mối và người được làm

mối. Đây là nét đẹp văn hôá trong tục cưới xin của người Nùng.

Sau khi lễ thành hôn chô đôi trai gái kết thúc, giữa hai bên gia đình sẽ hình thành một

quan hệ mới : quan hệ thông gia. Đây là hiện tượng xã hội có tính phổ quát trong nhiều dân

tộc trên thế giới. Quan hệ thông gia là một loại quan hệ vừa có tính chất xã hội vừa mang

tính gia đình.

Trong tiếng Nùng, xăn nghĩa là thân, thân thiết. Từ xăn tiếng Nùng cũng có hai chức

năng : chức năng định danh (trỏ những người có quan hệ thông gia) và chức năng xưng hô

(dùng để xưng hô giữa những người có quan hệ thông gia với nhau).

126

Đối với người Việt, ở phương ngôn miền Bắc những người có quan hệ thông gia

thường gọi nhau là anh, chị, và tự xưng là em hay tôi theo nguyên tắc xưng khiêm hô tốn

hôặc gọi nhau là ông, bà và tự xưng là tôi theo nguyên tắc gọi thay vai. Nghĩa là họ xưng hô

với nhau một cách bình thường, không có từ xưng hô nào biểu thị chô quan hệ thông gia của

họ. Ở phương ngôn Nam bộ những người có quan hệ thông gia thường gọi nhau là xui và từ

xui được dùng để xưng hô trong sự kết hợp với các danh từ thân tộc như anh xui, chị xui,

ông xui, bà xui... Cấu trúc và cách xưng hô này vừa thể hiện được thứ bậc vừa thể hiện được

quan hệ qua lại giữa các nhân vật hội thoại. Có thể nói, cách xưng hô này làm bộc lộ rõ mối

quan hệ xã hội của các nhân vật hội thoại.

Trong quan hệ thông gia, người Nùng cũng có cách xưng hô như những người có quan

hệ thông gia ở vùng Nam Bộ của người Việt. Người Nùng cũng dùng ngay danh từ chỉ quan

hệ xã hội (quan hệ thông gia) để xưng hô với nhau. Đó là từ xăn. Các danh từ thân tộc như

cúng (ông), má (bà), dé (bác trai), mú (bác gái), xúc (chú), xẳm (thím)... kết hợp với từ xăn

để tạo thành từ xưng hô như cúng xăn (ông thông gia), má xăn (bà thông gia), xúc xăn (chú

thông gia) ...

Ở người Nùng, khi quan hệ thông gia mới được thiết lập, bố mẹ của đôi vợ chồng trẻ

(ông bà thông gia) gọi nhau là pỉ xăn (anh, chị thông gia) hay dé xăn (bác thông gia), mú

xăn (bác (gái) thông gia) nếu người được gọi nhiều tuổi hơn. Trong quan hệ thông gia,

người nhiều tuổi hơn gọi người ít tuổi là xúc xăn (chú thông gia), xẳm xăn (thím thông gia).

Ví dụ :

- Dé xăn khai đáy lai mác chác mí ?

(Bác thông gia bán được nhiều hôi không ?)

- Pí xăn pay slự kháu mà hung láu chử mí ?

(Chị thông gia đi mua rượu vé nấu gạo phải không ?)

- Xúc xăn mà lỉu hưng băn ?

(Chú thông gia đến chơi lâu chua ?)

Quan sát những từ xưng hô trong quan hệ thông gia của người Nùng, chúng ta thấy có

hai cặp từ xưng hô rất đáng chú ý. Đó là từ xúc xăn (chú thông gia) và xẳm xăn (thím thông

gia). Người Nùng thường dùng hai từ trên để xưng hô với người ít tuổi hơn mình (dĩ nhiên

là trong quan hệ thông gia). Hai từ xúc xăn, xẳm xăn thực chất là từ dùng chô cách gọi thay

127

vai, lấy vai của con để gọi người có quan hệ thông gia với mình. Song điều đáng chú ý là

khi đã gọi ông thông gia là xúc xăn tại sao người Nùng lại không gọi vợ ông ta (tức bà thông

gia) là cú xăn (cô thông gia) mà lại gọi là xẳm xăn (thím thông gia) ? Phải chăng trong quan

hệ thông gia của người Nùng, với người ít tuổi hơn họ coi như em trai của mình (đối với

ông thông gia). Vì thế, bà thông gia lại được coi như người em dâu. Do đó mới có từ xẳm

xăn (thím thông gia), Xẳm (thím) là từ trỏ người vợ của xúc (chú). Như vậy, khi người Nùng

gọi thông gia của mình là xúc xăn -xắm xăn là biểu thị thái độ thân tình, gắn bó như ruột

thịt.

Khi vợ chồng trẻ có con, hai bên thông gia thường gọi nhau môt cách trân trọng là

cúng xăn (ông thông gia), má xăn (bà thông gia). Do là cách lay. vai người chau de xưng hô.

Cách xiíny hô này vừa biểu thị thái độ trân trọng giữa thông gia với nhau vừa để chứng tỏ

rằng họ đã lên chức ông bà.

Tóm lại, phông tục cưới xin với những bà mối, ông mối, bà đưa, cô đưa... của người

Nùng đã làm nảy sinh nhiều từ xưng hô rất độc đáo. Nói cách khác, những tư xưng hô đó

(từ xưng hô trong đám cưới) là những dấu hiện ngôn ngữ phản ánh những phông tục tập

quán - văn hôá cưới hỏi của người Nùng.

4.2. XƯNG HÔ TRONG DÂN CA CỦA NGƯỜI NÙNG.

Tìm hiểu tư xưng hô trong dân ca người Nùng chúng tôi muốn chứng minh một điều:

Ở mỗi một hình thức giao tiếp (giao tiếp khẩu ngữ và giao tiếp nghệ thuật) người Nùng sẽ

có những từ xưng hô chuyên dùng chô từng phông cách ở các chương, mục trước chúng tôi

đã nghiên cứu các cách xưng hô trong hội thoại tiếng Nùng - tức nghiên cứu từ xưng hô

tiếng Nùng ở phông cách hội thoại miệng. Mục này, chúng tôi tìm hiểu từ xưng hô trong

dân ca người Nùng - tức phông cách nghệ thuật. Dân ca của người Nùng rất phông phú và

đa dạng về thể loại như đồng bào, sli, hát tang lễ, có láu v.v... Ỏ đây, chúng tôi chỉ tìm hiểu

từ xưng hô trong sli của người Nùng.

Sli Xình Làng là một trong những thể loại dân ca của người Nùng Cháo. Đó là thể loại

hái đối giữa bên nam và bên nữ. Mỗi bên có một hôặc vài người cùng tham gia. sli sình lang

gồm sli xỉnh (sli mòi), sli óc lò (sli ra đường), sli khảu bản (sli vào bản), sli chao (sli giao

duyên), sli đíp (sli yêu), sli xo đan (sli trầu) v.v... Mỗi bài sli thường có từ 6 đến 8 câu hôặc

dài hơn như trong sít thâng, sli mùa. Mỗi câu có 7 chữ. Một lời sli hay một lời đối được coi

là chuẩn phải bảo đảm tính qui định về vần như sau: chữ cuối cùng của câu thứ hai phải

128

cùng vần với chữ cuối cùng của câu đầu tiên. Tính từ câu thứ hai, cứ cách một câu thì chữ

cuối cùng của câu dưới (cách một dòng) phải cùng vần với chữ cuối cùng của câu trên. Ví

dụ:

Véng phải pặt mà quá véng sau

Bó slu sli khôả lẹ sli làu

Sáng chừ sli làu làu đảy tóp

Sáng chừ sli khôả mí quen làu

Slam pẳng hả dạu mà dú náy

Xý và hông làu sóng trá tàu

Tì pò xóng chá mì tha nả

Tì mẻ xóng chá dạc du hau [134 , 15]

Qui luật bằng trắc cũng tạo nên sự hôà phối về âm thanh chô một lời sli. Quan sát lời

sli trên chúng ta thấy trên chữ cuối cùng của câu thứ hai là thanh bằng (làu) thì chữ cuối

cùng của câu kế tiếp, câu thứ ba phải là vần trắc (tóp) cứ như vậy bằng trắc đáp đối nhau

chô đến hết bài. Nói điều này để chúng ta thấy rằng người Nùng quả có tâm hồn thi sĩ, lời

đối đáp ứng khẩu thành thơ để diễn tả tâm hồn, tình cảm của mình một cách nghệ thuật qua

vần điệu, bằng trắc của một lời sli.

Và ở đây chúng tôi muốn nói tới những cung bậc tình cảm của họ qua các từ xưng hô

trong những điệu sli của dân tộc mình.

Hầu hết các đại từ xưng hô được sử dụng để diễn ta tình cảm của những nam thanh

nữa tú. Trong nhiều câu sli, đại từ làu (mình) kết hạp với số lù sloong (hai) để nói lên tình

cảm thân thiết của đôi bạn sli :

Sloong làu chao đáy giá án xình

Chang slim noọng đíp có lang dì

(Đôi ta giao kết được mối tình

Lòng em thương nhớ đến anh luôn) [134,120]

- Sloong làu sli xóng dì khừn chang

Lùng văn lò pjưc nọi đen xăng

129

(Đôi ta sli đã hết đêm khuya

Trời sáng giã biệt lòng lưu luyến) [ 134,142 ]

Khi đã tàn đêm sli cũng có nghĩa là khi đôi bạn sli đã giãi bày với nhau về tâm tư tình

cảm, khi họ đã bén duyên nhau, đã "kết được mối tình" thì cũng là lúc hai người như một, là

sloong làu là đôi ta, là hai đứa mình.

Lúc tình cảm nồng đượm, đang trào lời sli quấn quít, gắn bó thì từ xưng hô cũng mềm

mai tràn ngập yêu thương. Khi đó họ gọi nhau là có làng (anh thương) và noọng pèng (em

thương). Ví dụ :

Noọng náy mì đau păn có làng

Au mà kháu pác keo kin van

Noọng pèng tiu đau chăm quai khẻo

Mí mì cau cừn dìm đẩy vàm

(Em có trầu chia chô anh yêu

Nhai trầu hương vị thật thơm ngon

Em yêu tem trầu thật là khéo

Chẳng ai chê được ý gì đâu) [134, 67 ]

Cũng có khi làng và pèng đứng độc lập với ý nghĩa như chàng và nàng của tiếng Việt.

Ví dụ:

- Tỏ làng kẻ đáy tèo sli náy

Kẻ chúng noọng pay pang slái kha

(Thách chàng giải được bài sli này

giải đúng xin theo rửa chân chàng ) [134, 39]

- Cằm náy lập làng dú cúc Cheng

chá lóc tha slông mí tuộng pèng

(Chập tối gặp anh ở gốc chanh

Sao mặt cứ vênh chẳng chào em) [134, 33]

130

Các từ có làng, noọng pèng hay làng, pèng chỉ dùng xưng hô trong dân ca, trong sli

không dùng trong giao tiếp thường ngày.

Pèng là từ chỉ người con gái vì thế nhiều khi nó còn kết hợp với danh từ slao (gái) để

làm từ xưng hô trong sli. Ví dụ:

- Siêng slằn pèng slao slúng ám đau

Slúng kháu thưng màu có đáy au

(Cảm ơn em gái tặng miếng trầu

Đưa tận tay anh đã nhận rồi) [134, 65]

- Pèng slao xạu quá thưng làng náy

Tò pang chíu phú hử làng pày.

(Em gái nhủ lòng thương anh với

Dẫu có một lần giúp đỡ nhau) [134, 85]

Nhiều khi hát sli theo từng đôi : đôi nam và đôi nữ nên các từ sloong pèng (hai nàng),

sloong làng (hai chàng) sloong slao (hai em) ... thường xuyên được dùng. Các danh từ có

(anh), noọng (em), cũng được dùng trong sli với ý nghĩa lịch sự.

Có thể nói, các từ pèng, làng, noọng pèng, có làng, sloong làng, sloong pèng, pèng

slao, sloong slao... là những từ thường chỉ dùng trong dân ca để diễn tả những cung bậc tình

cảm của người Nùng. Trong đời sống thường nhật, khi không hát sli, những danh từ trên ít

dùng để xưng hô với nhau.

4.3. XƯNG HÔ TRONG MỘT SỐ NGÀNH NGHỀ CỦA NGƯỜI NÙNG.

Trong xã hội người Nùng, tính chuyên môn hôá của các ngành nghề chưa cao. Vì thế,

các danh từ chỉ nghề nghiệp trong tiếng Nùng có thể dùng làm từ xưng hô có số lượng rất

hạn chế. Những danh từ đó chỉ được dùng trong những tình thế giao tiếp nhất định, ở một số

ngành nghề truyền thống, hay các hôạt động (ngành nghề) tín ngưỡng như Mo, Then ...Tuy

ít ỏi về số lượng, hạn chế trong sử dụng nhưng các từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ trong tiếng

Nùng cũng có những nguyên tắc cấu tạo để có thể dùng làm từ xưng hô.

Về số lượng, các từ chỉ nghề nghiệp, chức vụ sau đây trong tiếng Nùng có thể dùng

làm từ xưng hô:

131

- Một số từ chỉ nghề nghiệp :

Mục chưựng : thợ mộc

Cung fà : bật bông

Tháy hu : cắt tóc

Cung ón : công an

Cọn pjạ : thợ rèn

Fài lừa : lái đò

Chặc mù : nghề làm cối đá

Fặc păt : nghề ấp trứng vịt

- Một số từ chỉ chức vụ :

Pỏ sỉ : bác sĩ

Chủ si : chủ tịch

Cúc bản : trưởng bản

Lý tưửng : lý trương

Pỏ tàu : trưởng nhóm

Thân slay : sư phụ

Có thể nói, trong tiếng Nùng, các từ chỉ nghề nghiệp phần lớn là những từ thuần Nùng.

Ngược lại, các từ chỉ chức vụ trong tiếng Nùng phần lớn là những từ vay mượn. Dù là từ

thuần Nùng hay từ vay mượn, các từ chỉ chức nghiệp trong tiếng Nùng cũng có những

nguyên tắc cấu tạo cụ thể để sử dụng làm từ xưng hô.

Về cách cấu tạo.

Như chúng ta đều biết, trong tiếng Việt, một số danh từ chỉ người theo chức nghiệp có

thể dùng làm từ xưng hô. Tuy nhiên, muốn sử dụng những danh từ đó làm từ xưng hô,

người sử dụng phải tuân theo một nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc đó là phải thêm những

danh từ chỉ người (danh từ thân tộc) vào trước danh từ chỉ chức nghiệp. Chẳng hạn, muốn

dùng các danh từ như thư ký, phóng viên, bộ đội ... làm từ xưng hô thì trước các danh từ đó

phải có các từ như anh, chị, ông, đồng chí... Lúc này chúng ta có thể gọi anh bộ đội, cô thư

ký, đồng chí phóng viên ... Tuy nhiên, trong tiếng Việt, có nhiều danh từ chỉ học hàm, học vị

132

hay từ chỉ chức nghiệp có thể dùng độc lập làm từ xưng hô như thầy (giáo), bác sĩ, giáo sư...

Ví dụ :

- Thưa giáo sư em đã làm xong bài của mình.

- Nhờ bác sĩ kê chô tôi đơn thuốc.

Một trong những nguyên tắc hội thoại là tránh xúc phạm tới thể diện tiêu cực của

người đối thoại nên các từ chỉ chức vụ thấp thường không được dùng làm từ xưng hô.

Theo tác giá Nguyễn Tài Cẩn [13], nhóm từ chỉ chức vụ, nghề nghiệp trong tiếng

Việt thường được cấu tạo theo ba cách :

a. Cấu tạo theo quan hệ hạn định:

- Có yếu tố "Sĩ" Ví dụ: bác sĩ, nhạc sĩ, nhô sĩ ...

- Có yếu tố "Sư" Ví dụ: Kỹ sư, giáo sư...

- Có yếu tố "Sinh" Ví dụ: học sinh, thí sinh ...

b. Cấu tạo theo quan hệ bổ túc.

Ví dụ : Tri huyện Tri phủ

Thủ quỹ Lục sự

c. Cấu tạo theo quan hệ bình đẳng

Ví dụ : giám đốc Liên lạc Đại biển

giáo thụ đề đốc Huấn đạo

Về cơ bản, tiếng Nùng có hai nguyên tắc cấu tạo các danh từ chỉ chức nghiệp làm từ

xưng hô.

Thứ nhất, thêm các danh từ chỉ người như lạo, mẻ, pó...vào trước các danh từ chỉ chức

nghiệp như lạo slay (thầy mo ), lạo mục chưửng (ông thợ mộc), mẻ fặc pắt (bà ấp trứng

vịt)...

Thứ hai, dùng các danh từ thân tộc như cúng (ông), xúc (chú), dé (bác), má (bà) ... kết

hợp với các danh từ chỉ chức nghiệp để làm từ xưng hô. Ví dụ :

A : Vằn náy cúng hác pay hít chỉ càư ?

(Hôm nay ông Tào đi làm ở đâu ?)

133

B : Văn náy cau dú lừn, mí pay càu.

(Hôm nay tôi ở nhà không đi đâu)

Như vậy, cách cấu tạo và sử dụng những danh từ chỉ chức nghiệp làm từ xưng hô giữa

tiếng Nùng và tiếng Việt về cơ bản là giống nhau.

Trong giao tiếp hàng ngày, người Nùng vẫn dùng các từ chỉ nghề nghiệp của tiếng

Việt thư ký, phóng viên, nhà báo... Tuy nhiên các danh từ này chỉ được dùng với chức năng

định danh, không dùng để xưng hô. Ví dụ :

- Lạo náy hít phóng viên chử mí ?

(Ông này là phóng viên phải không ?)

- Pá noọng hít thư ký dú xạ.

-(Bố em làm thư ký ở xã )

Như chúng tôi đã nhận xét, các từ chỉ chức vụ trong tiếng Nùng phần lớn là những từ

vay mượn tù các thứ tiếng khác. Hai ngôn ngữ có các từ chỉ chức vụ được tiếng Nùng vay

mượn là tiếng Việt và tiếng Hán. Các từ vay mượn của liếng Hán như pó sí (bác sĩ - vừa chỉ

chức vụ, vừa chỉ nghề nghiệp), chủ sỉ (chủ tịch), lý tưửng (lý trưởng)... Những danh từ này

chủ yêu được những người già, thuộc các thế hệ trước sử dụng. Hiện nay, người Nùng chủ

yếu sử dụng những từ chỉ chức vụ của tiếng Việt để xưng hô như các từ chủ tịch, bác sĩ ...

nguyên tắc cấu tạo các danh từ này làm từ xung hô là thêm những yếu tố như pỏ (ông), mẻ

(bà)... hay các danh từ thân tộc cúng (ông), má (bà), dé (bác trai) ... vào trước danh từ chỉ

chức vụ. Ví dụ :

- Dé chủ lịch mà nhắm xà váy

(Bác chủ tịch lại uống trà nào)

Khỏi lại ái thủ trưởng mà lừn làu lỉu kỉ vằn.

(Tôi muốn thủ trưởng đến nhà mình (tôi) chơi vài ngày).

Các danh từ chỉ chức nghiệp thường xuyên được dùng để xưng hô trong các hôạt động

tín ngưỡng nhu mo, then ...của người Nùng.

134

4.3.1. XƯNG HÔ TRONG NGHỀ THEN

Theo quan niệm của người Nùng những người làm nghề then là do số trời đã định.

Người làm nghề then thường là phụ nữ. Đàn ông ít làm nghề này.

Khi không hành nghề nghĩa là trong đời sống thường nhật mọi người vẫn gọi bà then

theo những mối quan hệ của mình như đáng tuổi bác thì gọi là mú, đáng tuổi bà thì gọi là

má, đang tuổi cô thì gọi là cú ... Nhưng trong lễ nghi trang trọng, khi đã khứn slàng (lên

giường) làm lễ thì mọi người sẽ gọi bà then là tháu slay (sư phụ). Ví dụ :

- Thảu slay hít pịn càu kí lan đay chí.

(Sư phụ làm thế nào chô các cháu yên lành)

Gọi là Thảu slay vì lúc nay thần thânh đã nậáp vào bà then, mọi lời nói của bà then là

lời nói của thânh thần. Chô nên, cuộc giao tiếp ở đây là giữa người thường và thânh thần.

Thảu slay còn có nghĩa là cha đẻ, ông bố đã truyền nghề chô mình, thảu -> đẻ , slay —>

thầy. Như vậy thảu slay có thể dịch là cha dạy nghề (coi người truyền nghề chô mình như

cha đẻ) hôặc sư phụ.

Danh từ thảu slay không những được các lục chực (đệ tử) gọi sư phụ của mình để biểu

thị chô thứ bậc trong quan hệ mà ngay cả những người ngoài giới (ngoại đạo) cũng dùng để

gọi bà then. Do đó, danh từ thảu slay vừa là từ chỉ chức vụ (thứ bậc trong ngành nghề) vừa

là từ chỉ nghề nghiệp - người làm Then.

Khi bà then da khứn slàng làm lê thì ngay cả con cháu của họ cũng phải gọi bà then là

thảu slay. Vì lúc này trước mặt họ không phải là bà là mẹ nữa mà là Thânh. Nói rộng ra, tất

cả mọi người không kể quan hệ, tuổi tác, khi tham dự buổi then đều phải gọi bà then là thảu

slay.

Bà then hành nghề lâu năm có uy tín và sắc ấn để thu nạp, truyền nghề chô các môn

sinh.

Trong ngữ cánh giao tiếp informal, trong đời sống hàng ngày, các môn đệ gọi sư phụ

của mình là chá (mẹ) và sư phụ gọi các môn đệ là lục chực (đệ tử). Ví dụ :

Lục chực : Vằn náy pay càu hít à chá ?

(Hôm nay đi đâu làm hả mẹ)

Chá : Lục chực xáu chá quá Khau Khú hít.

135

(Con cùng mẹ sang Khau Khú làm)

Nhưng khi khửn slàng, tức trong ngữ cảnh giao tiếp formal giữa họ lại có cách xưng

hô khác. Các môn đệ gọi sư phụ của mình là pỏ tàu (người đứng đầu) và sư phụ gọi môn đệ

là lục fạ (con trời). Quan hệ của họ lúc này là quan hệ của những người ở thế giới khác – thế

giới thần linh. Pỏ tàu có thể sai khiến lục fạ những việc như:

- Lục fạ chang kỉ te2u dưng khửn

(Con trời thắp mấy nén hương lên)

- Lục fạ au vì mà nảy.

(Con trời mang quạt về đây)

Cũng có khi hai hôặc ba bà then cùng khửn sàng hành lễ một lúc. Giữa những bà then

cùng hành lễ gọi nhau theo thứ bậc như tài (cà), dì (hai) ...

Trong buổi hành lễ có nhiều bà then thì chỗ ngồi thể hiện vị thế của mỗi người. Bà

then có sắc ấn cao nhất (pỏ tàu) sẽ ngồi gần bàn thờ nhất và sau đó là thứ tự từ cao xuống

thấp. Có thể nói, ngoại trừ nhũng yếu tố mê tín thì những buổi then là một sinh hôạt văn hôá

của người Nùng cần được trân trọng và giữ gìn.

Nhũng từ chi chức vụ như thản slay (sư phụ), pỏ tàu (người đứng đầu) được sử dụng

làm từ xưng hô trong nghề then. Danh từ chỉ nghề nghiệp mé then chỉ có chức năng miêu tả

- trỏ người làm nghề then -không dùng làm từ xưng hô.

4.3.2. XƯNG HÔ TRONG GIỚI THẦY MO

Nếu như nghề then chủ yếu là phụ nữ hành nghề thì những người làm thầy mo lại chủ

yếu là nam giới. Người làm nghề thầy mo cũng là người có căn duyên phải làm. Nếu có căn

duyên mà trốn tránh hay không có điều kiện vào nghề thì bản thân người đó hay gia đình

con cái họ sẽ gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống. Người mới vào nghề phải cúng chô thầy

cả một con lợn. Các học trò gọi thầy của mình là thảu slay (sư phụ) hay pó lạo (ông thầy).

Nếu như từ thảu slay (sư phụ) được dùng để xưng hô trong nghề then cũng như nghề mo thì

pó lạo (ông thầy chỉ được dùng xưng hô trong nghề mo). Vì từ pó lạo có hai hình vị chỉ

giống đực, pỏ-ông, lạo-lão (ông). Do đó, pó lạo có thể dịch (và hiểu) là sư phụ, ông thầy. Ví

dụ:

- Thảu slay năng dáo lăng mí ?

136

(Thầy cả còn dạy gì không ?)

- Vằn náy pỏ lạo đáy váng mí ?

(Hôm nay thầy cả được rỗi không)

Cũng có khi tùy theo mối quan hệ là ông hay bác mà học trò có thể gọi thầy của mình

là cúng chực (ông nuôi) hôặc dé chực (bác nuôi). Ông nuôi hay bác nuôi ở đây có nghĩa là

người dạy, người truyền nghề.

Thầy cả thường gọi các học trò của mình là lục chực nghĩa là đệ tử, con nối tiếp. Ví

dụ:

- Lục chực au mà náy chai láu váy.

(Đệ tử mang về đây chai rượu nào)

- Lục chực kháu hít váy.

(Đệ tử vào làm đi)

Lạo Sính Sáng cũng là một từ dùng để gọi người có khả năng làm nghề xem thế đất

đai, mồ mả ... gần như thầy địa lý. Từ này được dùng để xưng hô với sắc thái kính trọng.

Những từ xưng hô trên thường được sử dụng trong khi hành lễ còn trong đời sống

hàng ngày giữa họ vẫn xưng hô bình thường với nhau như đáng tuổi ông gọi là cúng, đáng

tuổi bác gọi là dé ...Nhưng nếu tôn trọng nhau hơn thì ngay cả trong đời thường giữa họ vẫn

xưng hô với nhau theo chức nghiệp của mình.

Kết luận chương 4, chúng tôi nghiên cứu từ xưng hô trong một số hôạt động xã hội của

người Nùng và rút ra những nhận xét sau :

4.4.1.Cũng như ở người Việt, trong giao tiếp ngoài xã hội, người Nùng thường dùng

các danh từ thân tộc để xưng hô. Việc dùng danh từ thân tộc để xưng hô ở hai phạm vi gia

đình và xã hội cũng có sự khác nhau. Xưng hô bằng danh từ thân tộc giữa những thành viên

trong gia tộc là biểu hiện mối quan hệ tương ứng chính xác (ngoại trừ những trường hợp gọi

thay ngôi, gọi kèm). Ngược lại, những danh từ thân tộc dùng để xưng hô ngoài xã hội là

biểu hiện mối quan hệ tương ứng không chính xác. Cách xưng hô này làm thân thiết hôá,

gần gũi hôá các mối quan hệ ngoài xã hội. Dùng danh từ thân tộc để xưng hô giữa những

thành viên trong gia tộc phụ thuộc rất nhiều vào sự định vị về tuổi tác, sự định vị về các

quan hệ như nội / ngoại, dâu, rể và thứ bậc trong gia đình. Ngoài xã hội, dùng danh từ thân

137

tộc để xưng hô chủ yếu phụ thuộc vào sự định vị về tuổi tác. Nghĩa là đáng tuổi ông, bà, cô,

chú, anh, chị ... thì gọi ông, bà, cô, chú, anh, chị ... Và tự mình xưng là cháu, anh, chị hay

em.

4.4.2.Các danh tù thân tộc của tiếng Việt hầu hết đều có thể dùng để xưng hô ngoài xã

hội. Trong tiếng Nùng lại khác, các danh từ thân tộc như pá (bố), mé (mẹ) , lục (con) và các

từ chỉ bên ngoại như khạu (cậu), ná (di).. Không được dùng trong xưng hô ngoài xã hội.

Trong gia đình, cha mẹ và con người Nùng ít khi xưng hô với nhau bằng danh từ chỉ đúng

mối quan hệ của mình : pá, mé (bố mẹ) <=> lục (con). Chô nên những danh từ này không

thể dùng trong xưng hô ngoài xã hội âu cũng là điều dể hiểu.

4.4.3.Trong xưng hô ngoài xã hội, ở một phương diện nào đó, người Nùng có xu

hướng gia đình hôá các mối quan hệ xã hội. Điều đó thể hiện qua các từ xưng hô như xắn

xắn (thím thông gia), thảu slay (sư phụ), lục chực (con nuôi)... Nghĩa là người Nùng "nhập"

một số mối quan hệ xã hội vào trong quan hệ gia đình. Trong khi đó, người Việt lại dùng

các yếu tố của quan hệ gia đình "phú" chô những quan hệ xã hội như cách gọi những người

không phải cha mẹ đẻ của mình là bố, mẹ. Trong cách xưng hô này, người Nùng có xu thế,

hướng nội, người Việt có xu thế hướng ngoại.

4/1.4. Các đại từ xưng hô chuyên dùng của tiếng Nùng có tính khái quát cao. Vì thế,

chúng được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp ngoài xã hội. Đặc biệt, đại từ cau ngôi thứ hai

đại từ lại ngôi thứ nhất rất hay được dùng trong giao tiếp ngoài xã hội vì sắc thái lịch sự,

trang trọng của hai đại từ này.

Đại từ lại vốn là từ dùng của người ít tuổi trước người cao tuổi. Nhưng trong nhiều

trường hợp, để tỏ ý khiêm tốn trước đám đông những người có chức sắc vẫn dùng đại từ lại

để tự xưng. Ví dụ :

- Lại cháng kí cúng xáu kí má tỉnh đáy mí ?

(Tôi* nói các ông các bà có nghe được không?)

(*Từ dịch khống tương đương.)

Tính chuyên môn của các ngành nghề trong xã hội người Nùng chưa cao. Do đó, số

lượng các từ xưng hô theo chức nghiệp rất hạn chế. Nhưng từ xưng hô theo nghề nghiệp

thường được sử dụng (xưng hô) trong những nghi lễ tín ngưỡng nhu mo, then v.v...

138

4.4.5. Trong giao tiếp ngoài xã hội ở người Nùng, các đại từ xưng hô số nhiều thường

xuyên được sử dụng. "Việc kết hợp giữa ĐTXH số ít với các danh từ đơn vị ước lượng chỉ

có một tập hợp : boong (bạn) , pang (phe nhóm), pháu (lũ) ... cũng tạo thành từ chỉ số nhiều

trong xưng hô" [93 82].

Như vậy, trong xưng hô ngoài xã hội người Nùng luôn lấy tình thân hữu để đối đãi với

nhau. Điều đó thể hiện qua việc sử dụng rộng rãi các danh từ thân tộc để xưng hô. Đồng

thời, các đại từ xưng hô tiếng Nùng với hội đủ các sắc thái trang trọng, lịch sự nên cũng

được dùng với tần số cao trong giao tiếp ngoài xã hội.

139

KẾT LUẬN

1.Từ mấy thập kỷ trở lại đây, việc nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng, trong giao tiếp

của con người mà Labov gọi là nghiên cứu ngôn ngữ trong khung cảnh xã hội đã thu hút sự

chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ trong và ngoài nước.

Chúng tôi nghiên cứu cách xưng hô trong hội thoại tiếng Nùng chính là nghiên cứu từ

xưng hô mỗi đơn vị của ngôn ngữ trong trạng thái hoạt động, trạng thái hành chức. Xưng hô

là một hành vi ngôn ngữ. Điều kiện đầu tiên để thực hiên hành vi xưng hô là nó chỉ diễn ra

trong hội thoại, do các nhân vật hội thoại thực hiện. Vì thế, xuất phát từ lý thuyết hội thoại,

chúng la mới có thể nghiên cứu, phát hiện các chức năng xưng hô như chức năng định vị,

chức năng chiếu vật, chức năng thể hiện quan hệ liên cá nhân ... cùng những nhân tố tác

động đến việc sử dụng từ xưng hô như hoàn cảnh giao tiếp, tín ngưỡng văn hoá, vị thế xã

hội và quyền uy (power) của các nhân vật tham gia hội thoại.

2.Từ nhận thức trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu các cách xưng hô trong hội thoại

tiếng Nùng và rút ra những nhận xét sau :

Thứ nhất, số lượng các đại từ xưng hô chuyên dùng của tiếng Nùng lớn hơn số lượng

các đại từ xưng hô chuyên dùng của tiếng Việt. Sự khác nhau về lượng dẫn tới sự khác nhau

về chất. Cụ thể, tiếng Việt không có các đại từ với sắc thái lịch sự ở ngôi thứ hai. Trong khi

đó đại từ cau ngôi thứ hai của tiếng Nùng là từ lịch sự của người ít tuổi gọi người cao tuổi.

Tính khái quát của các đại từ xưng hô tiếng Nùng cũng là điểm khác nhau về chất so với các

đại từ xưng hô tiếng Việt. Cặp đại từ cau - mưng tiếng Nùng được sử dụng với tính khái

quát cao. Can - mưng được người lớn tuổi dùng để xưng hô với người ít tuổi với sắc thái

suồng sã, quyền uy. Can - mưng cũng được dùng trong xưng hô giữa vợ chồng (vợ chồng

già) với sắc thái thân mật. Trong dân ca (tuy không phổ biến), cau - mưng với ý nghĩa là

anh-em, em - anh lại thể hiện sự thân mật, gần gũi. Trong cách nói về người thứ ba, đại từ

min (nó) cũng mang tính khái quát cao. Có thể nói, tính chất khái quát của đại từ cau, mưng

và min trong tiếng Nùng gần như tính khái quát của đại từ I, you và she , he trong tiếng

Anh.

Thứ hai, tuy phong phú và phức tạp nhưng hệ thống danh từ thân tộc trong tiếng

Nùng lại được phân theo các quan hệ rất rạch ròi:

- Bậc trên và bậc dưới :

140

cúng, dé, pá, có / lan, lục, noọng

- Bên nội và bên ngoại :

cúng, má, xúc, cú / cúng ta, má tai, khạu, ná

- Quan hệ ruột thịt và không ruột thịt :

cú, ná / khăm , xẳm

- Danh từ chỉ người bác còn có sự phân biệt về giới tính :

dé (bác trai) / mú ( bác gái)

Thứ ba, người Nùng luôn tránh gọi tên riêng của người đối thoại (nhất là những người

có vị thế cao) mà luôn gọi đúng chức vị của họ trong mối quan hệ với mình. Chính vì thế,

trong giao tiếp của người Nùng đã nảy sinh nhiều từ xưng hô, nhiều cách xưng hô rất độc

đáo mang đậm bản sắc văn hoá của người Nùng. Việc tránh gọi tên tục của người đối thoại

được tuân thủ nghiêm ngặt trong xưng hô giữa dâu, rể với các thành viên trong gia tộc. Do

đó, trong xưng hô người Nùng có sự phân biệt giữa noọng - em ruột (hay hụ) và nọong lù

(cai đâu), noọng khui (em rể), giữa lan (cháu) và lan lu, lan khui (cháu dâu, cháu rể), giữa

xúc (chú) và cú choòng (chồng cô), dì choòng (chồng dì) ... Cách xưng hô này một mặt

tránh gọi tên riêng của dâu, rể mặt khác nó làm bộc lộ mối quan hệ giữa các nhân vật hội

thoại.

Trong tiếng Việt, danh từ thân tộc dùng để xưng hô chỉ là những yếu tố (từ) chỉ quan

hệ thứ bậc nhu bố, mẹ, ông, bà, anh, chị, chú ... Những từ cụ thể hoá, chỉ tương quan qua lại

như trai (trong bác trai, anh trai), gái (trong bác gái, chị gái ), dâu (trong chị dâu, em dâu), rể

(trong anh rể, em rể )... không được dùng làm từ xưng hô.

Trong tiếng Nùng lại khác, xưng hô vừa phải thể hiện quan hệ thứ bậc vừa phải bộc lộ

quan hệ qua lại giữa các nhân vật hội thoại nên các từ ché fú (anh rể) lun lìn (cháu dâu), mú

(bác gái) dé (bác trai) cú choòng (chú rể - chồng cô ) ... được dùng làm từ xưng hô.

Thứ tư, khi các nhân vật có con hay chưa có con, lúc còn trẻ hay khi về già là những

yếu tố tác động và chi phối rất lớn tới cách xưng hô trong tiếng Nùng. Vì thế, cách gọi kèm

(kèm tên con, cháu) hay cách gọi thay ngôi (thay ngôi con, cháu) được dùng rộng rãi trong

các loại quan hệ vai như giữa cha mẹ và con, ông bà và cháu, vợ và chồng...

141

Những phong tục, tập quán như tục nhận ông bà mối làm cha mẹ nuôi vừa làm thân

thiết hoá các mối quan hệ xã hội của người Nùng vừa làm nảy sinh những từ xưng hô theo

mối quan hệ này như lục chực, cúng chực, cúng ta mòi...

Những tầng lớp khác nhau cũng có cách xưng hô riêng của mình như xưng hô trong

mo, then ... Các cách xưng hô này đã cụ thể hoá các mối quan hệ ngoài xa hội của người

Nùng.

Thứ năm, sự vay mượn các từ xưng hô ở những thứ tiếng khác như danh từ bố, mẹ

của tiếng Việt, ngó, nì của tiếng Hán đã làm phong phú thêm hệ thống từ xưng hô tiếng

Nùng.

Thứ sáu, cuối cùng điều cấn nói thêm là ý nhị, tinh tế, nồng thắm yêu thương là các

cách xưng hô trong dân ca của người Nùng.

3.Một trong những nguyên tắc quan trọng trong việc giảng dạy tiếng Việt cho học sinh

dân tộc thiểu số là tuân theo nguyên tắc song ngữ. Trong đó, việc so sánh, đối chiếu các đơn

vị ngôn ngữ giữa tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là hết súc cần thiết. Qua sự so

sánh, đối chiếu chúng ta mới có thể tìm ra những điểm giống và khác nhau giữa các ngôn

ngữ đối chiếu. Trên cơ sở đó chúng ta mới có thể xây dựng những phương pháp giảng dạy,

hướng dẫn người dân tộc thiểu số học tập và sử dụng tiếng Việt một cách đúng chuẩn.

Chúng tôi hy vọng luận ấn sẽ có những đóng góp thiết thực cho mục đích to lớn nói

trên.

4.Sử dụng những vấn đề lý thuyết như đã trình bày ở chương 1 để nghiên cứu từ xưng

hô tiếng Nùng, chúng tôi nhận thấy : ngoài những nhân tố cơ bản tác động, chi phối tới từ

xưng hô như vai giao tiếp, vị thế xã hội của nhân vật giao tiếp, các ngữ vực ... thì phải tính

tới nhiều nhân tố khác như giới tính, tuổi tác của nhân vật giao tiếp. Đặc biệt, những nét văn

hoá, phong tục tập quán cũng phải được tính tới trong nghiên cứu từ xưng hô.

5.Chúng tôi tự nhận thấy còn nhiều vấn đề liên quan tới đề tài cần phải tiếp tục đi sâu

nghiên cứu như sự vận động và biến đổi của từ xưng hô trong cuộc thoại, cách dùng từ xưng

hô để trỏ về người thứ ba khi người thứ ba có mặt (tạm "ở" ngôi thứ ba ) hay lúc vắng mặt

trong cuộc thoại ... cũng như phải nghiên cứu từ xưng hô trong các dạng câu khác nhau như

câu đơn, câu ghép hay phải xét tới ngữ điệu (mặt ngữ âm) của nhũng phát ngôn có từ xưng

hô. Nhưng theo giới thuyết của phạm vi đề tài và nhiều lý do khác, chúng tôi chưa có điều

142

kiện nghiên cứu. Nhưng vấn để mà luận án còn bỏ ngỏ sẽ được chúng tôi giải quyết một

cách sâu rộng hơn ở những chuyên đề, hay đề tài khác.

143

TÀI LIỆU THAM KHẢO

144

145

146

147

148

149

150

151

152

153

154

155

156

PHỤ LỤC

157

158

159

160

161

162

163

164

165

166

167

168

169

170

171

172

173