
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua một thế kỷ, dân tộc ta chìm trong chế độ nô lệ. Nhân dân ta sống trong
cuộc đời lầm than khổ nhục bởi áp bức, đè nén và bóc lột của thực dân và nữa phong kiến.
Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Con đường cách mạng mà Bác
Hồ và nhân dân ta đã chọn dẫn đến Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và Đảng đã lãnh đạo
nhân dân giành chính quyền lập nên Nhà nước dân chủ kiểu mới. Ngay những ngày đầu
khó khăn ấy, bản luận cương chính trị của Đảng đã nêu khẩu hiệu: “Người cày có ruộng”
cùng với “ nam nữ bình đẳng”. Người phụ nữ Việt Nam đổi đời toàn diện cả về vật chất
và tinh thần. Vị thế xã hội và chính trị của người phụ nữ từng bước được nâng lên. Tài
năng và nhân phẩm được tôn trọng và phát huy.
Ở thời kỳ hòa bình, xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo di huấn của Bác Hồ, Đảng ta
khởi xướng chủ trương đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế. Phụ nữ Việt Nam
đã đóng góp quan trọng vào lực lượng sản xuất nói chung và nền kinh tế tri thức nói riêng,
góp phần làm tăng trưởng kinh tế và thay đổi diện mạo đất nước.
Từ đó đến nay, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm trong các văn kiện qua các kỳ
Đại hội. Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ:
Đối với phụ nữ, nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần,
thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người
công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi
dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội,
các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ,
trẻ em. Bổ sung và hoàn chỉnh các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội,
thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội,
các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ [16, tr.120].
Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong xã hội
dân chủ, quyền này luôn đựơc coi trọng. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề

ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Chính sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên
suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của nhà nước ta. Quyền bình đẳng
giới đã được Hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước (1946). Vị trí, vai trò của
nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển
tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện và bảo vệ quyền bình đẳng giới bằng pháp luật bên cạnh
những ưu điểm và tiến bộ còn bộc lộ những tồn tại cần được khắc phục nhằm xây dựng
một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Nhà nước với vai trò quản lý và nắm quyền
lực chung, Nhà nước có nhiệm vụ ban hành, bổ sung nhằm hoàn chỉnh và đồng bộ hóa hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền bình đẳng giới của phụ nữ đối với nam giới về kinh tế, chính
trị, văn hóa xã hội trong gia đình và ngoài cộng đồng.
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành nhiều qui định trong các văn bản qui phạm pháp
luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ, phòng chống hành vi xâm phạm đến
quyền bình đẳng giới như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hôn nhân và gia đình,
Luật Bảo vệ bà mẹ và trẻ em, Luật Bình đẳng giới, một số luật khác và các văn bản dưới
luật có liên quan. Tuy vậy, việc hoàn thiện pháp luật đòi hỏi cần bổ sung một số điều luật
mới đáp ứng yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội đã phát sinh như: vấn đề quấy rối tình
dục, ngược đãi, ức hiếp vợ, lạm dụng tình dục trẻ em, bạo lực gia đình…Đồng thời rà soát
lại các văn bản dưới luật về chống văn hóa phẩm đồi trụy, về việc sử dụng công nghệ cao
nhằm trục lợi bất chính như games online đưa trẻ em vào thế giới ảo. Tình hình bạo lực gia
đình gia tăng và rất nghiêm trọng, mỗi năm nạn nhân chết do bạo hành gia đình lên đến
hàng trăm. Ngoài ra, còn có cả những qui phạm pháp luật được ban hành với mục đích ban
đầu nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ nhưng thực tế tác động của nó
mang lại cho phụ nữ không ít bất công, thiệt thòi như chế độ học phí, chế độ nghỉ thai
sản… Bên cạnh đó, một số chế tài pháp luật chưa nghiêm đối với những hành vi vi phạm
quyền, nhân phẩm phụ nữ, quyền trẻ em… Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bình đẳng giới là rất cần thiết.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài này là rất quan trọng, nhằm đưa ra những quan điểm, giải
pháp về vấn đề này góp phần giúp các cơ quan, tổ chức cá nhân trong và ngoài nước quan

tâm hơn đối với việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới, khắc phục những bất cập, tồn
tại trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng nhất của mục tiêu tiến bộ,
công bằng xã hội. Bởi đây không chỉ là vấn đề nhận được sự quan tâm chung của cộng
đồng thế giới mà còn xuất phát từ đặc điểm Việt Nam là một nước Châu Á, những hậu quả
nặng nề của “trọng nam khinh nữ” của chế độ phong kiến vẫn còn ảnh hưởng nhiều trong
cuộc sống xã hội.
Ngày nay, phụ nữ chiếm hơn một nữa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định
vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy,
bình đẳng giới luôn là nguyên tắc Hiến định trong pháp luật nước ta: Điều 63 Hiến pháp
1992 qui định “công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và gia đình", “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ. Xúc
phạm nhân phẩm phụ nữ…”. Vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa quan trọng khi nước
ta đang bước vào giai đoạn mới của tiến trình đổi mới, khi chúng ta thực hiện mục tiêu mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, việc nghiên cứu về bình đẳng
giới tiếp tục là đề taì được nhiều nhà khoa học quan tâm, đi sâu nghiên cứu nhằm khẳng
định địa vị của người phụ nữ và tạo cơ hội cho phụ nữ trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
đóng góp cho sự nghiệp đổi mới đất nước. Nhiều công trình, đề tài được công bố là cơ sở
cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp lụât, chính sách dành cho phụ nữ, vì sự tiến bộ của
phụ nữ, phòng, chống phân biệt đối xử đối với phụ nữ…
Một số công trình, đề tài nghiên cứu tiêu biểu là: Lê Ngọc Hùng: “Xã hội học về
giới và phát triển”, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2000; TS Ngô Bá Thành: “Sự bình
đẳng về cơ hội kinh tế của phụ nữ trong pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật ở Việt
Nam”, xuất bản năm 2001; “Đưa vấn đề giới vào phát triển: thông qua sự bình đẳng giới
về quyền, nguồn lực và tiếng nói”, Nxb Văn hóa - Thông tin, năm 2001; Lương Phan Cừ:
“Bình đẳng giới- hiện trạng chính sách và pháp luật về bình đẳng giới”, xuất bản năm
2004; GS Lê Thi - Viện khoa học xã hội Việt Nam: “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân
số, văn hóa và sự phát triển bền vững”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2004; TS Đỗ Thị

Thạch: “Phát huy nguồn lực trí thức nữ Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2005; Lê Ngọc Văn (chủ biên) - Viện Khoa học xã
hội Việt Nam, Viện Gia đình và giới: “Nghiên cứu gia đình lý thuyết nữ quyền, quan điểm
giới”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2006; Viện Khoa học xã hội Việt Nam,Viện Khoa học
xã hội vùng Nam Bộ, Trung tâm Nghiên cứu giới và gia đình: “Giới, việc làm và đời sống
gia đình”, Nxb Khoa học xã hội, năm 2007; LS Trịnh Đình Thể: “Suy nghĩ về bình đẳng
giới dưới góc nhìn pháp luật”, Nxb Tư pháp, năm 2007; Dương Thị Ngọc Lan: “Hoàn
thiện pháp luật về quyền lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên ngành Lý luận và lịch
sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2000; Chu Thị Thoa: “Bình đẳng giới
trong gia đình ở nông thôn đồng bằng sông Hồng hiện nay”, chuyên ngành Chủ nghĩa
cộng sản khoa học, mã số: 5.01.03, năm 2002; Đổ Thị Thơm: “Hoàn thiện pháp luật về
quyền trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp
luật, mã số: 60.38.01, năm 2004; Đặng Thị Ánh Tuyết: “Bình đẳng giới ở nông thôn miền
núi phía Bắc hiện nay”, Chuyên ngành Xã hội học, mã số: 60.31.30; Hoàng Mai Hương:
“Hoàn thiện pháp luật về quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01; Cao Quốc Việt: “Hoàn
thiện pháp luật phòng chống mua, bán phụ nữ, trẻ em ở Việt Nam hiện nay”, Chuyên
ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; Nguyễn
Thanh Sơn: “Hoàn thiện pháp luật về phòng chống tệ nạn xã hội ở Việt Nam hiện nay”,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, mã số: 60.38.01, năm 2006; và nhiều
bài viết đăng trên các tạp chí có liên quan.
Những công trình nêu trên chỉ mới đề cập một số khía cạnh này hoặc khía cạnh
khác liên quan đến bình đẳng giới và pháp luật về quyền của phụ nữ. Trong đó đáng
chú ý là công trình của Lương Phan Cừ mới chỉ nghiên cứu chủ yếu về hiện trạng chính
sách và pháp luật về bình đẳng giới. Công trình này xuất bản năm 2004, đến nay thực
trạng pháp luật về bình đẳng giới đã có nhiều thay đổi. Vì vậy, đây là công trình mới
nghiên cứu có hệ thống về thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
về bình đẳng giới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn