BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH

-----

TRẦN THU GIANG

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC BÊN NGOÀI

ĐẾN CÁC NỀN KINH TẾ ĐÔNG Á

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS.TS Nguyễn Thị Liên Hoa

TP.Hồ Chí Minh – Năm 2013

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT ................................................................................. 1

DANH MỤC BẢNG .......................................................................................................................... 2

DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ ...................................................................................................... 3

TÓM TẮT .......................................................................................................................................... 4

1. GIỚI THIỆU .................................................................................................................................. 5

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ..................................................................... 8

2.1. Tác động của những cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế ........................................................... 8

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế ........... 13

2.2.1. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến những nền kinh tế phát triển........................... 13

2.2.2. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến những nền kinh tế mới nổi .............................. 16

3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................................ 19

3.1. Mô tả dữ liệu ......................................................................................................................... 19

3.2. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................... 20

4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................................................................................... 23

4.1. Kết quả nghiên cứu đối với Việt Nam .................................................................................. 23

4.1.1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ tối ưu ............................................................... 25

4.1.2. Tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô Việt Nam ............................................................................................................................. 27

4.1.3. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô Việt Nam ..................... 28

4.2. Kết quả nghiên cứu đối với 6 quốc gia Đông Á .................................................................... 32

4.2.1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ tối ưu ............................................................... 32

4.2.2. Tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô trong nước .......................................................................................................................... 33

4.2.3. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô trong nước .................. 35

4.3. Sự tương quan trong phản ứng của các biến kinh tế vĩ mô đối với cú sốc từ bên ngoài ....... 42

4.3.1. Sự tương quan trong phản ứng của sản lượng ............................................................... 42

4.3.2. Sự tương quan trong phản ứng của tỷ giá ...................................................................... 43

4.3.3. Sự tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng .......................................................... 44

5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ .............................................................................. 46

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................ 49

PHỤ LỤC ......................................................................................................................................... 52

1

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, TỪ VIẾT TẮT

CPI Chỉ số giá tiêu dùng (Consumer Price Index)

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

FED Cục dự trữ liên bang Mỹ (The Federal Reserve)

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund)

MSCI Chỉ số tổng hợp về thị trường chứng khoán các nước do Morgan Stanley xây dựng (Morgan Stanley Capital International)

SVAR Mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (Structural Vector Autoregressive

Regression)

USD Đô la Mỹ

VAR Véc tơ tự hồi quy (Vector Autoregressive Regression)

VND Đồng Việt Nam

2

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Vai trò của các nền kinh tế lớn trong nền kinh tế toàn cầu

Bảng 3.1: Mô tả các biến sử dụng trong mô hình

Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng trên chuỗi gốc

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định tính dừng trên chuỗi sai phân bậc 1

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định độ trễ tối ưu

Bảng 4.4: Kết quả phân rã phương sai của biến kinh tế vĩ mô trong nước

Bảng 4.5: Kết quả phân rã phương sai của sản lượng các nước Đông Á

Bảng 4.6: Kết quả phân rã phương sai của tỷ giá các nước Đông Á

Bảng 4.7: Kết quả phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng các nước Đông Á

Bảng 4.8: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc giá dầu

Bảng 4.9: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Bảng 4.10: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Bảng 4.11: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc giá dầu

Bảng 4.12: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Bảng 4.13: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Bảng 4.14: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc giá dầu

Bảng 4.15: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Bảng 4.16: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

3

DANH MỤC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ

Hình 2.1: Tác động của giá dầu đến nền kinh tế

Hình 4.1: Tỷ giá USD/VND giai đoạn 2001 – 2012

Hình 4.2: Chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 – 2012 (2005=100)

Hình 4.3: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam giai đoạn 2001 – 2012 (2005=100 )

Hình 4.4: Kết quả kiểm định tính ổn định của mô hình ở Việt Nam

Hình 4.5: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.6: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.7: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Hình 4.8: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.9: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.10: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Hình 4.11: Phản ứng của giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.12: Phản ứng của giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.13: Phản ứng của giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Hình 4.14: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.15: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Hình 4.16: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.17: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.18: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Hình 4.19: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc giá dầu

Hình 4.20: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.21: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

4

TÓM TẮT

Trong bài nghiên cứu này tác giả kiểm định tác động các cú sốc bên ngoài, bao gồm

cú sốc giá dầu, cú sốc sản lượng của Mỹ, và cú sốc lãi suất của Mỹ đối với các biến

kinh tế vĩ mô nội địa của Việt Nam và các nền kinh tế Đông Á. Sau đó tác giả xem

xét liệu những cú sốc này có dẫn đến các phản ứng giống nhau giữa các nước này

hay không. Tác giả sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR) phân tích

bộ dữ liệu của các biến vĩ mô giai đoạn 2001 – 2012 của nhóm 7 nước Đông Á bao

gồm Việt Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore và Hàn

Quốc. Kết quả nghiên cứu cho thấy cú sốc giá dầu và cú sốc lãi suất của Mỹ có vai

trò quan trọng hơn cú sốc sản lượng trong việc giải thích sự biến động của các biến

kinh tế vĩ mô nội địa. Đồng thời, tác giả cũng nhận thấy mức độ tương quan cao

trong phản ứng của các quốc gia trong mẫu đối với các cú sốc bên ngoài.

5

1. GIỚI THIỆU

Trong ba thập kỷ vừa qua, mức độ toàn cầu hóa của nền kinh tế thế giới ngày càng

trở nên sâu rộng. Quá tình toàn cầu hóa diễn ra trên các lĩnh vực khác nhau: toàn

cầu hóa về mặt kinh tế, toàn cầu hóa về mặt công nghệ, toàn cầu hóa trong lĩnh vực

văn hóa xã hội và đặc biệt là toàn cầu hóa về tài chính. Sự phát triển và tự do hóa

của thị trường tài chính trong những năm 80 đã dẫn đến sự hội nhập tài chính ngày

càng cao và tạo nên những dòng chu chuyển vốn quốc tế khổng lồ. Mặc dù các quốc

gia có thể lựa chọn những chính sách tỷ giá hối đoái khác nhau, nhưng đồng đô la

Mỹ (USD) vẫn giữ vai trò đồng tiền thanh toán quốc tế quan trọng nhất. Một biểu

hiện quan trọng của hội nhập tài chính là sự biến động cùng chiều của các biến số

kinh tế như lạm phát, tăng trưởng GDP, giá tài sản ở một số quốc gia. Điều này có

thể được giải thích thông qua hiệu ứng “lây nhiễm” trong những giai đoạn nhạy cảm

như giá cả sụt giảm hoặc trong thời kỳ khủng hoảng. Hiệu ứng này cũng thể hiện rõ

trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Bắt nguồn từ những khoản cho vay thế

chấp dưới chuẩn cùng với chính sách nới lỏng tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ

(FED) trong giai đoạn 2001 – 2006, cuộc khủng hoảng trong hệ thống ngân hàng

Mỹ đã lây lan trên quy mô toàn thế giới.

Sự đồng biến động trong giá cả tài sản cũng như giá trị các dòng chu chuyển vốn

ngày càng cao cho thấy các thị trường tài chính đã có sự hội nhập ở quy mô toàn

cầu. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng một trong những nhân tố quan trọng quyết định

sự hội nhập này là chính sách tiền tệ của Mỹ và cũng có thể là sự lây nhiễm rủi ro

trong giai đoạn khủng hoảng. Và hiệu ứng lây nhiễm này không chỉ xảy ra ở những

nước có nền kinh tế phát triển.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, vai trò của các thị trường mới nổi ngày càng trở

nên rõ nét. Cuộc khủng hoảng Đông Á giai đoạn 1997 – 1998 đã cho thấy vai trò

của hiệu ứng lây nhiễm trong khu vực khi xảy ra khủng hoảng tài chính. Sự bất ổn

của các quốc gia Đông Á trong giai đoạn này được giải thích là do mức độ mở cửa

tài chính cao (Corsetti và cộng sự, 1999) cũng như mức độ phụ thuộc lẫn nhau

6

trong khu vực (Kaminsky và cộng sự, 2003). Cuộc khủng hoảng này cũng thúc đẩy

các quốc gia Đông Á cần tăng cường hợp tác để gia tăng sự độc lập trong chính

sách tiền tệ. Những nỗ lực hợp tác này được cụ thể hóa thông qua Tiến trình giám

sát ASEAN (ASEAN Surveillance Process) vào tháng 10 năm 1998, Sáng kiến

Chiang Mai vào tháng 05 năm 2000 quy định về việc trao đổi song phương giữa các

quốc gia ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Cuộc khủng hoảng tài

chính 2008 bắt đầu từ sự sụp đổ của Lehman Brothers một lần nữa làm dấy lên mối

lo ngại về sự biến động của các nước Đông Á đối với những cú sốc bên ngoài. Để

đối phó với cuộc khủng hoảng này, những nhà làm chính sách tại các quốc gia

Đông Á đã tăng cường hợp tác tiền tệ bằng cách phát triển Sáng kiến Chiang Mai từ

trao đổi song phương lên trao đổi đa phương vào năm 2009. Theo đó, một quỹ dự

trữ trị giá 120 tỷ đô la Mỹ được hình thành và năm 2012 đã tăng quy mô thành 240

tỷ đô la Mỹ để ngăn ngừa khủng hoảng thanh khoản ở các quốc gia tham gia.

Những nghiên cứu gần đây chú trọng vào tác động của những cú sốc bên ngoài đến

khu vực. Cùng với việc phân tích tác động của những cú sốc nội địa, những nghiên

cứu này bổ sung cho việc xem xét mức độ tương đồng cũng như sự hội tụ trong

chính sách kinh tế của các quốc gia.

Để làm rõ hơn tác động của những cú sốc đến những biến số kinh tế vĩ mô của các

nền kinh tế Đông Á nói chung và Việt Nam nói riêng, tác giả đã chọn và thực hiện

nghiên cứu đề tài: “NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÚ SỐC ĐẾN CÁC

NỀN KINH TẾ ĐÔNG Á”.

Trong nghiên cứu này, tác giả đi sâu tìm hiểu tác động của những cú sốc bên ngoài

đến những biến số kinh tế vĩ mô của các nền kinh tế Đông Á thông qua việc sử

dụng mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR).

Cú sốc bên ngoài được thể hiện qua ba biến số: giá dầu thế giới, đại diện cho cú sốc

trong chi phí đầu vào của nền kinh tế, sản lượng của Mỹ (trong bài tác giả sử dụng

dữ liệu chỉ số sản xuất công nghiệp), đại diện cho cú sốc thương mại, và lãi suất của

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), đại diện cho cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ.

7

Các nền kinh tế Đông Á được xem xét trong bài gồm 7 quốc gia, bao gồm Việt

Nam, Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc. Các

biến kinh tế vĩ mô của những quốc gia này bao gồm tỷ giá hối đoái danh nghĩa với

đô la Mỹ, chỉ số sản xuất công nghiệp, và chỉ số giá tiêu dùng. Dữ liệu được thu

thập theo tháng trong giai đoạn 2001-2012.

Đầu tiên tác giả quan sát những tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế

của từng quốc gia qua kết quả phân rã phương sai và hàm phản ứng xung. Sau đó

tác giả xem xét mức độ tương quan trong phản ứng của các nền kinh tế đối với từng

cú sốc bên ngoài để nhận diện liệu những thị trường mới nổi ở Đông Á có phản ứng

cùng chiều trước những cú sốc vĩ mô hay không.

Phần còn lại của bài nghiên cứu được trình bày như sau:

 Phần hai trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan những nghiên cứu thực

nghiệm có liên quan.

 Phần ba mô tả phương pháp nghiên cứu và bộ dữ liệu sử dụng.

 Phần bốn trình bày về kết quả nghiên cứu và thảo luận.

 Phần năm là kết luận.

Câu hỏi nghiên cứu: Mục tiêu của đề tài là nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên cứu

sau:

 Thứ nhất, các cú sốc bên ngoài ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế Việt

Nam?

 Thứ hai, phản ứng của các biến nội địa của Việt Nam và các nền kinh tế

Đông Á (với mẫu nghiên cứu gồm 6 quốc gia) có giống nhau trước tác động

của các cú sốc bên ngoài hay không?

8

2. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1. Tác động của những cú sốc đến nền kinh tế

Trong một thế giới toàn cầu hóa, biến động kinh tế vĩ mô của một quốc gia không

chỉ chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố nội địa mà còn chịu tác động bởi các cú sốc

bên ngoài. Một biến số quan trọng hàng đầu thường xuyên được nhắc đến trong các

nghiên cứu về tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế của một quốc gia

là giá dầu. Tác động của cú sốc giá dầu trong kinh tế vĩ mô đã trở thành một trong

những chủ đề được nghiên cứu nhiều nhất trong kinh tế học năng lượng từ giữa thập

niên 70, sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng dầu thô năm 1973. Theo Brown và Yucel

(2002) và Tang và cộng sự (2010), cú sốc giá dầu có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế

thông qua những kênh truyền dẫn sau:

 Cú sốc giá dầu được xem là cú sốc trong nguồn cung, sự tăng giá dầu có thể

là một chỉ báo cho một cú sốc về cung làm giảm sản lượng tiềm năng. Sự

tăng giá này báo hiệu sự khan hiếm của nguồn năng lượng vốn được xem là

nguyên liệu đầu vào cơ bản của sản xuất. Do đó, tốc độ tăng trưởng sản

lượng và năng suất sẽ sụt giảm, điều này dẫn đến giảm mức tăng lương thực

và tăng tỷ lệ thất nghiệp. Nếu người dân nhìn nhận đây là một cú sốc ngắn

hạn, họ sẽ giữ ổn định chi tiêu bằng cách tiết kiệm ít hơn và tăng vay mượn,

điều này làm tăng lãi suất thực cân bằng. Tăng trưởng sản lượng chậm lại, lãi

suất thực tăng sẽ làm giảm lượng cầu đối với số dư tiền mặt thực tế, và với

mức tăng trưởng cung tiền nhất định, tỷ lệ lạm phát sẽ tăng. Như vậy, giá dầu

tăng sẽ làm giảm tăng trưởng GDP, làm tăng lãi suất thực và gây nguy cơ

lạm phát.

 Cú sốc giá dầu cũng có thể tác động đến hoạt động kinh tế thông qua hiệu

ứng chuyển giao sức mua từ những nước nhập khẩu dầu thô sang những

nước xuất khẩu dầu thô khi giá dầu tăng. Sự tăng giá dầu sẽ chuyển giao thu

nhập từ các nước nhập khẩu dầu thô sang các nước xuất khẩu dầu thô, điều

này làm giảm cầu tiêu dùng ở nước nhập khẩu và tăng cầu ở nước xuất khẩu,

9

tuy nhiên mức độ tăng lại ít hơn, điều này làm tổng cầu của cả thế giới đối

với sản phẩm của nước nhập khẩu giảm, làm tăng cung tiết kiệm. Cung tiết

kiệm tăng gây áp lực giảm lãi suất thực, và mức giảm này có thể lấn át mức

tăng lãi suất thực do người tiêu dùng ổn định chi tiêu. Lãi suất giảm sẽ kích

thích đầu tư, điều này sẽ bù đắp cho mức giảm trong tiêu dùng, vì vậy tổng

cầu không thay đổi ở các nước nhập khẩu dầu thô. Tuy nhiên, nếu giá cả khó

điều chỉnh giảm, sự sụt giảm trong tiêu dùng hàng hóa sản xuất ở những

nước nhập khẩu dầu mỏ sẽ làm tăng trưởng GDP giảm hơn nữa. Tiêu dùng

giảm sẽ tạo áp lực làm giá giảm về điểm cân bằng mới. Nếu giá không giảm,

mức giảm trong tiêu dùng sẽ lớn hơn mức tăng trong đầu tư. Do đó, tổng cầu

sẽ giảm làm tăng trưởng GDP toàn cầu giảm thêm.

 Giá dầu tăng cũng làm tăng chi phí sản xuất, đồng thời những sản phẩm phụ

thuộc vào dầu cũng chiếm tỷ trọng cao trong rổ hàng hóa tính CPI, điều này

Sản lượng giảm trong ngắn hạn

Thất nghiệp tăng Thu nhập giảm

Giá dầu tăng

Sản lượng giảm trong dài hạn

Đầu tư giảm

Lạm phát tăng

PPI tăng

Lợi nhuận giảm

Cầu tiền giảm; Lãi suất giảm

CPI tăng

Chi phí sản suất và Chi tiêu tăng

Cầu tiền tăng Lãi suất tăng

Đầu tư giảm

Lãi suất tăng

Sản lượng giảm trong dài hạn

Chính sách tiền tệ: Kiểm soát lạm phát

có thể làm tăng mức giá nội địa.

Hình 2.1: Tác động của giá dầu đến nền kinh tế

Nguồn: Tang và cộng sự (2010)

10

Ngoài cú sốc giá dầu hay cú sốc trong giá cả hàng hóa, sự biến động của các nền

kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ, cũng có tác động đáng kể đến phần còn lại của thế giới.

Theo báo cáo World Economic Outlook của IMF (2007), những giai đoạn nền kinh

tế Mỹ rơi vào suy thoái thường kéo theo sự sụt giảm trong tăng trưởng toàn cầu. Vai

trò của nền kinh tế Mỹ được thể hiện qua nhiều khía cạnh.

 Mỹ là nền kinh tế chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng GDP toàn cầu. Tính

đến năm 2012, Mỹ là nước nhập khẩu thứ hai thế giới (sau Liên minh Châu

Âu) và là nước xuất khẩu đứng thứ ba sau Liên minh Châu Âu và Trung

Quốc.

 Cùng với sự tăng trưởng nhanh chóng của thương mại toàn cầu, Mỹ chiếm

một tỷ trọng đáng kể trong thương mại với Châu Âu, Canada, Trung và Nam

Mỹ. Cùng với Liên minh Châu Âu và Nhật Bản, Mỹ là một đối tác thương

mại quan trọng hàng đầu của các thị trường mới nổi và các nước đang phát

triển nói chung.

 Trong bối cảnh các nước ngày càng gia tăng độ mở thương mại, độ nhạy cảm

xuất khẩu với Mỹ - được đo bằng tỷ lệ giá trị xuất khẩu sang Mỹ so với GDP

– nhìn chung có xu hướng tăng, ngay cả ở những nước có tỷ lệ xuất khẩu

sang Mỹ giảm trong tổng giá trị xuất khẩu. Độ nhạy cảm xuất khẩu với Mỹ ở

hầu hết các nước có xu hướng cao hơn độ nhạy cảm xuất khẩu đối với EU và

Nhật Bản.

 Thị trường tài chính của Mỹ cũng được xem là thị trường tài chính lớn nhất

thế giới, không chỉ vì quy mô nền kinh tế Mỹ mà còn vì tính thanh khoản của

thị trường. Sự thay đổi trong giá cả tài sản của Mỹ phát một tín hiệu rất mạnh

đến thị trường toàn cầu và hiệu ứng tràn từ thị trường Mỹ có ảnh hưởng rất

lớn, đặc biệt trong những giai đoạn căng thẳng tài chính. Cụ thể, thị trường

cổ phiếu của các nước có mối tương quan cao nhất khi thị trường Mỹ suy

giảm. Sự ảnh hưởng cả về thương mại và tài chính đã cho thấy vai trò của

nền kinh tế Mỹ đối với các nước khác, điều này hàm ý sự biến động trong

11

các biến số thực và biến số tài chính của Mỹ có thể có tác động đáng kể đến

các biến số vĩ mô của các quốc gia.

GDP3

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Bảng 2.1: Vai trò của các nền kinh tế lớn trong nền kinh tế toàn cầu (đơn vị tính: tỷ lệ phần trăm so với toàn thế giới) EU1 21.3 18.4 15.7 13.7 21.2 20.1 18.5 24.9 21.2 19 16.9 16.4 Chỉ tiêu Giai đoạn Mỹ 22.5 1971-75 21.5 1986-90 20.5 2001-05 18.9 2012 15.7 1971-75 13.2 1986-90 11.6 2001-05 9.8 2012 15.9 1971-75 18.6 1986-90 19.7 2001-05 12.3 2012 Nhật Bản Trung Quốc2 3 8 5.8 8.4 14 6.7 14.9 5.6 1.2 8.5 2 10.9 7.2 7.4 10 4.1 1.3 7.9 2.1 7.4 6.2 5.8 9.4 4.6

Nguồn: Direction of Trade Statistics, World Economic Outlook (IMF) và WTO.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, có nhiều quan điểm cho rằng nền kinh tế Mỹ

không giữ được vai trò như trước. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều lập luận làm

rõ quan điểm này.

 Thứ nhất, sự suy thoái của kinh tế Mỹ trong giai đoạn gần đây bắt nguồn từ

những nguyên nhân đặc trưng của nước Mỹ, như sự tương quan giữa thị

trường nhà đất và sản xuất, chứ không phải từ những nguyên nhân thông

thường như giá dầu hay sự phát triển của thị trường cổ phiếu, vốn là những

nguyên nhân gây ra suy thoái như trước đây.

 Thứ hai, các quốc gia ngày nay đều có những chính sách để ổn định nhu cầu

nội địa, vì vậy tăng trưởng toàn cầu có thể ổn định hơn trước những đợt suy

1 Không tính giá trị thương mại trong khu vực đồng euro 2 Giá trị trong hàng 1971-75 là số liệu giai đoạn 1976 - 80 3 Tính theo ngang giá sức mua

thoái của Mỹ.

12

 Thứ ba, với độ mở thương mại ngày càng cao, giá trị xuất nhập khẩu của các

quốc gia ngày càng lớn, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các thị

trường mới nổi, vị thế thương mại với Mỹ có thể không còn quá quan trọng

với nhiều quốc gia.

Mặc dù vậy, nước Mỹ vẫn là trung tâm tài chính hàng đầu thế giới. Sự phụ thuộc

với Mỹ về thương mại có thể giảm nhưng giá trị giao dịch về tài chính lại có xu

hướng tăng mạnh. Tiến trình hội nhập tài chính có thể làm các quốc gia trở nên

nhạy cảm hơn với các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là từ thị trường Mỹ. Với vai trò

một nước lớn, sự tác động của chính sách kinh tế vĩ mô của Mỹ không chỉ thu hẹp

trong phạm vi quốc gia mà còn có tác động trên quy mô toàn cầu.

Một trong những chính sách được các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu là chính

sách tiền tệ. Một lý thuyết nền tảng cho chủ đề nghiên cứu về mối liên hệ giữa

chính sách tiền tệ và nền kinh tế quốc tế là mô hình Mundell–Fleming–Dornbusch

(MFD). Dưới chế độ tỷ giá thả nổi và khi hội nhập tài chính hoàn toàn, chính sách

tiền tệ thắt chặt sẽ làm giảm sản lượng nội địa và gia tăng sản lượng ở nước ngoài

theo khuôn khổ chính sách “beggar-thy-neighbor” vì sự sụt giảm ở quốc gia này sẽ

là lợi ích của quốc gia khác. Đối với chính sách tỷ giá cố định, lãi suất tăng sẽ làm

thắt chặt tiền tệ cả ở trong nước và nước ngoài. Dưới chế độ tỷ giá thả nổi và hội

nhập tài chính không hoàn toàn, chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ làm giảm mức giá

nội địa, nhưng vì tỷ giá cũng thay đổi nên không thể có kết luận rõ ràng về sản

lượng của các nước khác, ngoại trừ giá tiêu dùng sẽ tăng do tỷ giá thay đổi.

Độ mở cửa thị trường tài chính rõ ràng có một vai trò quan trọng trong mối liên hệ

giữa chính sách tiền tệ và thị trường quốc tế. Ở một quốc gia có mức độ hội nhập tài

chính cao, dòng vốn xuyên quốc gia sẽ có tác động mạnh mẽ đến cung tiền hoặc giá

cả tài sản nội địa. Trong kênh truyền dẫn theo hướng “đẩy”, tốc độ tăng trưởng cung

tiền cao ở một quốc gia có thể đẩy dòng vốn sang các nước khác, làm tăng cung tiền

và tỷ suất sinh lợi tài sản ở nước ngoài; trong khi theo kênh truyền dẫn theo hướng

“kéo”, tăng trưởng cung tiền nội địa có thể làm tăng giá tài sản, từ đó thu hút dòng

13

vốn nước ngoài, làm giảm giá tài sản ở những quốc gia bị chảy vốn ra nước ngoài.

Những hiện tượng này không chỉ xảy ra trong những giai đoạn khủng hoảng tài

chính (như trường hợp khủng hoảng ở các thị trường mới nổi Đông Nam Á năm

1997) mà còn có thể hiện diện ngay trong những thời kỳ “bình thường”.

2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của các cú sốc đến nền kinh tế

2.2.1. Tác động của các cú sốc đến những nền kinh tế phát triển

Kim (2001) sử dụng phương pháp VAR để nghiên cứu tác động của cú sốc chính

sách tiền tệ mở rộng của Mỹ đến nhóm G6 ngoài Mỹ có chế độ tỷ giá thả nổi, cụ thể

là tác động đối với cán cân mậu dịch và sản lượng của nước ngoài. Ông sử dụng dữ

liệu giai đoạn 1974 – 1996 gồm cán cân mậu dịch, tỷ giá hối đoái danh nghĩa với

USD, sản lượng công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng, khối tiền M1, khối tiền M2, lãi

suất ngắn – trung – dài hạn, GDP, chỉ số giảm phát GDP, tiêu dùng tư nhân, chi tiêu

tài sản cố định và hàng tồn kho của Mỹ và nhóm G6. Kết quả của ông được tóm tắt

thành hai bước, thứ nhất, cán cân thương mại sẽ xấu đi trong ngắn hạn nhưng lại

được cải thiện trong trung và dài hạn. Thứ hai, cú sốc này dẫn đến sự bùng nổ kinh

tế ở nhóm G6. Giải thích cho sự bùng nổ này, những thay đổi trong cán cân mậu

dịch chỉ đóng một vai trò nhỏ trong khi sự gia tăng tổng cầu của thế giới mới là

kênh truyền dẫn chính, vì chính sách tiền tệ mở rộng ở một nền kinh tế mở lớn như

Mỹ sẽ làm giảm lãi suất thực ở Mỹ, từ đó là giảm lãi suất thực thế giới, nếu thị

trường vốn quốc tế có độ mở cửa nhất định.

Sousa và Zaghini (2008) nghiên cứu hiệu ứng tràn quốc tế trong khu vực đồng euro

khi có cú sốc tiền tệ toàn cầu. Tác giả sử dụng mô hình SVAR cho bộ dữ liệu giai

đoạn 1980 – 2001 của các nền kinh tế lớn (khu vực đồng euro, Mỹ, Nhật, Canada và

Vương quốc Anh), bao gồm các biến kinh tế vĩ mô: cung tiền, GDP, lãi suất ngắn

hạn, giá hàng hóa và tỷ giá thực hiệu lực. Các hàm phản ứng xung cho thấy cú sốc

chính sách tiền tệ mở rộng trong khu vực đồng euro sẽ làm tăng mức giá cũng như

M3, làm đồng euro tăng giá thực trong ngắn hạn và tăng sản lượng thực trong ngắn

hạn. Ngoài ra, tác giả cũng cho thấy những phát kiến tài chính đóng một vai trò

14

quan trọng trong việc giải thích biến động giá cả và sản lượng trong khu vực đồng

euro cũng như trong nền kinh tế toàn cầu.

Ehrmann và Fratzscher (2009) nghiên cứu 50 thị trường cổ phiếu trên toàn thế giới

và cho thấy chính sách tiền tệ của Mỹ là yếu tố quyết định đối với thị trường cổ

phiếu toàn cầu. Trong các kênh truyền dẫn, lãi suất ngắn hạn ở Mỹ và nước ngoài

và tỷ giá hối đoái là những kênh truyền dẫn chính. Kết quả thực nghiệm cho thấy

nếu lãi suất tăng 100 điểm cơ bản, tỷ suất sinh lợi sẽ giảm trung bình 3.8% và tác

động này sẽ không đồng nhất ở các khu vực và quốc gia khác nhau. Cụ thể, xét về

mặt quốc gia, trong khi tỷ suất sinh lợi ở thị trường Trung Quốc, Ấn Độ và

Malaysia hầu như ít bị ảnh hưởng thì tác động này lại dai dẳng ở Hồng Kông,

Indonesia, Hàn Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ, Úc, Canada, Phần Lan và Thụy Điển, ở những

quốc gia này, tỷ suất sinh lợi có thể giảm đến 10% hoặc hơn nữa. Xét về khía cạnh

khu vực, khu vực hàng hóa công cộng có mức giảm 1.6%, trong khi lĩnh vực công

nghệ thông tin bị tác động đến 7.4%. Khi xem xét yếu tố quyết định mức độ truyền

dẫn ở từng quốc gia, tác giả nhận thấy những quốc gia có độ mở cửa và tính thanh

khoản thị trường cao có mức độ truyền dẫn mạnh hơn. Điều đặc biệt là mức độ hội

nhập tài chính toàn cầu, chứ không phải mức độ hội nhập song phương với Mỹ, mới

là yếu tố truyền dẫn quyết định.

Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy một bằng chứng rõ ràng và vững chắc về mối

liên kết giữa chính sách tiền tệ của các nền kinh tế với nền kinh tế toàn cầu. Đặc

biệt, thị trường Mỹ được cho là yếu tố chủ đạo dẫn dắt sự phát triển kinh tế thế giới.

Khi xét về mối liên hệ trên phạm vi quốc tế, mặc dù có bằng chứng rõ ràng cho thấy

có sự truyền dẫn, nhưng mức độ truyền dẫn ở các quốc gia không đồng nhất và thay

đổi theo thời gian. Vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về mức độ tác động ở

những quốc gia khác nhau theo thời gian.

Eichengreen và cộng sự (1996) đã đề cập đến vai trò của mậu dịch trong mối quan

hệ giữa các quốc gia khi phân tích tính lây nhiễm của khủng hoảng tiền tệ bằng cách

sử dụng dữ liệu từ 1959 đến 1993 của 20 nước công nghiệp. Tác giả xem xét khi

15

một quốc gia bị tấn công tiền tệ thì những nước dễ bị lây nhiễm là những nước có

quan hệ thương mại thân thiết hay là những nước có đặc điểm kinh tế vĩ mô tương

đồng với quốc gia bị tấn công. Kết quả kiểm định cho thấy thương mại là kênh

truyền dẫn quan trọng hơn các biến kinh tế vĩ mô khác giữa các quốc gia này.

Forbes và Chinn (2004) kiểm định liệu mối liên kết giữa thị trường hàng hóa thực

và thị trường tài chính có thể giải thích tại sao những thay đổi trong thị trường tài

chính lớn nhất thế giới lại có tác động tương tự đến những thị trường tài chính khác,

và những mối liên kết đa quốc gia này thay đổi như thế nào qua thời gian. Tác giả

ước lượng mô hình theo đó tỷ suất sinh lợi của một quốc gia được xác định bởi

những yếu tố mang tính toàn cầu, khu vực, xuyên quốc gia và những yếu tố đặc

trưng của từng nước. Bài nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu thể hiện mối quan hệ song

phương của 5 nền kinh tế lớn nhất thế giới và khoảng 40 thị trường khác để phân

tích những yếu tố xuyên quốc gia thành: dòng vốn thương mại trực tiếp, sự cạnh

tranh ở nước thứ ba, tín dụng ngân hàng và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết quả ước

lượng cho thấy những yếu tố xuyên quốc gia và khu vực đều có ảnh hưởng quan

trọng đến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu và trái phiếu, những yếu tố của Mỹ ngày

càng quan trọng hơn trong những năm gần đây, trong khi đó vai trò của Nhật và

Vương quốc Anh lại sụt giảm. Trong giai đoạn 1996 – 2000, mối liên kết giữa thị

trường hàng hóathực và thị trường tài chính là yếu tố cơ bản gây ra sự truyền dẫn

các cú sốc từ nền kinh tế lớn sang những thị trường khác. Cụ thể, dòng vốn thương

mại song phương có vai trò đáng kể trong sự truyền dẫn xuyên quốc gia ở cả thị

trường trái phiếu và cổ phiếu. Dòng vốn đầu tư song phương lại không có tác động

rõ ràng. Vì vậy, mặc dù dòng vốn đầu tư tài chính tăng mạnh trong những năm gần

đây nhưng thương mại vẫn là yếu tố quan trọng nhất giải thích tại sao biến động

kinh tế ở những quốc gia lớn lại ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu.

Miniane và Rogers (2007) nghiên cứu hiệu quả của kiểm soát vốn trong việc bảo vệ

nền kinh tế trước các cú sốc chính sách tiền tệ từ Mỹ. Tác giả ước lượng tác động

của cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ đối với lãi suất nước ngoài và tỷ giá để xem

xét liệu những nước có độ mở tài khoản vốn thấp hơn có mức độ phản ứng nhỏ hơn

16

hay không. Sử dụng mô hình VAR cho dữ liệu kinh tế vĩ mô giai đoạn 1975 - 1988

của 26 quốc gia khác nhau về độ mở tài khoản vốn, trình độ phát triển kinh tế, vị trí

địa lý và chế độ tỷ giá hối đoái, bao gồm các biến chỉ số giá tiêu dùng, sản lượng

công nghiệp của Mỹ, giá tiêu dùng ở Mỹ, sản lượng công nghiệp nước ngoài, lãi

suất nước ngoài 3 tháng, lãi suất liên bang Mỹ của FED, tỷ lệ dự trữ (không bao

gồm chứng khoán nợ)/tổng dự trữ của Mỹ và tỷ giá danh nghĩa với USD, hai ông

không tìm thấy nhiều bằng chứng ủng hộ cho lập luận này. Những quốc gia có độ

mở tài khoản vốn ít hơn thì đồng tiền ít giảm giá hơn khi lãi suất ở Mỹ tăng, tuy

nhiên kết quả này chỉ đúng trong ngắn hạn. Ngoài ra, mức độ tăng lãi suất ở những

quốc gia này cũng không ít hơn những nước có độ mở tài khoản vốn cao. Theo tác

giả, nguyên nhân làm cho kiểm soát vốn tỏ ra không hiệu quả là vì những quy định

này rất khó thực thi và các doanh nghiệp có thể dễ dàng né tránh với chi phí thấp.

Bouakez và Normandin (2010) nghiên cứu ảnh hưởng của cú sốc nới lỏng tiền tệ

của Mỹ đến tỷ giá song phương giữa Mỹ và các nước G7. Bài nghiên cứu sử dụng

mô hình SVAR cho các biến kinh tế vĩ mô giai đoạn 1982 – 2004, bao gồm chỉ số

sản xuất công nghiệp của Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng của Mỹ, dự trữ trong hệ thống

ngân hàng, lãi suất liên bang của FED, và tỷ giá danh nghĩa song phương. Kết quả

cho thấy tỷ giá danh nghĩa ban đầu giảm nhưng trong dài hạn lại tăng, theo kết quả

phân rã phương sai thì cú sốc chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng nhất đối với sự

biến động của tỷ giá hối đoái.

Bài nghiên cứu này mở rộng nghiên cứu sự truyền dẫn ở quy mô quốc tế, cụ thể là

cú các cú sốc bên ngoài và cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ sẽ có tác động như thế

nào đến nền kinh tế các thị trường mới nổi khu vực Đông Á.

2.2.2. Tác động của các cú sốc đến những nền kinh tế mới nổi

Trước sự hội nhập ngày càng tăng trong quy mô khu vực cũng như toàn cầu của khu

vực Đông Á, Moneta và Ruffer (2009) đã kiểm định mức độ đồng xu hướng trong

chu kỳ kinh tế của khu vực này trong giai đoạn quý 1/1975 – quý 3/2005. Tác giả

nhận thấy mức độ đồng xu hướng của các nước Đông Á ngày càng tăng tính từ

17

những năm 1990 ngoại trừ Trung Quốc và Nhật Bản. Sự đồng bộ trong tăng trưởng

phần lớn đến từ sự gia tăng xuất khẩu của khu vực chứ không phải do những biến

động trong đầu tư và chi tiêu. Ngoài ra, những cú sốc bên ngoài như giá dầu và tỷ

giá Yên Nhật – Đô la Mỹ là có vai trò quan trọng dẫn dắt sự đồng biến động trong

tăng trưởng.

Trước những nỗ lực hợp tác về tiền tệ của khu vực Đông Á trong thời gian gần đây,

Huang và Guo (2006) đã kiểm định tính khả thi của việc xây dựng một liên minh

tiền tệ trong khu vực. Tác giả sử dụng mô hình VAR cấu trúc cho các biến kinh tế

vĩ mô của chín quốc gia Đông Á giai đoạn 1970 – 2002 và lấy chuẩn là chín quốc

gia thuộc Liên minh Châu Âu. Kết quả cho thấy những cú sốc bên ngoài không chỉ

có tác động đáng kể mà còn dẫn đến những phản ứng cân xứng của các nước Đông

Á. Từ đó tác giả cho rằng Hong Kong, Hàn Quốc, Singapore, Indonesia, Malaysia

và Thái Lan có thể được hưởng lợi khi xây dựng một đồng tiền chung.

Ng (2002) sử dụng mô hình VAR cấu trúc để xem xét mức độ tương quan trong

phản ứng của nhóm năm nước Đông Á bao gồm Singapore, Indonesia, Thái Lan,

Malaysia và Philippines đối với các cú sốc bên ngoài và trong nước giai đoạn 1971

– 1995. Kết quả cho thấy mức độ tương quan với các cú sốc bên ngoài cao hơn cú

sốc trong nước. So sánh với sự tương quan trong các nước thuộc Liên minh Châu

Âu và NAFTA, Ng kết luận Singapore, Indonesia và Malaysia có thể tham gia một

liên minh tiền tệ.

Ruffer và cộng sự (2007) đã phát triển mô hình VAR nghiên cứu tác động của các

cú sốc bên ngoài, bao gồm cú sốc tiền tệ, tài chính, giá hàng hóa và sản lượng, đến

các biến động kinh tế vĩ mô ở chín quốc gia Đông Á và Ấn Độ giai đoạn quý

1/1979 – quý 4/2003. Tác giả nhận thấy những cú sốc bên ngoài là nguyên nhân

chính dẫn dắt chu kỳ kinh tế của các nước này. Tác giả cho rằng điều này là do

nhiều quốc gia trong mẫu phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu với chính sách tỷ

giá ổn định hoặc định giá thấp đồng nội tệ. Ngoài ra, sự đồng biến động của các

18

biến kinh tế vĩ mô ở các quốc gia này đến từ phản ứng với các cú sốc bên ngoài hơn

là cú sốc trong khu vực.

Sử dụng mô hình SVAR, Mackowiak (2007) nhận thấy những cú sốc bên ngoài là

nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự biến động kinh tế vĩ mô ở các thị trường mới

nổi khu vực Đông Á (Hong Kong, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Singapore và

Thái Lan) và châu Mỹ La tinh (Chile và Mexico) giai đoạn tháng 1/1986 – tháng

12/2000. Đặc biệt, cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ có tác động nhanh chóng và

mạnh mẽ đến lãi suất và tỷ giá ở một số quốc gia. Chính sách tiền tệ ở Mỹ có tác

động đến mức giá và sản lượng thực ở một số nước còn mạnh hơn tác động đối với

nền kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, tác động của cú sốc chính sách tiền tệ của Mỹ đến các

thị trường mới nổi không mạnh bằng những cú sốc bên ngoài khác.

Trong một nghiên cứu gần đây, Allegret và cộng sự (2012) đã kiểm định tầm quan

trọng của những cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô của các quốc gia Đông

Á, đồng thời xem xét liệu những cú sốc này có dẫn đến phản ứng cân xứng hoặc bất

cân xứng giữa các nước này hay không. Các cú sốc bên ngoài được xem xét bao

gồm cú sốc giá dầu, sản lượng của Mỹ, lãi suất của FED và chỉ số MSCI. Những

biến nội địa gồm có sản lượng, chỉ số giá sản xuất và tỷ giá hối đoái danh nghĩa

song phương với USD. Tác giả nhận thấy từ những năm 90 ảnh hưởng của những

cú sốc bên ngoài ngày càng lớn. Ngoài ra, cú sốc giá dầu và cú sốc sản lượng của

Mỹ có tác động đáng kể và gây ra những phản ứng cân xứng hơn so với cú sốc lãi

suất và chỉ số MSCI.

Những nghiên cứu gần đây về tác động của các cú sốc đến nền kinh tế Việt Nam có

thể kể đến Lân (2010) và Hằng và Thành (2011). Sử dụng mô hình SVAR cho bộ

dữ liệu giai đoạn 1998 – 2009, Lân (2010) thiết lập các điều kiện cần thiết để tìm ra

những cú sốc tiền tệ và tỷ giá của Việt Nam, sau đó đánh giá hiệu quả tác động của

chính sách tiền tệ và các kênh truyền dẫn khác nhau đến giá cả hàng hóa và các hoạt

động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế trong nước. Kết quả cho thấy sự biến

động của tỷ giá phụ thuộc rất lớn vào công tác điều hành chính sách tiền tệ thông

19

qua các công cụ lãi suất và lượng tiền cung ứng ra lưu thông, các nhân tố bên ngoài

nền kinh tế cũng tác động tới sự biến động của tỷ giá nhưng không quá lớn; ngoài

ra, khu vực tiền tệ - ngân hàng trong nước tương đối nhạy cảm và chịu tác động rất

lớn bởi các cú sốc bên ngoài nền kinh tế, đặc biệt là sự biến động của giá cả hàng

hóa thế giới và dấu hiệu suy thoái hay phục hồi của nền kinh tế thế giới nói chung

và nền kinh tế Hoa Kỳ nói riêng cũng như các động thái điều hành chính sách tiền

tệ của FED. Trong khi đó, Hằng và Thành (2011) sử dụng mô hình véc tơ hiệu

chỉnh sai số (VECM) để xem xét tác động của các nhân tố vĩ mô bên ngoài cũng

như nội địa đến lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010. Đối với các cú sốc bên

ngoài, tác giả nhận thấy giá cả quốc tế có sự truyền dẫn nhất định đến giá cả nội địa

trong ngắn hạn.

3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Mô tả dữ liệu

Dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong giai đoạn từ tháng 01 năm 2001 đến tháng

07 năm 2012, bao gồm 139 quan sát, được hiệu chỉnh mùa vụ theo phương pháp

Census X12 và đưa về dạng log (trừ biến lãi suất).

Các quốc gia Đông Á được nghiên cứu trong bài bao gồm: Việt Nam (VN),

Indonesia (IN), Malaysia (MA), Philippines (PH), Trung Quốc (TQ), Singapore (SI)

và Hàn Quốc (HQ).

Trong đề tài, tác giả lần lượt sử dụng biến chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số giá

tiêu dùng đại diện cho sản lượng và mức giá của nền kinh tế.

Bảng 3.1: Mô tả các biến sử dụng trong mô hình

STT Biến nghiên cứu Ký hiệu Mô tả 1 Giá dầu OIL Nguồn IMF

Dữ liệu dưới dạng chỉ số (2005 = 100), được tính trung bình từ ba mức giá giao ngay Brent, West Texas, và Dubai Fateh.

20

2 UIP IMF

Dữ liệu dưới dạng chỉ số (2005 = 100)

3 UIR trữ

Cục Dự Liên bang Mỹ

4 IP

5 CPI IMF và Tổng cục Thống kê IMF

6 EX Dữ liệu dưới dạng chỉ số (2005 = 100) Dữ liệu dưới dạng chỉ số (2005 = 100) IMF

Chỉ số sản xuất công nghiệp của Mỹ Lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Chỉ số sản xuất công nghiệp Chỉ số giá tiêu dùng Tỷ giá hối đoái danh nghĩa đối với USD

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Để nhận diện tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế Việt Nam, tác giả

sử dụng mô hình véc tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR) cho hai nhóm biến: biến bên

ngoài nền kinh tế và biến nội địa của nền kinh tế Việt Nam.

Nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước Đông Á khác được xem là một nền kinh

tế nhỏ mở. Giả thiết này hàm ý những cú sốc trong nước sẽ không có tác động đến

những biến số bên ngoài.

Tác giả xem xét ba cú sốc bên ngoài bao gồm giá dầu thế giới, sản lượng công

nghiệp của Mỹ và lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Biến giá dầu đại diện cho

cú sốc trong nguồn cung vì đây là nguồn nguyên liệu đầu vào thiết yếu cho các nền

kinh tế (theo Cushman và Zha, 1997). Bên cạnh đó, xuất khẩu có vai trò rất quan

trọng trong sự tăng trưởng của các quốc gia Đông Á nên tác giả sử dụng biến chỉ số

sản xuất công nghiệp của Mỹ, đại diện cho sản lượng của Mỹ, để xem xét ảnh

hưởng của cú sốc thương mại. Biến thứ ba liên quan đến hiệu ứng truyền dẫn của

chính sách tiền tệ. Vì đa số các nước Đông Á sử dụng chế độ tỷ giá neo theo USD

hoặc theo một rổ tiền tệ trong đó trọng số của USD chiếm từ 80% đến 95% (theo

Reinhart và Rogoff, 2004) nên tác giả kỳ vọng các biến kinh tế vĩ mô trong nước sẽ

nhạy cảm với sự thay đổi trong lãi suất của Mỹ.

21

Các biến kinh tế vĩ mô trong nước bao gồm ba biến, tỷ giá hối đoái danh nghĩa, chỉ

số sản xuất công nghiệp và chỉ số giá tiêu dùng. Biến tỷ giá được đưa vào theo quan

điểm của Cushman và Zha (1997), hai ông cho rằng đây là một kênh truyền dẫn

quan trọng với bất kỳ một cú sốc nào từ bên ngoài.

Để quan sát tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế các nước Đông Á,

tác giả đưa các biến vào mô hình theo thứ tự như sau: các biến bên ngoài (giá dầu,

chỉ số sản xuất công nghiệp của Mỹ, lãi suất của Mỹ), các biến trong nước (tỷ giá,

chỉ số sản xuất công nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng). Theo đó, các cú sốc bên ngoài sẽ

có tác động đến các biến kinh tế trong nước nhưng không có chiều ngược lại.

Trong các cú sốc bên ngoài, tác giả giả định giá dầu không bị tác động đồng thời

bởi sản lượng và lãi suất của Mỹ. Tuy nhiên, giá dầu sẽ tác động đến sản lượng

cũng như lãi suất của Mỹ (theo Leeper và cộng sự, 1996). Theo Mackowiak (2007),

sản lượng và lãi suất của Mỹ không có tác động đồng thời đến nhau. Vì vậy trong

mô hình tác giả đưa thêm một ràng buộc để loại bỏ tác động đồng thời của sản

lượng đến lãi suất của Mỹ.

𝑂𝐼𝐿

𝑈𝐼𝑅

Cấu trúc hệ phương trình SVAR dạng ma trận được xác định cụ thể như sau:

𝐸𝑋

=

0 0 0 0 1

𝑂𝐼𝐿 𝜀𝑡 𝑈𝐼𝑃 𝜀𝑡 𝑈𝐼𝑅 𝜀𝑡 𝐸𝑋 𝜀𝑡 𝐼𝑃 𝜀𝑡 𝐶𝑃𝐼 ] 𝜀𝑡

[ [ 𝑏11 0 0 0 0 0 0 𝑏22 0 0 0 0 0 0 𝑏33 0 0 0 0 0 0 𝑏44 0 0 0 0 0 0 𝑏55 0 0 0 0 0 1 0 0 0 1 𝑎21 0 0 1 0 𝑎31 0 𝑎41 𝑎42 𝑎43 1 𝑎51 𝑎52 𝑎53 𝑎54 0 𝑎61 𝑎62 𝑎63 𝑎64 𝑎65 1] 0 0 0 0 0 𝑏66] [ [ 𝑢𝑡 𝑈𝐼𝑃 𝑢𝑡 𝑢𝑡 𝑢𝑡 𝐼𝑃 𝑢𝑡 𝐶𝑃𝐼 ] 𝑢𝑡

Từ cấu trúc ma trận này mối quan hệ đồng thời của các biến trong mô hình có thể

𝑂𝐼𝐿

được viết lại như sau:

𝑂𝐼𝐿 = 𝑏11𝜀𝑡 𝑢𝑡

(i)

𝑈𝐼𝑃

𝑈𝐼𝑃 = −𝑎21𝑢𝑡 𝑢𝑡

𝑂𝐼𝐿 + 𝑏22𝜀𝑡

𝑈𝐼𝑅

(ii)

𝑈𝐼𝑅 = −𝑎31𝑢𝑡

𝑂𝐼𝐿 + 𝑏33𝜀𝑡

𝐸𝑋

(iii) 𝑢𝑡

𝑈𝐼𝑅 + 𝑏44𝜀𝑡

𝐸𝑋 = −𝑎41𝑢𝑡

𝑂𝐼𝐿 − 𝑎42𝑢𝑡

𝑈𝐼𝑃 − 𝑎43𝑢𝑡

(iv) 𝑢𝑡

22

𝐼𝑃

𝑈𝐼𝑅 − 𝑎54𝑢𝑡

𝐸𝑋 + 𝑏55𝜀𝑡

𝐼𝑃 = −𝑎51𝑢𝑡 𝑢𝑡

𝑂𝐼𝐿 − 𝑎52𝑢𝑡

𝑈𝐼𝑃 − 𝑎53𝑢𝑡

𝐶𝑃𝐼

𝑈𝐼𝑅 − 𝑎64𝑢𝑡

𝐸𝑋−𝑎65𝑢𝑡

(v)

𝐶𝑃𝐼 = −𝑎61𝑢𝑡

𝑂𝐼𝐿 − 𝑎62𝑢𝑡

𝑈𝐼𝑃 − 𝑎63𝑢𝑡

𝐼𝑃 + 𝑏66𝜀𝑡

(vi) 𝑢𝑡

Ba phương trình đầu tiên thể hiện cú sốc bên ngoài của nền kinh tế thế giới đối với

Việt Nam là giá dầu, sản lượng của Mỹ và lãi suất của Mỹ. Trong vòng một tháng,

giá dầu chỉ bị ảnh hưởng bởi chính nó. Sản lượng và lãi suất của Mỹ chịu ảnh

hưởng của chính nó và giá dầu. Ba phương trình cuối thể hiện các biến nội địa trong

mô hình. Ngoài tác động của chính mình, các biến này chịu tác động của các cú sốc

bên ngoài và biến nội địa đứng trước.

Khung phân tích của tác giả được thực hiện qua 3 bước như sau:

 Bước 1: tác giả phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế

Việt Nam.

 Kiểm định tính dừng của các biến, lựa chọn độ trễ tối ưu, kiểm định tự

tương quan của phần dư và tính ổn định của mô hình.

 Dựa vào kết quả phân rã phương sai, tác giả xác định tầm quan trọng của

các cú sốc bên ngoài trong việc giải thích mức độ biến động trong

phương sai sai số dự báo của các biến vĩ mô trong nước.

 Dựa vào kết quả hàm phản ứng xung, tác giả xác định mức độ phản ứng

của các biến vĩ mô trong nước đối với từng cú sốc bên ngoài.

 Bước 2: tác giả phân tích tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế 6

quốc gia bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Trung Quốc, Singapore

và Hàn Quốc tương tự như đối với Việt Nam.

 Bước 3: tác giả kiểm định sự tương quan trong phản ứng của các biến nội địa

của 7 quốc gia trong mẫu đối với từng cú sốc bên ngoài.

23

4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1. Kết quả nghiên cứu đối với Việt Nam

Đề tài bắt đầu bằng việc quan sát sự biến động của các chỉ số kinh tế vĩ mô trong

nước giai đoạn 2001 – 2012.

Thực hiện chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý, tỷ giá VND so với USD khá ổn định

trong giai đoạn 2001 – 2007. Bắt đầu từ năm 2008, mức độ biến động trong tỷ giá

VND – USD tăng dần theo hướng ngày càng tăng. Năm 2009 và quí I/2010 là một

giai đoạn đầy sóng gió với NHNN trong điều hành tỷ giá, khi mà tình trạng dư cung

ngoại tệ trong năm 2007 đã đảo chiều thành khan hiếm ngoại tệ. Cán cân thanh toán

tổng thể năm 2009 đã thâm hụt lớn, ở mức trên 8 tỷ USD. Tình hình khan hiếm

ngoại tệ càng trầm trọng hơn khi mà tình hình găm giữ ngoại tệ trong tổ chức và

dân cư trở nên phổ biến. Lượng ngoại tệ của Bộ Tài chính bán cho NHNN sụt giảm

mạnh. Trước tình hình đó, NHNN đã liên tục phải đưa ra các quyết sách đầy khó

khăn như: (i) nới lỏng biên độ từ 3% lên 5% vào những tháng đầu năm 2009; (ii)

bán ngoại tệ cho các NHTM để phục vụ cho các nhu cầu thiết yếu trong quí II,

III/2009 và đặc biệt là can thiệp bán với quy mô lớn trên diện rộng vào cuối năm

2009 và đầu năm 2010 kết hợp điều chỉnh tăng 2 lần với mức tăng khá lớn (trên

8%). Nhờ sự quyết liệt trong điều hành cũng như các giải pháp được ban hành đồng

bộ và triển khai triệt để, thị trường ngoại hối đã chuyển dịch từ trạng thái thiếu hụt

sang dư cung nhẹ, tỉ giá USD/VND trên thị trường tự do đã được bình ổn từ mức

xấp xỉ 20.000 xuống còn gần 19.000, thấp hơn mức giao dịch của các ngân hàng

thương mại. Tuy nhiên, sự ổn định này chỉ kéo dài đến hết năm 2010 và tiềm ẩn

nhiều áp lực tăng tỷ giá. Sang đầu năm 2011, thị trường trong nước chứng kiến “cú

sốc” điều chỉnh tỷ giá tăng đến 9,3%, mức tăng mạnh nhất trong lịch sử thị trường

ngoại hối Việt Nam. Tuy nhiên, biên độ dao động đã được thu hẹp từ 3% còn 1%.

Sau lần phá giá kỷ lục, tỷ giá VND/USD đã được duy trì ổn định trong giai đoạn

2011 – 2012.

24

22000

21000

20000

19000

18000

17000

16000

15000

14000

7 M 6 0 0 2

7 M 9 0 0 2

7 M 2 1 0 2

1 M 1 0 0 2

7 M 1 0 0 2

1 M 2 0 0 2

7 M 2 0 0 2

1 M 3 0 0 2

7 M 3 0 0 2

1 M 4 0 0 2

7 M 4 0 0 2

1 M 5 0 0 2

7 M 5 0 0 2

1 M 6 0 0 2

1 M 7 0 0 2

7 M 7 0 0 2

1 M 8 0 0 2

7 M 8 0 0 2

1 M 9 0 0 2

1 M 0 1 0 2

7 M 0 1 0 2

1 M 1 1 0 2

7 M 1 1 0 2

1 M 2 1 0 2

Hình 4.1: Tỷ giá USD/VNĐ giai đoạn 2001 – 2012

Chỉ số sản xuất công nghiệp giai đoạn 2001 – 2012 thể hiện xu hướng tăng tương

đối ổn định. Chỉ số có xu hướng đạt đỉnh vào cuối năm và giảm mạnh trong quý 1

năm sau, cụ thể là trong tháng hai do ảnh hưởng của kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán.

Trong năm 2008, sản lượng công nghiệp có xu hướng chững lại do ảnh hưởng của

250

200

150

100

50

0

7 M 9 0 0 2

1 M 1 0 0 2

7 M 1 0 0 2

1 M 2 0 0 2

7 M 2 0 0 2

1 M 3 0 0 2

7 M 3 0 0 2

1 M 4 0 0 2

7 M 4 0 0 2

1 M 5 0 0 2

7 M 5 0 0 2

1 M 6 0 0 2

7 M 6 0 0 2

1 M 7 0 0 2

7 M 7 0 0 2

1 M 8 0 0 2

7 M 8 0 0 2

1 M 9 0 0 2

1 M 0 1 0 2

7 M 0 1 0 2

1 M 1 1 0 2

7 M 1 1 0 2

1 M 2 1 0 2

7 M 2 1 0 2

cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ.

Hình 4.2: Chỉ số sản xuất công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 – 2012 (2005=100)

Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chỉ số giá trong nước có xu hướng gia

tăng từ năm 2001 – 2012. Sự tăng giá của dầu thô cùng nhiều loại nguyên liệu, hàng

25

hóa khác trên thị trường thế giới từ giữa năm 2008 đã kéo theo sự tăng giá của hầu

hết các mặt hàng trong nước, làm giá tiêu dùng năm 2008 tăng mạnh so với những

giai đoạn trước đó. Vào cuối năm 2010, chính sách phục hồi kinh tế của Mỹ và các

nước châu Âu thông qua chiến lược mua tài sản với quy mô lớn đã đẩy mặt bằng

250

200

150

100

50

0

7 M 9 0 0 2

1 M 1 0 0 2

7 M 1 0 0 2

1 M 2 0 0 2

7 M 2 0 0 2

1 M 3 0 0 2

7 M 3 0 0 2

1 M 4 0 0 2

7 M 4 0 0 2

1 M 5 0 0 2

7 M 5 0 0 2

1 M 6 0 0 2

7 M 6 0 0 2

1 M 7 0 0 2

7 M 7 0 0 2

1 M 8 0 0 2

7 M 8 0 0 2

1 M 9 0 0 2

1 M 0 1 0 2

7 M 0 1 0 2

1 M 1 1 0 2

7 M 1 1 0 2

1 M 2 1 0 2

7 M 2 1 0 2

giá cả thế giới tăng cao, kéo theo sự gia tăng trong chỉ số giá tiêu dùng trong nước.

Hình 4.3: Chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam giai đoạn 2001 – 2012 (2005 = 100)

4.1.1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ tối ưu

Đề tài sử dụng phương pháp Augmented Dickey-Fuller (ADF) kiểm định tính dừng

của các biến sử dụng trong mô hình, kết quả cho thấy ngoại trừ biến chỉ số sản xuất

công nghiệp ở Mỹ, các biến đều dừng ở sai phân bậc 1.

Bảng 4.1: Kết quả kiểm định tính dừng trên chuỗi gốc

OIL -1.18 UIP -3.47** UIR -1.52 EX 0.87 IP -0.85 CPI -0.03 Biến ADF

Bảng 4.2: Kết quả kiểm định tính dừng trên chuỗi sai phân bậc 1

OIL -9.06*** UIR -5.71*** EX -12.04*** IP -15.76*** CPI -3.28** Biến ADF

26

Sau đó tác giả tiến hành kiểm định độ trễ tối ưu của mô hình. Tiêu chuẩn AIC và

SC lần lượt cho kết quả độ trễ 2 và 1. Tuy nhiên, theo kiểm định tự tương quan LM

của Luiz và Mauro (2010), ở hai độ trễ này phần dư không thỏa điều kiện không có

tự tương quan. Vì vậy tác giả tăng dần độ trễ đến khi phần dư của mô hình không

còn hiện tượng tự tương quan, và độ trễ tối ưu của mô hình là 4.

Lag LogL 0 1 2 3 4 5 6 7 8

1374.93 1629.492 1684.872 1710.268 1748.571 1773.554 1802.973 1829.251 1879.26

LR NA 481.7099 99.68353 43.3691 61.87379 38.05161 42.09072 35.17241 62.31941*

FPE 2.88E-17 9.97E-19 7.42e-19* 8.82E-19 8.65E-19 1.05E-18 1.21E-18 1.49E-18 1.30E-18

AIC -21.06046 -24.42295 -24.72110* -24.55797 -24.5934 -24.42391 -24.32265 -24.17309 -24.38862

SC -20.92811 -23.49652* -23.00058 -22.04336 -21.28471 -20.32113 -19.42579 -18.48214 -17.90358

HQ -21.00668 -24.04651* -24.022 -23.5362 -23.24897 -22.75682 -22.33289 -21.86066 -21.75353

Bảng 4.3: Kết quả kiểm định độ trễ tối ưu

Để đảm bảo tính tin cậy của kết quả, tác giả kiểm tra điều kiện ổn định của mô hình

theo phương pháp của Lutkepohl (2005). Kết quả cho thấy mô hình ước lượng có sự

ổn định cần thiết.

Hình 4.4: Kết quả kiểm tra tính ổn định mô hình Việt Nam

27

4.1.2. Tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các chỉ

số kinh tế vĩ mô Việt Nam

Để xem xét mức độ giải thích của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các

chỉ số kinh tế vĩ mô trong nước, tác giả sử dụng kết quả phân rã phương sai sai số

dự báo.

Bảng 4.4: Kết quả phân rã phương sai của biến số kinh tế vĩ mô của Việt Nam

Cú sốc Thời gian (tháng) OIL UIP UIR Tổng

1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24

Sản lượng 3.66 7.28 2.55 4.97 2.62 5.29 8.84 17.54

Tỷ giá 1.44 2.79 1.36 3.09 1.35 2.82 4.14 8.70

Giá tiêu dùng 20.23 30.75 3.19 4.41 6.75 14.76 30.17 49.92

Kết quả phân rã phương sai cho thấy các cú sốc bên ngoài có vai trò rất nhỏ trong

việc dự báo biến động của tỷ giá. Mức độ tự giải thích của biến tỷ giá lên đến

khoảng 90%. Điều này phù hợp với thực tế điều hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam,

khi tỷ giá không hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường mà chịu sự quản lý chặt chẽ

của Chính phủ.

Trong khi đó, các cú sốc bên ngoài giải thích được khoảng 17% sự biến động của

sản lượng. Trong đó cú sốc giá dầu có vai trò quan trọng hơn hai cú sốc đến từ nền

kinh tế Mỹ. Mức độ tự giải thích của sản lượng vào khoảng 80%, điều này cho thấy

sản lượng của Việt Nam ít phụ thuộc vào các cú sốc bên ngoài, đặc biệt là nền kinh

tế Mỹ.

Biến nội địa chịu ảnh hưởng mạnh nhất của các cú sốc bên ngoài là giá tiêu dùng.

Cú sốc giá dầu giải thích đến 30% sự biến động trong chỉ số giá, cho thấy tầm quan

trọng của dầu thô đối với các mặt hàng trong rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng

của Việt Nam. Đối với một nước xuất khẩu dầu thô nhưng lại nhập khẩu nhiều dầu

thành phẩm như nước ta, trong đó có những mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, một

28

sự gia tăng đột biến trong giá dầu sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến mặt bằng giá nội địa.

Mức độ giải thích của cú sốc lãi suất của Mỹ vào khoảng 15%, cao hơn cú sốc sản

lượng của Mỹ.

4.1.3. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô Việt Nam

4.1.3.1. Phản ứng của sản lượng

Kết quả hàm phản ứng xung cho thấy phản ứng tức thời của các biến kinh tế trong

nước với các cú sốc cũng như tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế.

Theo lý thuyết, giá dầu sẽ có tác động tiêu cực đến nền kinh tế theo nhiều kênh

truyền dẫn khác nhau: chi phí sản xuất, hiệu ứng chuyển giao thu nhập, chính sách

tiền tệ thắt chặt, … Những kênh truyền dẫn này hàm ý cú sốc giá dầu sẽ làm giảm

sản lượng. Tuy nhiên, kết quả hàm phản ứng xung lại cho thấy sản lượng có xu

hướng phản ứng cùng chiều với cú sốc giá dầu. Cụ thể, cú sốc giá dầu làm sản

lượng tăng ngay trong hai tháng tiếp theo, giảm trong tháng thứ 3, đạt đỉnh vào cuối

tháng thứ 4. Sau 1 năm sản lượng dần đi vào ổn định, sản lượng có xu hướng giảm

0.02

0.015

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

nhưng mức giảm không đáng kể.

Hình 4.5: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

Mối quan hệ đồng biến giữa cú sốc giá dầu có thể được giải thích theo quan điểm

của Kilian (2009), theo đó cú sốc giá dầu có ba dạng: cú sốc trong cung (xuất phát

từ tính chất hữu hạn của tài nguyên này), cú sốc ngắn hạn trong cầu (do sự thay đổi

đáng kể trong nhu cầu) và cú sốc tổng cầu (xuất phát từ chu kỳ kinh tế toàn cầu).

Nếu hai dạng đầu tiên có thể dẫn đến phản ứng tiêu cực của sản lượng thì cú sốc

29

dạng ba lại có thể có tác động tích cực. Từ cuối những năm 90 thì giá dầu phần lớn

được quyết định do cầu. Giá dầu tăng có thể là do sự tăng trưởng của các nước phát

triển. Vì vậy, nếu xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của các

nước Đông Á thì cú sốc giá dầu có thể có tác động tích cực lên sản lượng. Đây cũng

là kết luận của Allegret và cộng sự (2012) khi tìm hiểu tác động của giá dầu đến sản

0.02

0.015

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

lượng các quốc gia Đông Á.

Hình 4.6: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Là biến đại diện cho sản lượng của các nền kinh tế phát triển, cú sốc trong sản

lượng của Mỹ có kỳ vọng tác động tích cực đến sản lượng trong nước. Sản lượng

của Mỹ gia tăng có thể đại diện cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Đồng thời, độ

mở thương mại ngày càng cao cùng chiến lược phát triển theo định hướng xuất

khẩu của Việt Nam có thể làm sản lượng trong nước nhạy cảm với các cú sốc

thương mại. Cú sốc sản lượng của Mỹ làm sản lượng trong nước tăng ngay trong

hai tháng kế tiếp, giảm vào cuối tháng thứ 3. Sau đó sản lượng tăng trở lại và mức

0.015

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

-0.015

tăng ổn định dần từ sau tháng thứ 9.

Hình 4.7: Phản ứng của sản lượng Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

30

Về mặt lý thuyết, nếu việc tăng lãi suất đại diện cho chính sách tiền tệ thắt chặt, cú

sốc lãi suất có thể làm sản lượng ở Mỹ sụt giảm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt

động xuất khẩu của các nước đang phát triển, từ đó làm giảm sản lượng ở các nước

này. Cú sốc sản lượng ở Mỹ làm sản lượng trong nước giảm trong hai tháng đầu.

Tuy nhiên sau đó sản lượng đã tăng trở lại.

Nhìn chung, sản lượng có xu hướng tăng khi bị tác động bởi các cú sốc bên ngoài.

Tuy nhiên tác động của các cú sốc này rất hạn chế. Điều này có thể phản ánh sự gia

tăng trong sản lượng phản ánh chu kỳ tăng trưởng của Việt Nam giai đoạn 2001 –

2012.

4.1.3.2 Phản ứng của tỷ giá

Phản ứng của tỷ giá cho thấy tỷ giá hầu như ít nhạy cảm với các cú sốc bên ngoài.

Tuy nhiên, cú sốc sản lượng của Mỹ trong dài hạn có thể dẫn đến sự tăng giá của

VND. Điều này có thể do lợi ích Việt Nam nhận được từ việc gia tăng xuất khẩu

sang Mỹ, từ đó gia tăng thặng dư thương mại và làm tỷ giá giảm.

Trong dài hạn cú sốc lãi suất của Mỹ cũng có xu hướng làm USD giảm giá so với

VNĐ. Phản ứng này phù hợp với lý thuyết ngang giá lãi suất không phòng ngừa,

theo đó sự gia tăng lãi suất có thể làm đồng tiền mất giá trong dài hạn do ảnh hưởng

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

của lạm phát kỳ vọng.

Hình 4.8: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

31

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

Hình 4.9: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

Hình 4.10: Phản ứng của tỷ giá Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

4.1.3.3. Phản ứng của giá tiêu dùng

Cú sốc giá dầu làm giá tiêu dùng tăng ngay trong kỳ đầu tiên và sự gia tăng này có

xu hướng dai dẳng. Bên cạnh đó, cú sốc sản lượng của Mỹ cũng làm giá trong nước

tăng trong dài hạn. Nếu sản lượng ở Mỹ gia tăng làm tăng tổng cầu, mức giá nội địa

0.02

0.015

0.01

0.005

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

có xu hướng tăng.

Hình 4.11: Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc giá dầu

32

0.006

0.004

0.002

0

1

2

3

4

5

6

7

8

9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.002

Hình 4.12: Phản ứng của chỉ số giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc sản lượng

của Mỹ

Trong khi đó, giá tiêu dùng trong nước có xu hướng giảm khi FED tăng lãi suất. Lãi

suất của Mỹ tăng có thể tác động đến dòng vốn đầu tư ở các thị trường mới nổi, làm

giảm tổng đầu tư trong nước, từ đó tác động đến tổng cầu và làm giảm mức giá nội

địa. Đối với những quốc gia theo chế độ neo tỷ giá như Việt Nam, lãi suất nước

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.002

-0.004

Series1

-0.006

-0.008

ngoài tăng có thể làm tăng lãi suất trong nước, từ đó làm giảm chỉ số giá tiêu dùng.

Hình 4.13: Phản ứng của giá tiêu dùng Việt Nam đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

4.2. Kết quả nghiên cứu đối với 6 quốc gia Đông Á

4.2.1. Kiểm định tính dừng và xác định độ trễ tối ưu

Tác giả tiến hành các bước kiểm định tương tự cho các nước còn lại. Kết quả cho

thấy các biến đều dừng ở sai phân bậc 1. Theo kết quả kiểm định tự tương quan và

tính ổn định của mô hình, độ trễ được lựa chọn lần lượt như sau: Indonesia (5),

Malaysia (5), Philippines (7), Trung Quốc (4), Singapore (5) và Hàn Quốc (6).

33

4.2.2. Tầm quan trọng của các cú sốc bên ngoài đối với sự biến động của các chỉ

số kinh tế vĩ mô trong nước

Đầu tiên tác giả xem xét vai trò của các cú sốc bên ngoài trong việc dự báo biến

động của sản lượng trong nước. Ngoại trừ Indonesia, cú sốc bên ngoài giải thích

hơn 10% sự biến động của sản lượng. Điều này có thể do Indonesia là quốc gia duy

nhất trong mẫu có xu hướng giảm độ mở thương mại trong thời kỳ quan sát.

Bảng 4.5: Kết quả phân rã phương sai của sản lượng các nước Đông Á

Cú sốc OIL UIP UIR Tổng

Thời gian 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24

Indone- sia 0.56 1.10 2.35 3.84 1.27 1.75 4.18 6.69

Malay- sia 3.26 6.50 2.46 3.60 2.07 4.27 7.80 14.37

Philip- pines 4.29 8.45 2.44 5.03 3.42 6.83 10.14 20.31

Trung Quốc 4.01 4.91 2.14 3.64 1.12 2.04 7.27 10.59

Singa- pore 1.94 3.91 0.87 1.42 3.06 4.78 5.87 10.11

Hàn Quốc 4.49 6.02 2.27 4.57 2.15 3.61 8.90 14.19

Kết quả phân rã phương sai của tỷ giá phù hợp với chính sách tỷ giá của các nước

theo phân loại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF. Các quốc gia có mức độ giải thích của

các cú sốc bên ngoài thấp nhất là Trung Quốc và Singapore. Trong đó, Trung Quốc

theo đuổi chính sách con rắn tiền tệ neo tỷ giá theo USD, và sau đó là Singapore,

với mục tiêu neo tỷ giá theo rổ tiền tệ. Malaysia tuy được phân loại theo tỷ giá thả

nổi có quản lý, nhưng đồng ringgit được giữ giá trị cố định với USD đến hết tháng 6

năm 2005, nên tính trong toàn mẫu thì mức độ đồng ringgit bị tác động của các cú

sốc bên ngoài không cao. Các nước còn lại chịu ảnh hưởng mạnh từ cú sốc bên

ngoài đều theo đuổi chính sách tỷ giá thả nổi (Hàn Quốc) hoặc thả nổi có quản lý

(Indonesia và Phillipines).

So với tỷ giá và sản lượng thì chỉ số giá tiêu dùng chịu ảnh hưởng mạnh hơn từ các

cú sốc bên ngoài, đặc biệt là từ cú sốc chính sách tiền tệ.

34

Bảng 4.6: Kết quả phân rã phương sai của tỷ giá các nước Đông Á

Cú sốc OIL UIP UIR Tổng

Thời gian 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24

Philip- pines 4.81 7.91 4.89 8.18 3.92 7.76 13.62 23.86

Indone- sia 6.96 10.37 7.39 12.60 2.52 4.50 16.87 27.47

Malay- sia 2.89 4.50 3.30 4.24 3.33 5.88 9.52 14.62

Trung Quốc 1.88 3.88 1.26 2.99 1.49 2.91 4.63 9.78

Singa- pore 2.35 3.96 1.08 2.32 3.33 6.87 6.76 13.16

Hàn Quốc 7.46 13.72 6.17 12.17 2.19 4.44 15.81 30.33

Bảng 4.7: Kết quả phân rã phương sai của chỉ số giá tiêu dùng các nước Đông Á

Cú sốc OIL UIP UIR Tổng

Thời gian 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24 1-12 13-24

Philip- pines 3.85 6.08 3.44 6.16 3.85 8.35 11.14 20.59

Indone- sia 1.55 2.89 2.36 4.64 1.69 3.47 5.60 11.00

Malay- sia 5.03 7.25 1.78 3.74 9.27 18.00 16.08 28.99

Trung Quốc 3.14 4.96 2.28 4.35 5.48 5.20 10.90 14.51

Singa- pore 5.33 10.74 2.01 4.19 1.82 3.34 9.15 18.27

Hàn Quốc 13.54 17.51 2.29 3.86 3.27 6.32 19.10 27.69

Với kho dự trữ ngoại hối khổng lồ cùng chiến lược can thiệp vô hiệu hóa, Trung

Quốc là một trong những quốc gia chịu sự ảnh hưởng ít nhất từ bên ngoài đến tỷ giá

và giá cả. Singapore cũng là một ví dụ điển hình thành công trong việc neo tỷ giá và

duy trì một mức lạm phát thấp. Đây cũng là hai quốc gia Đông Á được đánh giá có

những kết hợp chính sách hài hòa trong khuôn khổ bộ ba bất khả thi (theo Stephen

Grenville, 2011). Cũng thành công trong việc giữ ổn định mặt bằng giá nội địa,

nhưng chỉ số giá ở Hàn Quốc lại phụ thuộc nhiều hơn vào các cú sốc bên ngoài, cụ

thể là cú sốc giá dầu. Điều này là do Hàn Quốc phải nhập khẩu hầu như toàn bộ dầu

thô đáp ứng nhu cầu năng lượng trong nước. Trong các nước Đông Nam Á,

Indonesia và Malaysia cho thấy sự đánh đổi giữa việc ổn định tỷ giá và giữ mức giá

trước các cú sốc từ bên ngoài.

35

Từ kết quả phân rã phương sai của các biến trong nước có thể thấy, cú sốc giá dầu

và cú sốc lãi suất có khả năng giải thích nhiều hơn cú sốc sản lượng ở Mỹ đối với

sự biến động của các biến vĩ mô trong khu vực Đông Á. Sự ảnh hưởng hạn chế của

cú sốc sản lượng có thể được giải thích thông qua hai sự thay đổi đáng kể trong

thương mại quốc tế giai đoạn trong mẫu. Thứ nhất, thương mại trong khu vực

(thương mại nội vùng) ngày càng tăng so với thương mại với Mỹ kể từ sau năm

2000. Thứ hai, vai trò của Trung Quốc ngày càng được khẳng định trên trường quốc

tế cũng như trong khu vực. Tỷ trọng của Trung Quốc trong xuất khẩu của các nước

trong khu vực đã tăng mạnh trong những năm gần đây, hàm ý vai trò cầu nối ngày

càng lớn của Trung Quốc trong thương mại giữa các nước đang phát triển ở Đông Á

và thế giới, cụ thể là với Mỹ. Từ quan điểm này, Allegret và Essaadi (2011) tìm

thấy bằng chứng cho rằng giá trị nhập khẩu trong khu vực của Trung Quốc có quan

hệ đồng liên kết với GDP của Mỹ, hàm ý sự ảnh hưởng từ cú sốc thương mại với

Mỹ đang dần được truyền dẫn thông qua vai trò của Trung Quốc.

4.2.3. Tác động của các cú sốc bên ngoài đến các biến kinh tế vĩ mô trong nước

4.2.3.1. Phản ứng của sản lượng

Kết quả hàm phản ứng xung cho thấy phản ứng tức thời của các biến kinh tế trong

nước với các cú sốc cũng như tốc độ điều chỉnh của nền kinh tế.

Theo lý thuyết, giá dầu sẽ có tác động tiêu cực đến nền kinh tế theo nhiều kênh

truyền dẫn khác nhau: chi phí sản xuất, hiệu ứng chuyển giao thu nhập, chính sách

tiền tệ thắt chặt, … Những kênh truyền dẫn này hàm ý cú sốc giá dầu sẽ làm giảm

sản lượng. Tuy nhiên, kết quả hàm phản ứng xung lại cho thấy sản lượng phản ứng

cùng chiều với cú sốc giá dầu ở các quốc gia trong mẫu.

36

0.025

0.02

Indonesia

0.015

0.01

Malaysia

0.005

Philippines

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

0.02

Trung Quốc

0.01

Singapore

0

Hàn Quốc

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.01

Hình 4.14: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc giá dầu

Kết quả này phù hợp với quan điểm của Kilian (2009) , nếu xuất khẩu đóng vai trò

quan trọng trong sự tăng trưởng của các nước Đông Á thì cú sốc giá dầu có thể có

tác động tích cực lên sản lượng. Đây cũng là kết luận của Allegret và cộng sự

(2012) khi tìm hiểu tác động của giá dầu đến sản lượng các quốc gia Đông Á.

Đại diện cho sự tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển, cú sốc sản lượng của Mỹ

có thể làm tăng sản lượng ở các quốc gia có độ mở thương mại cao như các nước

Đông Á. Tuy nhiên, cú sốc sản lượng của Mỹ lại có tác động không đáng kể đến sản

lượng trong nước. Kết quả này củng cố quan điểm cho rằng sức ảnh hưởng trực tiếp

của Mỹ, hay nói rộng hơn là những nước phát triển, đến chu kỳ kinh tế của những

quốc gia Đông Á đã giảm trong thời gian gần đây (Kose và Prasad, 2010).

Trước tác động của cú sốc lãi suất của Mỹ, sản lượng của các quốc gia có xu hướng

tăng. Nhìn chung, khi phân tích phản ứng của sản lượng đối với các cú sốc bên

ngoài, trong ngắn hạn sản lượng có thể biến động tăng hoặc giảm, nhưng trong dài

hạn xu hướng chung vẫn là tăng. Điều này có thể phản ánh xu hướng tăng trưởng

của các quốc gia trong mẫu giai đoạn 2001 – 2012.

37

0.015

0.01

Indonesia

0.005

Malaysia

0

Philippines

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

Trung Quốc

Singapore

Hàn Quốc

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

0.025 0.02 0.015 0.01 0.005 0 -0.005 -0.01

Hình 4.15: Phản ứng của sản lượng các nước đối với cú sốc lãi suất

4.2.2.2. Phản ứng của tỷ giá

Phản ứng của tỷ giá ở quốc gia theo chế độ neo hầu như ít nhạy cảm với cú sốc giá

dầu (trường hợp của Malaysia, Trung Quốc và Singapore). Là nước xuất khẩu dầu

thô nhiều thứ ba trong khu vực Đông Nam Á, đồng rupi Indonesia tăng giá khi xảy

ra cú sốc giá dầu. Đồng won Hàn Quốc cũng tăng giá trong thời kỳ đầu nhưng sau 6

tháng đã giảm giá trở lại so với USD.

38

0.005

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

Indonesia

-0.01

Malaysia

Philippines

-0.015

-0.02

-0.025

0.01

0.005

Trung Quốc

0

Singapore

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

Hàn Quốc

-0.01

-0.015

Hình 4.16: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc giá dầu

Cú sốc sản lượng của Mỹ có xu hướng làm đồng USD yếu đi so với những đồng

tiền khác. Nếu sản lượng ở Mỹ gia tăng kéo theo sự gia tăng trong nhập khẩu hàng

0.01

0.005

Indonesia

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

Malaysia

-0.01

Philippines

-0.015

-0.02

0.01

0.005

Trung Quốc

0

Singapore

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

Hàn Quốc

-0.01

-0.015

hóa từ nước ngoài, điều này sẽ gây áp lực giảm giá đồng USD.

Hình 4.17: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

39

0.015

0.01

Indonesia

0.005

Malaysia

0

Philippines

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.005

-0.01

0.005

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Trung Quốc

-0.005

Singapore

-0.01

Hàn Quốc

-0.015

-0.02

Hình 4.18: Phản ứng của tỷ giá các nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Cú sốc lãi suất của Mỹ có tác động không đáng kể đến tỷ giá các quốc gia trong

mẫu ngoại trừ Hàn Quốc. Là nước có chế độ tỷ giá linh hoạt nhất, đồng won có mức

biến động cao nhất trong mẫu. Theo đó, cú sốc lãi suất của Mỹ sẽ làm đồng USD

giảm giá trong dài hạn đối với đồng won. Điều này phù hợp với lý thuyết ngang giá

lãi suất không phòng ngừa – một sự gia tăng lãi suất sẽ phản ánh sự gia tăng trong

lạm phát kỳ vọng.

Đối với chỉ số giá tiêu dùng, cú sốc giá dầu làm tăng chỉ số giá ở tất cả các nước

trong mẫu. Cú sốc này có tác động dai dẳng đối với mặt bằng giá trong nước.

40

0.004

0.003

Indonesia

0.002

Malaysia

0.001

Philippines

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.001

0.005

0.004

Trung Quốc

0.003

Singapore

0.002

0.001

Hàn Quốc

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.001

Hình 4.19: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc giá dầu

Nhìn chung, mức độ tác động của sản lượng của Mỹ đến mức giá không cao ở các

0.002

0.001

Indonesia

0

Malaysia

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.001

Philippines

-0.002

-0.003

0.004

0.003

Trung Quốc

0.002

Singapore

0.001

Hàn Quốc

0

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.001

quốc gia trong mẫu. Tác động rõ rệt nhất thể hiện ở Trung Quốc và Singapore.

Hình 4.20: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ

41

Phản ứng trong mức giá của các quốc gia đối với cú sốc lãi suất khá tương đồng. Cụ

thể, việc FED gia tăng lãi suất có xu hướng làm giảm mức giá tiêu dùng ở các nước

này. Lãi suất của Mỹ tăng có thể tác động đến dòng vốn đầu tư ở các thị trường mới

nổi, làm giảm tổng đầu tư trong nước, từ đó tác động đến tổng cầu và làm giảm mức

giá nội địa. Đối với những quốc gia theo chế độ neo tỷ giá, lãi suất nước ngoài tăng

0.002

0.001

Indonesia

0

Malaysia

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

-0.001

Philippines

-0.002

-0.003

0.002

0.001

Trung Quốc

0

Singapore

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Hàn Quốc

-0.001

-0.002

có thể làm tăng lãi suất trong nước, từ đó làm giảm chỉ số giá tiêu dùng.

Hình 4.21: Phản ứng của giá tiêu dùng các nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ

Mẫu quan sát được sử dụng trong bài nghiên cứu gồm 7 quốc gia theo những chế độ

tỷ giá hối đoái khác nhau (bao gồm cả Việt Nam), từ chế độ tỷ giá cố định truyền

thống cho đến thả nổi hoàn toàn. Vì vậy tỷ giá của các nước phản ứng theo những

xu hướng khác nhau đối với các cú sốc. Tuy nhiên phản ứng của sản lượng và chỉ số

giá tiêu dùng lại khá tương đồng dù với mức độ bị tác động khác nhau. Kết quả này

cho thấy dấu phản ứng xung của các biến số vĩ mô có thể không phụ thuộc nhiều

vào việc lựa chọn chính sách tỷ giá của các nước. Flood và Rose (1995) đã đưa ra

quan điểm tương tự khi nghiên cứu các quốc gia thuộc khối OECD, theo đó, sự biến

động của các biến vĩ mô trong nền kinh tế thực và thị trường tiền tệ không có sự

khác biệt đáng kể giữa các nước theo chế độ tỷ giá khác nhau. Trong một nghiên

42

cứu khác, Mackowiak (2007) cũng ủng hộ nhận định này với mẫu nghiên cứu gồm

các thị trường mới nổi ở Đông Á và châu Mỹ Latinh.

4.3. Sự tương quan trong phản ứng của các biến kinh tế vĩ mô đối với cú sốc từ

bên ngoài

4.3.1. Sự tương quan trong phản ứng của sản lượng

Để xem xét mối tương tác giữa các nền kinh tế có nhiều đặc điểm tương đồng trong

khu vực, tác giả tính toán hệ số tương quan trong phản ứng xung của các biến kinh

tế vĩ mô đối với từng cú sốc bên ngoài. Việc tồn tại một hệ số tương quan dương

giữa các biến hàm ý các quốc gia có phản ứng cân xứng đối với một cú sốc. Ngược

lại, một hệ số tương quan âm hoặc không có ý nghĩa thống kê có thể phản ánh

những phản ứng bất cân xứng giữa các quốc gia (Canova, 2005). Trong các bảng

kết quả, những hệ số dương và có ý nghĩa thống kê được tô đậm.

Đầu tiên tác giả xem xét hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng đối với các

cú sốc bên ngoài. Sản lượng các quốc gia có xu hướng phản ứng tương tự nhau đối

với cú sốc giá dầu, cho thấy giá dầu và sản lượng có mối liên quan chặt chẽ. Tuy

nhiên, theo kết quả hàm phản ứng xung đã trình bày ở trên, sản lượng thường phản

ứng dương với cú sốc giá dầu. Điều này có thể hàm ý cú sốc giá dầu lúc này phản

ánh sự tăng trưởng của kinh tế toàn cầu hơn là cú sốc trong nguồn cung. Do đó, cú

sốc này có thể dẫn đến phản ứng cân xứng ở các quốc gia.

CH

PH

IN

SI

KR

IP_OIL VN VN IN MA PH CH SI KR

Bảng 4.8: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc giá dầu MA

1.0000 0.2213 0.0960 0.1343 0.1557 0.7786 0.1873

1.0000 0.7660 0.4270 0.0221 0.1726 0.2995

1.0000 0.1726

1.0000

1.0000 0.4051 -0.0239 0.1132 0.3910

1.0000 0.3829 0.4853 0.5798

1.0000 0.0480 0.6343

43

Trong khi đó, phản ứng đối với cú sốc sản lượng của Mỹ cũng như lãi suất của Mỹ

lại không có nhiều mối tương quan. Điều này cho thấy những biến động trong nền

kinh tế Mỹ không có tác động chi phối rộng rãi đối với các quốc gia trong mẫu, hay

nói cách khác, mức độ phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ của các nước không giống

nhau. Ở đây nổi lên vai trò của Trung Quốc. Khi nền kinh tế Mỹ biến động, sản

lượng của Trung Quốc có xu hướng đồng biến động với sản lượng của Việt Nam,

Indonesia và Malaysia. Kết quả này củng cố quan điểm cho rằng vai trò thương mại

của Mỹ đối với các quốc gia Đông Nam Á đang dần được truyền dẫn qua Trung

Quốc.

MA

PH

IN

SI

KR

IP_UIP VN VN IN MA PH CH SI KR

Bảng 4.9: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc sản lượng của Mỹ CH

1.0000 -0.3719 0.2956 -0.2047 0.3723 0.0011 0.1557

1.0000 -0.3031 -0.2025 -0.2001 0.0631 -0.4384

1.0000 -0.3476 0.7325 0.5309 0.2716

1.0000 -0.5266 -0.2809 -0.0059

1.0000 0.3083 -0.2162

1.0000 0.2250

1.0000

CH

KR

MA

IN

SI

1.0000 -0.1055 1.0000 0.0213 -0.4495 0.1380

IP_UIR VN VN IN MA PH CH SI KR

Bảng 4.10: Hệ số tương quan trong phản ứng của sản lượng trong nước đối với cú sốc lãi suất của Mỹ PH

1.0000 0.4025 0.2665 -0.6677 0.7644 0.2242 0.1677

-0.6122 1.0000 0.2911 -0.0125 0.1245

1.0000 -0.5644 1.0000

1.0000 0.1388 -0.6566 0.6707 0.0035 -0.0010 0.7339

4.3.2. Sự tương quan trong phản ứng của tỷ giá

Trong khi đó, phản ứng của tỷ giá hối đoái lại có mức tương quan cao. Biến động

của tỷ giá khi có cú sốc giá dầu có tương quan dương có ý nghĩa thống kê ở hầu hết

các cặp tỷ giá. Tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với sản lượng cũng như

44

lãi suất của Mỹ tuy có ý nghĩa thống kê nhưng lại không cho thấy một xu hướng rõ

ràng.

IN

MA

PH

CH

SI

KR

EX_OIL VN VN IN MA PH CH SI KR

-0.1632 1.0000

Bảng 4.11: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc giá dầu

1.0000 0.5127 0.4978 0.3527 0.3160 0.3681 0.7178

1.0000 0.7907 0.6791 0.4997 -0.2104 0.7352

1.0000 0.6888 0.5744 -0.2006 0.8058

1.0000 0.0337 -0.1975 0.6589

1.0000 -0.0506 1.0000 0.4088

CH

SI

KR

IN

MA

1.0000 -0.1142 1.0000

EX_UIP VN VN IN MA PH CH SI KR

-0.1504 1.0000 0.1016 0.0486

1.0000

Bảng 4.12: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc sản lượng của Mỹ PH

1.0000 -0.2093 1.0000 1.0000 -0.4564 0.2903 0.1988 -0.2372 0.4340 -0.2195 0.0438 0.3475 0.5521 0.4010 -0.2225 0.7310

-0.4046 0.2239 0.3938 0.5657

CH

SI

KR

IN

MA

EX_UIR VN VN IN MA PH CH SI KR

Bảng 4.13: Hệ số tương quan trong phản ứng của tỷ giá đối với cú sốc lãi suất của Mỹ PH

1.0000 1.0000 0.2052 0.0787 0.4911 0.0284 0.3752 0.1139 0.3153 -0.3126 0.4402 0.2882

1.0000 -0.1400 1.0000 -0.2855 0.3723 -0.4089 0.2803

1.0000 -0.3280 1.0000

1.0000 0.6053 0.2043 -0.2567 -0.0160 0.5678

4.3.3. Sự tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng

Chỉ số giá tiêu dùng là biến có phản ứng tương quan nhiều nhất trong các biến kinh

tế vĩ mô nội địa. Mức giá trong nước đều có xu hướng gia tăng khi xảy ra cú sốc giá

dầu. Chỉ số giá của nhóm các nước đang phát triển khu vực Đông Nam Á (bao gồm

Việt Nam, Indonesia, Malaysia và Philippines) có tương quan rõ nét trong phản ứng

45

đối với cả hai cú sốc đến từ nền kinh tế Mỹ, trong khi phản ứng của Trung Quốc,

Singapore và Hàn Quốc có tương quan rời rạc hơn với các quốc gia trong mẫu.

KR

IN

SI

1.0000 0.1712

1.0000

CPI_OIL VN VN IN ML PH CH SI KR

Bảng 4.14: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc giá dầu CH PH ML

1.0000 1.0000 0.1560 0.0390 0.6510 0.8059 0.4179 0.6743 0.3760 -0.0776 0.6910

1.0000 0.6697 0.3549 0.4949

1.0000 0.6678 0.7208

1.0000 0.4019 0.6302 0.6462 0.7937 0.7962 0.3538

ML

CH

KR

IN

SI

1.0000 -0.1494 1.0000 0.3250 0.2311 1.0000 -0.6326 0.1791 0.2708

1.0000

CPI_UIP VN VN IN ML PH CH SI KR

Bảng 4.15: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc sản lượng của Mỹ PH

1.0000 0.3544 0.3887 0.5290 0.1990 0.4079 0.1249

1.0000 1.0000 0.6603 0.4069 0.6382 -0.4030 0.2575 0.7686 0.5720 0.0928 0.5977

ML

CH

KR

IN

SI

1.0000

CPI_UIR VN VN IN ML PH CH SI KR

Bảng 4.16: Hệ số tương quan trong phản ứng của giá tiêu dùng đối với cú sốc lãi suất của Mỹ PH

1.0000 0.8074 0.5000 0.0451 0.3412 0.8379

1.0000 0.5980 -0.0049 0.1705 0.6187

1.0000 -0.0216 1.0000 0.5172 0.4102 0.3187 0.4765

1.0000 0.5187

1.0000 0.5703 0.3664 0.6542 0.1204 0.4243 0.5126

Nhìn chung, kết quả này phù hợp với phát hiện của Allegret và cộng sự (2012), tác

giả cho rằng tương quan giá cả của các nước Đông Á ngày càng cao tính từ sau

khủng hoảng Đông Á 1997-1998.

46

5. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

Bài nghiên cứu quan sát bao gồm Việt Nam và 6 quốc gia thuộc cùng khu vực có

điều kiện kinh tế tương đồng, trong đó Trung Quốc, Singapore và Hàn Quốc là

những nước có nền kinh tế phát triển hơn. Tuy nhiên, các quốc gia trong mẫu theo

đuổi những chế độ tỷ giá cũng như khuôn khổ chính sách tiền tệ khác nhau (theo

phân loại của IMF). Bài nghiên cứu này kiểm định tầm quan trọng của những cú sốc

bên ngoài đối với sự biến động của các biến kinh tế vĩ mô của Việt Nam và các

nước trong khu vực Đông Á cũng như sự cân xứng trong cách các quốc gia phản

ứng với cú sốc.

Kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy sản lượng ít nhạy cảm với các cú sốc bên

ngoài và có xu hướng phản ứng tăng khi xảy ra cú sốc. Bên cạnh đó, các cú sốc bên

ngoài có ảnh hưởng rất hạn chế đến tỷ giá hối đoái trong khi lại có vai trò rất lớn

trong việc dự báo biến động của chỉ số giá tiêu dùng, đặc biệt là cú sốc giá dầu. Đối

với nền kinh tế Việt Nam, khi giá dầu tác động đến hầu hết giá cả của các sản phẩm

hàng hóa thì tác động của giá dầu đến chỉ số giá tiêu dùng là khá rõ nét. Vì vậy việc

đưa ra những chính sách nhằm hấp thụ cú sốc giá dầu, hạn chế ảnh hưởng đến mục

tiêu lạm phát, là rất cần thiết. Để hấp thụ các cú sốc giá dầu đến nền kinh tế, cần

thiết phải có những dự báo ít thiên lệch về giá dầu mỏ hoặc áp dụng hữu hiệu các

công cụ phòng chống rủi ro do biến động giá dầu.

Ngoài ra những nhà làm chính sách cũng cần quan tâm đến chính sách tiền tệ của

Mỹ trong bối cảnh mức độ hội nhập tài chính ngày càng cao. Một chính sách tiền tệ

nới lỏng của FED có thể làm tiềm ẩn nguy cơ lạm phát ở Việt Nam. Đây cũng là

một hạn chế của đề tài khi đề tài chỉ nghiên cứu ảnh hưởng của cú sốc tăng lãi suất

mà chưa đề cập đến trường hợp nới lỏng tiền tệ. Theo dõi và phân tích những diễn

biến của chính sách tiền tệ Mỹ sẽ giúp cho các nhà điều hành kinh tế Việt Nam đưa

ra những giải pháp nhằm ổn định sự phát triển kinh tế quốc gia.

Đối với các quốc gia Đông Á, kết quả phân rã phương sai sai số dự báo của các biến

nội địa cho thấy cú sốc giá dầu và cú sốc lãi suất có mức độ giải thích cao hơn so

47

với cú sốc sản lượng, trong đó cú sốc giá dầu có vai trò quan trọng đối với sản

lượng trong khi cú sốc giá dầu và lãi suất có ảnh hưởng đáng kể đến mức giá trong

nước. Mức độ bị tác động của biến tỷ giá thay đổi tùy vào chính sách tỷ giá của mỗi

nước, cơ chế tỷ giá càng linh hoạt càng chịu tác động nhiều bởi các cú sốc bên

ngoài. Một số quốc gia duy trì được tỷ giá và mức giá ít bị tác động bởi các cú sốc

bên ngoài như Trung Quốc và Singapore, trong khi một số quốc gia có sự đánh đổi

trong việc điều hành hai mục tiêu chính sách này (Việt Nam, Indonesia và

Malaysia). Một khi duy trì sự ổn định tỷ giá, chúng ta lại phải đối mặt với sự biến

động trong các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như: sản lượng, chỉ số giá tiêu dùng, … Tùy

theo những đặc điểm khác biệt trong từng giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau,

việc đặt nặng mục tiêu chính sách nào cần phải cân nhắc nhằm đạt được hiệu quả

tăng trưởng và sự ổn định nhất định.

Khi xem xét phản ứng của các biến nội địa với các cú sốc, biến tỷ giá có phản ứng

không giống nhau ở các nước. Sự bất cân xứng này không chỉ do sự thay đổi trong

cung cầu ngoại tệ mà còn do chính sách tỷ giá của các quốc gia. Tuy nhiên, phản

ứng của sản lượng và mức giá của các nước lại có xu hướng biến động cùng chiều

đối với cùng một cú sốc. Cụ thể, cú sốc giá dầu sẽ làm tăng sản lượng và tăng mức

giá tiêu dùng nội địa. Sản lượng tăng trong trường hợp này có thể do sự gia tăng giá

dầu phản ánh sự tăng trưởng của kinh tế thế giới. Trong khi đó, cú sốc lãi suất cũng

làm tăng sản lượng nhưng chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng giảm. Việc sản lượng

phản ứng tích cực với các cú sốc có thể do chu kỳ tăng trưởng của các quốc gia

trong giai đoạn mẫu. Phản ứng của mức giá phù hợp với các lý thuyết kinh tế truyền

thống. Sự phản ứng tương tự của sản lượng và mức giá cho thấy dường như các

phản ứng của biến số thực trong nền kinh tế không phụ thuộc nhiều vào việc lựa

chọn chính sách tỷ giá danh nghĩa của các quốc gia.

Kết quả kiểm định mối tương quan trong phản ứng của các biến nội địa với các cú

sốc cho thấy cú sốc giá dầu là cú sốc dẫn đến sự đồng biến động cao nhất, trong cả

sản lượng, tỷ giá và giá tiêu dùng. Ngoài ra, tác giả không nhận thấy một sự khác

biệt đáng kể giữa các nhóm nước theo những chế độ tỷ giá và chính sách tiền tệ

48

khác nhau. Ví dụ, Indonesia, Philippines và Hàn Quốc cùng theo đuổi khuôn khổ

chính sách lạm phát mục tiêu, nhưng mức độ tương quan của biến vĩ mô ở các quốc

gia này không thật sự cao và đồng đều trong phản ứng với các cú sốc bên ngoài. Kết

quả này phù hợp với nghiên cứu của Mackowiak (2007) và Allegret và cộng sự

(2012) nhưng không thật sự ủng hộ nhận định của Rose (2011) khi Rose cho rằng

việc áp dụng chính sách lạm phát mục tiêu sẽ làm chu kỳ kinh tế của các quốc gia

Đông Á trở nên tương đồng.

Đề tài tìm hiểu tác động của các cú sốc bên ngoài đến nền kinh tế Việt Nam và các

quốc gia Đông Á. Trong đó tác giả mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá sơ bộ và xem

xét sự tương quan trong kết quả của các quốc gia chứ chưa đi vào phân tích chuyên

sâu cho từng nước. Việc phân tích sâu đòi hỏi những nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết

hoàn cảnh kinh tế của từng quốc gia. Về mặt dữ liệu, đề tài sử dụng chỉ số sản xuất

công nghiệp đại diện cho sản lượng. Chỉ số này không thể thay thế hoàn toàn cho

GDP nên có thể phản ứng của chỉ số sản xuất công nghiệp chưa thể phản ánh đúng

phản ứng trong sản lượng của các nước.

49

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Allegret J.P., Couharde C., Guillaumin C., 2012. The Impact of External Shocks in East Asia: Lessons from a Structural VAR Model with Block Exogeneity. International Economics.

Allegret, J.-P., & Essaadi, E., 2011. Business Cycles Synchronization in East Asian Economy: Evidences from time-variyng Coherence Study. Economic Modelling, 28(1-2), pp. 351-368.

Bouakez, H., Normandin, M., 2010. Fluctuations in the foreign exchange market: how important are monetary policy shocks?. Journal of International Economics, 81(1), pp. 139-153.

Brown, Stephen P. A. & Yucel, Mine K., 2002. Energy prices and aggregate economic activity: an interpretative survey. The Quarterly Review of Economics and Finance, 43(2), pp. 193-208.

Canova, F., 2005. The transmission of US Shocks to Latin America. Journal of Applied Econometrics, 20(2), pp. 229-251.

Cosetti G., Pesenti P. và Roubini N., 1999. Paper tigers? A model of the Asian crisis. European Economic Review, 43(7), pp. 1211-1236.

Cushman D.O. và Zha T., 1997. Identifying Monetary Policy in Small Open Economy. Journal of Monetary Economics, 39(3), pp. 433-448.

Ehrmann, M. và Fratzscher, M., 2009. Global financial transmission of monetary policy shocks. Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 71(6), pp. 739-759.

Eichengreen, B., Rose, A., Wyplosz, C., 1996. Contagious currency crises: first tests. The Scandinavian Journal of Economics, 98(4), pp. 463-484.

Flood, R.P. and A.K. Rose, 1995. Fixing exchange rates: a virtual quest for fundamentals. Journal of Monetary Economics, Tập 36, pp. 3-37.

Forbes, K.J., Chinn, M.D., 2004. A decomposition of global linkages in financial markets over time. The Review of Economics and Statistics, 86(3), pp. 705-722.

Hằng N.T.T & Thành N. D., 2011. Nguồn gốc lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2000-2010: Phát hiện mới từ những bằng chứng mới. Bài nghiên cứu của Trung Tâm Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế Việt Nam.

Huang Y. và Guo F., 2006. Is currency union a feasible option in East Asia? A multivariate structural VAR approach. Reasearch in International Business and Finance, 20(1), pp. 77-94.

IMF, 2007. Decoupling the Train? Spillovers and Cycles in Global Economy. World Economic Outlook, pp. 121-160.

Kaminsky G., Reinhart C. và Vegh C., 2003. The Unholy Trinity of Financial Contagion. Journal of Economic Perpectives, 17(4), pp. 51-74.

50

Kilian, L., 2009. Not All Oil Price Shocks Are Alike: Disentangling Demand and Supply Shocks in the Crude. American Economic Review, 99(3), pp. 1053-69.

Kim, S., 2001. International transmission of U.S. monetary policy shocks: evidence from VAR's. Journal of Monetary Economics, 48(2), pp. 339-372.

Kose, M. A., & Prasad, E. S., 2010. Emerging markets, resilience and growth amid global turmoil. Washington D.C: Brookings Institution Press.

Lân, N. P., 2010. Cơ chế truyền dẫn tiền tệ dưới góc độ phân tích định lượng. Tạp Chí Ngân Hàng, Tập 8.

Leeper E., Sims C.A. và Zha T., 1996. What does Monetary Policy Do?. Brookings Papers in Economic Activity, Tập 2, pp. 1-63.

Luiz de Mello; Mauro Pisu, 2010. The bank lending channel of monetary transmission in Brazil: A VECM approach. The Quarterly Review of Economics and Finance, 50(1), pp. 50-60.

Lutke-pohl, H., 2005. New Introduction to Multiple Time Series Analysis. Berlin biên tập viên không biết chủ biên:Springer.

Markowiak, B., 2007. External shocks, U.S. monetary policy ang macro economic fluctuations in emerging markets. Journal of Monetary Economics, 54(8), pp. 2512-2520.

Miniane, J., Rogers, J.H, 2007. Capital controls and the international transmission of U.S. money shocks. Journal of Money, Credit, and Banking, 39(5), pp. 1003-1035.

Moneta F. và Ruffer R., 2009. Business Cycle Synchoronization in East Asia. Journal of Asian Economics, 20(1), pp. 1-12.

Ng, T. H., 2002. Should the Southeast Asian Countries form a Currency Union?. The Developing Economies, xl(2), pp. 113-134.

Reinhart C. và Rogoff K., 2004. The Modern History of Exchange rate arrangements: A Reinterpretation. Quarterly Journal of Economics, 119(1), pp. 1-48.

Rose, A., 2011. Understanding Business Cycle Synchronization: Is Inflation Targeting Paving the Way to Asian Monerary Union. Trong: J. L. Robert J.Barro, biên tập viên Costs and Benefits of Economic Integration in Asia. không biết chủ biên:Oxford University Press.

Ruffer R., 2007. Emerging Asia's Growth and Intergration. How Autonomous are Business Cycle?. Working Paper 715, European Central Bank.

Sousa, J. và Zaghini, A., 2008. Monetary policy shocks in the Euro area and global liquidity spillovers. International Journal of Finance Economics, 13(3), p. 205–218.

Stephen, G., 2011. The Impossible Trinity and the Capital Flows in East Asia. ADBI Working Paper Series, Tập 319.

51

Tang, W., W. Libo và Z. Zhang, 2010. Oil Price Shocks and Their Short- and Long-Term Effects on the Chinese Economy. Energy Economics, Tập 32, pp. S3-S14.

52

PHỤ LỤC

Phân loại hệ thống tỷ giá hối đoái và mục tiêu chiến lược của các chính sách tiền tệ các nước

Mục tiêu chiến lược của chính sách tiền tệ

Quốc gia

Mã chữ

Chế độ tỷ giá

Tên đồng tiền

(1)

(2)

(3)

(4)

(5)

tệ

tiền

Trung Quốc Yuan

CNY

x

Hàn Quốc Won

KRW

Con rắn (Crawl-like arrangement) Thả nổi (Floating)

x

Indonesia

Rupiah

IDR

x

Malaysia

Ringgit

MYR

x

Philippines

Peso

PHP

Thả nổi (Floating) Thả nổi có quản lý (Other managed arrangement) Thả nổi (Floating)

x

Singapore

Dollar

SGD

x

Việt Nam

Dong

VND

x

Thả nổi có quản lý (Other managed arrangement) Ổn định (Stabilized Arrangement)

(1) Exchange rate anchor (2) Monetary aggergate target (3) Inflation targeting framework (4) IMF-supported or other monetary program (5) Other

Nguồn: Annual report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions 2012.