BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM – KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY KINH TẾ FULBRIGHT
-----------------------------
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC THÚC ĐẨY
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM – KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH SÁCH CÔNG
Chuyên ngành: Chính sách Công
Mã số: 60340402
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HUỲNH THẾ DU
TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017
-i-
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng luận văn này hoàn toàn do tôi thực hiện. Các trích dẫn và số liệu
được sử dụng trong luận văn được ghi nguồn và có độ chính xác cao nhất trong khả năng
hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Trường Đại học
Kinh tế Hồ Chí Minh hay Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
TP. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Vân Anh
-ii-
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô ở Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright đã truyền đạt, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và tạo mọi điều kiện thuận lợi
nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Huỳnh Thế Du, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và khích lệ tôi trong thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị nhân viên làm việc tại Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright đã tạo mọi điều kiện và hỗ trợ tôi trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin cảm ơn sự trợ giúp của các đồng nghiệp tại Viện Chiến lược và Chính
sách Khoa học và Công nghệ - Bộ Khoa học và Công nghệ trong suốt quá trình tôi học tập
và nghiên cứu tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.
Tôi luôn biết ơn gia đình, bạn bè, đặc biệt là tập thể lớp MPP8 và các anh chị cựu
học viên đã luôn động viên và sát cánh bên tôi trong khóa học vừa qua.
-iii-
TÓM TẮT
Đầu tư mạo hiểm (ĐTMH) ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy các ngành công nghệ mới, công nghệ cao góp phần không nhỏ vào việc nâng cao năng
lực cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công của mô hình thung lũng
Silicon ở Mỹ với vai trò dẫn dắt của nhà nước đã mở ra một kỷ nguyên phát triển thần kỳ
trong lĩnh vực công nghệ và đã có tác động lan tỏa tích cực đến nhiều quốc gia, khu vực,
trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều nơi đã thử nghiệm mô hình thung lũng Silicon
nhưng kết quả không đúng kỳ vọng. Thực tế đã chứng minh, không phải lúc nào các khoản
đầu tư của nhà nước cũng mang lại hiệu quả, ngược lại còn làm trầm trọng hóa thất bại thị
trường. Do vậy, cách thức sử dụng các nguồn lực công để thúc đẩy hoạt động ĐTMH sao
cho hiệu quả đang trở thành mối quan tâm lớn đối với các quốc gia có ý định theo đuổi
thành công của mô hình thung lũng Silicon.
Nhu cầu ĐTMH ở Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây,
tuy nhiên, thị trường ĐTMH Việt Nam chưa thực sự có những đột phá cần thiết để giúp
nền kinh tế bước vào giai đoạn cất cánh. Một mặt, do các quỹ ĐTMH ở Việt Nam chủ yếu
là quỹ của nước ngoài, lại lựa chọn phương án đầu tư an toàn, tức là đầu tư vào những
doanh nghiệp đã trưởng thành; mặt khác, do nhà nước còn lúng túng trong việc lựa chọn
hình thức can thiệp và do môi trường, thể chế pháp lý gây cản trở đối với sự phát triển của
thị trường này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhà nước cần xem xét thận trọng trong việc sử dụng
nguồn lực công để hỗ trợ hoạt động ĐTMH nhằm đạt được hiệu quả kỳ vọng. Cụ thể, nhà
nước nên sử dụng hình thức can thiệp gián tiếp nhằm gia tăng khuyến khích cho ĐTMH và
tránh tổn thất xã hội. Nhà nước chỉ nên đóng vai trò như một chất xúc tác bằng cách phối
hợp với khu vực tư nhân để thúc đẩy sự phát triển của thị trường ĐTMH. Với kinh nghiệm
quốc tế đã phân tích và bối cảnh hiện tại của Việt Nam, tác giả đưa ra khuyến nghị chính
sách: (i) nhà nước cần tạo môi trường thông thoáng cho hoạt động ĐTMH bằng cách xây
dựng một hệ thống các quy định pháp lý thống nhất về ĐTMH; (ii) xây dựng một hệ sinh
thái khởi nghiệp bằng cách khuyến khích tinh thần doanh nhân ở mọi khu vực trong nền
kinh tế; (iii) nhà nước nên tìm đến một tổ chức mới có năng lực và động cơ thúc đẩy sự
phát triển của thị trường ĐTMH để thay mình thực hiện sứ mệnh.
-iv-
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii
TÓM TẮT ............................................................................................................................. iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ............................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH VẼ ...................................................................................................... vii DANH MỤC HỘP .............................................................................................................viii
DANH MỤC PHỤ LỤC ....................................................................................................... ix
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG ................................................................................. 1
1.1. Bối cảnh nghiên cứu ................................................................................................ 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................ 3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ................................................................................................. 3
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: .......................................................................... 3
1.5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 3
1.6. Bố cục của luận văn ................................................................................................ 4
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ............................................................................................ 5
2.1. Tổng quan về ĐTMH .................................................................................................. 5 2.1.1. Khái niệm ĐTMH ................................................................................................. 5 2.1.2. Vai trò của ĐTMH đối với sự phát triển kinh tế .................................................. 7
2.2. Can thiệp của nhà nước đối với hoạt động ĐTMH ..................................................... 8
CHƯƠNG 3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ SỰ THAM GIA CỦA NHÀ NƯỚC VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ................................................................... 15
3.1. Hình thức can thiệp trực tiếp ..................................................................................... 15 3.1.1. Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý quỹ ĐTMH ......................................... 15 3.1.2. Nhà nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng thuê công ty tư nhân có kinh nghiệm quản lý quỹ ................................................................................................................... 17 3.1.3. Nhà nước dùng tiền ngân sách góp vốn vào các quỹ ĐTMH tư nhân ................ 21
3.2. Hình thức can thiệp gián tiếp .................................................................................... 21 3.2.1. Trợ cấp cho các start-up ..................................................................................... 21 3.2.2. Ưu đãi thuế ......................................................................................................... 22 3.2.3. Đưa ra những quy định/điều tiết ......................................................................... 23
3.3. Tổng kết yếu tố thành công/thất bại của các quốc gia trong hoạt động ĐTMH ....... 25
-v-
CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM VÀ CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC ........................................................................... 27
4.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến ĐTMH ở Việt Nam ................................. 27
4.2. Thực trạng ĐTMH ở Việt Nam ................................................................................. 28
4.3. Các biện pháp can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ĐTMH ở Việt Nam ............. 29
4.4. Bài học cho Việt Nam ............................................................................................... 33
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH ......................................... 36
5.1. Kết luận ..................................................................................................................... 36
5.2. Kiến nghị chính sách ................................................................................................. 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................... 39
PHỤ LỤC ............................................................................................................................ 42
-vi-
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tên tiếng Việt Tên tiếng Anh
Công nghệ cao CNC
Doanh nghiệp khởi nghiệp DNKN
Đầu tư mạo hiểm ĐTMH
Thị trường sơ cấp Initial Public Offering IPO
Hệ sinh thái khởi nghiệp HSTKN
Khoa học và Công nghệ KH&CN
Khởi nghiệp sáng tạo KNST
Organisation for Economic Co- Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD operation and Development
Nghiên cứu và phát triển Research and Development R&D
Doanh nghiệp nhỏ và vừa Small and Medium Enterprises SMEs
TTCK Thị trường chứng khoán
Ủy ban nhân dân UBND
-vii-
DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1. Cách tiếp cận xây dựng phương pháp luận nghiên cứu ......................................... 4
Hình 2.1. Sơ đồ hệ sinh thái khởi nghiệp ............................................................................... 6
Hình 3.1. Mô hình tổ chức của Third Frontier ..................................................................... 19
Hình 3.2. Cơ chế hoạt động của Third Frontier ................................................................... 20
-viii-
DANH MỤC HỘP
Hộp 3.1. Thất bại của chính phủ Úc khi can thiệp trực tiếp ................................................ 16
Hộp 3.2. Trợ cấp cho start-up của Chính phủ Đức .............................................................. 22
Hộp 4.1. Hai quan điểm trái chiều về hình thức can thiệp trực tiếp .................................... 29
Hộp 4.2. Quy định về thuế theo Luật Công nghệ cao .......................................................... 30
Hộp 4.3. Những văn bản chính sách mới ban hành trong thời gian gần đây ....................... 33
-ix-
DANH MỤC PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐTMH TẠI VIỆT NAM ..... 42
PHỤ LỤC 2. NHỮNG TRỞ NGẠI CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN ĐTMH TẠI VIỆT NAM .................................................................................................................................... 44
PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN ODA HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP .................................................................................................................... 47
PHỤ LỤC 4. CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM ............. 49
PHỤ LỤC 5. Ý KIẾN CỦA ĐẠI DIỆN QUỸ IDG VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM ............................................................................................ 51 PHỤ LỤC 6. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI ĐTMH..................56
-1-
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Làn sóng khởi nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ trong thời gian gần đây và góp phần
không nhỏ vào sự thịnh vượng của nhiều quốc gia trên thế giới. Sự xuất hiện của các doanh
nghiệp khởi nghiệp (DNKN) không chỉ tạo những việc làm trực tiếp mà còn làm tăng hiệu
ứng lan tỏa quan trọng có lợi cho sự tăng trưởng của các doanh nghiệp khác trong cùng
khu vực, tăng trưởng năng suất, gia tăng đổi mới sáng tạo và thúc đẩy quốc tế hóa kinh
doanh. Theo trang tin công nghệ khởi nghiệp Techinasia, ở Mỹ, các doanh nghiệp thành
lập dưới 5 năm đóng góp gần như cho toàn bộ sự tăng trưởng việc làm mới trong khu vực
tư nhân suốt 25 năm qua. Tại Việt Nam, khởi nghiệp đang trở thành một xu hướng với hơn
1500 DNKN năm 2016 và dự kiến sẽ tăng nhanh trong những năm tiếp theo. Chính phủ
cũng dành sự quan tâm rất lớn đối với hoạt động khởi nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng
đến việc hỗ trợ các DNKN bằng cách sử dụng ngân sách nhà nước thành lập các quỹ đầu
tư mạo hiểm (ĐTMH).
Những hành động của Chính phủ: (i) Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016
của Chính phủ đặt ra yêu cầu hình thành và từng bước phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp
như vườn ươm doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ ĐTMH, dịch vụ đào tạo, tư vấn,
hỗ trợ khởi nghiệp; (ii) Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ
và phát triển doanh nghiệp đến năm 20201; (iii) Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/04/2016
của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020,
trong đó nêu mục tiêu và nhiệm vụ “tạo lập hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, tạo môi trường
đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định, tự do sáng tạo cho DNKN”; (iv) Quyết định
844/QĐ-TTg/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2020” chú trọng tạo lập môi trường để thúc đẩy,
hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển DNKN thông qua việc sử dụng ngân sách nhà
nước thành lập các quỹ ĐTMH công để dẫn dắt và hỗ trợ các DNKN có tiềm năng tăng
1 Nhà nước có chính sách đặc thù để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, DNKN, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và có tiềm năng tăng trưởng cao phát triển
trưởng cao.
-2-
Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai thành phố tiên phong cho phong trào
khởi nghiệp của cả nước. Ủy ban nhân dân (UBND) hai thành phố này đã có những nỗ lực
tích cực để hỗ trợ cho cộng đồng khởi nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh đã thành lập và
đưa vào hoạt động Quỹ phát triển Khoa học – Công nghệ thành phố với số vốn điều lệ là
50 tỷ đồng nhằm hỗ trợ triển khai ứng dụng các kết quả nghiên cứu có sản phẩm thương
mại hóa cao. Theo Văn phòng Chính phủ (2016), tính đến thời điểm hiện tại, Quỹ đã thực
hiện thẩm định 10 dự án với tổng số vốn đề nghị vay là 57,2 tỷ đồng chiếm 39,5% trong
tổng vốn đầu tư là 144,7 tỷ đồng. Trong đó, số dự án đã được phê duyệt cho vay là 7 dự án
với số tiền cho vay là 31 tỷ đồng cho đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị (trung bình 4,43 tỷ
đồng/dự án). Đồng thời, UBND Thành phố Hồ Chí Minh cũng ban hành “Quy chế phối
hợp hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo” để hỗ trợ các dự án khởi nghiệp2, với mức kinh
phí tối đa là 2 tỷ đồng/1 dự án. Đối với Hà Nội, UBND thành phố đã quyết định cho ra đời
Trung tâm sáng tạo khởi nghiệp3, dự kiến sẽ đi vào hoạt động đầu năm 2017 với 3 giai
đoạn hỗ trợ các DNKN: giai đoạn đầu hỗ trợ thông tin để tiếp cận và thành lập doanh
nghiệp (thủ tục pháp lý, kế toán); giai đoạn hai hỗ trợ tiếp cận khoa học kỹ thuật; giai đoạn
ba kết nối để thương mại hóa các sản phẩm. Rõ ràng, những bước đi này của Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh đang bước đầu đặt nền móng cho hoạt động khởi nghiệp, từ đó
lan tỏa sức ảnh hưởng và cơ hội đến các khu vực khác của cả nước.
Khởi nghiệp luôn gắn liền với hoạt động ĐTMH bởi đây là kênh cung cấp vốn tiềm
năng cho các dự án hoặc các DNKN trong bối cảnh việc tiếp cận vốn từ các thể chế tài
chính truyền thống bị giới hạn. Thành công của mô hình thung lũng Silicon ở Mỹ với vai
trò dẫn dắt của nhà nước đã mở ra một kỷ nguyên phát triển thần kỳ trong lĩnh vực công
nghệ và đã có tác động lan tỏa tích cực đến nhiều quốc gia và khu vực, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, nhiều quốc gia đã thử nghiệm mô hình thung lũng Silicon của Mỹ nhưng
kết quả không đúng kỳ vọng. Thực tế đã chứng minh, không phải lúc nào khoản đầu tư của
nhà nước cũng mang lại hiệu quả, ngược lại còn làm trầm trọng hóa những thất bại thị
trường. Do vậy, cách thức sử dụng các nguồn lực công để thúc đẩy hoạt động ĐTMH sao
cho có hiệu quả đang trở thành mối quan tâm lớn của các quốc gia có ý định theo đuổi
2 Các dự án khởi nghiệp gồm nhóm 4 ngành công nghiệp trọng yếu, nhóm ngành công nghiệp hỗ trợ và 9 nhóm ngành dịch vụ. 3 Hà Nội thuê chuyên gia Israel thiết kế trung tâm sáng tạo khởi nghiệp.
thành công của mô hình thung lũng Silicon. Đặc biệt là đối với Việt Nam - một quốc gia
-3-
đang phát triển với những tham vọng rất lớn đòi hỏi phải rất thận trọng trong việc sử dụng
ngân sách nhà nước để hỗ trợ cho hoạt động ĐTMH.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Qua phân tích kinh nghiệm thành công và thất bại của các quốc gia trên thế giới,
tác giả đúc kết những yếu tố cốt lõi dẫn đến thành công trong ĐTMH, từ đó đề xuất bài học
phù hợp mà Việt Nam nên áp dụng.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
(i) Nhà nước có cần can thiệp vào hoạt động ĐTMH hay không? Nếu có thì nhà
nước nên can thiệp như thế nào?
(ii) Những bài học nào từ kinh nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể học hỏi để thúc
đẩy hoạt động ĐTMH trong nước?
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng chính sách đối với hoạt động ĐTMH
tại Việt Nam;
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động ĐTMH,
đồng thời xem xét các chính sách về ĐTMH ở Việt Nam.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp định tính bao gồm tổng quan
tài liệu, phân tích, chứng minh, tổng hợp. Đề tài cũng sử dụng phương pháp khảo sát,
phỏng vấn những đối tượng liên quan (các quỹ ĐTMH tại Việt Nam, Bộ Khoa học và
Công nghệ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
-4-
Hình 1.1. Cách tiếp cận xây dựng phương pháp luận nghiên cứu
Triển khai các chính sách can thiệp gián tiếp
Dừng lại các chính sách can thiệp trực tiếp
Định hướng
Bài học cho Việt Nam
giải pháp chính sách
Vấn đề cần khắc phục
Các điều kiện để ĐTMH phát triển
Phân tích kinh nghiệm
Phân tích hiện trạng
Nhận dạng bản chất ĐTMH
nước ngoài
trong nước
Nguồn: Tác giả tự vẽ
1.6. Bố cục của luận văn
Luận văn được bố cục thành 5 chương:
Chương 1. Giới thiệu chung
Chương 2. Lý thuyết về sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động ĐTMH
Chương 3. Kinh nghiệm quốc tế về sự tham gia của nhà nước vào hoạt động ĐTMH
Chương 4. Thực trạng ĐTMH tại Việt Nam và các biện pháp can thiệp của nhà nước
Chương 5. Kết luận và kiến nghị chính sách
-5-
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT VỀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC VÀO
HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
2.1. Tổng quan về ĐTMH
2.1.1. Khái niệm ĐTMH
“Đầu tư mạo hiểm là đầu tư cổ phần kiên nhẫn và chấp nhận rủi ro cao vào những
doanh nghiệp mới, có tính đổi mới cao, hoặc có tiềm năng tăng trưởng nhanh nhưng thiếu
độ tin cậy và chưa tỏ rõ khả năng; bởi vậy không giành được sự quan tâm của các thể chế
tài chính truyền thống. Thay vì cho vay, các nhà đầu tư góp vốn để giành lấy một cổ phần
không có lãi cố định hay quyền sở hữu cổ phần trong doanh nghiệp mà họ đầu tư” (Lê
Quang Huy, 1999). Kết luận này đi sâu vào những điểm cốt lõi của ĐTMH, cụ thể: (i) tính
rủi ro – đặc điểm mang tính bản chất của ĐTMH và cũng là đặc điểm để phân biệt với các
kênh đầu tư truyền thống khác; (ii) điều kiện cơ bản để các doanh nghiệp nhận được vốn
mạo hiểm là phải có tính đổi mới cao, tỏ rõ được tiềm năng tăng trưởng trong tương lai;
(iii) phương thức đầu tư là nhà đầu tư góp vốn để sở hữu cổ phần không có lãi cố định
trong doanh nghiệp (hoàn toàn khác với việc cho vay lấy lãi của ngân hàng hay các định
chế tài chính khác).
Dự thảo Thông tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016) hướng dẫn việc thành lập, tổ
chức quản lý và hoạt động của quỹ ĐTMH cho khởi nghiệp sáng tạo (KNST) cũng đưa ra
giải nghĩa tương tự về ĐTMH. Theo đó, “ĐTMH cho đối tượng KNST là việc nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc đầu tư góp vốn, mua cổ
phần, phần vốn góp của các đối tượng KNST nhằm thành lập doanh nghiệp hoặc tăng vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp tại thời điểm doanh nghiệp chưa có lợi nhuận trước thuế”. Ở
đây, ĐTMH được xác định trong mối quan hệ mật thiết với hoạt động khởi nghiệp – chủ đề
đang tạo sức “nóng” đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây.
Một thuật ngữ khác cần được làm rõ trong mối tương quan với thuật ngữ “đầu tư
mạo hiểm” là “hệ sinh thái khởi nghiệp”. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia
(2016) định nghĩa hệ sinh thái khởi nghiệp (HSTKN) là sự tương tác giữa một loạt các bên
liên quan là các tổ chức kinh doanh, các định chế (là các quỹ ĐTMH, quỹ hưu trí...) và các
quá trình kinh doanh để thúc đẩy sự hình thành các DNKN, đổi mới sáng tạo và tăng
trưởng doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs). Như vậy, ĐTMH là một thành tố then chốt
-6-
không thể thiếu trong HSTKN, bởi nếu không có vốn thì các start-up khó có cơ hội hiện
thực hóa những ý tưởng kinh doanh, từ đó cũng sẽ không có những gã khổng lồ dẫn đầu
nền kinh tế thế giới như hiện nay như Google, Apple hay Facebook.
ĐTMH là một mắt xích trong HSTKN, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo mối
liên kết chặt chẽ giữa các định chế tài chính, các trường đại học, các doanh nghiệp định
hướng công nghệ, các tập đoàn công nghệ lớn. Các mắt xích trong mạng lưới này liên kết,
tương tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Sự phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng
của HSTKN góp phần thúc đẩy sự phát triển của công nghệ, đổi mới giáo dục, phát triển
thị trường tài chính và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Hình 2.1. Sơ đồ hệ sinh thái khởi nghiệp
Các thị trường địa phương và toàn cầu
Khuôn khổ luật pháp và cơ sở hạ tầng
Nhân lực và lao động
Chính sách Chính Phủ
HỆ SINH THÁI
Kinh phí và tài chính
KHỞI NGHIỆP
Giáo dục và đào tạo
Văn hóa
Các trường đại học đóng vai trò xúc tác
Các nhà tư vấn, cố vấn, hệ thống hỗ trợ
Nguồn: Diễn đàn kinh tế Việt Nam, 2013
-7-
2.1.2. Vai trò của ĐTMH đối với sự phát triển kinh tế
Hoạt động ĐTMH là một trong những xúc tác quan trọng thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Sự lớn mạnh của những công ty đa
quốc gia, những tập đoàn quốc tế với trình độ phát triển ngày càng cao về công nghệ đã
thôi thúc các quốc gia đang phát triển đầu tư vào công nghệ, nhằm đạt mục tiêu tăng
trưởng bền vững. Lúc này vốn mạo hiểm, tinh thần khởi nghiệp trở thành bàn đạp đối với
nền kinh tế, là điều kiện cần để một quốc gia, một khu vực đang tụt hậu so với thế giới có
thể bứt phá đi lên. Vai trò của ĐTMH đối với nền kinh tế được cụ thể hóa như sau:
Thứ nhất, các quỹ ĐTMH là kênh cung cấp vốn hấp dẫn đối với các DNKN, giúp
họ hiện thực hóa những ý tưởng kinh doanh sáng tạo, góp phần thúc đẩy sự phát triển của
khoa học và công nghệ (KH&CN). Trong khi đó, những thể chế tài chính truyền thống với
yêu cầu khắt khe về tài sản thế chấp đã tạo rào cản trong việc tiếp cận vốn của những công
ty này. Ngoài ra, do nguyên tắc hoạt động của các quỹ ĐTMH là đầu tư vào những dự án
có tiềm năng và rủi co cao hơn mức bình thường nên các công ty quản lý quỹ luôn phải
nâng cao trình độ, năng lực quản lý của mình và hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp. Chính
điều này đã giúp quá trình nghiên cứu, tìm kiếm, thử nghiệm và phát triển một ý tưởng
KH&CN thành phát minh sáng chế, từ đó thương mại hóa thành sản phẩm. Quá trình biến
một ý tưởng thành sản phẩm đòi hỏi một lượng vốn lớn. Nếu không đủ vốn thì các ý tưởng
sẽ không thể thực hiện được. Khi càng nhiều ý tưởng được tài trợ thì các quỹ ĐTMH càng
có nhiều khả năng thu được lợi nhuận. Cứ như vậy, kết quả của việc gia tăng vốn ĐTMH là
KH&CN càng phát triển. Nhờ các quỹ ĐTMH mà ở thời điểm hiện tại, cộng đồng quốc tế
được thụ hưởng những lợi ích lớn từ các sản phẩm chứa đựng hàm lượng công nghệ cao
như dịch vụ của Facebook, Google… Rõ ràng, ĐTMH đóng góp rất lớn cho quá trình tạo
ra những bước phát triển đột phá về KH&CN cũng như góp phần tăng trưởng kinh tế;
Thứ hai, hoạt động ĐTMH tạo điều kiện cho vòng xoáy đi lên. Những hoạt động
của các doanh nghiệp tiên phong và các nhà ĐTMH thường mở đường cho các thế hệ đi
sau. Theo Lerner (2009), nhiều doanh nghiệp đi đầu với vai trò là những “học viện về khởi
nghiệp” đã mở ra một cuộc cách mạng về khởi nghiệp với sự tham gia đông đảo của cộng
đồng doanh nhân, kết quả là sự mọc lên nhanh chóng của một thế hệ doanh nghiệp mới đầy
sáng tạo và không ngừng nỗ lực đổi mới công nghệ. Fairchild Semiconductor là công ty
tiên phong trong lĩnh vực bán dẫn của Mỹ, được thành lập năm 1956 và sau đó, các công ty
-8-
khác như Cirrus Logic, Intel, LSI, và Công ty bán dẫn quốc gia lần lượt ra đời như một làn
sóng mạnh mẽ mở ra bước phát triển thần tốc cho Mỹ trong ngành công nghiệp sản xuất
chất bán dẫn. Chính phủ là nhà cung cấp các khoản trợ cấp cho những công ty này do
những kết quả kinh doanh của họ không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân công ty mà còn
tạo ra lợi ích đối với toàn xã hội. Những sản phẩm bán dẫn ngày nay được sử dụng rộng rãi
trên toàn thế giới là minh chứng cho tác động lan tỏa của hoạt động ĐTMH;
Thứ ba, hoạt động ĐTMH tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng
khoán (TTCK). Một trong những hình thức thoái vốn của các quỹ ĐTMH là chào bán
chứng khoán của công ty nhận đầu tư ra công chúng, biến các công ty này từ cổ phần tư
nhân thành công ty đại chúng. Vì vậy, hoạt động ĐTMH sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp
chưa niêm yết mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh đến mức có thể phát hành cổ phiếu ra
công chúng để huy động vốn. Kết quả của phương thức thoái vốn này là làm tăng số lượng
các công ty trên TTCK, tạo tiền đề cho sự phát triển của thị trường sơ cấp (IPO). Ngược
lại, khi một TTCK phát triển cũng tạo điều kiện để các quỹ mở rộng hoạt động đầu tư hiệu
quả, làm tăng tính thanh khoản cho các danh mục đầu tư của quỹ.
Ngoài ra, hoạt động ĐTMH còn tạo ra những lợi ích gián tiếp khác đối với nền
kinh tế. Đó là tăng trưởng việc làm, tăng khả năng cạnh tranh của các đối tượng kinh doanh
cùng một loại sản phẩm, dịch vụ trong nền kinh tế, đặc biệt giúp quá trình lan tỏa tri thức
diễn ra nhanh chóng hơn. Lerner (2009) đã chỉ ra rằng, đổi mới sáng tạo có tác động lan
tỏa tích cực đến toàn xã hội. Nhiều công ty đã tạo ra những lợi ích lớn cho xã hội hơn sự
kỳ vọng của họ. Amazon là một ví dụ điển hình, sau một thập kỷ hoạt động công ty đã
cung cấp các cuốn sách và những hàng hóa khác có sẵn cho những người không sống gần
các hiệu sách hoặc những nhà bán lẻ. Như vậy, các công ty như Amazon đã tạo ra cầu nối
tri thức cho công dân trên toàn cầu bởi kho sách phong phú và dịch vụ vận chuyển tiện lợi.
2.2. Can thiệp của nhà nước đối với hoạt động ĐTMH
Với những tác động tích cực đối với nền kinh tế như đã phân tích ở trên, nhà nước
nên khuyến khích hoạt động ĐTMH nhằm gia tăng lợi ích cũng như nhân rộng các mô
hình KNST trong nền kinh tế. Như vậy, sự can thiệp của nhà nước đối với hoạt động
ĐTMH là cần thiết. Điều này được giải thích dựa trên những lý thuyết kinh tế sau:
-9-
Thứ nhất, hoạt động ĐTMH cũng như những hoạt động khác trong nền kinh tế luôn
xảy ra thất bại thị trường. Một trong những thất bại điển hình trên thị trường ĐTMH là vấn
đề ngoại tác4. Ngoại tác trên thị trường ĐTMH được nhìn nhận là dạng ngoại tác tích cực,
vì vậy, nhà nước cần có biện pháp can thiệp để thúc đẩy thị trường phát triển và làm giảm
tổn thất xã hội. Vấn đề là, ngay cả khi xác định được ĐTMH tạo ra ngoại tác tích cực thì
nhà nước còn rất lúng túng trong việc lựa chọn hình thức can thiệp.
Thứ hai, việc can thiệp của nhà nước vào thị trường ĐTMH thể hiện chức năng tích
cực của nhà nước. Theo World Bank (1997), Nhà nước ngoài chức năng cơ bản và trung
gian còn thể hiện chức năng tích cực thông qua việc phối hợp với khu vực tư nhân để nuôi
dưỡng thị trường và hình thành các sáng kiếm về cụm ngành. Trong trường hợp này, sự
can thiệp của nhà nước sẽ là đòn bẩy giúp thúc đẩy khu vực tư nhân tham gia và phát triển
thị trường ĐTMH. Theo Lerner (2009), nhờ sự hỗ trợ từ vốn của nhà nước nên nhiều công
ty đã sử dụng nguồn vốn này đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D), kết
quả không những làm tăng lợi nhuận cho công ty mà còn làm cho xã hội được thụ hưởng
những lợi ích lớn. Tức là khi công ty thu được khoảng 10% lợi nhuận từ hoạt động R&D
thì xã hội sẽ được hưởng từ 15 – 20% lợi ích. Rõ ràng, với lợi ích xã hội lớn như vậy thì
việc khuyến khích khối tư nhân đổi mới sáng tạo là việc làm cần thiết của nhà nước.
Thứ ba, sự can thiệp của nhà nước vào thị trường ĐTMH cung cấp chứng nhận,
tạo điều kiện cho các dự án khởi nghiệp có thể huy động được nhiều nguồn lực hơn do các
quỹ ĐTMH tư nhân thường chỉ tập trung vào một vài ngành hay lĩnh vực rất nhỏ (Lerner,
2009). Có một vấn đề là nhiều công ty có những ý tưởng kinh doanh đột phá nhưng lại
không nhận được hoặc nhận không đủ số vốn cần thiết để hiện thực hóa những ý tưởng đó.
Điều này được giải thích bằng sự bất cân xứng thông tin. Trong khi những người sáng lập
nắm rất rõ về công nghệ nhưng những nhà đầu tư thì không. Vai trò của chính phủ lúc này
là sử dụng nguồn lực công như một bên trung gian nhằm khắc phục tình trạng bất cân xứng
thông tin và đảm bảo sự tham gia của các nhà ĐTMH cũng như những nhà đầu tư tư nhân
khác hỗ trợ cho các DNKN ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Nỗ lực điều chỉnh những thất bại
4 Ngoại tác xảy ra khi một bên làm tăng (giảm) chi phí/lợi ích của một (số) bên khác nhưng không thông qua giao dịch thị trường (không được phản ánh qua giá cả)
thị trường này dẫn đến sự gia tăng vai trò của chính phủ trong nền kinh tế thị trường.
-10-
Nhà nước có thể can thiệp trực tiếp hoặc gián tiếp vào thị trường ĐTMH
Can thiệp trực tiếp là việc nhà nước trực tiếp bỏ vốn thành lập các quỹ ĐTMH
bằng ngân sách nhà nước để tài trợ cho các dự án khởi nghiệp. Cụ thể:
(a) Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý quỹ ĐTMH. Kinh nghiệm của nhiều
quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam đã chỉ ra rằng, hình thức can thiệp này có mức độ thất
bại khá cao. Nguyên nhân là nhà nước không thể kiểm soát và quản lý nguồn vốn của mình
(do cơ chế người ủy quyền - người thừa hành), kết quả là tiền vốn hay tài sản công được
một số cá nhân sử dụng cho những mục đích riêng, củng cố quyền lực cá nhân hay vây
cánh của họ (Huỳnh Thế Du, 2013). Thất bại của Vinashin, Vinalines là minh chứng rõ
ràng nhất cho sự kiểm soát lỏng lẻo nguồn lực công của nhà nước. Việc giao cho một
nhóm người thay mặt nhà nước đảm nhiệm chức năng quản lý và kiểm soát nguồn vốn
công chẳng khác nào tạo điều kiện cho những người điều hành tính chính danh và công cụ
sử dụng tài sản công cho mục đích riêng của họ và phần thua lỗ đã có “nhiệm vụ xã hội”
gánh chịu. Hơn nữa, nhà nước với những cá nhân đại diện thường không có nhiều kinh
nghiệm và kiến thức thực tế để quản lý quỹ ĐTMH nên những trục trặc xảy ra khi điều
hành quỹ là kết quả tất yếu.
(b) Nhà nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng giao cho công ty tư nhân có kinh
nghiệm quản lý quỹ5. Hình thức này có ưu điểm: (i) cho phép tách bạch giữa vai trò sở hữu
vốn của nhà nước với vai trò quản lý kinh doanh của tư nhân; (ii) cho phép khai thác kinh
nghiệm, nghiệp vụ chuyên sâu của tư nhân về cách thức tổ chức, quản lý quỹ ĐTMH. Tuy
nhiên, nhìn nhận sâu xa thì hình thức này lại tiềm ẩn nhiều rủi ro hơn là những lợi ích
trước mắt mà nó mang lại. Nếu không có sự phân tách rạch ròi trách nhiệm giữa nhà nước
và tư nhân trong việc bỏ vốn đầu tư, quản lý quỹ thì rất khó quy kết trách nhiệm và lựa
chọn cơ chế xử lý trong trường hợp thất thoát vốn, sử dụng vốn không đúng mục đích. Bởi
vì xét cho cùng, ai cũng có tính vị kỷ, một khi đã quản lý đồng tiền của người khác thì rất
dễ dẫn đến những mưu lợi, toan tính riêng – mà những toan tính này thường không đồng
nhất với lợi ích của số đông. Do đó, để tư nhân quản lý đồng tiền của nhà nước, trên thực
tế là một trò chơi chứa đựng những rủi ro và hệ lụy rất lớn nếu như phía nhà nước không
5 Nhà nước là người bỏ tiền, tư nhân là người quản lý quỹ.
cân nhắc kỹ và lường trước hậu quả.
-11-
(c) Nhà nước dùng tiền ngân sách góp vốn vào các quỹ ĐTMH tư nhân. Ưu điểm
của hình thức này là: (i) tạo điều kiện hỗ trợ thêm vốn cho các quỹ ĐTMH tư nhân, tạo
thêm nhiều cơ hội cho các start-up; (ii) thông qua việc góp vốn cổ phần vào các quỹ này,
nhà nước có thể can thiệp, định hướng hoạt động đầu tư của các quỹ đó theo hướng ưu tiên
phát triển công nghệ cao (CNC) của quốc gia. Tuy nhiên, hình thức này cũng gặp phải
những trở ngại: (i) tư nhân ít có động lực để chia sẻ thông tin về những thương vụ đầu tư
với nhà nước; (ii) khó khăn trong việc quy kết trách nhiệm và cơ chế xử lý đối với những
trường hợp làm thất thoát hoặc sử dụng nguồn vốn công vào mục đích riêng; (iii) chỉ khi
góp vốn tới một hạn mức nhất định trên tổng số vốn điều lệ thì nhà nước mới có cơ hội có
tiếng nói trong việc định hướng hoạt động của quỹ. Tuy nhiên, nếu làm được điều này thì
những trục trặc của hình thức can thiệp đầu tiên sẽ lặp lại và vòng xoáy thất bại sẽ diễn ra;
(iv) nếu số vốn của nhà nước không đủ để định đoạt hướng đi của quỹ đầu tư thì lúc này,
số vốn đó sẽ được định đoạt bởi khu vực tư nhân. Điều này cũng sẽ dẫn đến những rủi ro
khi xảy ra tình trạng đầu tư thất bại, nguồn vốn công không được bảo toàn.
Can thiệp gián tiếp là việc Nhà nước sử dụng các hình thức trợ cấp, ưu đãi thuế,
đưa ra các quy định để điều tiết thị trường nhằm cải thiện mức độ hiệu quả của thị trường.
Cụ thể:
(a) Trợ cấp cho nhà ĐTMH hoặc các start-up trong giai đoạn đầu. Hình thức can
thiệp này có khả năng khả thi hơn so với can thiệp trực tiếp. Bởi, khi trợ cấp nghĩa là nhà
nước trích một số tiền nhất định cho quỹ, dự án hoặc cho các nhà ĐTMH để họ thực hiện
nghĩa vụ đầu tư. Trách nhiệm của nhà nước chỉ dừng lại tại đó và việc sử dụng trợ cấp như
thế nào tùy thuộc vào đối tượng nhận trợ cấp. Lúc đó khoản trợ cấp thuộc sở hữu của họ
nên họ sẽ có trách nhiệm sử dụng sao cho hiệu quả, bởi sự hiệu quả này sẽ mang lại lợi ích
cho chính họ. Tuy nhiên, cách thức trợ cấp như thế nào và trợ cấp bao nhiêu để đạt hiệu
quả vẫn còn là một vướng mắc lớn đối với khu vực công.
(b) Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp cho các start-up trong giai đoạn đầu. Hình
thức này thoạt đầu nghe có vẻ sẽ khuyến khích các start-up nỗ lực và không ngại mạo hiểm
trong công cuộc khởi nghiệp. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan thì những ưu đãi
thuế trong giai đoạn đầu thường không mấy tác dụng. Bởi không kể đến các start-up khi
mới hoạt động gặp vô vàn khó khăn mà những doanh nghiệp bình thường khi mới đi vào
-12-
hoạt động cũng không thể có lãi ngay trong mấy năm đầu, thậm chí là lỗ. Cho nên, không
có lãi thì ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn đầu là vô nghĩa6.
(c) Đưa ra những quy định/điều tiết nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia thị trường ĐTMH. Những quy định này có thể liên quan đến phát triển TTCK để
nhà đầu tư thoái vốn dễ dàng nhằm gia tăng sự hấp dẫn của môi trường kinh doanh. Theo
Lerner (2009), Ấn Độ là một trong những quốc gia thành công khi thu hút vốn mạo hiểm
nhờ vào sự phát triển của TTCK với sự gia tăng vốn mạo hiểm từ 570 triệu USD năm 2001
lên đến 3,8 tỷ USD năm 2007.
Ngoài ra, những quy định của nhà nước cũng có thể liên quan đến việc hỗ trợ kết
nối và tiếp cận với nguồn nhân lực quốc tế nhằm nâng cao chất lượng các start-up để dễ
dàng thu hút được vốn từ các quỹ đầu tư hoặc quy định tăng chi tiêu cho các nghiên cứu
hàn lâm, khuyến khích doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào những ngành tăng trưởng cao,
tổ chức các cuộc thi, các sự kiện liên quan đến hoạt động đổi mới sáng tạo nhằm thúc đẩy
môi trường khởi nghiệp, tinh thần doanh nhân. Những quy định này có thể được luật hóa
trong các văn bản quy phạm pháp luật của mỗi quốc gia hoặc cũng có thể được cụ thể hóa
thông qua các chính sách của từng địa phương, tùy thuộc vào định hướng, mục tiêu phát
triển kinh tế của nhà nước. Hình thức này được đánh giá là một trong những hình thức can
thiệp hiệu quả của khu vực công vì nó tạo ra thể chế và môi trường kinh doanh thuận lợi
cho các doanh nghiệp, các quỹ đầu tư khi tham gia thị trường ĐTMH.
Mỗi hình thức can thiệp có những ưu và nhược điểm riêng. Tùy vào bối cảnh của
từng quốc gia mà nhà nước lựa chọn cách thức can thiệp phù hợp.
Những trục trặc của Nhà nước khi tham gia thị trường ĐTMH
Tuy nhiên, không phải lúc nào sự can thiệp của nhà nước cũng tạo ra những tác
động tích cực. Ngược lại, sự tham gia của nhà nước đôi khi là rào cản đối với sự phát triển
của thị trường ĐTMH. Nhà nước thực hiện sứ mệnh sửa chữa các thất bại thị trường nhưng
về bản chất, nhà nước cũng chỉ là tập thể những con người vị kỷ. Ăn theo (free rider) và
mâu thuẫn giữa người ủy quyền và người thừa hành (principal – agent problem) luôn ảnh
6 Xem Phụ lục 5.
hưởng đến hiệu quả và tính hữu hiệu của tổ chức (Huỳnh Thế Du, 2013). Thông thường
-13-
trong một tập thể tất cả các cá nhân đều tư duy hợp lý nhưng cho ra các kết quả phi lý về
mặt tập thể7. Lý thuyết kinh tế học chỉ ra rằng, sự bất cân xứng thông tin sẽ làm nảy sinh
vấn đề ủy quyền tác nghiệp. Trong trường hợp tham gia thị trường ĐTMH, nhà nước buộc
phải cử người đại diện để quản lý, sử dụng và kiểm soát nguồn vốn công sao cho hiệu quả
thông qua cơ chế người ủy quyền – người thừa hành. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh, cơ
chế này là một thất bại của nhà nước. Nhà nước với tư cách là người ủy quyền trao mọi
quyền quyết định cho người thừa hành sẽ không thể quan sát, kiểm tra người thừa hành sử
dụng nguồn lực công như thế nào và liệu họ có hoàn thành cam kết mà không tốn kém hay
không. Như một kết quả tất yếu, “rủi ro đạo đức” xảy ra khi phần lớn người thừa hành với
lòng vị kỷ luôn hành động dựa trên lợi ích cá nhân mà không dựa trên lợi ích người ủy
quyền, dẫn đến những lựa chọn công “cứng”. Lý thuyết lựa chọn công “cứng” cho rằng,
các cá nhân vì quyền lợi cá nhân hạn hẹp, hành động một cách duy lý nhìn từ góc độ riêng
của họ, có xu hướng tạo ra các kết quả phi lý về mặt tập thể Khi những nhà lãnh đạo khu
vực công tham gia vào một dự án ĐTMH, đa phần sẽ đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu, hậu
quả là những khoản đầu tư công sẽ thất thoát và rất dễ bỏ qua những doanh nghiệp tiềm
năng. Do đó, nếu nhà nước không xác lập cơ chế kiểm tra, giám sát và quy định rõ ràng
trách nhiệm giải trình thì chắc chắn thất bại của nhà nước khi tham gia thị trường ĐTMH
là không thể tránh khỏi.
Như vậy, vòng tròn thất vọng diễn ra khi nhà nước cố gắng tham gia vào thị trường
ĐTMH nhằm khắc phục thất bại thị trường hoặc thực hiện những chức năng tích cực của
mình nhưng rút cuộc sự can thiệp của nhà nước lại làm trầm trọng hơn thất bại của thị
trường, dẫn đến hậu quả lớn hơn so với việc nhà nước không can thiệp. Đây là thất bại của
nhà nước khiến thị trường vận hành chệch hướng và không hiệu quả. Những kinh nghiệm
rút ra từ bài học thành công và thất bại của một số quốc gia trên thế giới trong phần phân
tích dưới đây sẽ làm rõ những nguyên nhân chính quyết định đến sự thành bại của mỗi
quốc gia khi nhà nước can thiệp vào thị trường ĐTMH.
Những lập luận tích cực về cơ sở can thiệp của nhà nước ở phần trên cho thấy, nhà
nước nên có những biện pháp thúc đẩy sự phát triển của khu vực ĐTMH. Điều quan trọng
hơn là nhà nước nên can thiệp bằng những biện pháp chính sách nào để đảm bảo không 7 Trong các quyết định tập thể, mỗi cá nhân thường quan tâm đến việc làm sao để mình có được phần nhiều nhất chứ không phải làm sao để cái bánh lớn hơn để mọi người cùng được nhiều hơn, vì thế những lựa chọn công “cứng” xảy ra phổ biến ở khu vực công và gây ra những thất bại của nhà nước khi tham gia vào ĐTMH
-14-
lãng phí nguồn lực công mà vẫn đạt được hiệu quả khi đầu tư cũng như nhân rộng mô hình
đó để làn sóng ĐTMH lan tỏa khắp nền kinh tế.
-15-
CHƯƠNG 3. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ SỰ THAM GIA CỦA NHÀ NƯỚC
VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
Không phải bất cứ hình thức can thiệp nào của nhà nước cũng mang lại những tác
động tích cực. Tùy thuộc vào bối cảnh của mỗi khu vực mà nhà nước nên áp dụng những
hình thức can thiệp khác nhau. Thực tế đã chứng minh, sự can thiệp quá sâu của nhà nước
đôi khi sẽ tạo hiệu ứng chèn lấn khu vực tư nhân và ngược lại, nếu nhà nước không can
thiệp thì sẽ không tạo được sức đẩy đối với ngành công nghiệp này.
3.1. Hình thức can thiệp trực tiếp
3.1.1. Nhà nước trực tiếp thành lập và quản lý quỹ ĐTMH
Nhận thức được hoạt động ĐTMH đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với sự
thịnh vượng của một quốc gia nên chính phủ của nhiều nước đã có những biện pháp can
thiệp nhất định với kỳ vọng thúc đẩy sự phát triển của hoạt động ĐTMH. Có nhiều cách để
chính phủ tham gia vào hoạt động ĐTMH, trong đó việc chính phủ trực tiếp thành lập và
quản lý quỹ ĐTMH được nhiều quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, sự lựa chọn này có mang lại
những kết quả như kỳ vọng hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Theo lý thuyết kinh
tế học khu vực công, khi nhà nước tham gia vào bất cứ thị trường nào cũng luôn làm nảy
sinh vấn đề ủy quyền tác nghiệp. Và thị trường ĐTMH cũng không ngoại lệ. Quan trọng là
chính phủ có cơ chế giám sát, đánh giá khách quan hành động ra quyết định của người thừa
hành hay không. Câu trả lời có hay không sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau.
Israel là một trong số các quốc gia thành công trong hoạt động ĐTMH, hỗ trợ khởi
nghiệp, trong đó vai trò của chính phủ được coi là nền móng cho sự thành công đó. Nhìn
nhận được tiềm năng của thị trường ĐTMH, chính phủ Israel đã có định hướng và xây
dựng chương trình thành lập quỹ ĐTMH thuộc sở hữu nhà nước nhằm dẫn dắt thị trường
và khuyến khích tư nhân tham gia. Theo đó, quỹ Yozma có nền tảng 100% vốn thuộc sở
hữu nhà nước được thành lập năm 1993 (Senor và Singer, 2009). Vào thời điểm đó, tại
Israel đã có một số quỹ ĐTMH tư nhân nhưng nguồn vốn dành cho các doanh nghiệp công
nghệ, đặc biệt là các DNKN còn thiếu. Sau khi thành lập, Yozma đã lập ra 10 quỹ con.
Nguồn vốn này ngoài tiền của Chính phủ Israel còn có tiền từ khu vực tư nhân. Sở dĩ có sự
tham gia của tư nhân vào quỹ Yozma là do chính sách của Chính phủ Israel cho phép mỗi
quỹ con của Yozma có quyền bán lại cổ phần của nhà nước, với mức giá tương đương chi
phí nhà nước bỏ ra để thành lập quỹ cộng thêm lãi suất, qua đó mở đường cho việc tư hữu
-16-
hóa Yozma. Chính phủ cũng yêu cầu mỗi quỹ con đều phải hợp tác với các tổ chức tài
chính nước ngoài là những công ty ĐTMH giàu kinh nghiệm. Kết quả là, Israel đã có vốn
ĐTMH tính theo GDP cao hơn bất kỳ quốc gia OECD nào trong giai đoạn 1998 – 2001,
đặc biệt là năm 2000, vốn mạo hiểm ở Israel chiếm đến 2% GDP (Baygan G., 2003).
Cũng với hình thức can thiệp trực tiếp này thì không phải quốc gia nào cũng đạt
được thành công như Israel. Điển hình là trường hợp thất bại của Pháp khi Chính phủ nước
này muốn xây dựng một thung lũng Silicon ngay trong lòng thành phố Brittany bằng cách
bỏ vốn trực tiếp đầu tư vào mạng lưới băng thông thông qua chính quyền cấp tỉnh (Lerner,
2009). Bằng chứng là những khoản tài trợ của Chính phủ để phát triển mạng lưới và chi
phí của người sử dụng lại bị thâu tóm bởi những nhóm lợi ích khác nhau là Viễn thông
Pháp và các trường đại học công lập địa phương. Như vậy, mặc dù nhà nước có động cơ
chính đáng hỗ trợ cho hoạt động R&D trong ngành viễn thông nhưng kết cục là những
khoản trợ cấp không được đầu tư đúng hướng do chính phủ không có cơ chế giám sát chặt
chẽ hành vi và những quyết định của người thừa hành.
Hộp 3.1. Thất bại của chính phủ Úc khi can thiệp trực tiếp
Chính phủ Úc thành lập chương trình xây dựng sức mạnh công nghệ thông tin (BITS) với tổng số vốn 158 triệu USD nhằm tài trợ cho các vườn ươm công nghệ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thương mại hóa sản phẩm trong lĩnh vực công nghệ thông tin vào năm 1999 (Ham, 2014). Mặc dù chương trình ngày càng được mở rộng nhưng thực tế là nguồn lực công của chương trình đã được sử dụng không đúng mục đích khi phần lớn vốn dành cho rất ít vườn ươm mà ở đó phần chi phí đáng kể lại được dùng để trả lương cho những người quản lý và các chi phí khác liên quan. Như vậy, sự chệch hướng của chương trình bắt nguồn từ việc những người quản lý trong khu vực công nắm quyền quản lý và sử dụng nguồn vốn công không hiệu quả. Với mục đích tư lợi và hành vi vị kỷ cùng khả năng quản lý yếu kém đã khiến họ không thể điều hành chương trình đúng hướng.
Rõ ràng, cùng một hình thức can thiệp là nhà nước bỏ vốn trực tiếp để phát triển thị
trường ĐTMH nhưng ở Israel và Pháp lại cho ra hai kết quả khác nhau. Đối với Israel, nhà
nước là xúc tác nhằm khuyến khích tinh thần doanh nhân và thu hút vốn ĐTMH tư nhân.
Để làm được điều này, Chính phủ Israel đã có những tính toán kỹ lưỡng bởi: (i) nhu cầu
khởi nghiệp ở quốc gia này rất lớn; (ii) sự lớn mạnh và phát triển nhanh chóng của TTCK
cho phép các nhà đầu tư thoái vốn dễ dàng; (iii) thể chế, pháp luật Isarel tiến bộ, tạo điều
kiện thuận lợi cho khu vực tư nhân tham gia; (iv) chính phủ hỗ trợ đúng thời điểm và rút
-17-
dần vốn khi thị trường đã phát triển ổn định. Đối với Pháp, việc can thiệp của nhà nước
thất bại bởi: (i) chưa có cơ chế kiểm soát vốn hiệu quả dẫn đến nguồn vốn bị sử dụng sai
mục đích; (ii) ở Brittany thiếu nền tảng tinh thần doanh nhân, tinh thần khởi nghiệp nên dù
có vốn của chính phủ cũng không thể tạo được động lực đủ lớn đối với thị trường ĐTMH.
Sau khi xem xét các trường hợp khác nhau có thể thấy rằng, việc nhà nước đứng ra
thành lập và quản lý quỹ ĐTMH có thành công hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Nếu sử dụng cách thức can thiệp này thì nhà nước phải thận trọng vì có khả năng dẫn đến
những trục trặc khó có thể tháo gỡ liên quan đến vấn đề ủy quyền tác nghiệp và bảo toàn
vốn ngân sách. Xét cho cùng, nếu một quốc gia không thiết lập cơ chế quản lý chặt chẽ
người thừa hành và có một thể chế phát triển đến một mức độ nhất định thì độ rủi ro của
hình thức can thiệp này khá cao. Tuy nhiên, nếu chính phủ can thiệp đúng cách, tạo vốn
mồi và rút dần vai trò của mình khi thị trường chín muồi thì hiệu quả của hình thức can
thiệp này sẽ cao hơn.
3.1.2. Nhà nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng thuê công ty tư nhân có kinh nghiệm
quản lý quỹ
Điển hình là trường hợp của Malaysia với quỹ MAVCAP (Malaysia Venture
Capital Management Berhad) được chính phủ thành lập vào năm 2001 với tư cách là một
công ty con thuộc sở hữu của Bộ Tài chính. MAVCAP được thành lập để thực hiện sứ
mệnh của nhà nước hỗ trợ cho các doanh nghiệp công nghệ thông tin của Malaysia, xa hơn
là hỗ trợ ngành công nghiệp ĐTMH nhằm thúc đẩy khát vọng thành công của các DNKN
trong môi trường kinh doanh cạnh tranh hiện tại. Đáng chú ý, MAVCAP có cơ chế hoạt
động và ra quyết định đầu tư độc lập, linh hoạt theo nguyên tắc thị trường và là công cụ để
cải thiện nền kinh tế Malaysia. Bởi quỹ này tuy thuộc sở hữu của Chính phủ nhưng người
quản lý lại là công ty tư nhân nắm vững những quy tắc và quá trình đầu tư. Vì có kinh
nghiệm quản lý quỹ nên MAVCAP luôn biết cách quản trị rủi ro – điều mà Chính phủ và
các định chế tài chính khác không đủ khả năng để thực hiện. MAVCAP không chỉ rót vốn
vào các DNKN mà còn nắm giữ vị trí trong Hội đồng quản trị và tích cực tham gia vào các
quyết định quản lý chủ chốt với vai trò là một đối tác chiến lược của doanh nghiệp. Những
đặc điểm này khiến MAVCAP trở thành điểm đến có lợi cho các DNKN ở Malaysia.
-18-
Trường hợp chương trình SBICs8 của Mỹ là một ví dụ điển hình của hình thức nhà
nước thành lập quỹ ĐTMH nhưng giao cho khu vực tư nhân có kinh nghiệm quản lý quỹ
nhằm khắc phục hạn chế trong vấn đề ủy quyền tác nghiệp. SBICs được quy định và cấp
phép bởi SBA (Cơ quan quản lý doanh nghiệp nhỏ) nhưng được quản lý bởi đội ngũ thuộc
khu vực tư – những người có trình độ và có kế hoạch kinh doanh đã được chấp thuận trước
đó thông qua một quy trình thẩm định chặt chẽ. Vốn tối thiểu 5 triệu USD để thành lập một
SBIC phải đến từ những nhà đầu tư tư nhân có trình độ (Baygan G.,2003). SBA kiểm tra
SBICs thường xuyên để đảm bảo sự minh bạch về tài chính và sự tuân thủ các quy định
pháp luật của họ. Việc quy định người quản lý thuộc khu vực tư nhân sẽ phần nào tránh
được những “rủi ro đạo đức” của những nhà lãnh đạo khu vực công vì lúc này, tư nhân sẽ
lãnh trách nhiệm quản lý chính nguồn vốn của họ, vì thế họ ít có động cơ làm lãng phí
nguồn vốn đó bằng những quyết định cá nhân. Thay vào đó, họ sẽ xem xét cẩn trọng từng
dự án đầu tư sao cho khả năng sinh lời của đồng vốn là cao nhất9.
Bên cạnh đó, Mỹ còn có chương trình hỗ trợ khởi nghiệp của bang Ohio (Ohio
Third Frontier) vận hành theo hình thức này. Trong đó, chính quyền tiểu bang cho ra đời
quỹ 2,1 tỷ USD để sẵn sàng làm vốn đối ứng với các công ty công nghệ, trường đại học,
viện nghiên cứu,… để tạo ra các DNKN thành công. Bản thân quỹ này có hàng loạt các
chương trình con để hỗ trợ khởi nghiệp, bao gồm những chương trình hỗ trợ nâng cao chất
lượng khởi nghiệp (đào tạo, tư vấn, marketing, đổi mới sáng tạo,…) và những chương trình
trực tiếp kết nối vốn đầu tư cho khởi nghiệp. Chương trình này mặc dù được hình thành từ
chính quyền bang Ohio nhưng lại do một đơn vị tư nhân điều hành. Theo Tạp chí Tia sáng
(2013), Third Frontier được coi là một chương trình thành công khi mỗi USD do chính
quyền bang bỏ ra hỗ trợ khởi nghiệp đã kéo theo 3 USD tiền đầu tư của tư nhân.
Yếu tố làm nên thành công của Third Frontier là mô hình quản lý và quy trình xét
duyệt, báo cáo hợp lý, minh bạch. Nhà nước chủ yếu giữ vai trò quản lý, hoạch định chính
sách, chiến lược trong khi phần lớn các thành viên thuộc Hội đồng chương trình chủ yếu
đến từ các đơn vị ngoài nhà nước có kiến thức, kinh nghiệm trong lĩnh vực hỗ trợ khởi
nghiệp. Ban cố vấn chương trình gồm đại diện khu vực tư nhân, có trách nhiệm hỗ trợ Hội
8 Small Business Investment Companies 9 Xem Phụ lục 3.
đồng chương trình trong quá trình thực hiện. Cách làm này giúp nhà nước tận dụng năng
-19-
lực, kinh nghiệm, nguồn lực, mạng lưới thông tin, đối tác của khu vực tư nhân có năng lực,
trong khi vẫn giữ vai trò quản lý và là chủ thể kết nối các thành phần của HSTKN10.
Hình 3.1. Mô hình tổ chức của Third Frontier
10 Các quy trình thẩm định, báo cáo của Third Frontier được thực hiện minh bạch khi mọi thông tin đều được cập nhật trên các trang thông tin điện tử, qua đó các đơn vị trong HSTKN và cộng đồng khởi nghiệp có thể trực tiếp truy cập để đối cập nhật, đối chiếu và kiềm tra lẫn nhau. Cách làm này giúp giảm thiểu các tiêu cực phát sinh từ việc thực hiện Chương trình.
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, Bộ KH&CN (11/08/2016)
-20-
Hình 3.2. Cơ chế hoạt động của Third Frontier
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, Bộ KH&CN (11/08/2016)
Tuy nhiên, bên cạnh số ít quốc gia thành công khi theo đuổi mô hình này thì đa
phần đều thất bại. Trung Quốc là một minh chứng khi từ năm 2003 Chính phủ cho xây
dựng mô hình quản lý tài sản thông qua việc thiết lập hệ thống Ủy ban Quản lý và Giám
sát tài sản Nhà nước ở cả trung ương và địa phương - SASAC (Huy Nguyên, 2016).
SASAC vừa là đại diện chủ sở hữu của các Doanh nghiệp Nhà nước hoặc cổ đông nhà
nước của các doanh nghiệp có vốn nhà nước, vừa giám sát để giải quyết các vấn đề trong
hoạt động hàng ngày của các doanh nghiệp nhà nước. Mô hình SASAC đã bộc lộ những
điểm yếu do: (i) Ủy ban này không tuân theo cơ chế thị trường nên đã gặp những khó khăn
trong quản trị doanh nghiệp; (ii) SASAC không có báo cáo tài chính riêng, không công
khai, minh bạch thông tin như mô hình doanh nghiệp nên không có tiêu chí để đánh giá
mức độ hiệu quả của mô hình quản lý này; (iii) SASAC thiếu tự chủ trong lựa chọn lãnh
đạo đứng đầu các doanh nghiệp nhà nước.
Như vậy, với hình thức này, nhà nước mặc dù có thể tận dụng kinh nghiệm quản lý
của các công ty tư nhân để vận hành quỹ ĐTMH tốt hơn nhưng vẫn xảy ra những trục trặc
-21-
nhất định. Đó là các vấn đề liên quan đến lựa chọn công ty quản lý, phân cấp các nhiệm vụ
quản lý và đặt các cơ quan giám sát công ty tư nhân để theo dõi đồng vốn của mình.
3.1.3. Nhà nước dùng tiền ngân sách góp vốn vào các quỹ ĐTMH tư nhân
Mỹ đã áp dụng thành công hình thức này. Quỹ phát triển công nghệ Massachusett
là một quỹ bán công11 được thành lập năm 1978 bởi cơ quan lập pháp ở Massachusetts, chi
phối bởi Hội đồng quản trị độc lập và được quản lý bởi những nhà ĐTMH có kinh nghiệm.
Mục đích của quỹ là cung cấp hỗ trợ tài chính hoặc những hỗ trợ khác cho các DNKN về
công nghệ. Đặc điểm của quỹ này là đối với các dự án đầu tư lớn sẽ đòi hỏi sự tham gia
của khu vực tư, mỗi lần đầu tư bình quân bằng 4,5 lần số tiền đầu tư của nhà nước (Baygan
G., 2003). Sự hình thành và phát triển của quỹ là đòn bẩy cho hoạt động kinh doanh, đào
tạo lực lượng lao động và các trung tâm đổi mới ở Massachusetts. Đây là chương trình của
nhà nước lâu đời nhất mà ở đó có sự kết hợp vốn cổ phần và các công cụ cho vay dài hạn.
3.2. Hình thức can thiệp gián tiếp
3.2.1. Trợ cấp cho các start-up
Phương thức trợ cấp được đánh giá là khá hiệu quả ở nhiều quốc gia, trong đó có
Mỹ với Chương trình SBIR (chương trình công nghệ tiên tiến). SBIR được thành lập năm
1982; trong đó, các cơ quan thuộc liên bang đánh giá các đề xuất để nhận được trợ cấp từ
SBIR dựa trên tập hợp các tiêu chí bao gồm trình độ kinh doanh, mức độ đổi mới, sự xuất
sắc về mặt kĩ thuật và thị trường tiềm năng trong tương lai. Lerner (2009) đã phân tích tác
động dài hạn của chương trình SBIR bằng cách soạn ra một bộ dữ liệu những công ty nhận
được trợ cấp của SBIR và so sánh với những công ty không nhận được trợ cấp từ SBIR.
Kết quả phân tích cho thấy, những công ty nhận được trợ cấp từ SBIR sau một vài năm có
khả năng nhận được vốn mạo hiểm cao hơn so với những công ty không nhận được trợ
cấp. Hơn nữa, những công ty nhận được trợ cấp có công việc kinh doanh tốt hơn và doanh
số bán hàng cũng tăng. Chương trình SBIR liên bang đóng vai trò là chất xúc tác đối với
những ngành CNC, giảm khoảng cách thông tin mà những nhà đầu tư phải đối mặt và giúp
11 Quasi-Public Corporation.
doanh nghiệp đã được chứng nhận nhận được vốn mạo hiểm.
-22-
Hộp 3.2. Trợ cấp cho start-up của Chính phủ Đức
Phương thức trợ cấp cho DNKN cũng được chính phủ Đức sử dụng hiệu quả. Đức đã có chính sách hỗ trợ tài chính cho nhiều đối tượng với mục đích tăng cường vai trò của nhà nước đối sự phát triển của các ngành kinh tế, đặc biệt là khuyến khích các ngành CNC. Những đối tượng nhận được hỗ trợ tài chính là các DNKN và SMEs. Bộ Kinh tế và Công nghệ Đức đề ra chiến lược thực hiện tài trợ tài chính cho các dự án nhằm phát triển start-up ở khu vực KH&CN và kích thích hoạt động khởi nghiệp ở các trường đại học, viện nghiên cứu trong toàn liên bang. Bộ cũng mở rộng quỹ CNC Grunderfunds chuyên cấp vốn mạo hiểm cho các DNKN về công nghệ. Chính phủ cũng thiết lập các điều kiện về thuế cho hoạt động ĐTMH. Luật Thuế thu nhập tập thể có hiệu lực từ ngày 01/01/2008 đã khiến doanh nghiệp có thêm nhiều khích lệ và quyền hạn đối với sự nghiệp đổi mới. Bên cạnh đó, chính phủ Đức cũng dành một khoản chi đáng kể hàng năm để hỗ trợ SMEs với mục đích tăng tỷ trọng trong đổi mới của SMEs. Việc tài trợ này cũng nhằm hỗ trợ cho hoạt động đổi mới, tương ứng với từng dạng công nghệ mà doanh nghiệp tham gia, số vốn tài trợ đã tăng từ 460 triệu Euro năm 2006 lên hơn 670 triệu Euro năm 2009 (Cục Thông tin KH&CN Quốc gia, 2015).
3.2.2. Ưu đãi thuế
Những ưu đãi thuế cho các DNKN luôn được Chính phủ nhiều quốc gia thực hiện
nhằm tăng tính hấp dẫn của môi trường khởi nghiệp.
ĐTMH ở Mỹ được khuyến khích bởi cả hai biện pháp về thuế là: thuế lãi vốn thấp
và những ưu đãi thuế có mục tiêu. Ở cấp độ bang, những ưu đãi tài chính cụ thể phổ biến
hơn ở cấp độ liên bang. Ví dụ, bang Maine và Ohio cung cấp các khoản tín dụng thuế cho
các nhà đầu tư thiên thần. Bang Indiana, Vermont và Tây Virginia đưa ra những khoản tín
dụng thuế cho những nhà đầu tư để đủ tiêu chuẩn tham gia quan hệ đối tác ĐTMH, dao
động từ 20 – 30% số tiền đầu tư. Giảm thuế nhiều nhất được áp dụng cho các công ty bảo
hiểm – nhận được các khoản tín dụng thuế từ 100-120% số tiền họ đầu tư vào các thực thể
được “chứng nhận công ty vốn” (certificated capital companies – CAPCOs). Một CAPCO
là một tổ chức kinh doanh có lợi nhuận để cung cấp vốn mạo hiểm cho những cơ sở kinh
doanh địa phương “đủ điều kiện” trong nỗ lực để tạo ra cơ hội việc làm mới ở địa phương.
Chương trình này có nguồn gốc từ Louisiana và đã lan tỏa ra nhiều bang khác.
Ở cấp độ liên bang, chương trình New Market Tax Credit (NMTC) năm 2000
hướng tới tạo điều kiện cho phát triển kinh tế và tạo việc làm trong vùng khó khăn. NMTC
cho phép người nộp thuế nhận được một khoản tín dụng để bù vào khoản thuế thu nhập
liên bang của họ. Tín dụng đối với tổng số người nộp thuế là 39% của khoản đầu tư và
-23-
được đưa ra trong 7 năm. Chi phí thuế liên bang cho chương trình này ước tính 15 tỷ USD
mỗi năm. Những ưu đãi thuế của tiểu bang và liên bang khá tốn kém và tính hữu dụng của
chúng trong một thị trường ĐTMH đã trưởng thành và quy mô như ở Mỹ cần phải được
xem xét lại.
3.2.3. Đưa ra những quy định/điều tiết
Những quy định/điều tiết của chính phủ đóng vai trò quan trọng đối với sự thành
công của thị trường ĐTMH. Tinh thần doanh nhân chỉ có thể được thai nghén và hình
thành trong một quốc gia có môi trường thể chế, pháp lý minh bạch với những quy định
mang tính khuyến khích chứ không thể được lớn lên trong một môi trường có tính kìm
hãm.
Những quy định liên quan đến phát triển thị trường chứng khoán (TTCK)
Thụy Điển là nơi có nhiều quy định tiến bộ liên quan đến TTCK (Baygan G.,2003).
Sự hình thành của thị trường OTC Thụy Điển năm 1982 và hoạt động mạnh mẽ của TTCK
đi theo sự tự do hóa tài chính vào giữa những năm 1980 đóng góp vào sự phát triển trong
giai đoạn đầu của ngành công nghiệp ĐTMH. Tuy nhiên, khi những điều kiện về tài chính
và kinh tế xấu đi vào đầu những năm 1990 thì những lựa chọn thoái vốn thông qua TTCK
là không khả thi đối với một số loại hình doanh nghiệp của Thụy Điển. TTCK chính của
Thụy Điển – OM Stockholmsborsen đã bị bãi bỏ vào năm 1993 và sự độc quyền của nó về
vốn chủ sở hữu theo đó cũng mất đi. Ba thị trường mới được thiết lập để cải thiện sự niêm
yết OTC (O-lists) cho những công ty công nghệ nhỏ hơn: (i) AktieTorget cho những công
ty nhỏ nhất; (ii) Stockholm Bourse Information (SBI) niêm yết giá chứng khoán không
chính thức trước khi một công ty được giới thiệu tham gia vào TTCK; (iii)
Innovationsmarknaden (IM) cho cổ phiếu tăng trưởng. Sau đó, SBI và IM được sáp nhập
vào nhau năm 1998. Bên cạnh đó, TTCK thứ cấp đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
tài chính cho sự phát triển của các công ty và lối thoát vốn cho các nhà đầu tư Thụy Điển.
Trong những năm cuối thập kỷ 90, vốn hóa TTCK trên các O-list Thụy Điển đã tăng tương
đối vào GDP, vượt qua Mỹ vào năm 2002. Chính phủ cũng đưa ra một vài thay đổi trong
-24-
các quy định về thuế đối với quyền sở hữu cổ phiếu chưa niêm yết để góp phần vào sự phát
triển này12.
Những quy định về bảo hộ quyền ở hữu trí tuệ
Mỹ cũng có những chính sách khai thác và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ như: (i)
thương mại hóa kết quả nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu; (ii) làm cho
các quy định có tính quốc tế và gắn kết; (iii) mở rộng hệ thống luật sáng chế Châu Âu; (iv)
làm cho pháp luật bản quyền phù hợp với thời đại số hóa; (v) thiết lập việc quy chuẩn hóa
các quy trình đổi mới.
Những quy định liên quan đến lựa chọn địa điểm, thời gian để xây dựng mô hình
thung lũng Silicon
Địa điểm đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của các
DNKN. Nhiều quốc gia muốn sao chép mô hình thung lũng Silicon của Mỹ nhưng ngay từ
bước đầu đã thất bại do lựa chọn sai địa điểm. Chẳng hạn, trường hợp Brittany ở Pháp.
Chính phủ nước này muốn tạo ra một thung lũng Silicon tại Brittany với định hướng tập
trung vào ngành điện tử - tuy nhiên, điều này lại không được xem xét một cách cẩn trọng.
Ở Brittany không chỉ thiếu nền tảng tinh thần doanh nhân mà còn do nền công nghiệp đóng
tàu với những hoạt động sản xuất giản đơn đã không thực sự phù hợp cho việc hình thành
và phát triển ngành điện tử. Trong khi đó, thành công của thung lũng Silicon thực sự phải
là sự kết hợp của cả hai yếu tố nền tảng tinh thần doanh nhân khu vực và những ngành
công nghiệp xương sống, có tiềm năng tăng trưởng cao như ngành sản xuất chất bán dẫn.
Hơn nữa, thay vì xây dựng một trung tâm đổi mới sáng tạo với năng suất cao thì ở Brittany
vẫn giữ nguyên những ngành công nghiệp năng suất rất thấp.
Malaysia cũng gặp sai lầm tương tự khi cố gắng kiến tạo một thung lũng tập trung
phát triển công nghệ sinh học nhằm định vị Malaysia trên bản đồ công nghệ sinh học thế
giới (Chee Yoke Heong, 2003). Địa điểm được chọn là một làng giải trí thuộc phía nam
12 Tuy nhiên, từ năm 2000 IPOs đã có dấu hiệu đi xuống, giá cổ phiếu của các công ty đã giảm và hoạt động của TTCK thứ cấp Thụy Điển đã chậm lại. Cũng trong thời điểm đó, đã có nhiều nỗ lực để tạo ra thị trường chứng khoán Bắc Âu, gồm NORDEX Nordic Exchange – một liên minh giữa Copenhagen Stock Exchange, Iceland Stock Exchange và OM Stockholmsborsen. Đầu năm 2003, Nordic OTC được thành lập – là một thị trường cho SMEs với mục đích tạo ra một diễn đàn Bắc Âu cho những công ty chưa niêm yết trên TTCK.
thủ đô Kuala Lumpur, hoàn toàn thiếu các điều kiện cơ bản của công nghệ sinh học như
-25-
nhân lực có kỹ năng, cơ sở vật chất, các phòng thí nghiệm và thiếu sự cộng tác của các
viện nghiên cứu, trường đại học.
Ngược lại, những quốc gia lựa chọn địa điểm đúng đắn thì kết quả lại khả quan.
Chẳng hạn, New York trở thành trumg tâm tài chính của Mỹ nhờ kênh đào Erie, giúp nơi
này trở thành hải cảng hàng đầu thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động giao
lưu, trao đổi kinh tế. Đến nay thành phố này vẫn giữ nguyên vai trò đó ngay cả khi con
kênh hiện tại chủ yếu được sử dụng cho tàu thuyền giải trí. Xét trường hợp thung lũng
Silicon, điều gì khiến thung lũng này gây được tiếng vang lớn với thế giới như vậy? Lý do
là thung lũng này thuộc California gần San Francisco có lực lượng lao động trình độ cao,
nơi tập trung giới kỹ sư và chuyên gia máy tính, nơi có các trường đại học và viện nghiên
cứu hàng đầu và những doanh nhân dám nghĩ dám làm. Hay ở Ấn Độ - nơi mà thị trường
điện ảnh được bảo vệ khỏi sự thống trị của Mỹ một phần là nhờ chính sách của chính phủ,
và một phần nhờ những đặc thù về văn hóa nên một cụm ngành phim gọi là “Bollywood”
đã nổi lên ở Bombay (Krugman et. al, 1991). Kết quả là, phim Bollywood đã phát triển
được lực lượng khán giả rộng lớn ngoài Ấn Độ và điện ảnh nhanh chóng trở thành ngành
xuất khẩu quan trọng của quốc gia này.
Một sáng kiến về ĐTMH đòi hỏi phải có sự cam kết lâu dài của khu vực công. Một
điều tất yếu là những sáng kiến đó sẽ không mang lại lợi nhuận ngay tức thì. Nếu các
chương trình bị chính phủ bỏ rơi hoặc gián đoạn sau một vài tháng hoặc một vài năm thì
rất khó mang về lợi ích. Malaysia là một ví dụ điển hình. Năm 1993 một tập đoàn về CNC
được thành lập dựa trên quan hệ đối tác giữa chính phủ và khu vực công nghiệp (the
Malaysian Industry-Government Group for High Technology, MIGHT). Đây là tổ chức phi
lợi nhuận tập trung vào hướng khuyến khích tăng trưởng CNC. Tuy nhiên, những nỗ lực
của tập đoàn này đã cho thấy dấu hiệu thất bại vào năm 2003 và chính thức sụp đổ vào
năm 2009 do họ chưa có đường hướng rõ ràng và không lường trước được những rủi ro
trong tương lai. Chính phủ rút khỏi quá sớm và không đồng hành cùng tư nhân trong một
khoảng thời gian đủ dài cũng là nguyên nhân khiến tập đoàn này nhanh chóng tan rã.
3.3. Tổng kết yếu tố thành công/thất bại của các quốc gia trong hoạt động ĐTMH
Những yếu tố then chốt làm nên thành công của các quốc gia trong hoạt động
ĐTMH: (i) nhà nước lựa chọn hình thức can thiệp phù hợp với nhu cầu của thị trường; (ii)
hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ tạo môi trường đầu tư minh bạch và TTCK phát triển để
-26-
những nhà ĐTMH dễ dàng thoái vốn; (iii) nhà nước nhận diện rõ thất bại thị trường, từ đó
đưa ra chính sách can thiệp phù hợp; (iv) nhà nước nắm rõ hiện trạng của cả hai phía cung
và cầu trên thị trường ĐTMH để có can thiệp chính sách kịp thời (đẩy cầu hoặc tăng cung);
(v) lựa chọn đúng địa điểm để kiến tạo một khu vực có môi trường thể chế tốt cho DNKN.
Những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại của nhiều quốc gia trong hoạt động
ĐTMH: (i) hình thức can thiệp không phù hợp; (ii) khả năng hiểu và quản lý các doanh
nghiệp của khu vực công thấp, dễ xảy ra trục trặc khi nhà nước can thiệp13; (iii) lựa chọn
địa điểm không phù hợp để phát triển các ngành CNC; (iv) do vấn đề ủy quyền tác nghiệp,
lợi ích cá nhân, những động cơ chính trị nên những nhà lãnh đạo khu vực công thường đưa
ra những lựa chọn công “cứng”, dẫn đến việc bỏ qua những doanh nghiệp có tiềm năng và
lãng phí nguồn lực công. Một khi quyền lực và tài chính rơi vào tay người thừa hành thì rất
khó để họ hành động cho mục đích chung vì khả năng cao là họ sẽ tư lợi cá nhân ở mức tối
đa bằng cách chiếm dụng các khoản vốn của nhà nước. Nếu quy trình quá chặt chẽ, trách
nhiệm cao thì không ai dám quyết định đầu tư. Ngược lại, nếu quy trình thông thoáng thì
khả năng sử dụng nguồn vốn sai mục đích là rất cao vì sẽ rất khó xác định các tiêu chí đầu
tư và phân định trách nhiệm khi dự án không thành công. Khi đó, tiền ngân sách sẽ bị chi phối
13 Chẳng hạn, trường hợp của Thụy Điển khi chính phủ thành lập 2 quỹ thuộc sở hữu nhà nước là Bure và Atle năm 1990 nhằm hỗ trợ cho những doanh nghiệp ở giai đoạn đầu. Tuy nhiên, do nguy cơ rủi ro lớn và thiếu kinh nghiệm quản lý nên hai quỹ này đã đầu tư phần lớn vào những doanh nghiệp đã trưởng thành và do vậy, mục đích ban đầu của quỹ đã thất bại hoàn toàn.
bởi các nhóm lợi ích.
-27-
CHƯƠNG 4. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM Ở VIỆT NAM VÀ
CÁC BIỆN PHÁP CAN THIỆP CỦA NHÀ NƯỚC
4.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến ĐTMH ở Việt Nam
Những nghiên cứu về ĐTMH đã xuất hiện ở Việt Nam từ cuối những năm 1990 kể
từ khi hoạt động ĐTMH bắt đầu manh nha trên thị trường. Những nghiên cứu này thường
xoay quanh các vấn đề như phương thức hỗ trợ tài chính, giải pháp huy động vốn, vai trò
của nhà nước trong việc hỗ trợ nguồn vốn mạo hiểm.
Lê Quang Huy (1999) chỉ ra kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc
thành lập các quỹ ĐTMH dưới sự hỗ trợ của nhà nước để đưa ra những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam. Do bối cảnh thời điểm làm đề tài (1998), Việt Nam chưa có những
điều kiện cần và đủ để các quỹ ĐTMH hoạt động (nhất là phương thức thoái vốn thông qua
TTCK) thì các đề xuất của tác giả hoàn toàn phù hợp và khả thi. Tuy nhiên, ở thời điểm
hiện tại, khi Việt Nam đang tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thì một số
khuyến nghị của tác giả không còn phù hợp nữa, cần thiết phải có những chính sách và một
hành lang pháp lý hữu hiệu hơn để điều chỉnh hoạt động ĐTMH đang có xu hướng phát
triển ở Việt Nam.
Vụ Công nghệ cao, Bộ KH&CN (2006) chỉ ra điểm khác biệt giữa ĐTMH với hình
thức đầu tư thông thường. Cụ thể, nhà ĐTMH thực hiện việc rút vốn đầu tư khi doanh
nghiệp đã trưởng thành đến mức độ nhất định để sử dụng vốn đầu tư vào các doanh nghiệp
khác. Việc rút vốn thường thông qua phương thức niêm yết trên TTCK hoặc chuyển
nhượng cổ phần.
Vũ Cao Đàm, Nguyễn Thanh Hà (2008) phân tích bản chất của hoạt động ĐTMH
với những giai đoạn của nó và chỉ ra những cơ hội để hình thành các quỹ ĐTMH ở Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu về giải pháp chính sách cũng như sự hỗ trợ của
nhà nước đối với hoạt động ĐTMH chưa được quan tâm đúng mức. Các công trình nghiên
cứu khoa học gần đây đã đề cập đến vai trò của nhà nước đối với thị trường ĐTMH nhưng
chưa có cách tiếp cận hệ thống, khách quan nên dễ dẫn đến sự nhìn nhận phiến diện, từ đó
những giải pháp chính sách cũng không có tính khả thi. Vì vậy, đề tài được thực hiện nhằm
phân tích bức tranh tổng quát về ĐTMH, trong đó tập trung làm rõ vai trò của nhà nước đối
-28-
với hoạt động ĐTMH và đưa ra những khuyến nghị chính sách phù hợp trong bối cảnh hội
nhập hiện nay.
4.2. Thực trạng ĐTMH ở Việt Nam
Quỹ ĐTMH đầu tiên được giới thiệu tại Việt Nam năm 1991. Năm 1995, có tới 5
quỹ ĐTMH ở Việt Nam với tổng số vốn đầu tư cam kết lên tới 303 triệu USD cho 56 công
ty. Đến nay, Việt Nam có các quỹ hoạt động với tính chất là ĐTMH như IDG Ventures,
Mekong Capital, Vina Capital, Dragon Capital. Việt Nam đang được xem là thị trường hấp
dẫn để thu hút nguồn vốn ĐTMH.
Mặc dù xét về tính chất và phương thức đầu tư, các quỹ này được coi là các quỹ
ĐTMH. Tuy nhiên, đối tượng đầu tư của các quỹ này phần lớn là các công ty có tính thanh
khoản cao, có tiềm năng lợi nhuận lớn, đã niêm yết trên TTCK, hoặc đang ở giai đoạn tăng
trưởng ban đầu của quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp đã hoạt động từ 2 năm trở lên
và có tốc độ tăng trưởng nhanh, hoạt động trong các lĩnh vực bất động sản, thương mại
điện tử, truyền thông giải trí, mạng xã hội. Do vậy, có thể nói, hiện có rất ít các dự án
CNC, công nghệ mới ở giai đoạn khởi nghiệp nhận được vốn đầu tư của các quỹ trên14.
Từ giữa năm 2014 đến nay, đã xuất hiện những quỹ ĐTMH mới của Việt Nam như
Seedcom và FPT Ventures. Các quỹ đầu tư trong nước đang hướng đến các dự án khởi
nghiệp ngành bán lẻ, công nghệ với các khoản đầu tư từ 50.000 - 200.000 USD15.
Một số đặc điểm của các quỹ ĐTMH hoạt động tại Việt Nam được khái quát như sau:
(i) Hiện nay, Việt Nam chủ yếu là các quỹ của nước ngoài, số lượng các quỹ trong
nước khá khiêm tốn. Tác giả cho rằng, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân: (a) do
tính chất rủi ro của hoạt động ĐTMH nên các nhà đầu tư trong nước e ngại về khả năng
sinh lời của đồng vốn; (b) do số vốn của một quỹ ĐTMH thường là rất lớn nên các nhà đầu
tư trong nước không đáp ứng được; (c) nhà nước chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích,
hỗ trợ hoạt động ĐTMH; (d) Việt Nam còn thiếu hệ thống pháp luật điều chỉnh về ĐTMH
14 Quỹ DFJ Vinacapital và IDG Venture Vietnam là hai quỹ đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới, công nghệ cao, đầu tư vào các công ty công nghệ thông tin, viễn thông cổ phần hóa, đầu tư vào doanh nghiệ vừa và nhỏ, có ý tưởng sáng tạo, có khả năng niêm yết trên TTCK và nhất là có thể được các công ty khác mua lại.
15 Xem Phụ lục 1.
nên rất khó giải quyết khi xảy ra xung đột, tranh chấp; (e) Việt Nam chưa có đội ngũ nhân
-29-
lực có kinh nghiệm về quản lí một công ty/quỹ ĐTMH cũng là một trở ngại để các nhà đầu
tư thành lập quỹ ĐTMH.
(ii) Các quỹ này hoạt động chưa thực sự đúng với bản chất của ĐTMH vì hầu hết
các quỹ ĐTMH ở Việt Nam đều rót vốn ở giai đoạn đang trên đà phát triển và trưởng thành
của doanh nghiệp;
(iii) Các quỹ nước ngoài hoạt động chưa chính danh với tư cách là văn phòng đại
diện bởi Việt Nam chưa có quy định pháp lý cho các quỹ này.
Hộp 4.1. Hai quan điểm trái chiều về hình thức can thiệp trực tiếp
Về lý thuyết, có hai quan điểm trái chiều về việc nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường ĐTMH. Quan điểm không ủng hộ cho rằng, sự can thiệp của nhà nước có thể làm kìm hãm sự phát triển thị trường ĐTMH của khu vực tư nhân (hiệu ứng crowding-out). Mặt khác, vì các lợi ích cá nhân, chính trị và năng lực quản trị, đầu tư của nhà nước có thể bỏ qua các doanh nghiệp tiềm năng. Quan điểm ủng hộ cho rằng, nhà nước đóng vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy hoạt động ĐTMH, và phải bù lấp khoảng trống trong đầu tư của tư nhân để khắc phục khiếm khuyết thị trường trong trường hợp nhà đầu tư tư nhân e ngại rủi ro cao khi đầu tư vào DNKN giai đoạn gieo mầm và khởi động. Vốn đầu tư của nhà nước có vai trò xúc tác, khởi động cỗ xe đầu tư từ các quỹ tư nhân. Theo tác giả, việc nhà nước can thiệp trực tiếp hay không phụ thuộc vào đặc thù mỗi quốc gia. Nhà nước chỉ nên can thiệp theo cách này nếu cơ chế, luật pháp của quốc gia đó thực sự ổn định và có khả năng khắc phục những trục trặc khi xảy ra vấn đề ủy quyền tác nghiệp.
Nguồn: Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ, 2015
4.3. Các biện pháp can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ĐTMH ở Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam chưa có Quỹ ĐTMH thuộc sở hữu nhà nước. Điều đó cũng có
nghĩa là những biện pháp can thiệp của nhà nước vào hoạt động ĐTMH chủ yếu là các
biện pháp giáp tiếp. Ý tưởng thành lập một quỹ ĐTMH của nhà nước đã được Bộ KH&CN
chính thức đề xuất năm 200616. Luật Công nghệ cao (CNC) năm 2008 là văn bản pháp lý
đầu tiên quy định về hoạt động ĐTMH và thành lập Quỹ ĐTMH CNC Quốc gia. Các vấn
đề liên quan đến hỗ trợ quỹ ĐTMH tìm kiếm đối tác khởi nghiệp, tạo môi trường thúc đẩy
16 Năm 2006, Bộ KH&CN đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ “Đề án thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm”, nhưng do một số ràng buộc trong chính sách tài chính, nhất là ràng buộc về việc bảo toàn vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước nên đề án này không được thông qua.
DNKN dựa trên công nghệ mới, CNC cũng chưa được thể chế hóa thành chính sách cụ thể.
-30-
Hộp 4.2. Quy định về thuế theo Luật Công nghệ cao
Theo quy định tại Điều 24 Luật CNC, Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ĐTMH cho phát triển CNC, thành lập quỹ ĐTMH CNC tại Việt Nam. Tổ chức, cá nhân thực hiện ĐTMH cho phát triển CNC thuộc Danh mục CNC được ưu tiên đầu tư phát triển, được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế. Tuy nhiên, luật chưa có quy định cụ thể về ưu đãi thuế (ưu đãi khi huy động vốn và khi thoái vốn đầu tư) của các quỹ ĐTMH. Cách thoái vốn đối với các quỹ ĐTMH ở Việt Nam thời gian qua khi đầu tư vào DNKN chủ yếu bằng hình thức bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán, sáp nhập. Việc tìm kiếm các đối tác có nhu cầu mua lại cũng không dễ, dẫn tới khung thời gian đầu tư ở Việt Nam dài đến khoảng 10 năm thay vì 5-7 năm như ở các nước khác.
Ở thời điểm hiện tại, Chính phủ và các Bộ ngành liên quan đang nghiên cứu xây
dựng Quỹ ĐTMH công để tài trợ cho các dự án khởi nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang
xây dựng Dự thảo Thông tư hướng dẫn về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của
Quỹ ĐTMH cho KNST. Trước đó, vào năm 2014-2015, Bộ KH&CN cũng đã thực hiện Đề
án “Xây dựng chính sách khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước thành
lập các quỹ ĐTMH phát triển công nghệ mới, CNC”. Tuy nhiên, Đề án này cuối cùng phải
dừng lại do những cản trở về mặt chính sách của những văn bản hiện hành cũng như chưa
thực sự phù hợp trong bối cảnh Việt Nam. Rõ ràng, ngay trong giai đoạn thiết kế chính
sách, những nhà làm chính sách đã nhìn ra nhiều trục trặc nếu triển khai mô hình xây dựng
Quỹ ĐTMH thuộc sở hữu nhà nước. Những lý do chính được đưa ra: (i) Tư duy mang
nặng tính quản lý hành chính từ phía các cơ quan quản lý nhà nước sẽ là không phù hợp
nếu đặt trong bối cảnh tham gia cùng với khu vực tư nhân vào hoạt động ĐTMH – nơi mà
mọi hoạt động đều vận hành theo nguyên tắc của thị trường; (ii) Quy định của Bộ luật hình
sự 2015 về “tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”, “tội lập quỹ trái
phép”, “tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và các quy định về “bảo toàn và
gia tăng giá trị vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp” tại Luật Ngân sách nhà nước 2015
và Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp
2014 cũng trở thành rào cản vô hình cho việc nhà nước đầu tư vào việc ươm tạo và phát
triển DNKN đổi mới sáng tạo; (iii) Vấn đề bảo toàn vốn ngân sách nhà nước và quy kết
trách nhiệm sẽ kéo theo sự thay đổi và bổ sung hàng loạt các văn bản hiện hành để đảm
bảo tính nhất quán; (iv) Mâu thuẫn với các quy định trong các đạo luật khác như Luật
-31-
Chứng khoán, Luật Đầu tư công. Bài học thất bại từ các doanh nghiệp nhà nước Vinashin,
Vinalines cho thấy Việt Nam hoàn toàn không nên thành lập một Quỹ ĐTMH thuộc sở
hữu nhà nước.
Trong khoảng thời gian từ 2013-2015, Bộ KH&CN đã có nhiều nỗ lực trong việc
huy động các tổ chức, cá nhân đóng góp xây dựng quỹ Khởi nghiệp KH&CN theo mô hình
Thung lũng Silicon17. Chức năng cơ bản của Quỹ là sử dụng nguồn vốn để thực hiện các
hoạt động hỗ trợ, tài trợ, khuyến khích tổ chức, nhà khoa học, cá nhân là công dân Việt
Nam khởi nghiệp doanh nghiệp KH&CN, sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế trên nền
tảng ứng dụng, phát triển, đổi mới KH&CN. Xét về phương thức đầu tư, Quỹ Khởi nghiệp
KH&CN là một dạng quỹ ĐTMH do tư nhân thành lập để đầu tư vào DNKN. Tuy nhiên,
xét về mục đích, tôn chỉ hoạt động, Quỹ Khởi nghiệp KH&CN đăng ký là quỹ xã hội, phi
lợi nhuận – hoàn toàn khác so với với mục đích của loại hình quỹ ĐTMH thông thường là
tối đa hóa lợi nhuận khi rủi ro cao. Tuy Quỹ đã đạt được những thành công nhất định trong
việc hỗ trợ, thương mại hóa CNC, công nghệ mới nhưng hiệu quả còn hạn chế, cả về số
lượng và tính chất các dự án được đầu tư. Vì vậy, hoạt động của quỹ này chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển CNC, công nghệ mới của đất nước trong những năm tới.
Những hình thức can thiệp gián tiếp ở Việt Nam
Việt Nam đã có nhiều quy định về trợ cấp cho các DNKN. Chẳng hạn, Điều 31
Luật KH&CN 2013 quy định xét tài trợ, cho vay, bảo lãnh vốn vay của quỹ ĐTMH theo
điều lệ tổ chức và hoạt động của quỹ để thực hiện nhiệm vụ KH&CN. Tuy nhiên, quy định
này còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn thi hành nên rất khó để đánh giá tính
khả thi của nó. Luật này cũng thể hiện vai trò của nhà nước đối với hoạt động ĐTMH:
“Nhà nước sẽ hỗ trợ đến 30% vốn đầu tư cho dự án của doanh nghiệp ứng dụng kết quả
thực hiện nhiệm vụ KH&CN để tạo ra sản phẩm mới hoặc nâng cao năng suất, chất lượng
và sức cạnh tranh của sản phẩm từ kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN; hỗ trợ đến 50%
vốn đầu tư cho dự án thực hiện ở vùng kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn” (điểm
a Điều 32.2). Tuy nhiên, quy định này vẫn tồn tại nhiều vướng mắc: (i) Các dự án ứng
17 Ngày 16/12/2014, Quỹ Khởi nghiệp doanh nghiệp KH&CN đã được Bộ trưởng Bộ Nội vụ cấp Giấy phép thành lập và công nhận Điều lệ tổ chức và hoạt động tại Quyết định số 1286/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ.
dụng kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN cần rất nhiều vốn, liệu 30% vốn hỗ trợ của nhà
-32-
nước có thực sự khuyến khích doanh nghiệp vào cuộc không? (ii) 70% vốn còn lại, liệu họ
có thể kêu gọi từ các nguồn khác không (ngân hàng, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước) trong khi độ rủi ro của các dự án này là rất cao và khó kiểm soát? (iii) Nếu dự án
thất bại thì thiệt hại là không nhỏ, nhất là khi đã bỏ tiền từ ngân sách nhà nước ra cho
ĐTMH, vậy làm thế nào để nhà nước và tư nhân hợp tác có hiệu quả để thiết lập một cơ
chế kiểm soát rủi ro?
Về cơ bản, ĐTMH ở Việt Nam vẫn hoạt động theo quy định chung của Luật đầu tư
và doanh nghiệp vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật (trừ một số
trường hợp được ưu đãi miễn giảm thuế theo quy định của Luật KH&CN 2013). Tức là,
nhà nước mặc dù rất quan tâm đến cộng đồng khởi nghiệp và hoạt động ĐTMH nhưng
chưa có quy định cụ thể, rõ ràng về các hình thức trợ cấp, các chính sách ưu đãi khiến Việt
Nam chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư. Thậm chí, nhiều start-up phải ra nước ngoài để
gọi vốn do Việt Nam chưa có cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho họ khởi nghiệp. Ngoài
ra, TTCK ở Việt Nam hiện nay chưa được coi là kênh thoái vốn thuận lợi cho nhà ĐTMH
bởi hoạt động kém hiệu quả và thiếu minh bạch kể từ khi thành lập năm 2000 cho đến nay.
Quyền sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp mặc dù đã được nhà nước có quy định bảo hộ
theo Luật sở hữu trí tuệ 2006 nhưng vẫn chưa tạo được sự tin tưởng cho họ vì thể chế pháp
lý về sở hữu trí tuệ, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu KH&CN chưa hoàn chỉnh, còn
nhiều lỗ hổng làm cho khả năng bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ dẫn đến tranh chấp là
rất lớn.
Với những bất cập về nền tảng và thể chế pháp lý, rõ ràng Việt Nam chưa phải
điểm đến lý tưởng cho các nhà ĐTMH như Singapore, Thái Lan, Malaysia. Chính phủ
đang nỗ lực khắc phục những lỗ hổng của thể chế thông qua việc thiết lập một hành lang
pháp lý vững chắc, tạo điều kiện tối đa cho cả doanh nghiệp, nhà đầu tư và các mắt xích
liên quan khác trong HSTKN.
-33-
Hộp 4.3. Những văn bản chính sách mới ban hành trong thời gian gần đây
(i) Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ đặt ra yêu cầu hình thành và từng bước phát triển HSTKN như vườn ươm doanh nghiệp, quỹ hỗ trợ khởi nghiệp, quỹ ĐTMH, dịch vụ đào tạo, tư vấn, hỗ trợ khởi nghiệp;
(ii) Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 “Nhà nước có chính sách đặc thù để hỗ trợ SMEs, DNKN, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và có tiềm năng tăng trưởng cao phát triển”;
(iii) Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/04/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020, trong đó có nêu mục tiêu và nhiệm vụ “tạo lập hệ thống hỗ trợ khởi nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, ổn định, tự do sáng tạo cho DNKN”;
(iv) Quyết định 844/QĐ-TTg/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ HSTKN đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2020” chú trọng vào việc tạo lập môi trường để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình hình thành và phát triển những DNKN thông qua việc sử dụng ngân sách nhà nước thành lập các quỹ ĐTMH công để dẫn dắt và hỗ trợ các DNKN có tiềm năng tăng trưởng cao.
Căn cứ vào kinh nghiệm của các quốc gia đã phân tích, có thể thấy rằng, trong bối
cảnh Việt Nam hiện nay, việc khuyến khích khởi nghiệp và gia tăng sự hấp dẫn của thị
trường ĐTMH là cần thiết. Nhưng biện pháp can thiệp hợp lý nhất lại không phải là can
thiệp trực tiếp, bỏ vốn ngân sách để thành lập các quỹ ĐTMH công hoặc góp vốn đối ứng
với tư nhân để thành lập. Bởi những trục trặc liên quan đến ủy quyền tác nghiệp dễ dẫn đến
những lựa chọn công “cứng” sẽ khó có thể được giải quyết trong một thể chế còn nhiều
yếu kém như hiện nay. Hơn nữa, bản chất của việc chi tiêu ngân sách không tương thích
với hoạt động ĐTMH. Vì vậy, Việt Nam chỉ nên dùng hình thức can thiệp gián tiếp như
ban hành các quy định ưu đãi cho cộng đồng khởi nghiệp, nhà đầu tư; khuyến khích đổi
mới sáng tạo trong các trường đại học, viện nghiên cứu; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao; thúc đẩy tinh thần doanh nhân ở tất cả các địa phương, ngành nghề trong
cả nước.
4.4. Bài học cho Việt Nam
Mặc dù, các Bộ ngành liên quan, đặc biệt là Bộ KH&CN đang nỗ lực tìm kiếm giải
pháp để gia tăng sức hút của thị trường ĐTMH nhưng đến thời điểm hiện tại, kết quả
không mấy khả quan. Các quy định được luật hóa thì chưa được triển khai thành chính
-34-
sách cụ thể; các Đề án đang thực hiện thì phải ngừng lại do không được ủng hộ bởi các Bộ
ngành liên quan và do bị cản trở của chính sách hiện hành; nhiều chính sách chưa được
luật hóa thì đã thất bại ngay từ khâu thiết kế. Những bất cập đó xuất phát từ quan điểm sai
lầm của những nhà làm chính sách, là nhà nước phải trực tiếp bỏ vốn ngân sách để có một
quỹ ĐTMH của riêng mình. Thực chất, chỉ nên nhìn nhận vai trò của nhà nước là chất xúc
tác, là người kiến tạo các điều kiện thuận lợi về môi trường thể chế, chính sách để khu vực
tư nhân có động lực tham gia vào thị trường ĐTMH. Việc bỏ vốn là hoàn toàn không nên,
nhất là khi chúng ta chưa thiết lập được cơ chế kiểm soát người thừa hành như hiện nay.
Như vậy, muốn làm chính sách hiệu quả trước hết phải thay đổi tư duy làm chính sách.
Thứ nhất, nhà nước nên dừng việc xây dựng các chính sách bỏ vốn ngân sách
để thành lập các quỹ ĐTMH công.
Sự thất bại trong giai đoạn thiết kế chính sách thành lập Quỹ ĐTMH công của Bộ
KH&CN đã chỉ ra rằng, việc cố gắng thiết lập một Quỹ ĐTMH thuộc sở hữu nhà nước sẽ
lặp lại vết xe đổ của Vinashin, Vinalines cũng như những sai lầm tương tự của một số
nước khác khi nôn nóng xây dựng một Quỹ ĐTMH công trong bối cảnh thể chế, luật pháp
của quốc gia không đủ mạnh để giải quyết các trục trặc liên quan đến ủy quyền tác nghiệp.
Do đó, thay vì tìm cách can thiệp trực tiếp vào thị trường thì nhà nước nên lựa chọn những
cách thức can thiệp gián tiếp nhằm nuôi dưỡng thị trường và khuyến khích sự gia tăng của
dòng vốn thông qua việc ban hành các quy định rót vốn thông thoáng cho nhà đầu tư, bãi
bỏ những quy định bất lợi cho nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào Việt Nam…
Thứ hai, nhà nước cần tạo môi trường thông thoáng, lành mạnh cho hoạt động
ĐTMH bằng cách xây dựng một hệ thống các quy định pháp lý đồng bộ về ĐTMH.
Cụ thể, cần luật hóa những vấn đề về phạm vi ĐTMH, các lĩnh vực khuyến khích
đầu tư, cơ cấu tài sản đầu tư của các quỹ ĐTMH, quy chế thành lập và hoạt động của quỹ
ĐTMH. Hiện tại, pháp luật Việt Nam về ĐTMH vẫn còn một khoảng trống rất lớn. Những
quy định liên quan đến ĐTMH nằm rải rác ở các văn bản pháp luật khác nhau, rất khó
nhận biết vì không có quy định cụ thể và rõ ràng về những vấn đề liên quan đến ĐTMH.
Bên cạnh đó, ĐTMH còn gắn liền với các hoạt động khác như: bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
cơ chế thoái vốn thông qua TTCK, thuế,… Vì vậy, việc hoàn thiện các quy định của pháp
luật liên quan đến các vấn đề trên cũng là một yêu cầu được đặt ra.
-35-
Thứ ba, nhà nước cần xây dựng một hệ sinh thái khởi nghiệp bằng cách khuyến
khích tinh thần doanh nhân ở mọi khu vực trong nền kinh tế.
Tinh thần khởi nghiệp không phải tự nhiên mà có. Những doanh nhân chỉ thực sự
phát triển được khi họ có những đối tác trong nhiều lĩnh vực. Không có những luật sư có
kinh nghiệm có khả năng đàm phán, những bậc thầy về marketing và những kĩ sư sẵn sàng
làm việc với mức lương thấp, những khách hàng sẵn sàng thử nghiệm sản phẩm của các
công ty non trẻ thì thành công khó có thể xảy ra (Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh,
2015). Do vậy, môi trường đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc làm nên thành công
của ngành công nghiệp ĐTMH. Việt Nam - với vị thế của một quốc gia đang phát triển cần
học hỏi kinh nghiệm của Mỹ, Israel trong việc xây dựng và phát triển một môi trường khởi
nghiệp lành mạnh, đủ sức cạnh tranh giữa các thực thể trong nền kinh tế để thúc đẩy đổi
mới sáng tạo. Những biện pháp được chính phủ các nước thành công trong ngành công
nghiệp ĐTMH áp dụng là: (i) xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học làm đòn bẩy
cho sự hình thành và phát triển các ý tưởng mang tính đột phá sáng tạo; (ii) đảm bảo sự
dẫn dắt của thị trường khi nhà nước cung cấp các khoản trợ cấp; (iii) khuyến khích các liên
kết giữa các nhà đầu tư trong nước và các doanh nhân hải ngoại thay vì chỉ tập trung vào
các hoạt động nội địa.
Như vậy, Việt Nam nên sử dụng biện pháp can thiệp gián tiếp, sửa đổi, bổ sung
những quy định pháp luật để giảm bớt rào cản và gia tăng khuyến khích cho ĐTMH. Làm
được điều này, ngành công nghiệp ĐTMH ở Việt Nam hứa hẹn sẽ có nhiều khởi sắc trong
tương lai.
Tuy nhiên, việc áp dụng những hình thức can thiệp đã thành công ở một số quốc
gia trên thế giới cần phải được xem xét một cách kĩ lưỡng và thấu đáo vì rất có thể cùng là
một hình thức can thiệp mà nó thành công ở nơi này nhưng lại thất bại ở nơi khác. Theo
Huỳnh Thế Du, Vũ Thành Tự Anh (2015), những khuyến nghị mà nhà nước nên tránh bao
gồm: (i) khuyến khích bằng việc miễn thuế trước có thể tạo ra bóp méo động cơ; (ii) dựa
vào các trung gian tài chính để quản lý các chương trình vì họ có khả năng cao là có động
cơ khác vì mục đích cá nhân; (iii) yêu cầu nhà đầu tư tổ chức ở các địa phương đóng góp
nhiều hơn vào vốn mạo hiểm mà không quan tâm đến bản chất của các cơ hội.
-36-
CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
5.1. Kết luận
Qua tìm hiểu kinh nghiệm quốc tế và phân tích thực trạng các biện pháp can thiệp
của nhà nước vào hoạt động ĐTMH ở Việt Nam, tác giả rút ra những kết luận sau:
Thứ nhất, lựa chọn hình thức can thiệp nào phụ thuộc vào bối cảnh riêng của mỗi
quốc gia. Kinh nghiệm ở các quốc gia đã thành công hoặc thất bại cho thấy, bất cứ biện
pháp can thiệp nào cũng tồn tại hai mặt. Điều quan trọng là quốc gia đó xác định và tính
toán được chi phí - lợi ích của mỗi hình thức can thiệp để lựa chọn phương án phù hợp.
Thứ hai, can thiệp trực tiếp thường không mang lại hiệu quả cao. Ngoại trừ Israel
thì đa số các quốc gia can thiệp trực tiếp vào hoạt động ĐTMH đều thất bại. Giải thích cho
thất bại của nhà nước khi rót vốn trực tiếp vào các quỹ ĐTMH là vấn đề ủy quyền tác
nghiệp. Những người đại diện cho nhà nước quản lý nguồn vốn công phần lớn không làm
tròn trách nhiệm của mình và kết quả là làm thất thoát, lãng phí nguồn lực công cho những
lợi ích cá nhân. Vì vậy, theo Huỳnh Thế Du (2013) “vai trò của Nhà nước, như hầu hết các
nước đã thành công trên thế giới, đơn giản chỉ là tập trung sửa chữa các khuyết tật thị
trường và cải thiện bình đẳng thay vì nhấn mạnh yếu tố sở hữu và xác lập vai trò chủ đạo”.
Thứ ba, can thiệp gián tiếp thường mang lại kết quả cao hơn, đặc biệt đối với quốc
gia đang phát triển như Việt Nam khi thể chế, pháp luật còn nhiều biến động. Sự bất ổn
trong chính sách, pháp luật khiến nhà ĐTMH nước ngoài e ngại khi đặt chân vào Việt
Nam. Chẳng hạn, Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định thuế suất thuế thu nhập
doanh nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đối với các dự án mới đầu tư
vào Việt Nam kể từ ngày 01/01/2004 là 20% (trước đây là 10%) được áp dụng trong 15
năm và sau đó tăng lên 28%. Quy định này đã gián tiếp làm giảm lợi thế so sánh của Việt
Nam trong cuộc cạnh tranh với các nước trong khu vực, làm giảm đầu tư mới và tái đầu tư,
hạn chế phát triển ngành nghề và dịch vụ mới và hậu quả là mất cơ hội thu thuế. Chính
sách thuế thay đổi trong một thời gian ngắn đã làm mất lòng tin của nhà đầu tư vào thị
trường Việt Nam, trong đó có nhà ĐTMH. Kết quả là nhiều nhà đầu tư sang Việt Nam
nhưng lại chuyển hướng đầu tư sang Trung Quốc, Thái Lan và một số nước khác trong khu
vực. Nếu khắc phục được những hạn chế này trong chính sách và pháp luật, chắc chắn Việt
-37-
Nam sẽ thu hút được nhiều nhà ĐTMH nước ngoài và làm gia tăng ngoại tác tích cực của
ĐTMH đối với nền kinh tế.
5.2. Kiến nghị chính sách
Thứ nhất, nhà nước nên tìm đến một tổ chức mới có năng lực và động cơ thúc đẩy
sự phát triển của thị trường ĐTMH để thay nhà nước thực hiện sứ mệnh của mình.
Isenberg (2012) lập luận rằng trong khi các chính phủ có quyền can thiệp nhưng họ không
nhất thiết phải có năng lực để làm điều đó một cách hiệu quả, mà nên chuyển giao cho một
tổ chức khác. Tổ chức này sẽ phải là tổ chức độc lập, không thuộc sở hữu của bất kỳ ai
trong bộ máy nhà nước, và luôn phải có trách nhiệm giải trình để đạt tới đỉnh điểm nơi mà
sự can thiệp không còn cần thiết. Điều quan trọng nhất, tổ chức này chỉ là tạm thời, với
tuổi đời rõ ràng và thời hạn nhất định để tránh sự thao túng quyền lực và kiểm soát lâu dài
của một bộ phận nào đó. Điều này một mặt sẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng, mạnh
mẽ của thị trường ĐTMH, mặt khác sẽ tránh được thất bại của nhà nước trong quản lý liên
quan đến vấn đề ủy quyền tác nghiệp, làm lãng phí nguồn lực công.
Thứ hai, nhà nước nên thúc đẩy việc thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống
nhất với các quy định cụ thể, chi tiết liên quan đến hoạt động ĐTMH và HSTKN để thu
hút các nhà đầu tư, khuyến khích tinh thần khởi nghiệp trong cả nước. Đồng thời, việc bãi
bỏ những chính sách đang gây cản trở cho các nhà ĐTMH, cộng đồng khởi nghiệp cũng là
những nút gỡ cần thiết để gia tăng sự hấp dẫn của thị trường ĐTMH Việt Nam. Điều này
sẽ giúp Việt Nam tránh bị chảy máu chất xám và tránh thất thoát vốn khi nhiều nhà khởi
nghiệp lựa chọn nước ngoài để đặt trụ sở nhằm tranh thủ các chính sách hấp dẫn như cắt
giảm thuế hay thủ tục thành lập đơn giản.
Thứ ba, lựa chọn địa điểm dẫn đầu cả nước về khởi nghiệp (Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh), trong đó chú ý đến việc phát triển liên kết vùng để khai thác tối đa thế
mạnh của các địa phương lân cận cho hoạt động ĐTMH. Đây sẽ là các thành phố kiểu mẫu
về KNST, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến các tỉnh thành khác trong cả nước.
Thứ tư, đầu tư cho các viện nghiên cứu, trường đại học bởi đây là nơi khởi phát cho
những ý tưởng sáng tạo, đổi mới chất lượng. Những biện pháp cụ thể: đầu tư vào cơ sở vật
chất cho các viện nghiên cứu, trường đại học nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng
dạy; tích cực học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia phát triển bằng việc gia tăng mối quan
-38-
hệ hợp tác với nước ngoài thông qua các chương trình đào tạo, các dự án phát triển công
nghệ hiện đại; phát triển KH&CN theo định hướng liên kết vùng, miền; tổ chức các cuộc
thi về KNST để khuyến khích tinh thần nghiên cứu sáng tạo cho sinh viên...
Thứ năm, việc tập trung vào các nhân tố khác trong HSTKN cũng góp phần thúc
đẩy sự đi lên của thị trường ĐTMH. Tức là nhà nước hỗ trợ những mắt xích còn lại trong
HSTKN như khuyến khích các doanh nghiệp lớn hình thành các sàn chuyển giao công
nghệ, xây dựng dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật, thông tin cho các start-up, hỗ trợ các diễn đàn khởi
nghiệp18 .
Tất cả những giải pháp này nếu được thực hiện đồng thời sẽ tạo động lực rất lớn
cho cộng đồng khởi nghiệp và các quỹ ĐTMH liên tục triển khai những dự án hứa hẹn sẽ
18 Bao gồm: hình thành cơ chế một cửa để các đối tượng trong HSTKN có thể tiếp cận các thông tin về cơ chế, chính sách nhà nước liên quan đến khởi nghiệp và tình hình khởi nghiệp vĩ mô; hỗ trợ các sự kiện khởi nghiệp quy mô quốc gia, địa phương, các sự kiện khởi nghiệp có sự liên kết giữa nhiều trường đại học, trường phổ thông trung học; hình thành mạng lưới các tổ chức ươm tạo, tổ chức thúc đẩy kinh doanh, DNKN, nhà đầu tư thiên thần, hướng dẫn viên, huấn luyện viên cho khởi nghiệp...
mang lại những giá trị to lớn cho nền kinh tế.
-39-
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ KH&CN (2016), “Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: Vai trò của chính sách Chính phủ”, Tổng luận số 12
2. Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ KH&CN (2013), Chuyên đề “Chiến lược phát triển KH&CN của Đức”
3. FETP (2015) , Bài đọc Kinh tế học Khu vực công, Chương 1, Xác định trách nhiệm của khu vực công
4. FETP (2015), Bài giảng Các phương pháp nghiên cứu chính sách công
5. Huỳnh Thế Du (2013), Vai trò của Nhà nước nhìn theo lịch sử (trích từ bài viết “Luận giải về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”)
6. Huỳnh Thế Du (2015), Bài giảng Lý thuyết lựa chọn công, FETP
7. Huỳnh Thế Du và Vũ Thành Tự Anh, FETP, Góp ý đề án xây dựng quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao (gửi đến Văn phòng Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30/11/2015)
8. Lê Quang Huy (1999),“Nghiên cứu một số vấn đề về đầu tư mạo hiểm cho hoạt động khoa học và công nghệ”, Đề tài cơ sở, Viện Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ
9. Viện chiến lược và chính sách Khoa học và Công nghệ (2015), Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với nhà nước để thành lập các Quỹ Đầu tư mạo hiểm phát triển công nghệ mới, công nghệ cao”
10. Vũ Cao Đàm, Nguyễn Thanh Hà (2008) , “Đầu tư mạo hiểm”, Tạp chí hoạt động khoa học, Số 1/2008
11. Vụ Công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ (2006) ,“Đầu tư mạo hiểm trên thế
giới”
12. Văn bản pháp luật:
Luật Công nghệ cao 2008
Luật Khoa học công nghệ 2013
Luật Đầu tư công 2014
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi 2013
Luật sở hữu trí tuệ 2009
-40-
Luật chứng khoán 2006
Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016
Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16/05/2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020
Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/04/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 – 2017, định hướng đến năm 2020
Quyết định 844/QĐ-TTg/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2020”
13. website:
http://www.atimes.com/atimes/Southeast_Asia/EL24Ae01.html (Chee Yoke Heong, 2003)
http://www.yozma.com
http://www.mavcap.com/index.aspx
http://mass-ventures.com
http://www.scic.vn/index.php/57-pressrelease/press-reference/789-trung-qu-c-c-i- cach-dnnn-can-thi-p-hanh-chinh-hay-ban-tay-th-tru-ng.html (Huy Nguyên, 2016)
http://www.scic.vn/index.php/danh-cho-ngu-i-d-i-di-n/57-pressrelease/press- reference/780-tin-tham-khao-1.html
http://vpcp.chinhphu.vn/Home/Khuyen-khich-thanh-lap-quy-dau-tu-mao-hiem- phat-trien-cong-nghe-moi/20161/17938.vgp
Tài liệu tiếng Anh
14. Amit, Rafael, James A. Brander, and Christoph Zott (1998), "Why do Venture Capital Firms Exist? Theory and Canadian Evidence", Journal of Business Venturing, Vol.13
15. Bart Clarysse; Mirjam Knockaert; Mike Wright (2009), “Benchmarking UK Venture Capital to the US and Israel: What lessons can be learned?”
16. Baygan, G. (2003), “Venture Capital Policy Review: United States”, OECD Science, Technology and Industry Working Papers, 2003/12, OECD Publishing
17. Baygan, G. (2003), “Venture Capital Policies in Sweden”, OECD Science, Technology and Industry Working Papers, 2003/11, OECD Publishing.
-41-
18. Baygan, G. (2003), “Venture capital policy review: Israel”, OECD Science, Technology and Industry Working Papers, 2003/3, OECD Publishing
19. Dan Senor, Saul Singer, “Start-up nation”, 2009
20. Isenberg, D. J. (2010), "How to start an Entrepreneurial Revolution," Harvard Business Review 88(6)
21. Jin Joo Ham (2014), “Entrepreneurial Financing: Program Review and Policy Perspective”, STI Policy Review_Vol. 5, No 1, OECD Pulishing
22. Josh Lerner (2009), “Boulevard of Broken Dreams: Why Public Efforts to Boost Entrepreneurship and Venture Capital Have Failed and What to Do About It”
23. Paul R. Krugman, MauriceObstfeld, Marc J. Melitz (1991), International Economics: Theory and Policy
24. World Bank, (1997), The evolving role of the state, Chapter 1.
-42-
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC QUỸ ĐTMH TẠI VIỆT NAM
Mekong Capital: Công ty quản lí quỹ Mekong Capital thành lập năm 2001, có 3
quỹ con với số vốn 100 triệu USD. Tổng vốn đầu tư của 3 quỹ là 168,5 triệu USD, thời
gian hoạt động dự kiến của mỗi quỹ từ 5-8 năm hoặc có thể dài hơn tùy từng trường hợp.
Sau khi thực hiện đầu tư thành công, Mekong Capital tiến hành thoái vốn và tiếp tục chiến
lược đầu tư vào các DNKN khác;
Vina Capital hiện có 4 quỹ đầu tư tại Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực bất động
sản, công nghệ thông tin và viễn thông với số vốn lên tới 1 tỷ USD;
Dragon Capital là quỹ của Anh, có tổng số tài sản lên đến 1,3 tỷ USD với 7 quỹ
thành viên đang quản lí. Dragon đã bỏ ra khoảng 100 triệu USD để có hơn 400 thương vụ
đầu tư với các doanh nghiệp trong nước. Trong đó, đa số là doanh nghiệp đã niêm yết trên
TTCK, có đường hướng phát triển ổn định;
IDG Ventures Vietnam, bắt đầu có hoạt động đầu tiên ở Việt Nam từ năm 1992.
Đây là một trong số rất ít các quỹ đầu tư có thương hiệu toàn cầu hiện diện tại Việt Nam,
đồng thời là thành viên của tập đoàn Dữ liệu quốc tế (International Data Group), một
thương hiệu lớn trong lĩnh vực xuất bản, nghiên cứu và đầu tư toàn cầu. Quỹ chính thức
thành lập với tên IDG Ventures từ năm 2004 với số vốn 100 triệu USD. Sau đó, IDG tiếp
tục phát triển với 1 quỹ con thứ hai ở Việt Nam với số vốn 150 triệu USD, tập trung đầu tư
vào các công ty mới hoạt động được 1, 2 năm, có tiềm năng phát triển trong tương lai,
nhưng đang gặp khó khăn về vốn. Mục tiêu của IDG Ventures Vietnam là tập trung vào
các doanh nghiệp hoạt động từ 2 năm trở lên, đã có những sản phẩm có thương hiệu trên
thị trường. Đồng thời, quỹ này cũng có thể sẽ được sử dụng đầu tư sang cả các lĩnh vực
khác như chăm sóc sức khỏe, bán lẻ… IDG Ventures Vietnam chủ yếu đầu tư vào công ty
tư nhân ở tất cả các giai đoạn phát triển. Bất kể ở giai đoạn sơ khai, giai đoạn đầu hay giai
đoạn đã phát triển, quỹ sẽ xem xét mọi kế hoạch đầu tư, tiềm năng phát triển, cơ hội trên
thị trường, đội ngũ lãnh đạo… Nếu kế hoạch kinh doanh của đội ngũ sáng lập hay công ty
đang trên đà tăng tốc có chiến lược kinh doanh phù hợp thì IDG Ventures Vietnam sẵn
sàng rót vốn. IDG Ventures Vietnam được biết đến là quỹ ĐTMH thực sự với 40 khoản
-43-
đầu tư, chủ yếu nhắm vào các doanh nghiệp trong 4 lĩnh vực: hạ tầng thương mại điện tử,
thông tin – truyền thông, kinh doanh công nghệ, truyền thông giải trí.
Seedcom ưu tiên chọn các công ty công nghệ vì đây là lĩnh vực có vốn đầu tư ban
đầu, trong khi tại Việt Nam, internet đang phát triển mạnh mẽ và sự tiếp cận công nghệ từ
các smartphone đang hứa hẹn sự bùng nổ của ngành này. Mục tiêu của quỹ là hỗ trợ các
doanh nghiệp nhỏ về tài chính, kinh nghiệm quản lý và điều hành. Mặc dù chỉ mới tham
gia thị trường hơn 1 năm kể từ tháng 6/2014, nhưng Quỹ đã đầu tư vào 15 doanh nghiệp
trong các lĩnh vực bán lẻ, chuỗi cung ứng và thương mại điện tử. Làn sóng khởi nghiệp từ
năm 2015 còn được tiếp sức bởi những công ty thành công quay trở lại hỗ trợ cho những
start-up mới, như Appota đang hỗ trợ đầu tư 5 startup nhỏ; Vatgia cũng rót lại vốn cho một
số dự án mới...
FPT Ventures ưu tiên đầu tư vốn hạt giống (Seed funding) và gọi vốn vòng 2 (Serie
A) vào các công ty đã trải qua giai đoạn phát triển ý tưởng và đã đưa vào kinh doanh hoặc
các nhóm tốt nghiệp từ các vườn ươm khởi nghiệp trong khu vực và quốc tế có quan hệ với
FPT, chẳng hạn 500 Startups, Founder Institue, Magic, JDFI, Dream+... FPT Ventures sẽ
tập trung hỗ trợ các dự án khởi nghiệp có định giá chưa tới 1 triệu USD ở các lĩnh vực
internet, di động, giải pháp doanh nghiệp SMEs, y tế, giáo dục, giao thông. Hiện nay, FPT
Ventures đầu tư vào chính các công ty con của tập đoàn như Sendo.vn, Ants.vn, FPT Play,
Nhacso.net, Viecnha.vn, gostudybooking.com, Fshare.vn. Dự kiến mỗi năm sẽ bổ sung
thêm vào quỹ FPT Ventures 3 triệu đô la Mỹ. FPT Ventures cam kết đồng hành dài hạn,
chia sẻ kinh nghiệm, hỗ trợ vốn, làm bệ phóng cho các startup công nghệ Việt, thậm chí hỗ
trợ cả chỗ ngồi làm việc.
Bên cạnh các quỹ, công ty ĐTMH thành công thì cũng có một số quỹ, công ty
ĐTMH không đạt được mục tiêu lợi nhuận, phải rút khỏi Việt Nam hoặc hoạt động cầm
chừng như Vietnam Fund, Vietnam Frontier, Lazard Vietnam Fund, Vietnam Opportunity
Fund…
-44-
PHỤ LỤC 2. NHỮNG TRỞ NGẠI CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN ĐTMH Ở VIỆT NAM
Vướng mắc từ phía chính sách đối với các DNKN dựa trên công nghệ
Doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ (một lĩnh vực thay đổi rất
nhanh chóng) gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các đối thủ đến từ nước ngoài nên
cần phải phát triển sản phẩm một cách nhanh chóng để đưa ra thị trường, thu hút người
dùng trước khi có khả năng kiếm được doanh thu và lợi nhuận.
Thông thường một sản phẩm dịch vụ công nghệ hướng tới người dùng cuối (end-
user) phải đầu tư hàng trăm hàng triệu USD trong nhiều năm với lợi nhuận bằng 0 hoặc
phải duy trì trạng thái âm, vì phải mang lại giá trị cho người dùng (xây dựng cộng đồng
hàng triệu người dùng trước). Để làm điều này, các công ty khởi nghiệp không còn cách
nào khác là đi kêu gọi nguồn vốn từ các Quỹ đầu tư mạo hiểm vì vốn của bản thân và gia
đình hạn chế và họ cũng không có tài sản bảo lãnh để vay ngân hàng (Các công ty công
nghệ khởi đầu đều không có gì hoặc chỉ có tài sản vô hình chính là ý tưởng công nghệ của
mình).
Tuy nhiên, để có nguồn vốn này, ngoài việc phải làm rất nhiều thủ tục để kêu gọi
vốn đầu tư, các công ty còn gặp rất nhiều trở ngại bao gồm:
(i) Giấy chứng nhận đầu tư (Investment Certificate - IC).
Một công ty khởi nghiệp, khi có một nhà đầu tư nước ngoài, dù đầu tư 50 ngàn
USD với tỷ lệ 1% cũng được yêu cầu phải có IC. Để lấy được IC, bản thân các công ty
đang mất rất nhiều thời gian, từ lúc chuẩn bị đến lúc có IC có thể mất từ 6 tháng đến một
năm và trả hàng trăm triệu đồng chi phí pháp lý để Luật sư giúp lấy giấy tờ này. Trong giai
đoạn đầu của quá trình khởi nghiệp, vừa không có vốn, vừa cần tập trung phát triển sản
phẩm và tập hợp người dùng, thì việc lấy IC với thời gian và công sức lớn có thể khiến
nhiều DNKN không trụ lại được trên thị trường.
Một công ty đầu tư hàng chục, hàng trăm triệu USD dưới dạng FDI để lấy IC thì
không khó vì với số tiền đó tính theo tỉ lệ % của tổng đầu tư là khá nhỏ. Nhưng đó là con
số rất lớn đối với các DNKN về công nghệ. Đặc biệt, các doanh nghiệp khởi nghiệp muốn
kêu gọi những số tiền lớn hơn trong giai đoạn sau thì giai đoạn đầu họ cần phải nhanh
chóng có những con số chứng minh là sản phẩm của mình được người dùng đón nhận.
-45-
Chính vì vậy, các thủ tục và chi phí dành cho IC đang trở thành nút thắt cổ chai cho các
DNKN khi kêu gọi vốn đâu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Đối với các nhà đầu tư, họ có quá nhiều lựa chọn, nên dòng vốn đáng lẽ vào doanh
nghiệp Việt Nam thì đang chảy sang các công ty ở Indonesia, Thailand, Singapore,
Philippines...dẫn đến các công ty khởi nghiệp tại Việt Nam không còn quá hấp dẫn đối với
nhà đầu tư nước ngoài.
ii) Ngành nghề kinh doanh:
Hiện nay, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài khi đăng ký ngành nghề kinh
doanh trong lĩnh vực quảng cáo đều phải đáp ứng điều kiện là có cổ đông là công ty hoạt
động trong lĩnh vực quảng cáo.
Với các sản phẩm công nghệ phục vụ người dùng cuối, rất nhiều sẩn phầm có
nguồn thu chủ yếu đến từ quảng cáo cho các doanh nghiêp. Do đó, quy định này, vô hình
chung, hạn chế hoặc gây ra rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp hiện nay.
iii) Tỷ lệ sở hữu
Có rất nhiều ngành nghề đang hạn chế tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài. Đây
cũng là rào cản để thu hút các nguồn ĐTMH cho DNKN tại Việt Nam.
Vướng mắc từ thủ tục hành chính đối với các quỹ ĐTMH
Hiện tại các thủ tục hành chính để thực hiện đăng ký hoạt động cho một quỹ đầu tư
mạo hiểm thường rất phức tạp và tốn thời gian. Đơn cử Quỹ khởi nghiệp doanh nghiệp
KH&CN Việt Nam do chủ nhiệm Đề án Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung
lũng Silicon Việt Nam đứng đầu, dù đã kêu gọi được những nhà đầu tư có kinh nghiệm đầu
tư và năng lực tài chính vẫn mất đến gần một năm mới có thể ra đời.
Thiếu cơ chế pháp lý để thành lập những quỹ đầu tư kiểu mới
Ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Canada, các nước châu Âu, Hàn Quốc, Đài
Loan, các tổ chức đầu tư kiểu mới dưới dạng Câu lạc bộ nhà đầu tư thiên thần hoạt động
rất có hiệu quả. Họ không chỉ đơn thuần là một “Câu lạc bộ” để trao đổi thông tin mà còn
có thể kêu gọi vốn đầu tư, quản lý vốn đầu tư như một Quỹ ĐTMH thực thụ, chỉ có điều
mục tiêu và cách thức đầu tư có thể khác. Tuy nhiên, ở Việt Nam, nếu muốn hoạt động như
-46-
vậy, các Câu lạc bộ này cần phải thông qua những thủ tục hành chính phức tạp và những
quy định rất khắt khe để thành lập mô hình quỹ ĐTMH .
Ngoài ra, một mô hình quỹ ĐTMH cho doanh nghiệp khởi nghiệp KH&CN kiểu
mới rất có hiệu quả trên thế giới là quỹ đầu tư kêu gọi vốn từ cộng đồng (crowdfunding
platform). Dựa trên nền tảng internet, các quỹ này sàng lọc hồ sơ của các DNKN và đưa
thông tin rộng rãi để giới thiệu cho các nhà đầu tư thiên thần trên khắp thế giới. Mỗi nhà
đầu tư chỉ cần lựa chọn đầu tư từ vài trăm đến vài nghìn đô la nhưng khi có hàng trăm nhà
đầu tư như vậy thì khoản tiền đầu tư lên đến vài trăm nghìn đô la sẽ ngang bằng khoản đầu
tư mà các doanh nghiệp khởi nghiệp phải rất khó khăn mới tiếp cận được từ các quỹ đầu tư
mạo hiểm truyền thống (VC). Trong mô hình crowdfunding dưới dạng góp vốn (equity-
based crowdfunding), thì những nhà đầu tư này đều có thể có cổ phần từ những doanh
nghiệp khởi nghiệp mà mình đầu tư vào, điều họ không thể làm được nếu thông qua các
VC (VC chỉ nhận đầu tư của những tổ chức hoặc cá nhân vô cùng giàu có với giá trị đầu tư
hàng triệu hoặc hàng trăm triệu đô). Nhiều nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu của Ngân
hàng thế giới cho rằng hình thức crowdfunding là hình thức gọi vốn đầu tư rất phù hợp với
các nước đang phát triển19.
Mặc dù lợi ích của crowdfunding rất lớn và cũng có một số nhà đầu tư Việt Nam
mong muốn mở ra các crowdfunding platform nhưng họ còn “e ngại” vì chưa hề có các
văn bản hướng dẫn cụ thể về hoạt động mô hình này, đồng thời những thủ tục phức tạp như
lưu ký chứng khoán, quản lý giao dịch chuyển nhượng cổ phần,… sẽ làm giảm tính hiệu
19 Best, Jason, et al. "Scaling innovation: Crowdfunding’s potential for the developing world." Information for Development Program (infoDev), The World Bank (2013).
quả của mô hình này tại Việt Nam.
-47-
PHỤ LỤC 3. MỘT SỐ CHƯƠNG TRÌNH, DỰ ÁN SỬ DỤNG VỐN ODA
HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP
Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu KH&CN” (FIRST) giữa
Bộ KH&CN và Ngân hàng thế giới hướng đến mục tiêu hỗ trợ nâng cao năng suất, khả
năng cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam thông qua việc tăng
cường hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ, thúc
đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp để tạo thêm
giá trị gia tăng cho nền kinh tế. FIRST có nhiều cấu phần, trong đó có cấu phần hỗ trợ
DNKN KH&CN để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu của mình.
Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP) đang khởi động
giai đoạn 2 hầu hết hướng đến việc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ĐMST
và các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. IPP hỗ trợ cả
bằng tài chính và các khóa đào tạo, tập huấn, tư vấn có sự tham gia của các chuyên gia
trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng lực cho các đối tượng thụ hưởng.
Dự án “Dự án Hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo
doanh nghiệp” Việt – Bỉ (BIPP) hỗ trợ Bộ KH&CN xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
để thúc đẩy việc thành lập và vận hành các vườn ươm KH&CN nhằm tăng cường khu vực
doanh nghiệp KH&CN nhỏ và vừa; hỗ trợ hoạt động cho một cơ sở ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN tại Hà Nội và tại TP. HCM; hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, các
doanh nghiệp hiện đang hoạt động, đặc biệt là các doanh nghiệp tiềm năng trở thành doanh
nghiệp KH&CN; cộng đồng KH&CN bao gồm khoảng 1500 tổ chức KH&CN,…
Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia (NATIF), Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cũng
có những nội dung hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp để hoàn thiện công nghệ, sản phẩm
của mình cũng như sản xuất thử nghiệm các sản phẩm đó trước khi đưa ra thị trường.
Đề án “Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon tại Việt Nam”
do Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN (Bộ KH&CN) nghiên cứu, triển
khai từ năm 2013. Mục tiêu cơ bản của Đề án là tạo ra một hệ sinh thái gồm các start up
được đào tạo, tập huấn trong chương trình thúc đẩy kinh doanh (Business Accelerators -
BA) để thu hút vốn đầu tư mạo hiểm từ cả trong nước và nước ngoài nhằm xây dựng hệ
-48-
thống doanh nghiệp KH&CN thành công. Theo đó, doanh nghiệp phải có sản phẩm đáp
ứng nhu cầu thị trường, mô hình, chiến lược kinh doanh khả thi và có đội ngũ đủ năng lực
thực hiện.
Tuy nhiên, các văn bản và chương trình nêu trên chưa hỗ trợ được toàn bộ quá trình
phát triển phát triển của DNKN KH&CN từ việc hình thành ý tưởng, phát triển ý tưởng
thành kế hoạch kinh doanh đến tiếp cận thị trường và mở rộng quy mô. Hầu hết các
chương trình chỉ hỗ trợ khi doanh nghiệp đã được thành lập và hoạt động được một thời
gian chứ chưa hỗ trợ bước hình thành và phát triển ý tưởng khởi nghiệp.
-49-
PHỤ LỤC 4. CÁC CHƯƠNG TRÌNH HỖ TRỢ KHỞI NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Trong những năm gần đây, việc hỗ trợ cho những doanh nghiệp công nghệ khởi
nghiệp luôn nhận được nhiều sự quan tâm của Bộ Khoa học và Công nghệ bởi đây là nhóm
đối tượng rất năng động và nhạy bén với những thay đổi của thị trường cũng như có những
sản phẩm bắt kịp với xu thế công nghệ của thế giới. Thực tế trong thời gian qua, Bộ đã tỏ
rõ quyết tâm phát triển doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp công nghệ tại Việt Nam với
rất nhiều các chương trình hỗ trợ thiết thực và có quy mô lớn:
Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu khoa học và công nghệ”
(FIRST) giữa Bộ KH&CN và Ngân hàng thế giới hướng đến mục tiêu hỗ trợ nâng cao
năng suất, khả năng cạnh tranh và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam thông
qua việc tăng cường hiệu quả hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công
nghệ, thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động sáng tạo, đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp để
tạo thêm giá trị gia tăng cho nền kinh tế. FIRST có nhiều cấu phần, trong đó có cấu phần
hỗ trợ DNKN KH&CN để thương mại hóa sản phẩm nghiên cứu của mình.
Chương trình Đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam – Phần Lan (IPP) đang khởi động
giai đoạn 2 hầu hết hướng đến việc hỗ trợ các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động đổi mới
sáng tạo và các doanh nghiệp KH&CN khởi nghiệp, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp. IPP hỗ
trợ cả bằng tài chính và các khóa đào tạo, tập huấn, tư vấn có sự tham gia của các chuyên
gia trong nước và quốc tế nhằm nâng cao năng lực cho các đối tượng thụ hưởng.
Dự án “Dự án Hỗ trợ xây dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo
doanh nghiệp” Việt – Bỉ (BIPP) hỗ trợ Bộ KH&CN xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý
để thúc đẩy việc thành lập và vận hành các vườn ươm KH&CN nhằm tăng cường khu vực
doanh nghiệp KH&CN vừa và nhỏ; Hỗ trợ hoạt động cho một cơ sở ươm tạo doanh nghiệp
KH&CN tại Hà Nội và tại TP HCM; Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, các
doanh nghiệp hiện đang hoạt động, đặc biệt là các doanh nghiệp tiềm năng trở thành
Doanh nghiệp KH&CN; Cộng đồng KH&CN, bao gồm khoảng 1500 tổ chức KH&CN,…
Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia (NATIF) và Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
(Chương trình 592) cũng có những nội dung hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp KH&CN
-50-
khởi nghiệp để hoàn thiện công nghệ, sản phẩm của mình cũng như sản xuất thử nghiệm
các sản phẩm đó trước khi đưa đến thị trường.
Đề án “Thương mại hóa công nghệ theo mô hình Thung lũng Silicon tại Việt Nam”
do Bộ KH&CN giao Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp KH&CN nghiên cứu,
triển khai từ năm 2013. Mục tiêu cơ bản của Đề án là tạo ra một hệ sinh thái gồm các start
up được đào tạo, tập huấn trong chương trình thúc đẩy kinh doanh (Business Accelerators -
BA) để thu hút vốn ĐTMH từ cả trong nước và nước ngoài nhằm xây dựng hệ thống doanh
nghiệp KH&CN thành công. Theo đó, doanh nghiệp phải có sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị
trường, mô hình, chiến lược kinh doanh khả thi và có đội ngũ đủ năng lực thực hiện.
Song song với các chương trình hỗ trợ trên, Cục Phát triển thị trường và doanh
nghiệp KH&CN cũng đã phối hợp với các đối tác nước ngoài để tổ chức thành công các
cuộc thi khởi nghiệp như “Khởi nghiệp cùng Israel” – cuộc thi đã chọn ra 4 doanh nghiệp
công nghệ khởi nghiệp xuất sắc để cùng với đại diện của Bộ sang Israel để thăm quan, và
học tập các mô hình khởi nghiệp thành công tại Israel. Các doanh nghiệp này sau khi trở về
đã hỗ trợ Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức rất thành công hội thảo chia sẻ kinh nghiệm
khởi nghiệp với sự tham gia của hơn 400 các bạn trẻ đam mê khởi nghiệp. Một cuôc thi
khác mang tên Leader in Innovation Fellowships được phối hợp với Viện hàn lâm kỹ thuật
hoàng gia Anh nhằm hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học.
Hiện nay 14 nhà khao học với những dự án công nghệ giàu tiềm năng thương mại hóa đã
sang Vương quốc Anh để học tập kinh nghiệm và cách thức thương mại hóa sản phẩm
công nghệ. Đây đều là những cuộc thi khởi nghiệp công nghệ đã tạo được ấn tượng tốt với
cộng đồng khởi nghiệp và sẽ trở thành các hoạt động thường niên của Bộ.
Hiện nay, rất nhiều các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp công nghệ khởi nghiệp khác
cũng đang được Bộ triển khai thực hiện như: sự kiện Ngày hội Khởi nghiệp công nghệ
Việt Nam nhằm thu hút và kết nối các nhà đầu tư, các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp với các
DNKN với sản phẩm công nghệ tiềm năng; dự án xây dựng cổng thông tin điện tử kết nối
các chủ thể của HSTKN; hay xây dựng thí điểm mạng lưới các cơ sở ươm tạo, thúc đẩy
kinh doanh cho DNKN và các quỹ hỗ trợ khởi nghiệp tại các trường đại học, viện nghiên
cứu với đối tác là Đại học Kỹ thuật Swinburne (Úc).
-51-
PHỤ LỤC 5. Ý KIẾN CỦA ĐẠI DIỆN QUỸ IDG VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ MẠO HIỂM
(Phỏng vấn anh Nguyễn Hồng Trường – Phó Chủ tịch Quỹ IDG Việt Nam)
Một vài nét về IDG và ĐTMH
Cổ đông chính của IDG - tập đoàn dữ liệu quốc tế, vốn là 1 công ty truyền thông –
có hệ thống xuất bản ở 80 quốc gia trên thế giới với khoảng 300 đầu ấn phẩm. IDG có hệ
thống: IDG events, IDG media và IDG ventures.
Thông thường, quỹ ĐTMH tính địa phương cao, đổi mới chỉ ở một chỗ nhưng có
một số quỹ, trong đó có IDG hoạt động toàn cầu.
IDG Ventures Việt Nam là công ty quản lý quỹ, là một pháp nhân độc lập. IDG là
quỹ của Mỹ nhưng khởi sự ở Trung Quốc, gần như là quỹ ĐTMH đầu tiên ở Trung Quốc,
cách đây khoảng 15 năm (tỷ phú Mc Govern vào Trung Quốc mở quỹ đầu tiên). Dự định
dựng một quỹ liên kết với chính quyền Thượng Hải nhưng thất bại vì vênh giữa hai bên.
Trung Quốc thời điểm đó có rất nhiều các quy định về đầu tư nước ngoài, ngoại tệ; vì vậy,
thành lập quỹ đầu tiên rất khó khăn. Sau khi quỹ dựng xong, nhiều công ty nhận được vốn
từ IDG rất thành công ở thời điểm hiện tại: Baidu, Focus media…
Sau khi thành công, IDG mở quỹ ở Mỹ. Việt Nam là quỹ thứ 3 của IDG – IDG
đánh giá vai trò của Việt Nam rất cao, nhận định đây là mảnh đất tiềm năng; sau đó là Ấn
Độ, Hàn Quốc… Mạng lưới của IDG tính theo quốc gia là 6 nước, tính theo địa bàn hoạt
động thì khá nhiều (Ví dụ: IDG Việt Nam đầu tư ở Mỹ, Canada, Châu Á). Mỗi nước có thể
gây dựng vài quỹ. Trung Quốc hiện tại có 6 quỹ (nhiều nhất). VN hiện tại có 1 túi (100
triệu USD), hiện đang huy động túi thứ 2 (150 triệu).
Tổng kết 3 điều: Để làm quỹ
(i) Đòi hỏi sự phát triển về thể chế thị trường rất cao
Lịch sử phát triển của doanh nghiệp và định chế tài chính:
- Hình thức đầu tiên của kinh doanh: thương nhân (mua rẻ, bán đắt) => các công ty hợp
danh => công ty cổ phần (hình thức cao nhất)
- Định chế tài chính: quỹ là mô hình xuất hiện sau cùng khi mà thị trường trưởng thành đến
một mức độ nhất định: một người bỏ tiền nhưng lại để một người khác quản lý.
-52-
(ii) Đòi hỏi độ trưởng thành về mặt pháp lý
Tiền từ quỹ chảy vào một công ty, số tiền đó thành cổ phần trong công ty của người
khác. Vì vậy, những vấn đề về pháp lý phải được xử lý sao cho những người nhận được
vốn họ không có rủi ro, và phải bảo vệ được cổ đông nên thông thường các quỹ ĐTMH
chiếm cổ phần thiểu số (<50%), nếu quỹ ĐTMH chiếm cổ phần >50% thì những người
sáng lập không còn động lực để làm.
Với mối quan hệ phức tạp: General partner – limited partner + các công ty được
đầu tư nên nảy sinh nhiều tranh chấp, mâu thuẫn; đòi hỏi phải có môi trường pháp lý thuận
lợi cho việc giải quyết những tranh chấp này.
IDG 10 năm ở Việt Nam đưa ra rất nhiều khái niệm: ĐTMH, cổ phiếu ưu đãi hoàn
lại mà trước đây chưa bao giờ có.
(iii) Đòi hỏi một chuỗi giá trị
Mô hình ĐTMH ở Silicon Valley: hội đủ toàn bộ chuỗi giá trị (2/5 các trường đại
học top 5 của Mỹ, các ngân hàng, quỹ đầu tư, nhân sự, đổi mới sáng tạo diễn ra hàng ngày,
các sự kiện văn hóa, kinh tế, giao lưu về tư tưởng hội tụ ở San Fransico…) => nếu chỉ có 1
mình quỹ thì sẽ không làm được.
Tại sao VN là nước thứ 3 IDG mở quỹ: bản thân Hà Nội giống như một thung lũng
Silicon thu nhỏ: có ngân hàng, các trường đại học, nhân tài, chính phủ, những sáng lập
viên… Yếu tố quan trọng hàng đầu là chính phủ và trường đại học. Xét về bản chất của
ngành: trường đại học quan trọng hơn Chính phủ. Ở Mỹ, công lớn nhất của Chính phủ
không phải tạo ra thể chế mà là tạo ra môi trường đại học đỉnh cao. Ngân sách của Chính
phủ Mỹ bỏ vào các trường ĐH, các nghiên cứu ở trường ĐH là cao nhất. Chế độ Giáo sư ở
Mỹ: phải gọi được vốn… (1 năm phải gọi được 500.000 USD mới đảm bảo qua được trợ
lý giáo sư, giáo sư…=> nhìn ra sinh viên giỏi để làm nghiên cứu đổi mới sáng tạo). Rất
nhiều nhà đầu tư thiên thần ở Mỹ là các giáo sư. Các công ty lớn Google, Facebook đều có
tiền đầu tư của các Giáo sư.
Vấn đề ở Việt Nam: mắc ở khúc Đại học. Kinh nghiệm các nước đi sau Mỹ:
Singapore, Trung Quốc cũng không đuổi kịp Mỹ phải đưa Chính phủ vào để tạo môi
trường thể hiện qua các loại sáng kiến điển hình:
-53-
- thuế incentive là công cụ đầu tiên, tuy nhiên trên góc độ kinh doanh không có nhiều ý
nghĩa (1-10 năm đầu thường doanh nghiệp chưa có lãi => ko có tiền đóng thuế);
- giá rẻ để thuê mặt bằng;
- công cụ tạo ra ưu đãi: free tax zone, khu công nghiệp
Những người làm trong ngành start-ups không cần nhiều mặt bằng nhưng có thể có
ý nghĩa: tiền về băng thông, đường truyền; hỗ trợ về đào tạo (doanh nghiệp mới khởi
nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm…).
- vốn mồi: Chính phủ có nhiều cách để làm vốn mồi như trợ cấp, cho vay ưu đãi, chính phủ
bỏ tiền làm cổ đông thông qua Quỹ của chính phủ; công – tư đối ứng
=> Chính phủ phải có sứ mệnh vừa kích thích được đổi mới sáng tạo, vừa chứng minh
được hiệu quả => bài toán: Đổi mới sáng tạo làm sao đòi hiệu quả trong 5 đến 10 năm? Vì
vậy, cần thay đổi tư duy
Ví dụ: Trường hợp của IDG: chỉ có 100 triệu, số tiền nhỏ nhưng lại đầu tư cho rất
nhiều công ty CNTT thành công ở VN. IDG đầu tư vào hơn 40 doanh nghiệp ở Việt Nam,
hiện thoái vốn (bán công ty cho người khác) khoảng 1/3, còn vốn 2/3. Thu lại tính trên đầu
công ty, tỷ suất hoàn vốn (return of investment) lên đến 100 lần.
Có những công ty ngay đến năm thứ 2 đã có lãi nhưng không bán được vì định giá
theo hệ số nhân. Không nhân lợi nhuận bao nhiêu lần mà nhân doanh thu bao nhiêu lần; có
những công ty có doanh thu nhưng chưa có lợi nhuận. Bởi vì các công ty đã phát triển rồi
thì mô hình tuyến tính, các công ty có vốn mạo hiểm thì doanh thu hình J-curve.
Một số vấn đề về chính sách
a) Vấn đề đăng ký thành lập Quỹ theo PL VN
IDG Ventures Việt Nam đăng ký qua Ủy ban Chứng khoán, với tư cách là văn
phòng đại diện, khác với quỹ trong nước. Là pháp nhân nước ngoài hoạt động tại VN. Nên
có chính sách: Đăng ký thành lập Quỹ theo quy định của Luật Doanh nghiệp, tức là đầu tư
nước ngoài, đầu tư trong nước là như nhau.
b) Vấn đề huy động vốn trong nước
-54-
Điều này phụ thuộc vào mức độ chịu rủi ro của người góp vốn. Ý tưởng tốt, nhưng
trên thực tế rất vênh: cùng một khoản vốn nhưng nhà đầu tư sẽ chọn chỗ nào có mức thanh
khoản cao hơn, ĐTMH thường là 10 năm – người thừa tiền ở VN không thiếu nhưng họ lại
muốn bỏ tiền vào những chỗ khác có tính thanh khoản cao.
c) Vấn đề chính danh
- Trong thành lập:
Điều kiện nào để chính danh? – có chủ trương đăng ký thành lập các quỹ (túi tiền)
là pháp nhân theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư 2014 thời gian, thủ tục
đơn giản hơn, các điều kiện về năng lực giảm đi. Trong việc tạo chính danh, trong giai
đoạn đầu mối quan hệ với các cơ quan NN chưa rõ nét => có Bộ KHCN đứng ra hỗ trợ để
được đăng ký, là đầu mối tiếp nhận, thụ lý hồ sơ (theo quy định pháp luật Việt Nam) =>
Nhận định: chính sách tốt
- Trong hoạt động, thế nào là thuận lợi?
Không đầu tư quá 51%, Luật Chứng khoán cũ quy định không đầu tư quá 30% =>
đưa ra chính sách mới: thỏa thuận đầu tư không hạn chế, nghĩa là Luật không cấm, vận
hành thế nào tùy từng trường hợp => phải có hợp đồng thỏa thuận đầu tư để làm căn cứ để
thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của hai bên. Minh bạch tài chính thể hiện qua kiểm
toán hàng năm (theo chuẩn quốc tế) => Nhận định: chính sách tốt
Trong hoạt động có ưu đãi gì? Ở Việt Nam có ưu đãi đối với DNKN công nghệ
cao, thì cũng ưu đãi quỹ giống như doanh nghiệp loại này => Nhận định: chính sách tốt
Trong chi phí hoạt động thì chi phí nặng nhất, mất nhiều công sức nhất: chi phí cho
con người (nhân viên của quỹ), mỗi quỹ 10-20 người; chi phí luật sư, chi phí đi lại
Thoái vốn: Chính sách huy động vốn thêm ở trong nước. Ngoài số vốn trong và
ngoài nước đã đăng ký thì các quỹ có thể huy động thêmLưu ý việc chuyển tiền ra nước
ngoài. Muốn mở rộng thêm chức năng của ngân hàng trong phần thoái vốn (mua lại công
ty) => nhận định: không cần
Các chính sách khuyến khích bên cung: tuyên truyền, đào tạo, gặp gỡ trao đổi ý
tưởng kinh doanh, hỗ trợ các nhà khoa học có tinh thần kinh doanh=> Nhận định: nếu Bộ
KHCN có ngân sách, nhân lực làm cơ sở dữ liệu quốc gia về đổi mới sáng tạo thì tốt hơn.
-55-
Vai trò của đồng tiền ngân sách:
Nhận định: (i) Phải bỏ nguyên tắc bảo toàn vốn; (ii) Phải có nhà đầu tư chuyên
nghiệp – nhà quản lý quỹ
=> Khuyến nghị: Nhà nước nên làm đúng với quy tắc, thể chế của thị trường đầu tư
thông thường, ký hợp đồng với quản lý quỹ, hàng năm mất 2% cho các nhà quản lý quỹ.
Ví dụ: Nhà nước bỏ 20 triệu khi nào có lãi nhà nước sẽ được 80% số tiền đó, quỹ sẽ
được 20%; 10 năm sau 20 triệu thành 30 triệu. Nhà nước là limited partner, nhà nước vẫn
được chia về 20 triệu (bảo toàn vốn), lãi 10 triệu thì NN sẽ được 80% của 10 triệu. Nhà
nước không nên lo bảo toàn vốn, đầu tư đúng theo thông lệ quốc tế.
Phải xác định rõ mục đích chính của nhà nước khi tham gia là gì: bảo toàn vốn hay
là khuyến khích đổi mới.
Kết luận:
- Nhà nước tham gia vào kết nối sáng tạo thị trường, xây dựng ý tưởng kinh doanh
cùng doanh nghiệp => đi thêm một bước, ứng xử với đồng tiền đầu tư như ứng xử với
đồng tiền cho KH&CN, để giải phóng tư tưởng bảo toàn vốn;
- Ủng hộ một số chính sách đưa ra như: Chính danh cho quỹ, tạo môi trường kinh
doanh và môi trường pháp lý (ưu đãi đúng sắc thuế, các chương trình hỗ trợ đào tạo…);
xây dựng thêm cơ sở dữ liệu quốc gia về đổi mới sáng tạo;
- Nhà nước nên giao tiền cho người biết tiêu, bỏ nguyên tắc bảo toàn vốn, đầu tư
đúng theo thể chế thị trường.
-56-
PHỤ LỤC 6. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐỐI VỚI ĐTMH
1. Úc
Nghiên cứu của Chính phủ khuyến nghị chính sách khuyến khích hoạt động ĐTMH
có sự tham gia của cả hai khu vực công và tư. Một số sáng kiến phải kể đến:
+ ESVCLP (Early Stage Venture Capital Limited Partnership) – 2007: ESVCLP
initiative là một chương trình của chính phủ hỗ trợ cho tất cả những nhà đầu tư (kể cả nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài, cá nhân hoặc tổ chức) khi tham gia vào các quỹ đầu tư
mạo hiểm một quyền được miễn thuế cổ tức hoặc tiền lãi được tạo ra từ các quỹ đó. Các lợi
ích về thuế có hiệu lực đối với nhà đầu tư chỉ khi các khoản đầu tư mang lại lợi nhuận.
Điểm hạn chế: Đáng chú ý ở đây là nhà đầu tư bị đặt vào rủi ro với lý lẽ rằng họ
không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài chính từ những tổn thất do ESVCLP
gây ra, điều này có thể khiến nhà đầu tư có thể ngần ngại khi đầu tư
Đánh giá chung: Sự tác động của sáng kiến này khá yếu ớt.
+ Chương trình IIF3 hướng tới sự thiết lập các quỹ mới để đầu tư vào những công
ty ở giai đoạn đầu thương mại hóa kết quả nghiên cứu của Úc, sẽ hợp tác đầu tư với nguồn
vốn tư nhân với tỷ lệ 50:50 và mong muốn xây dựng 200 triệu đô Úc trong giai đoạn 5 năm
với sự hình thành của 10 quỹ ĐTMH mới ở giai đoạn sơ khởi.
IIF được thành lập 3 lần dưới sáng kiến IIF ban đầu để thúc đẩy thương mại hóa ở
Úc. IIF Round 1 và 2 được thành lập với 5 quỹ (130 triệu đô Úc vào năm 1998) và 4 quỹ
(91 triệu đô Úc vào năm 2001). IIF Round 3 được thành lập với 7 quỹ (140 triệu đô Úc đến
2011) được hỗ trợ bởi chính phủ Úc. IIF cũng mở rộng với Round 4 sau 2012.
Nhiều hạn chế của chương trình ESVCLP đã bị loại bỏ bao gồm những yêu cầu
đối với nhà đầu tư phải cư trú ở Úc, giới hạn ít nhất về lượng tiền của quỹ là 10 triệu đô
Úc, giới hạn về việc bổ nhiệm các kiểm toán viên. Chương trình VCLP không có giới hạn
về quy mô của quỹ và nó cũng được áp dụng đối với hoạt động của vốn tư nhân ở những
giai đoạn về sau. Sức hút chính của chương trình này là những nhà đầu tư nước ngoài có
lợi từ việc miễn thuế đối với lợi nhuận đầu tư và những đối tác chung thì sẽ nộp thuế trên
lãi suất thực chứ không phải nộp thuế trên thu nhập bình thường.
-57-
Đánh giá chung: Ở Úc có những chương trình cho đầu tư mạo hiểm có sự tham gia
của cả hai khu vực công và tư. Ví dụ: Chương trình IIF mở rộng và chương trình ưu đãi
thuế ESVCLP. Tuy nhiên, sự can thiệp của Chính phủ trong những năm 2007-2008 đối với
hoạt động ĐTMH vẫn còn hạn chế, chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư; ở giai đoạn sau thì
sự can thiệp của Chính phủ được thể hiện rõ rệt hơn thông qua một loạt các chương trình
IIF. Nhìn chung, những chính sách của Chính phủ Úc đã có những ảnh hưởng nhất định tới
mức độ của hoạt động ĐTMH những tác động đó có thể ít hay nhiều qua từng giai đoạn.
Những chính sách đó cần thời gian để chứng tỏ mức độ tác động của chúng.
2. Singapore
Chính phủ Singapore cũng áp dụng cách thức can thiệp gián tiếp và đạt được những
thành công đáng để các quốc gia khác học tập. Là một tập đoàn thuộc sở hữu của Chính
phủ, nhưng Temasek thành lập từ năm 1974 lại hoạt động giống như một tập đoàn tư nhân
và được khẳng định là một nhà đầu tư và một cổ đông năng động. Temasek thuộc quyền
quản lý của khu vực tư nhân nên quá trình rót vốn khá chuyên nghiệp, chủ yếu là mua cổ
phần các công ty kinh doanh dựa trên tầm nhìn, năng lực thẩm định và kỹ năng giao dịch
đàm phán chuyên sâu. Tổng danh mục vốn đầu tư của Temasek tính đến 31/03/2014 là 223
tỷ đô la Singapore, tăng hơn 2 lần so với năm 2004 (90 tỷ đô la Singapore), trong đó 31%
số vốn được đầu tư tại Singapore, 41% tại các nước Châu Á và 28% tại các khu vực khác
trên toàn thế giới20. Thành công của Temasek được đúc kết bởi các yếu tố: (i) Ngay từ khi
thành lập Temasek, Chính phủ Singapore đã xác định phải giao cho khu vực tư nhân quản
lý vì chỉ có họ mới có đủ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm để điều hành Temasek một
cách tốt nhất; (ii) Singapore có ưu thế về thể chế, pháp luật minh bạch21, cơ chế thị trường
hiện đại tạo điều kiện cho Temasek phát triển; (iii) Temasek hoạt động dựa trên nền tảng
20 TS Huy Nguyên, Kinh nghiệm các nước về mô hình quản lý vốn nhà nước. Nguồn: http://www.scic.vn/index.php/danh-cho-ngu-i-d-i-di-n/57-pressrelease/press-reference/780-tin-tham- khao-1.html 21 Theo hiến pháp Singapore, tổng thống và chính phủ đều không có quyền can dự vào các quyết định kinh doanh của Temasek, trừ khi để bảo vệ dự trữ tài chính ban đầu của công ty này. Bộ Tài chính Singapore đóng vai trò là cổ đông của Temasek. Quyền chỉ định, tái chỉ định hoặc sa thải các thành viên hội đồng quản trị của Temasek buộc phải thông qua sự chấp thuận của tổng thống. Việc chỉ định hay sa thải CEO của hội đồng quản trị Temasek cũng phải có sự đồng thuận của tổng thống.
cạnh tranh thị trường nên luôn nỗ lực để giữ vững chỗ đứng.
-58-
3. Thụy Điển
Những quỹ ĐTMH công như “Atle” và “Bure” tạo ra sự phát triển của thị trường
vốn mạo hiểm và khuyến khích những hoạt động khởi nghiệp. Tuy nhiên, những quỹ
ĐTMH công được thiết kế để khuyến khích những thực thể/khối đầu tư kinh phí lớn và sau
đó là khuyến khích đầu tư vào những dự án sau giai đoạn thâm dụng vốn. Đây không phải
Quỹ
Industrifonden
Fouriertransform
Innovationsbron
ALMI Invest
Inlandsinnovation
Thành lập năm
1979
2009
2005
2009
2010
Đối tượng đầu tư vốn
các SMEs ở Thụy Điển với tiềm năng tăng trưởng mang tầm quốc tế
Đầu tư vào doanh nghiệp ở giai đoạn sơ khỏi và trưởng thành
những dự án R&D định hướng thương mại hóa trong cụm sản xuất ô tô => ngành công nghiệp ô tô
Những dự án ở giai đoạn sơ khởi (dự án R&D và dự án đổi mới trên tảng nền công nghệ)
Những công ty tiềm nhỏ với năng tăng trưởng dài hạn ở giai đoạn mở rộng và các doanh nghiệp start-up
Vai trò của Chính phủ
Hợp tác đầu tư với tư nhân
Hợp tác đầu tư với những nhà đầu tư vùng
Hoạt động như một nhà đầu tư thiểu số
Hoạt động đầu tư chính
tận
tư vào - Đầu doanh những nghiệp sau khi khởi nghiệp cần hỗ trợ để phát triển sản phẩm
Khuyến khích thương mại hóa và dụng nguồn lực để đầu tư vào R&D và tạo ra tri thức
Đầu tư từ giai đoạn trưởng thành và cũng nhấn mạnh vai trọng ở trò quan tương lai trong việc hỗ trợ tái cấu trúc và spin-off của các công ty trong giai đoạn tăng trưởng và trưởng thành
- Đầu tư vào việc mở rộng doanh nghiệp cần thêm vốn để phát triển
Đặc thù
Gia tăng nguồn cung về tài chính cho khu vực phía Bắc Thụy Điển
đầu tư dài hạn mà không có bất cứ sự giới hạn nào về thời gian, theo đuổi lợi nhuận hàng năm từ 10-15%.
Tất cả lợi nhuận có được từ những hoạt động đầu tư thì được tái đầu tư vào những dự án mới, giữ nguyên vốn ban đầu trong điều kiện thực tế
Đầu tư vốn vào những ý tưởng chuyên sâu về tri thức để nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia và phát triển bền vững
là khuynh hướng ban đầu của những quỹ ĐTMH công.
Nguồn: Jin Joo Ham (2014), “Entrepreneurial Financing: Program Review and Policy Perspective”, STI Policy Review_Vol. 5, No 1, OECD Pulishing