ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC
VÕ THỊ NHI
TÌM HIỂU KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH SỬ DỤNG
THUỐC ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP CỦA BỆNH NHÂN
BỊ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI KHOA NỘI BỆNH VIỆN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC HUẾ
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN ĐIỀU DƢỠNG
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. LÊ VĂN AN
Huế, 2016
Lời Cảm Ơn
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp cử nhån điều dưỡng đa khoa niên khóa 2012-2016
em xin bày tỏ lòng biết ơn chån thành đến:
Ban Giám Hiệu nhà trường, Ban Giám Đốc Bệnh viện Trường Đäi học Y
Dược Huế cùng toàn thể quý thæy cô đã giâng däy, truyền thụ cho em những kiến thức bổ
ích trong suốt 4 năm học vừa qua.
Ban Chủ Nhiệm, quý thæy cô trong khoa Điều Dưỡng.
Thư viện Trường Đäi học Y Dược Huế.
Các cán bộ nhân viên khoa Nội tim mäch Bệnh viện Trường Đäi học Y Dược
Huế đã täo mọi điều kiện thuận lợi giúp em trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận
văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt em xin gửi lời câm ơn chån thành, såu sắc nhçt đến thæy PGS.TS.Lê Văn An
- Trưởng khoa Điều Dưỡng, Trường Đäi học Y Dược Huế-người đã tận tình giúp đỡ, trực tiếp
hướng dẫn em trong những bước đi đæu tiên của nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành câm ơn gia đình, bän bè và những người thån đã dành nhiều tình
câm động viên và täo điều kiện thuận lợi giúp em trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng xin câm ơn tçt câ bệnh nhån đã đồng ý tham gia vào cuộc phỏng vçn để
em có được những số liệu khách quan và chính xác nhçt cho luận văn này.
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Nhi
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả trong luận văn này là trung thực và
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Huế, tháng 5 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Nhi
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ....................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................................. 3
1.1. Đại cương về tăng huyết áp .............................................................................. 3
1.2. Các yểu tố nguy cơ tăng huyết áp .................................................................... 5
1.3. Triệu chứng của tăng huyết áp ......................................................................... 8
1.4. Biến chứng tăng huyết áp ................................................................................. 8
1.5. Điều trị tăng huyết áp ....................................................................................... 9
1.6. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị THA ....................................... 13
1.7. Sai lệch trong điều trị tha của bệnh nhân và hậu quả ..................................... 14
1.8. Một số nghiên cứu liên quan .......................................................................... 14
Chƣơng 2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................. 17
2.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 17
2.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 18
2.3. Xử lý số liệu ................................................................................................... 21
2.4. Đạo đức nghiên cứu ........................................................................................ 21
Chƣơng 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................................. 22
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu .................................................... 22
3.2. Kiến thức và thực hành về sử dụng thuốc điều trị THA ................................ 25
3.3. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành .................................................... 32
Chƣơng 4. BÀN LUẬN ...................................................................................................... 33
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu .................................................... 33
4.2. Kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA ..................................... 33
4.3. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành .................................................... 41
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 42
KIẾN NGHỊ ........................................................................................................................ 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Phân loại THA theo ASH/ISH 2013 .................................................................... 5
Bảng 1.2. Phân loại HA theo WHO/ISH 2004 và Hội THA Việt Nam 2013 ....................... 5
Bảng 1.3. Mục tiêu và hướng điều trị THA ........................................................................ 10
Bảng 2.1. Phân độ THA theo WHO/ISH 2004 và Hội THA Việt Nam 2013 ..................... 18
Bảng 2.2. Bảng điểm đánh giá ............................................................................................ 21
Bảng 3.1. Phân bố theo độ tuổi, giới ................................................................................... 22
Bảng 3.2. Phân bố theo trình độ học vấn ............................................................................. 23
Bảng 3.3. Thời gian mắc bệnh THA ................................................................................... 24
Bảng 3.4. Kiến thức về điều trị THA .................................................................................. 25
Bảng 3.5. Kiến thức về thời gian uống thuốc điều trị THA ................................................ 26
Bảng 3.6. Kiến thức về tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc điều trị THA ................... 26
Bảng 3.7. Kiến thức về kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống ....................................... 27
Bảng 3.8. Kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA ................................................ 28
Bảng 3.9. Thực hành uống thuốc điều trị THA ................................................................... 29
Bảng 3.10. Thực hành tuân thủ điều trị THA ...................................................................... 29
Bảng 3.11. Thực hành kết hợp sử dụng thuốc và thay đổi lối sống .................................... 30
Bảng 3.12. Nguyên nhân kém tuân thủ sử dụng thuốc điều trị THA .................................. 31
Bảng 3.13. Thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA ............................................. 31
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA trong
nhóm có biến chứng ............................................................................................................. 32
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA trong
nhóm không có biến chứng .................................................................................................. 32
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 3.1. Phân bố theo nghề nghiệp ............................................................................... 22
Biểu đồ 3.2. Phân bố theo địa dư......................................................................................... 23
Biểu đồ 3.3. Phân bố theo thu nhập hàng tháng .................................................................. 24
Biểu đồ 3.4. Biến chứng của THA ...................................................................................... 25
Biểu đồ 3.5. Nguồn cung cấp thông tin ............................................................................... 27
Biểu đồ 3.6. Thực hành kiểm tra HA định kì tại cơ sở y tế ................................................. 28
Biểu đồ 3.7. Nguồn thuốc điều trị THA .............................................................................. 30
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Tiếng Việt
Đái tháo đường ĐTĐ
Huyết áp HA
Huyết áp tâm thu HATT
Huyết áp tâm trương HATTr
Tăng huyết áp THA
TBMMN Tai biến mạch máu não
TĐLS Thay đổi lối sống
Tiếng Anh
ASH American Society of Hypertension
(Hiệp hội tăng huyết áp Hoa Kì)
BMI Body Mass Index
(Chỉ số khối cơ thể)
ESH European Society of Cardiology
(Hiệp hội Tim mạch Châu Âu)
ESC European Society of Hypertension
(Hiệp hội tăng huyết áp Châu Âu)
JNC Joint National Committee on the Prevention, Detection, Evaluation,
and Treatment of High Blood Pressure
(Hiệp hội quốc tế về ngăn chặn, phát hiện, đánh giá và điều trị
huyết áp cao)
ISH International Society of Hypertension
(Hiệp hội tăng huyết áp quốc tế)
WHO World Health Organization
(Tổ chức y tế thế giới)
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế, xã hội ngày nay đã mang lại cho con người
cuộc sống ngày càng tiện nghi hơn. Điều đó cũng làm gia tăng đáng kể những căn
bệnh mang nhiều bản chất của sự phát triển chất lượng cuộc sống như béo phì, đái
tháo đường, tăng huyết áp… Trong đó, tăng huyết áp là bệnh tim mạch thường gặp
với tần suất bệnh ngày càng gia tăng và tuổi mắc mới cũng ngày một trẻ hơn. Theo
ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới thì tỷ lệ tăng huyết áp trên thế giới năm 2000 là
26,4%, tương đương với 972 triệu người. Dự kiến tỷ lệ này sẽ tăng lên 29,2% vào
năm 2025 với tổng số người mắc trên toàn thế giới khoảng 1,56 tỷ người mà 3/4
trong số đó là người thuộc nước đang phát triển [39]. Tại Việt Nam, các kết quả
điều tra dịch tễ học cho thấy tỷ lệ người tăng huyết áp đang gia tăng nhanh chóng:
năm 1960 chiếm 1,6% dân số; năm 1982 là 1,9%; năm 1992 tăng lên 11,79%; năm
2002 ở Miền Bắc là 16,3%, còn năm 2004 Thành phố Hồ Chí Minh là 20,5% [3] và
năm 2007 tại Thừa Thiên Huế là 22,77% [20].
Trong báo cáo về sức khoẻ hàng năm của Tổ chức Y tế thế giới năm 2002 đã
nhấn mạnh tăng huyết áp là “kẻ giết người số một”. Mỗi năm có ít nhất 7,1 triệu
người chết do tăng huyết áp [40]. Đây là bệnh dễ chẩn đoán nếu chúng ta để ý đến,
nhưng rất khó kiểm soát vì vậy bệnh càng ngày nặng hơn. Nếu người bệnh không
được chẩn đoán, điều trị và theo dõi thường xuyên để đưa huyết áp về trị số tối ưu
thì sẽ có rất nhiều biến chứng nặng nề như tai biến mạch máu não, thiếu máu cơ
tim, suy tim, suy thận,… thậm chí có thể gây tử vong hoặc để lại các di chứng ảnh
hưởng đến sức khỏe, sức lao động của người bệnh và trở thành gánh nặng cho gia
đình và xã hội.
Ngược với tình trạng tăng huyết áp ngày càng gia tăng, sự nhận thức, điều trị
dự phòng và kiểm soát của nhiều người bệnh ở nhiều nước vẫn còn chưa đầy đủ.
Theo điều tra năm 2008 của Viện Tim mạch Việt Nam tại 8 tỉnh/thành phố của
nước ta thì tỷ lệ tăng huyết áp của những người từ 25 tuổi trở lên đã là 25,1%.
Trong đó có 52% không biết mình bị tăng huyết áp; 30% số người biết bị tăng huyết
2
áp nhưng không điều trị; 64% số người biết bị tăng huyết áp, đã được điều trị,
nhưng không đạt huyết áp mục tiêu [30].
Việc tuân thủ chế độ điều trị phù hợp của bệnh nhân sẽ giúp kiểm soát huyết
áp và giảm tối đa nguy cơ tim mạch. Các thử nghiệm lâm sàng đã chứng minh rằng
điều trị tăng huyết áp có thể làm giảm khoảng 30-43% nguy cơ đột quỵ và khoảng
15% nguy cơ nhồi máu cơ tim [46]. Tuy nhiên, chính vì sự thiếu tuân thủ điều trị
thuốc hạ huyết áp của bệnh nhân với chẩn đoán tăng huyết áp, nên nhiều bệnh nhân
không kiểm soát được huyết áp một cách tốt nhất. Hầu hết người bệnh chỉ uống
thuốc khi thấy nhức đầu, mệt mỏi hay khó chịu ở ngực, tự ý bỏ thuốc đột ngột
không theo dõi khi các chỉ số huyết áp chưa trở về bình thường, hay điều trị một đợt
rồi không tái khám hay tiếp tục điều trị nữa… Nhiều trường hợp sử dụng thuốc
huyết áp không đúng có thể đưa đến hạ huyết áp hay không khống chế được huyết
áp, và cả hai trường hợp này điều không đạt được mục tiêu điều trị và chăm sóc.
Những biến chứng của bệnh đều có liên quan đến kiến thức và hành vi sử dụng
thuốc điều trị tăng huyết áp. Do đó việc giáo dục, cung cấp đầy đủ kiến thức về
bệnh và cách sử dụng thuốc kết hợp thay đổi lối sống là rất cần thiết, góp phần vào
việc kiểm soát bệnh cũng như hạn chế các biến chứng do dùng thuốc không đúng
gây ra. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Tìm hiểu kiến thức và thực
hành sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp của bệnh nhân bị tăng huyết áp tại
khoa Nội Bệnh viện Trường Đại học Y – Dược Huế”, nhằm hai mục tiêu sau:
1. Tìm hiểu kiến thức và thực hành về việc sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp.
2. Tìm hiểu mối liên quan giữa kiến thức và thực hành về sử dụng thuốc điều
trị tăng huyết áp.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẠI CƢƠNG VỀ TĂNG HUYẾT ÁP
1.1.1. Định nghĩa tăng huyết áp
Tăng huyết áp (THA) được định nghĩa là sự hiện diện của huyết áp cao đến
mức độ mà ở đó bệnh nhân gia tăng nguy cơ tổn thương cơ quan đích trên nền mạch
máu bao gồm võng mạc, não, tim, thận và các động mạch lớn [1].
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization - WHO) và Hiệp hội
tăng huyết áp Quốc tế (International Society of Hypertension - ISH) [6], [34], [36]:
- Huyết áp (HA) bình thường nếu huyết áp tâm thu (HATT) thấp hơn 140
mmHg và huyết áp tâm trương (HATTr) thấp hơn 90 mmHg.
- Tăng huyết áp nếu HATT bằng hoặc cao hơn 140 mmHg và/hoặc HATTr
bằng hoặc cao hơn 90 mmHg.
1.1.2. Phân loại tăng huyết áp
1.1.2.1. Sơ lược lịch sử định nghĩa phân loại tăng huyết áp
Từ báo cáo đầu tiên năm 1977, Hiệp hội quốc tế về ngăn chặn, phát hiện, đánh
giá và điều trị huyết áp cao (Joint National Committee on the Prevention, Detection,
Evaluation, and Treatment of High Blood Pressure - JNC), đã có 8 báo cáo JNC
được công bố, để xác định mức huyết áp có thể chấp nhận được và các khuyến cáo
về chiến lược điều trị, dựa trên bệnh nhân có đồng thời nhiều bệnh lý khác nhau và
mức kiểm soát huyết áp. Các báo cáo được bổ sung chỉnh sửa, dựa vào các chứng
cứ lâm sàng mới về tăng huyết áp và điều trị. Nhìn chung, mức phân loại huyết áp
cao ngày càng hạ thấp hơn, cùng với đánh giá toàn diện hơn các nguy cơ tim mạch,
đã góp phần cho việc phòng ngừa tiên phát, đánh giá và điều trị ngày càng tốt hơn,
đã làm giảm tỉ lệ mắc bệnh và tử suất bệnh.
Các phân loại THA cùng những khuyến cáo về THA cũng được đưa ra bởi Tổ
chức y tế thế giới và Hiệp hội THA quốc tế (WHO/ISH), Hiệp hội THA Châu Âu
(European Society of Hypertension - ESH) và Hiệp hội Tim mạch Châu Âu
4
(European Society of Cardiology - ESC), Hiệp hội THA Hoa Kì (American Society
of Hypertension - ASH),…
Bên cạnh đó cũng có nhiều cách phân loại tăng huyết áp được đưa ra tùy thuộc
theo nguyên nhân, biểu hiện của bệnh…
1.1.2.2. Phân loại theo nguyên nhân
THA nguyên phát: thường chiếm tỷ lệ cao, theo tác giả Gifford-Weiss tỷ lệ
THA nguyên phát chiếm tỷ lệ đến 90-95% [4].
THA thứ phát: dưới 10% các trường hợp THA có nguyên nhân, các nguyên
nhân chính của THA gồm [4], [6]:
- Nguyên nhân tại thận: các bệnh thận như viêm thận mạn, suy thận, lao thận,
hẹp động mạch thận bẩm sinh hay do xơ vữa động mạch.
- Nguyên nhân nội tiết: các bệnh của tuyến thượng thận như hội chứng
Cushing, cường Aldosteron thứ phát (hội chứng Conn), u phần vỏ hay phần tủy của
tuyến thượng thận, u tủy thượng thận có những cơn kịch phát THA rất cao, có khi
lên đến 260/140 mmHg với những biến chứng rất nặng nề.
- Hẹp động mạch chủ bẩm sinh: HA chi trên tăng trong khi lại hạ ở chi dưới.
- Nguyên nhân do sử dụng thuốc: khi dùng kéo dài một số thuốc như
Corticoid, một số thuốc chống thụ thai, thuốc chống viêm Indomethacin.
- Do nhiễm độc thai nghén.
1.1.2.3. Phân loại theo giai đoạn của bệnh
Theo quy định của WHO năm 1996, THA được phân theo 3 giai đoạn để dễ
theo dõi sự tiến triển của bệnh [4], [37]:
- Giai đoạn I: THA thật sự nhưng không có tổn thương thực thể các cơ quan.
- Giai đoạn II: có ít nhất một trong các biến đổi các cơ quan như dày thất trái
(phát hiện bằng lâm sàng, Xquang, điện tim, siêu âm), hẹp lan tỏa hay từng vùng
các động mạch võng mạc (giai đoạn I và II đáy mắt của Keith-Wagener-Baker),
thận có protein niệu, ure hoặc creatinine máu tăng nhẹ.
- Giai đoạn III: có dấu hiệu chức năng và thực thể do tổn thương các cơ
quan đích như tim (suy tim trái), não (xuất huyết não, tiểu não hoặc thân não, bệnh
não THA), đáy mắt (xuất huyết võng mạc xuất tiết có hay không có phù gai thị
5
giai đoạn III và IV), các dấu hiệu này là đặc biệt của giai đoạn ác tính (giai đoạn
tiến triển nhanh).
Các biểu hiện khác thường gặp ở giai đoạn III nhưng không đặc hiệu của
THA: thận (suy thận, creatinin huyết tương tăng rõ), mạch máu (phồng tách, bít tắc
động mạch, tắc động mạch ngoại biên).
THA ác tính hay THA tiến triển nhanh là một hội chứng gồm có: HA tối thiểu
rất cao, trên 130 mmHg; đáy mắt giai đoạn III và IV theo Keith-Weigener; có biến
chứng ở thận, tim, não; bệnh nhân trẻ dưới 40 tuổi; tiến triển nhanh, tử vong trong
vòng 2-3 năm.
1.1.2.4. Phân loại theo chỉ số huyết áp
- Phân loại THA theo ASH/ISH 2013 [42] như sau:
Bảng 1.1. Phân loại THA theo ASH/ISH 2013 [42]
Phân loại HA và mức độ THA HATT (mmHg) HATTr (mmHg)
Bình thường <120 <80
Tiền THA 120-139 80-89
THA giai đoạn I 140-159 90-99
THA giai đoạn II ≥160 ≥100
- Phân loại HA theo WHO/ISH 2004 và Hội THA Việt Nam 2013 [22], [45] như sau:
Bảng 1.2. Phân loại HA theo WHO/ISH 2004 và Hội THA Việt Nam 2013 [22], [45]
Phân loại HA và mức độ THA HATT (mmHg) HATTr (mmHg)
Tối ưu <120 <80
Bình thường <130 <85
Bình thường cao 130-139 85-90
THA độ 1 (nhẹ) 140-149 90-99
THA độ 2 (trung bình) 150-159 100-109
THA độ 3 (nặng) ≥180 ≥110
THA tâm thu đơn độc ≥140 <90
Phân loại này dựa trên HA đo tại phòng khám, nếu HATT và HATTr không
cùng không cùng một phân loại thì chọn mức HA cao hơn để xếp loại.
6
1.2. CÁC YỂU TỐ NGUY CƠ TĂNG HUYẾT ÁP
1.2.1. Tuổi và giới
Tỷ lệ THA tăng dần theo độ tuổi. Nghiên cứu Framingram (2005) cho thấy, tỷ lệ
THA ở người dưới 60 tuổi là 27%, từ 60-79 tuổi chiếm 63% và trên 80 tuổi là 74%
[23]. Theo WHO, khái quát ở lứa tuổi 35, cứ 20 người thì có 1 người THA; vào lúc 45
tuổi, cứ 7 người thì có 1 người THA; quá 65 tuổi thì có 1/3 số người bị THA [16].
Tỷ lệ THA ở nam giới và nữ giới là khác nhau. Ở độ tuổi trước 45 tuổi, tỷ lệ nam
bị THA cao hơn nữ. Từ 45-64 tuổi, tỷ lệ THA ở cả 2 giới gần như tương đương nhau và
từ 65 tuổi trở lên thì tỷ lệ này ở nữ cao hơn hẳn nam [41].
1.2.2. Tiền sử gia đình có THA
Các bệnh nhân THA thường có tiền sử gia đình có người THA và có yếu tố di
truyền góp phần vào bệnh nguyên của THA [27], [43].
1.2.3. Béo phì
Béo phì là hậu quả của tình trạng mất cân bằng năng lượng, trong đó năng
lượng ăn vào vượt quá năng lượng tiêu hao trong một thời gian dài. Nhiều nghiên
cứu cho thấy béo phì có tương quan thuận với huyết áp. Tỷ lệ THA tăng theo mức
độ béo phì và mức độ thừa cân ở cả nam và nữ. Tỷ lệ THA ở nhóm người có thừa
cân BMI ≥ 23 (35,6%) cao hơn hẳn nhóm không thừa cân BMI < 23 (14,1%) [26].
1.2.4. Tăng glucoza máu
Bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) hay đi cùng với bệnh THA. Người ta thấy có
khoảng 30-50% bệnh nhân ĐTĐ có THA, những bệnh nhân này thường béo. Một
nghiên cứu của Nguyễn Hải Thủy, Huỳnh Văn Minh và cộng sự tại Huế (2000-
2002), khảo sát ở 490 bệnh nhân ĐTĐ ghi nhận: THA chiếm tỷ lệ 25,31%, trong đó
THA ở bệnh nhân ĐTĐ typ 2 là 29,91%, thiếu máu cơ tim trong đó ĐTĐ có THA là
38,75% cao gấp 6,4 lần ở bệnh nhân ĐTĐ không có THA [9].
7
1.2.5. Thói quen ăn mặn
Khi ăn mặn, cơ thể sẽ giữ nước nhiều hơn, gây tăng khối lượng tuần hoàn, làm
tăng lưu lượng tim gây THA. Tế bào chứa nhiều natri, sẽ ảnh hưởng đến độ thấm
canxi qua màng, do đó làm tăng khả năng co bóp của tiểu động mạch. Các nghiên
cứu hiện nay đã chứng minh rằng việc giảm muối trong chế độ ăn có thể giúp việc
kiểm soát tốt HA ở người lớn tuổi đang dùng thuốc điều trị THA [29].
1.2.6. Thói quen uống rƣợu bia
Một số nghiên cứu cho thấy THA ở khoảng 20-30% số người lạm dụng rượu.
Người uống nhiều rượu, bia hơn 2 drink/ngày (1 drink chứa 14g ethanol, khoảng
354,84 ml bia) có nguy cơ THA cao hơn từ 1,5-2 lần so với người bình thường [27].
JNC VII khuyên không nên uống quá 2 ly rượu nhỏ mỗi ngày, tương đương 30 ml
ethanol, 720 ml bia [33].
1.2.7. Thói quen hút thuốc lá
Thuốc lá làm giảm nồng độ HDL trong máu, giảm cung cấp oxy cho các mô
và làm tổn thương các tế bào nội mạc của động mạch, tạo điều kiện cho xơ vữa
động mạch phát triển, nicotin kích thích hệ thần kinh giao cảm làm tăng nhịp tim,
co mạch gây THA . Hút một điếu thuốc lá, HATT có thể tăng lên 11mmHg, HATTr
có thể tăng lên đến 9mmHg, kéo dài 20-30 phút. Hút thuốc nhiều có thể có cơn
THA kịch phát [11].
1.2.8. Ít hoạt động thể lực
Để duy trì sức khỏe thì việc thường xuyên hoạt động thể lực là một trong
những yếu tố rất quan trọng. Hoạt động thể lực làm tăng nồng độ HDL trong huyết
tương, có tác dụng chống xơ vữa động mạch, do đó sẽ làm giảm nguy cơ bị THA và
các bệnh chuyển hóa khác [17].
1.2.9. Các yếu tố khác
Các yếu tố tâm lý xã hội cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc THA. Một xúc
cảm, một stress cấp sẽ đưa đến sự gia tăng HA tạm thời. Đối với stress mạn tính,
người ta không ghi nhận sự tăng lâu dài HA. Tuy nhiên, khi stress kết hợp với yếu tố
di truyền hay kết hợp với sự gia tăng tiêu thụ natri lại làm THA thực sự [11], [19].
8
1.3. TRIỆU CHỨNG CỦA TĂNG HUYẾT ÁP
Về lâm sàng những người bệnh bị THA có thể thấy đau đầu nhất là về cuối
đêm và sáng sớm, ở vùng chẩm, trán, thái dương, có khi đau tản mạn, hoặc đau nửa
đầu, chóng mặt, hoa mắt, ù tai, giảm khả năng hoạt động trí óc, dễ quên. Ngoài ra
có thể có hồi hộp, mệt, khó thở, tê đầu chi… Nặng hơn là hội chứng não do THA:
bệnh não do THA, đột quỵ do thiếu máu não, xuất huyết não, cơn thiếu máu não
thoáng qua. Các biểu hiện xảy ra tùy từng giai đoạn của bệnh [15].
Đo huyết áp là động tác quan trọng nhất và có ý nghĩa chẩn đoán xác định. Đo
huyết áp phát hiện huyết áp tăng, có thể HATT và hoặc HATTr.
Tuy nhiên THA thường không có triệu chứng gì. Trên thực tế, rất nhiều người
bị THA trong nhiều năm mà không biết, cho đến khi đi khám bệnh hoặc đã bị các
biến chứng nguy hiểm do THA gây ra rồi mới phát hiện bệnh. Đó là lý do tại sao
THA lại nguy hiểm và được coi là “kẻ giết người thầm lặng”.
1.4. BIẾN CHỨNG TĂNG HUYẾT ÁP
1.4.1. Tim mạch
Suy tim và bệnh mạch vành là hai biến chứng chính và nguyên nhân gây tử
vong cao nhất đối với THA. Dày thất trái là biến chứng sớm do dày cơ tim trái. Ðể
đối phó sức cản ngoại biên nên gia tăng sức co bóp làm công tim tăng lên và vách
cơ tim dày ra. Dần dần suy tim trái với khó thở khi gắng sức, hen tim hoặc phù phổi
cấp sau đó chuyển sang suy tim toàn bộ với phù, gan to, tĩnh mạch cổ nổi. X quang
và điện tim có dấu dày thất trái. Suy mạch vành biểu hiện bằng các cơn đau thắt
ngực điển hình hay chỉ có loạn nhịp [4], [28].
1.4.2. Não
Tai biến mạch máu não (TBMMN) thường gặp như nhũn não, xuất huyết não,
tai biến mạch não thoáng qua với các triệu chứng thần kinh khu trú chỉ kéo dài
không quá 24 giờ.
Bệnh não do THA với lú lẫn, hôn mê kèm theo co giật, nôn mửa, nhức đầu dữ
dội [4], [37].
9
1.4.3. Thận
Vữa xơ động mạch thận sớm và nhanh, xơ thận gây tình trạng suy thận dần
dần, hoại tử dạng tơ huyết tiểu động mạch thận gây THA ác tính.
Ở giai đoạn cuối thiếu máu cục bộ nặng ở thận sẽ dẫn đến nồng độ renin và
angiotensine II tăng trong máu gây cường aldosterone thứ phát [4].
1.4.4. Mạch máu
THA là yếu tố sinh xơ vữa động mạch, tạo điều kiện cho sự hình thành xơ vữa
động mạch, phồng động mạch chủ bóc tách [4], [28], [37].
1.4.5. Mắt
Khám mắt rất quan trọng vì đó là dấu hiệu tốt để tiên lượng. Theo Keith-
Wagener-Barker có 4 giai đoạn tổn thương đáy mắt:
- Giai đoạn 1: tiểu động mạch cứng và bóng.
- Giai đoạn 2: tiểu động mạch hẹp có dấu bắt chéo (dấu Gunn).
- Giai đoạn 3: xuất huyết và xuất tiết võng mạc.
- Giai đoạn 4: phù lan tỏa gai thị [4], [28], [37].
1.5. ĐIỀU TRỊ TĂNG HUYẾT ÁP
1.5.1. Nguyên tắc chung [8]
- THA là bệnh mạn tính nên cần theo dõi đều, điều trị đúng và đủ hàng ngày,
điều trị lâu dài.
- Mục tiêu điều trị là đạt huyết áp mục tiêu và giảm tối đa nguy cơ tim mạch.
- Huyết áp mục tiêu cần đạt là < 140/90 mmHg và thấp hơn nữa nếu người
bệnh vẫn dung nạp được. Nếu nguy cơ tim mạch từ cao đến rất cao thì huyết áp mục
tiêu cần đạt là < 130/80 mmHg. Khi điều trị đã đạt huyết áp mục tiêu, cần tiếp tục
duy trì phác đồ điều trị lâu dài kèm theo việc theo dõi chặt chẽ, định kỳ để điều
chỉnh kịp thời.
- Điều trị cần hết sức tích cực ở bệnh nhân đã có tổn thương cơ quan đích.
Không nên hạ huyết áp quá nhanh để tránh biến chứng thiếu máu ở các cơ quan
đích, trừ tình huống cấp cứu.
10
1.5.2. Mục tiêu và hƣớng điều trị THA [23], [35]
Bảng 1.3. Mục tiêu và hướng điều trị THA [23], [35]
Bình thƣờng
cao THA độ 3 Những yếu tố
nguy cơ, tổn
thƣơng cơ
quan và bệnh
cảnh lâm sàng
Không điều trị Không có yếu
tố nguy cơ TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90
Có 1-2 yếu tố
nguy cơ Thay đổi lối
sống (TĐLS) TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90 THA độ 1
TĐLS trong
vài tháng, rồi
cho thuốc HA
mục tiêu
<140/90
TĐLS trong
vài tháng, rồi
cho thuốc HA
mục tiêu
<140/90 THA độ 2
TĐLS trong
vài tháng, rồi
cho thuốc HA
mục tiêu
<140/90
TĐLS trong
vài tháng, rồi
cho thuốc HA
mục tiêu
<140/90
Có ≥3 yếu tố
nguy cơ TĐLS, không
điều trị thuốc TĐLS, thuốc
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS trong
vài tháng, rồi
cho thuốc mục
tiêu <140/90 TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90
TĐLS, không
điều trị thuốc TĐLS, thuốc
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS, thuốc
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90
TĐLS, duy trì
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90 TĐLS, cho
ngay thuốc
HA mục tiêu
<140/90
Tổn thương cơ
quan đích,
bệnh thận mạn
giai đoạn 3
hoặc ĐTĐ
Bệnh tim mạch
có triệu chứng,
bệnh thận giai
đoạn ≥4 kèm
hoặc ĐTĐ có
tổn thương cơ
quan đích/nhiều
yếu tố nguy cơ
1.5.2. Điều trị THA không dùng thuốc
Trong các nghiên cứu lâm sàng, với nhiều cách điều chỉnh lối sống đã cho thấy
giảm được HA và giảm tỷ lệ mới mắc THA. Hiệu quả chống THA mang lại từ điều
chỉnh lối sống hữu hiệu thay đổi tùy theo sự tuân thủ của bệnh nhân với liệu pháp.
11
Các biện pháp tích cực thay đổi lối sống bao gồm [8]:
- Giảm ăn mặn (< 5 gam muối hay 1 thìa cà phê muối mỗi ngày).
- Tăng cường rau xanh, hoa quả tươi.
- Hạn chế thức ăn có nhiều cholesterol và axít béo no.
- Tích cực giảm cân (nếu quá cân), duy trì cân nặng lý tưởng với chỉ số khối
cơ thể (BMI: body mass index) từ 18,5 đến 22,9 kg/m2.
- Cố gắng duy trì vòng bụng dưới 90cm ở nam và dưới 80cm ở nữ.
- Hạn chế uống rượu, bia: số lượng ít hơn 3 cốc chuẩn/ngày (nam), ít hơn 2
cốc chuẩn/ngày (nữ) và tổng cộng ít hơn 14 cốc chuẩn/tuần (nam), ít hơn 9 cốc
chuẩn/tuần (nữ). 1 cốc chuẩn chứa 10g ethanol tương đương với 330ml bia hoặc
120ml rượu vang, hoặc 30ml rượu mạnh.
- Ngừng hoàn toàn việc hút thuốc lá hoặc thuốc lào.
- Tăng cường hoạt động thể lực ở mức thích hợp: tập thể dục, đi bộ hoặc vận
động ở mức độ vừa phải, đều đặn khoảng 30-60 phút mỗi ngày.
- Tránh lo âu, căng thẳng thần kinh, cần chú ý đến việc thư giãn, nghỉ ngơi
hợp lý.
- Tránh bị lạnh đột ngột.
1.5.3. Điều trị THA bằng thuốc
Việc điều trị bằng thuốc cần được bắt đầu từ từ và tăng dần để đạt được mức
huyết áp tối ưu. Chọn một loại thuốc hoặc phối hợp thuốc nhằm kiểm soát huyết áp
để đạt đích huyết áp cho thấy làm giảm đáng kể các biến chứng tim mạch và tử
vong, đồng thời hạn chế được các tai biến và độc tính của thuốc.
Việc lựa chọn thuốc hoặc phối hợp cần dựa vào các nguyên tắc sau [21]:
- Bệnh nhân đã quen dùng thuốc đó.
- Tác dụng đặc hiệu của nhóm thuốc đó trên nguy cơ tim mạch của bệnh nhân.
- Sự có mặt của tổn thương cơ quan cận lâm sàng, bệnh tim mạch, bệnh thận
hoặc đái tháo đường
- Sự xuất hiện của các rối loạn làm hạn chế sử dụng nhóm thuốc đó.
- Tác dụng tương tác thuốc.
12
- Gía thành thuốc.
- Ưu thế thuốc có tác dụng 24 giờ với liều duy nhất trong ngày.
- Các tác dụng phụ của thuốc.
Có nhiều thuốc trị cao huyết áp đang được sử dụng ở nước ta, chia thành nhiều
nhóm với một số đặc tính như sau [12]:
Nhóm thuốc lợi tiểu: Hydroclorothiazid, Indapamid, Furosemid, Spironolacton,
Amilorid, Triamteren... Dùng đơn độc khi bị THA nhẹ, có thể phối hợp với thuốc
khác khi THA nặng thêm. Cần lựa chọn loại phù hợp do có loại làm thải nhiều kali,
loại giữ kali, tăng acid uric trong máu, tăng cholesterol máu. Thuốc chủ yếu ở dạng
viên nang, uống 1-2 viên/ngày tùy liều lượng, nên uống vào buổi sáng.
Nhóm thuốc chẹn alpha: Prazosin, Alfuzosin, Terazosin, Phentolamin... Có tác
dụng phụ gây hạ huyết áp khi đứng lên (hạ huyết áp tư thế đứng), đặc biệt khi dùng
liều đầu tiên. Do đó nên uống đầu tiên vào buổi tối với liều thấp, sau đó tăng dần
tùy theo đáp ứng hạ huyết áp của người bệnh.
Nhóm thuốc chẹn beta: Propanolol, Pindolol, Nadolol, Timolol, Metoprolol,
Atenolol, Labetolol, Acebutolol... Thuốc dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt
lưng, ngực hoặc nhức nửa đầu. Chống chỉ định đối với người có kèm hen suyễn, suy
tim, nhịp tim chậm.
Nhóm thuốc đối kháng calci: Nifedipin, Nicardipin, Amlodipin, Felodipin,
Isradipin, Verapamil, Diltiazem... Dùng tốt cho bệnh nhân có kèm đau thắt ngực,
hiệu quả đối với bệnh nhân cao tuổi, không ảnh hưởng đến chuyển hóa đường, mỡ
trong cơ thể. Các thuốc thế hệ 1 (diltiazem, verapamin, nifedipin, nicardin…) có tác
dụng nhanh thường được dùng trong bệnh viện trong trường hợp THA kịch phát.
Các thuốc thế hệ 1 có dạng bào chế kéo dài (Verapamil, Nifedipine LA…) và các
thuốc thế hệ 2 có thời gian bán hủy dài (Amlodipin, Felodipin…) thường dùng điều
trị tại nhà trong THA, đau thắt ngực mạn, THA kèm suy tim mạn…
Nhóm thuốc ức chế men chuyển: Captopril, Enalapril, Benazepril, Lisinopril,
Perindopril, Quinepril, Tradola-pril,… là thuốc được chọn khi bệnh nhân bị THA
kèm hen suyễn, đái tháo đường. Tác dụng phụ: làm tăng kali máu và gây ho khan,
có thể xảy ra chóng mặt, choáng váng.
13
Nhóm thuốc mới ức chế thụ thể angiotensin: Losartan, Irbesartan,
Candesardan, Valsartan... Nhóm thuốc này có tác dụng hạ huyết áp, đưa huyết áp
về trị số bình thường, tương đương với các thuốc nhóm đối kháng calci, chẹn beta,
ức chế men chuyển. Ðặc biệt, tác dụng hạ áp của chúng tốt hơn nếu phối hợp với
thuốc lợi tiểu Thiazid. Tác dụng phụ có thể gặp là chóng mặt, hoặc rất hiếm là gây
tiêu chảy. Chống chỉ định của thuốc là không dùng cho phụ nữ có thai hoặc người
bị dị ứng với thuốc.
Nhóm thuốc tác động lên hệ thần kinh trung ương: Reserpin, Methyldopa,
Clonidin... Hiện nay ít dùng do tác dụng phụ gây trầm cảm, khi ngừng thuốc đột
ngột sẽ làm tăng vọt huyết áp.
1.6. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THA
Để điều trị THA hiệu quả, ngoài các lý do như sử dụng thuốc không đúng
phác đồ hoặc một số trường hợp THA kháng trị thì trong quá trình điều trị có một
số yếu tố ảnh hưởng đến kết quả điều trị như:
1.6.1. Tuổi, giới
Giới tính và tuổi tác không ảnh hưởng đến tính đáp ứng với nhiều loại thuốc,
nhưng giới tính và tuổi tác lại có ảnh hưởng đến việc tuân thủ điều trị. Đặc biệt, ở
người có tuổi thì sự hấp thu và thải trừ thuốc trong cơ thể không như người trẻ tuổi,
nên người lớn tuổi dễ bị các tác dụng phụ do thuốc gây ra, và ở một số bệnh nhân
lớn tuổi do trí nhớ bị giảm sút nên việc quên uống thuốc dễ xảy ra.
1.6.2. Lối sống của ngƣời bệnh
Lối sống của người bệnh có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả điều trị, việc
thay đổi lối sống đối với tất cả người bệnh là vấn đề chính yếu để ngăn ngừa THA
và là một phần không thể bỏ qua trong điều trị THA. Sự kết hợp giữa việc dùng
thuốc với tăng cường hoạt động thể lực, chế độ ăn uống thích hợp, bỏ thói quen hút
thuốc lá, uống rượu lành mạnh làm gia tăng hiệu quả của thuốc hạ áp và giảm nguy
cơ tim mạch, giúp cho việc điều trị hiệu quả tốt hơn. Hiệu quả chống THA đạt được
từ việc điều chỉnh lối sống phụ thuộc vào sự tuân thủ của người bệnh. Khi đạt được
sự tuân thủ tối ưu trong việc thay đổi lối sống thì HATT giảm >10mmHg [21].
14
1.6.3. Trình độ văn hóa
Đối với bệnh nhân THA, tuân thủ điều trị là điều kiện cần thiết và quyết định
hiệu quả điều trị. Tuy nhiên, việc tuân thủ lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như trình
độ học vấn, hiểu biết về bệnh tật của người bệnh. Các nhà nghiên cứu trên thế giới
cũng như ở Việt Nam đã hoàn thành nhiều công trình khảo sát đánh giá về sự tuân
thủ điều trị ở bệnh nhân THA cho thấy rằng khi bệnh nhân được giải thích cặn kẽ,
nhận thức được lợi ích của việc dùng thuốc cũng như tác hại khi không được điều
trị thì tỉ lệ tuân thủ điều trị tăng lên rõ rệt.
1.6.4. Sự hỗ trợ của gia đình và xã hội
Những nguồn cung cấp thông tin qua tivi, sách báo, Internet… và sự quan tâm,
nhắc nhở của người thân trong gia đình, sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội có thể góp
phần làm cải thiện, củng cố thêm tính tuân thủ trong điều trị của bệnh nhân.
1.7. SAI LỆCH TRONG ĐIỀU TRỊ THA CỦA BỆNH NHÂN VÀ HẬU QUẢ
Nhiều bệnh nhân cho rằng THA là bệnh đơn giản, có thể tự khỏi nên không
chữa trị. Bên cạnh đó cũng có nhiều bệnh nhân nhận thức được bệnh nhưng điều trị
không đúng phương pháp: tự chữa trị (chữa theo lời bày biểu, tự mua thuốc, dùng
thuốc nam, thuốc không rõ nguồn gốc và tính xác thực…), chữa trị không chuẩn
mực (dùng đơn thuốc cũ, mượn và cho mượn đơn thuốc, ngưng thuốc khi cảm giác
khỏe mạnh hoặc cho rằng bệnh đã khỏi, tự dùng thuốc khi thấy mệt mỏi, chóng mặt,
hoặc chỉ sử dụng thuốc nhưng không kết hợp với thay đổi lối sống thích hợp…).
Hậu quả của những sai lệch này làm cho người bệnh ngộ nhận là mình đang
chữa trị đúng cách, làm cho tình trạng THA ngày càng nặng nề, dẫn đến những biến
chứng nặng của bệnh có thể gây chết người. Đồng thời còn làm tốn kém tiền bạc và
người bệnh mất lòng tin vào điều trị bệnh.
1.8. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
1.8.1. Trên thế giới
THA là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh tim mạch và ảnh hưởng
đến một phần ba dân số trưởng thành ở Hoa Kì. Theo báo cáo của Tatiana
Nwankwo và các cộng sự nghiên cứu về tỉ lệ nhận thức, điều trị và kiểm soát THA
15
trong giai đoạn 2011-2012 ở Hoa Kì cho thấy có 82,7% người bị THA nhận biết
được tình trạng bệnh của mình, 75,6% tuân thủ dùng thuốc và 51,8% có huyết áp
được kiểm soát [44].
Nhiều nghiên cứu trong cộng đồng châu Á cho thấy rằng có tới 50-80% người
bệnh thiếu hiểu biết về bệnh THA, chính điều này đã dẫn đến việc kém tuân thủ
điều trị và dẫn đến những biến chứng nặng hơn của bệnh [47].
1.8.2. Trong nƣớc
Đào Duy An (2004), điều tra 113 người THA điều trị nội trú và ngoại trú từ 30
tuổi trở lên tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Kon Tum thấy rằng 17,8% người bệnh biết
mình bị THA nhờ khám định kỳ; 7,1% biết chính xác ngưỡng THA; 64,6% biết THA
là bệnh nguy hiểm; 24,8% không biết cách chữa trị THA; 11,3% biết ít nhất một tên
thuốc điều trị THA; 47,8% tuân thủ y lệnh; 38,9% điều trị thường xuyên [1].
Lê Ánh Dũng và Nguyễn Anh Vũ (2011) nghiên cứu tình hình điều trị ngoại
trú THA tại phường Phú Hậu-Thành Phố Huế: chỉ có 23,50% bệnh nhân THA điều
trị thường xuyên và 19,30% bệnh nhân có tái khám theo dõi HA thường xuyên;
trong số bệnh nhân có biến chứng thì 85,70% bệnh nhân không có theo dõi điều trị
thường xuyên; điều kiện kinh tế và trình độ học vấn ảnh hưởng đến thái độ của bệnh
nhân trong việc tuân thủ điều trị [10].
Trần Thị Kim (2011) qua nghiên cứu 202 bệnh nhân được điều trị nội trú
tại khoa nội bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Huế cho thấy kiến thức của bệnh
nhân về bệnh THA là chưa được tốt: biết chính xác ngưỡng THA chiếm tỷ lệ
26,73%. Tỷ lệ bệnh nhân biết ăn mặn, hút thuốc lá, căng thẳng là yếu tố nguy cơ
của tăng huyết áp lần lượt là 81,19%, 68,32% và 65,35%. Biết hạn chế ăn mặn
giúp làm giảm huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất là 84,65%. Kênh hướng dẫn kiến
thức THA là điều dưỡng chỉ có 19,80% [17].
Vũ Xuân Phú và Nguyễn Minh Phương (2011) nghiên cứu cắt ngang có phân
tích về tuân thủ điều trị THA trên 250 đối tượng tại 4 phường của TP. Hà Nội cho
thấy thực hành tuân thủ điều trị THA chỉ có 44,8% bệnh nhân đạt về tuân thủ điều trị
THA. 34% là theo dõi HA thường xuyên. Có 32,8% bệnh nhân không uống thuốc.
16
Có đến 54,4% không đi khám định kỳ đều đặn. 36% thực hiện chế độ ăn uống đạt
yêu cầu; 66,4% thực hiện hạn chế rượu bia. 64% thực hiện chế độ sinh hoạt, nghỉ
ngơi đạt yêu cầu, 62,8% thực hiện luyện tập thường xuyên. Lý do không uống thuốc
đầy đủ do bận công việc (10,8%), cho là không quan trọng (6,4%), cho là huyết áp
bình thường thì không cần uống thuốc (6,4%), bị tác dụng phụ của thuốc (6,0%) và
người nhà không nhắc nhở uống thuốc (4%) [24].
17
Chƣơng 2
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên 153 bệnh nhân được chẩn đoán THA, điều trị
tại khoa Nội Tim Mạch Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Tất các các bệnh nhân tăng huyết áp.
- Bệnh nhân có hoặc chưa có tổn thương cơ quan đích: tim mạch, não, thận, mắt.
- Bệnh nhân có hoặc không có điều trị kèm theo các bệnh khác: tiêu hóa, hô hấp...
- Bệnh nhân có tiền sử sử dụng thuốc điều trị THA từ 01 tháng trở lên.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân bị câm, điếc.
- Bệnh nhân bị rối loạn tâm thần, hôn mê, mất ý thức, lú lẫn tuổi già…
- Bệnh nhân đang mắc các bệnh nặng hoặc cấp tính không có khả năng tiếp
xúc trả lời phỏng vấn.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.3. Chẩn đoán tăng huyết áp
- Chẩn đoán là THA theo Hội THA Việt Nam 2013 [22]: THA nếu HATT
bằng hoặc cao hơn 140 mmHg và/hoặc HATTr bằng hoặc cao hơn 90 mmHg.
- Phân độ tăng huyết áp:
18
Bảng 2.1. Phân độ THA theo WHO/ISH 2004 và Hội THA Việt Nam 2013 [22], [45]
Phân độ HA và mức độ THA HATT (mmHg) HATTr (mmHg)
< 120 < 80 Tối ưu
< 130 < 85 Bình thường
130-139 85-89 Bình thường cao
140-159 90-99 THA độ 1 (nhẹ)
160-179 100-109 THA độ 2 (trung bình)
≥ 180 ≥ 110 THA độ 3 (nặng)
≥ 140 < 90 THA tâm thu đơn độc
Phân loại này dựa trên HA đo tại phòng khám, nếu HATT và HATTr không
cùng không cùng một phân loại thì chọn mức HA cao hơn để xếp loại.
2.1.4. Thời gian nghiên cứu: từ ngày 30/07/2015 đến ngày 15/05/2016.
2.2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiến hành theo phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.2.1. Phƣơng tiện nghiên cứu
- Phiếu điều tra.
- Hồ sơ bệnh án của bệnh nhân.
- Sổ khám bệnh của bệnh nhân.
- Bút, giấy ghi chép.
- Máy đo HA đồng hồ (hiệu ALPK sản xuất từ Nhật).
- Ống nghe.
- Đồng hồ bấm giây.
2.2.2. Các bƣớc tiến hành nghiên cứu
Bước 1: Lập phiếu điều tra theo nội dung nghiên cứu của đề tài.
Bước 2: Thu thập số liệu dựa vào phiếu điều tra, hồ sơ bệnh án, sổ khám bệnh
của bệnh nhân.
Bước 3: Xử lý số liệu và tiến hành viết báo cáo.
19
2.2.3. Nội dung nghiên cứu
2.2.3.1. Đặc điểm chung của bệnh nhân
- Tuổi. - Nghề nghiệp.
- Giới tính. - Trình độ học vấn.
- Địa dư. - Thời gian mắc bệnh THA
2.2.3.2. Kiến thức về bệnh THA và sử dụng thuốc điều trị THA
- Kiến thức về bệnh THA:
+ Trị số xác định THA.
+ Tính chất của bệnh THA.
+ Kiểm soát THA.
- Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA:
+ Điều trị THA.
+ Cách uống thuốc.
+ Phối hợp sử dụng thuốc và thay đổi chế độ sinh hoạt.
2.2.3.3. Thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
- Cách uống thuốc.
- Sự tuân thủ dùng thuốc.
- Phối hợp sử dụng thuốc và thay đổi chế độ sinh hoạt.
- Những nguyên nhân khiến cho bệnh nhân kém tuân thủ dùng thuốc.
2.2.4. Quy ƣớc điểm và phƣơng pháp đánh giá
Cách tính điểm trong bộ câu hỏi phỏng vấn: trả lời được một ý đúng sẽ được
điểm của ý đó theo quy ước, nếu không biết hoặc không trả lời là 0 điểm. Về quy ước
điểm, chia theo câu trả lời đúng hay sai của ý đó trong việc sử dụng thuốc điều trị
THA. Có hai giá trị chọn là “đúng” và “sai” tương ứng với +1 điểm và 0 điểm.
Phương pháp đánh giá: đánh giá về các phần kiến thức và thực hành dựa vào
số câu trả lời đúng theo thang điểm có sẵn của từng phần, sau đó chia mức độ hiểu
biết chung và thực hành chung về việc sử dụng thuốc điều trị THA thành 2 mức độ
tốt ( 70% tổng số điểm), chưa tốt (< 70% tổng số điểm).
20
Thang điểm cụ thể của từng phần được chia theo quy ước như sau:
1. Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA (tổng số điểm: 10 điểm):
- Biết trị số xác định THA: Có 1đ Không 0đ
- THA là một bệnh nguy hiểm: Có 1đ Không 0đ
- THA là một bệnh mạn tính: Có 1đ Không 0đ
- Huyết áp có thể kiểm soát được: Có 1đ Không 0đ
- Cách điều trị THA là:
Chỉ cần uống thuốc điều trị THA 0đ
Không cần uống thuốc chỉ cần thay đổi lối sống 0đ
Kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống 1đ
Không biết 0đ
- Biết uống thuốc là điều quan trọng nhất để kiểm soát HA:
Có 1đ Không 0đ
- Biết phải uống thuốc điều trị THA trong nhiều năm:
Có 1đ Không 0đ
- Thời gian thích hợp trong ngày để uống thuốc điều trị THA:
Buổi sáng 1đ Buổi tối 1đ Tùy tiện 0đ
- Biết việc theo dõi HA thường xuyên là điều rất quan trọng :
Có 1đ Không 0đ
- Biết thay đổi chế độ sinh hoạt đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát HA:
Có 1đ Không 0đ
2. Thực hành sử dụng thuốc điều trị THA (tổng số điểm:11 điểm):
- Uống thuốc điều trị THA:
Hằng ngày 1đ Khi có triệu chứng 0đ
- Đo huyết áp trước khi uống thuốc: Có 1đ Không 0đ
- Theo dõi huyết áp tại nhà: Có 1đ Không 0đ
- Kiểm tra huyết áp định kì tại cơ sở y tế: Có 1đ Không 0đ
- Thỉnh thoảng quên uống thuốc: Có 0đ Không 1đ
- Tự ý giảm liều/ngưng thuốc bị tác dụng phụ: Có 0đ Không 1đ
21
- Quên không mang theo thuốc khi đi du dịch/ra khỏi nhà:
Có 0đ Không 1đ
- Ngừng uống thuốc khi thấy hết triệu chứng của bệnh:
Có 0đ Không 1đ
- Cảm thấy phiền khi phải tuân thủ phác đồ điều trị:
Có 0đ Không 1đ
- Gặp khó khăn để ghi nhớ lịch uống thuốc: Có 0đ Không 1đ
- Kết hợp chế độ ăn uống luyện tập thích hợp khi uống thuốc điều trị THA:
Có 1đ Không 0đ
- Bảng điểm đánh giá mức độ kiến thức, thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
của bệnh nhân:
Bảng 2.2. Bảng điểm đánh giá
Mức độ Tiêu chuẩn
Tốt 7-10 điểm Kiến thức Chưa tốt < 7 điểm
Tốt 8-11 điểm Thực hành Chưa tốt < 8 điểm
2.3. XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Phân tích và xử lý số liệu bằng phương pháp Thống kê y học sử dụng phần
mềm Excel và SPSS 16.
- Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nếu p < 0,05.
2.4. ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
- Toàn thể đối tượng tham gia vào quá trình nghiên cứu với tinh thần tự
nguyện, tất cả các đối tượng nghiên cứu sẽ được giải thích cụ thể về mục đích và
nội dung nghiên cứu.
- Cấu trúc và nội dung câu hỏi không vi phạm y đức cũng như bất kỳ một
chuẩn mực đạo đức nào của xã hội.
- Mọi thông tin của đối tượng nghiên cứu đều được giữ bí mật và chỉ sử dụng
cho mục tiêu nghiên cứu.
- Không có nghiệm pháp nào ảnh hưởng đến sức khỏe của đối tượng nghiên cứu.
22
Chƣơng 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
3.1.1. Phân bố theo độ tuổi, giới
Bảng 3.1. Phân bố theo độ tuổi, giới
Giới Nam Nữ Tổng
Tuổi Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) n n n
10 6,54 9 19 5,88 12,42 30-49
23 15,03 19 42 12,42 27,45 50-59
19 12,42 34 53 22,22 34,64 60-69
17 11,11 22 39 14,38 25,49 ≥ 70
69 45,10 84 153 54,90 100 Tổng
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân ở độ tuổi 60-69 tuổi chiếm nhiều nhất với 34,64%.
3.1.2. Phân bố theo nghề nghiệp
4,58%
7,84% 15,03%
17,65%
54,90%
Kinh doanh
Cán bộ-Công chức
Làm nông
Nội trợ
Khác
Biểu đồ 3.1. Phân bố theo nghề nghiệp
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân nằm trong nhóm nội trợ chiếm nhiều nhất với 54,90%.
23
3.1.3. Phân bố theo trình độ học vấn
Bảng 3.2. Phân bố theo trình độ học vấn
n Tỷ lệ (%) Trình độ học vấn
30 19,61 Không biết chữ
105 68,63 ≤ THPT
18 11,76 >THPT
153 100 Tổng
Nhận xét: Trình độ học ≤ THPT chiếm tỷ lệ cao nhất (68,63%), có 19,61%
người bệnh được khảo sát là không biết chữ.
3.1.4. Phân bố theo địa dƣ
37,25%
Nông thôn
62,75% Thành thị
Biểu đồ 3.2. Phân bố theo địa dư
Nhận xét: Bệnh nhân mắc bệnh chủ yếu đến từ nông thôn (62,75%).
24
3.1.5. Phân bố theo thu nhập hàng tháng
54,25
%
60
50
33,99 40
30
11,76 20
10
0 Thu nhập Không thu nhập ≤ 3 triệu VNĐ > 3 triệu VNĐ
Biểu đồ 3.3. Phân bố theo thu nhập hàng tháng
Nhận xét: Bệnh nhân không có thu nhập hàng tháng chiếm 54,25%.
3.1.6. Thời gian mắc bệnh THA
Bảng 3.3. Thời gian mắc bệnh THA
n Thời gian mắc bệnh THA Tỷ lệ (%)
28 18,30 Không rõ
33 21,57 ≤ 2 năm
92 60,13 > 2 năm
153 100 Tổng
Nhận xét: Có 60,13% bệnh nhân có tiền sử mắc bệnh THA hơn 2 năm.
25
3.1.7. Biến chứng của THA
56,21 % 60 43,79
50
40
30
20
10
0 Biến chứng Có Không
Biểu đồ 3.4. Biến chứng của THA
Nhận xét: Có 43,79% bệnh nhân được khảo sát đã có biến chứng của THA.
3.2. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH VỀ SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ THA
3.2.1. Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA
3.2.1.1. Kiến thức về điều trị THA
Bảng 3.4. Kiến thức về điều trị THA
Có biến chứng Không có biến
(n=67) chứng (n=86) THA
Điều trị THA n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Chỉ cần uống thuốc 29 43,28 34 39,53
Không cần uống thuốc chỉ cần thay đổi lối sống 8 11,94 12 13,95
Kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống 12 17,91 24 27,91
Không biết 18 26,87 16 18,61
Nhận xét: Có 17,91% bệnh nhân ở nhóm có biến chứng và 27,91% bệnh nhân
ở nhóm không có biến chứng biết phải kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống.
26
3.2.1.2. Kiến thức về thời gian uống thuốc điều trị THA
Bảng 3.5. Kiến thức về thời gian uống thuốc điều trị THA
n Thời gian uống thuốc Tỷ lệ (%)
120 Đúng 78,43
33 Sai 21,57
153 Tổng 100
Nhận xét: Có 78,43% bệnh nhân biết đúng về thời gian uống thuốc trong ngày.
3.2.1.3. Kiến thức về tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc điều trị THA
Bảng 3.6. Kiến thức về tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc điều trị THA
Có biến chứng Không có biến
(n=67) chứng (n=86) THA p
Uống thuốc n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Có 52 77,61 77 89,53 Biết uống thuốc là điều quan <0,05 trọng nhất 15 22,39 9 10,47 Không
Có 35 52,24 61 70,93 Biết phải uống thuốc trong <0,05 nhiều năm 32 47,76 25 29,07 Không
Nhận xét:
- Biết uống thuốc là điều quan trọng ở nhóm có biến chứng là 77,61%, ở nhóm
không có biến chứng là 89,53%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Biết phải uống thuốc trong nhiều năm ở nhóm có biến chứng là 52,24%, ở
nhóm không có biến chứng là 70,93%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
27
3.2.1.4. Kiến thức về kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống
Bảng 3.7. Kiến thức về kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống
Có biến chứng Không có biến
THA (n=67) chứng (n=86) p
Thay đổi lối sống n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Có 32 47,76 60 69,77 Biết phải theo dõi HA <0,05 thường xuyên Không 35 52,24 26 30,23
Có 27 40,30 57 66,28 Biết thay đổi chế độ sinh <0,05 hoạt rất quan trọng Không 40 59,70 29 33,72
Nhận xét:
- Biết phải theo dõi HA thường xuyên ở nhóm có biến chứng là 47,76%, ở
nhóm không có biến chứng là 69,77%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Biết phải thay đổi chế độ sinh hoạt ở nhóm có biến chứng là 40,30%, ở nhóm
không có biến chứng là 66,28%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
3.2.1.5. Nguồn cung cấp thông tin
56,73
%
60
50
40 25,63 17,64 30
20
10
Nhân viên y tế Người thân
Phương tiện
truyền thông
0 Nguồn thông tin
Biểu đồ 3.5. Nguồn cung cấp thông tin
Nhận xét: Nguồn cung cấp thông tin nhiều nhất là từ nhân viên y tế với 56,73%.
28
3.2.1.6. Kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Bảng 3.8. Kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Có biến chứng (n Không có biến p = 67) chứng (n = 86) THA
Kiến thức Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) n n
13 19,40 30 34,88 Tốt < 0,05 54 80,60 56 65,12 Chƣa tốt
67 100 86 100 Tổng
Nhận xét: Có sự khác biệt về kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA ở
nhóm bệnh nhân có biến chứng của THA và nhóm bệnh nhân không có biến chứng
của THA. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
3.2.2. Thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
3.2.2.1. Thực hành kiểm tra HA định kì tại cơ sở y tế
% 71,64 80 60,47 70
60 Có đi khámđịnh kì 39,53 50
28,36 Không đi khám
định kì 40
30
20
10
0 Biến chứng Có Không
Biểu đồ 3.6. Thực hành kiểm tra HA định kì tại cơ sở y tế
Nhận xét: Có 28,36% bệnh nhân ở nhóm có biến chứng và 39,53% bệnh
nhân ở nhóm không có biến chứng đi khám định kì tại cơ sở y tế.
29
3.2.2.2. Thực hành uống thuốc điều trị THA
Bảng 3.9. Thực hành uống thuốc điều trị THA
Có biến chứng Không có biến
THA (n=67) chứng (n=86) p
Uống thuốc n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Hằng ngày 18 26,87 38 44,19 <0,05 Khi có triệu chứng 49 73,13 48 55,81
Nhận xét: Uống thuốc hằng ngày ở nhóm có biến chứng là 26,87% và ở nhóm
không có biến chứng là 44,19%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
3.2.2.3. Thực hành tuân thủ điều trị THA
Bảng 3.10. Thực hành tuân thủ điều trị THA
Có biến chứng Không có biến
THA (n=67) chứng (n=86) p
Tuân thủ điều trị n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Có 11 16,42 29 33,72 Theo dõi huyết áp tại nhà <0,05 Không 56 83,58 57 66,28
Có 14 20,90 21 24,42 Tự ý giảm liều/ngưng thuốc >0,05 khi bị tác dụng phụ Không 53 79,10 65 75,58
Có 39 58,21 31 36,05 Cảm thấy phiền khi phải tuân <0,05 thủ điều trị Không 28 41,79 55 63,95
Nhận xét:
- Theo dõi HA tại nhà ở nhóm có biến chứng là 16,42%, ở nhóm không có
biến chứng là 33,72%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
- Cảm thấy phiền khi phải tuân thủ điều trị ở nhóm có biến chứng là 58,21%, ở
nhóm không có biến chứng là 36,05%. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
30
3.2.2.4. Thực hành kết hợp sử dụng thuốc và thay đổi lối sống
Bảng 3.11. Thực hành kết hợp sử dụng thuốc và thay đổi lối sống
Có biến chứng Không có biến
THA (n=67) chứng (n=86) p Kết hợp uống n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%) thuốc và thay đổi lối sống
Có 24 35,82 32 37,21 >0,05
Không 43 64,18 54 62,79
Nhận xét: Có 64,18% bệnh nhân trong nhóm có biến chứng và 62,79% bệnh
nhân trong nhóm không có biến chứng là không thực hành kết hợp sử dụng thuốc và
thay đổi lối sống. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
3.2.2.5. Nguồn thuốc điều trị THA
0,65%
32,68%
66,67%
Được cấp
Tự mua
Được tặng
Biểu đồ 3.7. Nguồn thuốc điều trị THA
Nhận xét: Có 66,67% bệnh nhân sử dụng thuốc điều trị THA là được cấp.
31
3.2.2.6. Nguyên nhân kém tuân thủ sử dụng thuốc điều trị THA
Bảng 3.12. Nguyên nhân kém tuân thủ sử dụng thuốc điều trị THA
Nguyên nhân kém tuân thủ sử dụng n Tỷ lệ (%) thuốc điều trị THA
HA bình thường thì không cần uống 56 25,93
Quên 54 25,00
Không thích uống thuốc dài ngày 37 17,13
Không có sẵn thuốc ở nhà 26 12,04
Sợ tác dụng phụ của thuốc 17 7,87
Sợ phụ thuộc vào thuốc 16 7,41
Uống quá nhiều loại thuốc 7 3,24
Thích sử dụng thuốc Đông y hơn 3 1,39
Nhận xét: Có 25,93% bệnh nhân không tuân thủ dùng thuốc điều trị THA do
cho rằng HA bình thường thì không cần uống, 25% quên, 17% không thích uống
thuốc dài ngày, 12,04% không có sẵn thuốc ở nhà.
3.2.2.7. Thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Bảng 3.13. Thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Có biến chứng Không có biến p (n = 67) chứng (n = 86) THA
Thực hành Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) n n
11 16,42 26 30,23 Tốt < 0.05 56 83,58 60 69,77 Chƣa tốt
67 100 86 100 Tổng
Nhận xét: Có sự khác biệt về thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA
ở nhóm bệnh nhân có biến chứng về THA và nhóm bệnh nhân không có biến chứng
của THA. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
32
3.3. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH
3.3.1. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm có biến chứng
Bảng 3.14. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm có biến chứng
Kiến thức Tốt (n = 13) Chƣa tốt (n = 54) p Thực hành Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) n n
8 3 61,54 5,56 Tốt (n = 11) < 0,05 5 51 38,46 94,44 Chƣa tốt (n = 56)
Nhận xét: Trong nhóm bệnh nhân có biến chứng, bệnh nhân có kiến thức tốt
thì thực hành tốt chiếm 61,54%, kiến thức chưa tốt thì thực hành chưa tốt chiếm
94,44%. Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm bệnh nhân có biến chứng với p < 0,05.
3.3.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm không có biến chứng
Bảng 3.15. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm không có biến chứng
Kiến thức Tốt (n = 30) Chƣa tốt (n = 56) p Thực hành Tỷ lệ (%) Tỷ lệ (%) n n
22 73,33 4 7,14 Tốt (n = 26) < 0,05 8 26,67 52 92,86 Chƣa tốt (n = 60)
Nhận xét: Trong nhóm bệnh nhân không có biến chứng, bệnh nhân có kiến
thức tốt thì thực hành tốt chiếm 73,33%, kiến thức chưa tốt thì thực hành chưa tốt
chiếm 92,86%. Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị
THA trong nhóm bệnh nhân không có biến chứng với p < 0,05.
33
Chƣơng 4
BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Bảng 3.1 cho thấy trong 153 đối tượng được nghiên cứu thì bệnh nhân cao
tuổi (≥ 60 tuổi) chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 60,13%. Cũng theo nhiều nghiên cứu thì
đây là nhóm tuổi dễ bị THA và có nhiều nguy cơ tim mạch [18].
Theo phân bố nghề nghiệp ở biểu đồ 3.1 thì tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm nội
trợ cao nhất (54,9%), làm nông (17,65%), kinh doanh (7,84%).
Bệnh nhân được khảo sát có trình độ học vấn ≤ THPT chiếm 68,63%, và có
19,61% bệnh nhân không biết chữ. Sự hạn chế về trình độ học vấn có thể ảnh hưởng
đến khả năng nhận thức của bệnh nhân về bệnh cũng như những kiến thức về sử
dụng thuốc và tuân thủ điều trị [10].
Vì các đối tượng chủ yếu là người cao tuổi nên phần lớn là không có thu nhập
(54,25%). Có đến 62,75% bệnh nhân đến từ khu vực nông thôn, nơi mà công tác chăm
sóc y tế và truyền thông giáo dục sức khỏe vẫn chưa thật sự phát triển so với khu vực
thành thị. Điều này cũng góp phần làm gia tăng tỉ lệ bệnh nhân phát hiện bệnh lý THA
muộn và sự tuân thủ điều trị cũng như thực hành sử dụng thuốc không đạt hiệu quả cao.
Có 60,13% bệnh nhân có tiền sử mắc bệnh THA hơn 2 năm và có 43,79%
bệnh nhân đã có biến chứng của THA như TBMMN, suy tim, nhồi máu cơ tim…
4.2. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ THA
4.2.1. Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA
4.2.1.1. Kiến thức về điều trị THA
Bảng 3.4 cho thấy, trong nhóm bệnh nhân có biến chứng của THA chỉ có
17,91% bệnh nhân biết rằng cần kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống, đa số bệnh
nhân cho rằng chỉ cần uống thuốc để điều trị THA (43,28%), có 11,94% bệnh nhân
cho rằng không cần uống thuốc mà chỉ cần thay đổi lối sống và có đến 26,87% bệnh
nhân không biết về điều trị THA. Có thể do sự thiếu hiểu biết về điều trị bệnh THA
đã làm tăng tỷ lệ biến chứng ở nhóm bệnh nhân này.
34
Trong nhóm bệnh nhân không có biến chứng của THA, kiến thức về điều trị
THA có cải thiện hơn so với nhóm có biến chứng của THA, tuy nhiên nhìn chung
thì tỉ lệ này vẫn còn khá thấp. Có 27,91% bệnh nhân biết phải kết hợp uống thuốc
và thay đổi lối sống trong khi có đến 39,53% bệnh nhân cho rằng chỉ cần uống
thuốc, 13,95% bệnh nhân lại cho rằng không cần uống thuốc chỉ cần thay đổi lối
sống và 18,61% bệnh nhân không biết về điều trị THA. Cũng theo nghiên cứu của
Trần Thị Kim thì có 12,87% bệnh nhân không biết phải điều trị THA như thế nào
[17]. Ở nghiên cứu của Đào Duy An thì số bệnh nhân không biết cách điều trị THA
chiếm 24,80% [3]. Tuy chưa có biến chứng của THA nhưng đây là nhóm bệnh nhân
cũng có nguy cơ cao xảy ra các biến chứng nên việc giáo dục về điều trị THA và
tuân thủ điều trị là rất cần thiết.
4.2.1.2. Kiến thức về thời gian uống thuốc
Bình thường nhịp huyết áp 24 giờ thay đổi ban ngày cao hơn ban đêm, sau 6
giờ sáng thì huyết áp bắt đầu tăng cho đến giữa trưa sau đó giảm chút ít rồi lại tăng
lên từ 15 giờ cho đến 18 giờ và sau đó giảm dần và thấp nhất là vào lúc 3-4 giờ sáng
[15]. Do đó, ở người bệnh bị THA thì cần phải sử dụng thuốc điều trị THA đúng
thời điểm nhằm kiểm soát huyết áp và điều hòa theo đúng nhịp sinh lý của cơ thể để
hạn chế tối đa những biến chứng có thể xảy ra.
Kết quả bảng 3.5 cho thấy đa số bệnh nhân biết được thời gian thích hợp để uống
thuốc điều trị THA trong ngày (78,43%). Tuy nhiên vẫn còn 21,57% bệnh nhân có kiến
thức sai về thời gian uống thuốc, cho rằng có thể uống thuốc vào bất cứ thời gian nào
trong ngày. Việc sử dụng thuốc không đúng thời điểm sẽ làm hạn chế tác dụng điều trị,
kiểm soát HA của thuốc đồng thời tăng khả năng xảy ra các tác dụng phụ của thuốc. Vì
vậy cần phải cung cấp kiến thức chính xác về thời điểm uống thuốc cho bệnh nhân.
4.2.1.3. Kiến thức về tầm quan trọng của việc sử dụng thuốc điều trị THA
Bảng 3.6 cho thấy trong nhóm bệnh nhân có biến chứng của THA thì đa số bệnh
nhân biết được uống thuốc là điều quan trọng để kiểm soát HA (77,61%). Tuy nhiên chỉ
có 52,24% bệnh nhân biết người bị THA thường phải sử dụng thuốc trong nhiều năm.
35
Trong nhóm không có biến chứng của THA, đa số bệnh nhân cũng biết được
uống thuốc là điều quan trọng nhất để kiểm soát HA (89,53%), tỷ lệ bệnh nhân biết
người bị THA thường phải sử sụng thuốc trong nhiều năm (70,93%) cao hơn so với
nhóm có biến chứng của THA (p<0,05). Nhìn chung thì tỷ lệ bệnh nhân nhận biết
phải sử dụng thuốc thường xuyên trong nhiều năm ở cả 2 nhóm là khá cao
(62,75%), kết quả này cao hơn nghiên cứu của Nguyễn Thị Định là 43,75% bệnh
nhân biết phải sử dụng thuốc điều trị THA trong thời gian dài [13].
4.2.1.4. Kiến thức về kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống
Bảng 3.7 cho thấy, trong nhóm có biến chứng có 47,76% bệnh nhân biết phải
theo dõi HA thường xuyên và 40,30% bệnh nhân biết thay đổi chế độ sinh hoạt ( ăn
uống, luyện tập...) đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát HA. Kiến thức về kết
hợp uống thuốc và thay đổi lối sống ở nhóm không có biến chứng cao hơn so với
nhóm có biến chứng (p<0,05). Trong cả 2 nhóm thì có 60,13% bệnh nhân biết phải
theo dõi HA thường xuyên và 54,90% bệnh nhân biết thay đổi chế độ sinh hoạt
đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát HA. Ở nghiên cứu của Vũ Xuân Phú và
Nguyễn Minh Phương về hiểu biết cách theo dõi HA thì có 52,40% bệnh nhân nắm
được là cần đo huyết áp thường xuyên hằng ngày, và có 49,20% bệnh nhân biết
được tuân thủ điều trị tốt nhất là cần phải phối hợp việc uống thuốc, điều chỉnh lối
sống, theo dõi huyết áp và khám bệnh định kì [24]. Rất nhiều bệnh nhân có nhận
thức sai lầm trong việc theo dõi HA, nhiều người cho rằng chỉ cần đo HA khi có
dấu hiệu THA, hoặc đã uống thuốc điều trị THA rồi thì không cần phải đo HA nữa.
Bên cạnh đó, mặc dù có nhiều bệnh nhân THA có dùng thuốc nhưng vẫn không
thay đổi lối sống nên hiệu quả kiểm soát HA có thể không cao, và có thể dẫn đến sự
e ngại trong tuân thủ điều trị ở bệnh nhân do cho rằng thuốc điều trị không có hiệu
quả. Do đó cần phải cung cấp đầy đủ kiến thức về theo dõi HA cũng như vai trò của
sự kết hợp dùng thuốc và thay đổi lối sống trong kiểm soát HA cho bệnh nhân, góp
phần vào việc nâng cao kiến thức và hiệu quả tuân thủ điều trị.
36
4.2.1.5. Nguồn cung cấp kiến thức
Biểu đồ 3.5 cho thấy bệnh nhân nhận được kiến thức về sử dụng thuốc điều trị
THA từ nhiều nguồn, trong đó nhận được nhiều nhất từ nhân viên y tế chiếm
56,73%, từ phương tiện truyền thông (tivi, sách báo, Internet…) chiếm 25,63%, và
từ người thân chiếm 17,64%. Cũng theo nghiên cứu của Vũ Xuân Phú và Nguyễn
Minh Phương thì nguồn thông về bệnh THA mà bệnh nhân nhận được có 61,60% là
từ nhân viên y tế, 37,20% là từ phương tiện truyền thông [24].
Để kiến thức của người bệnh và mọi người về sử dụng thuốc điều trị THA được
tăng lên, chúng ta cần tăng cường giáo dục, tư vấn về tuân thủ điều trị trong hệ thống y
tế và ngoài cộng đồng xã hội tích cực hơn. Đặc biệt, cần phải nâng cao vai trò, sự đóng
góp của điều dưỡng vào công tác chăm sóc bệnh nhân THA nói chung và hướng dẫn
tuân thủ điều trị THA nói riêng.
4.2.1.6. Kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có kiến thức tốt về bệnh THA và điều trị
THA thì sẽ có thái độ tuân thủ điều trị tốt hơn so với bệnh nhân không có kiến thức tốt
[31], [38]. Thực vậy, khi bệnh nhân có kiến thức tốt về sử dụng thuốc điều trị THA sẽ
giúp họ tốt hơn trong việc thực hành sử dụng thuốc, góp phần làm hạn chế những biến
chứng của bệnh.
Từ bảng 3.7 cho thấy, trong nhóm có biến chứng của THA, có 19,40% bệnh
nhân có kiến thức tốt về sử dụng thuốc điều trị THA, 80,60% bệnh nhân có kiến
thức chưa tốt. Trong nhóm bệnh nhân chưa có biến chứng của bệnh, kiến thức của
bệnh nhân có cao hơn với 34,88% bệnh nhân có kiến thức tốt và 65,12% bệnh nhân
có kiến thức chưa tốt. Tuy nhiên thì tỷ lệ bệnh nhân không có kiến thức tốt về sử
dụng thuốc điều trị THA ở cả 2 nhóm bệnh vẫn còn thấp với p<0,05.
Theo nghiên cứu của Đồng Văn Thành trong báo cáo tổng kết 10 năm triển
khai mô hình quản lý, theo dõi và điều trị có kiểm soát bệnh tăng huyết áp tại 12
bệnh viện đa khoa và 10 bệnh viện huyện (tổng cộng có 54.500 bệnh nhân) tại Hà
Nội năm 2012 thì có 40,50% bệnh nhân được khảo sát chưa có kiến thức tốt về
bệnh THA [31]. Kết quả này cao hơn nghiên cứu cứu của chúng tôi, vì đây là
37
nghiên cứu kéo dài trên một lượng lớn bệnh nhân nên độ chính xác cao hơn nhiều
so với nghiên cứu cắt ngang. Như vậy tỉ lệ người bệnh có kiến thức đúng chưa cao,
cần phải có biện pháp giúp bệnh nhân có kiến thức dùng thuốc để việc sử dụng
thuốc vừa hiệu quả vừa an toàn.
4.2.2. Thực hành về sử dụng thuốc điều trị THA
4.2.2.1. Thực hành kiểm tra HA định kì tại cơ sở y tế
Theo lịch hẹn tái khám của bác sĩ hay khi uống hết thuốc hoặc sau một đợt
điều trị thì người bệnh cần đi kiểm tra sức khỏe và huyết áp để đánh giá hiệu quả
điều trị và các biến chứng của bệnh nếu có. Kết quả điều trị thành công cũng phụ
thuộc vào việc người bệnh đi khám đều đặn. Biểu đồ 3.6 cho thấy tỷ lệ bệnh nhân
có đi khám định kì tại cơ sở y tế trong nhóm có biến của THA (28,36%) là thấp hơn
so với nhóm bệnh nhân không có biến chứng (39,53%). Trong cả 2 nhóm thì có
34,64% bệnh nhân đi khám định kì tại cơ sở y tế. Kết quả này tương đương với
nghiên cứu của Lê Ánh Dũng và Nguyến Anh Vũ về tình hình điều trị ngoại trú
THA tại phường Phú Hậu, Thành phố Huế năm 2011 với 32,84% bệnh nhân đến tái
khám ở cơ sở y tế, 64,18% bệnh nhân điều trị tư và 2,98% tự điều trị [10]. Còn
trong nghiên cứu của Vũ Xuân Phú và Nguyễn Minh Phương về tuân thủ điều trị
THA trên 250 đối tượng tại 4 phường của Hà Nội thì có 45,60% bệnh nhân đi khám
định kì đều đặn [24]. Nhìn chung tỷ lệ đi khám và kiểm tra sức khỏe định kì vẫn
chưa cao, nguyên nhân có lẽ là do người dân Việt Nam thường ít quan tâm đến sức
khỏe của mình, không có thói quen đi khám định kì, chỉ khi nào bệnh nặng không
chịu được họ mới đi khám, đây là thói quen không tốt vì như thế sẽ không phát hiện
sớm được bệnh, diễn tiến và những biến chứng có thể xảy ra. Hoặc cũng có thể
người bệnh nghĩ bệnh của mình đã được phát hiện, nên chỉ cần về nhà uống thuốc
như những bệnh nhân khác mà không nhất thiết phải đi khám lại nếu vẫn thấy người
khỏe mạnh bình thường. Một vấn đề nữa có thể do chất lượng y tế còn thấp, chưa
đạt được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, các nơi khám bệnh chờ đợi lâu,
thủ tục lằng nhằng mất thời gian… nên bệnh nhân ngại đi khám.
38
4.2.2.2. Thực hành uống thuốc điều trị THA
Việc điều trị thành công tương thuận với mức độ dùng thuốc điều đặn [29].
Từ bảng 3.9 cho thấy, trong nhóm bệnh nhân có biến chứng của THA thì chỉ có
26,87% bệnh nhân uống thuốc điều trị THA hằng ngày, và 73,13% bệnh nhân chỉ
uống thuốc khi có triệu chứng. Ở nhóm không có biến chứng thì tỷ lệ tuân thủ uống
thuốc cao hơn với 44,19% bệnh nhân uống thuốc hằng ngày và 55,81% bệnh nhân
uống thuốc khi có triệu chứng (p<0,05). Tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Lê
Ánh Dũng và Nguyễn Tất Vũ khi nghiên cứu trên 285 bệnh nhân thì chỉ có 23,50%
điều trị thường xuyên, và tương đương với kết quả nghiên cứu của tác giả Vũ Xuân
Phú và Nguyễn Minh Phương với 43,60% bệnh nhân dùng thuốc thường xuyên, liên
tục theo đơn của bác sĩ [24], thấp hơn so với nghiên cứu của Ninh Văn Đồng năm
2010 là 68% [14]. Mặc dù nhóm không có biến chứng có tỷ lệ uống thuốc hằng
ngày cao hơn nhưng bên cạnh đó vẫn còn một tỷ lệ lớn bệnh nhân không uống
thuốc thường xuyên, do đó việc kiểm soát huyết áp vẫn chưa cao và nguy cơ biến
chứng vẫn có thể xảy ra. Vì vậy việc giáo dục kiến thức sử dụng thuốc điều trị THA
thường xuyên không chỉ cần thiết ở nhóm có biến chứng mà cả ở nhóm không có
biến chứng cũng quan trọng không kém.
4.2.2.3. Thực hành tuân thủ điều trị THA
Do kiến thức về điều trị THA của người bệnh chưa đầy đủ nên vấn đề tuân
thủ điều trị của bệnh nhân vẫn còn khá thấp, nổi bật là tình trạng không theo dõi HA
thường xuyên, không sử dụng thuốc đều đặn, quên uống thuốc và ngừng thuốc khi
nghĩ rằng mình đã hết bệnh. Qua bảng 3.10 cho thấy, ở nhóm có biến chứng chỉ có
16,42% bệnh nhân có theo dõi HA tại nhà. Tỷ lệ này thấp hơn so với nhóm không
có biến chứng (p<0,05). Bên cạnh đó, vẫn còn một lượng lớn bệnh nhân cảm thấy
phiền khi phải tuân thủ phác đồ điều trị ở nhóm có biến chứng (58,27%). Có thể là
do kiến thức chưa tốt và tâm lí chủ quan nên người bệnh không thấy rõ lợi ích của
tuân thủ điều trị và theo dõi HA. Từ đó cho thấy, người bệnh cần có thái độ đúng
trong việc tuân thủ điều trị, điều trị phải liên tục lâu dài chứ không phải điều trị cho
huyết áp trở về bình thường là không cần điều trị nữa như một số người bệnh vẫn
nghĩ. Vì vậy rất cần sự hướng dẫn đầy đủ, cụ thể từ cán bộ y tế.
39
4.2.2.4. Thực hành kết hợp sử dụng thuốc và thay đổi lối sống
Điều chỉnh lối sống là điều trị THA không dùng thuốc, rất quan trọng trong
phòng ngừa bệnh THA, làm hạ huyết áp và giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch khác
[43]. Việc thay đổi lối sống bao gồm thay đổi chế độ ăn (ăn nhạt, giảm mỡ, ăn nhiều
rau quả...) và tập thể dục mỗi ngày để rèn luyện sức khỏe (đi bộ, chạy bộ...). Tuy
nhiên trong thay đổi lối sống, cách thức ăn uống ảnh hưởng mạnh nhất [14], nhưng
cũng là vấn đề khó khăn nhất trong áp dụng do đời sống xã hội và nhận thức của
người dân, có thể do thói quen ăn uống, do sinh hoạt gia đình đã được hình thành từ
trước nên rất khó thay đổi.
Từ bảng 3.11 nhận thấy rằng việc kết hợp giữa uống thuốc và thay đổi lối
sống ở nhóm có biến chứng và nhóm không có biến chứng của THA đều chưa cao,
chiếm tỉ lệ lần lượt là 35,82% và 37,21%. Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Đa số bệnh nhân đươc nghiên cứu ở đây là nhóm người cao tuổi (≥ 60
tuổi chiếm 60,13%), chế độ ăn uống của họ phụ thuộc vào cách chế biến của người
thân trong gia đình, do đó việc điều chỉnh chế độ ăn của họ sẽ làm ảnh hưởng đến
các thành viên khác trong gia đình nên rất khó để họ có thể thay đổi chế độ ăn thích
hợp. Bên cạnh đó, vì cao tuổi và có thể đang có các bệnh lý khác kèm theo (rối loạn
tiền đình, bệnh lý tim mạch...) nên vấn đề rèn luyện sức khỏe thường xuyên ở bệnh
nhân cũng khó mà thực hiện được.
4.2.2.5. Nguyên nhân kém tuân thủ sử dụng thuốc điều trị THA
Theo bảng 3.12 thì nguyên nhân khiến cho bệnh nhân kém tuân thủ sử dụng
thuốc điều trị THA cao nhất là do bệnh nhân cho là huyết áp bình thường thì không
cần uống thuốc chiếm 25,93%, quên chiếm 25%, không thích uống thuốc dài ngày
chiếm 17,13%, không có sẵn thuốc ở nhà chiếm 12,04%, sợ tác dụng phụ của thuốc
chiếm 7,87%, sợ phụ thuộc vào thuốc chiếm 7,41%, và thấp nhất là do thích sử
dụng thuốc Đông y hơn chiếm 1,39%. Còn theo nghiên cứu của Vũ Xuân Phú và
Nguyễn Minh Phương, trong 23,60% bệnh nhân uống thuốc không đầy đủ thì
nguyên nhân chủ yếu là do bận công việc nên quên không uống thuốc (10,80%),
hoặc do một số quan niệm sai lầm trong điều trị như cho rằng không quan trọng
40
chiếm (6,40%), huyết áp bình thường thì không cần uống tiếp (6,40%) [24]. Ở một
nghiên cứu khác của Amonov Malik và các cộng sự khi khảo sát trong nhóm 132
bệnh nhân THA không tuân thủ điều trị thì nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất là do
cho rằng HA trở về bình thường thì không cần uống thuốc nữa (44,7%), sau đó là
do không thích uống thuốc dài ngày (15,9%), sợ phụ thuộc vào thuốc (12,9%) [32].
Như vậy một trong những nguyên nhân hay gặp thậm chí chiếm tỷ lệ cao khiến
bệnh nhân không tuân thủ sử dụng thuốc đó là sự hiểu biết sai lệch về cách dùng
thuốc, cho rằng chỉ uống thuốc điều trị THA khi huyết áp tăng cao, còn khi huyết áp
đã tạm thời trở về giá trị bình thường hoặc thấy không còn triệu chứng nào nữa thì
không cần phải uống thuốc. Đây là một nhận thức sai lầm mà bệnh nhân cần phải
thay đổi sớm, bởi chính điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sự tuân thủ dùng thuốc
của bệnh nhân.
4.2.2.6. Thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA
Từ bảng 3.13 cho thấy trong nhóm có biến chứng, tỷ lệ bệnh nhân thực hành
sử dụng thuốc điều trị THA tốt chiếm 16,42% và có đến 83,58% bệnh nhân thực
hành chưa tốt. Trong nhóm bệnh nhân không có biến chứng thì 30,23% bệnh nhân
thực hành tốt và 69,77% bệnh nhân thực hành không tốt. Như vậy chủ yếu là bệnh
nhân thực hành sử dụng thuốc điều trị THA chưa tốt (chiếm 24,18% ở cả 2 nhóm)
với p < 0,05. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Ninh Văn Đồng năm 2010
với 21,20% bệnh nhân thực hành tuân thủ điều trị tốt và 78,8% bệnh nhân chưa thực
hành tốt [14]. Có lẽ do sự hạn chế kiến thức về bệnh và điều trị THA nên đã làm
ảnh hưởng đến thực hành tuân thủ điều trị cũng như sử dụng thuốc ở bệnh nhân.
Thiết nghĩ trong công tác điều trị và chăm sóc cho bệnh nhân, chúng ta cần phải
hướng dẫn người bệnh nhiều hơn nữa, như vậy thì mới có thể hy vọng tỷ lệ thực
hành tốt trong tuân thủ điều trị THA nói chung và sử dụng thuốc điều trị THA nói
riêng ngày càng được nâng cao.
41
4.3. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH
4.3.1. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm có biến chứng
Bảng 3.14 cho thấy, trong nhóm bệnh nhân có biến chứng của THA, đa số
bệnh nhân có kiến thức tốt thì thực hành tốt (61,54%), những bệnh nhân có kiến
thức không tốt thì thực hành không tốt (94,44%). Nghiên cứu đã chứng minh,
kiến thức tăng thì thực hành sẽ tăng, sự tăng này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Nhiều nghiên cứu cho thấy bệnh nhân có kiến thức tốt về bệnh THA và điều trị
THA thì sẽ có thái độ tuân thủ thực hành điều trị tốt hơn so với bệnh nhân không
có kiến thức tốt [31], [38]. Thực vậy, khi bệnh nhân có kiến thức tốt về sử dụng
thuốc điều trị THA sẽ giúp họ tốt hơn trong việc thực hành sử dụng thuốc, góp
phần làm hạn chế những biến chứng của bệnh.
4.3.2. Mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA
trong nhóm không có biến chứng
Bảng 3.15 cho thấy, trong nhóm bệnh nhân không có biến chứng của THA, đa
số bệnh nhân có kiến thức tốt thì thực hành tốt (73,33%), những bệnh nhân có kiến
thức không tốt thì thực hành không tốt (92,86%). Nghiên cứu đã chứng minh, kiến
thức tăng thì thực hành sẽ tăng, sự tăng này có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Như vậy giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA có mối liên
quan mật thiết với nhau. Nếu kiến thức tăng lên thì thực hành cũng sẽ tăng lên. Đây
cũng là cơ sở để chúng ta thực hiện công tác giáo dục về bệnh THA và sử dụng
thuốc điều trị THA trong môi trường bệnh viện và trong cộng đồng. Với vai trò
người điều dưỡng, chúng ta cần tăng cường giáo dục sức khỏe, hướng dẫn thực
hành và giám sát việc thực hành của người bệnh hơn nữa. Nhằm phát hiện các thiếu
sót, sai lầm trong kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA kết hợp thay
đổi lối sống để kịp thời bổ sung và sữa chữa. Bởi vì, khi chúng ta giáo dục sức khỏe
tốt, hướng dẫn thực hành tốt thì sẽ giúp thực hành được tốt hơn.
42
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu về kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA của
bệnh nhân bị THA đang điều trị tại khoa Nội bệnh viện trường Đại học Y dược Huế
từ ngày 30/07/2015-15/05/2016, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH SỬ SỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ THA
1.1. Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA
- Biết điều trị THA là kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống, nhóm có biến
chứng có 17,91%, nhóm không có biến chứng có 27,91%.
- Biết uống thuốc là điều quan trọng nhất để kiểm soát HA, nhóm có biến
chứng có 77,61%, nhóm không có biến chứng có 89,53%.
- Biết người bị THA thường phải sử dụng thuốc điều trị THA trong nhiều
năm, nhóm có biến chứng có 52,24%, nhóm không có biến chứng có 70,93%.
- Biết phải kiểm tra HA thường xuyên, nhóm có biến chứng có 62,69%, nhóm
không có biến chứng có 74,42%.
- Biết việc thay đổi chế độ sinh hoạt đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát
HA, nhóm có biến chứng có 40,30%, nhóm không có biến chứng có 66,28%.
- Kiến thức chung về sử dụng thuốc điều trị THA tốt, nhóm có biến chứng
thấp hơn so với nhóm không có biến chứng (p<0,05).
1.2. Thực hành về sử dụng thuốc điều trị THA
- Thực hành đi khám định kì tại cơ sở y tế, nhóm có biến chứng có 37,31%,
nhóm không có biến chứng có 62,69%.
- Thực hành uống thuốc điều trị THA hằng ngày, nhóm có biến chứng có
26,87%, nhóm không có biến chứng có 44,19%.
- Thực hành theo dõi HA tại nhà, nhóm có biến chứng có 16,42%, nhóm
không có biến chứng có 33,72%.
- Thực hành chung về sử dụng thuốc điều trị THA tốt, nhóm có biến chứng
thấp hơn so với nhóm không có biến chứng (p<0,05).
- Nguyên nhân khiến bệnh nhân không tuân thủ sử dụng thuốc điều trị THA:
43
cho là huyết áp bình thường (25,93%), quên (25%), không thích uống thuốc dài
ngày (17,13%), không có sẵn thuốc ở nhà (12,04%).
2. MỐI LIÊN QUAN GIỮA KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH SỬ DỤNG
THUỐC ĐIỀU TRỊ THA
- Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA ở
nhóm có biến chứng (p<0,05).
- Có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành sử dụng thuốc điều trị THA ở
nhóm không có biến chứng của THA (p<0,05).
44
KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu này chúng tôi đề xuất một số kiến nghị như sau:
1. Cán bộ y tế cần tăng cường việc giáo dục bệnh nhân về tuân thủ điều trị
THA, cách sử dụng thuốc điều trị THA, theo dõi HA và tái khám định kì.
2. Hướng dẫn bệnh nhân và người nhà thực hiện, theo dõi việc kết hợp uống
thuốc và thay đổi lối sống của bệnh nhân.
3. Đa dạng hóa các loại hình truyền thông (tivi, loa, đài phát thanh...) để
truyền thông giáo dục về bệnh THA.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy An (2005), “Nhận thức cơ bản và cách xử trí ở bệnh nhân tăng huyết
áp”, Kỷ yếu các đề tài nghiên cứu khoa học Hội nghị Tim mạch miền Trung
mở rộng lần III, tr. 65-72.
2. Đào Duy An (2007), “Ăn uống ảnh hưởng đến huyết áp như thế nào”, Tạp chí
Tim mạch học Việt Nam số 47, tr. 453-460.
3. Đào Duy An (2007), “Tăng huyết áp thầm lặng như thế nào”, Thời sự Tim
Mạch Học số 111, tr. 33-36.
4. Lê Văn An, Nguyễn Thị Kim Hoa (2008), “Chăm sóc bệnh nhân tăng huyết
áp”, Điều dưỡng Nội tập 1, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 28-39.
5. Lê Văn An, Dƣơng Thị Ngọc Lan, Đặng Thị Nguyên Chi (2009), “Tìm hiểu kiến
thức về bệnh tăng huyết áp của bệnh nhân tăng huyết áp tại Bệnh viện Trường Đại
học Y Dược Huế”, Tạp chí y học thực hành (số 660-661), tr. 11-16.
6. Bộ môn Nội Trƣờng Đại Học Y Hà Nội (2004), “Tăng huyết áp”, Bài giảng
bệnh học nội khoa tập 2, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 106-112.
7. Bộ Môn Nội Trƣờng Đại học Y Dƣợc Huế (2005), “Tăng huyết áp”, Bệnh
học nội khoa tập 1, Y Huế, tr. 31-44.
8. Bộ Y tế (2010), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị tăng huyết áp.
9. Bùi Thị Lệ Chi (2006), “Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành, phòng chống
bệnh tăng huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp tại khoa Khám bệnh Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Bình Định”, Luận văn chuyên khoa cấp I, Trường Đại học Y
Dược Huế - Đại học Huế, Huế.
10. Lê Ánh Dũng và Nguyến Anh Vũ (2011), “Nghiên cứu về tình hình điều trị
ngoại trú THA tại phường Phú Hậu, Thành phố Huế”, Kỉ yếu các bài báo cáo
tại Hội nghị Tim mạch miền Trung-Tây Nguyên lần VI (Phụ trương tạp chí
Tim mạch học số 58), tr.183-187
11. Phạm Tử Dƣơng (2007), “Bệnh tăng huyết áp”, Nxb Y học, tr. 17-47.
12. TS.BS. Nguyễn Hữu Đức_ĐH Y Dƣợc TP Hồ Chí Minh, “Về thuốc điều trị
tăng huyết áp”, www.ykhoa.net
13. Nguyễn Thị Định (2008), “Đánh giá kết quả giáo dục kiến thức về bệnh tăng
huyết áp ở bệnh nhân cao tuổi tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế”,
Luận văn Điều dưỡng, Trường Đại học Y Dược Huế - Đại học Huế, Huế.
14. Ninh Văn Đồng (2010), “Đánh giá sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân THA
trên 60 tuổi tại phường Hàng Bông, quận Hoàng Kiếm”.
15. Hoàng Khánh, Tôn Thất Trí Dũng (2012), “Tăng huyết áp và tai biến mạch
máu não”, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam.
16. Phạm Khuê (2000), “ Đề phòng tai biến mạch máu não ở người cao tuổi”,
Nxb Y học, Hà Nội.
17. Trần Thị Kim (2011), “Đánh giá tình hình thực hiện y lệnh về thuốc điều trị tăng
huyết áp của các bệnh nhân điều trị nội trú tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược
Huế”, Luận văn Điều dưỡng, Trường Đại học Y Dược Huế - Đại học Huế, Huế.
18. Trần Văn Long (2012), “Tình hình sức khỏe người cao tuổi và thủ nghiệm
can thiệp nấng cao kiến thức-thực hành phòng chống bệnh tăng huyết áp tại 2
xã huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định giai đoạn 2011-2012”, tr. 107-109.
19. 19 Huỳnh Văn Minh (2003), “Tăng huyết áp”, Giáo trình sau Đại học bệnh
lý Tim mạch tập 1, Nxb Đại học Huế, tr. 9-17.
20. Huỳnh Văn Minh và cộng sự (2007), “Tần suất tăng huyết áp và mối liên
quan với một số yếu tố nguy cơ chính của nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế”,
Nội Khoa, số 4, tr. 64-72.
21. Huỳnh Văn Minh và cộng sự (2008), “Khuyến cáo của Hội Tim mạch học
Việt Nam về chẩn đoán, điều trị tăng huyết áp ở người lớn”.
22. Phân hội tăng huyết áp Việt Nam (2013), Phân loại tăng huyết áp.
23. Phân hội THA/Hội Tim mạch Việt Nam (2015), Cập nhật khuyến cáo Chẩn
đoán - Điều trị THA 2015.
24. Vũ Xuân Phú và Nguyễn Minh Phƣơng - Trung tâm Y tế Dự phòng TP.
Hà Nội (2011), “Thực trạng thực hành tuân thủ trong điều trị tăng huyết áp
của bệnh nhân 25-60 tuổi ở 4 phường thành phố Hà Nội”, Y học thực hành
(817), số 04/2012.
25. Đồng Văn Thành (2012), “ Báo cáo Tổng kết 10 năm triển khai mô hình quản
lý, theo dõi và điều trị có kiểm soát bệnh Tăng huyết áp, Hội nghị tổng kết 10
năm triển khai mô hình quản lý, theo dõi và điều trị có kiểm soát bệnh Tăng
huyết áp”, chủ biên, Bệnh viện Bạch Mai - Hà Nội.
26. Chu Hồng Thắng (2008), ”Nghiên cứu thực trạng bệnh tăng huyết áp và rối
loạn chuyển hoá ở nguời tăng huyết áp tại xã Hoá Thượng huyện Đồng Hỷ -
Tỉnh Thái Nguyên”.
27. Nguyễn Cao Trí (2009), “Nghiên cứu tình hình tăng huyết áp và các yếu tố
liên quan ở người cao tuổi tại xã Hòa Đông, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng
năm 2009”, Luận văn chuyên khoa cấp I. Trường Đại học Y Dược Huế - Đại
học Huế, Huế.
28. Nguyễn Lân Việt và cộng sự (2003), “Tăng huyết áp”, Thực hành bệnh tim
mạch, NXB Y học, tr. 113 - 138.
29. Nguyễn Lân Việt (2007), “Áp dụng một số giải pháp can thiệp thích hợp đề phòng,
chữa bệnh tăng huyết áp tại cộng đồng”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
30. Nguyễn Lân Việt (2011), “Tăng huyết áp - Vấn đề cần được quan tâm hơn”,
Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống THA.
B. TIẾNG ANH
31. Almas A, Godil SS, Lalani S, Samani ZA, Khan AH (2012), “Good
knowledge about hypertension is linked to better control of hypertension”; a
multicentre cross sectional study in Karachi, Pakistan.
32. Amonov Malik and partners (2012), “Hypertension-related knowledge,
practice and drug adherence among inpatients of Hospital in Samarkand,
Uzbekisstan”.
33. Chobanian A. V., BarkrisG. L., Black H. P. et al (2003), “The seventh report
of the Joint National Committee on prevention, detction, evaluation, and
treatment of high blood pressure”, The Journal of the American Medical
Association, pp. 2560-2562.
34. DongfengGu, Kristi Reynolds (2002), “Prevalence, awareness, treatment,
and control of hypertension in China”, Hypertension, pp. 40-920.
35. ESH/ESC Hypertension Guidelines (2013), Classcification of blood pressure levels.
36. Jiang He, Paul K. Whelton (2002), “Long-Term Effects of Weight Loss an Dietary
Sodium Reduction on Incidence of Hypertension”, Hypertension, pp. 35-544.
37. Jackson T.Wright, Jr; Daniel W. Jones (2003), “Seventh Report of the Joint
National Committee on Prevention Detection, Evaluation, Treatment of High
Blood Pressure”, Hypertension, pp. 19-20.
38. Ghembaza MA, Senoussaoui Y, Tani MK, Meguenni K (2014), “ Impact of
patient knowledge of hypertension complications on adherence to
antihypertensive therapy”.
39. Kearney PM et al (2005), ”Global burden of hypertension: analysis of
worldwide data” , Lancet, 365(9455), pp. 217-223.
40. Lim SS, Vos T, Flaxman AD, Danaei G, et al (2012), “A comparative risk
assessment of burden of disease and injury attributable to 67 risk factors and risk
factor clusters in 21 regions, 1990-2010 : a systematic analysis for the Global Burden
of Disease Study 2010”, Lancet. 2012; 380 (9859), pp. 2224-2260
41. Mozzafarian D, Benjamin EJ, Go AS, et al (2015), ”Heart Disease and Stroke
Statistics-2015 Update: a report from the American Heart Association”,
Circulation 2015, pp. 29-322.
42. New ASH/ISH Hypertension Guidelines Offer Practical, Clinical
Information for Doctor and Patient Around the Globe (2013),
Classcification of blood pressure levels.
43. Pri - Med Patient Education Center, Harvard Medical School (2006), “Are
you at Rish for Hypertension”, pp. 255 - 258.
44. Tatiana Nwankwo, M.S.; Sung Sug (Sarah) Yoon, Ph.D., R.N.; Vicki
Burt, Sc.M., R.N.; and Qiuping Gu, M.D., Ph.D (2011–2012),
“Hypertension Among Adults in the United States: National Health and
Nutrition Examination Survey”.
45. The Updated WHO/ISH Hypertension Guidelines (2014), Classcification
of blood pressure levels.
46. World Health Organization (2003), "Adherence to long-term therapies:
evidence for action - Chapter XIII Hypertension", pp. 107-114.
47. Wu Y, Yan LL, Xavier D, Irazola VE, et al (2016), “Hypertension
Prevalence, Awareness, Treatment, and Control in Selected LMIC
Communities: Results From the NHLBI/UHG Network of Centers of
Excellence for Chronic Diseases”.
PHỤ LỤC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HUẾ
KHOA ĐIỀU DƢỠNG Số phiếu:…..
Nữ
Thành thị
Nông thôn
PHIẾU ĐIỀU TRA
TÌM HIỂU KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH SỬ DỤNG THUỐC ĐIỀU TRỊ
TĂNG HUYẾT ÁP CỦA BỆNH NHÂN BỊ TĂNG HUYẾT ÁP TẠI
KHOA NỘI BỆNH VIỆN TRƢỜNG ĐẠI HỌC Y DƢỢC HUẾ
> THPT
Không biết chữ ≤ THPT
Không thu nhập ≤ 3 triệu VNĐ > 3 triệu VNĐ
Chỉ cần uống thuốc điều trị THA
Không cần uống thuốc chỉ cần thay đổi lối sống
Kết hợp uống thuốc và thay đổi lối sống
Không biết
Có Không
I. Thông tin cá nhân:
1. Họ và tên bệnh nhân: ………………………………………Tuổi: …..
2. Giới tính: Nam
3. Địa dư:
4. Nghề nghiệp: Kinh doanh Cán bộ-Công chức Làm nông Nội trợ Khác
Buổi sáng
Buổi tối
Tùy tiện
Có Không
Có Không
Có Không
5. Trình độ học vấn:
6. Thu nhập hàng tháng:
7. Thời gian mắc bệnh THA:
Không rõ tiền sử THA Tiền sử mắc bệnh < 2 năm
Tiền sử mắc bệnh > 2 năm
8. Ngày vào viện: …………………… ..…. Số vào viện: ………
9. Chẩn đoán: …………………………………………………….
II. Kiến thức về sử dụng thuốc điều trị THA:
1. Ông/bà có biết trị số xác định THA không?
Có Không
2. Ông/bà có nghĩ THA là một bệnh nguy hiểm không? Có Không
Có Không
3. Ông/bà có nghĩ THA là một bệnh mạn tính?
4. Ông/bà có nghĩ huyết áp có thể kiểm soát được? Có Không
5. Theo ông/bà cách điều trị THA là:
6. Ông/bà có biết uống thuốc là điều quan trọng nhất để kiểm soát HA không?
7. Ông/bà có biết phải sử dụng thuốc trong nhiều năm không?
8. Theo ông/bà thời gian trong ngày nên uống thuốc điều trị THA:
9. Ông/bà có biết việc kiểm tra HA thường xuyên là điều rất quan trọng không?
10. Ông/bà có biết thay đổi chế độ sinh hoạt đóng vai trò quan trọng trong kiểm
soát HA không?
11. Những kiến thức về THA ông/bà có từ:
Từ cán bộ y tế (bác sĩ, điều dưỡng...)
Từ người thân
Từ phương tiện truyền thông (tivi, sách báo, Internet…)
III. Thực hành sử dụng thuốc điều trị THA:
1. Ông/bà uống thuốc điều trị THA như thế nào?
Hằng ngày Khi có triệu chứng
Có Không
Có Không
2. Ông/bà có đo HA trước khi uống thuốc không? Có Không
3. Ông/bà có theo dõi HA tại nhà không? Có Không
4. Ông/bà có kiểm tra HA định kì tại cơ sở y tế không? Có Không
5. Thuốc điều trị THA của ông/bà là: Được cấp Tự mua Được tặng
6. Thỉnh thoảng ông/bà có quên uống thuốc không? Có Không
7. Ông/bà có tự ý giảm liều/ngưng khi bị tác dụng phụ của thuốc?
8. Khi đi du lịch hay ra khỏi nhà, ông/bà có quên mang thuốc theo không?
9. Ông/bà có ngừng uống thuốc khi thấy hết triệu chứng của bệnh không? Có Không
Có Không 10. Ông/bà có thấy phiền khi tuân thủ phác đồ điều trị không?
11. Ông/bà có gặp khó khăn để ghi nhớ lịch uống thuốc không? Có Không 12. Ông/bà có kết hợp thay đổi lối sống khi uống thuốc điều trị THA không? Có Không 13. Nguyên nhân khiến cho ông/bà kém tuân thủ việc sử dụng thuốc điều trị THA:
Sợ phụ thuộc vào thuốc
Tiền thuốc tốn kém
Quên
Sợ tác dụng phụ của thuốc
Uống quá nhiều loại thuốc Thích sử dụng thuốc Đông y hơn
Không thích uống thuốc dài ngày Không có sẵn thuốc ở nhà
HA bình thường không cần uống
Xin chân thành cảm ơn ông/bà đã nhiệt tình giúp đỡ!
Huế, ngày…tháng…năm 201..
Sinh viên thực hiện
Võ Thị Nhi