BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TR NG I H C KINH T TPHCM

LÊ THỊ THÙY TRANG

MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI ĐẦU TƢ CỦA

CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ

NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP 5 NƢỚC ASEAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TR NG I H C KINH T TPHCM

LÊ THỊ THÙY TRANG

MỐI QUAN HỆ GIỮA CHI ĐẦU TƢ CỦA

CHÍNH PHỦ VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ

NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP 5 NƢỚC ASEAN

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. VŨ THỊ MINH HẰNG TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và hoàn toàn do tôi

hoàn thành. Các số liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm nêu trong luận văn là

trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công

trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LÊ THỊ THÙY TRANG

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài................................................................................................ 1

2. Mục tiêu nghiên cứu .......................................................................................... 2

3. Tổng quan lý thuyết ........................................................................................... 3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 3

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 4

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ............................................................................... 5

7. Bố cục của luận văn ........................................................................................... 5

CHƢƠNG I

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƢ CÔNG VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH

TẾ ........................................................................................................................... 7

1.1 Cơ sở lý thuyết về đầu tƣ công ........................................................................ 7

1.1.1 Khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công ......................................... 7

1.1.2 Cơ sở lý thuyết về đầu tư công .................................................................. 8

1.1.3 Mối quan hệ tác động của đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ................ 12

1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tƣ công và tăng

trƣởng kinh tế ...................................................................................................... 13

1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước phát triển ................................ 13

1.2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước đang phát triển ........................ 14

1.2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm ở trong nước.............................................. 15

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƢ CÔNG VÀ TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ Ở VIỆT

NAM VÀ CÁC NƢỚC ASEAN .......................................................................... 18

2.1 Tình hình kinh tế ở các nƣớc ASEAN .......................................................... 18

2.2 Thực trang đầu tƣ công và tăng trƣởng kinh tế ở Việt Nam và một số nƣớc

ASEAN ................................................................................................................. 19

2.2.1 Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng ............................................. 19

2.2.2 Thu và chi ngân sách nhà nước ............................................................... 21

2.3 Đánh giá hiệu quả đầu tƣ công ..................................................................... 24

2.3.1 Đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế ................................................. 24

2.3.2 Thước đo hiệu quả của vốn đầu tư .......................................................... 25

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU.................................. 28

3.1 Phƣơng pháp luận ......................................................................................... 28

3.2 Mô hình nghiên cứu ....................................................................................... 29

3.2.1 Kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian .......................................... 29

3.2.2 Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Model) .............................. 30

3.2.3 Kiểm định tính nhân quả Granger........................................................... 31

CHƢƠNG 4

DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ............................ 34

4.1 Dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm ................................................................... 34

4.2 Các iể định trị riêng nghiệ đơn vị ảng ................................................ 39

4.3 Áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM)................................................... 43

4.3.1 Phương trình hồi qui các biến trong dài hạn ........................................... 43

4.3.2 Phương trình hồi qui các biến trong ngắn hạn ........................................ 46

4.4 Kiể định mối quan hệ nhân quả Granger giữa đầu tƣ công và tăng

trƣởng kinh tế ...................................................................................................... 48

4.5 Tổng hợp kết quả và một số gợi ý về mặt chính sách công .......................... 49

4.5.1 Tổng hợp kết quả nghiên cứu .................................................................. 49

4.5.2 Ý nghĩa về mặt chính sách công liên quan đến tăng trưởng kinh tế và đầu

tư công ở các nước ASEAN .............................................................................. 46

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 52

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 54

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng phát triển Châu Á

ADF Kiểm định Augmented Dickey – Fuller

ECM Mô hình hiệu chỉnh sai số

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

NSNN Ngân sách nhà nước

GDP Tổng sản phẩm quốc dân

NHNN Ngân hàng nhà nước

PPP Các dự án kết hợp giữa nhà nước và tư nhân

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1: Thu chi ngân sách so với GDP của một số nước ông Á và 22

ông Nam Á (%)

Bảng 2.2: So sánh ICOR của Việt Nam và của một số nước ASEAN 26

Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình 35

Bảng 4.2 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu 40

thế, độ trễ 2 (biến gốc)

Bảng 4.3 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, 41

độ trễ 2 (biến gốc)

Bảng 4.4 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu 42

thế, độ trễ 2 (biến sai phân)

Bảng 4.5 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, 42

độ trễ 2 (biến sai phân)

Bảng 4.6 Kết quả hồi qui mô hình cân bằng trong dài hạn (ECM) có phân 43

tích độ mạnh (robust)

Bảng 4.7 Thống kê mô tả phần dư Res của mô hình cân bằng trong dài hạn 44

(ECM) có phân tích độ mạnh

Bảng 4.8 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu 45

thế, độ trễ 2 (biến phần dư)

Bảng 4.9 Kiểm định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, 45

độ trễ 2 (biến phần dư)

Bảng 4.10 Kết quả hồi qui mô hình tác động trong ngắn hạn (ECM) có 46

phân tích độ mạnh (robust)

Bảng 4.11 Kết quả hồi qui cho mô hình ràng buộc có phân tích độ mạnh 48

cho quan hệ nhân quả Granger

DANH MỤC CÁC HĨNH VẼ, ĐỒ THỊ

Hình 1.1 Các quan hệ người chủ - người thừa hành trong đầu tư công 9

Hình 2.1 Tỷ lệ tổng tích lũy tài sản trong nước so với GDP của một số 20

nước (%)

Hình 2.2 Thu ngân sách từ thuế so với GDP năm 2008 của một số nước 23

ông Á và ông Nam Á (%)

Hình 2.3 ầu tư từ ngân sách so với GDP của một số nước (%) 24

ồ thị 4.1 GDP thực của 5 nước ASEAN trong giai đoạn 1983 - 2011 36

ồ thị 4.3 Chi tiêu công thực của 5 nước ASEAN trong giai đoạn 1983 – 37

2011

ồ thị 4.2 ầu tư công thực của 5 nước ASEAN trong giai đoạn 1983 – 38

2011

ồ thị 4.4 Nguồn thu thuế thực của 5 nước ASEAN trong giai đoạn 1983 – 38

2011

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Nền kinh tế ông Nam Á đang tăng trưởng cao cho thấy kinh tế của cả khu vực

ông Á đang có sự thay đổi về kết cấu. Kinh tế khu vực này sẽ không chủ yếu dựa

vào mở rộng xuất khẩu sang châu Âu và Mỹ, thay vào đó sẽ tập trung gia tăng đầu

tư và tiêu dùng cũng như đầu tư và thương mại giữa các nền kinh tế trong khu vực.

Do đó, việc dựa vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gần

như là sự ưu tiên xem xét của hầu hết các nước ASEAN.

Mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế đã được nghiên cứu khá

rộng rãi và cũng đã có rất nhiều cuộc tranh luận xảy ra. Tuy nhiên, có một vài vấn

đề vẫn chưa được giải quyết, chẳng hạn như: một sự gia tăng thường trực trong đầu

tư công sẽ gây ra một sự gia tăng tạm thời hay vĩnh viễn trong tăng trưởng kinh tế;

hay hiệu quả của đầu tư công có phụ thuộc vào năng suất biên tương đối của vốn

nhà nước và tư nhân; hay hiệu quả của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế còn phụ

thuộc vào việc gia tăng chi tiêu từ nguồn tài trợ…Bên cạnh đó, nhiều nghiên cứu

trước đây cũng đã gặp phải những hạn chế nhất định như: mẫu quan sát nhỏ, số liệu

thu thập không đầy đủ và chính xác, phạm vi nghiên cứu bị giới hạn hay nghiên cứu

chỉ được thực hiện phần lớn ở các nước phát triển và còn thiếu những nghiên cứu

thực nghiệm ở trong nước.

Với mong muốn tìm hiểu rõ hơn nội dung “có hay không sự tác động của đầu tư

công lên tăng trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng

kinh tế” và nhằm khắc phục những hạn chế của các nghiên cứu trước đây. Tác giả

đã chọn nghiên cứu vấn đề này, tuy nhiên do sự hạn chế về kiến thức và thời gian

nên tác giả chỉ thực hiện nghiên cứu “Mối quan hệ giữa chi đầu tư của chính phủ

và tăng trưởng kinh tế - Nghiên cứu trường hợp 5 nước ASEAN” trong giai đoạn

1983 – 2011.

2

2. Mục tiêu nghiên cứu

Phân tích tác động của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài

hạn thông qua mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM). ồng thời, phân tích mối quan hệ

nhân quả giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế.

ể giải quyết mục tiêu trên đề tài hướng đến các câu hỏi nghiên cứu sau:

- ầu tư công có ảnh hưởng lên tăng trưởng kinh tế hay ngược lại tăng trưởng

kinh tế có làm gia tăng đầu tư công và có hay không mối quan hệ nhân quả giữa

chúng?

- Hàm ý về mặt chính sách công liên quan đến tăng trưởng kinh tế và đầu tư

công?

Kết quả nghiên cứu sẽ được đúc kết, làm cơ sở cho những gợi ý về mặt chính

sách liên quan đến đầu tư công của Chính phủ ở các nước ASEAN, đặc biệt cho

Chính phủ Việt Nam về các giải pháp để hoạt động đầu tư công được hiệu quả hơn

góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

3. Tổng quan lý thuyết về ối quan hệ giữa đầu tƣ công và tăng trƣởng inh tế

Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tác giả nghiên cứu về mối quan hệ tác động

của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, một vài nghiên cứu điển hình về vấn đề

này sẽ được tác giả trình bày tóm lược sau đây:

Barro (1991) xem xét tác động của đầu tư công và chi tiêu công lên tốc độ phát

triển kinh tế giữa các nước. Sau khi cố định một số biến, tác giả phát hiện ra đầu tư

công không có tác động có ý nghĩa lên tốc độ tăng trưởng, trong khi tăng trưởng

kinh tế lại có tác động âm lên chi tiêu của chính phủ.

Canning và Fay (1993), Easterly và Rebelo (1992) sử dụng dữ liệu bảng để

nghiên cứu sự đóng góp lên tăng trưởng kinh tế của đầu tư mạng lưới giao thông.

Phát hiện chính của nghiên cứu là mối quan hệ mạnh mẽ giữa tăng trưởng kinh tế và

đầu tư công lĩnh vực giao thông và viễn thông.

3

Devarajan và cộng sự (1996) trình bày bằng chứng cho 43 quốc gia đang phát

triển, chỉ ra rằng tổng chi tiêu của chính phủ (gồm chi tiêu dùng và chi đầu tư)

không có tác động ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tác giả phát hiện ra

tác động riêng phần quan trọng của chi tiêu chính phủ đó là: sự gia tăng trong chi

tiêu dùng có tác động dương lên tăng trưởng kinh tế trong khi sự gia tăng trong chi

đầu tư công có tác động âm. Tác động âm cũng đúng cho mỗi thành phần chính của

đầu tư công gồm giao thông và viễn thông.

Khan (1996) phát hiện ra tầm quan trọng tương đối của đầu tư công và tư trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho một nhóm lớn các nước đang phát triển.

Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của 95 nước đang phát triển thời kỳ 1970 - 1990.

Các kết quả của nghiên cứu chỉ ra là đầu tư công và tư có tác động khác biệt lên

tăng trưởng kinh tế, trong đó đầu tư tư nhân có tác động lên tăng trưởng kinh tế

nhiều hơn so với đầu tư công.

Như vậy, các nghiên cứu trên của các tác giả đều đi đến kết luận rằng đầu tư

công tuy có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng tác động này là không

đáng kể hoặc ít hơn so với đầu tư tư nhân. Từ các kết luận trên và kế thừa các

nghiên cứu này, tác giả muốn tìm hiểu rõ hơn về tác động của đầu tư công lên tăng

trưởng kinh tế cũng như mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế được

nghiên cứu ở trường hợp các nước ASEAN.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Phương pháp luận được sử dụng trong đề tài là áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai

số (ECM) để xem xét tác động của các biến đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu

ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, từ đó tính toán

tốc độ hiệu chỉnh và thời gian hiệu chỉnh của mô hình.

Với mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, đề tài sử dụng kiểm

định nhân quả Granger với các tác động cố định (fixed effects) cho phân tích dữ liệu

bảng không cân bằng.

Theo đó, đề tài được thực hiện qua các bước như sau:

4

Bước 1, đề tài kiểm định tính dừng cho các biến được sử dụng trong mô hình.

Do đặc tính không cân bằng của dữ liệu bảng được sử dụng trong đề tài, kiểm định

Fisher với thuộc tính Phillips-Perron được chọn sử dụng. Theo đó, một số biến dừng

ở mức ý nghĩa có bậc tích hợp I(0) và một số biến dừng ở mức sai phân có bậc tích

hợp I(1). iều này có nghĩa là các biến có đồng liên kết (co-integration).

Bước 2, áp dụng mô hình hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng với các tác động cố

định cho các biến để xác định tác động của đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu

ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế trong dài hạn theo mô hình hiệu chỉnh sai

số (ECM).

Bước 3, từ phương trình cân bằng trong dài hạn ở bước 2, tính toán được phần

dư (sự kết hợp tuyến tính của các biến trong mô hình) và kiểm định tính dừng của

phần dư để tái khẳng định các biến có đồng liên kết.

Bước 4, áp dụng mô hình hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng với các tác động cố

định cho các biến ở mức sai phân và độ trễ bậc nhất của phần dư để xác định tác

động của các biến lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn, từ đó tính toán được tốc

độ hiệu chỉnh và thời gian hiệu chỉnh của mô hình.

Bước cuối cùng, áp dụng mô hình hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng với các tác

động cố định (mô hình ràng buộc) giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế để kiểm

định mối quan hệ nhân quả Granger.

Việc phân tích và xử lý số liệu được thực hiện bằng phần mềm Stata phiên bản 11.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- ối tượng nghiên cứu: Tác động của các biến đầu tư công, chi tiêu công và

nguồn thu ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn cũng

như mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế.

- Phạm vi nghiên cứu: Tác động của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế và mối

quan hệ nhân quả giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế thông qua phân tích bảng

dữ liệu hàng năm của 5 quốc gia ASEAN (Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam

5

và Campuchia) trong giai đoạn từ năm 1983 đến 2011. Các dữ liệu này được trích

xuất từ bảng dữ liệu hàng năm của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).

Do số liệu của các nước thành viên còn lại của khối ASEAN như: Singapore,

Brunei, Philippines, Lào và Myanmar không đầy đủ nên đã không được đưa vào

khảo sát.

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài

- Làm rõ mức độ tác động của đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu ngân sách

từ thuế lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, từ đó tính được tốc độ

hiệu chỉnh và thời gian hiệu chỉnh của mô hình.

- Xác định mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh

tế.

- ề xuất các khuyến nghị cho các chính phủ, đặc biệt là Chính phủ Việt Nam,

liên quan đến chính sách đầu tư công để việc vay nợ nhằm thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế, tạo việc làm phải được xem xét thận trọng và việc sử dụng nợ vay cho đầu

tư công phải bảo đảm hiệu quả để giúp cho việc tăng trưởng kinh tế ổn định và bền

vững hơn.

7. Bố cục của luận văn

Kết cấu của luận văn được trình bày như sau:

Chương 1: Trình bày tổng quan lý thuyết về đầu tư công và tăng trưởng kinh tế,

làm rõ khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công, cơ sở lý thuyết về đầu tư

công cũng như mối quan hệ tác động của đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế. Ghi

nhận các nghiên cứu trước đó ở trong và ngoài nước về mối quan hệ giữa đầu tư

công và tăng trưởng kinh tế.

Chương 2: Phân tích thực trạng đầu tư công và tăng trưởng kinh tế cũng như

khái quát tình hình kinh tế ở Việt Nam và so sánh với một số nước ASEAN, qua đó

đánh giá hiệu quả đầu tư công và nêu một số vấn đề tồn tại của đầu tư công hiện

nay.

6

Chương 3: Trình bày phương pháp luận và mô hình nghiên cứu trong đó mô tả

chi tiết về cách thực hiện mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) và mô hình kiểm định

tính nhân quả Granger.

Chương 4: Mô tả dữ liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm trong đó chỉ rõ

cách thức lấy số liệu, xử lý số liệu, kết quả đạt được thông qua phân tích hồi qui và

bàn luận cho phần gợi ý chính sách công.

Phần Kết luận, xác định lại những phát hiện của đề tài nghiên cứu và các đề xuất

được đưa ra cho các chính sách của Chính phủ, đặc biệt là Chính phủ Việt Nam liên

quan đến đầu tư công trong tương lai.

7

CHƢƠNG I

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƢ CÔNG VÀ

TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ

1.1 Cơ sở lý thuyết về đầu tư công

1.1.1 Khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công

ầu tư công (thuần) được hiểu như là phần chi tiêu công được thêm vào lượng

vốn vật chất để tạo ra các dịch vụ xã hội, chẳng hạn xây dựng đường xá, cầu cảng,

trường học, bệnh viện v.v… Nguồn vốn đầu tư công thường bao gồm ngân sách nhà

nước, trái phiếu chính phủ hoặc viện trợ phát triển của nước ngoài. Tùy theo quan

niệm của từng quốc gia mà đầu tư công có thể bao gồm các dự án cho các mục đích

kinh doanh (qua khu vực DNNN) hoặc các dự án chỉ thuần túy mục đích công ích.

Ở Việt Nam, đầu tư công được hiểu theo nghĩa hẹp. ầu tư công là đầu tư từ

nguồn vốn của Nhà nước vào các lĩnh vực phục vụ lợi ích chung, không nhằm mục

đích kinh doanh (Nguyễn Xuân Tự, 2010).

Các nghiên cứu gần đây cho thấy đầu tư công ảnh hưởng tới đầu tư của khu vực

tư nhân theo nhiều kênh khác nhau (Blejer và Khan, 1984; Aschauer, 1989). ầu tư

công thúc đẩy đầu tư tư nhân nếu nó có tính bổ trợ cho đầu tư tư nhân. iều này chỉ

xảy ra nếu đầu tư công tạo ra được các hiệu ứng lan tỏa (spillover effect) đối với

nền kinh tế. Doanh nghiệp tư nhân sẽ thu được lợi nhuận cao hơn khi có đầu tư

công, do vậy thúc đẩy đầu tư tư nhân. Tuy nhiên, đầu tư công có thể dẫn đến hiện

tượng chèn ép đầu tư tư nhân nếu như nó cạnh tranh nguồn lực với đầu tư tư nhân.

Khả năng chèn ép đầu tư tư nhân sẽ lớn nếu như đầu tư công được thực hiện bởi các

doanh nghiệp nhà nước hoặc thông qua hình thức doanh nghiệp nhà nước. Dịch vụ

cung cấp từ khu vực doanh nghiệp nhà nước sẽ cạnh tranh với khu vực tư nhân, làm

giảm động cơ tham gia đầu tư của khu vực tư nhân.

8

Như vậy, về cơ bản, các quốc gia đều hướng đến quản lý đầu tư công để hỗ trợ

tăng năng suất cho khu vực tư nhân và toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, nó có thể dùng

để bù đắp thất bại của thị trường trong một số thị trường đặc biệt.

1.1.2 Cơ sở lý thuyết về đầu tư công

Vài nét về lý thuyết quan hệ người chủ - người thừa hành (principal - agent

theory)

ầu tư công là một điển hình của quan hệ người chủ - người thừa hành. Người

dân và người đóng thuế trao tiền và ủy thác cho chính quyền các cấp trung ương

và/hoặc địa phương (dưới hình thức các khoản thu ngân sách từ thuế và khai thác tài

nguyên) để thực hiện các dự án cung cấp dịch vụ công cộng. Chính quyền cấp trung

ương sau đó lại có thể ủy thác cho chính quyền cấp địa phương để thực hiện các dự

án cung cấp dịch vụ công cộng. Bởi các cơ quan chính quyền không thể trực tiếp

thực hiện việc này nên đến lượt các cơ quan này lại ủy thác cho các nhà thầu dự án

để xây dựng công trình, sau khi công trình hoàn thành, nó sẽ được bàn giao cho một

đơn vị khác của chính quyền quản lý.

Bản chất của quan hệ người chủ - người thừa hành là bất đối xứng thông tin.

Người chủ muốn người thừa hành nỗ lực thực hiện hết mình công việc được giao.

Nhưng vì người thừa hành có thông tin riêng về chi phí sản xuất mà người chủ

không biết nên người thừa hành thường có xu hướng “bịp” người chủ. ể giải quyết

vấn đề này, các lý thuyết gia chỉ ra rằng người chủ sẽ thực hiện các biện pháp khác

nhau, phụ thuộc vào từng tình huống hay từng dự án.

- Trường hợp có thể giám sát: tăng cường minh bạch thông tin thông qua các

hình thức khuyến khích để giảm thông tin riêng.

- Trong trường hợp không thể giám sát tốt nhưng có thể đưa ra một hợp đồng rõ

ràng về trách nhiệm của mỗi bên: người chủ sẽ khoán cho người thừa hành một hợp

đồng với chi phí cố định (Holmstrom, 1982; Baron và Myerson, 1982).

9

- Trong trường hợp không thể hình thành được hợp đồng rõ ràng: người chủ sẽ

đề nghị người thừa hành hợp đồng hợp tác dạng đồng chủ sở hữu để tăng trách

nhiệm và chia sẻ rủi ro (Grossman và Hart, 1986).

Hình 1.1 Các quan hệ ngƣời chủ - ngƣời thừa hành trong đầu tƣ công

Mối quan hệ người chủ - người thừa hành trên rất hữu ích để bàn luận về cơ chế

đầu tư công. Về mặt lý thuyết cơ chế đầu tư công bao gồm hai nhóm cơ chế liên

quan đến hai giai đoạn của đầu tư công. Nhóm thứ nhất là cơ chế xác định cách thức

phân bổ các nguồn vốn của nhà nước sao cho hiệu quả. Nhóm thứ hai là cơ chế thực

hiện các dự án đầu tư công. Bên cạnh cơ chế ra quyết định và cơ chế thực hiện tại

hai giai đoạn là các cơ chế giám sát để đảm bảo rằng việc ra quyết định và thực hiện

các dự án đầu tư công đạt được mục tiêu đề ra với mức thất thoát là thấp nhất.

* Cơ chế phân bổ nguồn vốn:

Trên bình diện lý thuyết người chủ - người thừa hành, cơ chế phân bổ nguồn vốn

phản ánh mối quan hệ giữa người dân ủy thác cho chính quyền các cấp thực hiện

10

việc xác định các dự án cung cấp dịch vụ công cộng cho người dân. Trong mối quan

hệ này, chính quyền các cấp có lợi thế hoàn toàn về thông tin. Giữa người dân và

chính quyền cũng không thể hình thành được hợp đồng rõ ràng. Vì vậy, cách thức

để giải quyết mối quan hệ này là tập trung vào việc giảm thông tin riêng cũng như

tăng cường sự tham gia của người dân vào quá trình ra quyết định.

Cách giải quyết tổng quát vấn đề này là phân quyền. ây là xu hướng chung trên

thế giới kể từ thập niên 1980. Các dự án đầu tư công có qui mô vùng hoặc quốc gia

thì do chính quyền trung ương quyết định trong khi các dự án đầu tư công có qui

mô địa phương thì do địa phương quyết định.

Mục đích của việc phân quyền là tăng hiệu quả phân bổ đầu tư dựa trên nguồn tri

thức mà các cấp có thể biết tốt hơn cũng như được nhiều người dân biết đến hơn.

Trung ương hiểu biết rõ về tổng thể nền kinh tế, mối liên kết giữa các vùng miền,

xây dựng kế hoạch về cơ sở hạ tầng cũng như các vùng kinh tế để tăng hiệu ứng

hợp trội (synergy effects). Dự án có qui mô quốc gia cũng nhận được sự quan tâm

của nhiều người dân. Mức độ phản biện những lý lẽ phân bổ của chính quyền trung

ương sẽ đa dạng hơn.

Trong khi đó người dân địa phương được coi như là đối tượng hiểu nhu cầu ở địa

phương mình nhất, họ cũng hiểu biết rõ các nguồn lực đặc thù của địa phương. Khi

được phân quyền, họ sẽ có khả năng đưa ra quyết định đúng đắn hơn ngay cả khi là

không đúng từ quan điểm của chính quyền trung ương (Bird và Vaillancourt, 1998).

Ngoài ra để tăng cường sự tham gia đóng góp của người dân địa phương vào

kiểm soát rủi ro, kinh nghiệm thế giới cho thấy việc phân quyền đầu tư công cần

phải tương ứng với nguồn thu của chính quyền địa phương. Nếu địa phương đóng

góp ít hoặc không có đóng góp cho các dự án đầu tư thuộc địa phương mình thì sẽ

thiếu trách nhiệm trong việc kiểm soát rủi ro. Vì vậy, việc phân quyền đầu tư công

cho địa phương nên cân bằng với khả năng huy động ngân sách của địa phương.

* Cơ chế thực hiện đầu tư công:

11

Một khi dự án đầu tư được quyết định, tùy theo tính chất của dự án, chính quyền

sẽ quyết định thực hiện dự án theo hình thức sở hữu nào.

- Hình thức sở hữu thứ nhất là nhà nước nắm 100% vốn chủ sở hữu dự án và thuê

các doanh nghiệp thực hiện. Thông thường đây là những dự án ít phức tạp, có thời

gian thực hiện ngắn; hoặc đó là các dự án không tạo ra dịch vụ có tính thương mại.

Trong trường hợp này, chính quyền và doanh nghiệp có thể đưa ra được một hợp

đồng tương đối đầy đủ về trách nhiệm gánh chịu rủi ro của các bên liên quan đến dự

án. Chính quyền sẽ chọn nhà thầu có khả năng thực hiện dự án với chi phí đầu tư cố

định thấp nhất.

- Hình thức sở hữu thứ hai là chia sẻ sở hữu dự án với khu vực tư nhân. ây là

các loại dự án có thời gian kéo dài và tương đối phức tạp, chứa đựng nhiều rủi ro

trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, lợi ích của dự án lại có tính thương mại có khả

năng hấp dẫn tư nhân tham gia. Các dự án kết hợp giữa nhà nước và tư nhân

(public-private partnership - PPP) sẽ giúp cho nhà nước giảm gánh nặng ngân sách,

khuyến khích sự phát triển của khu vực tư nhân và quan trọng là sẽ phân bổ được

rủi ro cho bên có khả năng kiểm soát tốt hơn.

Với các dự án PPP, lựa chọn nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính cũng như

năng lực thực thi là rất quan trọng. Mấu chốt để một dự án PPP có thể tiến hành là

phải đảm bảo tỷ suất lợi nhuận cho nhà đầu tư tư nhân cao hơn lãi suất trái phiếu

chính phủ. Hình thức PPP đã trở nên rất phổ biến trên thế giới từ thập kỷ 1990.

Khởi đầu từ Anh Quốc dưới hình thức Public Financial Initiative (PFI), PPP đã lan

rộng ra khắp thế giới như Úc, Chi Lê, Liên hiệp Châu Âu và gần đây nhất là Mỹ.

Nó thường được dùng để thực hiện các dự án liên quan đến giao thông.

* Cơ chế giám sát quá trình đầu tư công:

Với cả hai giai đoạn, phân bổ vốn đầu tư công và thực hiện đầu tư công, vai trò

giám sát của bên thứ ba là rất quan trọng. Bởi cả chính quyền và đơn vị thực hiện

trên nguyên tắc đều là “người thừa hành” đối với người dân trong mối quan hệ

người chủ - người thừa hành, nên rất có thể cả hai bên sẽ cấu kết trục lợi với nhau

12

để làm tăng chi phí dự án. Vì lẽ đó, giám sát đầu tư công thường được xem như là

một trong những khâu quyết định đến chất lượng đầu tư công. ến lượt, việc giám

sát hiệu quả góp phần làm giảm nợ công và thâm hụt ngân sách.

ể giám sát đầu tư công hiệu quả, nhiệm vụ tiên quyết là tạo ra một qui trình

minh bạch, có khả năng giải trình từ khâu phân bổ đầu tư cho đến khâu thực hiện

đầu tư. Tính minh bạch và khả năng giải trình trong đầu tư công giúp người dân

(báo chí, các chuyên gia độc lập) có khả năng theo dõi các hành vi của các bên thừa

hành. Trước áp lực phải giải trình, các bên thừa hành sẽ giảm bớt việc lạm dụng

thông tin nội bộ để trục lợi.

Việc xây dựng các cơ quan giám sát đầu tư công chuyên trách theo các cấp quản

lý dự án đầu tư công là rất cần thiết để giảm các hành vi trục lợi. Bản chất của việc

hình thành cơ quan giám sát là tập trung tri thức chuyên sâu vào một nơi nào đó

nhằm làm đối trọng với các bên thừa hành (agents) có nhiều thông tin nội bộ. Việc

phân cấp giám sát giúp cho các cơ quan giám sát trung ương tập trung vào giám sát

các dự án qui mô lớn, trong khi các cơ quan giám sát cấp địa phương tận dụng tri

thức bản địa để giám sát các dự án cấp địa phương về vận tải, bệnh viện, trường học

và các công trình xây dựng công cộng.

1.1.3 Mối quan hệ tác động của đầu tư công và tăng trưởng kinh tế

Vốn đầu tư công là một thành phần quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội,

một nhân tố có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở hai mặt: tổng cung và tổng

cầu.

Theo Adam Smith (đầu thế kỷ 18) thì việc tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng sức

lao động và tăng công cụ sản xuất cả về số lượng lẫn chất lượng, từ đó mở rộng sản

xuất. Tới thế kỷ 19, K.Marx đã đề cập đến vốn như là một trong bốn yếu tố tác động

đến quá trình tái sản xuất gồm đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Kế thừa những tư tưởng trên các nhà kinh tế tân cổ điển tiêu biểu là Cobb và

Douglas đã phân tích rõ vai trò của vốn thông qua hàm sản xuất. Như vậy, tăng quy

mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế nếu các

13

yếu tố khác không thay đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện

thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công

nghệ… Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.

Ngoài ra, đầu tư còn là một thành phần quan trọng của tổng cầu. Theo Keynes,

tổng sản lượng của nền kinh tế hình thành nhờ vào việc hiện thực hóa những quyết

định chi tiêu như: chi tiêu tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu cho đầu tư mở rộng

kinh doanh của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và chi tiêu ròng của nền kinh

tế bên ngoài đối với sản phẩm nội địa (AD = C + I + G + X – M)

Như vậy, gia tăng đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng trong điều kiện các yếu tố

khác không đổi. Sự thay đổi tổng cung, tổng cầu được phản ảnh qua tốc độ tăng

trưởng kinh tế. Thay đổi quy mô vốn đầu tư cũng là nguyên nhân làm thay đổi tốc

độ tăng trưởng kinh tế.

Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan

hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. ây là cơ

sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong

thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.

1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng

trưởng kinh tế

Một lượng lớn các nghiên cứu thực nghiệm trước đây nghiên cứu liệu đầu tư

công có đóng góp riêng biệt nào hay không lên tăng trưởng kinh tế. Sau đây là một

vài nghiên cứu điển hình được tác giả trình bày tóm lược như sau:

1.2.1 Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước phát triển

Trong một nghiên cứu có ảnh hưởng, bằng cách sử dụng dữ liệu hàng năm cho

giai đoạn 1949 - 1985 cho Hoa Kỳ, Aschauer (1989a) phát hiện một mối quan hệ

dương mạnh giữa năng suất và tỷ số vốn công trên vốn tư. Aaron (1990) và Tatom

(1991) đặt câu hỏi cho các phát hiện của Aschauer trên cơ sở đặc tính không dừng

của chuỗi thời gian, điều mà có thể tạo nên tương quan giả mạo giữa vốn đầu tư

14

công và tăng trưởng kinh tế. Sturm và De Haan (1995) khẳng định nếu mô hình của

Aschauer được ước lượng ở các sai phân bậc nhất – điều cần thiết khi các biến được

dùng không dừng và cũng không tích hợp – mô hình chỉ tạo ra các kết quả mơ hồ.

Tuy nhiên, Munnell (1992) chỉ ra rằng, các sai phân bậc nhất cũng có vấn đề của nó

vì nó không cho phép ước lượng mối quan hệ dài hạn cơ bản giữa sản xuất và các

yếu tố đầu vào. Duggal và cộng sự (1995) khẳng định là các phương trình sai phân

bậc nhất tạo nên dao động ưu tiên đáng ngờ và các hệ số co giãn vốn đầu ra, điều

này đủ để đặt câu hỏi về khả năng của các phương trình sai phân bậc nhất bắt lấy

được các mối quan hệ dài hạn.

Bằng cách sử dụng mô hình VAR, Sturm (1998) phát hiện là đầu tư cơ sở hạ tầng

ảnh hưởng dương lên sản lượng ở Hà Lan và bằng cách sử dụng mô hình tương tự

để phân tích các tác động của đầu tư công cho sáu nước công nghiệp, Mittnik và

Neumann (2001) cho rằng đầu tư công có xu hướng gây ra một ảnh hưởng dương

lên GDP. Ngoài ra, họ không phát hiện hiệu ứng chèn lấn giữa đầu tư công và đầu

tư tư. Navy (2002) kiểm tra mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, đầu tư công và

đầu tư tư nhân bằng cách sử dụng mô hình VAR. Dựa trên chuỗi dữ liệu thời gian

hàng năm cho Pakistan, phân tích đề nghị là đầu tư công có tác động dương lên đầu

tư tư và tăng trưởng kinh tế định hướng cả đầu tư tư và đầu tư công như được dự

đoán bởi các mô hình dựa trên sự tăng tốc.

1.2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm ở các nước đang phát triển

Devarajan và cộng sự (1996) trình bày bằng chứng cho 43 quốc gia đang phát

triển, chỉ ra rằng tổng chi tiêu của chính phủ (gồm chi tiêu dùng và chi đầu tư)

không có tác động ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, các tác giả phát hiện

ra tác động riêng phần quan trọng của chi tiêu chính phủ: đó là sự gia tăng phần chi

tiêu dùng có tác động dương, ý nghĩa lên tăng trưởng kinh tế trong khi sự gia tăng

trong chi đầu tư công có tác động âm. Tác động âm cũng đúng cho mỗi thành phần

chính của đầu tư công, bao gồm giao thông và viễn thông. iều này đưa đến một

qui tắc hơi đáng ngạc nhiên là Chính phủ ở các nước đang phát triển tốt hơn nên

15

được tư vấn là dịch chuyển các nguồn lực công từ đầu tư công sang chi tiêu dùng

công.

Pritchett (1996) đề nghị một lý giải khác cho các phát hiện của Devarajan và

cộng sự (1996) – giả thuyết “white elephant”. Ông ta lập luận rằng đầu tư công ở

các nước đang phát triển thường được sử dụng cho các dự án không thích hợp và

không hiệu quả. Kết quả là, phần đầu tư công có thể là thước đo rất kém của sự gia

tăng thực trong vốn đầu tư hiệu quả về mặt kinh tế. Một mặt, đầu tư công cao hơn

gia tăng tốc độ tích lũy vốn quốc gia trên mức được chọn (với giả định theo cách

hợp lý) bởi khu vực tư; vì thế, chi tiêu vốn công có thể gây ra sự chèn lấn chi đầu tư

tư nhân. Mặt khác, vốn công – đặc biệt vốn đầu tư hạ tầng như đường cao tốc, hệ

thống nước, cống rãnh và sân bay – có vẻ có mối quan hệ bổ sung với vốn tư trong

công nghệ sản xuất tư nhân. Vì thế, đầu tư công cao hơn có thể gia tăng năng suất

biên của vốn tư và qua đó hỗ trợ đầu tư tư nhân.

Khan (1996) phát hiện ra tầm quan trọng tương đối của đầu tư công và tư trong

việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho một nhóm lớn các nước đang phát triển.

Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của 95 nước đang phát triển thời kỳ 1970 – 1990.

Các kết quả của nghiên cứu chỉ ra là đầu tư công và tư có tác động khác biệt lên

tăng trưởng kinh tế, trong đó đầu tư tư nhân có tác động lên tăng trưởng kinh tế

nhiều hơn so với đầu tư công.

1.2.3 Các nghiên cứu thực nghiệm ở trong nước

- Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Loan (2012) với đề tài “Tác động của đầu

tư công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”. Tác giả sử dụng phương pháp đồng

tích hợp (Cointegration) của Engle – Granger (1987) và mô hình hiệu chỉnh sai số

(ECM) để thiết lập mối tương quan cân bằng trong dài hạn giữa chỉ số tăng trưởng

kinh tế và các nhân tố ảnh hưởng trong đó có biến đầu tư công cũng như tính toán

mức độ tác động của các nhân tố đến biến động của của tăng trưởng kinh tế trong

ngắn hạn. Tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu với giả định là tăng trưởng kinh tế

chịu ảnh hưởng bởi các biến kinh tế vĩ mô như: đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư

16

trực tiếp nước ngoài, xuất khẩu, nguồn nhân lực và nợ nước ngoài. Số liệu từ năm

1986 – 2011. Kết quả trong dài hạn, đầu tư công, đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp

nước ngoài và nợ nước ngoài có tác động nhiều đến tăng trưởng kinh tế. Trong ngắn

hạn, chỉ có nợ nước ngoài ở kỳ trước có ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế hiện tại,

còn đầu tư công tác động đến tăng trưởng kinh tế không có ý nghĩa thống kê. ồng

thời, trong các biến vĩ mô được chọn, biến đầu tư công tác động đến tăng trưởng

kinh tế ít hơn so với biến đầu tư tư nhân. Do đó, để đảm bảo nền kinh tế Việt Nam

tăng trưởng nhanh, bền vững, Chính phủ cần có những giải pháp thích hợp nhằm

đẩy mạnh đầu tư khu vực tư nhân đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả đầu tư

của khu vực Nhà nước.

- Nghiên cứu của TS.Tô Trung Thành (2011) với đề tài “ ầu tư công lấn át đầu

tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM”. Mô hình cụ thể trong

nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình VECM với ba biến số là: đầu tư khu vực

Nhà nước (GI), đầu tư khu vực tư nhân (PI) và GDP (Y), số liệu sử dụng từ năm

1986 - 2010 để ước lượng các hàm phản ứng và các hệ số co dãn. Theo đó, hiện

tượng đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân được thể hiện rõ nét. Trung bình cứ một

thập niên, 1% tăng vốn đầu tư công ban đầu sẽ khiến đầu tư tư nhân bị thu hẹp

0,48%. ồng thời, tác động đến GDP của đầu tư công là thấp so với tác động của

đầu tư tư nhân. Bài viết hàm ý trong quá trình chuyển đổi kinh tế, cần giảm dần tỷ

trọng đầu tư công, đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả và chất lượng của đầu

tư khu vực Nhà nước.

- Tác giả Ngô Lý Hóa (2008) với đề tài “Tác động của đầu tư công đến tăng

trưởng kinh tế tỉnh Long An”. Trong nghiên cứu tác giả ứng dụng mô hình Harrod-

Domar để phân tích mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế tỉnh

Long An. Mô hình cụ thể gồm 3 biến: đầu tư khu vực công (Ig), đầu tư khu vực tư

(Ip) và GDP, số liệu sử dụng từ năm 1987 - 2007. Tác giả sử dụng phương pháp

bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng các biến trong mô hình. Kết quả, đầu tư

công và đầu tư tư nhân đều tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của tỉnh, tuy

nhiên đầu tư công tác động ít hơn đầu tư tư nhân.

17

Tóm lại, mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế vẫn còn là vấn đề

tranh luận cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Các kết quả từ minh chứng thực nghiệm liên

quan đến mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế là hỗn hợp. Trong

mỗi nghiên cứu, các nhà kinh tế lượng sử dụng các phương pháp ước lượng khác

nhau, mẫu nghiên cứu khác nhau tùy thuộc vào phương pháp và dữ liệu mà họ sử

dụng. Do đó, để xác định được kết quả nghiên cứu nào đáng tin cậy hơn là điều khó

khăn bởi nguồn dữ liệu thường không nhất quán, đồng thời mỗi phương pháp ước

lượng cũng có những điểm yếu nhất định.

Kết luận chƣơng 1

Trong chương này luận văn đã đề cập đến tổng quan lý thuyết về đầu tư công và

tăng trưởng kinh tế, làm rõ khái niệm và quan điểm chung về đầu tư công, cơ sở lý

thuyết về đầu tư công cũng như mối quan hệ tác động của đầu tư công lên tăng

trưởng kinh tế. Ghi nhận và đánh giá các nghiên cứu trước đó về mối quan hệ giữa

đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, qua đó cho thấy hiệu ứng đầu tư công lên tăng

trưởng kinh tế vẫn còn là vấn đề tranh luận về cả lý thuyết lẫn thực tiễn. Minh

chứng thực nghiệm liên quan đến hiệu ứng đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế là

hỗn hợp.

18

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƢ CÔNG VÀ TĂNG TRƢỞNG

KINH TẾ Ở VIỆT NAM VÀ CÁC NƢỚC ASEAN

2.1 Khái quát tình hình inh tế ở các nƣớc ASEAN:

Tình hình phát triển kinh tế của các nước thành viên Hiệp hội các Quốc gia ông

Nam Á (ASEAN) tiếp tục duy trì sự tăng trưởng mạnh. Nhu cầu nội địa tăng mạnh

ở các quốc gia ASEAN sẽ tiếp tục làm giảm nhẹ những tác động tiêu cực của việc

xuất khẩu suy giảm.

ASEAN đã phục hồi đáng kể mặc dù sự suy thoái kinh tế toàn cầu, thậm chí

tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng trưởng cao hơn dự kiến ngay cả khi các nền

kinh tế Trung Quốc, Ấn ộ và ông Bắc Á tăng trưởng chậm lại. ớc tính tăng

trưởng bình quân GDP của ASEAN sẽ tăng từ 4,7% trong năm 2011 lên mức 5,2%

trong năm 2012.

Nhu cầu nội địa ở các quốc gia ASEAN có thể sẽ được thúc đẩy hơn nữa nhờ

các dự án cơ sở hạ tầng, được hỗ trợ từ các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI). Sự nổi lên của tầng lớp trung lưu và sự chuyển đổi cơ cấu, đặc biệt là ở

Inđônêxia, cũng có thể đẩy mạnh lượng tiêu thụ nội địa.

Việc tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có thu nhập trung bình cũng

như tiến trình đô thị hóa trong ASEAN cũng sẽ thúc đẩy hoạt động mậu dịch trong

khu vực và điều này sẽ giúp giảm nhẹ tác động của xu hướng giảm sút nhu cầu từ

các nền kinh tế phát triển, nơi chiếm một tỷ lệ đáng kể trong toàn bộ nhu cầu xuất

khẩu của châu Á.

Dân số ở các quốc gia ASEAN có xu hướng phát triển tích cực cùng với việc

thúc đẩy quá trình hội nhập và liên kết chặt chẽ hơn nữa theo lộ trình xây dựng

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015 là hai lợi thế lớn của khối

19

ASEAN. Qua các số liệu thống kê dân số cho thấy xu hướng phát triển tốt ở

Philippines, Malaysia, Indonesia, Lào, Campuchia và Việt Nam trong thập kỷ tới.

Kết quả là, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đang ngày càng "chảy" từ ông Bắc Á

sang ông Nam Á.

Ngoài ra, trong giai đoạn này, kế hoạch xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN

(AEC) đã giúp gia tăng các hoạt động du lịch, đầu tư và mậu dịch trong nội khối

ASEAN. ồng thời, theo kế hoạch, việc đầu tư lớn vào cơ sở hạ tầng sẽ làm tăng

khả năng kết nối ở các quốc gia trong ASEAN.

Mặc dù nhu cầu nội địa của khu vực ASEAN tăng trưởng mạnh, song vẫn không

tránh khỏi các mối rủi ro ở trong và ngoài khu vực. Chẳng hạn như, các cuộc tổng

tuyển cử sắp tới ở Malaysia, tình trạng lạm phát ở Inđônêxia cũng như hoạt động tái

cơ cấu kinh tế ở Singapore,… sẽ làm giảm các triển vọng phát triển kinh tế và làm

tăng chi phí lao động - một trong những trở ngại lớn của ASEAN.

Bên cạnh đó, nếu xảy ra cú sốc lớn về tài chính ở Mỹ, thì các quốc gia phụ thuộc

nặng nề vào thương mại như Singapore, Malaysia và Thái Lan sẽ phải đối mặt với

nhiều rủi ro hơn. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài khác, như sự leo thang cuộc

khủng hoảng nợ công ở khu vực đồng euro, bùng nổ căng thẳng ở Trung ông và

mức tăng trưởng thấp hơn mong đợi ở Trung Quốc cũng là những nguy cơ có thể

ảnh hưởng tới tăng trưởng của ASEAN.

2.2 Thực trạng kinh tế của Việt Nam và một số nƣớc ASEAN:

2.2.1 Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng với nhịp độ khá cao trong giai đoạn 2000-

2009, tính bình quân mỗi năm GDP tăng 7,3%. ến giai đoạn 2006-2011, do ảnh

hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt

Nam vẫn ở mức khá cao, bình quân đạt 6,8%/năm. Với tốc độ tăng trưởng như vậy,

tính trung bình giai đoạn 2001-2011, Việt Nam so với một số quốc gia trong khu

vực chỉ đứng sau Trung Quốc và Ấn ộ, cao hơn các nước Hàn Quốc, Thái Lan,

Singapore, Indonesia, Malaysia và Philippines.

20

Sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục trong thời gian khá dài như vậy chủ yếu

nhờ có tỷ lệ tích lũy và đầu tư lớn. Theo tính toán của Viện Nghiên cứu quản lý

kinh tế Trung ương, trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2006-2010, yếu

tố số lượng vốn đầu tư đã đóng góp khoảng 76,8%, yếu tố số lượng lao động đóng

góp khoảng 15,6%, còn yếu tố khoa học công nghệ chỉ đóng góp 7,5%.

Có thể nhận xét rằng, mô hình tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao nhờ chủ yếu

vào vốn đầu tư đã được bắt đầu kể từ đầu những năm 2000 cho đến nay. So với một

số nước trong khu vực ông Á và ông Nam Á, tỷ trọng đầu tư trong GDP của

Việt Nam thuộc loại đứng đầu (Hình 2.3). Năm 2007, tỷ trọng này ở Việt Nam chỉ

thấp hơn so với Trung Quốc (44,2%), nhưng cao hơn nhiều so với Hàn Quốc

(29,4%), Thái Lan (26,8%), Indonesia (24,9%), Malaysia (21,9%) và Philippines

(15,3%). Trong khi tỷ trọng đầu tư so với GDP ở hầu hết các nước có chiều hướng

giảm đi, thì tỷ lệ này ở Việt Nam lại tăng mạnh. Bên cạnh đó, GDP tính trên đầu

người của Việt Nam thấp hơn nhiều lần so với các nước. iều này có nghĩa là tuy

rất nghèo nhưng Việt Nam đang thực hiện một mô hình kinh tế tiết chế tiêu dùng để

tích lũy và đầu tư ở mức độ thuộc loại cao nhất ở ông Á và ông Nam Á.

Hình 2.1: Tỷ lệ tổng tích lũy tài sản trong nƣớc so với GDP của 1 số nƣớc (%)

21

2.2.2 Thu, chi ngân sách nhà nước

Trong những năm gần đây, Việt Nam thực hiện chính sách tài khóa liên tục tăng

thu để bù đắp cho chi tiêu công không ngừng tăng lên. Và thâm hụt ngân sách trở

thành căn bệnh kinh niên của nhiều năm nay, trong bối cảnh ảnh hưởng của khủng

hoảng tài chính toàn cầu lại trở nên trầm trọng hơn.

iều đáng lo ngại là việc chấp nhận thâm hụt ngân sách dường như đã trở thành

nếp nghĩ của những cơ quan có thẩm quyền ra quyết định về ngân sách. Trong các

cuộc tranh luận trên các diễn đàn Quốc hội và Chính phủ, vấn đề được thảo luận là

cho phép Chính phủ chi tiêu thâm hụt ngân sách bao nhiêu, chứ không phải là buộc

Chính phủ thắt chặt chi tiêu nhằm tiến tới đạt được ngân sách cân đối. Tốc độ tăng

thu ngân sách luôn luôn cao hơn tốc độ tăng GDP. iều này có nghĩa là Nhà nước

cố gắng thu về một tỷ trọng ngày càng nhiều hơn phần của cải tăng lên của xã hội

có thể dùng để tích lũy và đầu tư.

So sánh quốc tế, ngân sách nhà nước của Việt Nam có tổng thu bằng 27,7% so

với GDP (năm 2008), là một tỷ lệ cao nhất so với các nước trong khu vực ông Á

và ông Nam Á. Hơn nữa, tỷ lệ này có xu hướng tăng lên, trong khi ở nhiều nước,

tỷ lệ thu ngân sách so với GDP là tương đối ổn định.

22

Bảng 2.1: Thu chi ngân sách so với GDP của một số nƣớc Đông Á và Đông

Nam Á (%)

Trong các nguồn thu ngân sách, nguồn thu trong nước tăng với nhịp độ cao hơn

tốc độ của GDP. Khi các khoản thu từ bán dầu thô và thuế hải quan có xu hướng

giảm bớt trong mấy năm gần đây, thì điều này có nghĩa là gánh nặng thuế khóa trở

nên nặng nề hơn và các đơn vị sản xuất kinh doanh có ít hơn khả năng tự tích lũy và

tái đầu tư. So sánh tỷ lệ nguồn thu ngân sách từ thuế so với GDP của Việt Nam với

một số nước ông Á và ông Nam Á, có thể thấy tỷ trọng này của Việt Nam là cao

nhất.

23

Hình 2.2: Thu ngân sách từ thuế so với GDP nă 2008 của một số nƣớc

Đông Á và Đông Na Á (%)

Theo số liệu về chi ngân sách ở Bảng 2.1, thì Chính phủ Việt Nam đã chi tiêu

29,4% GDP năm 2008, cao hơn hẳn và gần gấp rưỡi so với các nước trong khu vực.

Ở đây còn chưa tính tới số tiền trái phiếu chính phủ và vốn vay ODA, mà theo hệ

thống thống kê tài chính hiện hành của Việt Nam đã không được đưa vào ngân sách.

Như vậy, xét trên cả hai phương diện thu và chi tài chính, Nhà nước Việt Nam

quản lý một tỷ lệ lớn của cải của xã hội, đóng vai trò chi phối của cải của xã hội lớn

hơn so với Chính phủ các nước trong khu vực ông Á và ông Nam Á.

Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam chi khoảng 1/3 ngân sách cho đầu tư phát triển.

Vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển chiếm 9,8% GDP năm 2007, trong khi đó ở

Indonesia 1,6%, Malaysia 5,8%, Philippines 1,8% (số liệu 2000), Thái Lan 3,2% (số

liệu 2004), Hàn Quốc 3,7%, Trung Quốc 3,5% (số liệu 2003).

24

Hình 2.3: Đầu tƣ từ ngân sách so với GDP của một số nƣớc (%)

Nếu tính toàn bộ số vốn đầu tư công (bao gồm cả vốn ngân sách, vốn tín dụng,

trái phiếu chính phủ và đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước) thì vốn đầu tư của

Nhà nước so với GDP năm 2009 là 17,3%. Có thể nói, xét về tỷ lệ vốn đầu tư so với

GDP thì Chính phủ Việt Nam là nhà đầu tư lớn nhất so với Chính phủ các nước

trong khu vực ông Á và ông Nam Á.

2.3 Đánh giá hiệu quả đầu tƣ công

2.3.1 Đầu tư công đối với tăng trưởng kinh tế

ầu tư công đã làm thay đổi đáng kể kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhờ đó đã thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế của các nước, trong đó có việc tạo điều kiện để các thành phần

kinh tế ngoài nhà nước phát triển và góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Tuy

nhiên, đánh giá hiệu quả của đầu tư công đòi hỏi không chỉ đo đếm số lượng những

kết quả đạt được, mà còn phải xem xét mối tương quan về lượng giữa số vốn đã bỏ

ra và kết quả đạt được.

25

Tình hình phát triển của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng đầu tư công

không có mối tương quan tỷ lệ thuận với tăng trưởng của nền kinh tế. Trong phần

lớn trường hợp, đầu tư công đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế,

nhưng trong một số trường hợp khác đầu tư công kéo lùi tăng trưởng do sự lãng phí,

không hiệu quả và lấn át đầu tư tư nhân. Hơn thế nữa, đầu tư công không chỉ có

nhiệm vụ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mà còn góp phần làm ổn định nền kinh tế,

tăng phúc lợi xã hội, tạo điều kiện nâng cao công bằng trong xã hội, v.v.

Phân tích tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam theo sự đóng góp của các nhân tố trong

cho thấy vấn đề mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào đầu tư nổi lên rõ rệt trong

những năm gần đây. Các nhân tố phát triển theo chiều sâu ngày càng kém tác động,

trong khi quá chú trọng tốc độ tăng trưởng dựa vào tăng nguồn đầu tư. Kể từ cuộc

khủng hoảng tài chính Châu Á 1997-1998, yếu tố vốn tăng nhanh chóng và chiếm

khoảng gần 60%, yếu tố lao động khoảng 15- 20% và yếu tố năng suất tổng hợp

chiếm 25-30%.

2.3.2 Thước đo hiệu quả của vốn đầu tư

ể đo lường hiệu quả đầu tư, các nhà kinh tế học thường sử dụng hệ số ICOR

(Incremental Capital Output Ratio) để đánh giá, ICOR xác định mối quan hệ giữa

vốn – tư bản và đầu ra – GDP. Có nhiều cách để tính toán hệ số ICOR, nếu tiếp cận

theo hiệu quả sử dụng vốn thì ICOR là tỷ số giữa tỷ lệ đầu tư trên GDP so với tốc

độ tăng trưởng GDP. Theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank –

WB), ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền

vững.

Nếu xét hiệu quả đầu tư từ tổng vốn đầu tư có thể thấy hiệu quả đầu tư của Việt

Nam là thấp, để tăng một đồng GDP cần phải bỏ ra 5,2 đồng vốn trong giai đoạn

2000-2007, trong khi ở giai đoạn trước chỉ vào khoảng 2-3 trong thời gian 1970-

1984. Ngoài ra, khi ở trình độ phát triển thấp tương đương với Việt Nam hiện nay

vào những năm 1950-1975, hệ số ICOR của Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ

dao động trong khoảng 1-2. Thậm chí trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, ICOR ở

26

các nước cũng thấp hơn con số 5 như ài Loan là 2,7 (giai đoạn 1981-1990), Hàn

Quốc khoảng 3,2 (giai đoạn 1981-1990), Nhật Bản khoảng 3,2 giai đoạn (1961-

1970), Trung Quốc chỉ là 4,1 (giai đoạn 1991-2003).

Tuy nhiên, nếu so sánh xét hiệu quả đầu tư theo tổng tích luỹ tài sản, thì ICOR

của toàn nền kinh tế Việt Nam thuộc loại cao, song không vượt quá nhiều so với

một số nước ASEAN.

Bảng 2.2: So sánh ICOR của Việt Nam và của một số nƣớc ASEAN

So với ICOR tính theo tổng vốn đầu tư thì điều này cho thấy có một số lượng vốn

đáng kể được bỏ ra nhưng đã không trở thành tài sản. Nói một cách khác là hiệu quả

đồng vốn bỏ ra kém là bởi vì đã phải chi cho nhiều khâu không trực tiếp liên quan

tới sản xuất. Ngoài ra, việc đầu tư kém hiệu quả của khu vực nhà nước còn do

những nguyên nhân chủ quan như chiến lược kinh doanh và đầu tư sai lầm, quản lý

kém, thiếu trách nhiệm, lãng phí, tham nhũng, v.v.

Kết luận chƣơng 2

Chương này tác giả đã đánh giá thực trạng về đầu tư công và tình hình kinh tế ở

Việt Nam và một số nước ASEAN, qua đó cho thấy hoạt động đầu tư công trong

thời gian qua đã có sự tăng trưởng nhanh, cơ cấu đầu tư cũng đã có bước chuyển

27

tích cực qua đó góp phần quan trọng vào việc duy trì tăng trưởng, ổn định kinh tế tế

vĩ mô và tăng cường xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt

được, hoạt động đầu tư công những năm qua vẫn còn tồn tại một số hạn chế như cơ

cấu đầu tư còn dàn trải, hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực chậm được cải

thiện. ầu tư luôn đi cùng với lãng phí và thất thoát, thậm chí với mức độ ngày

càng nặng nề. Do đó, trong thời gian tới cần tập trung vào việc tìm các giải pháp

nhằm cơ cấu lại đầu tư công; đổi mới phương thức quản lý đầu tư công, đồng thời

thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư cho phát triển hạ tầng kinh tế xã hội và

nâng cao hiệu quả của công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu tư công.

28

CHƢƠNG 3

PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

3.1 Phƣơng pháp luận

Phương pháp luận của đề tài là sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số cho các phân

tích số liệu bảng để xác định được các tác động cân bằng trong dài hạn và qua đó

tính toán được tốc độ hiệu chỉnh để điều chỉnh sự mất cân bằng trong ngắn hạn sao

cho trong dài hạn các tác động này là cân bằng. Theo đó, nghiên cứu dựa vào việc

sử dụng kiểm định F (hay kiểm định Wald) để phân tích ý nghĩa của mô hình.

ầu tiên đề tài sẽ kiểm định tính dừng của các biến trong bảng bằng cách sử

dụng kiểm định Fisher với thuộc tính Augmented Dickey-Fuller (ADF) hay

Phillips-Perron. Tùy theo kết quả đạt được, sau đó chọn sử dụng các biến hoặc theo

các mức ý nghĩa với tích hợp bậc 0, I(0) hoặc theo sai phân bậc nhất với tích hợp

bậc 1, I(1). iều kiện để các biến trong mô hình có tính đồng liên kết là một vài

biến tích hợp I(0) và một vài biến tích hợp I(1).

Kế tiếp, đề tài sẽ thực hiện hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng các biến với các tác

động cố định để thiết lập cân bằng trong dài hạn, tính toán được phần dư (sự kết

hợp tuyến tính của các biến trong mô hình). Nếu các biến có tính đồng liên kết thì

kết quả kiểm định tính dừng của phần dư sẽ cho thấy phần dư dừng với mức ý nghĩa

nhỏ hơn 10%.

Tiếp theo, đề tài thực hiện hồi qui tuyến tính dữ liệu bảng các biến sai phân cùng

với độ trễ bậc nhất của phần dư với các tác động cố định để thiết lập cân bằng trong

ngắn hạn và tính toán được tốc độ hiệu chỉnh và thời gian hiệu chỉnh của mô hình.

Sau cùng, đề tài kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger của hai biến chính

trong mô hình (tăng trưởng kinh tế và đầu tư công) dựa theo mô hình ràng buộc

29

hơn. Mô hình ràng buộc hơn là mô hình chỉ bao gồm các độ trễ của biến độc lập mà

không có các độ trễ của biến phụ thuộc.

Việc sử dụng các ước lượng dữ liệu bảng với các tác động cố định (fixed effects)

theo Wooldridge (2002) cung cấp nhiều quan sát hơn cho các ước lượng và giảm

thiểu khả năng đa cộng tuyến giữa các biến khác nhau. ớc lượng với các tác động

cố định giả định rằng các hệ số gốc (các hệ số ước lượng của các biến giải thích) là

giống nhau cho tất cả các đơn vị bảng ngoại trừ các hệ số cắt (hằng số, điều kiện

ban đầu) khác nhau ở tất cả các đơn vị bảng.

3.2 Mô hình nghiên cứu

3.2.1 Kiểm định tính dừng của các chuỗi thời gian

Trước tiên cần kiểm tra tính dừng và bậc tích hợp của các biến được sử dụng

trong mô hình. Một biến thời gian được xem là dừng hiệp phương sai nếu giá trị

trung bình và phương sai của nó là hằng số theo thời gian và giá trị hiệp phương sai

giữa hai giai đoạn thời gian chỉ phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai giai đoạn đó,

không phụ thuộc vào thời điểm thực sự mà hiệp phương sai được tính (định nghĩa).

Nếu một vài hay tất cả các biến trong mô hình là không dừng, việc kiểm định giả

thuyết theo qui ước và khoảng tin cậy sẽ không đáng tin. Khi một chuỗi được xác

định là không dừng, việc nghiên cứu đặc tính của chúng chỉ phù hợp trong giai đoạn

được khảo sát và kết quả nghiên cứu không thể sử dụng cho các giai đoạn khác,

ngoài ra phân tích hồi qui cho các chuỗi không dừng có thể đưa đến kết quả là hồi qui giả mạo. Hồi qui giả mạo có hệ số xác định R2 cao và thống kê t có ý nghĩa

nhưng thực sự không có ý nghĩa kinh tế (Granger và Newbold, 1974).

Vì thế tính dừng được thiết lập bằng cách kiểm định trị riêng nghiệm đơn vị

trong các biến bằng cách áp dụng kiểm định Augmented Dickey-Fuller (ADF).

Phương pháp luận cho kiểm định này được mô tả như sau:

Kiể định Augmented Dickey-Fuller (ADF): kiểm định ADF cho trị riêng

nghiệm đơn vị được hình thành theo mô hình hồi qui sau:

30

với

Y = Biến chuỗi thời gian cần khảo sát.

∆ = toán hạn sai phân

= các tham số ước lượng

= nhiễu trắng

Giả thuyết null trong các tình huống này có thể được diễn đạt:

H0: δ = 0 (cho thấy Yt có một xu hướng stochastic, đó là không dừng).

Giả thuyết đối lập:

H1 : δ ≠ 0 (cho thấy Yt dừng)

Một xu thế thời gian (t) có thể được thêm vào phương trình (3.1) nếu Yt dừng quanh

một quá trình có xu thế xác định. Vì thế, phương trình (3.1) trở thành:

với

t = biến xu thế

α = tham số ước lượng cho biến xu thế

3.2.2 Mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Model)

- Tác động cân bằng trong dài hạn:

Với

αit = hệ số cắt

α1, α2, α3: hệ số hồi qui (ước lượng), hệ số gốc của các biến.

31

ε , t =1,…,T.

it) = σ2

εit = phần dư được giả thiết phân phối chuẩn, độc lập với E(εit) = 0 và phương sai sai số đồng nhất E(ε2

i = thứ tự của bảng (i = 1,…,N)

t = giai đoạn quan sát (t = 0,…,T)

- Tác động cân bằng trong ngắn hạn:

Với

αit = hệ số cắt

α1, α2, α3: hệ số hồi qui (ước lượng), hệ số gốc của các biến.

β: tốc độ hiệu chỉnh của mô hình để điều chỉnh các tác động của các biến trong ngắn

hạn đến cân bằng trong dài hạn.

εit-1: độ trễ bậc nhất của phần dư trong hồi qui các tác động cân bằng trong dài hạn.

ν , t =1,…,T.

it) = σ2

νit = phần dư được giả thiết phân phối chuẩn, độc lập với E(νit) = 0 và phương sai sai số đồng nhất E(ν2

i = thứ tự của bảng (i = 1,…,N)

t = giai đoạn quan sát (t = 0,…,T)

3.2.3 Kiểm định tính nhân quả Granger

αit và βit = hệ số cắt

α1, α2, α3: hệ số hồi qui (ước lượng), hệ số gốc của các biến.

β1, β2, β3: hệ số hồi qui (ước lượng), hệ số gốc của các biến.

32

ν; t =1,…,T.

it) = σ2

it) = σ2

ε; E(ν2

εit và νit = phần dư được giả thiết phân phối chuẩn, độc lập với E(εit) = 0; E(νit) = 0 và phương sai đồng nhất E(ε2

i = thứ tự của bảng (i = 1,…,N)

t = giai đoạn quan sát (t = 0,…,T)

Chúng ta sử dụng các kiểm định F (kiểm định Wald) để kiểm tra ý nghĩa của mô

hình với các giả thuyết như sau:

Với phương trình (3.3):

Và phương trình (3.4):

Với phương trình (3.5a):

Và phương trình (3.5b):

Ngoài ra, đề tài cũng phân tích tính không đồng nhất có thể có giữa các quốc gia thông qua các giá trị của R2 đạt được. Theo Wooldridge (2002), phương pháp phân tích số liệu bảng được áp dụng có thể so sánh các giá trị đạt được cho R2 “overall”, R2 “between” và R2 “within”. Cụ thể như sau:

33

- R2 “overall” đặc trưng cho mức độ lý giải của các biến giải thích cho sự thay đổi

của biến phụ thuộc trong toàn bộ mô hình.

- R2 “between” đặc trưng sự khác biệt giữa các đơn vị bảng khác nhau (ở đây là các

quốc gia).

- R2 “within” đo lường sự khác biệt trong bản thân các đơn vị bảng (mỗi nước) suốt

khoảng thời gian khảo sát.

Thông qua các giá trị khác nhau của R2 “overall”, R2 “between” và R2 “within”,

nghiên cứu sẽ cho thấy sự không đồng nhất trong mối quan hệ giữa đầu tư công và

tăng trưởng kinh tế ở cả 5 nước thành viên ASEAN. iều này là do đặc trưng, hoàn

cảnh của từng quốc gia và cũng cho thấy các nước ASEAN có thể được phân chia

thành 3 nhóm riêng về mức độ phát triển kinh tế gồm: mức thấp, mức trung bình và

mức cao.

Kết luận chƣơng 3

Trong chương này tác giả đã trình bày phương pháp luận và mô hình nghiên cứu

trong đó mô tả chi tiết về cách thực hiện mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) và mô

hình kiểm định tính nhân quả Granger. Việc áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai số để

xem xét tác động của các biến đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu ngân sách từ

thuế lên tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn, từ đó tính toán được tốc độ

hiệu chỉnh và thời gian hiệu chỉnh của mô hình. Ngoài ra, tác giả sử dụng kiểm định

nhân quả Granger với các tác động cố định (fixed effects) cho phân tích dữ liệu

bảng không cân bằng đối với mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế -

hai biến chính của mô hình.

34

CHƢƠNG 4

DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

4.1 Dữ liệu nghiên cứu thực nghiệm

Trong mô hình nghiên cứu này, số liệu sử dụng được lấy từ dữ liệu hàng năm Chỉ

số phát triển chính ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương (Key Indicators for Asia

and the Pacific) của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) cho 5 quốc gia trong khối

ASEAN: Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Việt Nam và Campuchia trong giai đoạn

từ năm 1983 đến 2011. Tổng số lượng quan sát có được là 133.

Cả 5 quốc gia được đưa vào mô hình nghiên cứu có nhiều đặc điểm giống nhau

như có cùng vị trí địa lý (nằm ở khu vực ông Nam Châu Á) và đều là các thành

viên của Hiệp hội các nước ông Nam Á (Assosiation of South East Asian -

ASEAN). Cả 5 quốc gia đều là những nước đang phát triển với mức thu nhập bình

quân đầu người từ trung bình thấp đến khá. Ngoài ra, có thể nhận thấy là các nước

ASEAN hướng theo mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu và gia tăng mức tiết

kiệm quốc gia. Thêm vào đó tất cả các nước khảo sát đều có mức nợ công ngày

càng gia tăng do sự thâm hụt ngân sách đến từ gia tăng đầu tư công để thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, tạo việc làm.

Các biến nghiên cứu chính của mô hình là: tổng sản phẩm quốc dân thực (RGDP

– Real Gross Domestic Product), đầu tư công thực (RGI – Real Government

Investment), chi tiêu công thực (RGC – Real Government Consumption), thu ngân

sách từ thuế thực (RTR – Real Tax Revenue). Các giá trị biến đổi của các biến được

thực hiện như sau:

- Từ bộ dữ liệu hàng năm dành cho các nước Châu Á của ADB, ta chọn lấy các

số liệu danh nghĩa của GDP, đầu tư công, chi tiêu công, thu ngân sách từ thuế. Vì

các số liệu này ở từng quốc gia có đơn vị tính theo đồng nội tệ nên ta phải biến đổi

các biến về giá trị thực theo USD. iều này có nghĩa là ta chọn lấy hệ số khử lạm

35

phát (Implicit deflator) và tỷ giá hối đoái giữa đồng nội tệ và USD (exchanger rate).

Như vậy, lấy giá trị danh nghĩa nhân 100 chia cho hệ số khử lạm phát và chia cho tỷ

giá hối đoái, ta sẽ nhận được giá trị của các biến thực theo USD. Cần lưu ý là mỗi

quốc gia trong bảng có các năm cơ sở để tính giá trị thực khác nhau (Implicit

deflator = 100)

- Từ các giá trị thực của các biến RGDP, RGI, RGC, RTR, ta lấy logarithm tự

nhiên và nhân 100, ta sẽ được các biến tương ứng trong mô hình là lnRGDP, lnRGI,

lnRGC và lnRTR. Việc lấy logarithm tự nhiên và nhân 100 của các biến để khi xem

xét tác động riêng phần của từng biến độc lập lên biến phụ thuộc trong mô hình hồi

qui, ta nhận được các hệ số ước lượng dưới dạng %. Thống kê mô tả cho các biến

dữ liệu từ năm 1983 - 2011 của 5 quốc gia ASEAN được xác định như sau:

Bảng 4.1 Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Biến

Trung bình

Độ lệch

Giá trị

Giá trị

Số quan sát

chuẩn

nhỏ nhất

lớn nhất

374,2708

151,9564

-150,7147 563,7848 N = 133

lnRGDP Overall

n = 5

Between

157,5379

112,8394 491,6241

T-bar = 26,6

Within

62,9192

110,7167 496,5332

Overall

69,2319

169,0090

-738,8477 264,5570 N = 133

lnRGI

n = 5

Between

158,6305

-208,4577 187,4692

T-bar = 26,6

Within

96,3567

-461,1581 249,1102

Overall

135,5686

171,3606

-379,3124 373,0525 N = 133

lnRGC

n = 5

Between

183,0368

-164,1322 268,9003

T-bar = 26,6

Within

59,8092

-79,6116 260,4885

Overall

171,1843

184,9959

-463,2090 375,7491 N = 133

lnRTR

n = 5

Between

193,2884

-170,1482 289,1027

T-bar = 26,6

Within

75,2717

-121,8765 326,6724

36

Trong Bảng 4.1, T-bar là giá trị thời gian quan sát trung bình cho 5 quốc gia. Do số

liệu thống kê khác nhau nên các quốc gia có khoảng thời gian quan sát khác nhau.

Nguồn: ADB, Key Indicators for Asia and the Pacific 2012.

Theo đồ thị 4.1, GDP thực của cả 5 quốc gia ASEAN đều gia tăng và xu thế đi

lên thể hiện khá rõ rệt. iều này thể hiện rất rõ với chính sách hướng đến xuất khẩu

và mức tiết kiệm quốc gia cao, các nước này đang thực hiện đúng để có được mức

tăng trưởng kinh tế khá tốt. Tuy nhiên, mức gia tăng trong GDP thực thể hiện sự

chênh lệch khá rõ ràng giữa các quốc gia này. Trong khi Malaysia, Thái Lan và

Indonesia có mức GDP thực khá cao và mức gia tăng cũng lớn thì Việt Nam và

Campuchia lại có mức GDP thực thấp và sự gia tăng theo thời gian cũng không cao.

iều này nói lên một thực tế đáng quan ngại trong nội bộ các nước ASEAN là có sự

chênh lệch trong trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia thành viên. Theo đó,

cùng là các nước đang phát triển nhưng dựa trên mức GDP bình quân đầu người thì

Malaysia và Thái Lan được IMF xếp vào nhóm có mức thu nhập trung bình khá,

Indonesia thuộc nhóm có mức thu nhập trung bình trung bình còn Việt Nam là nước

có thu nhập trung bình thấp và Campuchia thuộc nhóm có thu nhập thấp. Như vậy,

nếu khối ASEAN không có kế hoạch hợp lý để làm giảm thiểu sự chênh lệch trong

37

trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên thì việc thực thi kế hoạch tự do

hóa thị trường trong khối AFTA sẽ chỉ khiến mức chênh lệch này càng gia tăng lớn,

khi đó trong tương lai việc hợp nhất khối ASEAN theo mô hình liên minh Châu Âu

càng trở nên khó thực hiện.

Nguồn: ADB, Key Indicators for Asia and the Pacific 2012.

Về chi tiêu ngân sách nhà nước thì giữa các nước ASEAN cũng có sự chênh lệch

đáng kể. Theo ồ thị 4.3, chi tiêu của Thái Lan đạt cao nhất trong khối và thấp nhất

là Campuchia. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997 bắt nguồn từ Thái

Lan, hầu hết các nước ASEAN đều bị ảnh hưởng nặng nề nên chi tiêu công sụt giảm

mạnh trong những năm 1998 và 1999. ể vực dậy nền kinh tế, các quốc gia này chi

tiêu mạnh để phát triển kinh tế và kết quả cho thấy mức gia tăng chi tiêu công mạnh

mẽ.

38

Nguồn: ADB, Key Indicators for Asia and the Pacific 2012.

Còn về thu ngân sách từ thuế và đầu tư công thì ồ thị 4.2 và 4.4 thể hiện khá rõ.

Trước hết, do trình độ phát triển kinh tế không đồng đều nên tương tự như mức

GDP thực thì thu ngân sách từ thuế và đầu tư công cũng có sự khác biệt khá lớn

giữa các nước. Ở đầu tư công thực thì Malaysia có mức đầu tư cao nhất, kế đến là

Thái Lan nhưng ở mức thu ngân sách từ thuế thực thì Thái Lan cao nhất rồi mới đến

Malaysia.

39

Một điều dễ nhận thấy là trong khi mức thu ngân sách từ thuế thực gia tăng đồng

điệu với sự tăng trưởng kinh tế thì đầu tư công có vẻ ổn định, mức gia tăng rất thấp

hay có sự sụt giảm mạnh như trường hợp Indonesia. iều này cũng khá dễ hiểu khi

ta tìm hiểu mức thâm hụt ngân sách của các nước. Ngoại trừ Singapore và Brunei

trong khối ASEAN có mức thặng dư ngân sách thì hầu hết các quốc gia còn lại đều

có mức thâm hụt. Sự thâm hụt xuất phát từ việc chi tiêu công quá lớn để phát triển

kinh tế trong đó chi đầu tư công ở các nước không hiệu quả lắm so với các nước

phát triển Âu Mỹ. Kết quả là nợ công ở các nước này khá cao xấp xỉ 50-60%GDP.

Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy với mức nợ công ở các nước đang phát triển

vượt quá 60% sẽ kéo giảm sự tăng trưởng kinh tế. Vì thế, mặc dù có sự gia tăng tốt

trong nguồn thu ngân sách từ thuế nhưng các nước ASEAN cố gắng kéo giảm mức

nợ công thông qua kéo giảm mức thâm hụt ngân sách và điều tất nhiên là đầu tư

công phải giảm đi.

Tổng kết lại, từ các số liệu phân tích và xử lý về GDP, đầu tư công, chi tiêu công

và thu ngân sách từ thuế, nghiên cứu có thể rút ra một vài đặc điểm về kinh tế của

các nước thành viên ASEAN như sau:

- Năng lực phát triển kinh tế của các quốc gia không đồng đều và độ chênh lệch

này khá cao, biểu hiện bằng mức chênh lệch GDP thực khá lớn.

- Mặc dù có sự gia tăng khá ổn định trong nguồn thu ngân sách từ thuế nhưng

mức đầu tư công có xu hướng giảm dần. iều này là do nợ công và mức thâm hụt

ngân sách ở các nước khá lớn nên việc cắt giảm đầu tư công vào những dự án không

hiệu quả, lãng phí là cần thiết ở các nước này.

4.2 Các iể định trị riêng nghiệ đơn vị ảng

Số lượng quan sát của mỗi quốc gia trong bảng khác nhau và khá thấp nên không

thể áp dụng các kiểm định trị riêng nghiệm đơn vị cho chuỗi thời gian cho mỗi quốc

gia. Vì thế, đề tài sử dụng các kiểm định trị riêng nghiệm đơn vị bảng không cân

bằng chung cho tất cả các nước, được xem là thích hợp trong trường hợp này. Các

kiểm định này không chỉ làm tăng khả năng của các kiểm định trị riêng nghiệm đơn

40

vị do quãng thời gian quan sát, mà còn tối thiểu hóa các nguy cơ phá vỡ cấu trúc

của dữ liệu. Trong số các kiểm định trị riêng nghiệm đơn vị bảng Levin-Lin-Chu,

Harris-Tzaivalis, Breitung, Im-Perasan-Shin, Fisher type test và Hadri thì chỉ có 2

loại kiểm định Im-Perasan-Shin và Fisher type test có thể áp dụng được cho bảng

dữ liệu không cân bằng. Theo đó, đề tài áp dụng kiểm định Fisher cho các biến

trong mô hình.

Bảng 4.2 Kiể định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế độ trễ 2

(biến gốc)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Inverse chi-squared(10) p

4,8625

0,9002

5

26,6

lnRGDP

Inverse normal z

1,2514

0,8946

Inverse logit t(29) L*

1,2146

0,8828

Modified inv. chi-squared Pm

-1,1488

0,8747

Inverse chi-squared(10) p

6,4916

0,7724

5

26,6

lnRGI

Inverse normal z

0,5752

0,7174

Inverse logit t(29) L*

0,5545

0,7083

Modified inv. chi-squared Pm

-0,7845

0,7836

Inverse chi-squared(10) p

12,6633

0,2431

5

26,6

lnRGC

Inverse normal z

0,1577

0,5626

Inverse logit t(29) L*

0,0958

0,5378

Modified inv. chi-squared Pm

0,5955

0,2757

Inverse chi-squared(10) p

5,0239

0,8896

5

26,6

lnRTR

Inverse normal z

1,2093

0,8867

Inverse logit t(29) L*

1,1575

0,8717

Modified inv. chi-squared Pm

-1,1127

0,8671

41

Bảng 4.3 Kiể định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, độ trễ 2

(biến gốc)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Inverse chi-squared(10) p

31,6395***

0,0005

5

26,6

lnRGDP

Inverse normal z

-3,0119***

0,0013

Inverse logit t(29) L*

-3,6146***

0,0006

Modified inv. chi-squared Pm

4,8387***

0,0000

Inverse chi-squared(10) p

28,9716***

0,0013

5

26,6

lnRGI

Inverse normal z

-2,4569***

0,0070

Inverse logit t(29) L*

-3,0004***

0,0027

Modified inv. chi-squared Pm

4,2422***

0,0000

Inverse chi-squared(10) p

28,9540***

0,0013

5

26,6

lnRGC

Inverse normal z

-2,6648***

0,0039

Inverse logit t(29) L*

-3,2102***

0,0016

Modified inv. chi-squared Pm

4,2383***

0,0000

Inverse chi-squared(10) p

11,0274

0,3554

5

26,6

lnRTR

Inverse normal z

-0,8345

0,2020

Inverse logit t(29) L*

-0,7681

0,2243

Modified inv. chi-squared Pm

0,2297

0,4091

***: Mức ý nghĩa 1%

Nhìn vào Bảng kết quả kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình (Bảng

4.2), ta nhận thấy ở độ trễ bằng hai và kiểm định không xu thế, gần như tất cả các

biến đều không dừng nhưng ở kiểm định có xu thế thời gian (Bảng 4.3) thì các biến

đều dừng ở mức ý nghĩa 1% với bốn tiêu chuẩn kiểm định, ngoại trừ biến nguồn thu

42

thuế thực không dừng, thậm chí ở mức ý nghĩa 10%. iều này có nghĩa là các biến

GDP thực, đầu tư công thực và chi tiêu công thực đều có bậc tích hợp là I(0).

Nhưng ở mức sai phân bậc nhất, cũng bằng kiểm định Fisher với thuộc tính

Phillips-Perron, ở điều kiện có xu thế hay không xu thế, biến nguồn thu thuế thực

đều dừng ở mức ý nghĩa 1% cho cả bốn tiêu chuẩn kiểm định (Bảng 4.4 và 4.5).

Mặc dù không dừng ở mức ý nghĩa nhưng biến nguồn thu thuế thực (lnRTR) dừng

ở mức sai phân và cho ta kết quả là biến lnRTR có bậc tích hợp là I(1).

Bảng 4.4 Kiể định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế, độ trễ 2

(biến sai phân)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Inverse chi-squared(10) p

72,0268***

0,0000

5

25,6

DlnRTR

Inverse normal z

-6,9841***

0,0000

Inverse logit t(29) L*

-9,0390***

0,0000

Modified inv. chi-squared Pm

13,8696***

0,0000

***: Mức ý nghĩa 1%

Bảng 4.5 Kiể định tính dừng Fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, độ trễ 2

(biến sai phân)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Inverse chi-squared(10) p

52,7051***

0,0000

5

25,6

DlnRTR

Inverse normal z

-5,5407***

0,0000

Inverse logit t(29) L*

-6,5933***

0,0000

Modified inv. chi-squared Pm

9,5492***

0,0000

***: Mức ý nghĩa 1%

Qua kiểm định tính dừng của các biến trong mô hình bằng kiểm định Fisher,

thuộc tính Phillips-Perron có xu thế lẫn không xu thế cho dữ liệu bảng không cân

43

bằng, ta có thể có được các biến với các đặc tính như sau: lnRGDP, lnRGI, lnRGC

dừng ở mức ý nghĩa, bậc tích hợp là I(0) và lnRTR dừng ở mức sai phân, bậc tích

hợp là I(1).

Trong mô hình, một số biến có bậc tích hợp I(0), một số biến có bậc tích hợp

I(1), cho ta một khẳng định rằng trong mô hình khảo sát, các biến có đặc tính đồng

liên kết (co-integration). Nghĩa là giữa các biến có một sự kết hợp tuyến tính sao

cho đại lượng đặc trưng cho sự kết hợp tuyến tính của các biến là phần dư sẽ có đặc

tính dừng ở mức ý nghĩa, bậc tích hợp là I(0). Do đó, mô hình thích hợp nhất cho

việc hồi qui các biến là mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM).

4.3 Áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (Error Correction Model - ECM)

ặc tính tích hợp bậc 0 của một số biến này và tích hợp bậc 1 của một số biến

khác trong mô hình chỉ cho ta biết rằng các biến có tính đồng liên kết (co-

integration) nhưng để khẳng định việc sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) có

thích hợp hay không thì phải xem xét phần dư (sự kết hợp tuyến tính của tất cả các

biến trong mô hình) trong phương trình hồi qui giữa các biến trong dài hạn có dừng

ở bậc tích hợp bậc 0 hay không.

4.3.1 Phương trình hồi qui các biến trong dài hạn

Bảng 4.6 Kết quả hồi qui mô hình cân bằng trong dài hạn (ECM) có phân tích độ

mạnh (robust)

Biến phụ

Biến độc

Hệ số ƣớc

P > |t|

F-test

R2

thuộc

lập

lƣợng

lnRGDP

lnRGI

,0408471

0,547 F(3,4) = 316,03

within= 0,9526

Prob > F = 0,000

between = 0,9908

lnRGC

,5955785***

0,002

overall = 0,9816

lnRTR

,3211054**

0,038

Hệ số cắt

235,7329***

0,000

***, **: Ý nghĩa lần lượt ở mức 1% và 5%

44

Kết quả hồi qui mô hình cân bằng của các biến trong dài hạn có phân tích độ

mạnh ở Bảng 4.6 cho ta những nhận định sau:

- Tác động đồng thời của 3 biến lnRGI, lnRGC, lnRTR lên biến lnRGDP là có ý

nghĩa về mặt thống kê thông qua kiểm định F (kiểm định Wald) ở mức ý nghĩa 1%.

- Xét ở góc độ riêng phần thì tác động của lnRGC và lnRTR lên lnRGDP là có ý

nghĩa thống kê lần lượt ở mức 1% và 5%.

- Hệ số cắt là đại lượng khởi đầu của mỗi quốc gia trong bảng dữ liệu cũng có ý

nghĩa thống kê ở mức 1%.

- Mức độ giải thích cho sự thay đổi của biến tăng trưởng kinh tế thông qua các

biến giải thích đầu tư công, chi tiêu công và nguồn thu thuế là khá cao thể hiện qua các giá trị R2 (R2 “overall” = 0,9816; R2 “between” = 0,9908 và R2 “within” =

0,9526).

Từ phương trình hồi qui cân bằng các biến trong dài hạn, ta tính được phần dư

(Residual), phần kết hợp tuyến tính của tất cả các biến. Giá trị thống kê mô tả của

biến phần dư (Res) như sau:

Bảng 4.7 Thống kê mô tả phần dƣ Res của mô hình cân bằng trong dài hạn (ECM) có

phân tích độ mạnh

Biến

Trung bình

Độ lệch

Giá trị

Giá trị

Số quan sát

chuẩn

nhỏ nhất

lớn nhất

Res

Overall

1,12e-07

26,06356

-56,38301 89,14758 N = 133

n = 5

Between

24,89231

-26,48821 38,01050

T-bar = 26,6

Within

13,69848

-38,95987 51,13707

Từ Bảng 4.7, ta nhận thấy phần dư có giá trị trung bình gần bằng zero, điều này

cho thấy các giá trị của phần dư xoay quanh một giá trị cố định bằng zero. Áp dụng

kiểm định Fisher thuộc tính Phillip-Perron, độ trễ bằng 2 có xu thế lẫn không xu thế

cho biến phần dư, ta nhận được kết quả lần lượt trong Bảng 4.8 và Bảng 4.9.

45

Bảng 4.8 Kiể định tính dừng fisher thuộc tính Phillips-Perron không xu thế, độ trễ 2

(biến phần dƣ)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Res

Inverse chi-squared(10) p

31,4900***

0,0005

5

25,6

Inverse normal z

-2,9595***

0,0015

Inverse logit t(29) L*

-3,5097***

0,0007

Modified inv. chi-squared Pm

2,9543***

0,0000

***: Mức ý nghĩa 1%

Bảng 4.9 Kiể định tính dừng fisher thuộc tính Phillips-Perron có xu thế, độ trễ 2

(biến phần dƣ)

Biến

Tiêu chuẩn

value

p-value

N

T

Res

Inverse chi-squared(10) p

23,2122***

0,0100

5

25,6

Inverse normal z

-1,8882**

0,0295

Inverse logit t(29) L*

-2,1792**

0,0188

Modified inv. chi-squared Pm

13,8696***

0,0016

***, **: Ý nghĩa lần lượt ở mức 1% và 5%.

Từ Bảng 4.8 và 4.9 cho việc kiểm định tính dừng của biến phần dư trong hai

trường hợp không xu thế và có xu thế, ta có thể kết luận là phần dư (Residual) đều

dừng ở mức ý nghĩa lần lượt 1% và 5% cho cả bốn tiêu chuẩn kiểm định. iều này

có nghĩa là biến Res có bậc tích hợp là I(0). Do đó, ta có thể kết luận rằng mô hình

hiệu chỉnh sai số (ECM) được áp dụng cho phân tích dữ liệu bảng không cân bằng

đang khảo sát là thích hợp.

Bước tiếp theo trong mô hình phân tích ECM là xem xét phương trình hồi qui các

biến trong ngắn hạn như thế nào và tính toán tốc độ hiệu chỉnh.

46

4.3.2 Phương trình hồi qui các biến trong ngắn hạn

Bước cuối cùng trong mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) là việc xác định hệ số

điều chỉnh của mô hình. Hệ số điều chỉnh là tốc độ hiệu chỉnh kết hợp của các biến

trong ngắn hạn sao cho tác động của các biến trong dài hạn là cân bằng. Do đó, đề

tài thực hiện hồi qui dữ liệu bảng không cân bằng với tác động cố định cho tất cả

các biến sai phân và độ trễ bậc nhất của phần dư, ta có phương trình tác động của

các biến trong ngắn hạn. Kết quả hồi qui được trình bày trong Bảng 4.10.

Bảng 4.10 Kết quả hồi qui ô hình tác động trong ngắn hạn (ECM) có phân tích độ

mạnh (robust)

Biến phụ

Biến độc

Hệ số ƣớc

P > |t|

F-test

R2

thuộc

lập

lƣợng

DlnRGDP DlnRGI

,1140812

0,122 F(3,4) = 2905,52

within = 0,9391

Prob > F = 0,000

between = 0,3903

DlnRGC

,3161262**

0,044

overall = 0,9042

DlnRTR

,5062249***

0,000

Lres

-,3445017***

0,001

Hệ số cắt

-,1091244

0,688

Tốc độ hiệu chỉnh β = 0,3445 = 34,45%/ năm

***, **: Ý nghĩa lần lượt ở mức 1% và 5%.

Kết quả hồi qui mô hình tác động trong ngắn hạn có phân tích độ mạnh ở Bảng 4.10

cho ta các nhận định sau:

- Tác động đồng thời của 4 biến giải thích DlnRGI, DlnRGC, DlnRTR, Lres lên

biến phụ thuộc DlnRGDP là có ý nghĩa ở mức 1% thể hiện qua giá trị thống kê F

(kiểm định Wald) và p-value = 0,000 của nó.

- Tác động riêng phần của hai biến DlnRGC và DlnRTR là có ý nghĩa thống kê

lần lượt ở mức 5% và 1%.

47

- Hệ số điều chỉnh (hệ số ước lượng của biến LRes) là có ý nghĩa thống kê ở mức

1%. Theo đó, tốc độ hiệu chỉnh của mô hình là β = 0,3445 = 34,45%/ năm. Với giá

trị này, thời gian cần thiết để mô hình đạt cân bằng trong dài hạn là η = 100/34,45 =

2,9 năm 3 năm.

Tóm lại, mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) được áp dụng cho mô hình của đề tài

cho các kết quả như sau:

- Tất cả các biến giải thích trong mô hình (lnRGI, lnRGC và lnRTR) đều có tác

động dương lên tăng trưởng kinh tế (biến lnRGDP) trong đó các hệ số ước lượng

của lnRGC và lnRTR có ý nghĩa thống kê ở mức lần lượt 1% và 5%.

- Mức độ giải thích của các biến giải thích cho sự tăng trưởng kinh tế là khá cao

R2 “overall” = 0,9816 (Bảng 4.6).

- Tốc độ và thời gian hiệu chỉnh của mô hình lần lượt là β = 0,3445 = 34,45%/

năm và η = 100/34,45 = 2,9 năm 3 năm (Bảng 4.10).

Như vậy, chi tiêu công và nguồn thu ngân sách đóng góp vào sự phát triển của

nền kinh tế các nước ASEAN khá cao. Với mức gia tăng lần lượt 1% trong chi tiêu

công và nguồn thu ngân sách thì mức tăng trưởng kinh tế lần lượt là 0,59% và

0,32%. Tuy nhiên, mức độ thể hiện ở đầu tư công lại khá thấp, cụ thể với mức gia

tăng đầu tư công 1% thì tăng trưởng kinh tế chỉ đạt 0,04% (Bảng 4.6). iều này thể

hiện khá rõ đặc điểm kinh tế của các nước ASEAN, cũng giống như các nước đang

phát triển khác thì đầu tư công không mang lại hiệu quả cao. Ở các nước ASEAN,

đầu tư công thường mang tính dàn trải, không mang tính chiến lược, thời gian thực

hiện dự án kéo dài và đánh giá nghiệm thu công trình thường cho thấy chất lượng

khá tệ. Qua đó cho thấy số vốn bỏ ra đầu tư khá lớn nhưng lợi ích mang lại không

như dự tính nên thời gian hoàn vốn kéo dài khiến mức sinh lợi rất thấp.

Ngoại trừ Malaysia và Thái Lan, hầu hết khu vực tư nhân ở 3 nước còn lại là

Indonesia, Việt Nam và Campuchia đều không mạnh, khiến khu vực công trở nên

chủ đạo trong nền kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái, vai trò của khu vực

công ở các nước này thể hiện rõ nét, Chính phủ gia tăng chi tiêu và đóng góp vào sự

48

phát triển kinh tế khá lớn, điều này cũng phù hợp với mô hình kinh tế Keynes trong

đó nhấn mạnh Chính phủ phải chấp nhận “hy sinh”, gia tăng chi tiêu công để thúc

đẩy sự tăng trưởng kinh tế, góp phần giải quyết thất nghiệp.

4.4 Kiể định mối quan hệ nhân quả Granger giữa đầu tƣ công và tăng trƣởng kinh

tế

ể xem xét tác động qua lại giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, đề tài thực

hiện kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger giữa hai biến lnRGDP và lnRGI

bằng mô hình ràng buộc có phân tích độ mạnh. Mô hình ràng buộc là mô hình trong

đó ngoài biến giải thích lnRGI còn đưa thêm vào hai biến khác là độ trễ bậc nhất và

độ trễ bậc hai của biến lnRGI.

Bảng 4.11 Kết quả hồi qui cho mô hình ràng buộc có phân tích độ mạnh cho quan hệ

nhân quả Granger

Biến phụ

Biến độc

Hệ số ƣớc

F-tests

R2

thuộc

lập

lƣợng

lnRGDP

lnRGI

0,497***

F(3, 4) = 122,79

within = 0,6633

Prob > F = 0,0002

between = 0,9456

overall = 0,8349

lnRGI

lnRGDP

1,2**

F(3, 4) = 880,48

within = 0,6655

Prob > F = 0,0000

between = 0,9451

overall = 0,8380

***, **: ý nghĩa ở mức 1% và 5%

Kết quả hồi qui cho mô hình ràng buộc có phân tích độ mạnh vce(robust) bằng sự

hiệu chỉnh ở phương sai sai số cho thấy các giá trị của kiểm định F (kiểm định

Wald) là khá lớn và mô hình có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Tác động riêng phần

của biến đầu tư công lên biến tăng trưởng kinh tế cũng như biến tăng trưởng kinh tế

lên biến đầu tư công có ý nghĩa thống kê lần lượt ở mức 1% và 5%. iều này khẳng

định rằng giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư công có mối quan hệ dương, hai chiều.

49

4.5 Tổng hợp kết quả và một số gợi ý về mặt chính sách công

4.5.1 Tổng hợp kết quả nghiên cứu

Kết quả phân tích mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) và mô hình kiểm định tính

nhân quả Granger, đề tài rút ra được những điểm chính như sau:

- Trong mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) tổng quát hơn là có xem xét sự tác

động của các yếu tố khác lên tăng trưởng kinh tế, kết quả cho thấy sự tác động của

các biến lên tăng trưởng là khác nhau. óng góp của biến chi tiêu công lên tăng

trưởng kinh tế là cao nhất, kế tiếp là thu ngân sách từ thuế và cuối cùng là biến đầu

tư công. Mặc dù cũng tác động dương lên tăng trưởng kinh tế nhưng đầu tư công

đóng góp khá thấp cho tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN. Như đã đề cập ở

trên thì sự đóng góp thấp của đầu tư công là do ở các nước ASEAN, cũng giống

như các nước đang phát triển khác, các dự án đầu tư công thường có hiệu quả thấp,

vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài và đa số người dân không hài lòng.

- Trong mô hình kiểm định tính nhân quả Granger giữa hai biến đầu tư công và

tăng trưởng kinh tế cho thấy đầu tư công có tác động dương và có ý nghĩa thống kê

lên tăng trưởng kinh tế ở mức 0,497% nếu gia tăng đầu tư công 1% nhưng ngược lại

tăng trưởng kinh tế 1% lại đóng góp cho sự gia tăng đầu tư công ở mức 1,2% (Bảng

4.11). iều này cho thấy khi Chính phủ muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để giải

quyết thất nghiệp thì sẽ gia tăng đầu tư công và đến lượt nền kinh tế có sự tăng

trưởng sẽ mang lại nguồn thu cho Chính phủ, từ đó giúp gia tăng đầu tư công trở lại.

Mối quan hệ hai chiều giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế là khá rõ ràng nhưng

mức độ tác động lên nhau giữa chúng chỉ mang ý nghĩa tương đối vì trong mô hình

kiểm định nhân quả Granger này ta chỉ có hai biến khảo sát và vì thế không mang

tính đại diện.

- Trong cả hai mô hình thì hệ số xác định R2 “overall”, R2 “between”, R2 “within” khá cao và đều khác nhau. Theo các giá trị đạt được cho R2 “overall” và R2

“between” thì nghiên cứu có thể kết luận rằng có sự khác biệt trong các đặc điểm

của các quốc gia nhất định, vì thế các nước này không nên được xem như là một tập

50

đồng nhất. Ngoài ra, nhìn ở các giá trị R2 “winthin”, đề tài xác nhận rằng các

phương trình chủ yếu trình bày sự biến đổi trong mỗi 5 nước suốt giai đoạn xem xét

trung bình 26,6 năm.

4.5.2 Ý nghĩa về mặt chính sách công liên quan đến tăng trưởng kinh tế và đầu

tư công ở các nước ASEAN

Kết quả phân tích và xử lý số liệu cho thấy ý nghĩa về mặt chính sách công cho 5

nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam là rất rõ ràng thông qua mô hình hiệu chỉnh sai

số và kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger. Sự gia tăng đầu tư công có tác

động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại tăng trưởng kinh tế có tác dụng làm

tăng đầu tư công. Tuy nhiên so với mức đóng góp của chi tiêu công và nguồn thu

ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế thì đầu tư công rõ ràng là khá thấp. iều

này có thể lý giải là do hiệu quả đầu tư của các dự án công ở các nước ASEAN khá

thấp.

Việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN thông qua gia tăng đầu

tư công đòi hỏi sự thận trọng của các Chính phủ khi ban hành các chính sách. Trong

bối cảnh khủng hoảng nợ công khổng lồ ở các nước thuộc khối Châu Âu như Hy

Lạp, Bồ ào Nha, Tây Ban Nha, Ý,… thì việc gia tăng đầu tư công ở các nước

ASEAN chỉ còn cách thông qua vay nợ vì hầu hết các nước này đều bị thâm hụt

ngân sách. Với những dự án đầu tư công có hiệu quả cao (như thời gian hoàn vốn

nhanh, mang lại lợi ích cho người dân) thì việc vay nợ công là khả thi vì trả được nợ

và tạo tăng trưởng kinh tế tích cực. Tuy nhiên, với những dự án có hiệu quả đầu tư

thấp thì sẽ trở thành một gánh nặng nợ không thể trả nổi và điều này chỉ làm khổ

các thế hệ con cháu trong tương lai vì mức tăng trưởng do việc vay nợ mang lại

cũng không bù đắp nổi mức nợ công khổng lồ đã vay trước đó.

Kết luận chƣơng 4

Qua mô tả dữ liệu nghiên cứu và kết quả thực nghiệm thông qua phân tích hồi

qui. Luận văn đã làm rõ được một số vấn đề sau: chi tiêu công và nguồn thu ngân

51

sách đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế các nước ASEAN khá cao, tuy

nhiên ở đầu tư công lại khá thấp. iều này thể hiện khá rõ đặc điểm kinh tế của các

nước ASEAN, cũng giống như các nước đang phát triển khác thì đầu tư công không

mang lại hiệu quả cao. Ngoài ra, trong mô hình kiểm định tính nhân quả Granger

cho thấy mối quan hệ hai chiều giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế là khá rõ

ràng. iều này cho thấy khi Chính phủ muốn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để giải

quyết thất nghiệp thì sẽ gia tăng đầu tư công và đến lượt tăng trưởng kinh tế sẽ

mang lại nguồn thu cho Chính phủ, từ đó giúp gia tăng đầu tư công trở lại.

52

KẾT LUẬN

ề tài đã áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai số (ECM) để phân tích tác động của các

biến đầu tư công, chi tiêu công và thu ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế

trong ngắn hạn và dài hạn. Ngoài ra, đề tài cũng khẳng định mối quan hệ nhân quả

Granger giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế. Phương pháp tiếp cận của đề tài là

áp dụng dữ liệu bảng không cân bằng cho 5 quốc gia ASEAN, trong đó có Việt

Nam trong giai đoạn trung bình là 26,6 năm (1983 - 2011).

Kết quả ở mô hình Gragner cho thấy mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng

trưởng kinh tế là dương và có ý nghĩa thống kê trong khi ở mô hình ECM thì tốc độ

hiệu chỉnh là 34,45%/ năm và thời gian để các tác động chưa cân bằng của các biến

trong ngắn hạn đạt cân bằng trong dài hạn là khoảng 3 năm. óng góp của biến chi

tiêu công lên tăng trưởng kinh tế là cao nhất, kế tiếp là thu ngân sách từ thuế và cuối

cùng là biến đầu tư công. Mặc dù cũng tác động dương lên tăng trưởng kinh tế

nhưng đầu tư công đóng góp khá thấp cho tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN.

Sự đóng góp thấp của đầu tư công là do ở các nước ASEAN, cũng giống như các

nước đang phát triển khác thì các dự án đầu tư công thường có hiệu quả thấp, vốn

đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn kéo dài và đa số người dân không hài lòng.

Ngoài ra, bằng kỹ thuật phân tích dữ liệu bảng không cân bằng, đề tài khám phá

ra sự không đồng nhất ở hầu hết 5 quốc gia ASEAN được khảo sát. Các quốc gia

không chỉ đối diện với các điều kiện ban đầu do đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau

mà còn là các mối quan hệ khác biệt giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế, giữa

chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế và giữa thu ngân sách công và tăng trưởng kinh

tế.

Kết quả phân tích và xử lý số liệu cho thấy ý nghĩa về mặt chính sách công cho 5

nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam là rất rõ ràng thông qua mô hình hiệu chỉnh sai

số và kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger. Sự gia tăng đầu tư công có tác

53

động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại tăng trưởng kinh tế có tác dụng làm

tăng đầu tư công. Tuy nhiên so với mức đóng góp của chi tiêu công và nguồn thu

ngân sách từ thuế lên tăng trưởng kinh tế thì đầu tư công rõ ràng là khá thấp. iều

này có thể lý giải là do hiệu quả đầu tư của các dự án công ở các nước ASEAN khá

thấp.

Việc thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các nước ASEAN thông qua gia tăng đầu

tư công đòi hỏi sự thận trọng của các Chính phủ khi ban hành các chính sách. Trong

bối cảnh khủng hoảng nợ công khổng lồ ở các nước thuộc khối Châu Âu như Hy

Lạp, Bồ ào Nha, Tây Ban Nha, Ý,… thì việc gia tăng đầu tư công ở các nước

ASEAN chỉ còn cách thông qua vay nợ vì hầu hết các nước này đều bị thâm hụt

ngân sách. Với những dự án đầu tư công có hiệu quả cao như thời gian hoàn vốn

nhanh, mang lại lợi ích cho người dân thì việc vay nợ công là khả thi vì trả được nợ

và tạo tăng trưởng kinh tế tích cực, nhưng với những dự án có hiệu quả đầu tư thấp

thì sẽ trở thành một gánh nặng nợ không thể trả nổi vì mức tăng trưởng do vay nợ

mang lại cũng không bù đắp nổi khoản nợ công đã vay.

54

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Bùi Trinh, 2009. “Hiệu quả đầu tư của các khu vực kinh tế thông qua hệ số

ICOR”. Báo cáo chuyên đề cho Viện Kinh tế Việt Nam.

2. Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB, 2009. "Key Indicators for Asia and the

Pacific 2008". Manila.

3. Ngân hàng Phát triển Châu Á ADB, 2010. "Key Indicators for Asia and the

Pacific 2009". Manila.

4. Nguyễn ức Minh, 2012. Đầu tư công và tăng trưởng kinh tế: nghiên cứu trường

hợp của Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ. ại học kinh tế Thành phố Hồ

Chí Minh.

5. Nguyễn ức Thành và inh Tuấn Minh, 2011. “ ổi mới thể chế, cơ chế và

những giải pháp chấn chỉnh, hoàn thiện, tái cấu trúc lĩnh vực đầu tư công”. Trung

tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách, Trường ại học Kinh tế, ại học Quốc gia

Hà Nội.

6. Nguyễn Thị Loan, 2012. Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở

Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. ại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Nguyễn Xuân Tự, 2010. “Hoàn thiện khuôn khổpháp lý về đầu tư công”, Kỷ yếu

hội thảo “Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái

cấu trúc kinh tế”, T.P. Huế ngày 28-29.12.2010.

8. Phạm Sĩ An, 2009. “Vai trò của đầu tư công trong tăng trưởng kinh tế”. Báo cáo

chuyên đề cho Viện Kinh tế Việt Nam.

9. Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê các năm 2008, 2009, 2010.

10. Vũ Như Thăng. “ ổi mới đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020”.

Viện Chiến lược và Chính sách tài chính – Bộ Tài chính.

11. Vũ Tuấn Anh, 2010. “Tóm tắt về tình hình đầu tư công ở Việt Namn trong mười

năm qua”, Kỷ yếu hội thảo “Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình

tăng trưởng và tái cấu trúc kinh tế”, T.P. Huế ngày 28-29.12.2010.

55

Tiếng Anh

12. ADB, 2012. Key Indicators for Asia and the Pacific 2012, online resource,

Asian Development Bank.

13. ANZ, 2011. “Vietnam Monthly Chartbook”, ANZ Research, Asia Pacific

Economics, 11 August 2011.

14. Aschauer, David A., 1989a. “Public investment and productivity growth in the

group of seven”, Federal Reserve Bank of Chicago, Economic Perspectives 13

(September/October), pp.17-25.

15. Aschauer, David A., 1989b. “Does public capital crowd out private capital?”.

Journal of Monetary Economics 24 (September), pp. 171-188.

16. Baron, D. and Myerson R., 1982. “Regulating a monopolist with unknown

costs”, Econometrica 50, 911-930.

17. Barro, R.J., 1991. “Economic growth in a cross-section of countries”. Quarterly

Journal of Economics 106, 407-443.

18. Blejer, M. I. and M. S. Khan, 1984. “Private Investment in Developing

Countries”, Finance and Development, 26-29.

19. Bird, R.M. and F. Vaillancourt, 1998. “Fiscal Decentralization in Developing

Countries: an Overview”, Cambridge University Press: Cambridge.

20. Canning, D., and M. Fay, 1993. “The effect of transportation networks on

economicgrowth”. Columbia University Department of Economics Discussion

Paper.

21. Devarajan, S., V. Swaroop, and H. Zou, 1996. “The composition of public

expenditure and economic growth”. Journal of Monetary Economics 37, 313-344.

22. Dickey, D., and W.A. Fuller, 1979. “Distribution of the estimators for

autoregressive time series with a unit root”. Journal of the American Statistical

Association 74, 427-431.

23. Easterly W., S. Rebelo, 1993. “Fiscal policy and economic growth: An

Empirical Investigation”. Journal of Monetary Economics, 32(3): 417-458.

56

24. Granger, C.W.J. and Newbold, P., 1974. “Spurious regressions in

Econometrics”. Journal of Econometrics 2 (1974) 111-120.

25. Grossman, S.J. and O.R. Hart, 1986. “The Costs and Benefits of Ownership: A

Theory of Vertical Integration”. Journal of Political Economy 94 (4): 691–719.

26. Holmström, B., 1982. “Moral Hazard in Teams”. The Bell Journal of Economics

13, no. 2, pp. 324–340.

27. Munnell, A., 1992. “ Policy Watch: Infrastructure Investment and Economic

Growth”. The Journal of Economic Perspectives, 5(3): 189-198.

28. Pedroni, P., 1997. Panel cointegration: asymptotic and finite sample properties

of pooled time series tests, with an application to the PPP hypothesis: new results,

Mimeo, Indiana University.

29. Pedroni, P., 1999. “Critical values for cointegrating tests in heterogeneous

panels with multiple regressors”, Oxford Bulletin of Economics and Statistics.

30. Prichett, L., 1996. “Mind Your p’s and q’s: the cost of public investment is not

the value of public capital”. World Bank Working Paper 1660.

31. Phillips, P.C.B., and P. Perron, 1988. “Testing for unit root in time series

regression”, Biometrika 75, 335–346.

32. Weinhold, D., 1996. “Investment, growth and causality testing in panels”,

Economie et Prevision 126-5.

33. Wooldridge, J., 2002. Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data,

The MIT Press.