BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Liêu Thị Linh
CĂN CỨ LONG HƯNG - SA ĐÉC VỚI
QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG
CỦA NGUYỄN ÁNH (1787-1789)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Liêu Thị Linh
CĂN CỨ LONG HƯNG - SA ĐÉC VỚI
QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CỦA
NGUYỄN ÁNH (1787-1789)
Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam
Mã số: 602254
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HỮU PHƯỚC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
Lời cam đoan
Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các sự kiện, số liệu, tài liệu trích dẫn và
kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và
nghiêm túc.
Tác giả Luận văn
Liêu Thị Linh
0TLời cam đoan0T .................................................................................................................... - 1 -
0TMỤC LỤC0T ........................................................................................................................ - 2 -
0TMỞ ĐẦU0T .......................................................................................................................... - 4 -
0T1. Lí do chọn đề tài0T.............................................................................................................................. - 4 -
0T2. Lịch sử nghiên cứu đề tài0T................................................................................................................. - 5 -
0T3. Nguồn tài liệu0T .................................................................................................................................. - 6 -
0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ................................................................................................................. - 6 -
0T5. Đóng góp của đề tài0T ......................................................................................................................... - 6 -
0T6. Cấu trúc đề tài0T ................................................................................................................................. - 6 -
0TCHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT LONG HƯNG THẾ KỶ XVII - XVIII0T ...... - 8 -
0T1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng đất Long Hưng. 0T ................................................................. - 8 -
0T1.1.1. Đặc điểm tự nhiên. 0T .................................................................................................................. - 8 -
0T1.1.2. Những biến đổi hành chính. 0T .................................................................................................. - 10 -
0T1.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư0T .................................................................................................... - 11 -
0T1.2. Vùng đất Long Hưng cuối thế kỷ XVIII. 0T .................................................................................... - 12 -
0T1.2.1. Bối cảnh Nam Kỳ cuối thế kỷ XVIII.0T .................................................................................... - 12 -
0T1.2.2. Thành tựu khai hoang và tình hình kinh tế - xã hội ở Long Hưng. 0T ......................................... - 14 -
0TCHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁNH ĐẶT CĂN CỨ TẠI LONG HƯNG – SA ĐÉC. 0T ............. - 17 -
0T2.1. Những thắng lợi của Tây Sơn trong giai đoạn 1773 – 1783.0T ........................................................ - 17 -
0T2.2. Nguyễn Ánh bôn tẩu và sang Xiêm cầu viện (1783 – 1787).0T ....................................................... - 22 -
0T2.3. Nguyễn Ánh chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ. 0T ................................................................... - 25 -
0T2.3.1. Những yếu tố tác động đến quyết định về nước của Nguyễn Ánh. 0T ......................................... - 25 -
0T2.3.2. Những yếu tố khiến Nguyễn Ánh lấy vùng Tân Long (Long Hưng) - Sa Đéc làm căn cứ. 0T ..... - 28 -
0TCHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CỦA NGUYỄN ÁNH TẠI CĂN CỨ LONG HƯNG – SA ĐÉC (1787-1789)0T ................................................................... - 34 -
0T3.1. Từ Long Hưng, Nguyễn Ánh khởi binh và liên tiếp giành thắng lợi. 0T ........................................... - 34 -
0T3.2. Vai trò của căn cứ Long Hưng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh. 0T ............................................. - 39 -
0T3.3. Những di tích ở Long Hưng liên quan đến cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn. 0T .................... - 44 -
MỤC LỤC
0TKẾT LUẬN0T .................................................................................................................... - 54 -
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ............................................................................................... - 59 -
0TPHỤ LỤC0T ....................................................................................................................... - 62 -
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, được
thành lập trên sự thắng lợi của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX.
Vậy, những nhân tố nào đã góp phần làm nên thắng lợi của Nguyễn Ánh? Có nhiều
nhân tố chủ quan và khách quan đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu như
lòng kiên trì và quyết tâm cao độ của Nguyễn Ánh; việc khai thác triệt để yếu tố địa lợi và
nhân hoà ở miền đất Gia Định; sự kém cõi của chính quyền Tây Sơn trong việc quản lý địa
bàn này....
Trong đó, có một nhân tố quan trọng là vai trò của căn cứ Long Hưng (nay thuộc
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) đối với quá trình khôi phục và phát triển lực lượng của
Nguyễn Ánh để cuối cùng giành thắng lợi. Ngày nay tại Long Hưng còn những di tích về
cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn. Do đó, việc tìm hiểu vùng đất Long Hưng hay vai trò
của căn cứ Long Hưng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh là điều cần thiết đối với nghiên
cứu lịch sử địa phương cũng như lịch sử dân tộc.
Về mặt khoa học, đề tài “Căn cứ Long Hưng – Sa Đéc với quá trình khôi phục lực
lượng của Nguyễn Ánh (1787-1789)” sẽ làm rõ thêm những điều kiện tự nhiên và xã hội tại
vùng đất Long Hưng, tạo cơ sở để Nguyễn Ánh quyết định chọn làm nơi đặt căn cứ để khôi
phục và phát triển lực lượng, rồi giành thắng lợi. Nói cách khác, đề tài sẽ góp phần lý giải
sâu hơn một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn
Ánh; đó là quá trình khôi phục và phát triển lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long
Hưng (Sa Đéc) và vai trò của căn cứ này đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh.
Về mặt thực tiễn, đề tài sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, biên soạn địa chí, lịch sử địa
phương cũng như việc khôi phục, tôn tạo các di tích lịch sử ở Đồng Tháp, giúp người dân địa
phương hiểu thêm một số vấn đề lịch sử trên cả hai khía cạnh chính diện và phản diện.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Căn cứ Long Hưng-Sa Đéc với quá trình khôi phục lực
lượng của Nguyễn Ánh (1787-1789)” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Không kể những công trình nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và cuộc chiến tranh
Tây Sơn-Nguyễn Ánh nói chung, thời gian qua cũng đã có một số tài liệu nghiên cứu riêng
về Vùng đất Long Hưng gắn với cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn.
Có thể kể đến các tài liệu sau:
- Lịch sử vùng Long Hưng (TK XVIII – 2000), đề tài khoa học cấp tỉnh năm 2005 do
UBND huyện Lấp Vò thực hiện (Nguyễn Văn Lây làm chủ nhiệm; Nguyễn Hữu Hiếu sưu
tầm và biên soạn). Đề tài trình bày đặc điểm tự nhiên và xã hội vùng đất Long Hưng; bối
cảnh Long Hưng cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX; Long Hưng trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ và vùng đất Long Hưng ngày nay.
- Đồng Tháp 300 năm, NXB Trẻ, 2004 do Nguyễn Hữu Hiếu-Ngô Xuân Tư-Lê Đức
Hòa-Nguyễn Đắc Hiền biên soạn. Tác phẩm viết về vùng đất và con người Đồng Tháp, trong
đó có đề cập đến vùng đất Long Hưng. Đồng thời, tác phẩm cũng đề cập đến cuộc nội chiến
trên vùng đất Long Hưng, nhưng chưa nêu bật được vai trò của vùng đất này đối với thắng
lợi của Nguyễn Ánh.
- Sadec Xưa và Nay của Huỳnh Minh, NXB Cảnh Bằng,1971. Tác phẩm nêu lên vị trí
địa lý của Sadec; các danh nhân lịch sử; di tích lịch sử và huyền sử; sinh hoạt tôn giáo và các
nguồn lợi về thiên nhiên.
- Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long Hưng A do Ban Tuyên giáo huyện ủy
Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng A tổ chức biên soạn, 12/2005. Tập sách chủ yếu đề cập
lịch sử truyền thống cách mạng của nhân dân Long Hưng A từ thế kỷ XVIII; xây dựng và
phát triển của xã Long Hưng A ngày nay.
- Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long Hưng B do Ban Tuyên giáo huyện ủy
Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng B tổ chức biên soạn, 12/2005. Tác phẩm chủ yếu đề cập
đến lịch sử truyền thống cách mạng của nhân dân Long Hưng B từ thế kỷ XVIII; sự phát
triển của xã Long Hưng B ngày nay.
Có thể thấy rằng, số lượng tác phẩm viết về đề tài này là khá ít ỏi và chưa đi sâu làm
rõ vị thế, vai trò của vùng đất Long Hưng trong những năm cuối thế kỷ XVIII, gắn với cuộc
nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn. Từ việc kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả Luận
văn muốn nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này như đã trình bày trong lý do chọn đề tài.
3. Nguồn tài liệu
Để viết Luận văn, tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu thành văn bao gồm sách chuyên khảo, đề tài khoa học.
- Tài liệu khảo sát thực địa bao gồm ảnh chụp các di tích có liên quan đến căn cứ
Long Hưng ở xã Long Hưng A và xã Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp.
- Phỏng vấn nhân chứng ở địa phương bằng phương pháp đàm thoại và chép tay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đặt ra của đề tài, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã
dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp lịch sử là phương pháp nhằm xem xét các hiện tượng, sự vật qua từng
giai đoạn cụ thể của nó. Cụ thể trong đề tài, phương pháp lịch sử dùng để trình bày, miêu tả
các sự kiện lịch sử của quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long Hưng
(1787 - 1789).
- Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong hình thức
tổng quát nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của cái
khách quan được nhận thức. Trong đề tài, phương pháp này dùng để xâu chuỗi các sự kiện
lịch sử của quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại Long Hưng; phân tích và lý
giải vai trò, tầm quan trọng của căn cứ Long Hưng-Sa đéc đối với thắng lợi của Nguyễn
Ánh.
5. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho việc
giảng dạy lịch sử địa phương nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát về vùng đất Long Hưng thế kỷ XVII - XVIII.
Chương 2: Nguyễn Ánh đặt căn cứ tại Long Hưng-Sa Đéc.
Chương 3: Qúa trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long
Hưng-Sa Đéc (1787 – 1789).
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT LONG HƯNG THẾ KỶ XVII - XVIII
1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng đất Long Hưng.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Trước năm 1975 Long Hưng thuộc quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, nằm giữa các xã: Tân
Mỹ, Tân Khánh Trung ở phía Bắc; thị trấn Hòa Long, Hòa Thành (huyện Lai Vung) ở phía
Nam; Tân Dương (huyện Lai Vung) ở phía Đông; Vĩnh Thạnh và Long Hậu (huyện Lai
Vung) ở phía Tây.
Khi nhắc đến Long Hưng, người ta thường nói Long Hưng – Nước Xoáy hoặc Nước
Xoáy – Bờ Rào, chứng tỏ từ rất lâu địa danh Long Hưng hay vùng Long Hưng đã gắn liền
với rạch Nước Xoáy. Rạch Nước Xoáy là con rạch dài thứ hai trong vùng với chiều dài
8500m, chỉ sau sông Sa Đéc.
Rạch Nước Xoáy có 3 nhánh cùng đổ về chỗ giáp nước:
- Nhánh thứ nhất chảy từ sông Hậu vào rạch Lai Vung, đến Vĩnh Thạnh nối vào rạch
Thủ Ô, qua rạch Rau Cần đến chỗ giáp nước.
- Nhánh thứ hai chảy từ sông Cái Tàu Thượng vào sông Cường Thành đến Vĩnh
Thạnh rồi nối vào rạch Thủ Ô như nhánh thứ nhất.
- Nhánh thứ ba từ sông Sa Đéc chảy đến chỗ giáp nước.
Rạch Nước Xoáy và sông Sa Đéc mang lại cho Long Hưng một vị trí quan trọng trong
vùng. Long Hưng nằm trên ngã tư đường từ Tây sang Đông trên sông Sa Đéc và từ Bắc
xuống Nam trên rạch Nước Xoáy. Là một thủy đạo trọng yếu từ sông Tiền sang sông Hậu
nên Long Hưng thường đi liền với Nước Xoáy. Ngoài ra trong dân gian còn phổ biến cụm
địa danh nữa liên quan đến Long Hưng, Nước Xoáy, đó là “Nước Xoáy – Bờ Rào” [45, 4].
Bờ Rào là con rạch nhỏ nằm ở phía Nam xã Tân Mỹ, lấy nước sông Tiền đổ vào rạch
Nước Xoáy. Dân địa phương thường gọi là rạch Nước Xoáy – Bờ Rào, cũng có người gọi là
Bàu Rào.
Như vậy “vùng Long Hưng – Nước Xoáy” được hiểu theo 2 nghĩa:
Nghĩa hẹp: là khu vực nhỏ, chung quanh có hiện tượng nước xoáy, nay thuộc khu vực
quanh chợ Nước Xoáy, nơi đóng trụ sở Ủy ban nhân dân xã Long Hưng A.
Nghĩa rộng: là một vùng rộng lớn hơn, nơi rạch Nước Xoáy và các phụ lưu của nó
chảy qua, tức bao gồm nhiều địa bàn.
Vùng, tuy là một khái niệm địa lý để chỉ một khu vực, song nó lại mang đặc trưng văn
hóa nên vùng thường không có địa giới cụ thể rõ ràng. Do đó, không gian của nó chỉ có tính
tương đối, rộng hay hẹp tùy theo trường hợp sử dụng, thời điểm lịch sử. Do nằm ở vị trí khá
đặc biệt với hệ thống kênh rạch chằng chịt, là trung tâm khu vực giữa sông Tiền và sông
Hậu, là nơi nối liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ và còn là đầu cầu giữa Campuchia,
Đồng Tháp Mười nên trong một số giai đoạn lịch sử, vùng Long Hưng là nơi diễn ra một số
sự kiện quan trọng.
Trong cuộc chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh trên đất Nam Bộ (1777 – 1789), vùng này là
nơi tiến sang Ba Giồng lên Sài Gòn hoặc thoái xuống Cà Mau ra vịnh Thái Lan của Nguyễn
Ánh. Đến năm 1787 Nguyễn Ánh xây dựng căn cứ ở đây mà trung tâm tại Nước Xoáy –
Long Hưng. Từ đây làm bàn đạp Nguyễn Ánh tung quân đánh Tây Sơn, thu phục được toàn
bộ đất Gia Định.
Về mặt tự nhiên, Long Hưng là vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Ven sông
cái, vào sâu trong nội đồng trũng thấp dần. Đó là do hiện tượng phù sa bồi lắng hàng năm
sau mỗi mùa nước nổi, hình thành dãy đất giồng ven sông, không bị ngập sâu nên đất đai rất
màu mỡ.
Có những con rạch tự nhiên đã cắt vùng này ra nhiều mảng nhỏ, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đi lại, chuyên chở bằng đường thủy. Con sông quan trọng nhất của vùng là sông
Sa Đéc.
Sông Sa Đéc dài 35km, chảy từ Bình Thành Tây (Lấp Vò) ở sông Hậu đổ ra sông Tiền
tại vàm An Nhơn (Châu Thành) cắt Long Hưng và cả vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu
ở khu vực Sa Đéc ra hai mảng theo hướng Tây – Bắc – Đông – Nam. Là một thủy lộ quan
trọng nối liền hai miền Tiền Giang và Hậu Giang.
Nằm trên vùng châu thổ, lại ở giữa hai sông lớn nên khí hậu vùng Long Hưng rất ôn
hoà, thuận lợi cho sự phát triển của các loài thực vật và cây trồng chịu nước. Do đó, thảm
thực vật tự nhiên ở đây rất phong phú đa dạng và là nơi thuận lợi cho việc canh tác lúa và
cây ăn trái. Vì vậy ngay từ thời khai hoang lập ấp, vùng này đã hấp dẫn nhiều lưu dân đến
đây khai hoang sinh sống, dẫn đến việc hình thành nhiều làng mạc dân cư đông đúc.
1.1.2. Những biến đổi hành chính.
Long Hưng là tên gọi sau này, trước đây vùng này có tên là Tân Long. Vào thế kỷ
XVII – XVIII khi quá trình khai hoang thành công, nhiều thôn được thành lập như: Tân
Long, Long Hậu, Nhơn Qưới, Tân Lộc, Hưng Qưới thuộc huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh.
Đến năm 1836 vùng này phát triển thêm nhiều thôn như Tân Đông, Vĩnh Thạnh, Nhơn
Qưới (thuộc tổng An Thới, Huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang), Long Hậu, Bình Thành Tây,
Tân Lộc, Định An (thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang), Long Hậu, Bình
Thành Tây, Tân Lộc, Định An (thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang).
Trong địa bạ Nam Kỳ năm 1836, tên thôn Tân Long được ghi:
“Tân Long thôn, ở xứ Thủy Nhiều (Nước Xoáy), thuộc tổng An Thới, huyện Vĩnh An,
phủ Tân Thành, tỉnh An Giang: phía đông giáp địa phận hai thôn Tân Dương và Tân Thạnh;
phía Tây giáp địa phận hai thôn Vĩnh Thạnh và Nhơn Qúy; phía Nam giáp thôn Long Hậu
(thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên); phía Bắc giáp thôn Tân Khánh Tây và thôn Tân
Mỹ, lại giáp thôn Nhơn Qưới” [7,188].
Khi tiến hành thành lập bộ máy cai trị ở hạt Sa Đéc, thực dân Pháp nhận thấy rằng
thôn Tân Long có nhiều ruộng đất và đông dân nên đã tách phần đất của thôn này giáp với
Long Hậu thành làng Long Hậu Thượng [18,132]. Sau đó theo nghị định ngày 6 tháng 5 năm
1891, chúng lại sáp nhập lại như cũ với tên là Long Hưng, thuộc tổng An Phong, Sa Đéc.
Với nghị định ngày 09 tháng 02 năm 1913 Sa Đéc trở thành một đại lý hành chính đặt
dưới quyền của tỉnh Vĩnh Long, còn Long Hưng vẫn thuộc tổng An Phong [18,135].
Nghị định ngày 01 tháng 04 năm 1916, Sa Đéc trở thành một quận của tỉnh Vĩnh Long
với ba đại lý hành chính là Sa Đéc, Cao Lãnh và Lai Vung. Long Hưng nằm trong tổng An
Phong thuộc Lai Vung. Đến nghị định ngày 09 tháng 02 năm 1924 Sa Đéc chính thức trở
thành một tỉnh riêng và tách khỏi Vĩnh Long với ba quận là Châu Thành (Sa Đéc), Cao lãnh
và Lai Vung. Long Hưng thuộc quận Lai Vung [51,15].
Đến năm 1957 với nghị định ngày 08 tháng 10 Sa Đéc lại trở thành một quận của tỉnh
Vĩnh Long. Đến nghị định ngày 11 tháng 07 năm 1962 Sa Đéc vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long và
được chia thành bốn quận là Sa Đéc, Lấp Vò, Đức Tôn và Đức Thành, từ đây Long Hưng
thuộc quận Lấp Vò.
Mãi đến ngày 24 tháng 09 năm 1966 Sa Đéc tái chính thức thành lập tỉnh với bốn
quận. Trong đó Sa Đéc thuộc quận Châu Thành, sau đổi thành quận Đức Thịnh.
Sau năm 1975 Long Hưng thuộc huyện Lấp Vò.
Năm 1977, huyện Lấp Vò đổi thành huyện Thạnh Hưng.
Tháng 08 năm 1989, huyện Thạnh Hưng chia thành hai huyện là Thạnh Hưng và Lai
Vung.
Đến tháng 12 năm 1996, huyện Thạnh Hưng lại đổi thành huyện Lấp Vò gồm 13 xã,
trong đó Long Hưng được chia thành hai xã là Long Hưng A và Long Hưng B.
1.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư
Do điều kiện tự nhiên và đất đai thuận lợi nên ngay trong thời kỳ khai hoang lập ấp,
vùng này là một trong những nơi thu hút nhiều lưu dân, dẫn đến việc hình thành nhiều thôn
làng với diện tích lớn, dân cư đông đúc và kinh tế trù phú.
Đến năm 1757 xứ Sa Đéc mới trở thành đạo Đông Khẩu của dinh Long Hồ nhưng trên
thực tế, lưu dân người Việt đã đến vùng này khai phá lập nghiệp từ lâu trong quá trình khai
phá mở cõi phương Nam.
Vùng Sa Đéc vốn đã trù phú, lại trở nên phồn thịnh hơn sau khi có đám di thần nhà
Minh được chúa Nguyễn cho vào định cư ở Biên Hòa và Mỹ Tho vào năm 1679. Rồi từ Mỹ
Tho họ sang vùng đất cũng rất trù phú nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.
Quá trình tập trung dân cư ở vùng Long Hưng được hình thành bởi các nguồn chính
sau:
Thứ nhất là, lưu dân đến từ Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Tín, Quảng Nam và
Quảng Ngãi, chủ yếu bằng đường thủy. Họ dùng ghe bầu vượt biển vào sông Tiền rồi đi sang
khai phá các vùng đất cao ráo ven sông, ven rạch.
Thứ hai là, sự chuyển cư từ hai huyện Phước Long, Tân Bình và từ Mỹ Tho sang.
Thứ ba là, trong thời gian cuộc nội chiến diễn ra, vùng Long Hưng – Sa Đéc là đường
tiến thoái của quân Nguyễn Ánh. Đồng thời cũng là nơi nổ ra nhiều trận chiến, là nơi tàn ẩn
những bệnh binh, lính đào ngũ của cả hai bên. Đây chính là nguồn nhập cư đáng kể
Ngoài ra còn cò nhiều đợt nhập cư khác, có cả giáo dân Thiên chúa từ miền Trung vào
tị nạn khi chúa Nguyễn Phúc Khoát ra chỉ dụ cấm đạo Thiên chúa năm 1750 [46,175].
Chính điều kiện thuận lợi đã thu hút lưu dân từ nhiều vùng đến đây và biến vùng này
thành một trung tâm dân cư đông đúc vào đầu thế kỷ XX, được phân bố như sau:
Làng Long Hưng có 6987 người.
Làng Tân Dương có 4157 người.
Làng Long Hậu có 5712 người.
Làng Long Thắng có 1098 người [51,11-12].
Người Hoa vốn thạo nghề buôn bán, họ đứng ra thu mua các thổ sản, lâm sản, thủy
sản...do lưu dân người Việt đến trước khai thác và sản xuất, góp phần hình thành Nông nại
đại phố trên Cù Lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ Tho đại phố. Nhóm người Hoa ở Mỹ Tho còn
sang Vĩnh Long và Sa Đéc làm ăn, từ đó hình thành một số tụ điểm dân cư quan trọng ở khu
vực Sa Đéc, dọc theo tuyến sông Tiền như Nha Mân (Cái Tàu Hạ), đất Sét (nay thuộc xã Mỹ
An Hưng B), Cái Tàu thượng (nay thuộc xã Mỹ An Hưng A)...và một số trung tâm khác ở
phía sông Hậu như Lấp Vò, Lai Vung.
Nghề nông vẫn là ngành kinh tế chủ yếu. Trong 2 thế kỷ XVII, XVIII thị trường tiêu
thụ cau tươi và cau khô rất lớn và còn xuất khẩu sang Hồng Kông, Singapore, Phôm Pênh do
thương lái người Hoa thu gom.
Đến đầu thế kỷ XIX toàn tỉnh Sa Đéc có 2848 ha trồng cau [51,19], tập trung chủ yếu
ở vùng Long Hưng, nhất là Tân Lộc. Ngoài ra còn xuất hiện nhiều ngành nghề khác như
đóng ghe xuồng (Long Hậu), dệt chiếu (Định Yên, Định An), đươn lờ lọp...
Riêng hai xã Long Hưng A và Long Hưng B kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
1.2. Vùng đất Long Hưng cuối thế kỷ XVIII.
1.2.1. Bối cảnh Nam Kỳ cuối thế kỷ XVIII.
Đồng bằng Sông Cửu Long cũng như cả Nam Bộ, dù là vùng đất mới của người Việt.
Song về mặt lịch sử, đây là địa bàn có người cư ngụ rất sớm, mặc dù chưa biết thời gian
chính xác.
Theo các giáo sĩ và thương nhân từng đi ngang qua đây ghi nhận đã có người cư ngụ
như Fernand Mindez vào năm 1540, Caspard de la Croix vào năm 1552 [6,26].
Đến năm 1562 văn hào Camoens-người Bồ Đào Nha bị đắm thuyền gần Hà Tiên, nhờ
người cứu vớt đưa về Mỹ Tho, nơi có người Bồ Đào Nha lập thương cảng. Trong một ghi
chép, Ông mô tả: “Bờ sông Mê Kông (tức sông Cửu Long) bao phủ vô số rừng rậm và chứa
đầy thú dữ, thỉnh thoảng có vài người đánh cá ven sông” [6,27].
Năm 1620 sau cuộc hôn nhân giữa công nương Ngọc Vạn-con gái chúa Sải Nguyễn
Phước Nguyên với quốc vương Chân Lạp Chêy Chetta II, người Việt có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn để vào sinh sống ở vùng Đồng Nai – Cửu Long.
Năm 1623 Chêy Chetta nhượng cho chúa Nguyễn đất Prey Nokor (Xứ Sài Gòn) lập
trạm thuế nên lưu dân người Việt vào càng nhiều hơn. Mối quan hệ giữa Chêy Chetta và
chúa Nguyễn Phước Nguyên ngày càng chặt chẽ.
Trong hồi ký “Xứ Đàng Trong năm 1621” của Cristophoro Borri, có chép:
Ngoài ra Chúa còn chuẩn bị vũ khí liên tục và mộ binh giúp Vua Campuchia, cung
cấp cho Vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm [50,84].
Con đường thủy duy nhất mà chúa Nguyễn vận chuyển vũ khí, chiến thuyền và quân
binh giúp cho chàng rễ Chêy Chette II là từ cảng nước Mặn (Qui Nhơn) vào sông Tiền qua
Sa Đéc, Phnom Pênh rồi Oudong. Đến giữa thế kỷ XVII, Sa Đéc đã là một trung tâm dân cư
lớn ở châu thổ sông Cửu Long với cảnh chợ búa trên bến dưới thuyền tấp nập.
Vốn là vùng sông nước nên cư dân địa phương dùng tre kết thành bè, trên cất nhà có
gác chứa hàng hóa. Buôn bán theo con nước nổi lên xuống rất tiện lợi nên có tên gọi là Phsar
ădek tức là “chợ nổi”. Lâu ngày người Việt nói trại là Sa Đéc [18,27] và trở thành tên cho cả
vùng.
Mùa Xuân năm 1698 vâng lệnh chúa Nguyễn, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào nam
kinh lược, xác định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mới, lập ra hai dinh Trấn Biên
và Phiên Trấn, gọi chung là Gia Định phủ-trên phần đất từ sông Đồng Nai đến sông Tiền. Sử
cũ ghi rõ: “lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn” [10,12].
Như vậy dinh phiên trấn chỉ có một huyện là Tân Bình nhưng huyện này rất rộng, gồm
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Ninh, Long An, Tiền Giang và cả phần đất phía Bắc
sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.
Trong khi đó Mạc Cửu-người Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) có quan hệ mật
thiết với Trịnh Thành Công ở Đài Loan khoảng năm 1680. Khi thấy công cuộc “Phản Thanh
phục Minh” đi vào chỗ bế tắc, bỏ sang Chân Lạp sinh sống. Ông được triều đình Chân Lạp
phong chức Ốc nha, song thấy nội tình xứ này luôn rối ren do nạn người Xiêm thường hay
cướp phá. Ông xin đến khai thác cửa biển Peam (là Hà Tiên sau này). Nơi đây vốn đã có
nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Ông cho xây thành và lập thêm phố xá, mở
hiệu buôn, sòng bạc...thu hút thương nhân ngày một đông hơn. Ông còn chiêu tập lưu dân
người Việt, người Hoa mở ruộng lập vườn và hình thành được bảy thôn, trong đó Hà Tiên
ngày một phồn thịnh.
Khoảng từ năm 1678 đến năm 1688 bọn cướp biển và quân Xiêm thường cướp bóc Hà
Tiên. Dưới áp lực quân Xiêm, Mạc Cửu phải sang cảng Muang Galapuri (Xiêm).
Một thời gian sau, ông lại trốn về Hà Tiên tiếp tục công việc khai mở. Để có chỗ dựa
vững chắc, năm 1708 Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn và xin nội thuộc, được
Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) chấp thuận và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh
trấn Hà Tiên.
Như vậy cho đến đầu thế kỷ XVIII, chỉ còn vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu là
chưa chính thức thuộc chủ quyền người Việt. Nhưng đến năm 1757 Nguyễn Cư Trinh cho
dời dinh Long Hồ về Tầm Bao (tức Long Hồ thuộc Vĩnh Long ngày nay) và lập 3 đạo Tân
Châu, Châu Đốc và Đông Khẩu. Sự kiện này đánh dấu vùng đất Tầm Phong Long đã thuộc
chủ quyền người Việt.
1.2.2. Thành tựu khai hoang và tình hình kinh tế - xã hội ở Long Hưng.
Thành tựu khai hoang:
Trong gần nửa thế kỷ (1757-1800) vùng Long Hưng có tốc độ khai hoang tương đối
nhanh. Long Hưng trong thời này thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ, đến năm 1802 mới
đổi thành Vĩnh Trấn và năm 1808 trở thành trấn Vĩnh Thanh.
Đến nay chưa có tư liệu về số thôn ấp thành lập được trước năm 1800 nên tạm thời sử
dụng bảng danh mục hành chính của trấn Vĩnh Thanh được Trịnh Hoài Đức lập trong Gia
Định thành thông chí, thuộc huyện Lai Vung và Lấp Vò ngày nay.
Huyện Lai Vung có 12 thôn: Long Hậu, Định Hòa, Đông Thành, Tân Hòa, Nhơn Hòa,
Tân Lộc, Tân Lộc Trung, Phú Lộc, Tân Sơn, Tân Thạnh, Tân Bình.
Huyện Lấp Vò có 13 thôn: Mỹ An, Tòng Sơn, Mỹ Hưng, Tân Mỹ, Bình Thành Tây,
Bình Thành Đông, Tân Đông, Nhơn Qưới, Tân Long, Tân Khánh, Tân Khánh Tây, Tân An
Trung, Định An Phú.
Vào thời điểm này, công tác quản lý hành chính ở Nam Bộ nói chung còn rất lỏng lẻo.
Diện tích khai phá được đưa vào canh tác đều do người dân tùy tiện tự khai báo, không
thông qua đo đạt, kiểm tra nên chúng ta ngày nay không có con số cụ thể để mô tả thành tựu
của công cuộc khai hoang. Hơn nữa, trong khai báo người dân không dùng đơn vị địa chính
(mẫu ta) mà tính bằng dây, bằng khoảnh hoặc thửa nên không thể quy chiếu thành đơn vị đạt
điền để tính diện tích được [32,50]. Dĩ nhiên để trốn thuế, người dân không kê khai đúng sự
thật.
Mặc dù không nắm được diện tích khai phá cụ thể nhưng với con số 25 thôn được
thành lập cho thấy đây là một thành tựu lớn trong cuộc khai hoang. Hơn nữa trong số đó có
một số thôn mà trong cuộc đo đạt địa chính vào năm 1836 đã đạt diện tích vào hàng cao nhất
trong số 1637 thôn ở Nam Bộ lúc bấy giờ, cụ thể như:
Tân Lộc là 4336 mẫu ta, đứng hàng thứ 3.
Tân Long (sau này là Long Hưng) là 4110 mẫu ta, đứng hàng thứ 4.
Long Hậu là 3116 mẫu ta, đứng hàng thứ 14.
Bình Thành Tây là 2261 mẫu ta, đứng hàng thứ 26 [8,255-256].
Đến cuối thế kỷ XVIII lưu dân người Việt đến vùng này cư trú không chỉ dưới hình
thức di dân tự nhiên mà còn diễn ra bằng hình thức chuyển cư tại chỗ và các cuộc di dân cơ
chế có tổ chức với số lượng lớn.
Những lưu dân đầu tiên mạo hiểm vượt biển vào Nam tìm đất sống ở nơi hoang vu
vắng vẻ, chưa có sự kiểm tra của chính quyền thì đất đai khai phá được đương nhiên thuộc
quyền sở hữu của họ. Với số lượng cư dân ít ỏi, họ chỉ có khả năng liên kết lại để khai phá
từng lõm, từng khoảnh ven sông rạch và cùng nhau chống chọi với thú dữ, bệnh tật...dần dần
trở thành xóm ấp đầu tiên.
Trong suốt diễn trình khai hoang lưu dân còn khai thác các nguồn lợi tự nhiên tại chỗ
như cá tôm, chim thú, mật ong, các loại gỗ... Mặc dù với kỹ thuật, trình độ canh tác còn kém,
năng suất thấp nhưng với nguồn lợi thiên nhiên phong phú đã mang lại cho lưu dân cuộc
sống khá hơn nơi quê cũ. Chính điều này là thông tin hấp dẫn đối với thân thuộc của họ còn
ở quê nhà và là một động lực dẫn đến những đợt di dân tiếp theo.
Tình hình kinh tế - xã hội:
Trước năm 1757 việc hình thành quyền sở hữu ruộng đất tư nhân chủ yếu dựa trên khả
năng khai khẩn đất hoang của từng hộ gia đình. Những áp lực xã hội như: bao chiếm, sang
đoạt, cầm cố...dường như chưa hình thành khi mà quyền lực nhà nước phong kiến chưa với
tới vùng đất này hoặc đã hiện diện nhưng còn quá lỏng lẻo.
Sau năm 1757, một mặt do điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đất lành chim đậu. Nay lại
được chúa Nguyễn thiết lập cơ sở hành chính, có pháp luật bảo vệ, vùng này hấp dẫn nhiều
lưu dân hơn. Công cuộc khẩn hoang diễn ra nhanh chóng hơn. Dân biết thâm canh làm thủy
lợi, góp phần làm cho khu vực Lấp Vò, Cái Dầu, Long Hậu, Tân Lộc sau là Tân Thành (Lai
Vung) trở thành trung tâm dân cư quan trọng trải từ sông Tiền đến sông Hậu.
Đồng thời với những cuộc khai phá lẻ tẻ của dân nghèo xiêu tán, Chúa Nguyễn còn
chiêu mộ những nhà giàu có ở các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn đưa gia nhân vào
khai phá.
Bên cạnh đó các Chúa Nguyễn còn sử dụng binh lính, tù phạm và mộ dân khai hoang
lập đồn điền.
Như vậy Long Hưng có một vị trí khá đặc biệt, với hệ thống kênh rạch chằng chịt,
là trung tâm khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu, là nơi nối liền miền Tây và miền Đông
Nam Bộ. Đồng thời điều kiện tự nhiên Long Hưng rất thuận lợi nên từ thời khai hoang lập
ấp, vùng này đã hấp dẫn nhiều lưu dân đến đây sinh sống, dẫn đến việc hình thành nhiều
thôn ấp dân cư đông đúc. Đặc biệt đến cuối thế kỷ XVIII, vùng Long Hưng có tốc độ khai
hoang tương đối nhanh so với các vùng khác ở đồng bằng sông Cửu Long.
Long Hưng có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sau nhiều lần bị Tây Sơn đánh
bại, cuối cùng Nguyễn Ánh đã chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ để đánh lại quân Tây
Sơn. Vậy Nguyễn Ánh đã chọn và xây dựng căn cứ ở Long Hưng như thế nào? Chúng ta sẽ
tiếp tục tìm hiểu ở chương 2 – Nguyễn Ánh đặt căn cứ tại Long Hưng-Sa Đéc.
CHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁNH ĐẶT CĂN CỨ TẠI LONG HƯNG – SA ĐÉC.
2.1. Những thắng lợi của Tây Sơn trong giai đoạn 1773 – 1783.
Mùa thu năm 1773, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đã lên đến vài vạn người và đánh
chiếm được phần lớn phủ Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc với trách nhiệm Đệ nhất trại chủ chỉ huy
hai huyện Bồng Sơn và Phù Ly, cử Nguyễn Tông làm Đệ nhị trại chủ chỉ huy huyện Tuy
Viễn và Huyền Khê làm Đệ tam trại chủ phụ trách quân lương.
Tiếp đó, Nguyễn Nhạc chia quân bao vây thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc
Tuyên và toàn bộ binh lính chạy trốn. Nguyễn Nhạc lại đem quân tiến lên phía Bắc đánh
chiếm các kho thóc ở Kiển Dương và Đạm Thuỷ.
Đốc Trưng Đằng chạy trốn nhưng bị Nhạc đuổi theo giết được, tiếp đó nghĩa quân tiến
ra Quảng Ngãi, Quảng Nam. Đi đến đâu, nghĩa quân đều được nhân dân nhiệt liệt hưởng
ứng. Tập Đình và Lý Tài đem lực lượng của họ đi theo Tây Sơn cũng vào thời gian này.
Nghe tin quân Tây Sơn đánh chiếm Quy Nhơn và đang tràn ra phía Bắc, triều đình
Phú Xuân rất hoảng hốt. Tướng sĩ bấy lâu chỉ lo ăn chơi, nay sắp phải ra trận, ai nấy đều
hoang mang cực độ, tìm cách đút lót quan trên để xin ở lại. Quân lính thì chán nản, không
còn tinh thần chiến đấu, hễ gặp nghĩa quân thì bỏ chạy hoặc đầu hàng.
Trương Phúc Loan vội sai bốn viên tướng là Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách,
Tống Sùng và Đỗ Văn Hoàng đem đại quân vào Quy Nhơn trong khi nghĩa quân đã nhanh
chóng chiếm được Quảng Ngãi và đang tiến ra Quảng Nam.
Khi quận chúa Nguyễn kéo vào đến Bến Ván (Bản Tân – ranh giới Quảng Ngãi và
Quảng Nam), nghĩa quân liền rút về Bến Đá (Thạch Tân, thuộc phủ Thăng Bình, Quảng
Nam) bố trí mai phục. Quân Nguyễn đuổi theo đến Bến Đá thì bị phục binh Tây Sơn đánh
bại. Các tướng Nguyễn đều bị giết, chỉ còn Nguyễn Cửu Sách thu tàn quân chạy trốn. Trận
thắng lớn ở Bến Đá nâng cao thanh thế nghĩa quân và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quật khởi của
các tầng lớp bị trị.
Cuối năm 1773, chúa Nguyễn cử Tôn Thất Hương làm tiết chế nội quân đi đánh Tây
Sơn nhưng quân của Hương đã bị Lý Tài và Tập Đình đặt phục binh ở núi Bích Kê (huyện
Phù Mỹ) đánh cho tan tác, Tôn Thất Hương tử trận. Ở phía Nam, nghĩa quân cũng thừa
thắng đánh chiếm các phủ Diên Khánh, Bình Khang.
Như vậy, chỉ trong vòng một năm, quân Tây Sơn chiến thắng liên tiếp, kiểm soát cả
khu vực rộng lớn từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận; duy chỉ một lần bị quân Nguyễn do
Nguyễn Cửu Dật chỉ huy đánh bất ngờ, quân Tây Sơn bị thua phải rút về phía Nam Chợ Củi
(Sài Thị) [31,172].
Đầu năm 1774, Tôn Thất Thắng được Chúa Nguyễn cử làm đại tướng đi đánh Tây
Sơn. Nhưng Tôn Thất Thắng thấy quân Tây Sơn mạnh quá, rất hoảng sợ, đang đêm bỏ quân
lính chạy trốn một mình. Mùa hạ năm đó, lưu thủ Long Hồ là Tổng Phúc Hiệp huy động
quân lính ở Gia Định tiến đánh nghĩa quân, chiếm lại được ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh
và Bình Khang, sau đó đã chiếm lại cả Phú Yên.
Những biến động ở Đàng Trong được viên trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt báo về
Thăng Long. Vốn nuôi mộng chiếm nốt vùng đất của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh Sâm mừng
rỡ nói:
Họ Nguyễn vốn có thế thù với họ Trịnh. Sở dĩ bấy nay Trịnh phải làm thinh, chẳng
qua chỉ cốt đợi thời. Bây giờ cơ hội đã đến, Trịnh sao lại chịu bó tay ngồi nhìn để họ Nguyễn
ngang nhiên tranh hùng mãi [31,180].
Trịnh Sâm bèn cử Hoàng Ngũ Phúc làm thượng tướng quân đem 3 vạn binh đi trước,
còn tự mình cầm đại quân đi sau, đến đóng ở Hà Trung để ứng viện.
Hoàng Ngũ Phúc tuy xuất thân hoạn quan nhưng là một viên tướng có tài. Ngũ Phúc
đã tham gia đắc lực vào việc đánh bại cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Lần này xuất quân,
Ngũ Phúc lại có những bộ tướng giỏi như Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh.
Hoàng Ngũ Phúc kéo quân vào đất chúa Nguyễn nêu danh nghĩa giúp chúa Nguyễn
đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan và dẹp loạn Tây Sơn, ngoài ra không có ý gì khác.
Quân Chúa Nguyễn phải dồn sức đối phó với Tây Sơn ở mặt Nam, nên lực lượng ở phía Bắc
rất yếu.
Tháng 11 năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh Dinh Trạm và Dinh Cát. Chúa
Nguyễn vội triệu Tôn Thất Nghiễm (bấy giờ đang đánh nhau với quân Tây Sơn) về đối phó
với Hoàng Ngũ Phúc và cử Nguyễn Cửu Dật thay Tôn Thất Nghiễm ở phía Nam.
Hoàng Ngũ Phúc tiến quân đến Bồ Đề (huyện Minh Linh) đưa thư khuyên Chúa Phúc
Thuần đầu hàng. Bị tấn công cả hai mặt, Chúa Nguyễn lâm vào tình thế nguy ngập, sai bắt
trói Trương Phúc Loan đem nộp cho Hoàng Ngũ Phúc và dâng vàng bạc xin bãi binh nhưng
vẫn bố trí lực lượng chống cự.
Bắt được Trương Phúc Loan, quân Trịnh vẫn tiếp tục tiến vào Phú Xuân. Đầu năm
1775 Chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ Phú Xuân, đem gia quyến cùng hơn 100 thân binh
xuống thuyền ra cửa Tư Dung, rồi đổ bộ vượt đèo Hải Vân chạy vào Quảng Nam. Sau đó
Phúc Thuần lại cùng cháu là Nguyễn Ánh vượt biển vào Gia Định. Trước khi đi, Phúc Thuần
phong cho hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung.
Quân Tây Sơn lại khởi thế công, chia hai cánh đánh bại quân của Nguyễn Cửu Dật,
buộc Dật phải chạy về Trà Sơn. Tiếp đó, Nguyễn Nhạc chia ba cánh quân vây bắt Nguyễn
Phúc Dương.
Lại nói về quân Trịnh, bấy giờ đã vượt đèo Hải Vân (3/1775). Quân Tây Sơn do
Nguyễn Nhạc, Tập Đình và Lý Tài chỉ huy đón đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa. Trận chiến đấu
diễn ra quyết liệt nhưng cuối cùng quân Tây Sơn bị tổn thất nhiều, phải rút về Bến Ván để
bảo vệ căn cứ Quy Nhơn và vùng Quảng Ngãi.
Ở phía Nam, tướng của Chúa Nguyễn là Tống Phúc Hiệp sau khi chiếm lại được Phú
Yên cũng tấn công ra. Tình hình quân Tây Sơn bấy giờ rất bất lợi, bị kẹp giữa hai thế lực thù
địch: quân Trịnh ở Bắc và quân Nguyễn ở Nam. Nhằm vượt qua trận thế nguy hiểm, Nguyễn
Nhạc kịp thời thay đổi sách lược, một mặt lo củng cố căn cứ ở miền núi Qui Nhơn, một mặt
tạm thời hoà hoãn với quân Trịnh để tập trung lực lượng tấn công quân Nguyễn.
Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai người đem vàng bạc và một bức thư đến doanh
trại Hoàng Ngũ Phúc “xin hàng”, xin nộp ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên và xin
làm tướng tiên phong đi đánh quân Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc vốn biết lực lượng Tây Sơn
đang bột phát, thường nói với bộ hạ:
Tây Sơn bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh. Ta già mất rồi; còn các tướng, ta e
không phải là tay đối địch với họ được [31,193].
Nhận được thư của Nguyễn Nhạc, Ngũ Phúc biết đây chỉ là kẻ hoãn binh nhưng vì
đang mùa hè, quân Trịnh mệt mỏi lại bị chết dịch nhiều và tinh thần binh sĩ rất hoang mang
nên Ngũ Phúc phải chấp nhận đề nghị của Tây Sơn. Ngũ Phúc bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh
đem ấn, cờ và kiếm phong cho Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn hiệu trưởng tráng tiết tướng
quân”.
Tạm yên mặt Bắc, Nguyễn Nhạc dồn lực lượng tấn công quân Nguyễn ở phía Nam. Bề
ngoài, Nguyễn Nhạc giả vờ liên kết với Tống Phúc Hiệp và lập hoàng tôn Nguyễn Phúc
Dương lên làm vua.
Nguyễn Nhạc sai người mang thư vào Phú Yên ngỏ ý xin hàng Tống Phúc Hiệp. Khi
sứ giả của Phúc Hiệp đến Quy Nhơn để xét hư thực, Nguyễn Nhạc đặt hoàng tôn Dương
ngồi giữa, còn tự mình thì ngồi ở bên tả. Trước mặt sứ giả, Nguyễn Nhạc tuyên bố:
Năm doanh tướng sĩ từ ngàn dặm làm việc cần vương, thật là đã hết lòng trung nghĩa.
Nạn Quốc phó (Trương Phúc Loan) đã trừ xong, chúng ta nên rước Hoàng tôn lên ngôi để
yên nghiệp lớn, đó là cái công muôn đời, phải cùng với các tướng sĩ mưu toan [31,199]
Sứ giả Phúc Hiệp hỏi: “Minh công có lòng tôn phù như vậy, danh nghĩa lừng lẫy, ai
chẳng nghe theo. Nay quân năm doanh đến thì nên đóng ở đâu?”. Nguyễn Nhạc trầm ngâm
một lúc rồi nói: “Việc ấy xin nhờ Điện hạ (Hoàng tôn Dương) xử trí, thế nào chúng tôi cũng
xin tuân theo”. Hoàng tôn Dương nói: “Các ông tuỳ tiện mà làm”. Khi sứ giả về, Nguyễn
Nhạc lại viết thư giảng hoà với Tống Phúc Hiệp; Phúc Hiệp tin là thật nên không chú ý
phòng bị nữa [31,203].
Nguyễn Nhạc nắm ngay sơ hở này, sai Nguyễn Huệ đem đại binh đánh úp Phú Yên.
Đây cũng là chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Huệ, bấy giờ mới 23 tuổi. Chiếm được Phú
Yên, Nguyễn Nhạc cử Lý Tài làm trấn thủ Phú Yên và báo tin cho Hoàng Ngũ Phúc biết và
xin phong chức cho Nguyễn Huệ. Ngũ Phúc bèn phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn hiệu
tiền phong tướng quân.
Bấy giờ quân Trịnh đang mắc bệnh dịch, binh sĩ chết đến quá nữa, Hoàng Ngũ Phúc
phải rút quân về Phú Xuân, dọc đường Ngũ Phúc bị bệnh chết. Quân Trịnh vừa rút thì ở
Quảng Nam, bọn Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân mộ lính đánh lại Tây Sơn. Được sự
giúp đỡ của một phú thương người Hoa tên là Tất, Quyền và Xuân chiếm lại được hai phủ
Thăng Hoa và Điện Bàn (Quảng Nam). Bấy giờ Quảng Nam đang bị nạn đói lớn, quân của
Quyền và Xuân bị thiếu lương lại không được dân ủng hộ, cuối cùng bị quân Tây Sơn đánh
tan. Nguyễn Nhạc giao Quảng Nam cho Nguyễn Văn Duệ đóng giữ rồi rút về Quy Nhơn,
tiếp tục tiến đánh quân chúa Nguyễn ở phía Nam.
Đầu năm 1776 Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thuỷ binh vào đánh Gia Định,
chiếm được thành Gia Định và các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn; chúa Nguyễn Phúc Thuần
phải chạy về Bà Rịa.
Một địa chủ ở Mỹ Tho là Đỗ Thành Nhơn tụ tập dân chúng chừng 3000 người, lập ra
quân Đông Sơn, nêu danh nghĩa phù Nguyễn, chọi lại Tây Sơn. Thấy quân cứu viện của chúa
Nguyễn từ các ngả kéo về Gia Định, Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu của cải, lương thực của họ
Nguyễn rồi rút về Tây Sơn. Quân chúa Nguyễn chiếm lại được Gia Định, nhưng phải bỏ mất
các phủ Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1776 Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn vương, xây lại thành Đồ Bàn (kinh
đô cũ của Champa) và phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính và Nguyễn Lữ làm thiếu phó.
Ngay sau đó Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem quân vào đánh Gia
Định lần thứ hai. Quân Lý Tài bị đánh tan, chúa Phúc Dương chạy về Trà Tân (thuộc Định
Tường) rồi về Ba Vát (thuộc Vĩnh Long), còn chúa Nguyễn Phúc Thuần thì chạy về Long
Xuyên. Nguyễn Huệ đuổi theo bắt giết được cả Phúc Thuần lẫn Phúc Dương, chỉ còn
Nguyễn Ánh (cháu Phúc Thuần) chạy thoát.
Sau khi chiếm Gia Định, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cử các tướng ở lại trấn giữ, rồi
lại rút quân về Quy Nhơn. Nhưng cuối năm ấy Nguyễn Ánh được tầng lớp đại địa chủ ở Gia
Định ủng hộ, khởi binh ở Long Xuyên rồi kéo về đánh Sa Đéc, chiếm lại thành Gia Định.
Tháng 11 năm 1777 khi nghe tin đại quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh từ
Thổ Châu về Cà Mau khởi binh. Tháng 01 năm 1778 Nguyễn Ánh được các tướng suy tôn
làm Đại Nguyên súy Nhiếp quốc chính.
Khoảng một tháng sau thì quân Tây Sơn lại kéo vào, Nguyễn Ánh giao Sài Gòn cho
Đỗ Thanh Nhân trấn giữ, còn mình trực tiếp làm tướng trông coi mặt trận Bến Lức. Đỗ
Thanh Nhân giết được tư khấu Uy ở sông Bến Nghé. Thủy quân Tây Sơn thì bị Lê Văn
Duyệt phá, Lê Văn Quân đánh chiếm được Bình Thuận [32,30].
Lợi dụng những tháng còn lại của năm 1778 và hai năm 1779 và 1780 Tây Sơn ngừng
tấn công Gia Định, Nguyễn Ánh lo củng cố lực lượng: tích trữ lương thực, mua sắm chiến
thuyền, binh khí, ổn định tổ chức hành chính...
Đầu năm 1780 thấy không còn gì trở ngại nữa, Nguyễn Ánh xưng vương, nhưng vẫn
theo niên hiệu nhà Lê, ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa chi bảo” đúc từ thời Quốc chúa
Nguyễn Phước Chu, nay chỉ dùng làm ấn truyền ngôi. Đất đai thuộc quyền quản lí của
Nguyễn Ánh lúc bấy giờ ngoài Gia Định còn cả khu vực Phú Yên, Bình Khang và Bình
Thuận. Trong thời gian này, một mặt lo ổn định tình hình kinh tế - xã hội chuẩn bị đương
đầu với Tây Sơn, mặt khác Nguyễn Ánh còn phải đối phó với một số vấn đề nội bộ và Chân
Lạp.
Nguyễn Ánh dự tính mùa hè năm 1781 đưa quân đánh úp Tây Sơn. Nhưng phát hiện
Đỗ Thanh Nhân âm mưu làm phản. Nguyễn Ánh cho người giết chết và chia quân Đông Sơn
của Nhân ra làm bốn đạo để trừ hậu họa.
Cũng từ đó quân Đông Sơn tan rã và binh lực của Nguyễn Ánh cũng suy yếu hẳn.
Nhân cơ hội đó Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ tiến đánh Gia Định lần thứ ba năm
1782. Mấy trăm chiến thuyền Tây Sơn vào cửa Cần Giờ đánh tan quân Nguyễn Ánh ở ngã
bảy. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng, thành Gia Định lại trở về với Tây Sơn.
Tháng 5 năm 1782 đại quân của Nguyễn Huệ truy đuổi Nguyễn Ánh, Nguyễn Ánh
phải thoát chạy ra đảo Phú Quốc. Yên tâm là lực lượng Nguyễn Ánh không còn gì, nên đại
quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn giao Gia Định cho hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và
Hộ Bộ Bá cai quản với 3000 quân [32,41-42].
Tháng 06 năm 1782 tàn quân Nguyễn Ánh quy tụ quân, đánh chiếm được Long Hồ
(thuộc tỉnh Vĩnh Long), rồi tiến về Bến Lức làm cho Nhàn Trập dao động, cùng Hộ Bộ Bá
phải chạy về Qui Nhơn.
Thế là Nguyễn Ánh lại làm chủ Gia Định một lần nữa nhưng lần này không lâu vì lực
lượng bị tiêu hao gần hết, tướng tá còn lại không mấy người, làm sao đương đầu nổi với Tây
Sơn – một thế lực đang đảm đương sứ mạng lịch sử.
Tình trạng của Nguyễn Ánh ngày một bi thảm, dù lấy được Gia Định nhưng không đủ
binh lực bảo vệ, tính kế lâu dài.
Trước mắt Nguyễn Ánh không tính đến việc chạy qua Chân Lạp, vì chiến tranh và đói
kém đã tàn phá xứ này. Phải tính tới chuyện chạy ra các hải đảo ở vịnh Xiêm La (Thái Lan)
và Bá Đa Lộc được ủy thác sửa soạn tàu bè, lương thực đề phòng lúc phải ra đi [44,113-
114].
Năm 1783 Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại đem quân vào đánh Gia Định lần thứ tư.
Quân Chu Văn Tiếp tan vỡ, Nguyễn Ánh lại chạy về Ba Giồng rồi ra đảo Côn Lôn. Phò mã
Tây Sơn là Trương Văn Đa đem thuỷ binh đuổi theo, Nguyễn Ánh lại chạy ra Phú Quốc.
Nguyễn Huệ cử Trương Văn Đa giữ Gia Định rồi lại mang quân về Quy Nhơn.
2.2. Nguyễn Ánh bôn tẩu và sang Xiêm cầu viện (1783 – 1787).
. Cầu viện lần thứ nhất (1783-1784):
Nguyễn Ánh cùng gia quyến và một ít tàn quân vượt sông Lật Giang (Bến Lức) chạy
về Mỹ Tho rồi ra Phú Quốc [31,48].
Thất bại liên tiếp làm cho một số tướng sĩ nản lòng, sanh tâm làm phản, nơi trú ẩn của
Nguyễn Ánh bại lộ. Thống suất Tây Sơn Phan Tấn Thuận mang quân tới vây đánh. Cầm
chắc cái chết trong tay, may nhờ Cai cơ Lê Phước Điền “đóng vai Lê Lai cứu Chúa”-
Nguyễn Ánh mới thoát và trốn về đảo Cổ Long [31,49].
Quyết tâm tiêu diệt quân Chúa Nguyễn, tháng 7 năm 1783 Nguyễn Huệ sai Trương
Văn Đa mang quân bao vây đảo Cổ Long không cho Nguyễn Ánh thoát. Trước tình thế đó,
bỗng có một trận giông bão nổi lên làm chiến thuyền của Tây Sơn tan vỡ. Nhờ đó Nguyễn
Ánh trốn thoát về đảo Cô Cốt, rồi trở về Phú Quốc trong tình trạng vô cùng thảm hại. Lương
thực không còn, đến nổi binh sĩ phải hái lá rừng, đào củ dại mà ăn [32,50].
Không tiêu diệt được Nguyễn Ánh, song Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vẫn kéo quân về
Qui Nhơn và giao Gia Định cho Trương Văn Đa. Trương Văn Đa chia quân đóng khắp nơi
canh giữ, nhất là thủy quân luôn tuần tra ở các cửa sông, vùng ven biển.
Nguyễn Huệ rút đi, Nguyễn Ánh và quân tướng tiếp tục hoạt động trở lại, cho người
về Cà Mau chiêu mộ binh sĩ, kích động quân tướng cũ, lập đồn lũy chờ cơ hội hoạt động.
Cuối năm 1783 quân Nguyễn Ánh ở Gia Định bắt đầu hoạt động mạnh. Hồ Văn Lân
đánh Tân Châu, Cần Thơ nhưng Trương Văn Đa không để cho họ tồn tại lâu. Đến tháng 01
năm 1784 Nguyễn Ánh không còn chỗ dựa ở Gia Định, đành chạy sang Xiêm ẩn náo và nhờ
viện binh.
Từ lâu người Xiêm có tham vọng bành trướng sang Đông, nhân cơ hội này, họ mượn
cớ giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn và cướp phá Gia Định.
Tuy nhiên, giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, Xiêm phải chọn bên nào có lợi cho mình và
chọn lựa này còn tùy thuộc vào tình hình Chân Lạp. Dĩ nhiên là họ chọn Nguyễn Ánh
[31,53], Vua Xiêm liền sai hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương sang giúp nhưng bị Tây
Sơn đánh bại bằng trận Rạch Gầm-Xoài Mút.
Còn Nguyễn Ánh sau khi quân Xiêm thất bại, ông chạy sang Trấn Giang (Cần Thơ),
chuẩn bị trốn ra các đảo trong vịnh Xiêm La, rồi chạy ra Thổ Châu nhưng bị Tây Sơn truy
đuổi nên cuối cùng phải chạy sang đảo Cổ Cốt [45,27].
Đến tháng 03 năm 1785, Nguyễn Ánh sang Xiêm riếp tục cuộc đời lưu vong lần hai.
. Cầu viện lần thứ hai (1785-1787):
Trong khi giao hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin sang Pháp cầu viện, tháng 4
năm 1785 Nguyễn Ánh đến Vọng Các và được vua Xiêm cho đóng ở Long Khâu thuộc khu
vực ngoại thành Vọng Các (về sau mang tên là làng Gia Long).
Ở đây Nguyễn Ánh một mặt thu thập, gom góp tàn quân từ trong nước kéo sang; mặt
khác Nguyễn Ánh chia quân đi làm ruộng để nuôi quân và trích trữ lương thực, chờ cơ hội
trở về, đồng thời thường xuyên cho người về nước chiêu mộ người xây dựng cơ sở bí mật, ra
các hải đảo đóng chiến thuyền [32,60].
Tháng 2 năm 1786 Miến Điện xâm chiếm Xiêm, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân và
Nguyễn Văn Thành tiếp giúp Xiêm, quân Miến Điện bị thua to. Để cảm tạ công lao đó, vua
Xiêm có ý giúp Nguyễn Ánh khôi phục Gia Định lần nữa.
Sau đó quân Chà Và (Java) lại đánh Xiêm, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Quân đi giúp cũng
thắng trận. Nhờ vậy thế lực của Nguyễn Ánh ở Xiêm không bị xem thường. Nhân cơ hội đó,
Nguyễn Ánh chia quân đến Giang Khảm (một địa điểm gần Vọng Các) lo việc đóng chiến
thuyền.
Trong khi đó vào năm 1786 Bá Đa Lộc cùng Hoàng tử Cảnh và 43 người trong đoàn
cầu viện đến Versailles (Vecxay, Pháp) và hơn một năm sau thỏa ước Versailles mới được kí
kết vào ngày 28 tháng 11 năm 1787 giữa một bên là hầu tước Montmorin đại diện Vua Louis
(Lui 16) và một bên là Bá Đa Lộc, đại diện Nguyễn Ánh.
Thỏa ước gồm 14 điều khoản với nội dung phần lớn giống như tờ ủy quyền của
Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc ngày 18 năm 8 năm 1782.
Đến cuối 1782 Bá Đa Lộc và cả đoàn rời Pháp, lúc bấy giờ nội bộ nước Pháp có nhiều
mâu thuẫn nên Pháp không thi hành hiệp ước. Không còn cách nào khác, Bá Đa Lộc phải
dùng uy tín cá nhân vận động các nhà tư bản ở Pondichery và Ile de France giúp Nguyễn
Ánh.
Ngày 28 tháng 7 năm 1789 đoàn cầu viện của Bá Đa Lộc cập bến Vũng Tàu với
khoảng 10 tàu Bồ Đào Nha và một tàu Pháp, tất cả là tàu buôn nhưng võ trang đầy đủ khí
giới quân dụng, có 140 sĩ quan, 80 binh lính người Pháp, Anh....
Như vậy Nguyễn Ánh sau nhiều lần bị Tây Sơn đánh bật khỏi Gia Định nhưng với
quyết tâm khôi phục Gia Định, Nguyễn Ánh đã sang Xiêm cầu viện nhưng cũng không giành
được thắng lợi. Trước tình hình đó, đến năm 1787 Nguyễn Ánh quyết định về nước và chọn
Long Hưng làm căn cứ.
Vì sao Nguyễn Ánh quyết định về nước trong thời gian này và chọn Long Hưng làm
căn cứ? Chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần 2.3. Nguyễn Ánh chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ.
2.3. Nguyễn Ánh chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ.
2.3.1. Những yếu tố tác động đến quyết định về nước của Nguyễn Ánh.
Sau khi quét sạch quân Xiêm ra khỏi đất Gia Định, quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn,
Nguyễn Huệ giao Gia Định cho đô úy Đặng Văn Trấn cùng Thái bảo Phạm Văn Tham dưới
quyền chỉ huy của Đông Định Vương Nguyễn Lữ.
Để đề phòng quân Nguyễn Ánh bất ngờ tấn công Gia Định, năm 1786 Đặng Văn Trấn
cho dời doanh trại lên vùng đất cao ở Cầu Sơn, cách phía Bắc trấn 7 dặm.
Trước đây quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân và quân Nguyễn Ánh thường tập trung
ở Ba Giồng, bất ngờ tấn công các đồn trại Tây Sơn trong khu vực, có khi tận Gia Định và
nhiều lần Nguyễn Ánh trốn thoát cũng nhờ đất Ba Giồng.
Đến năm 1785 Đô úy trấn cho đào một con kinh nối liền Rạch Chanh ở phía Đông với
đầu nguồn sông Ba Rài ở phía Tây. Con kinh này chẳng những nối liền Rạch Chanh với sông
Ba Rài, cắt đôi đất Ba Giồng mà nó còn là con đường giao lưu bằng đường thủy vô cùng
quan trọng giữa sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Trong Gia Định thành thông chí gọi là
“Rạch Mới sông Tranh” [10,60].
Đó là điều kiện thuận lợi cho lực lượng của Nguyễn Ánh hoạt động như Dương Công
Trừng, Nguyễn Văn Nhân, Tống Văn Khương nhân ban đêm cướp đồn Tây Sơn ở Cà Mau;
Lê Công Tấn, Phạm Điền ở Gia Định mưu đánh úp Bến Nghé.
Ở Biên Hòa, Nguyễn Văn Nghĩa và Nguyễn Văn Tuyết mộ quân nổi lên đến ngày
Nguyễn Ánh trở về nước.
Trong khi lực lượng Tây Sơn ở Gia Định lúc này rất mỏng, thậm chí có nơi không giữ
nỗi các trấn, thì ở các xóm làng xa xôi hẻo lánh, nơi rừng sâu...làm sao kiểm soát được
[45,31].
Vào đầu năm 1786, vua Xiêm muốn viện quân cho Nguyễn Ánh khôi phục Gia Định
một lần nữa nhưng Nguyễn Ánh đã từ chối.
Tháng 3 năm 1786, Nguyễn Ánh sai Tổng nhân cai cơ Hoàng Tiến Cảnh, Nguyễn Văn
Nhân, Võ Di Nguy...đem quân về núi Giang Khảm đóng thuyền.
Đến cuối năm 1786, Nguyễn Ánh sai Cai Cơ Phạm Văn Châu và Nguyễn Văn Đình về
Hà Tiên chiêu mộ lực lượng với ý đồ nếu có cơ hội là quay về chiếm lại Gia Định [45,31].
Hơn nữa, Nguyễn Ánh nhận thấy tình hình sẽ bất lợi nếu ông tiếp tục sống lưu vong
lâu ở Xiêm vì mối quan hệ giữa Xiêm và Tây Sơn ngày càng được cải thiện tốt hơn. Người
Xiêm vốn sợ Tây Sơn, nếu Tây Sơn nhường cho họ một ít quyền lợi, chắc họ sẵn sàng bắt
Nguyễn Ánh nộp cho Tây Sơn [30,212].
Tháng 02 năm 1786 giám quân Tống Phước Đạm sang báo tin với Nguyễn Ánh rằng
anh em Tây Sơn đang đánh nhau quyết liệt ở Qui Nhơn. Nguyễn Huệ mang đại quân từ Bắc
vào bao vây Hoàng đế thành; Đô úy Đặng Văn Trấn phải mang quân từ Gia Định ra cứu Qui
Nhơn.
Nguyễn Ánh thấy thời cơ đã đến và quyết định về nước, từ đó mọi việc được tiến hành
khẩn trương ở Vọng Các, Hòn Tre, Cổ Cốt, Cà Mau, Hà Tiên, Sa Đéc...chuẩn bị cho công
cuộc quay về.
Ngoài những nguyên nhân trên còn một nguyên nhân nữa khiến Nguyễn Ánh cho rằng
thời cơ đã đến, đó là việc phản bội Tây Sơn của Nguyễn Đằng Vân.
Nguyễn Đằng Vân giỏi võ nghệ, theo Nguyễn Huệ từ nhỏ và được nhận làm con nuôi.
Năm 1785, lúc quân Tây Sơn truy nã Nguyễn Ánh ẩn trốn ở các hải đảo, Nguyễn Đằng Vân
thường giả bệnh để từ chối hành quân. Đến khi Nguyễn Ánh sang Vọng Các, Nguyễn Đằng
Vân không theo quân Tây Sơn rút về mà ẩn mình trên đảo, đến năm 1787 Nguyễn Đằng Vân
sang Vọng Các đầu hàng.
Từ những nguyên nhân trên đã khiến Nguyễn Ánh quyết định về nước, sau khi bố trí
một lực lượng lớn ở lại Vọng Các. Tối ngày 13 tháng 8 năm 1787 Nguyễn Ánh cùng gia
quyến và quân tướng lẻn xuống bến Bắc Môn ra đi. Sáng ra, vua Xiêm hay tin cho quân đuổi
theo nhưng không kịp [45,33].
Nguyễn Ánh về đóng quân ở Hòn Tre, rồi qua Cổ Cốt. Tại đây Hà Hỷ Văn và Châu
Viễn Quyền xin quy thuận.
Sau đó để gia quyến ở Phú Quốc, Nguyễn Ánh vào Cà Mau. Chưởng cơ Tây Sơn
Nguyễn Văn Trương phụ trách vùng này sai thuộc hạ là Hoàng Văn Điểm mang 300 binh và
15 chiến thuyền ra hàng [44,117].
Thổ hào Nguyễn Văn Tuyết và Nguyễn Văn Nghĩa nổi lên chống Tây Sơn ở Biên Hòa
cũng kéo quân đến quy thuận. Nguyễn Ánh làm chủ toàn miền Hậu Giang sau trận Trà Ôn
do Chưởng cơ mới quy thuận Nguyễn Văn Trương chỉ huy.
Lực lượng Nguyễn Ánh lớn lên thấy rõ, phấn khởi trước thực tế đó. Nguyễn Ánh
mang quân đi Cần Giờ để kích động lòng người chống Tây Sơn.
Được tin quân Nguyễn Ánh nhập Gia Định, Đông Định Vương Nguyễn Lữ phải tự
mình xoay trở. Ông rút về Lạng Phụ (tức Gò Lượng, thuộc Biên Hòa) đắp thành đất để ở và
giao Gia Định cho Thái bảo Phạm Văn Tham chống đỡ. Quân Tây Sơn chống cự nên
Nguyễn Ánh không hạ được thành.
Trên đường rút về Hổ Châu (còn gọi là Bãi Hổ hay Hổ cứ thuộc Sa Đéc) [44,146].
Quân Nguyễn Ánh đánh chiếm các đồn lũy dọc đường, quân Tây Sơn là Nguyễn Kế Nhuận
mang quân ra hàng với 70 chiếc thuyền.
Khi đến Ba Lai, Ngự Úy Tây Sơn Nguyễn Văn Đồn dàn quân trên sông ngăn lại
[44,147]. Quân Nguyễn Ánh do Lê Văn Quân và Hồ Văn Lân dùng thế hai mặt giáp công,
công phá và đánh tan được quân Tây Sơn.
Trên đà thắng lợi, Nguyễn Ánh tiếp tục mang quân tấn công Mỹ Tho nhưng bị Phạm
Văn Tham đánh tan, bắt được hàng tướng Nguyễn Đằng Vân. Nguyễn Ánh chạy về đến Bãi
Hổ thu gom được khoảng 300 quân và hơn 20 chiến thuyền, còn Hà Hỷ Văn chạy ra Côn
Đảo không dám vào nữa.
Dù thắng trận nhưng Phạm Văn Tham rơi vào tình thế nguy khốn:
+ Một mặt không có viện binh;
+ Mặt khác, mặt trận lại càng mở rộng do thế lực của Nguyễn Ánh tuy không mạnh,
song có mặt ở khắp nơi.
Vào tháng 10 năm 1787, Hồ Văn Lân đánh Lương Phú, đuổi Đô Đốc Nguyễn Văn
Mâm chạy về cố thủ ở Định Tường, bỏ Chưởng Cơ Chân và Hữu Hiệu Huấn ở lại. Hai người
ra hàng quân Nguyễn Ánh và trở thành tiên phong cho Nguyễn Ánh. Tiếp theo Nguyễn Văn
Trương làm tập hậu đánh Chưởng Cơ Trì ở sông Mỹ Lung (Mỹ Lương, Cái Bè) [45,33],
Chưởng Cơ Trì bỏ chạy và quân lính đầu hàng.
Phạm Văn Tham định đánh lấy lại Mỹ Lương nhưng Nguyễn Ánh đã mang quân đến
hỗ trợ, Phạm Văn Tham đành rút ra Ba Lai.
Tại đây, Phạm Văn Tham được Nguyễn Huệ sai Thái úy Phạm Văn Hưng mang 30
thuyền vào cứu viện, làm cho quân tướng Nguyễn Ánh lo lắng và dao động. Nguyễn Ánh
phải trấn an các tướng sĩ bằng cách đưa ra lập luận – quân của Phạm Văn Hưng tuy đông
nhưng chỉ vào lấy lương thực rồi về.
Quả thật, không bao lâu sau Phạm Văn Hưng rút về thật [31,69-70]. Vì thế Phạm Văn
Tham lại rơi vào thế cô lập, phải rút về Mỹ Tho, sau đó lại rời Mỹ Tho về cố thủ ở Gia Định.
Đến tháng 10 năm 1787 lực lượng Nguyễn Ánh đã làm chủ phía Nam sông Tiền
(khoảng gần phân nữa đất Gia Định). Thêm vào đó là, lúc này nội bộ Tây Sơn đang xảy ra
mâu thuẫn trầm trọng, Nguyễn Huệ đang bận đối phó với vấn đề ở Bắc Hà, ít có khả năng
vào chiếm lại đất Gia Định trong một thời gian gần có thể.
Những điều trên cho thấy, mọi diễn biến đều rất thuận lợi cho Nguyễn Ánh. Song ông
chỉ ngại một điều, đó là sự bất ngờ hành quân thần tốc của Nguyễn Huệ.
Vào cả 4 lần trước đó như năm 1777, 1782, 1783 và 1785, hễ Nguyễn Huệ vào là ông
đều bị đánh bật ra khỏi Gia Định. Vì vậy, để tránh tình trạng cũ có thể xảy ra, Nguyễn Ánh
cho quân về lập căn cứ ở vùng Nước Xoáy (Hồi Oa) thuộc thôn Tân Long (về sau gọi là
Long Hưng), thuộc huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh [45,34].
2.3.2. Những yếu tố khiến Nguyễn Ánh lấy vùng Tân Long (Long Hưng) - Sa Đéc làm căn cứ.
Vùng Nước Xoáy – Tân Long nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, gần Sa Đéc. Là điểm
tựa tiến sang Ba Giồng, qua Bến Lức áp sát Sài Gòn, đồng thời là đầu cầu rút xuống Cà Mau,
Kiên Giang ra Phú Quốc, Côn Đảo...vốn con đường tiến thoái quen thuộc của Nguyễn Ánh
suốt hơn mười năm qua. Với mạng lưới sông rạch chằng chịt, nếu tận dụng các lợi thế đó thì
có thể biến vùng này thành một căn cứ vững chắc.
Sa Đéc vào lúc này là một trung tâm thương mại sầm uất ở đồng bằng sông Cửu Long
mới vừa khai phá, nơi đây có thể cung cấp cho Nguyễn Ánh nhiều thứ cần thiết cho chiến
tranh do thương nhân nước ngoài mang đến, chủ yếu là người Hoa.
Đây còn là vùng được khai phá sớm, dân cư đông đúc, có nhiều lúa gạo, tôm cá. Con
người cũng có cuộc sống thuận lợi hơn so với nhiều nơi khác.
Ngoài ra, còn một yếu tố khác được Nguyễn Ánh đặc biệt chú ý đó chính là con người.
Đối với họ, Tây Sơn là kẻ xoán đoạt; còn Nguyễn Ánh là con cháu của các Chúa Nguyễn –
là những người có công rất lớn trong việc khai phá đất phương Nam, giúp họ tạo dựng được
cuộc sống sung túc như thế; mặc dù họ cũng thấy rõ chiến công hiển hách của Nguyễn Huệ -
Quang Trung trong việc đánh tan mấy vạn quân Xiêm. Đồng thời cũng thấy được lỗi lầm của
Nguyễn Ánh là cầu cứu quân Xiêm.
Mặc dù như vậy, nhưng Tây Sơn đã làm được gì cho Nam Bộ, ngoài những thuyền lúa
gạo tấp nập chở về Qui Nhơn sau mỗi lần đẩy lùi Nguyễn Ánh ra khỏi vùng đất trù phú này?
Đó chính là câu hỏi lớn, làm người dân phải boăn khoăn suy nghĩ.
Điều đó cho chúng ta thấy, không gì khó hiểu khi có nhiều nhà điền chủ, kể cả nông
dân đứng ra ủng hộ Nguyễn Ánh. Còn ý kiến cho rằng, động thái đó chính là biểu hiện của
sự cấu kết giữa Nguyễn Ánh và giới điền chủ để hình thành thế lực phong kiến, thì ý kiến
này cần được nghiên cứu và lý giải sâu hơn.
Trước và sau khi về đóng quân ở nước Xoáy, vùng này còn là nguồn bổ sung nhân lực
dồi dào cho Nguyễn Ánh. Có hàng loạt tướng tài một dạ trung kiên với Nguyễn Ánh như:
- Tống Phước Thiêm: gốc người Tống Sơn (Thanh Hóa) vào cư ngụ ở Vĩnh An
(vùng Sa Đéc), làm quan đến chức Chưởng Cơ dưới triều chúa Định Vương
Nguyễn Phước Thuần (1765 – 1777), bị Tây Sơn đánh bại và suýt chết nhiều lần
nhưng vẫn một lòng theo Nguyễn Ánh.
- Nguyễn Văn Nhơn (1753 – 1822): người thôn Tân Đông, huyện Vĩnh An (vùng Sa
Đéc), theo chúa Nguyễn Phước Thuần từ năm 1774, sau tiếp tục theo Nguyễn Ánh,
làm quan đến chức Tổng trấn Gia Định thành.
- Nguyễn Văn Tuyên (1762 – 1830): người huyện Vĩnh An (vùng Sa Đéc), theo
Nguyễn Ánh từ năm 1788, chức vụ cao nhất Tống trấn Gia Định thành.
- Nguyễn Văn Trọng: người Nha mân, theo Nguyễn Ánh từ năm 1787, năm 1798
được thăng chức Chánh Vệ Lương Vũ doanh tiên phong, năm 1880 tử trận ở Qui
Nhơn.
- Nguyễn Văn Nhàn: người Sa Đéc, đầu quân dưới thời chúa Nguyễn Phước Thuần,
tiếp tục theo Nguyễn Ánh, có lúc lưu vong sang Xiêm, lập được nhiều công, khi
qua đời được truy phong Chưởng Cơ.
- Hoàng Phước Bửu: người Sa Đéc, gốc Thừa Thiên, theo Nguyễn Ánh rất sớm,
được phong chức Vệ Úy, cùng lưu vong sang Xiêm. Sau bị tử trận ở Qui Nhơn,
được truy phong Chưởng Cơ.
- Nguyễn Văn Bế: quê ở Sa Đéc, theo Nguyễn Ánh lưu vong sang Xiêm, phụ trách
ngoại giao, được phong Tổng nhung cai cơ.
- Nguyễn Văn Yến: quê ở Nha Mân, theo Nguyễn Ánh từ ngay buổi đầu, được
phong chức Lượng võ vệ Vệ úy, tử trận ở Qui Nhơn.
- Nguyễn Văn Định: người ở Nha Mân, theo Nguyễn Ánh rất sớm, cùng lưu vong
sang Xiêm, được phong Cai cơ, tử trận ở Đà Nẵng, được truy phong Chưởng cơ.
- Đặc biệt là Nguyễn Văn Mậu (Bỏ Hậu), quê ở Tân Long (Long Hưng – Sa Đéc)
tuy không phải là văn thần, võ tướng nhưng đùm bọc và giúp đỡ lương thực cho
Nguyễn Ánh từ trong những ngày đầu mới về Nước Xoáy và được Nguyễn Ánh coi
như người đỡ đầu (cha nuôi).....
2.3.3. Nguyễn Ánh lập căn cứ ở vùng Long Hưng – Sa Đéc.
Trong Đại Nam Thực Lục có ghi Nguyễn Ánh về đồn trú ở Hồi Oa (Nước Xoáy) vào
tháng 10 năm 1787. Nhưng với qui mô bề thế của một hệ thống đồn bảo, tháp canh, cản đá,
hầm hào, kể cả xưởng đúc rèn binh khí, xưởng đút tiền...trên một khu vực rộng lớn trải dài từ
sông Tiền đến sông Hậu, từ sông Hội An đến vùng hậu bối (sau lưng) Sa Đéc thì không thể
xây dựng trong một sớm một chiều mà thành được.
Cụ thể như việc đắp những cản đá trên các cửa sông rạch (dân gian gọi di tích này là
Đá Hàn) thì phải cho người đến núi Sam (Châu Đốc) lấy đá chở về và phải mất khá nhiều
thời gian.
Mặc dù không còn tư liệu liên quan, song chúng ta có thể suy đoán rằng, Nguyễn Ánh
đã lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của Đông Định Vương Nguyễn Lữ vì không đủ lực lượng và
khả năng.
Lúc còn lưu vong ở Vọng Các, Nguyễn Ánh đã cho người lẻn về qui tụ dân địa
phương lén lút xây dựng. Ngay khi Nguyễn Ánh về trú đóng, hệ thống đồn bảo ở đây đã phát
huy tác dụng. Bằng chứng là khi Nguyễn Ánh về, quân Tây Sơn kéo đến bao vây đánh phá
nhưng không phá nỗi đồn Nước Xoáy.
Căn cứ vào một số dấu vết còn sót lại hiện nay, chúng ta có thể chia khu căn cứ này
thành hai bộ phận:
- Khu trung tâm: gồm đồn Nước Xoáy bên bờ rạch Nước Xoáy, nền đồn
được đắp cao, nước không ngập, rộng khoảng 10.000 mét vuông, chung quanh có
thành đất và hào sâu.
- Để bảo vệ đồn chính, hai bên có đồn tả do Hoàng Văn Khánh và Tổng
Phước Ngoạn; đồn hữu do Nguyễn Văn Trương và Tô Văn Đoài trấn giữ. Hai đồn
này, chung quanh có thành đất, hướng ra sông Tiền. Trên một chi lưu của rạch
Nước Xoáy có xây dựng một hệ thống bờ cản bằng đất và một số tiền đồn cùng
trạm canh.
Về sau, con rạch đó có tên là con rạch Bờ Rào. Ngoài ra còn có một xưởng rèn, đúc
binh khí ở thôn Tân Mỹ (dấu tích là con rạch mang tên là Rạch Xưởng) và một số đồn, trạm
canh (ở Tân An Trung, nay còn có địa danh là Thủ củ).
Khu ngoại vi:
+ Ở phía tây:
Thuộc lưu vực của các sông rạch: Lấp Vò, Hội An Giang (sông Cường Thành), Mỹ
An, Mỹ Hưng, Thủ Ô, một phần sông Sa Đéc ăn thông với rạch Nước Xoáy. Ở mỗi vàm
rạch, vàm sông đều có đồn hoặc tháp canh, lớn nhất là đồn Hội An và đồn Cường Thành
(Lấp Vò).
Để gây trở ngại cho thuyền Tây Sơn tấn công, di chuyển trong vùng căn cứ, Nguyễn
Ánh cho binh lính lấy đá từ núi Sam (Châu Đốc) hàn bít một số cửa sông, vàm rạch. Trên
một con rạch ăn thông với rạch Lấp Vò có thiết lập một sở đúc tiền nên về sau rạch này
mang tên là Trường Tiền.
+ Ở phía Nam:
Thuộc lưu vực của rạch Lai Vung, Long Hậu và các chi lưu của chúng. Để bảo vệ đồn
trung tâm ở Nước Xoáy và bảo đảm cho đường rút lui khi cần Nguyễn Ánh cho binh lính xây
đắp hai cái bảo lớn:
Một là Bảo Tiền, nay còn di tích nằm cách bờ rạch Cái Bàng khoảng 250 mét, ở ấp
Long Định, xã Long Thắng.
Bảo Tiền rộng khoảng gần một hecta, được đắp cao hơn mặt đất tự nhiên gần một mét,
chung quanh có hào sâu; phía ngoài có tường thành bằng đất cao gần 4 mét, vuông vức mỗi
cạnh 150 mét. Bốn gốc thành có bố trí bốn ụ súng đại bác. Từ rạch Cái Bàng dẫn vào Bảo
Tiền bằng một con kinh tại vàm kinh có một đồn canh, gọi là đồn Thổ Sơn.
Cách đồn Thổ Sơn khoảng 100 mét có thành lập một trường bắn (nay thuộc đất của
ông Văn Đăng Điệu). Hàng ngày binh lính ở Bảo Tiền ra đây luyện tập (đến nay, khi cày
ruộng hoặc đào mương, thỉnh thoảng nông dân phát hiện những viên đạn chì tròn cở viên đạn
bắn “cu ly” của trẻ con).
Hai là Bảo Hậu, hiện nay thuộc ấp Định Phong, xã Định Hòa (trên đất của ông Lâm
Văn Đẹt).
Rạch Cái Bàng chảy đến Ngã Năm ăn thông với Rạch Gỗ, rạch này đổ nước vào sông
Hậu tại vàm Cả Sâu.
Bảo Hậu nằm cách bờ rạch này chừng 80 mét, cách vàm Cả Sâu 7 km.
Quy mô Bảo Hậu nhỏ hơn Bảo Tiền, rộng gần 1000 mét vuông, cũng được đắp cao
hơn mặt đất tự nhiên gần một mét. Chung quanh có hào sâu, mỗi cạnh dài 60 mét, cách hào
khoảng 20 mét là tường thành cao khoảng hai mét, trên có trồng sao, tre. Từ rạch Gỗ có con
kinh dẫn vào bảo (hiện nay đã lấp cạn).
Giữa Bảo Tiền và Bảo Hậu liên lạc nhau ở mặt trước, Bảo Hậu bảo vệ mặt sau. Nhưng
căn cứ trên thực địa, điều này e rằng chưa chính xác, vì cả hai Bảo Tiền và Bảo Hậu đều nằm
ở mặt sau của đồn trung tâm ở Nước Xoáy. Nhìn toàn diện hệ thống đồn Bảo trong khu vực,
ta thấy cách bố trí bảo vệ đồn trung tâm ở Nước Xoáy ở phía Đông (phía sông Tiền) hơi
mỏng hơn so với phía Tây (phía sông Hậu) [45,37].
Ở phía Tây, ngoài Bảo Tiền và Bảo Hậu còn có hàng loạt đồn, tháp canh, cảng đá trên
các sông rạch Lai Vung, Cái Tắc Lai Vung, sông Long Hậu....
Hiện nay còn các vết tích như đồn Cường Uy, cản đá ở Cái Tắc Lai Vung, sông Long
Hậu, ở vàm rạch Bà Vinh. Điều này cho thấy có thể là các đồn, bảo ở phía sông Hậu được
thành lập từ trước khi Nguyễn Ánh về đóng căn cứ ở Nước Xoáy-tháng 10 năm 1788, nhằm
bảo vệ con đường rút quân xuống Cà Mau của Nguyễn Ánh khi lâm vào tình thế bắt buộc.
Từ năm 1773 đến năm 1783 quân Tây Sơn liên tiếp giành thắng lợi, còn Nguyễn Ánh
phải chịu từ thất bại này đến thất bại khác, phải chạy xuống Ba Giồng, ra Phú Quốc...Đến
năm 1784, Nguyễn Ánh không còn chỗ dựa ở Gia Định, đành chạy sang Xiêm ẩn náu và cầu
viện. Nhưng với sự giúp sức của quân Xiêm, Nguyễn Ánh cũng không giành được thắng lợi
mà phải chịu thất bại nặng nề ở trận Rạch Gầm – Xoài Mút.
Với quyết tâm khôi phục Gia Định, Nguyễn Ánh đã ra sức thu phục và chuẩn bị lực
lượng, vì thế lực lượng không ngừng phát triển sau khi chọn Long Hưng làm căn cứ.
Sở dĩ, Nguyễn Ánh chọn Long Hưng làm căn cứ vì vùng này là điểm tựa tiến sang Ba
Giồng, qua Bến Lức áp sát Sài Gòn, đồng thời là đầu cầu rút xuống Cà Mau, Kiên Giang ra
Phú Quốc, Côn Đảo...vốn con đường tiến thoái quen thuộc của Nguyễn Ánh suốt hơn mười
năm qua. Với mạng lưới sông rạch chằng chịt, nếu tận dụng các lợi thế đó, có thể biến nơi
đây thành một căn cứ vững chắc.
Ngoài ra, Long Hưng còn là nguồn bổ sung nhân lực dồi dào cho Nguyễn Ánh. Từ căn
cứ Long Hưng, Nguyễn Ánh đã liên tiếp giành được thắng lợi, đó là những thắng lợi nào?
Căn cứ Long Hưng có vai trò như thế nào đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh? Chúng ta sẽ
chuyển sang chương 3 – Qúa trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long
Hưng – Sa Đéc (1787 – 1789).
CHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CỦA NGUYỄN ÁNH TẠI CĂN CỨ LONG HƯNG – SA ĐÉC (1787-1789)
3.1. Từ Long Hưng, Nguyễn Ánh khởi binh và liên tiếp giành thắng lợi.
Việc đưa quân về đồn trú ở khu vực Nước Xoáy – Tân Long là một quyết định quan
trọng và có ảnh hưởng đến thắng lợi của Nguyễn Ánh. Đánh giá tầm quan trọng của sự kiện
này, Trinh Hoài Đức viết trong Gia Định Thành Thông Chí như sau:
Khi ngự giá đến chỗ Hồi Oa (tức đồn Hưng Long tỉnh An Giang), nghĩa quân bốn
phương hưởng ứng qui tụ: ở Trấn Định có Tiên Phong Tánh thiện hầu Võ Công Tánh, ở
Trấn Biên có Chưởng Cơ Nghĩa lý hầu Nguyễn Văn Nghĩa, là những người có đại thủ đoạn,
kỳ dư những bọn hào kiệt thường hay đánh giết quan lại Tây Sơn, lúc này cũng theo quan
binh không sót người nào. Cũng có những nhóm mưu sự bất thành, bị Tây Sơn giết, sau cũng
có nhóm vì lòng trung phẫn, xuất phát ứng nghĩa để làm nội công, trông thấy khói lửa nổi
lên ngùn ngụt, quân địch không sao kiềm chế nổi, nên nhà Vua trung hưng, có thể định trước
được ngày tháng vậy” [10,102-103].
Rõ ràng là từ khi về đặt căn cứ ở Tân Long, nhiều điền chủ và nông dân đã ủng hộ, trợ
giúp Nguyễn Ánh. Điều này được Đại Nam Thực Lục ghi chép, điển hình như một số nơi:
Vua về tới Hổ Châu thu gom được hơn 300 tướng sĩ và 20 chiến thuyền, sai Nguyễn
Văn Tồn chiêu tập dân Phiên (Miên) ở hai xứ Trà Vinh và Mân Thít được vài ngàn người,
biên bổ làm lính....[32,69].
Đặt ra hai vệ Vũ cự nhất và Vũ cự nhị, lấy dân ở hai thôn An Hòa Đông và Tân Hòa
tổng Tân An thuộc dinh Vĩnh Trấn (nay thuộc Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) sung vào.
Vua từ nước Xiêm trở về, dân hai thôn đều đóng thuyền chứa sẵn lương thực, xin theo
quan quân đánh giặc. Nhưng một đối tượng mà Nguyễn Ánh quan tâm nhất trong việc thu
phục, đó là Võ Tánh.
Võ Tánh, người quê ở huyện Phước An (nay thuộc tỉnh Đồng Nai), em của Võ Nhàn,
Võ Nhàn vốn là thuộc hạ của Đỗ Thanh Nhân.
Sau khi Đỗ Thanh Nhân bị Nguyễn Ánh trừ khử, Võ Nhàn cũng bị hại vì trả thù cho
chủ tướng. Võ Tánh sợ bị liên lụy nên bỏ trốn.
Đến năm 1785 khi quân Tây Sơn vào Gia Định, Nguyễn Ánh bỏ chạy sang Xiêm, Võ
Tánh dấy binh ở Phù Viên (tức Vườn Trầu, thuộc Hóc Môn, Bà Điểm ngày nay), có sách
viết ông là người trí dũng, mưu lược, nên có nhiều người theo.
Lực lượng ngày một lớn mạnh, quân số lên hơn một vạn, Võ Tánh rời đất Phù Viên
kéo quân về Gò Công đặt tên là đạo quân “Kiến Hòa” (Vì Gò Công thuộc huyện Kiến Hòa,
dinh Trấn Định, sau là Định Tường), chia làm năm chi, tự xưng là Tổng Nhung, tiếng tăm
lừng lẫy khắp Gia Định. Nguyễn Nhạc sai Ngụy Nguyên tiểu phạt nhưng Ngụy Nguyên bị
Võ Tánh giết chết. Người đương thời xếp ông cùng với Đỗ Thanh Nhân và Châu Văn Tiếp
vào “Gia Định tam hùng”. Chống Tây Sơn nhưng ông không theo Nguyễn Ánh, không hẳn
vì mối thù giết anh mà thật sự ông đang chờ đợi thời cơ: thế cờ ngã về ai, Tây Sơn hay
Nguyễn Ánh? [45,38]
Mùa thu năm 1787 khi mới về đến Nga Châu, Nguyễn Ánh liền phái Nguyễn Đức
Xuyên mang lễ vật đích thân đến Gò Công triệu thỉnh ông nhưng không có kết quả.
Đầu năm 1788 khi Nguyễn Ánh đã đóng tổng hành dinh ở Nước Xoáy, sai các tướng
mang quân đi đánh Thái Bảo Tây Sơn Phạm Văn Tham ở Ba Giồng, Thái Bảo Tham Lui về
Ba Lai.
Cùng lúc ấy Thái úy Tây Sơn Phạm Văn Hưng từ Qui Nhơn mang quân vào tiếp ứng
nhưng sau đó lại rút về. Thái Bảo Tham kéo quân về sông Mỹ Tho bị Võ Tánh đánh ba trận
không lên bờ được phải quay về Sài Gòn [35,100]. Nhưng Võ Tánh vẫn chưa theo phò họ
Nguyễn.
Đến tháng 4 năm 1788, Nguyễn Ánh lại phái Trương Phúc Giáo đi thuyết phục một
lần nữa. Lúc bấy giờ Võ Tánh mới cùng thuộc hạ là Vũ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc
Văn Tô, Trần Văn Tín đến đồn Nước Xoáy ra mắt thần phục. Nguyễn Ánh liền phong cho
Võ Tánh làm khâm sai Tổng Nhung Chưởng có dinh Tiên phong và gả cho công chúa trưởng
là Ngọc Du. Bọn thuộc hạ của Võ Tánh đều được phong chức Cai Cơ [32,72-73].
Thu phục được Võ Tánh là một thắng lợi lớn của Nguyễn Ánh. Thế trận ở Gia Định
nghiêng hẳn về Nguyễn Ánh. Lúc này ở Bắc Hà nhiều cựu thần nhà Lê không chịu theo Tây
Sơn cũng rủ nhau vượt biển vào Gia Định theo Phúc Ánh.
Tháng 8 năm 1788 Phúc Ánh cùng với Tôn Thất Hội, Võ Tánh phá quân Tây Sơn ở
Ngũ Kiều.
Đến tháng 9 năm 1788, Phúc Ánh đánh bại quân của Phạm Văn Sâm và chiếm thành
Sài Gòn. Phạm Văn Sâm lui quân về giữ Ba Xắc. Phúc Ánh biết Sâm muốn chờ gió mùa thả
thuyền chạy về Quy Nhơn, liền cho quân đi đóng giữ các cửa bể, Phạm Văn Sâm bị vây chặt
quá, chờ mãi không thấy viện binh, đành phải mang quân đến hàng Nguyễn Ánh.
Thế là Nguyễn Ánh chiếm được cả miền Gia Định, từ đây miền Gia Định là căn cứ
của Nguyễn Ánh để chuẩn bị đánh ra miền Bắc.
Chiếm được Gia Định, Nguyễn Ánh một mặt đặt quan lại tổ chức việc cai trị, một mặt
hết sức phát triển nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp.
Về nông nghiệp, Nguyễn Ánh sai mười hai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang
Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh Khánh...làm điền tuấn quan với nhiệm vụ đi khuyến
khích quân và dân chăm lo sản xuất nông nghiệp. Các quan văn võ đều phải đi mộ người lập
thành đội gọi là đồn điền đội để đi khai khẩn đất hoang. Tất cả binh lính và thường dân đều
phải làm ruộng, ai không chịu làm ruộng thì phải đi lính thay cho phủ binh. Đến ngày mùa,
những người làm ruộng ở đồng bằng phải nộp 4200 bát thóc/người, ở miền núi phải nộp
2940 bát thóc một người. Những người nộp đủ số thóc như thế, nếu là phủ binh thì được
miễn 1 năm không phải đi ra trận; nếu là thường dân thì được miễn 1 năm không phải đi sưu
dịch.
Nguyễn Ánh cho chiêu mộ dân nghèo các nơi làm ruộng. Những người này gọi là điền
tốt. Điền tuấn quan phải cấp ruộng hoang cho điền tốt. Điền tốt nào không đủ trâu bò hay cày
bừa, thì điền tuấn quan phải giúp đỡ trâu bỏ và cày bừa, đến ngày mùa điền tốt phải trả bằng
thóc. Người nào mộ được 10 người dân trở lên, thì được làm cai trại và được miễn trừ sưu
dịch.
Về công nghiệp, Nguyễn Ánh cho mở nhiều xưởng chế nông cụ, đóng thuyền bè, xe
cộ. Đáng chú ý là Nguyễn Ánh lại cho mở cả xưởng đúc súng và đóng tàu biển. Các giáo sĩ
phương Tây ở Gia Định hồi ấy kể rằng: Nguyễn Ánh là đốc công số 1 của các công xưởng ở
Sài Gòn, đến xưởng sớm hơn hết mọi người, ra về sau hết cả mọi người, có ngày Nguyễn
Ánh ăn cơm trưa ở xưởng để tiện kiểm soát công việc ở xưởng. [31, 211]
Các giáo sĩ lại cho biết “Các kho của Nguyễn Ánh đều đầy các loại sản phẩm công
nghiệp, đặc biệt là súng có đủ các loại, đại bác có đủ các cỡ...Các vua chúa giàu nhất châu
Âu cũng chẳng có ai nhiều đại bác bằng Nguyễn Ánh” [31,212].
Về thương nghiệp, Nguyễn Ánh tìm cách khuyến khích việc buôn bán để có dịp đem
sản phẩm trong nước đổi lấy những đồ gang, đồ sắt, kẽm, lưu hoàng hay súng ống của
thương nhân ngoại quốc. Nguyễn Ánh ra lệnh cho các quan cứ theo giá thị trường mà mua
đường cát, hồ tiêu, tơ lụa để đem đổi cho thương nhân ngoại quốc lấy súng đạn. Các tàu
buôn các nước cứ theo trọng lượng số sắt, gang, lưu hoàng súng đạn đã chở đến mà mua một
số hàng hoá (đường, hồ tiêu, tơ lụa...) với một trọng lượng tương đương.
Tóm lại, những chính sách của Nguyễn Ánh đã lôi kéo được nhân dân theo mình trong
cuộc chiến tranh đánh đổ triều đại Tây Sơn. Kết quả của chính sách nông nghiệp, công
nghiệp và thương nghiệp, đặc biệt là chính sách nông nghiệp đã làm biến đổi bộ mặt miền
Gia Định, làm cho miền Gia Định từ một nơi đất hoang rộng thưa dân cư thành một miền
dân cư trù phú.
Trên cơ sở kinh tế tương đối vững chắc ấy, Nguyễn Ánh tích cực tiến hành mọi công
tác chuẩn bị một cuộc tổng phản công vào quân đội Tây Sơn.
Nguyễn Ánh về trú đóng tại Nước Xoáy ít lâu, Thái Bảo Tây Sơn Phạm Văn Tham
cho quân đến bao vây, đắp lũy đối diện với đồn Nước Xoáy. Hai bên đánh nhau suốt mấy
ngày không phân thắng bại. Nguyễn Ánh có sáng kiến làm đại bác bằng gỗ và bắn bằng hạt
cau khô [45,39]; cuối cùng đẩy lùi được quân Tây Sơn. Đây là trận duy nhất Tây Sơn chủ
động tiến công vào khu vực này, sau khi Nguyễn Ánh xây dựng căn cứ.
Vào thời điểm Nguyễn Ánh về trú quân ở Nước Xoáy, sông Tiền được xem như ranh
giới của hai thế lực. Đó là chưa nói đến lực lượng của Võ Tánh ở Gò Công, Nguyễn Văn
Nghĩa nổi dậy ở Đồng Nai.
Để phát triển thế lực qua bên kia sông Tiền, đầu năm 1788 từ Nước Xoáy Nguyễn
Ánh đích thân và sai các tướng đánh chiếm giồng Gầm, giồng Triệu, giồng Sao, Trà Lọt...
(thuộc vùng Cái Bè) làm bàn đạp để chiếm đóng đất Ba Giồng (thuộc Trấn Định). Mặt khác,
cũng để ổn định phần đất vừa chiếm được.
Vào tháng 2 năm 1788, Nguyễn Ánh cho tái lập công đường dinh Vĩnh
Trấn (vùng Vĩnh Long, An Giang), đặt quan cai trị. Sau đó cử Ngô Ma (người Xiêm) thay
Mạc Tử Sanh quản lý trấn Hà Tiên để giữ yên mặt Tây Nam.
Đến tháng 4 năm 1788 Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Huy và Lê Văn Quân mang quân
đánh chiếm đồn Trấn Định (ở Tân Hiệp ngày nay). Sau đó, phái Nguyễn Văn Trương mang
thủy quân đến đóng ở Mỹ Tho, tăng cường quân số cho Trấn Định (tức vùng Định Tường –
Mỹ Tho).
Ba Giồng (khu vực từ Cai Lậy chạy ngược lên đến sông Vàm Cỏ Tây) là bàn đạp tiến
về thành Gia Định (Sài Gòn) đặc biệt được Nguyễn Ánh quan tâm. Sau khi cho quân bố trí ở
Tân Hiệp và Mỹ Tho, Nguyễn Ánh sai Tôn Thất Hội và Võ Tánh mang quân bao vây đồn
Cầu Ngũ (Ngũ Kiều), đích thân Nguyễn Ánh đốc thủy quân giáp trận, Tây Sơn tan vở, đa số
đều bị bắt.
Chiếm được Ba Giồng coi như Nguyễn Ánh làm chủ toàn bộ dinh Trấn Định, sau đó
ông cho thiết lập công đường của dinh này và giao cho Tôn Thất Huy, Phạm Văn Sĩ và Tống
Phước Đạm phụ trách.
Việc thiết lập ngay cơ sở hành chính nơi vừa chiếm được giúp cho Nguyễn Ánh chẳng
những quản lý, kiểm soát được tình hình trật tự, sinh hoạt xã hội mà còn trưng thu được sức
người sức của ở địa phương phục vụ cho chiến tranh. Để tranh thủ, mua chuộc lòng người kể
cả binh sĩ Tây Sơn rã ngũ lẫn trốn trong dân, Nguyễn Ánh ra lệnh cấm binh sĩ sách nhiễu dân
chúng; từ đó dùng lợi lộc khuyên dụ họ đối đãi tốt với binh lính Tây Sơn, lôi kéo đám tàn
binh này về phía mình.
Nguyễn Ánh ra lệnh, hễ nuôi chứa một binh sĩ Tây Sơn bỏ trốn về làng thì được miễn
binh dịch một nữa, hai người thì được miễn hết, ba người trở lên thì được thưởng. Riêng đối
với binh sĩ Tây Sơn gốc người Thuận Hóa, Nguyễn Ánh chiêu dụ họ bằng cách nhắc nhở
mối liên hệ quê hương gốc tích, tinh thần địa phương của họ cùng với dòng họ Nguyễn xa
xưa, để lôi kéo họ quay lại phò tá đánh Tây Sơn, để có ngày trở lại quê cũ làng xưa...[32,73-
74].
Đến tháng 7 năm 1788, địa bàn Tây Sơn chỉ còn là hai dinh: Trấn Biên và Phiên Trấn
(tức Biên Hòa và Gia Định). Tại Biên Hòa (Đồng Nai) Nguyễn Văn Nghĩa nổi dậy hơn một
năm, khi Nguyễn Ánh còn ở Vọng Các, Tây Sơn đánh dẹp không được. Nay thế lực đã lớn
mạnh, quân Tây Sơn lâm vào tình thế bị bao vây giữa hai gọng kìm: Ba Giồng và Đồng Nai.
Tháng 8 năm 1788, một mặt đích thân Nguyễn Ánh từ Ba Giồng kéo đại quân về đóng
ở Thị Nghè (Nghi Giang); mặt khác sai Võ Tánh mang quân đi vòng qua phía Nam đồng tập
trận rồi tiến thẳng về Bến Nghé để chặng mặt sau. Đồng thời phái Lê Văn Quân chặng cửa
Cần Giờ không cho Thái Bảo Phạm Văn Tham thoát ra biển.
Phạm Văn Tham lập chiến lũy từ chợ Điếu Khiển đến chợ Khung Dung chống cự. Hai
bên giáp mặt, Phạm Văn Tham chống không lại, rút chạy bằng đường thủy.
Nguyễn Ánh chiếm được Sài Gòn ngày 7 tháng 9 năm 1788 (hai tháng trước khi quân
Thanh tràn vào Bắc Hà). Nhưng còn phải đương đầu với Phạm Văn Tham. Thái Bảo Tham
thoát ra biển không được vì Lê Văn Quân chặng ở Cần Giờ, phải lui về Hàm Luông rồi về
Ba Thắc. Tại đây ông cho đắp lũy hai bên bờ sông cự chiến và kích động người Khmer ở Trà
Vinh, Mang Thít nổi dậy do Ốc nha Ốc cầm đầu, để làm chỗ dựa. Nhưng Nguyễn Ánh mang
quân đến, Ốc nha Ốc quay lại qui phục.
Nguyễn Ánh giao Tôn Thất Hội rãi quân canh chừng không cho Thái Bảo Tham chạy
về Qui Nhơn. Phạm Văn Tham cố thủ chờ viện binh từ Qui Nhơn trong tình thế tuyệt vọng.
Nguyễn Huệ lúc bấy giờ đang đối phó với quân Thanh xâm lược miền Bắc nước ta, Nguyễn
Nhạc thì lặng yên.
Hết năm 1788 vẫn không có viện binh, đầu năm 1789 tự mình xoay sở, Phạm Văn
Tham kéo quân ra biển nhưng bị chặng đánh tại Cù Lao Hổ (Hổ Châu).
Để dứt điểm quân Tây Sơn trên đất Gia Định, Nguyễn Ánh điều hết tướng tài như : Lê
Văn Quân, Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương về đây.
Trận chiến diễn ra ở Hổ Châu, hai bên điều bị thiệt hại nặng nề. Phạm Văn Tham lui
về Ba Thắc, lúc bấy giờ Tây Sơn chỉ còn mấy đồn lẻ tẻ, nếu tiêu diệt được Thái Bảo Tham
thì tất cả sẽ hàng phục.
Nhận định được điều đó, Nguyễn Ánh đích thân chỉ huy đánh vào Ba Thắc. Nhờ viên
tướng cũ đã hàng Tây Sơn là Thanh Hàm làm nội ứng-mở cửa đồn cho quân Nguyễn Ánh
tràn vào, quân Tây Sơn bị đánh bất ngờ chạy tán loạn theo Phạm Văn Tham về sông Cổ Cò
(Cảnh lộ giang).
Tại đây Phạm Văn Tham được hai thuộc tướng là Trần Hiếu Liêm và Nguyễn Chuẩn
mang thủy binh từ Mỹ Thanh đến trợ chiến, Nguyễn Ánh truy theo, Nguyễn Chuẩn tử trận và
Nguyễn Hiếu Liêm đầu hàng.
Thế cùng lực tận, Thái Bảo Phạm Văn Tham phải quy hàng Nguyễn Ánh vào tháng 2
năm 1789. Nhưng về sau Thái Bảo Phạm Văn Tham có ý quay về với Tây Sơn nên bị giết.
Tây Sơn hoàn toàn mất Gia Định (một tháng sau khi vua Quang Trung giải phóng
Thăng Long).
Thế là sau hơn một năm, kể từ khi về nước lấy vùng Nước Xoáy – Tân Long làm căn
cứ, Nguyễn Ánh không cần ngoại viện mà vẫn thu phục được đất Gia Định.
3.2. Vai trò của căn cứ Long Hưng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh.
Mặc dù thắng lợi của Nguyễn Ánh là do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như
lòng kiên trì, ý chí quyết tâm khôi phục cao độ của Nguyễn Ánh; phát động cuộc chiến đúng
thời cơ; nắm chắc và triệt để khai thác yếu tố địa lợi và nhân hoà; sự quản lý Gia Định yếu
kém của Tây Sơn; Nguyễn Huệ bận đối phó với việc quân Thanh xâm lược Việt Nam,
Nguyễn Nhạc bỏ rơi Gia Định và quá trình phong kiến hoá nhà nước Tây Sơn. Nhưng trong
đó cũng không thể không kể đến vai trò quan trọng của căn cứ Long Hưng – Sa Đéc.
Căn cứ Long Hưng có vai trò vô cùng quan trọng và quyết định đối với thắng lợi của
Nguyễn Ánh. Điều đó thể hiện như:
- Là nơi thuận lợi cho việc tiến và rút quân của Nguyễn Ánh.
- Cung cấp cho Nguyễn Ánh một lực lượng dồi dào, trung thành, trong đó có cả đại
địa chủ.
- Hay nói cách khác, căn cứ Long Hưng – Sa Đéc là nơi hội tụ hai yếu tố “địa lợi,
nhân hoà”. Hơn nữa, Nguyễn Ánh đã phát động cuộc chiến lần sau đúng thời cơ.
Vì vậy, từ năm 1788 – khi chọn Long Hưng làm căn cứ thì cuộc chiến lúc này đã
hội đủ 3 yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”. Đó chính là nguyên nhân biến căn
cứ Long Hưng thành địa bàn vững chắc, từ đó Nguyễn Ánh tiến đánh và giành
được nhiều thắng lợi. Kết quả là Nguyễn Ánh đã đánh chiếm được Gia Định và cả
Nam Kì.
Không như các đồng bằng ở Bắc và Trung Bộ, thường là tự sản xuất và tự tiêu thụ lúa
gạo. Đồng bằng Sông Cửu Long, trong đó có Long Hưng – Sa Đéc sau khi hình thành hệ
thống hành chánh, diện tích trồng trọt và sản lượng nông phẩm gia tăng nhiều lần. Lúa gạo
không những đủ ăn sau khi đóng thuế, mà còn thừa để bán làm giàu. Ngoài lúa gạo còn phải
nói đến con cá và cây cau (Gia Định nhất thóc nhì cau). Hai mặt hàng này, từ thế kỷ XIX đã
từng xuất khẩu sang Hồng Kông, Singapore. Nên việc ra đời sớm của nền kinh tế hàng hoá
trên vùng đất mới này không có gì lạ.
Khoảng hơn 100 năm sau khi người Việt đặt chân lên đồng bằng sông Cửu Long, họ
đã cùng người Hoa và người Khơme bản địa hình thành một số tụ điểm dân cư, trong đó Sa
Đéc được nâng lên thành một trung tâm quan trọng với phố, chợ sầm uất. Trịnh Hoài Đức
trong Gia Định thành thông chí mô tả:
Chợ Sa Đéc ở phía đông chợ huyện Vĩnh An. Phố chợ dọc theo bờ sông, nhà cửa hai
bên tương đối liên tiếp 5 dặm, dưới sông có những bè tre, gác làm phòng ốc, đậu sát với
nhau, hoặc bán hàng khí dụng ở Nam Bắc chở đến, hoặc bán dầu ráy, than, mây, tre...trên
bờ và dưới sông trăm thứ hàng hoá tốt đẹp, trông khá vui vẻ, thật là thắng địa phồn hoa vậy
[18,62].
Không phải ngẫu nhiên mà Sa Đéc phồn thịnh như vậy. Hà Tiên, Cù Lao Phố quá xa
đối với đồng bằng sông Cửu Long, hơn nữa Cù Lao Phố đang lần hồi nhường bước cho Sài
Gòn, Mỹ Tho, Cái Bè, Cai Lậy ở phía kia sông Tiền cũng phát triển. Trong khi Sa Đéc vừa
ăn thông sang miệt Hậu Giang, vừa là cửa ngõ của Đồng Tháp Mười với nguồn lâm thuỷ sản
dường như vô tận, vừa lại là đầu cầu sang Campuchia.
Có thể khẳng định, lúc này Sa Đéc chỉ đứng sau Sài Gòn và là trung tâm kinh tế ở
đồng bằng sông Cửu Long.
Sự ra đời phát triển của chợ Sa Đéc là bước ngoặt quan trọng trong tiến trình kinh tế
xã hội khu vực. Nó đánh dấu sự thành công của công cuộc khai hoang lập ấp, mở ruộng, làm
vườn với lúa gạo, cây trái dồi dào, cá tôm phong phú; vừa là dấu hiệu cáo chung của nền
kinh tế tự cung tự cấp, đồng thời là điều kiện thúc đẩy sự hình thành và phát triển một loại
hình kinh tế mới - đó là “kinh tế thị trường”. Sa Đéc vừa là trung tâm sản xuất, vừa là trung
tâm thu gom tập kết lúa gạo, lâm thuỷ sản và hàng hoá địa phương.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Ánh nhiều lần chọn Sa Đéc làm nơi dừng chân
trên đường bôn tẩu và sau cùng xây dựng căn cứ ở đây làm cơ sở giành lại được đất Gia
Định trong tay Tây Sơn.
Theo quan niệm chọn đất để dựng nghiệp của người xưa thì Sa Đéc đối với Nguyễn
Ánh, quả có đủ 3 yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hoà. Ngoài vị trí chiến lược với sông
rạch chằng chịt nằm trên hành lang từ Sài Gòn xuống miền Tây ra vịnh Thái Lan, Sa Đéc
còn là vùng đất trù phú được khai thác khá sớm ở đồng bằng sông Cửu Long, có nhiều lúa
gạo và các lâm thuỷ sản quý.
Việc dùng hạt cau khô kết làm đạn để đánh Tây Sơn cho thấy sự hiểu biết của
Nguyễn Ánh về vùng đất này.
Khách quan mà xét, trong thâm tâm người dân Nam Bộ nói chung, Sa Đéc nói riêng,
đất Gia Định là đất của chúa Nguyễn.
Là người Việt Nam, tất nhiên họ thích chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút nhưng Tây
Sơn chưa làm gì được cho họ. Trong suốt thời gian từ năm 1776 đến năm 1788, trên danh
nghĩa là nhà Tây Sơn cai quản xứ Gia Định. Nhưng chính quyền Tây Sơn do Đông Định
vương Nguyễn Lữ đứng đầu không có đủ năng lực quản lý hành chính xã hội và xây dựng
chính quyền mới. Nên ngay cả thời gian Nguyễn Ánh sống lưu vong ở Xiêm, có thể nói rải
rác đó đây trên đất Gia Định tồn tại song song hai chính quyền cấp cơ sở nhất là vùng Nam
sông Tiền.
Hơn nữa chính quyền Tây Sơn chưa thực hiện được một chính sách kinh tế xã hội nào
ở đây. Trong thời kì chiếm đóng Gia Định, đô đốc Tây Sơn Đặng Văn Trấn có cho đào mới
kinh Tranh Giang, nối liền Rạch Chang (chảy ra sông Vàm Cỏ Tây) với Rạch Bà Bèo, nhằm
phục vụ mục tiêu quân sự là chủ yếu.
Chưa có chính sách nào bồi dưỡng sức dân, thu phục nhân tâm và gạt ảnh hưởng của
Nguyễn Ánh ra khỏi vùng này. Ngoại trừ các chiến tích quân sự lừng lẫy của Nguyễn Huệ
cùng những lần vơ vét lúa gạo và các sản vật khác mang về Quy Nhơn.
Từ khi Nguyễn Huệ mang 60.000 quân từ Phú Xuân vào bao vây thành Hoàng đế
đánh nhau với anh mình là Nguyễn Nhạc đầu năm 1787, đòi phân chia lại đất Quảng Nam
thì tính chất cuộc nội chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh không còn mang ý nghĩa của một cuộc
đấu tranh vì quyền lợi nhân dân.
Tây Sơn bây giờ không còn là Tây Sơn của mười mấy năm trước mà Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ cũng chỉ là hai thế lực phong kiến như Nguyễn Ánh ở trong Gia Định và họ
Trịnh ở Bắc Hà trước đây.
Cuộc xung đột giữa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ còn là biểu hiện của mâu thuẫn
giữa chủ trương cát cứ đứng đầu là Nguyễn Nhạc và chủ trương thống nhất đất nước do
Nguyễn Huệ làm đại biểu.
Phải khách quan thấy rằng vùng Nam sông Tiền mà Sa Đéc là trung tâm vẫn là vùng
ảnh hưởng của Nguyễn Ánh. Nên không gì lạ khi thấy Sa Đéc là nơi cung cấp sức người sức
của cho Nguyễn Ánh. Nhiều điền chủ bỏ tài sản ra nuôi quân, che chở cho Nguyễn Ánh và
thuộc hạ ngay trong những lúc nguy cấp. Trong đó Nguyễn Văn Mậu (tức Bỏ Hậu) ở thôn
Tân Long (Long Hưng) được Nguyễn Ánh coi như cha nuôi, là một điển hình.
Long Hưng - Sa Đéc còn cung cấp cho Nguyễn Ánh nhiều tướng tài hết dạ trung kiên
ngay trong thời khó khăn nhất như: Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn
Nhàn, Hoàng Bửu Phước, Nguyễn Văn Bế, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Yến, Nguyễn
Văn Định...Trong bốn tổng trấn Gia Định thành vào đầu triều Nguyễn, thì Long Hưng - Sa
Đéc cung cấp hai vị là Nguyễn Văn Nhơn (1808 – 1820) và Nguyễn Văn Tuyên (1828 –
1829).
Thật là không khách quan khi cho rằng ở xứ Gia Định có một phong trào nông dân
hưởng ứng Tây Sơn chống lại chúa Nguyễn và cũng như vậy khi nói có một tầng lớp phong
kiến địa chủ câu kết với Nguyễn Ánh trong việc giành quyền làm chủ đất Gia Định với Tây
Sơn.
Giới điền chủ Gia Định nói chung và Sa Đéc nói riêng, đa số xuất thân là lưu dân
nghèo, đương nhiên là họ căm ghét chế độ phong kiến nhưng trong giới hạn của hệ tư tưởng
phong kiến thời ấy, họ luôn hy vọng đất nước sẽ có một “đấng minh quân” và họ đã mạo
hiểm vào Nam tìm cuộc sống mới, cảm thấy “dễ thở hơn”, ít bị ràng buộc bởi luật lệ khắc
khe như ở quê cũ... nhờ đó mà tạo được cơ nghiệp nên họ luôn cảm thấy chịu ơn đối với
chúa Nguyễn.
Trong khi triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi và thường bị gián đoạn, lại do một kẻ bất
tài như Nguyễn Lữ trực tiếp cai trị đã làm lu mờ “đức sáng của Tây Sơn” nên chưa thu phục
được hào kiệt xứ Đồng Nai – Cửu Long. Đồng thời cũng không tiêu diệt được tận gốc tàn dư
của chúa Nguyễn.
Vì vậy họ ủng hộ Nguyễn Ánh là lẽ thường tình và cũng không lạ gì khi thấy chỉ hơn
một năm kể từ khi Nguyễn Ánh đặt chân lên hòn Tre thì các quân tướng cũ và điền chủ tụ lại
đông nhất là ở Sa Đéc, kẻ công người của xây dựng căn cứ Long Hưng - Sa Đéc làm bàn đạp
đánh chiếm Gia Định và giành được thắng lợi.
Ngoại trừ cuộc đụng độ lớn giữa Thái bảo Tây Sơn Phạm Văn Tham ở Hồ Cứ với Võ
Tánh, ở Sa Đéc không có trận đánh nào lớn, ít chịu sự tàn phá của chiến tranh, đó cũng là
một điều kiện thu hút một số thương nhân buôn người Hoa kinh hoàng, khiếp sợ Tây Sơn
trước những cuộc tiến quân của họ ở Cù lao Phố năm 1776 và Sài Gòn 1782. Trong chiến
tranh họ là người cung cấp cho Nguyễn Ánh những hàng hoá cần thiết, góp phần phát triển
Sa Đéc trong khi Cù lao Phố, Hà Tiên suy thoái.
Từ năm 1789 chiến tranh lùi dần ra miền ngoài, tạo điều kiện khách quan cho kinh tế
phục hồi và phát triển. Để đủ sức chống lại Tây Sơn, Nguyễn Ánh chú tâm khai thác đất đai
ở đây với cơ chế rất thoáng. Bên cạnh chủ trương lập đồn điền, chính quyền còn để lưu dân
tự do khai phá đất hoang rồi tự mình khai báo để nộp thuế, không kiểm tra đo đạc.
Điều đáng lưu ý là các thôn này lại tập trung quanh căn cứ Long Hưng của Nguyễn
Ánh. Điều kiện khách quan thuận lợi, đất lành chim đậu, đất tốt, dân đông biết thâm canh
làm thuỷ với Mương Đào (tức Cái Bè cạn), rạch Cai Bường, nước chảy thông thương từ sông
Tiền đến sông Hậu, Lấp Vò, Cái Dầu (Định Yên), Long Hậu lần hồi phát triển thành một
trung tâm dân cư quan trọng của Sa Đéc sát sông Hậu.
Ở mặt sông Tiền từ Cái Tàu Thượng trở xuống là khu dân cư trù mật, người Hoa cùng
người Việt làm ruộng rẫy, trao đổi mua bán...hình thành các tụ điểm Hội An, Tòng Sơn, Đất
Sét, Cái Tàu Hạ... góp phần làm nên sự phồn thịnh của Sa Đéc.
Nguyễn Ánh cần nhiều lúa gạo để mua hoặc trao đổi lấy vũ khí, gián tiếp thúc đẩy
công cuộc khai thác nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung, Long Hưng – Sa
Đéc nói riêng. Qua đó việc mua bán, vận chuyển hàng hoá mà lúa gạo là mặt hàng chủ lực
trở nên nhộn nhịp hơn giữa Sài Gòn và miền Tây mà Sa Đéc là đầu mối giao lưu.
Kinh mới Tranh Giang do đô đốc Tây Sơn Đặng Văn Trấn cho đào nối từ rạch Bà Bèo xuyên
qua Đồng Tháp Mười ăn thông với Rạch Chanh đổ ra sông Vàm Cỏ Tây nhằm mục đích
quân sự, nay là thuỷ lộ ngắn nhất để lúa gạo từ miền Tây vận chuyển về Sài Gòn.
Từ giữa thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX, Gia Định hình thành và phát triển thành một
trung tâm dân cứ lớn và là một trung tâm kinh tế - xã hội chiến lược cho toàn miền Nam.
Nằm trong sự phát triển chung, Sa Đéc là một trung tâm kinh tế lớn ở đồng bằng sông
Cửu Long và là một đầu mối thay mặt khu vực giao lưu với Sài Gòn.
Bên cạnh vai trò đóng góp cho sự thịnh vượng của Sài Gòn như các địa phương khác ở
đồng bằng sông Cửu Long, Sa Đéc còn nổi lên với tư cách là một căn cứ của Nguyễn Ánh
mà từ đây với sự hưởng ứng của nhiều lực lượng Nguyễn Ánh lấy được Sài Gòn của xứ Gia
Định trong tay Tây Sơn, rồi làm bàn đạp đánh ra Trung và Bắc.
Vì vậy căn cứ Long Hưng – Sa Đéc là địa bàn vững chắc cho Nguyễn Ánh từ việc
chiếm được Gia Định, rồi tiến ra đánh chiếm cả Trung và Bắc Bộ. Căn cứ Long Hưng – Sa
Đéc có vai trò rất lớn và quan trọng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh.
3.3. Những di tích ở Long Hưng liên quan đến cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn.
Trên đất Long Hưng (nay là hai xã Long Hưng A, Long Hưng B) vẫn còn nhiều di tích
liên quan đến cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn gắn với quá trình khôi phục lực lượng
của Nguyễn Ánh như:
Nền đồn Nước Xoáy
Cách nay khoảng hơn 200 năm, đồn được xây dựng bằng đất, ngày nay không còn lại
bao nhiêu dấu tích. Từ năm 1925 – 1926, hai ông Nguyễn Văn Dần và Nguyễn Văn Cứng
ghi chép đơn giản là đồn Hồi Oa (Nước Xoáy) thuộc làng Long Hưng, quận Lai Vung tỉnh
Sa Đéc, dấu vết vẫn còn. Hiện còn dạng nền khi Nguyễn Ánh về trú đóng cùng với cây da,
nơi khi buồn ông thường ngụ đến câu cá, nên được gọi là “Cây da bến ngự”. Nay cây da
thành cây cổ thụ, gốc rễ, cành lá sum suê…
Đến năm 1970, một tác giả khác mô tả chi tiết hơn: đồn vuông vức độ sáu công đất,
thuở ấy nền đất được đắp cao. Đến nay vị quá lâu nên lỳ xuống nhưng vẫn còn cao hơn đất
tự nhiên đôi chút, không bị nước ngập, thành đắp bằng đất, là nơi chúa Nguyễn đình trú
trong vòng thành… Về hướng Tây, tận cái xẻo nhỏ, xuồng ghe có thể vào được.
Hướng Đông và hướng Bắc giáp ruộng tư điền, hướng Nam có cây da và rạch Nước
Xoáy. Đến đời vua Tự Đức năm thứ hai (1849) đại thần Doãn Uẩn có dựng một tấm bia tại
nền đồn làm dấu tích. Nền đồn này về sau nằm trên đất của ông Trương Văn Quảng, chủ đất
để đất cho cây cỏ mọc tự nhiên, không dám canh tác.
Sau khi ông Quảng ra đời, đất này thuộc quyền sở hữu của con ông là Trương Văn
Gấm. Ông Gấm bán cho Hội thánh Cao Đài xã Long Hưng 1000 mét vuông làm cơ sở Phước
Thiện.
Sau năm 1975, cơ sở này trở thành trạm y tế - Hộ sinh xã.
Theo một số vị cao niên tại chỗ thì khoảng năm 1940 vẫn còn thấy dạng nền đồn, trên
đó được trồng cây bạch đàn.
Khung cảnh hiện tại từ bờ rạch Nước Xoáy nhìn vào, trước hết là tường rào đã bị sụp
đổ với cổng vào mang tên biển đề “UBND Xã Long Hưng – Trạm Y Tế - Hộ Sinh”.
Phía sau cổng là cập sư tử đá, bến trái là cây da với cành lá, rễ phụ sum suê to lớn, là
khô rụng đầy trên mặt đất, kế đó là Miếu Gia Long. Sau miếu là khu đất Phước Thiện và
trong cùng là đám bạch đàn, được trồng trên nền đồn.
Miếu Gia Long
Miếu Gia Long do nhân dân địa phương tự phát xây dựng vào tháng 2 năm 1958, dưới
thời tỉnh trưởng (Vĩnh Long) chính quyền Sài Gòn là Khưu Văn Ba, gọi là “Cao hoàng thái
miếu”. Miếu được xây bằng gạch lợp Fibro – xi măng, trên nền cao 0,3m, miếu có kích
thước 5,35m x 3,3m.
Sau khi miếu xây dựng xong, địa phương có thuê ông Nguyễn Văn Côn, nhà ở trong
ngọn rạch Chùa bứng được một cây da con trong bộng cây đem đến trồng cạnh miếu, thay
thế “Cây da bến ngự” ngày xưa. Theo các vị cao niên, từ ngày trồng đến nay gần 50 năm cây
da mới có dáng dấp hao hao cây da ngày xưa.
Hiện nay, tường và máy hư sập, nền gạch bị bong ra, long lổ, một cửa ra vào và hai
cửa sổ không còn cánh cửa. Bên trong có một bệ thờ, vài món đồ khí tự đơn giản rẽ tiền..ngã
đỗ lăn lóc, chứng tỏ cả một thời gian dài không có bàn tay chăm sóc của con người.
Miếu Cao Hoàng (Miếu Gia Long)
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Khu mộ Bỏ Hậu
Mộ Ông Nguyễn Văn Mậu
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Nguyễn Văn Mậu, có tên là Hậu-người làng Tân Long (nay thuộc xã Long Hưng B,
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ông là một phú hào trong làng, nhận chức Tri thâu, làm
nhiệm vụ thu thuế, được dân làng tín nhiệm nên được kiêm luôn chức Trùm cả.
Năm 1787 Nguyễn Ánh sau một thời gian lưu vong ở Xiêm, trở về đóng quân ở Hồi
Oa thuỷ, tức là Nước Xoáy. Trong thời gian đóng quân ở đây, Nguyễn Ánh được gia đình
ông Mậu hết lòng phò trợ. Ông mở cả lẫm lúa của gia đình nuôi quân của Nguyễn Ánh suốt
3 tháng, ngoài lương thực, ông còn tận tình chăm sóc và có ý định dâng cô con gái út cho
Nguyễn Ánh là “tấn nhơn”.
Cảm nhận nghĩa cử hào hiệp, chí tình của Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Ánh gọi ông là
“Ông Bỏ”, tức là cha nuôi. Từ đó, dân làng đều gọi ông là “Bỏ Hậu”.
Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, đến năm 1809 Nguyễn Văn
Mậu mất. Nhớ công lao thuở trước, Gia Long phong cho ông tước Hầu và lệnh cho bộ Công
đưa người và vật tư vào xây mộ cho Ông.
Mộ được xây bằng đá ong, cách miếu Gia Long khoảng 2km, trên gò đất đắp cao hơn
mặt đất tự nhiên khoảng 0,6m, gồm 2 phần rất bề thế.
Phần tiền mộ là vòng thành xây cao 1,2m, thành dày 0,65m; có kích thước dài 9,97m
và ngang 9,37m. Mặt tiền là cổng vào rộng 2,5m có 4 trụ cao 2,4m, dày 0,7m, đặt trên đế có
kích thước dài 3m và ngang 1,4m.
Phần mộ chính gồm vòng thành dài 8,5m, ngang 7m, chiều cao và dộ dày giống như
phần tiền mộ, cửa vào rộng 2,37m.
Sau cửa vào là bình phong cao 1,5m; rộng 1,6m, sau bình phong là nấm mộ có kích
thước 3,35m x 1,3m; cao 0,7m, nằm trên nền mộ dài 4,5m; ngang 3,1m, phía trước mộ có
vòm mộ rộng 2,1m.
Chếch về bên phải khoảng 10m là mộ con gái bỏ Hậu - cũng được xây dựng bằng đá
ong với qui mô nhỏ hơn, không có phần tiền mộ. Do mộ nằm sát mép gò nên một phần bị
lúng sụp.
Theo dân gian, Ông Nguyễn Văn Mậu có người con gái út tên là Nguyễn Thị Ngọc
Mai, có nhan sắc lại đoan trang thuỳ mị nết na, dù là con nhà giàu nhưng Cô sống hoà hợp
với mọi người nên được bà con dân làng mến chuộng. Nguyễn Ánh say mê sắc đẹp của Cô,
có ý muốn lấy Cô làm thứ phi và được sự đồng ý của Bỏ Hậu. Nhưng Cô từ chối với lý do
Nguyễn Ánh đã là con nuôi của Cha cô, thì Cô với Nguyễn Ánh có quan hệ anh em, không
thể kết hôn được.
Trước lý lẽ vững chắc đó, Nguyễn Ánh đành rút lui, song Cô sợ sắc đẹp của mình xui
dục Nguyễn Ánh làm điều càn rỡ, để lại tiếng xấu cho cả hai người nên Cô quyết định huỷ
hoại nhan sắc nằng cách un khói có để độc chất, làm cho mặt mài lở loét. Sau đó Cô lâm
bệnh và qua đời trong sự thương tiếc của gia đình, xóm làng và cả Nguyễn Ánh. Cảm kích
tấm lòng của Cô con gái chốn quê mùa, sau khi lên ngôi Nguyễn Ánh dựng mộ cho Cô cùng
lúc với mộ Bỏ Hậu.
Di tích Bảo Tiền ở ấp Long Định, xã Long Thắng
Bảo Tiền nhìn từ xa
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Khoảng 30 – 40 năm về trước, bảo còn sót lại mộ cái nền cao, rộng khoảng gần một
hecta, trên mọc toàn là cây tram. Từ xa nhìn như là một hòn núi nhỏ nổi lên giữa cánh đồng
mênh mông, xa cách xóm làng. Trên nền đất có một ngôi miếu nhỏ bằng tre lá đơn sơ nhưng
kiến trúc theo kiểu thượng hiên hạ lầu. Bên trong có một bàn thờ với bài vị ghi bốn chữ
“Bách quan cựu thần”, hai bên có bàn thờ Tả ban, Hữu ban…Miếu này do chủ đất là Nguyễn
Văn Tý tự dựng lên.
Ngày nay, gò đất này cách rạch Cái Bàng khoảng 250m, còn rộng khoảng một hecta,
trên đó có một ngôi miếu rộng, đồ khí tự bên trong đơn sơ với nội dung thờ cúng như cũ.
Hiện nay miếu do con cháu Ông Nguyễn Văn Tý quản lí.
Di tích Bảo Hậu ở ấp Định Phong, xã Định Hoà
Bảo Hậu nhìn từ xa
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Bảo Hậu cách Bảo Tiền khoảng 6km về phía sông Hậu, cách rạng Gỗ khoảng 80m.
Trên nền đất đắp cao của Bảo cũ có một ngôi miếu nhỏ ẩn trong tàn cây rậm. Hiện trạng
miếu thờ ở Bảo Hậu tươm tất hơn Bảo Tiền.
Miếu cũng kiến trúc theo kiểu thượng lầu hạ hiên, lợp ngói, nền lót gạch bong. Bên
trong có bệ thờ hai cấp. Cấp trên có chân đèn, lư hương, bình hoa, lổ bộ, trên tường có bài vị
màu đỏ, viết bốn chữ “Bách quan cựu thần” bằng chữ Hán màu vàng. Cấp dưới là nơi bày lễ
vật cúng hàng năm. Phía trước phủ bằng một bức màn màu đỏ. Hai bên cột treo ảnh Huỳnh
giáo chủ Phật giáo Hoà Hảo (Huỳnh Phú Sổ), cột trái treo ảnh toàn thân, cột phải treo ảnh
bán thân.
Sự xuất hiện hai ngôi miếu ở trên nền cũ của Bảo Tiền và Bảo Hậu, mang nội dung tín
ngưỡng thờ cúng “Bách quan cựu thần”, nói lên tấm lòng và sự tín ngưỡng của người Việt
trên đất Nam Bộ, đối với quan chức của các Chúa Nguyễn và triều Nguyễn, những người có
công trong việc khai hoang mở cõi, chống giặc Xiêm, giặc Miên, bảo vệ an ninh biên cương.
Sự vọng ngưỡng này thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Nội dung tín ngưỡng “Bách quan cựu thần” hay trăm quan đàng cựu xuất hiện ở Nam
Bộ vào cuối thế kỉ XIX, mang đậm dấu ấn lịch sử. “Quan đàng cựu” để phân biệt với “quan
tân trào”, quan tân trào là những người làm quan trong bộ máy tay sai của thực dân Pháp, sau
khi chúng chiếm Nam Bộ (1862).
Nội dung tín ngưỡng này còn xuất hiện trong nhiều đình, miếu ở Nam Bộ. Thậm chí
trong các đám giỗ (giỗ họ) của một số gia tộc lớn ở Nam Bộ, khi cúng kiến, trong lời van vái
đều có đề cập đến đối tượng này.
Còn ảnh hưởng của Huỳnh giáo chủ xuất hiện ở đây, lộ rõ hiện tượng tôn giáo hoá các
cơ sở tín ngưỡng dân gian ở vùng có đông tín đồ theo Phật giáo Hoà Hảo. Thiết nghĩ nên có
sự qui định rạch ròi giữa nơi thờ tự tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
Mộ ông Hùng Dõng ở ấp Hưng Thành Tây, xã Long Hưng A
Ở đây hiện có 2 mộ, nấp quan tài nằm lộ thiên ngay mặt đấ, ở rạch Dinh trên phần đất
của bà Lê Thị Anh thuộc ấp Hưng Thành Tây. Theo dân gian, một ngôi là của ông Hùng
Dõng, ngôi kia là mộ của bà vú nuôi của ông, song cũng có người cho là mộ của người bảo
vệ.
Cũng theo dân gian, mọi người đều gọi là Hùng Dõng đại tướng quân, không rõ họ tên
ông gì. Ông chỉ huy một phân đội thuỷ binh của Nguyễn Ánh. Khi Nguyễn Ánh về đóng đồn
ở Nước Xoáy, thuỷ binh của ông đồn trú ở một cái đầm rộng phía bên kia rạch Nước Xoáy.
Ông chỉ huy quân rất nghiêm, trong thao luyện ai lơ đảng là bị chém ngay; cấm dân địa
phương bén mảng đến, ai nhìn lén sẽ bị nghiêm trị. Trong một lần nhận lệnh đi tãi lương, găp
mưa bảo đi về không y như quân lệnh. Quân thiếu lương thực, Nguyễn Ánh rút đi nơi khác.
Ông về trú quân tại chỗ cũ, bất ngờ bị quân Tây Sơn kéo đến tấn công, để đảm bảo an toàn
cho các thuyền lương thực ông rút chạy. Sau ngày đánh đuổi được Tây Sơn, ông vẫn bị truy
cứu về tội trể nải trong việc vận lương, để binh sĩ đói khát ảnh hưởng đến việc quân và bị xử
chém. Đem thủ cấp về kinh tạ tội và mồ mã bị xiếng. Lúc chôn cất thi hài ông, người ta phải
làm cái đầu bằng sáp.
Hiện nay, bên cạnh chuyện trên, trong dân gian còn lưu truyền hai câu ca liên quan
đến ông nhưng chưa rõ nghĩa:
“Lạy trời, lạy Phật, lạy Vua
Lạy ông Hùng Dõng đánh đùa Tây sang”
Chữ “Tây” ở đây là chỉ Tây Sơn.
Năm 1947 lợi dụng lúc chiến tranh, kẻ gian lén quật mộ ông để tìm vàng bạc. Hiện
nay, cả hai ngôi mộ, nấm đã phảng lỳ, hai nấp quan tài lộ ra mặt đất.
Trong khu vực này có một số nơi mang tên Đá hàn, đó là những nơi Nguyễn Ánh cho
binh lính lấy đá từ núi Sam (Châu Đốc) về hàn bít một số sông rạch. Ngoài ra, sở đúc tiền ở
Bình Thành Đông, xưởng rèn binh khí ở Tân Mỹ, đồn thủ ở Tân An Trung, đồn Cường
Thành ở Bình Thành Tây, đồn Cường Uy ở Tân Thành…nay không để di tích gì, song còn
lưu lại vài địa danh như sông Trường Tiền, rạch Xưởng và Thủ Củ…
Thế là sau hơn một năm, kể từ khi về nước lấy vùng Nước Xoáy – Long Hưng làm căn
cứ, Nguyễn Ánh không cần ngoại viện mà vẫn thu phục được Gia Định. Từ căn cứ Long
Hưng, Nguyễn Ánh liên tiếp giành thắng lợi này đến thắng lợi khác, đến năm 1789 Tây Sơn
đã hoàn toàn mất Gia Định. Qua đó thấy được vai trò hết sức quan trọng của căn cứ Long
Hưng, Long Hưng không chỉ là vị trí thuận lợi cho Nguyễn Ánh tiến và rút quân, còn là nơi
cung cấp cho Nguyễn Ánh một lực lượng dồi dào, được sự ủng hộ của nhiều lực lượng, kể cả
đại địa chủ.
Mặc dù thắng lợi của Nguyễn Ánh là do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan như ý
chí quyết tâm khôi phục Gia Định của Nguyễn Ánh; phát động cuộc chiến đúng thời cơ; nắm
chắc và triệt để khai thác yếu tố địa lợi và nhân hoà; sự quản lý Gia Định yếu kém của Tây
Sơn; Nguyễn Huệ bận đối phó với việc quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Nhạc bỏ
rơi Gia Định và quá trình phong kiến hoá nhà nước Tây Sơn. Nhưng trong đó cũng không
thể không kể đến vai trò quan trọng của căn cứ Long Hưng – Sa Đéc.
KẾT LUẬN
Qua nội dung đã trình bày, rõ ràng căn cứ Long Hưng có vai trò rất quan trọng đối với
thắng lợi của Nguyễn Ánh ở Gia Định. Điều đó thể hiện rõ, trước khi Nguyễn Ánh đặt căn
cứ ở Long Hưng, Tây Sơn đã 4 lần liên tiếp đánh bật quân Nguyễn Ánh ra khỏi Gia Định.
Nhưng từ khi quyết định và chọn Long Hưng làm căn cứ thì lực lượng của Nguyễn Ánh
ngày càng phát triển, được sự ủng hộ của các địa chủ, đại địa chủ và nhân dân nên đã nhanh
chóng giành thắng lợi.
Trong lịch sử ít có tài liệu nào nói về vấn đề này, mặc dù cũng có đề cập đến các nhân
tố góp phần làm nên thắng lợi của Nguyễn Ánh, có cả nhân tố chủ quan và khách quan như:
Lòng kiên trì, ý chí – quyết tâm khôi phục cao độ của Nguyễn Ánh
Chỉ tính đến thời điểm khôi phục được Gia Định (đầu năm 1789), trong khoảng 14
năm đấu tranh với Tây Sơn, Nguyễn Ánh phải trốn chui trốn nhủi, nhịn đói chịu khát, nhiều
lần bị đánh bật ra khỏi Nam Bộ, binh tướng tan tác. Cuối cùng phải lưu vong sang Xiêm ăn
nhờ ở đậu gánh chịu nhiều nỗi nhục nhã.
Nhưng Nguyễn Ánh vẫn không vơi quyết tâm đánh Tây Sơn thu phục Gia Định, mảnh
đất mà tổ tiên Nguyễn Ánh đã dày công gầy dựng. Nguyễn Ánh đã vượt qua biết bao nhiêu
gian khó, trở ngại để đạt được mục tiêu. Vì kiên trì để đạt được mục tiêu mà Nguyễn Ánh đã
dùng bất cứ thủ đoạn nào để đạt được, trong đó đáng trách nhất là cầu viện quân Xiêm.
Mặc dù trong đấu tranh nội bộ hay chống ngoại xâm, để thủ thắng các bên có lúc cần
phải dựa vào ngoại viện. Nhưng hình thức ngoại viện mới là điều đáng nói. Tranh thủ ngoại
giao, giúp đỡ vũ khí phương tiện chiến tranh hay can thiệp bằng binh lực?. Dĩ nhiên trong
cuộc tranh chấp với Nguyễn Ánh, Tây Sơn cũng đã mua võ khí của Bồ Đào Nha.
Phát động cuộc chiến phục thù lần sau cùng đúng thời cơ
Rút kinh nghiệm trong những lần thất bại trước đó, hể mỗi khi Nguyễn Huệ mang
quân vào Gia Định với kỷ thuật hành quân thần tốc, bất ngờ và tập trung quân đánh vào một
điểm quyết định là chẳng những Nguyễn Ánh bị đánh bật ra khỏi đất liền mà còn bị truy nã
ráo riết, phải ẩn núp ở đảo Côn Sơn đến Phú Quốc...
Vì tầm nhìn chính trị hạn hẹp của Nguyễn Nhạc trái ngược với tầm nhìn xa, trông rộng
của thiên tài chính trị - quân sự Nguyễn Huệ nên đã dẫn đến cuộc “nồi da xáo thịt” ở Qui
Nhơn. Điều đó chẳng những làm tiêu hao nhiều binh lực mà uy danh tốt đẹp và hình ảnh
kiêu dũng của những người anh hùng nông dân áo vải đã bị phong kiến hóa từng bước, bị
xoáy mòn trong tâm tưởng của các tầng lớp nhân dân và trí thức lúc bấy giờ. Khi anh em Tây
Sơn dùng quân sự để giải quyết mâu thuẫn quyền lợi, đó là cơ hội tốt đẹp đối với Nguyễn
Ánh.
Nắm chắc và triệt để khai thác yếu tố địa lợi và nhân hoà
Cái ưu thế mà Nguyễn Ánh có được ở đất Gia Định vì ông là con cháu của các chúa
Nguyễn. Đối với phần lớn nhân dân Gia Định, trong thâm tâm của họ ẩn chứa tình cảm sâu
nặng với các chúa Nguyễn.
Họ cho rằng có được cuộc sống sung túc, có của ăn của để là nhờ công lao của các
chúa Nguyễn nên đương nhiên họ có bổn phận ủng hộ, giúp đỡ Nguyễn Ánh khôi phục cơ đồ
mà các Chúa Nguyễn đã dày công gầy dựng hàng trăm năm qua. Theo suy nghĩ đơn giản “ơn
đền oán trả”, “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” mới hợp đạo nghĩa ở đời. Cho nên không gì khó hiểu
khi thấy có nhiều điền chủ và cả nông dân ủng hộ Nguyễn Ánh.
Nên có lúc lực lượng Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đánh gần như tan rã hoàn toàn nhưng
chỉ sau một thời gian ngắn lực lượng lại được phục hồi nhanh chóng. Đồng thời Nguyễn Ánh
cũng đã khôn khéo đưa ra hàng loạt chủ trương bồi dưỡng, khoan dung sức dân để lôi kéo
dân chúng về phía mình.
Do đó, ngay cả trong lúc còn lưu vong Nguyễn Ánh đã lợi dụng sự quản lý lỏng lẽo và
yếu kém của Đông Định Vương Nguyễn Lữ cho người xây dựng cơ sở cũng được nhiều
người ủng hộ.
Đến cuối thế kỷ XVIII, đất Gia Định sau hơn một trăm năm khai phá, dù diện tích
được đưa vào sản xuất nông nghiệp chưa phải là nhiều nhưng đất đai màu mỡ, nguồn lợi tự
nhiên hết sức phong phú đã sớm làm xuất hiện nền kinh tế hàng hóa trên vùng đất mới này.
Ngoài ra nơi đây còn là nguồn cung cấp vật lực, tài lực dồi dào cho ai làm chủ được
nó và Nguyễn Ánh đã triệt để khai thác yếu tố nhân tâm để sử dụng được kho tàng phong
phú này.
Đối với Tây Sơn, Gia Định là nguồn lương thực thiết yếu, mỗi lần vào đánh Nguyễn
Ánh trở về, theo chân đoàn quân chiến thắng là những thuyền lương thực đầy ấp. Ngay trong
lúc một mình Thái Bảo Phạm Văn Tham chật vật đối phó với Nguyễn Ánh không được cứu
viện thì Nguyễn Huệ lại cử Thái úy Phạm Văn Hưng vào cứu viện hay lấy lương thực.
Chiếm giữ Gia Định, Nguyễn Ánh vừa làm chủ được nguồn lương thực, vừa phong
tỏa được sự tiếp tế từ Gia Định cho Qui Nhơn.
Ngoài những nhân tố chủ quan trên, còn có các nhân tố khách quan như:
Sự quản lý Gia Định yếu kém của Tây Sơn
Bốn lần đánh thắng Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ đều vội vã mang đại quân trở về Qui
Nhơn, không ở lại Gia Định hoặc cử người có tài đức ở lại, tổ chức chính quyền ổn định đời
sống nhân dân, xây dựng lực lượng tại chỗ hùng mạnh. Điều đó sẽ vừa tạo ra trong lòng
nhân dân sự an tâm, tin tưởng vào chế độ Tây Sơn, vừa có thể ngăn chặng sự khôi phục lực
lượng của Nguyễn Ánh. Đặc biệt là, sau trận phá tan hai vạn quân Xiêm, khi mọi người dân
Gia Định đều thấy rõ cái tội “cỏng rắn cắn gà nhà” của Nguyễn Ánh, hình ảnh của Nguyễn
Ánh đang sụp đổ trong lòng nhân dân Gia Định.
Về mặt tổ chức hành chính cai trị, chúng ta chỉ biết Nguyễn Nhạc giao Gia Định cho
Đông Định Vương Nguyễn Lữ quản lý, còn việc tổ chức chính quyền cơ sở quản lý xã hội ra
sao? Phải chăng chính quyền Tây Sơn chỉ quản lý Sài Gòn và các thị tứ đông dân.
Về kinh tế - xã hội, chính quyền Tây Sơn làm gì cho nhân dân Gia Định, ngoài việc
Đô Úy Đặng Văn Trấn đào con kinh mới Tranh Giang (Rạch Chanh) nối liền sông Vàm Cỏ
Tây với sông Bà Bèo xuyên ngang đất Ba Giồng nhằm mục đích quân sự hơn là kinh tế.
Tây Sơn có giải pháp kinh tế - xã hội nào để lôi kéo nhân dân Gia Định ra khỏi ảnh
hưởng của Nguyễn Ánh? Mỗi lần hành quân vào Nam, Tây Sơn chỉ tìm cách tiêu diệt lực
lượng quân sự của Nguyễn Ánh.
Nói chung việc quản lý Gia Định yếu kém là một thất sách lớn của Tây Sơn, tạo điều
kiện cho Nguyễn Ánh trở về lập căn cứ ở Nước Xoáy, từ đó làm bàn đạp chiếm lại Gia Định.
Nguyễn Huệ bận đối phó với việc quân Thanh xâm lược Việt Nam, Nguyễn Nhạc bỏ rơi Gia
Định.
Khi Nguyễn Ánh trở về chiếm được phân nữa Gia Định và lấy Nước Xoáy-Long
Hưng làm căn cứ (tháng 10 năm 1788) cũng là lúc nhà Mãn Thanh chuẩn bị tràn qua biên
giới Việt Trung xâm lược Bắc Hà.
Lúc này Nguyễn Huệ đang ở Phú Xuân phải tập trung tăng cường binh lực, lên kế
hoạch hành quân đối phó quân xâm lược nhà Thanh. Đây là cơ hội để Nguyễn Ánh đánh
chiếm lại Gia Định.
Gần hai năm, từ khi Nguyễn Ánh về nước lập căn cứ ở Nước Xoáy, Nguyễn Nhạc bỏ
mặc cho Nguyễn Lữ đối phó. Đến khi Nguyễn Lữ bỏ chạy về Qui Nhơn, Nguyễn Nhạc cũng
không có động thái gì cứu giúp, để một mình Thái Bảo Phạm Văn Tham chống đỡ cho tới
lúc thế cùng lực tận phải đầu hàng Nguyễn Ánh.
Quá trình phong kiến hóa nhà nước Tây Sơn
Quá trình phong kiến hóa nhà nước Tây Sơn bắt đầu diễn ra vào lúc Tây Sơn sắp thực
hiện xong nhiệm vụ thống nhất đất nước. Ngay sau khi vừa tiêu diệt được thế lực phong kiến
của họ Trịnh ở Đàng Ngoài (1786), công cuộc thống nhất đất nước chỉ còn tiêu diệt thế lực
của Nguyễn Ánh ở Gia Định nữa là xong.
Lực lượng Tây Sơn lại bắt đầu phân hoá theo xu hướng phong kiến cát cứ, điều mà họ
đấu tranh suốt hơn mười năm mới xoá bỏ được. Sau đó là cuộc tranh chấp quân sự giữa anh
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Điều này làm cho hàng loạt phú hào ở Gia Định nổi lên theo
Nguyễn Ánh, có cả một số tướng tài của Tây Sơn như Nguyễn Văn Trương (của Nguyễn
Nhạc), Nguyễn Đằng Vân, Nguyễn Văn Duệ (của Nguyễn Huệ) đầu hàng Nguyễn Ánh và
Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm... ra mặt phản bội Nguyễn Huệ.
Mặt khác, phong trào khởi nghĩa do Tây Sơn lãnh đạo về căn bản là một cuộc cách
mạng nông dân với lực lượng chủ yếu là nộng dân. Do điều kiện lịch sử hạn chế nên Nguyễn
Huệ chỉ giải quyết các mâu thuẫn xã hội trong khuôn khổ chế độ phong kiến mà thôi.
Xã hội mới do Tây Sơn dựng lên vẫn trên cơ sở quan hệ nông dân và địa chủ. Thêm
vào đó là sự qua đời đột ngột của Nguyễn Huệ năm 1792.
Như vậy, thắng lợi của Nguyễn Ánh có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tạo nên.
Trong đó việc chọn Long Hưng làm căn cứ là một quyết định hết sức quan trọng, căn cứ
Long Hưng không phải được xây dựng trong một ngày một bữa mà đã được Nguyễn Ánh
xây dựng và chuẩn bị lực lượng ở căn cứ này trong nhiều năm.
Nghiên cứu về vùng đất Long Hưng, có thể thấy rằng Long Hưng không chỉ là căn cứ
trong cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn mà còn là nơi thiết lập căn cứ trong thời kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ. Là nơi đóng cơ quan của nhiều cấp lãnh đạo, bảo đảm thông
suốt con đường giao liên, áp tải từ miền Đông xuống miền Tây, phục vụ chiến trường toàn
miền trong suốt thời kì chống Pháp, chống Mỹ.
Đặc biệt trong cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn, vùng đất này cũng đã sinh ra
Nguyễn Văn Nhơn, Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Văn Trọng.... cùng với
các địa danh Bờ Rào, Nước Xoáy, Vàm Đinh, Long Hưng, Bà Két... luôn in đậm trong lòng
người. Do đó, song song với việc xây dựng và phát triển vùng đất Long Hưng ngày càng
giàu đẹp, là khôi phục lại một số di tích tiêu biểu cho mỗi thời kỳ lịch sử, trong đó có thời kỳ
nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn (1777 – 1789) đưa vào phục vụ du lịch, phát triển kinh tế
dựa trên ưu thế của địa phương.
Căn cứ vào lợi thế của vùng Long Hưng, ta có thể xây dựng cho địa phương một loại
hình kinh tế du lịch mang ba đặc điểm như:
Du lịch văn hoá – lịch sử
Du lịch văn hoá – sinh thái
Du lịch làng nghề
Và hiện nay được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các ban ngành thì tại xã Long
Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp đang thi công xây dựng “Khu du lịch Văn hoá
Lúa nước” với tổng diện tích quy hoạch là 72.301 ha, bao gồm các khu bảo tồn di tích, khu
trồng cây ăn trái và khu trồng lúa nước. Hi vọng, sau khi hoàn thành khu du lịch sẽ là nơi
tham quan hữu ích, lý tưởng cho khách trong và ngoài nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu thành văn
1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời – Nghiên cứu địa lí học lịch sử,
NXB Thuận Hóa, 2006.
2. Huỳnh Công Bá, Lịch sử Việt Nam, NXB Thuận Hóa, 2002.
3. Trần Thái Bình, Tìm hiểu LSVN, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội, 2001.
4. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thanh niên, Hà Nội,
2001.
5. Phan Trần Chúc, Việt Nam sử học triều Tây Sơn, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội,
1994.
6. Chuyên khảo tỉnh Mỹ Tho, 1937.
7. Nguyễn Đình Đầu, Địa bạ Triều Nguyễn-tỉnh An Giang, NXB TP.HCM, 1995.
8. Nguyễn Đình Đầu, Tổng kết nghiên cứu Địa bạ Nam kỳ lục tỉnh, NXB TP.HCM,
1994.
9. Trần Bá Điệp, Long Hưng kỳ tích (Bản viết tay).
10. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, NXB Khoa học xã hội, 1972.
11. Đảng ủy – Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Tháp, Lịch sử Sadec – Long Châu Tiền –
Long Châu Sa, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1998.
12. Trần Bá Đệ, Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, NXB ĐHQGHN, 2002.
13. Trần Bá Đệ, Một số chuyên đề LSVN, NXB ĐHQGHN, 2002.
14. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam toàn tập, NXB Giáo dục,
2001.
15. Hoàng Xuân Hãn – Phan Huy Lê – Phan Khoang…, Quang Trung Nguyễn Huệ,
Tạp chí Xưa và Nay, NXB Văn Hóa Sài Gòn.
16. Hội KHLS Huế, Tây Sơn – Thuận Hóa và anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ Quang
Trung, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
17. Hội KHLS Việt Nam, Lược sử vùng đất Nam Bộ, NXB Trẻ, Hà Nội, 2008.
18. Nguyễn Hữu Hiếu – Ngô Xuân Tư – Lê Đức Hòa – Nguyễn Đắc Hiền (tuyển chọn
và biên tập), Đồng Tháp 300 năm, NXB Trẻ, 2004.
19. Huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp, Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long
Hưng A, Ban Tuyên giáo huyện ủy Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng A, 2005.
20. Huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng Tháp, Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long
Hưng B, Ban Tuyên giáo huyện ủy Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng B, 2005.
21. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Văn hóa thông tin, 2006.
22. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia, Nghiên cứu và giảng dạy lịch sử thời Nguyễn
ở Đại học, Cao đẳng sư phạm và phổ thông, Bộ Giáo dục và đào tạo, Trường ĐHSP Hà Nội,
Hà Nội, 2002.
23. Võ Văn Kiệt – Trần Bạch Đằng – Đinh Xuân Lâm, Lê Văn Duyệt với vùng đất
Nam Bộ, NXB VNSG.
24. Đinh Xuân Lâm (chủ biên) – Nguyễn Văn Khánh – Nguyễn Đình Lễ, Đại cương
Lịch sử Việt Nam – tập 2, NXB Giáo dục, 2002.
25. Huỳnh Minh, Sadec Xưa và Nay, XB Cảnh Bằng, 1971.
26. Nguyễn Cảnh Minh, Giáo trình Lịch sử Việt Nam tập 3 (từ TK XVI – 1858), NXB
ĐHSP.
27. Nguyễn Cảnh Minh – Đào Tố Uyên, Một số chuyên đề Lịch sử Cổ trung đại Việt
Nam, NXB ĐHSP.
28. Sơn Nam, Lịch sử khẩn hoang Việt Nam, NXB Trẻ, 2007.
29. Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Bản dịch Nguyễn Đức Văn - Kiều
thu hoạch.
30. Nguyễn Phương, Việt Nam thời bành trướng Tây Sơn, Khai trí Sài Gòn, 1968.
31. Nguyễn Phan Quang, Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung,
NXB Tổng hợp TP.HCM.
32. Quốc sử quán, Đại Nam thực lục tiền biên – tập 1, Viện sử học, 1961.
33. Quốc sử quán, Đại Nam thực lục tiền biên – tập 2, Viện sử học, 1961.
34. Quốc sử quán, Đại Nam liệt truyện – tập 1, NXB Thuận Hóa, 1997.
35. Quốc sử quán, Đại Nam liệt truyện – tập 2, NXB Thuận Hóa, 1997.
36. Quốc sử quán, Đại Nam liệt truyện – tập 3, NXB Thuận Hóa, 1997.
37. Quốc sử quán, Đại Nam liệt truyện – tập 4, NXB Thuận Hóa, 1997.
38. Sở Văn hóa thông tin Nghĩa Bình, Góp phần tìm hiểu phong trào Tây Sơn –
Nguyễn Huệ.
39. Văn Tân, Cách mạng Tây Sơn, NXB Khoa học xã hội 2004.
40. Nguyễn Đình Tư, Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, NXB Chính trị Quốc Gia.
41. Hồ Bạch Thảo, Thanh thực lục – Sử liệu chiến tranh Thanh – Tây Sơn, Hà Nội,
2007.
42. Nguyễn Khắc Thuần, Danh tướng Việt Nam tập 3, NXB Giáo dục, 2003.
43. Nguyễn Khắc Thuần, Việt Nam tư liệu tóm tắt, NXB Giáo dục.
44. Tạ Chí Đại Trường, Lịch sử nội chiến ở Việt Nam (1771 – 1802), Văn học sử.
45. Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò (2005), Lịch sử vùng Long Hưng (TK XVIII –
2000), Đồng Tháp.
46. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa – Hội Khoa học LSVN, Chúa Nguyễn và Vương
triều Nguyễn trong LSVN từ TK XVI – XIX, NXB Thế giới, Hà Nội 2008.
47. Viện sử học, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), NXB Giáo
dục, 2002.
48. Viện sử học, Việt Nam những sự kiện lịch sử (từ khởi thủy đến 1858), NXB Giáo
dục, 2002.
49. Viện Khoa học xã hội Việt Nam viện sử học – Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại
Nam thực lục, NXB Giáo dục.
50. Nguyễn Khắc Xuyên, Xứ Đàng Trong năm 1621, NXB Trẻ TP.HCM, 1997.
51. Monographic de la Province de Sadec, Sài Gòn, 1903.
II. Tài liệu thực địa
52. Hồ sơ khảo sát nền đồn Nước Xoáy ở xã Long Hưng A – Huyện Lấp Vò – tỉnh
Đồng Tháp, do Liêu Thị Linh thực hiện, tháng 01 năm 2011.
53. Hồ sơ khảo sát di tích Miếu Gia Long ở xã Long Hưng A – Huyện Lấp Vò – tỉnh
Đồng Tháp, do Liêu Thị Linh thực hiện, tháng 01 năm 2011.
54. Hồ sơ khảo sát khu mộ Bỏ Hậu ở xã Long Hưng A – huyện Lấp Vò – tỉnh Đồng
Tháp, do Liêu Thị Linh thực hiện, tháng 01 năm 2011.
55. Phỏng vấn ông Nguyễn Văn Đức, 63 tuổi ở xã Long Hưng A - huyện Lấp Vò - tỉnh
Đồng Tháp, do Liêu Thị Linh thực hiện, tháng 01 năm 2011.
PHỤ LỤC
Vùng Long Hưng cuối thế kỉ XVIII đầu XIX
Nguồn: “Lịch sử vùng Long Hưng thế kỷ XVIII-2000”, đề tài khoa học do Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò thực hiện (2005)
Nguồn: “Lịch sử vùng Long Hưng thế kỷ XVIII-2000”, đề tài khoa học do Ủy ban nhân dân huyện Lấp Vò thực hiện (2005)
MỘT SỐ DI TÍCH Ở LONG HƯNG LIÊN QUAN ĐẾN CUỘC NỘI CHIẾN NGUYỄN ÁNH – TÂY SƠN
Cổng Miếu Cao Hoàng (Miếu Gia Long)
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Bàn thờ trong Miếu Gia Long
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Con Nghê đá trước Miếu Gia Long
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Cây da ở Miếu Gia Long
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Rạch Gỗ vào Bảo Hậu
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Rạch Cái Bàng vào Bảo Tiền
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 20
Mộ con gái của Ông Nguyễn Văn Mậu
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
Khu du lịch Văn hoá Lúa Nước đang được xây dựng
(Ảnh do tác giả Luận văn chụp, tháng 01 năm 2011)
MỘT SỐ NHÂN VẬT VÀ ĐỊA DANH Ở LONG HƯNG LIÊN QUAN ĐẾN CUỐC NỘI CHIẾN NGUYỄN ÁNH – TÂY SƠN
1. Nguyễn Văn Tuyên (1762-1830)
Nguyễn Văn Tuyên, người huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc vùng Sa Đéc)
Năm 26 tuổi, khi Nguyễn Ánh về lập căn cứ ở Nước Xoáy, ông ra đầu quân và lập
được nhiều công và được phong làm Phó vệ uý Hổ uy thần sách, có lúc bị cách chức nhưng
rồi lại được phục chức.
Từ năm 1801 đến 1816 do có nhiều công lao trong lĩnh vực quân sự và kinh tế nên
được thăng đến chức Vệ uý vệ Chấn bảo khâm sai Chưởng cơ. Năm 1819 được sung làm
Phó Đổng lý trông coi việc đào kinh Vĩnh Tế, con kinh chiến lược ở Nam Kỳ. Năm 1822
làm Trấn thủ Biên Hoà, sau đó xin từ chức về chịu tang cha, đến khi mãn tang ông được cử
làm Trấn thủ Định tường.
Năm 1823 cùng với Nguyễn Văn Thoại và Trần Công Lại bàn kế hoạch và chỉ huy
công việc đào kinh Vĩnh Tế, sau đó lại được triệu về kinh. Năm 1825 được cử làm Trấn thủ
trấn Vĩnh Thanh, rồi lãnh chức Thống chế coi biền binh ở Gia Định. Năm 1827 khi Tổng
trấn Gia Định thành là Lê Văn Duyệt được triệu về kinh công cán, ông được cử quyền nhiếp
Tổng trấn vụ. Khi Lê Văn Duyệt trở về, ông lại được sung chức như cũ.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
2. Nguyễn Văn Mậu
Trên bước đường gian nan tẩu quốc khi thất thế về nương náu tại làng Tân Long
(Nước Xoáy – Hồi Oa) Chúa Nguyễn Phúc Ánh đã gặp một vị ân nhân tận tình phụng
dưỡng, khiến cảm khích đến tôn xưng người ấy là ông Bỏ cũa mình, tức coi như là cha nuôi.
Khoảng năm 1787 Nguyễn Lữ chiếm Gia Định và thâu tóm nhiều nơi trong Nam.
Chúa Nguyễn Phúc Ánh từ Xiêm trở về, dung thân tạm nơi một góc trời Nước Xoáy.
Ông Nguyễn Văn Mậu vốn là nhà hào phú trong làng, tuổi cao đức cả tính hiền lành
hay giúp kẻ hoạn nạn, khó khăn. Trong làng, người người đều mến ông.
Ngày kia, có người đến to nhỏ cùng ông một chuyện quan trọng: Thưa ông rùm Cả,
ông có hay chuyện quan trọng mới xảy ra trong làng ta chăng?
Ông Trùm Mậu ngạc nhiên:
- Chuyện chi quan trọng vậy chú em?
- Thưa ông, có một vị quý nhơn dẫn lính đến ngụ nơi làng ta, ông liệ sao? Không khéo
làng ta sẽ mắc hoạ binh đao chớ chẳng không.
- Chà, có chuyện như thế sao? Vị quý nhơn hiện giờ ngụ ở nhà nào? Để ta coi thử diện
mạo người rồi sẽ liệu. Ông Trùm Mậu bèn theo gót người làng đến tận nơi trú ngụ của chúa
Nguyễn Phúc Ánh mà xem xét vị quý nhơn ấy ra sao. Thoạt trông thấy vị thiếu niên mặc y
phục theo trong hoàng phái, dáng nho nhã, nét cương nghị trầm hùng biểu lộ trên gương mặt
rắn rỏi, quả cảm. Ông Mậu khen thầm “đây là một vị chơn chúa đang lúc phong trần, mai sau
thanh vân đắc lộ quyết chẳng ai hơn nổi đâu”.
Bèn ra mặt, bái kiến chúa Nguyễn, Nguyễn Vương kính ông tuổi tác, vội vàng nghiêng
mình đáp lễ ân cần hỏi:
- Lão trượng là ai?
Ông Mậu tỏ thật tên họ và chức nghiệp, Nguyễn Vương cảm khái:
- Chúng tôi truận chuyên lưu lạc đến đây, chắc đồng bào cảm thông mà giúp đỡ cho
tôi chớ?
Ông Mậu khẳng khái:
- Vâng, Chúa đang bước long đong, phận tôi con đâu dám chẳng hết lòng.
Từ hôm ấy, ông Mậu xuất tài sản châu cấp cho binh sĩ của Nguyễn Vương và vận
động người trong làng sốt sắng ủng hộ cho.
Mỗi ngày, tại nhà ông nấu sẵn cơm cháo, cho ghe chở nườm nượp ra đến vàm Nước
Xoáy, cách nhà ông độ 3 cây số tiếp tế quân đội Nguyễn Vương. Ròng rã ba tháng, ông tận
tình giúp đỡ, nhờ đó binh Nguyễn Ánh thắng nổi Tây Sơn.
Nguyễn Vương niệm ơn ông, lại xét ông là bậc trưởng thượng trung can nghĩa khí,
lòng dạ đáng thương, bèn cung kính tôn ông làm Bỏ của ngài, tức là coi ông như cha nuôi,
ông Mậu thấy thế cả kinh: Xin chúa thượng chớ quá hạ mình, kẻ hạ dân không dám vọng
tưởng đến như thế.
Nguyễn Vương cảm động: Bỏ chớ ngại, xét ra xứng đáng cho tôi kỉnh là Bỏ, xin đừng
từ chối mà phụ lòng tôi mến chuộng, cảm đức của Bỏ.
Ông nghe câu nói đầy ân hậu, lòng cảm thương, càng dốc lòng lo cho Nguyễn Vương.
Trong quân, ai nấy cũng đều tôn xưng kính trọng ông, ông chẳng biết lấy chi đáp lại
cho cân nên nguyện xin dâng người con gái út của ông cho Nguyễn Vương dùng làm Tấn –
nhân hầu hạ Chúa. Nhưng nàng phản đối ý cha, giả điên cho đến chết.
Về sau Nguyễn Vương thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng Đế, tức vua Gia Long, nhà
vua vẫn niệm ơn ông Bỏ Hậu. Sắc phong tước Đức Hầu. Khi vua Gia Long mới lên ngôi, có
người trong Nam nghe được tin ấy, chạy đến nhà ông Mậu mà tỏ chuyện:
- Mừng cho ông sắp vinh hiển to rồi.
Ông nghiêm trang:
- Chuyện chi đáng mừng?
- Ông chưa hay gì sao? Đương kiêm Hoàng Đế chính là người đã trọng ông làm Bỏ
khi trước đó.
- Thật chăng?
- Ông cứ cho người doạ hỏi thì biết.
Ông nghe tin ấy, lòng người cũng mừng cho Nguyễn Vương đã đắc vận. Riêng ông,
ông không tin tưởng lắm rằng vua Gia Long sẽ chẳng quên ơn ông. Đến khi có sắc chỉ của
triểu đình đưa vào tặng phong ông tước Đức hậu, bấy giờ ông mới biết công mình nuôi giúp
chẳng uổng, mắt xanh nhận xét chẳng lầm người.
Người trong làng đều khen phục ông tinh tường, biết chơn chúa trong cơn lưu lạc
phong trần.
Năm Gia Long thứ 8 (1809) ông mãn phần. Vua Gia Long thương tiếc, có chỉ truyền
sai một phái đoàn trong Công Bộ vào xây Lăng cho ông và cho người con gái của ông rất
trọng hậu. Lăng ấy nay hãy còn nhưng các chữ ở mộ bia đã phai mờ.
Bà Đốc phủ Phải ở chợ Lớn mấy mươi năm trước đây, chính là chắc gái của ông Bỏ
của Vua Gia Long vậy.
Nơi làng Long Hưng, dòng dõi ông cũng còn nhiều.
Ông Hoà – Trai Nguyễn Văn Dần có thơ cảm đề:
Tuấn kiệt nghiêng vai đỡ lấy trời,
Anh hùng trưởng lão phải là chơi,
Đất Nam thượng phụ không hai mặt,
Cõi Việt họ hầu biết mấy mươi
Khương Tử ngồi câu trong mỏi mắt
Vỏ Hầu xếp quạt cũng hao hơi,
Cần vương tầm nhựt người trên trước
Âu phải liều thân giúp với đời.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
3. Nguyễn Văn Nhơn (1753-1822)
Ông sinh ra tại làng Tân Đông, huyện Vĩnh An (nay thuộc xã Tân Khánh Đông, thị xã
Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp).
Đầu năm 1774, quân Tây Sơn trên đường truy kích chúa Nguyễn, đánh chiếm Biên
Hoà. Lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phước Hiệp và Cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên mộ quân
giúp chúa Nguyễn. Nguyễn Văn Nhơn lúc bấy giờ 22 tuổi, đầu quân dưới tướng Nguyễn
Khoa Thuyên, được phong làm đội trưởng.
Từ đó cho đến cuối đời ông theo Nguyễn Ánh và làm quan trải qua hai triều Gia Long
và Minh Mạng, lập được nhiều công, chẳng những đối với triều đình nhà Nguyễn mà còn đối
với nhân dân và là người hai lần giữ chức Tổng trấn thành Gia Định.
Lúc nhỏ vì chiến tranh loạn lạc, không có điều kiện học hành, mãi đến năm 50 tuổi lúc
ông làm Lưu thủ Trấn Biên mới mời thầy về dạy học. Tranh thủ khi nhàn rỗi việc quan, ông
thường tìm sách đọc, nâng cao kiến thức phục vụ công việc quản lý phát triển kinh tế xã hội.
Năm 1802 ông được thăng Chưởng chấn vũ quân tước Quận công.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
4. Nguyễn Văn Bế
Người huyện Vĩnh An, Ông từng theo chúa Nguyễn Phúc Ánh sống cuộc đời lưu vong
ở Vọng Các (Xiêm) được phong chức Tổng Nhung Cai cơ.
Những khi Nguyễn Vương kéo binh trở về, giao chiến với Tây Sơn, ông đảm nhận sứ
mạng giao liên giữa Nguyễn Vương với vua quan Xiêm. Ngoài ra ông còn khéo tổ chức dân
quân ủng hộ Nguyễn Vương.
Khi ông mất, Nguyễn Vương truy tặng ông chức Chưởng Cơ, liệt thờ vào hai miếu
Hiển Trung và Trung Hưng.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
5. Hoàng Phước Bửu
Người huyện An Xuyên, ông tận tuỵ với chúa Nguyễn Phúc Ánh, gian lao nguy hiểm
chẳng quản gì thân. Ông được Nguyễn Vương tín nhiệm. Lúc Nguyễn Vương lưu vong nơi
Vọng Các ông vẫn theo bảo giá, làm đến chức Trung Đồn Uy Vủ Vệ uý.
Trung thành với Nguyễn Vương ông xông pha ngoài tiền tuyến dư trăm trận, đối đầu
với Tây Sơn ở nhiều nơi. Đến năm Tân Dậu (1801), ông tùng chính ở Qui Nhơn, tử trận nơi
Thạch Cốc, được truy tặng chức Chưởng Cơ.
Năm Gia Long thứ 3 (1804), nhà vua cho liệt thờ ông vào các Miếu Chiêu Trung,
Hiển Trung và Bảo Trung.
Năm Gia Long thứ 9 (1810) lại được liệt thờ vào miếu Trung hưng công thần.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
6. Nguyễn Văn Trọng
Người huyện An Xuyên, nổi tiếng hào hùng, tinh thông võ nghệ. Gặp thời loạn ông
dốc lòng theo đường binh nghiệp, cứu loạn, an dân, bèn quyết định phụ tá chúa Nguyễn Phúc
Ánh.
Khi mới đầu quân, ông đã được trọng dụng, phong chức Khâm Sai Cai Cơ, theo Tổng
Nhung Nguyễn Thuyên và tiên phong Nguyễn Văn Thành điều khiển quân sĩ, giao phong
cùng Tây Sơn trên khắp mặt chiến trường. Dần dần làm đến chức Tiên phong đinh Lượng
Vỏ vệ Chính vệ.
Năm Canh Thân 1800, ông tùng chinh ở Qui Nhơn và tử trận tại Tư Sơn.
Đến năm Gia Long thứ hai 1803 được truy tặng Chưởng cơ liệt thờ vào miếu Bao
Trung. Năm thứ 9 (1810) liệt thờ vào miếu Trung hưng công Thần.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
7. Nguyễn Văn Định
Người huyện An Xuyên, làm đến Cai cơ, từng theo Nguyễn vương sống cuộc đời lưu
vong ở Vọng Các. Từ năm 1787 ông bảo giá Nguyễn Vương từ Xiêm trở về, rồi xông pha
trận mạc chẳng quãn gì thân. Đến khi tùng chinh ở Quảng Nam tử trận tại đây. Được truy
tặng Chưởng Cơ, liệt thờ nơi miếu Hiển Trung và miếu Trung Hưng.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
8. Nguyễn Văn Tuyên
Người huyện Vĩnh An, đầu quân dưới cờ Nguyễn Phúc Ánh, ông chống nhau với Tây
Sơn quyết liệt, có nhiều chiến công, làm đến Vệ Úy trong đoàn quân Chấn Vỏ.
Đến khi Nguyễn Vương khôi phục xong Gia Định, thẳng ra Phú Xuân, ông từng cùng
với ông Lê Văn Duyệt đánh dẹp ở nhiều nơi, trổ tài cứu loạn an dân. Nhất là khi đánh dẹp ở
Quãng Ngãi, ông đem lại an ninh cho dân chúng, khiến nhân dân xưng phục cảm mộ ân uy.
Ông mất trong trận công phá Qui Nhơn được truy tặng Chương Cơ.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
9. Sự tích cây da bến ngự
Tương truyền: khoảng năm 1787 chúa Nguyễn Phúc Ánh đồn binh tại Nước Xoáy, ẩn
náu tại xã Tân Long (nay là xã Long Hưng) thuộc quận Lấp Vò. Hai chữ “Long Hưng” chính
là do Nguyễn Vương sau đó đặt tên lại.
Trong khi đình trú tại đây, toan mưu phục nghiệp, Nguyễn Vương thường đến dưới
cây da cạnh mé rạch Long Hưng để câu cá. Nhân đó, dân chúng tôn kính gọi nơi ấy là “cây
da bến ngự”.
Nay vẫn còn gốc da to lớn nằm bên mé rạch Long Hưng. Đốc phủ sứ Nguyễn Đăng
Khoa khi làm Quận Trưởng quận Sa Đéc cảm đề hai bài Vịnh lúc Nguyễn vương ngụ nơi
Long Hưng:
Anh hùng nguồn Nguyễn ứng Long Hưng
Đế nghiệp trời Nam đã định chừng
Đất trổ cây Da làm bến ngự
Người hô tung nhạc hạ trời xuân
Gió thanh ngút toả mùi hương khí
Đất Việt lâm chầu vị quí nhân
Tiên chỉ hoành sơn là đế vượng
Triệu tường con cháu trổ long lân
Tiên vương bến ngự hãy còn đây
Căm nổi cây da chạnh nổi ngài
Trương tán đừng chờ trong gió bụi
Phơi râu hầu đón giữa trời mây
Tiếng nhơn thấp thoáng trên nhành đó
Dấu đức còn âu dưới cội này
Nắng lửa ai phong binh bổ với
Căm hờn nắng lửa thói tà tậy.
Khoảng năm 1958, khi Sa Đéc hãy còn là một quận của Vĩnh Long, trong dịp đi kinh
lý, Cố Tỉnh Trưởng Khưu Văn Ba được các bô lão và dân chúng xã Long Hưng mang đến
tặng một cái lư cổ bằng đá ong, di tích của vua Gia Long. Nhân đó, cố Tỉnh Trưởng Khưu
Văn Ba cho xây cất tại Cây da bến ngự một ngôi miếu lấy tên là Cao Hoàng Thái Miếu.
Muốn đến cây da bến ngự phải đi đường thuỷ, từ tỉnh lị Sa Đéc theo rạch Sa Đéc đến
vàm Nước Xoáy, đến xã Long Hưng độ 13 cây số ngàn.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
10. Chiến trường Bãi Hổ
Bãi Hổ, tên chữ là Hổ Chân, ở phía sông Tiền Giang và sông Tân Đông, là hai thôn cư
Tịnh Thới và Tân Tịch. Nơi này, khi xưa hình thế như cọp vờn mồi, đúng là nơi long tranh
hổ dấu. Cho nên, từ xa xưa Bãi Hổ vẫn là chỗ chiến trường đẫm máu khốc liệt. Chân Lạp,
Xiêm La thường động binh đánh phá chốn này. Mà nhà Nguyễn- Tây Sơn cũng từng xua
binh giao phong ác liệt nơi đây.
Trong khi nhà chúa Nguyễn Phúc và nhà Nguyễn Tây Sơn tranh hùng, trận đánh long
trời lở đất tại Bãi Hổ, xảy ra vào năm 1789.
Năm ấy, khoảng tháng 4 tướng lãnh chỉ huy quân đội Tây Sơn là Thái Bảo Phạm Văn
Tham dàn thành trận thế tại Bãi Hổ; Phạm Văn Tham vẫn là tướng giỏi của Tây Sơn, đã có
lúc đóng binh trần giữ Sài Gòn, bị Nguyễn Vương dùng kế ly gián, khiến Phạm Văn Tham
phải bị Tây Sơn nghi ngờ, đến nổi phải đầu hàng. Nhưng Phạm Văn Tham chẳng thật lòng
hàng phục nên ít lâu lại trở mặt đánh trả lại Nguyễn Vương.
Nghe tin Thái Bảo Phạm Văn Tham dàn quân nơi Bãi Hổ, Nguyễn Vương cả giận,
khiến Võ Tánh, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn dẫn binh đi đánh. Chiêng trống
vang trời bụi binh mù mịt. Tiếng quân sĩ thét la vang vội một gốc trời như cọp gầm chấn
động.
Với khí thế hào hùng sẵn có, Nguyễn Vương phá tan quân đội của Phạm Văn Tham.
Tuy nhiên đôi bên đều đã tổn thất nặng nề. Sau trận Bãi Hổ, tương truyền: những đêm thanh
vắng, nhân dân quanh vùng thường nhận thấy có lắm hiện tượng quái ảo xảy ra.
Hồn ma bóng quế chập chờn trong sương mù, tiếng vọng ồn ào như vó ngựa dập dồn,
đoàn quân vượt tiến.
Não nùng thay, một con sông Man Thít đẩm máu, Châu Văn Tiếp qui thần; lại thêm
Bãi Hổ xương khô chất đống. Phạm Văn Tham tán đởm kinh hồn. Sa Đéc ngày xưa lắm nổi
đau thương vì chiến hoạ “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”, từ xưa cuộc chinh chiến vẫn
là điều đại bất hạnh cho một dân tộc lâm tai kiếp nói riêng, tủi nhục cho nhân loại hiếu sát
hiếu chiến nói chung. Cho nên, qua cơn binh lửa, những nơi từng là bãi chiến trường ác liệt,
hẳn là oán khí lâu tan oan, hồn vất vưỡng gây nên lắm điều quái dị cũng là thường.
Nhân nhắc đến đoạn sử đau thương “Sống gần Man Thít, chúng tôi thêm nổi ngậm
ngùi về chiến trường Bãi Hổ, đánh dấu một thời quá khứ, dân tộc điêu linh vì nội chiến, đồng
chủng tương tàn...
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.
11. Nguyễn Vương đến vùng Nước Xoáy Long Hưng
Năm Đinh Vị 1787, tháng 10 âm lịch, dân chúng quanh vùng Nước Xoáy xôn xao vì
một tin loan truyền quan trọng:
- Thánh giá sẽ ngự đến vùng này trong nay mai.
Các vị bô lão tỏ vẽ lo ra;
- Nếu thế, nơi này ắt sẽ chẳng khói vướng hoạ binh đao. Nguyễn Vương từ bên nước
Xiêm kéo binh về đây, một khi thám tử Tây Sơn doạ tin đích xác, sớm tối chúng sẽ
xua quân tới tấn công chớ chẳng không. Chừng ấy, chốn này hoá ra bãi chiến trường.
Phải liệu làm sao?
Nhiều người đưa ý kiến:
- Không ngại. Đấng trượng phu thấy phải thì làm, thì vừa giúp, họ có sợ gì nguy hiểm.
Đợi khi ngự giá đến đây, chúng ta xét thấy đáng là một vị chơn chúa, thì cùng nhau
gắng sức khuông phò. Bằng như xét chẳng ra gì, chúng ta sẽ liệu cách đối phó chẳng
muộn. Hãy cứ bình tỉnh chờ xem tình thế biến chuyển ra sao.
Ai nấy đều khen phải. Chẳng mấy ngày, binh sĩ của Nguyễn Vương rầm rộ đến vùng
Nước Xoáy, an dinh hạ trại, xây đồn đắp luỹ. Khéo thu phục nhân tâm, Nguyễn vương
chiêu dụ dân chúng trong vùng, khiến ai nấy đều cảm khích, trợ lực. Các vị bô lão và các
thân hào nhân sĩ địa phương dần dần cũng có cảm tình, hết lòng ủng hộ Ngài.
Vì sao chỗ ấy gọi là vùng Nước Xoáy? Nguyên tại đó có Tiền Giang và Hậu Giang
giáp nối, cùng các sông rạch khác chảy dồn vào đấy, nước chảy xoáy vòng lại nên mới
gọi là vùng Nước Xoáy, tên chữ đặt là Hồi Oa thuỷ.
Nguyễn vương truyền xây đắp thành đất tại đấy. Hai bên tả hữu đều có lập đồn phòng
thủ. Phía tã giao cho hai vị tướng lãnh Huỳnh Văn Kháng và Tống Phước Ngoạn coi giữ.
Phía hữu do nguyễn Văn Trương và Tô Văn Noài canh chừng, ngăn ngừa quân địch xâm
nhập.
Bình Tây Sơn vẫn thường đánh phá nhưng các tướng của Nguyễn vương đủ sức đẩy
lùi được. Tuy nhiên, nhiều trận giao phong dữ dội, đôi bên đều tổn thất nặng nề. Để yểm
trợ binh sĩ trong trường xung sát, Nguyễn vương khiến làm thêm sung đại bác bằng gỗ,
lấy hột cau khô làm đạn bắn nả. Đồng thời các tướng Tôn Thất Huy, Lê Văn Thược, Tôn
Thất Hội và Nguyễn Duy Nhuận chia nhau tấn công tứ phía. Do đó Binh Tây Sơn núng
thế phải rút đi.
Dân chúng lần lần theo về với Nguyễn vương hầu hết, Nguyễn vương thu dụng cả,
chia ra làm hai đoàn. Cảm tấm lòng nhân hậu ấy, dân chúng vùng Hồi Oa càng dốc lòng
phù tá Nguyễn vương hơn nữa. Ấy là một thắng lợi dưa đến sự thành công sau này, do sự
Nguyễn vương đã khéo léo chinh phục nhân tâm, giữ vững được vùng trọng yếu làm căn
bản tạo nên nghiệp đế.
Đốc Phủ Sứ Nguyễn Đăng Khoa khi ngồi quận trưởng Lai Vung, cảm hoài lúc
Nguyễn vương náu mình nơi Hồi Oa có bài thơ vịnh:
Tiên hoàng phong ngợi cảnh Hồi Oa
Vận nước xây nên cánh hiệp hoà
Nguồn suối tăm quay quay hổn độn
Cảm vì cảnh ác xơ long lá
Thương nổi phùng vi rối ruột rà
Vận phái triều tôn trời đất định
Khách trần ai để tính cho qua.
Đáp lại lòng thương mến của dân chúng Hồi Oa, nhất là cảm thấy đây là chỗ hưng
vượng để phát thành nghiệp cả; Nguyễn vương nhóm họp các bô lão trong vùng mà tuyên
bố:
Từ ta đến đây, phong quang càng ngày càng rạng vẽ, dân chúng thuần phát nhiệt thành
ủng hộ ta, thật đáng cảm khích. Quả đây là đất hưng vượng, giúp ta gầy nên cơ nghiệp.
Vậy để lưu niệm, ta đổi tên Hồi Oa lại là Long Hưng. Chư vị nghĩ thế nào?
Các bô lão đều rập nhau tán thành:
- Chúa thượng đã tưởng đến, vinh hạnh cho vùng đất xứ sở chúng tôi. Tên đất do chúa
thượng ban cho, chúng tôi xin ghi lấy để tưởng nhớ mãi mãi.
Nguyễn vương hân hoan, truyền bày tiệc thết đãi các bô lão và cho mở hội để
dân chúng liên hoan trong dịp đổi tên làng mới.
Ân oai của Nguyễn vương ngày một đượm nhuần nơi Sa Đéc. Để kỷ niệm,
Nguyễn vương lại đặt tên cho những làng xã quanh đấy đều mang một chữ “Long” ở
trước như Long Thắng, Long Ẩn, Long Hậu.
Nguồn: Sa Đéc Xưa và Nay của Huỳnh Minh, Xuất Bản
Cảnh Bằng, 1971.