ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ HOÀI THU
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN
HÀNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ HOÀI THU
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
CỦA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN
HÀNH
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Thu Hằng
Thái Nguyên – 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoài Thu
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám
hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học – Đại học
Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá
trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS.TS Dương Thu Hằng đã luôn tận tình hướng dẫn, quan tâm trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hoài Thu
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chương trình CT
Dạy học DH
Học sinh HS
Giáo dục GD
Giáo viên GV
Phổ thông PT
Trung học cơ sở THCS
Trung học phổ thông THPT
Sách giáo khoa SGK
iv
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI ............................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lí luận về văn hóa truyền thống và giá trị của nó trong tác phẩm
văn học ................................................................................................................ 8
1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống .................. 8
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và tác phẩm văn học ..................................... 10
1.1.3. Diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kỳ trung đại ........................ 12
1.2. Hệ giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong văn học Việt Nam thời kỳ
trung đại ............................................................................................................. 19
1.2.1. Sự khoan dung ......................................................................................... 19
1.2.2. Tinh thần yêu nước .................................................................................. 23
1.3. Thực trạng dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong nhà
trường phổ thông ............................................................................................... 26
1.3.1. Đặc điểm của chương trình Ngữ văn phổ thông, Sách giáo khoa hiện hành 26
1.3.2. Những khó khăn cơ bản trong dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam
trung đại trong nhà trường phổ thông ............................................................... 29
v
Chương 2 NHẬN DIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
TIÊU BIỂU TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI
TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN
HÀNH ............................................................................................................... 32
2.1. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do ............................................... 32
2.1.1. Yêu nước là tự hào dân tộc ..................................................................... 32
2.1.2. Truyền thống căm thù giặc sâu sắc ......................................................... 36
2.1.3. Truyền thống yêu nước thể hiện ở khát vọng độc lập ............................. 40
2.1.4. Truyền thống yêu quê hương, đất nước .................................................. 42
2.2. Truyền thố ng nhân đa ̣o ............................................................................... 44
2.2.1. Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người .............................................. 44
2.2.2. Đồng tình với khát vọng của con người .................................................. 47
2.2.3. Đồng cảm, xót thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội
phong kiến ......................................................................................................... 49
2.2.4. Hướng tới những giải pháp đem đến hạnh phúc cho con người, cuộc sống.
Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người ..................... 54
2.3. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên ................................... 57
2.3.1. Thiên nhiên giản dị, thơ mộng giàu sức sống ......................................... 58
2.3.2. Thiên nhiên chứa chất tâm trạng đa chiều của con người ..................... 62 Chương 3 TÍCH HỢP GIÁ O DỤC GIÁ TRI ̣ VĂN HÓ A TRUYỀ N THỐ NG
TRONG DẠY- HỌC CÁ C TÁ C PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜ I TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
........................................................................................................................... 66
3.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học tích hợp trong dạy học tác phẩm
văn học Việt Nam thời trung đại ....................................................................... 66
3.1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 66
3.1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 67
vi
3.2. Thiết kế một số chủ đề tiêu biểu theo hướng tích hợp giáo dục văn hóa truyền
thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong nhà trường PT
........................................................................................................................... 69
3.2.1. Nhóm chủ đề yêu nước ............................................................................ 70
3.2.2. Nhóm chủ đề nhân đạo..........................................................................73
3.3. Các bước chuẩn bị dạy học theo chủ đề tích hợp ....................................... 75
3.3.1. Phân chia bài học; cấu trúc lại chương trình ......................................... 75
3.3.2. Xác định thời lượng thực hiện dạy học một chủ đề tích hợp .................. 76
3.3.3. Xây dựng mục tiêu, nội dung của chủ đề tích hợp .................................. 76
3.3.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập kiểm tra theo chủ đề tích hợp ........ 77
3.4. Đề xuất một số chủ đề tích hợp tiêu biểu ................................................... 77
3.4.1. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc .... 77
3.4.2. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong
xã hội phong kiến .............................................................................................. 84
3.4.3. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu ...... 88
3.4.4. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình ..................... 91
3.4.5. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên .................... 94
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 102
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 107
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá không chỉ mang lại thời cơ
lớn mà còn tạo ra những thách thức đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với
các nước đang phát triển. Trước xu thế toàn cầu hoá, văn hoá Việt Nam có cơ
hội giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới. Đây cũng là giai đoạn mà
các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện với những tác động
tiêu cực của quá trình hội nhập. Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc là những nhu cầu tất yếu, khách quan để một dân tộc có thể tồn tại và
phát triển trong xu thế toàn cầu hoá. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan,
lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” [48].
Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là hai mặt thống nhất,
có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là làm thế
nào để nền văn hóa dân tộc vừa có thể tiếp thu được các giá trị thời đại, tinh
hoa văn hoá nhân loại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc vốn có; tiếp tục phát
triển trong sự giao lưu với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan, không bị
nhấn chìm vào các nền văn hóa khác hoặc trở thành “cái bóng mờ” của dân tộc
khác, nền văn hoá khác.
Giáo dục việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc cho
thế hệ trẻ là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định mục tiêu đó như sau: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [58]. Tại
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng vẫn tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...; có nền văn hóa tiên tiến, đậm
2
đà bản sắc dân tộc...” và để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng cũng nhấn mạnh
đến nhiệm vụ của văn hóa là phải “gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời
sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng
của phát triển”. [48]
Trong chương trình giáo du ̣c đào tạo phổ thông, môn Ngữ văn có vi ̣ trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, tài năng con người.
Không chỉ rèn luyện, phát triển năng lực tư duy logic, trí tưởng tượng phong phú,
sáng tạo, các kỹ năng phát triển và sử dụng ngôn ngữ, văn học còn hướng đối
tượng giáo dục biết thẩm thấu, cảm thụ giá trị đích thực của nghệ thuật, hướng tới
chân - thiện - mỹ của văn chương với cách ứng xử và hành động trong thực tiễn
đời sống xã hội.
Những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc được thể hiện rất
đa dạng và phong phú trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại nhưng hiện
nay chưa đươ ̣c quan tâm tìm hiểu. Vì vậy, đề tài này nếu được thực hiện sẽ có ý
nghĩa không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ nói riêng, góp
phần đổi mới giáo dục nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Văn hóa và những giá trị văn hó a truyền thố ng là mô ̣t vấn đề đã đươ ̣c đề câ ̣p rất nhiều. Về văn hóa không thể không nhắc tới cuốn Việt Nam văn hóa sử
cương của Đào Duy Anh in lần đầu tiên năm 1938 được ấn hành bởi Quan Hải
Tùng Thư. Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: Cơ sở văn
hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế của Nguyễn Chí Bền, Văn hóa truyền thống dân tộc với việc giáo
dục thế hệ trẻ củ a Nguyễn Hồ ng Hà, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập củ a Ngô Đức Thịnh,
Văn hóa gia đình Việt Nam của Vũ Gia Khánh…
Trong bài viết Một số vấn đề lí luận nghiên cứ u hê ̣ giá tri ̣ văn hó a truyền thống trong đổi mớ i và hội nhập, tác giả Ngô Đứ c Thi ̣nh cho rằng: “Chúng ta bảo
3
tồn văn hoá truyền thống hay các giá trị văn hoá truyền thống phải trên nguyên
tắc phát triển, vì mục tiêu phát triển. Nói cách khác, cái gì trong kho vốn giá trị
truyền thống đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển thì chúng ta bảo tồn, phát
huy, còn cái nào cản trở, kìm hãm sự phát triển thì cần hạn chế và dần loại trừ. Do
vậy, nguyên tắc phát triển phải là nguyên tắc mang ý nghĩa chỉ đạo cho việc bảo
tồn, phát huy giá trị truyền thống”. [42]
Bàn về nhiê ̣m vu ̣ Giữ gìn và phá t huy giá tri ̣ truyền thống của con ngườ i Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khá ch quan trong sự nghiê ̣p công nghiê ̣p hó a, hiê ̣n
đại hó a, tác giả Trương Hoài Phương viết: “Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá
trị truyền thống của con người Việt Nam là yêu cầu tất yếu khách quan trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn thực hiện đươ ̣c nhiê ̣m vu ̣ đó cần có hai nguyên tắc. Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức
về các giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Thứ hai, thường xuyên quan
tâm, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các
giá trị truyền thống của con người Việt Nam” [32, tr 63].
Trong bài viết Bà n thêm về vấn đề truyền thống văn hó a Viê ̣t Nam, giáo sư Trần Quốc Vươ ̣ng đã hoạch đi ̣nh ba phương hướ ng, chiến lươ ̣c trong viê ̣c xây dựng nền văn hó a mớ i Việt Nam xã hô ̣i chủ nghĩa. Thứ 1, chiến lược kế thừa tinh hoa truyền thống, hay nói vắn và dễ hiểu, chiến lược bảo tồn. Thứ 2, chiến lược
xóa bỏ những phong tục - tập quán cổ truyền, những lạc hậu, lỗi thời, và những
ảnh hưởng, di hại của văn hóa (đúng hơn: phản văn hóa) đô hộ - thực dân cũ và
mới, gọi là chiến lược cải tạo. Thứ 3, chiến lược xây dựng ý thức hệ mới, nền văn
hóa mới, con người mới Việt Nam, trên nển tảng chủ nghĩa Mác – Lê- nin hay
chính là chiến lược phát triển - đổi mới. [55]
Tác giả Huỳnh Thanh Phương trong bài viết Văn học và văn hó a dân tộc đã
nêu lên mố i quan hê ̣ giữa văn ho ̣c và văn hó a: Văn học biểu hiện văn hóa, cho nên văn học là tấm gương của văn hóa. Ông khẳng đi ̣nh: “Văn học, nghệ thuật cùng với
triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của
4
chỉnh thể cấu trúc văn hóa” [57]. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử
của con người trước thế giới thì văn học là hoạt động lưu giữ thành quả sáng tạo
một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc
cũng như của nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lọc, bảo
tồn và phát triển để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa là chặng
đường tìm kiếm, vừa là nơi định hình những giá trị. Có thể nói văn học là văn hóa
lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.
Trong công trình Nghiên cứ u về những giá tri ̣ văn hóa truyền thố ng trong tá c phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tác giả Dương Thu Hằng nhận định: “Giá trị văn hóa truyền thống là tập hợp những nhân tố tích cực,
phổ biến về tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của
một cộng đồng người nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở
nên ổn định và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một số biểu hiện củ a giá
tri ̣ văn hóa truyền thống đã được đề cập đến như: Tinh thần yêu nước; tinh thần tự
chủ, tự lực, tự cường, ý thức độc lập tự do; tinh thần nhân ái, khoan dung; tinh thần
đoàn kết; tinh thần cần cù, tiết kiệm; tinh thần hiếu học; tinh thần mong muốn cuộc
sống bình dị, yên ổn trong hòa bình, đề cao các giá trị văn hóa làng xã, dòng họ,
gia đình; tinh thần nhẫn nại chịu đựng; giản dị, khiêm tốn, chất phác, thật thà...”
[12, tr 21]. Đó là những giá trị văn hóa truyền thống cơ bản, vô cùng quý báu, đã
tạo nên cốt cách riêng biệt của con người Việt Nam.
Những công trình nghiên cứ u kể trên đã tiếp câ ̣n giá tri ̣ văn hó a ở nhiều phương diê ̣n khác nhau. Tuy nhiên chưa có mô ̣t công trình nào đề câ ̣p đến vấn đề giá tri ̣ củ a văn hó a truyền thố ng trong các tác phẩm văn ho ̣c Viê ̣t Nam trung đa ̣i ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành. Khai thác đề tài giá tri ̣ truyền thố ng trong các tác phẩm văn ho ̣c trung đa ̣i Viê ̣t Nam sẽ bổ sung thêm hướng nghiên cứ u về văn hó a Viê ̣t đồ ng thờ i sẽ gó p phần đổ i mớ i da ̣y - ho ̣c Ngữ văn ở trườ ng phổ thông. Đề tài của chúng tôi kế thừa, tiếp nối những công trình, bài nghiên cứu
trước đó, đồng thời phát triển một số điểm, cung cấp thêm tài liệu tham khảo về
5
dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.
Trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành có 50 tác phẩm/đoạn trích văn ho ̣c Việt Nam trung đại. Trong Sách giáo khoa, Sách giáo viên và Sách
tham khảo, các tác giả đề câ ̣p chủ yếu những vấn đề về nô ̣i dung và nghê ̣ thuâ ̣t. Khi giảng dạy, giáo viên chỉ chú trọng nhấn ma ̣nh nô ̣i dung và các hình thứ c nghê ̣ thuật của tác phẩm mà chưa chú ý tớ i những giá tri ̣ văn hó a truyền thố ng. Đề tài
củ a chúng tôi sẽ đóng góp thêm một hướng khai thác mới trong nội dung giảng
dạy giú p các thầy cô có thể tích hợp giáo du ̣c giá tri ̣ truyền thố ng trong da ̣y và ho ̣c các tác phẩm văn học Viê ̣t Nam trung đa ̣i trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nhận diện những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong tác phẩm
văn học Việt Nam trung đa ̣i ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành. - Cung cấp thêm tri thức, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tác
phẩm văn học thời trung đại và giáo dục nhân cách người học trong nhà trường
phổ thông thông qua việc xây dựng một số chủ đề dạy học theo hướng tích hợp
giáo dục văn hóa truyền thống trong giờ dạy – học Ngữ văn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những giá trị văn hoá truyền thố ng củ a các tác phẩm văn học Việt Nam
trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Các sáng tác văn học Việt Nam thờ i trung đa ̣i có trong chương trình phổ
thông hiện hành.
- Một số vấn đề liên quan đến việc đổi mới dạy – học Ngữ văn trong chương
trình Ngữ văn phổ thông.
6
5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nhận diện những giá trị văn hóa truyền thống của các tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.
- Tích hợp giáo dục giá trị văn hóa truyền thống trong dạy- học các tác
phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông
hiện hành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại các tác phẩm văn học
Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành và tổng hợp các
giá trị văn hóa truyền thống trong các sáng tác đó theo những tiêu chí nhất định.
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Sử dụng phương pháp tiếp cận văn hóa
học để giải mã các giá trị văn hóa tìm ra nền tảng nền tảng hệ giá trị văn hóa truyền
thống của các tác giả văn học Việt Nam trong chương trình phổ thông.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp phương pháp nghiên cứu văn
hóa, nghiên cứu lịch sử - xã hội, lí luận văn học,...trên cơ sở kế thừa và khai thác
thế mạnh của các ngành khoa học khác, tìm hiểu mối quan hệ giữa yếu tố đó và
văn học.
Ngoài ra luận văn của chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu khác
như tổng hợp, phân tích, so sánh...
6. Đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu hê ̣ thố ng các giá tri ̣ văn hó a truyền thố ng tiêu biểu của các tác phẩm văn ho ̣c Việt Nam trung đa ̣i trong chương trình Ngữ văn phổ thông.
7
Trên cơ sở xây dựng một số chủ đề dạy học văn theo hướng tích hợp giáo dục giá trị văn hóa truyền thống, luận văn góp phần đổ i mớ i da ̣y - ho ̣c Ngữ văn trong nhà trườ ng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung đề tài
gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài
Chương 2: Nhận diện những giá trị văn hoá truyền thống cơ bản trong các
tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện
hành
Chương 3: Tích hợp giáo dục giá trị văn hoá truyền thống trong dạy -
học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ
thông
8
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Một số vấn đề lí luận về văn hóa truyền thống và giá trị của nó trong tác
phẩm văn học
1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống
Trước khi tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống, chúng ta cần giới thiệu
khái niệm về văn hóa. Vậy văn hóa là gì? Định nghĩa văn hoá đến nay đã có hàng
trăm các tác giả nổi tiếng của trường phái nhân văn như Dilthey, Casirrer, Arnold,
T. Eliot… đến trường phái thực chứng như Taylor, Malinowski, Boas, Kroeber,
Benedict, Durkheim…. Việc xác định khái niệm văn hóa không hề đơn giản bởi
nó xuất phát từ mục đích, góc độ riêng và các cách tiếp cận để đưa ra khái niệm.
Xét về mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội, hiện nay chúng ta có bốn cách tiếp
cận: tiếp cận giá trị học, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân cách và tiếp cận ký hiệu
học. Trong bốn cách tiếp cận này thì tiếp cận giá trị học có một lịch sử lâu đời.
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội” [39]. Như vậy, với cách định nghĩa này
thì nội hàm của khái niệm văn hóa bao gồm: Thứ nhất, đó là những giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người
và vì con người. Thứ hai, những giá trị mà con người sáng tạo ra đó phải mang
tính nhân tính nghĩa là nó phải mang tính người. Đến năm 1982, tại Hội nghị thế
giới về các chính sách văn hóa đã thông qua tuyên bố: “Trong ý nghĩa rộng nhất,
ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật
chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không
9
chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân
loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [58].
Về giá trị và giá trị văn hóa: giá trị là phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của
con người (tách khỏi động vật) và phát triển cùng đời sống con người như là một
chủng loại có văn hoá. Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của
con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng chân, thiện, mĩ, giúp khẳng
định và nâng cao bản chất người. Giá trị văn hóa là sự khẳng định của con người
với sự tồn tại vật chất, tinh thần của bản thân mình, quan hệ, hành vi, thái độ, khích
lệ, động viên con người sống theo thang giá trị của mình. Giá trị văn hóa truyền
thống là những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn
hóa của một dân tộc, được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong
suốt chiều dài phát triển của lịch sử. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại
trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh
diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm
vật thể và phi vật thể của văn hóa. Nếu giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện
tượng và những thuộc tính của chúng mà có ý nghĩa tích cực đối với xã hội, một
nhóm người và cá nhân, với tư cách là phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi
ích, đồng thời biểu thị niềm tin của con người về những mục đích và phương thức
ứng xử lý tưởng thì giá trị văn hoá là yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và
kết tinh trong quá trình lịch sử của dân tộc và nhân loại. Giá trị văn hóa tuy có ý
nghĩa lâu dài nhưng là phạm trù có tính lịch sử, không phải là vĩnh viễn. Theo thời
gian có những giá trị lạc hậu, lỗi thời sẽ bị mất đi và những giá trị mới sẽ nảy sinh.
Các giá trị văn hóa theo thời gian lịch sử được lưu truyền sẽ trở thành giá
trị văn hóa truyền thống. Vậy giá trị văn hóa truyền thống là gì? Đó là những tư
tưởng, biểu tượng, giá trị và chuẩn mực xã hội hóa những tác phẩm văn hóa được
cộng đồng tin tưởng và mong muốn gìn giữ, truyền đạt và noi theo. Nói đến giá
trị văn hóa truyền thống là nói đến những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn
hóa được lưu truyền, gìn giữ trong quá trình lịch sử. Nhiều học giả, những nhà
10
nghiên cứu về văn hóa đã đúc kết nên những giá trị văn hóa truyền thống rất quý
báu của dân tộc Việt. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, có bảy giá trị mang tính tổng
quát nhất của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc
quan, thương người, vì nghĩa [10, tr 35]. Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa
sử cương cũng nêu lên bảy giá tri ̣ có thể xem là bản sắc văn hóa Việt: Sức ký ức
(trí nhớ tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác); Ham học, thích văn chương; Ít
mộng tưởng (thiết thực); Sức làm việc khó nhọc (cần cù); Giỏi chi ̣u khổ và hay
nhẫn nhục; Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa; Khả
năng “bắt chướ c, thích ứng và dung hòa rất tài” [1, tr 73]… Nếu như các giá trị
văn hóa có ý nghĩa lâu dài nhưng không phải là vĩnh viễn thì giá trị văn hóa truyền
thống là những giá trị tương đối ổn định, tốt đẹp tạo nên bản sắc cho dân tộc đó.
Như vậy, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, các giá trị văn hóa truyền
thống không chỉ có vai trò to lớn đối với sự tồn vong mà còn khẳng định sức sống
mãnh liệt của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngày nay, các giá trị
văn hóa truyền thống dân tộc đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc sẽ tạo
nên sức mạnh trong công cuộc phát triển đất nước và giảm bớt, loại trừ hay ít ra
làm hạn chế không ít những tiêu cực phát sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường.
Một trong những nguồn có thể khai thác và giáo dục giá trị văn hóa truyền thống
đó là thông qua dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình
Ngữ văn phổ thông hiện hành.
1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và tác phẩm văn học
Như trên đã nói, văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều
cách hiểu khác nhau, liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Có thể hiểu, văn hoá là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía
cạnh của đời sống bao quanh con người, tồn tại hữu thức và cả vô thức trong mỗi
cá nhân con người. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhất của cuộc sống cũng mang
dấu hiệu văn hoá.
11
Trên thực tế, văn hóa của bất kỳ quốc gia nào cũng được phản ánh trong
văn học. Văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ và hình tượng để thể hiện đời sống
và xã hội con người. “Văn học ở thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc tổng thể
của văn hoá, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc độ văn hoá
hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn hoá bị xem xét
một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng loại biệt. Bây giờ
đặc trưng loại biệt không phải là không còn, nhưng trong nhiều cách tiếp cận thì
cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hoá đang cho thấy là một hướng tiếp cận có
hiệu quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một thành tố trong cấu trúc của tổng
thể văn hoá nó truyền tải, lưu giữ được những giá trị văn hoá.” [56]. Có thể nói,
trong lịch sử văn học của bất cứ quốc gia nào cũng tồn tại mối quan hệ giữa văn
hoá và văn học. Quan trọng hơn, đó là một mối quan hệ hai chiều khăng khít
không thể tách rời.
Trong thực tế nghiên cứu, suốt một thời gian dài, văn hoá và văn học được
đặt ở vị trí ngang bằng, được coi là quan hệ tương hỗ, tức là nghiên cứu văn hoá
thì dùng văn học làm tư liệu, còn nghiên cứu văn học lại dùng văn hoá để soi chiếu.
Gần đây, sau khi Unesco phát động những thập kỷ phát triển văn hoá cùng sự thay
đổi nhận thức văn hoá, các nhà nghiên cứu đã thống nhất văn hoá là nhân tố chi
phối văn học. Văn hoá học, nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn từ
điểm nhìn văn hóa trở thành một hướng nghiên cứu có sức hút lớn và đã đạt được
những thành quả đáng ghi nhận. Ở Việt Nam, đã có khá nhiều tác giả đi theo hướng
nghiên cứu này tiêu biểu như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thuý,
Trần Nho Thìn… Theo tác giả Đỗ Lai Thuý: “…Văn hoá là một tổng thể, một hệ
thống bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có văn học. Như vậy, văn hoá chi phối văn
học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là quan
hệ bất khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và
năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài hệ thống. Trong khi đó
thì hệ thống, nhất là hệ thống văn hoá, luôn có xu hướng duy trì sự ổn định. Như
12
vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với văn hoá là không thể tránh khỏi.
Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân
nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống” [43].
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau
của văn hoá truyền thống. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn
hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người học là một người thụ
hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn hoá,
văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là một phần
của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu cầu tinh thần
ngày càng phát triển.
1.1.3. Diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kỳ trung đại
1.1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại gần 10 thế kỉ (từ năm 938 đến năm
1858). Trải qua nhiều triều đại, lịch sử Việt Nam chứng kiến không ít những biến
động trong đường lối cai trị cũng như hệ thống cầm quyền. Đời Lí- Trần, tinh thần
đoàn kết của nhân dân được nêu cao nhằm thực hiện hai nhiệm vụ to lớn là bảo vệ
và xây dựng đất nước. Thời kì hoàng kim nhất của lịch sử phong kiến là triều đại
Hậu Lê (1428- 1489) qua ba đời vua trị vì, đặc biệt là đời vua Lê Thánh Tông. Sau
nhà Hậu Lê, xã hội dần bước vào thời kì hỗn loạn: Nội chiến Lê- Mạc (1540- 1592),
Trịnh- Nguyễn phân tranh (1627- 1672), .... Những biến cố khiến mâu thuẫn giữa
nhân dân với giai cấp thống trị ngày càng sâu sắc; đất nước loạn li; kỉ cương đạo
đức phong kiến suy tàn, rạn nứt. Thế kỉ XVIII, trước những biến cố lịch sử, phong
trào khởi nghĩa của nông dân phát triển mạnh mẽ. Năm 1771, lần đầu tiên trong
lịch sử phong kiến Việt Nam, những người nông dân bước lên võ đài chính trị với
một khí thế mạnh mẽ, tự chủ nắm chắc ngọn cờ giữ và dựng nước: Cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn thắng lợi, triều đại Tây Sơn ra đời và thực hiện nhiều chính sách có lợi
cho đất nước. Tuy nhiên, nhà Tây Sơn cũng sụp đổ và thay thế bằng một triều đại
khác- triều đình nhà Nguyễn.
13
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm lược nước ta. Khởi nghĩa đã
nổ ra khắp nơi chống triều đình phong kiến và chống Pháp xâm lược. Trước những
biến cố lớn lao, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX có sự biến đổi sâu sắc. Cuộc
xâm lược của thực dân Pháp đem theo nền tư bản tấn công vào Việt Nam, cùng
với nó là mối giao lưu văn hóa bắt buộc, tất yếu làm hao hụt khá nhiều giá trị tư
tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc.
Hoàn cảnh lịch sử- xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành hệ
tư tưởng cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam.
Điều này được phản ánh sinh động, rõ nét trong các tác phẩm văn học theo từng
giai đoạn.
1.1.3.2. Tình hình văn hóa, giáo dục ở Việt Nam
Về văn hóa, giáo dục, năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu.
Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành.
Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện
và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài cho đất nước. Nội
dung học tập được quy định chặt chẽ. Thời Lê sơ, quy chế thi cử được ban hành
rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi Hội, chọn Tiến sĩ. Riêng thời vua Lê Thánh Tông
(1460 - 1497) đã tổ chức 12 khoa thi Hội. Số người đi học ngày càng đông, dân
trí do đó được nâng cao. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia, ghi tên Tiến
sĩ.
Hàng loạt trí thức tài giỏi được đào tạo đã góp phần quan trọng vào việc
xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Nho học không tạo điều kiện
cho sự phát triển kinh tế.
Thời nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế hoạt động của các
tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo. Tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển.
Đình làng, đền thờ mọc lên ở khắp các xóm làng. Văn học chữ Hán kém phát
triển. Trong lúc đó, văn học chữ Nôm ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất
14
hiện những tác phẩm văn học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn
Du; các bài thơ của Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan…
Về kiến trúc, nổi bật lên quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm,
rạp hát đầu tiên được xây dựng có sân khấu và phòng khán giả. Lị sở các tỉnh đều
có thành lũy xây theo kiểu Pháp cổ; nổi lên ở thành Hà Nội là cột cờ được xây
dựng cao đẹp. Các ngành nghệ thuật dân gian tiếp tục phát triển theo các hình
thức cũ.
Văn hóa, giáo dục thời kì trung đại của nước ta là tiền đề xuất hiện tầng lớp
trí thức có học vấn, có khả năng sáng tác văn học. Văn hóa, giáo dục ảnh hưởng
trực tiếp đến nền văn học nước nhà trong giai đoạn này.
1.1.3.3. Tình hình văn học
Trong gần mười thế kỉ, lịch sử - văn học - văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau. Văn học trung đại là tấm gương phản chiếu thực tại xã hội, đời sống, tâm
hồn cũng như tư tưởng dân tộc Việt Nam thời trung cổ rõ nhất, đa dạng và sinh
động nhất.
Việc phân kì văn học trung đại cần dựa trên nhiều tiêu chí: Căn cứ vào lịch
sử, xã hội, văn hóa và quy luật nội tại của văn học; Căn cứ vào các sự kiện văn
học như tác giả, tác phẩm, nội dung tư tưởng, thể loại,…; Căn cứ vào đặc điểm
và tính chất của nền văn học: thi pháp, tư tưởng thẩm mĩ,… Dưới đây chúng tôi
chọn cách phân chia theo bốn giai đoạn văn học của một bộ phận lớn giới nghiên
cứu:
* Thế kỷ X đến thế kỷ XIV
Thời kì này tồn tại hai dòng văn học chủ yếu là dòng văn học tôn giáo và
văn học yêu nước. Thế kỉ X, Phật giáo trở thành quốc giáo và ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống và khả năng tư duy của người Việt. Nhiều sáng tác của các nhà sư
tuy tập trung thuyết lý cho đạo Phật nhưng vẫn chứa đựng những yêu tố xã hội
tích cực và có giá trị văn học: Quốc tộ, Thị đệ tử, Cáo tật thị chúng…
15
Hầu hết những tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn này đều thể hiện rõ
tinh thần yêu nước mạnh mẽ và khát vọng đất nước thái bình. Rực rỡ nhất về đề
tài này phải kể đến nền văn học thời Lý- Trần. Một trong những tác phẩm nổi bật
trong giai đoạn này là những sáng tác của Lí Thái Tổ (Thiên đô chiếu), Lý Thường
Kiệt (Nam quốc sơn hà), Trần Quang Khải (Tụng giá hoàn kinh sư), Trần Quốc
Tuấn (Hịch tướng sĩ). Nam quốc sơn hà với những vần thơ đanh thép đã góp phần
quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Cũng là chủ đề yêu nước, nhưng
Trần Quang Khải lại mang đến cho nền văn học một sắc màu tươi sáng hơn qua
bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư:
Đoạt sóc Chương Dương độ,
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
(Tụng giá hoàn kinh sư-Ngữ văn 7, tập 1)
Lực lượng sáng tác trong giai đoạn này chủ yếu là các tăng lữ, vua chúa,
hoặc những người trí thức trực tiếp tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Các
tác phẩm của họ chủ yếu viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, bên cạnh dòng văn học chữ
Hán còn có sự xuất hiện của một dòng văn học mới. Đó là dòng văn học chữ Nôm
vào cuối thế kỷ XIII, do những bậc trí thức sáng tạo nên. Văn học chữ Nôm đã đặt
những viên gạch đầu tiên trên con đường phát triển của văn học viết bằng ngôn ngữ
dân tộc với một số bài thơ, bài phú Nôm.
* Thế kỷ XV- thế kỷ XVII
Tình hình văn học trong những thập kỷ này cũng không có thay đổi gì đáng
kể về mặt nội dung. Đại cáo bình Ngô là một trong những tác phẩm nổi bật nhất
trong giai đoạn này. Trong thi phẩm của mình, Nguyễn Trãi đã một lần nữa khẳng
định chủ quyền, lãnh thổ vững vàng của dân tộc. Không chỉ có thế, theo tác giả,
nước ta còn có một nền văn hóa lâu đời, một phong tục tập quán riêng và một lịch
sử đầy những chiến công của các anh hùng, hào kiệt. Những nhân tố này hòa
16
quyện với nhau tạo thành một khối thống nhất. Nó có thể đánh tan bất kì cuộc
xâm lược nào. Dựa vào quan niệm mới mẻ này, nên tác phẩm Đại cáo bình Ngô
được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta. Bên cạnh đó, trong
văn học cũng xuất hiện tư tưởng ưu thời mẫn thế. Tư tưởng này bắt đầu manh nha
khi xã hội ngày một suy đồi: chiến tranh liên miên, vua quan chỉ lo đến cái lợi,
cái danh của mình mà bỏ mặc đời sống nhân dân. Chứng kiến những cảnh ấy
nhưng lại không thể thay đổi được nên các nhà văn thường có khuynh hướng lui
về ẩn dật. Họ ẩn dật không phải là để đối lập lại với xã hội. Cho nên, trong hầu
hết những tác phẩm của mình, các nhà văn không phê phán bản thân xã hội phong
kiến, mà chủ yếu phê phán những tệ lậu, những cái xấu trong xã hội phong kiến.
Các nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng này là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Dữ,… Nguyễn Bỉnh Khiêm một mặt lên án gay gắt sự tàn bạo do bọn phong kiến
gây ra một mặt lên tiếng bảo vệ đạo đức và nhân phẩm làm người. Tác phẩm Truyền
kỳ mạn lục nổi tiếng của Nguyễn Dữ đã tố cáo kẻ cầm quyền bạo tàn, bất lực, xa
hoa, truỵ lạc, đồng thời biểu lộ tâm tư nguyện vọng của ông và của nhiều nho sĩ ẩn
dật đương thời. Về mặt chữ viết, chữ Nôm phát triển khá mạnh mẽ và do thế các
sáng tác bằng chữ Nôm cũng ngày một nhiều hơn. Lực lượng sáng tác cũng vì thế
mà đông đảo hơn. Bên cạnh những tác phẩm của vua quan hoặc của những nhà
Nho, chúng ta còn thấy xuất hiện thêm những tác giả “ngoài cung đình”.Với sự
phát triển lớn mạnh như thế nên ngôn từ được sử dụng trong các tác phẩm văn học
ngày càng phong phú, đa dạng.
* Thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Văn ho ̣c giai đoa ̣n này không thể không kể tớ i Hồ Xuân Hương - một người phụ nữ tài hoa nhưng cuộc đời bà lại không gặp nhiều may mắn bởi chế độ đa thê và
tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Bà có tài nhưng cái tài ấy lại không được xã hội chấp
nhận; hai lần lấy chồng, hai lần đều phải làm lẽ. Cay đắng là vậy, đau khổ là vậy
nhưng trong thơ bà, ta ít khi bắt gặp bà khóc lóc hay uỷ mị. Trái lại, càng đau khổ,
càng chịu nhiều uất ức, bà càng trở nên mạnh mẽ, táo bạo. Bằng cách này hay cách
khác, bà luôn tìm cách chống đối lại xã hội. Trong khi người phụ nữ bị xã hội coi
17
khinh, bị chèn ép thì bằng những vần thơ của mình, bà đứng về phía họ, ủng hộ họ
và luôn tìm những đức tính tốt đẹp để nâng cao giá trị của họ lên. Chính vì vậy mà
khi đọc thơ bà, người ta luôn tìm thấy được niềm cảm thông, chia sẻ đối với số phận
của mình. Điều này được thể hiện trong một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Tự tình II,
Bánh trôi nước,…
Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người chinh phụ, khai thác chủ
yếu tâm trạng của một người thiếu phụ có chồng đi chiến trận. Nếu ở giai đoạn
trước, khi người chồng tham gia chiến tranh, phục vụ đất nước thì người vợ sẽ
xem chuyện đó là bình thường, là điều cần làm ở một người đàn ông thì đến giai
đoạn này, tâm trạng của họ lại hoàn toàn khác. Họ không còn thiết tha đến cái
danh, cái lợi của người chồng nữa, bởi họ ý thức được rằng để có được những thứ
đó, bản thân họ phải đánh đổi nhiều thứ trong đó tuổi xuân và hạnh phúc là hai
thứ quý giá nhất. Cho nên, đọc tác phẩm lên ta chỉ thấy nỗi sầu, nỗi tủi của người
vợ.
Tài năng của Nguyễn Du được khẳng định khi ông viết Truyện Kiều. Bằng
bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du đã kể lại cuộc đời nàng Kiều tài hoa bạc
mệnh thật rõ nét. Và điều làm nên giá trị Truyện Kiều, làm cho Truyện Kiều trở
thành kiệt tác ngàn đời chính là tinh thần nhân đạo được thể hiện trong toàn tác
phẩm. Trong truyện, thông qua các nhân vật, Nguyễn Du đã thể hiện những khát
vọng, ước mơ của mình. Ông ước mơ về một tình yêu đẹp, về một xã hội công
bằng, tự do. Đồng thời, do hiểu rõ nguồn gốc sâu xa gây nên nỗi khổ đau cho
nhiều người đặc biệt là người phụ nữ. Cho nên, tác phẩm cũng là một bản cáo
trạng lên án xã hội phong kiến mục nát, tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống, nhân
phẩm tốt đẹp của con người. Nhận xét về Nguyễn Du, Bùi Văn Nguyên có nhận
định rằng: “Nếu Nguyễn Trãi tượng trưng cho truyền thống của chủ nghĩa yêu
nước chống ngoại xâm thì Nguyễn Du tượng trưng cho tinh thần nhân đạo chống
áp bức trong văn học cổ đỉển nước ta, cả hai tượng trưng cho truyền thống yêu
nước, yêu người của dân tộc ta và của văn học ta, tượng trưng cho sức sống tinh
18
thần mãnh liệt và vẻ đẹp tâm hồn tươi sáng của nhân dân ta từ những ngày xưa”
[23]. Với sự góp mặt của nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng như thế có thể nói rằng
đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, không
chỉ phát triển về nội dung, đề tài mà thể loại cũng có nhiều biến thể.
* Cuối thế kỷ XIX
Văn học giai đoạn này đã phát triển trong sự gắn bó chặt chẽ với các diễn
biến của lịch sử dân tộc. Nội dung yêu nước, chống xâm lược, chống đầu hàng là
nét nổi bật dễ nhận thấy nhất của văn học giai đoạn này. Điều có ý nghĩa nhất mà
văn học giai đoạn này đã làm được là việc xây dựng thành công hình tượng người
nghĩa sĩ xả thân vì độc lập dân tộc. Nhân vật lí tưởng của văn học bấy giờ là người
anh hùng cứu nước. Họ gồm cả người trí thức phong kiến lẫn người nông dân,
những người khốn cùng trong xã hội dám xả thân vì đại nghĩa. Nguyễn Đình
Chiểu với những tác phẩm có giá trị cao như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều
y thuật vấn đáp,... được xem là tác gia văn học yêu nước lớn nhất của giai đoạn
này. Ngoài ra còn kể đến thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, Nguyễn Thông,
Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Ôn,… Đến đây, bức tranh hiện thực của xã hội cũng
được ghi lại rất chi tiết và đầy đủ trong văn học bằng nhiều giọng điệu khác nhau.
Có khi đó là giọng thương cảm khi nhìn thấy một mảnh đời cơ cực nào đó, có khi
đó lại là giọng trào phúng, châm biếm, mỉa mai một tầng lớp nào đó của xã hội
phong kiến. Tiêu biểu có thể kể đến là Nguyễn Khuyến. Ông được xem là là một
trong những nhà thơ nổi tiếng trong dòng thơ trào phúng. Sáng tác của ông tập
trung đả kích những hiện trạng nhơ nhớp của một xã hội thực dân phong kiến mới
hình thành. Với một giọng thơ độc đáo, đầy chua chát và dữ dội, ông đã dồn tất
cả sự phẫn nộ của mình vào những kẻ bán nước, quan lại sâu mọt, sự đớn hèn của
đám sĩ phu vong quốc, sự suy thoái về đạo đức, danh dự:
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông Nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
19
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy mới hời.
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
(Tiến sĩ giấy- SGK Ngữ văn 11, tập 1)
Mỗi giai đoạn văn học lại xuất hiện những tác giả có phong cách riêng
nhưng nhìn chung, các thi sĩ thời kì này vẫn tập trung thiên về phản ánh, tố cáo
xã hội phong kiến bất công. Văn học thời kì trung đại đã để lại nhiều dấu ấn sâu
đậm, có vai trò quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà. Đây là thời kì văn
học không thể để lãng quên mà phải không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá
thêm nhiều điều thú vị từ các sáng tác đặc sắc này.
1.2. Hệ giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong văn học Việt Nam thời
kỳ trung đại
Hệ giá trị văn hóa truyền thống được hình thành từ những điều kiện đặc thù
của nền văn minh lúa nước, tính nhân văn của văn hóa Việt Nam mang đậm tính chất
của nền nông nghiệp lúa nước, biểu hiện trên nhiều khía cạnh, trong đó nổi bật lên
hai đặc trưng cơ bản là sự khoan dung và tinh thần yêu nước [44].
1.2.1. Sự khoan dung
Trong văn hóa, khoan dung được coi là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc
của mỗi dân tộc, là con đường thuận tiện và an toàn để mỗi nền văn hóa tự đổi
mới, tiếp nhận và biến đổi các giá trị văn hóa bên ngoài cho phù hợp với nền văn
hoá của mình, làm giàu chính bản thân nền văn hóa mình; đồng thời tạo điều kiện
cho mỗi nền văn hoá thích nghi được những điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi của
xã hội và chống được nguy cơ đồng hóa cưỡng bức của một nền văn hóa này với
một hoặc nhiều nền văn hóa khác trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Sự
khoan dung trong văn hóa Việt Nam được biểu hiện cụ thể như sau:
20
Thứ nhất, đó là sự bản địa hóa, sự thích nghi hóa các giá trị văn hóa ngoại
lai vào văn hóa bản địa. Trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, hiện tượng những
tôn giáo lớn khi du nhập vào Việt Nam bị bản địa hóa theo tín ngưỡng, lối sống
và cách tư duy của người Việt Nam không phải là điều hiếm gặp. Phật giáo là một
ví dụ. Khi vào Việt Nam, trong quá trình giao lưu với các tín ngưỡng bản địa, Phật
giáo đã ngay lập tức kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này tạo nên những nét
đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Kết hợp với tín ngưỡng thờ thần của người dân
bản địa, Phật giáo Việt Nam đã tạo nên hệ thống tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện) và chính những ngôi chùa thờ tứ pháp, tuy mang hình dáng
chùa của Phật giáo, nhưng thực chất vẫn là những đền miếu dân gian thờ các vị
thần tự nhiên của người bản địa. Người Việt còn đưa thần thánh, thành hoàng
làng, thổ địa, các anh hùng dân tộc có công với nước vào trong chùa, tạo nên một
lối kiến trúc độc đáo “tiền Phật, hậu Thần” trong các ngôi chùa Việt Nam. Cũng
cần phải nói thêm rằng, ngôi chùa của người Việt không chỉ là một nơi linh thiêng
dành riêng cho các phật tử, sư sãi, mà hơn thế, còn là nơi mang tính cộng đồng
sâu sắc. Đó không chỉ là nơi người dân đến cầu an lành, hạnh phúc, mà còn là nơi
hội họp, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người dân lao động bên cạnh ngôi đình
làng. Chùa còn là nơi yên tĩnh, nơi giải thoát cho những vong hồn, linh hồn của
những người đã mất. Chính vì vậy, hầu như không có ngôi chùa nào ở Việt Nam
mà lại không có bia hậu, có khu vực dành riêng để bát nhang tưởng nhớ những
linh hồn đã khuất. Ở đây, sự bản địa hóa Phật giáo đã làm cho Phật giáo ở Việt
Nam dần trở thành một tôn giáo nhập thế, khác xa với nguồn gốc xuất thế của nó.
Thứ hai, đó là sự hỗn dung tôn giáo. Nằm trên ngã ba đường của sự giao
lưu văn hóa, kinh tế của phương Đông và phương Tây, nên không chỉ các giá trị
văn hóa mà cả các tôn giáo lớn trên thế giới dường như đều có mặt ở Việt Nam.
Khi vào nước ta, chúng cũng đều bị biến đổi cho phù hợp với lối sống và tâm lý
của người dân. Điều đáng nói ở đây là, trong quá trình xâm nhập và bị bản địa
hóa, các tôn giáo ở Việt Nam có thể “chung sống” hòa bình với nhau, tạo nên hiện
21
tượng “tôn giáo vào trước mở rộng cửa đón nhận tôn giáo vào sau, tạo nên một sự
hòa hợp rộng rãi” [39]. Sự du nhập của các tôn giáo vào Việt Nam, đặc biệt là của
Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, đã tạo nên sự hỗn dung của ba tôn giáo này trên
đất nước. Nghiên cứu lịch sử phát triển của dân tộc, một điều dễ dàng nhận thấy,
mà có thể rất ít gặp ở các dân tộc khác, đó là, mặc dù có sự thâm nhập, sự giao
thoa của rất nhiều loại hình tôn giáo, nhưng ở Việt Nam chưa hề có mâu thuẫn
dẫn đến xung đột hay chiến tranh giữa các tôn giáo. Những khác biệt, những mâu
thuẫn tôn giáo thường không gay gắt và dường như được dung hòa bởi tính cố kết
cộng đồng, bởi lối sống tình cảm của người dân. Bước vào nơi linh thiêng nhất
của người Việt - ngôi chùa làng - thì hiện tượng các vị thánh thần, Phật được thờ
chung một điện là khá phổ biến. Bên cạnh đó, trong cuộc đời của một người Việt
Nam, hiện tượng hỗn dung các tôn giáo cũng được thể hiện một cách rõ nét. Điều
này có lẽ, các tôn giáo về hình thức thì khác nhau nhưng nghiên cứu kỹ thì có thể
thấy, nhiều khi sự khác nhau đó chỉ là những cách diễn đạt khác nhau về cùng một
vấn đề, các phương pháp thực hiện tuy khác nhau nhưng cùng hướng về một nội
dung, một mục đích cụ thể. Chẳng hạn, cùng giải thích về đạo đức, Nho giáo dạy
nhân nghĩa; Đạo giáo dạy yêu quý thiên nhiên, yêu quý sự sống; Phật giáo không
sát sinh. Khi bàn đến đời sống của con người, Nho giáo nhấn mạnh tới mặt tổ
chức xã hội, Đạo giáo nhấn mạnh tới phần thân xác con người sao cho khỏe
mạnh, Phật giáo chú trọng đến tâm linh của con người thoát khỏi cái khổ, v.v…
Đó là những điều rất gần gũi với đời sống, với ước mong sống hạnh phúc, bình
yên của người dân. Do vậy, người dân tiếp nhận cả ba tôn giáo, đồng thời lĩnh
hội và phát huy những cái hay, cái tiến bộ của từng tôn giáo trong cuộc sống,
làm cho các tôn giáo hỗ trợ, bổ sung mà không mâu thuẫn với nhau. Chính vì
thế, cùng một người Việt Nam, khi trẻ thì học Nho để ra giúp nước, khi khổ ải
trầm luân thì cầu khấn Phật phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ chữa
bệnh trừ tà hoặc luyện tập dưỡng khí an thần.
22
Có thể thấy rằng, văn hóa Việt Nam không những đã dung hợp các tôn giáo
ngoại sinh mà hơn nữa, đã bản địa hóa chúng, kết hợp chúng với tín ngưỡng bản
địa, tạo nên sự độc đáo riêng biệt trong đời sống sinh hoạt tinh thần cũng như
trong văn hóa của dân tộc. Có được điều này là nhờ ở tính khoan dung truyền
thống trong văn hóa Việt Nam và sự chi phối mạnh mẽ của nó trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Điều đó đã tạo nên sự thuần hậu, sự ứng xử linh
hoạt, biện chứng trong văn hóa Việt Nam nói chung, trong tính nhân văn của văn
hóa Việt Nam nói riêng.
Thứ ba, là sự chủ động trong thế bị động tiếp nhận các giá trị văn hóa.
Trong lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, sự du nhập các giá trị văn hóa
từ bên ngoài vào Việt Nam chủ yếu theo con đường áp đặt, qua bước chân của
những kẻ xâm lược, với một mưu đồ thâm hiểm nhằm đồng hóa dân tộc ta theo
thứ văn hóa xâm lược đó. Nhưng cũng cần thấy rằng, chính ở đây, yếu tố mềm
dẻo, linh hoạt, sự khoan dung, thuần hậu vốn có trong văn hóa Việt Nam đã thật
sự phát huy vai trò to lớn của mình. Sự tấn công mạnh mẽ của các giá trị văn hóa
bên ngoài đã góp phần thay đổi văn hóa Việt Nam ở một số lĩnh vực nhất định,
song không phải tất cả những giá trị đó đều phát huy tác dụng, đều có ảnh hưởng
sâu rộng trong đời sống của người Việt Nam. Điều gì có lợi, phù hợp với người
Việt Nam thì được tiếp nhận, được biến đổi; điều gì không phù hợp thì cũng chỉ
có thể được chấp nhận một phần nào đó để tìm cách cải biến cho phù hợp hoặc bị
đào thải hoàn toàn. Chính vì vậy, trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn
không bị đồng hóa, văn hóa của chúng ta không bị hòa tan vào văn hóa Trung
Hoa, vẫn giữ gìn được bản sắc riêng của mình. Đó là biểu hiện của việc sẵn sàng
tiếp nhận, biến đổi và đồng thời kiên quyết loại bỏ những yếu tố bất đồng, mâu
thuẫn với văn hóa của dân tộc; nói một cách khác, đó chính là sự chủ động tiếp
nhận và biến đổi văn hóa trong tình thế bị động, bị áp đặt của một dân tộc trước
những nguy cơ đe dọa bị đồng hóa, bị hòa tan văn hóa của mình vào những nền
văn hóa khác.
23
1.2.2. Tinh thần yêu nước
Cùng với sự khoan dung, tinh thần yêu nước là một đặc trưng tiêu biểu của
văn hóa Việt. Khi nói đến tinh thần yêu nước, một điều chắc chắn là không có
một dân tộc nào trên thế giới lại không có tinh thần yêu nước. Vấn đề đáng quan
tâm là tinh thần yêu nước Việt Nam có những đặc điểm gì khác với tinh thần yêu
nước của các dân tộc trên thế giới.
Nói đến tinh thần yêu nước Việt Nam chính là nói đến ý thức trách nhiệm
về giống nòi, về cộng đồng, về dân tộc được biểu hiện thành những quan điểm,
những lý luận; là những nhận thức về con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng
dân tộc; về động lực và khả năng giành lại lãnh thổ và xây dựng đất nước, v.v…
Tinh thần yêu nước đã góp phần hình thành những nguyên lý: cùng một giống nòi
thì phải có nghĩa vụ thương yêu nhau, đùm bọc nhau; nếu đoàn kết sẽ có sức
mạnh. Tiến lên một bước cao hơn nữa, tinh thần yêu nước đã góp phần khẳng định
chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán, sự độc lập tự chủ trong quản lý và phát
triển đất nước, đặt ra yêu cầu được đứng ngang hàng với phương Bắc… Nhìn
chung, tinh thần yêu nước - một đặc trưng cơ bản của tính nhân văn trong văn hóa
Việt Nam - được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Trước hết, yêu nước là thương yêu đồng bào, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của
mỗi cá nhân, và hơn nữa, là tư tưởng xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ đủ
sức đảm bảo cuộc sống an lành, hạnh phúc cho mỗi người dân.
Dân tộc Việt Nam được hình thành trong những điều kiện hết sức khắc
nghiệt. Để tồn tại và phát triển được, người Việt Nam đã biết đoàn kết nhau lại
đắp đê phòng lụt, biết tin ở khả năng của mình, không đợi thời, đợi thế, đối đầu
với thiên nhiên để giành cuộc sống cho cộng đồng của mình. Cuộc sống gian khổ,
vất vả đã tạo nên sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng người Việt.
Là sản phẩm được hình thành nhờ bàn tay khối óc, sự hy sinh của các thế hệ người
Việt Nam, đất nước, đối với người Việt Nam không đơn thuần chỉ là nơi ở, nơi
làm ăn để sinh tồn mà hơn thế, nó thực sự trở thành một phần cơ thể, là máu thịt
24
của mỗi người. Có thể thấy rằng, mỗi người Việt Nam, từ buổi đầu dựng nước
cho đến ngày nay, đều ý thức được trọng trách của mình đối với non sông của tổ
tiên để lại, tức là ý thức được cộng đồng của mình và chủ quyền của đất nước.
Chính sự đe dọa bị xâm lăng và thấu hiểu được nỗi thống khổ dưới ách nô lệ của
ngoại bang đã khiến người Việt Nam đoàn kết thương yêu nhau, cùng nhau hành
động dựa trên sức mạnh cộng đồng để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, giành
độc lập, tự do cho Tổ quốc. Mỗi khi đứng trước vận mệnh cam go của đất nước,
mỗi người dân Việt Nam đều nhận thức rõ được trách nhiệm của mình đối với Tổ
quốc, với dân tộc và cũng chính ở đây, tư tưởng khẳng định chủ quyền quốc gia,
khẳng định sự độc lập tự chủ với mong muốn đứng ngang hàng với phương Bắc
lại nổi lên mạnh mẽ. Tư tưởng độc lập dân tộc, người dân được sống ấm no, hạnh
phúc được hun đúc qua hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam thể hiện qua lao động
sản xuất, qua quá trình dựng nước và giữ nước đã được khái quát trong những áng
thiên cổ hùng văn, như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của
Trần Quốc Tuấn và đỉnh cao là Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi sau này.
Thứ hai, yêu nước là sẵn sàng hy sinh vì đất nước, vì sự tự do của dân tộc.
Điều này đã trở thành ý thức thường trực trong mỗi người dân Việt Nam. Trải qua
lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu quý độc lập tự do,
mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người, sự yên bình cho mọi nhà. Mỗi
người Việt Nam đều mang trong mình ý thức cộng đồng, dám hy sinh thân mình
vì sự tồn vong của đất nước, người Việt Nam mang trong mình một “Tổ quốc
luận” sâu sắc, xả thân vì nước, vì độc lập, tự do của dân tộc đến mức “giặc đến
nhà đàn bà cũng đánh”.
Dân tộc Việt Nam được hình thành từ sự đoàn kết cộng đồng trong công
cuộc chinh phục thiên nhiên, đối đầu với nạn ngoại xâm. Chính vì vậy, sự xác
định vị trí cũng như vai trò của mỗi cá nhân trong mối quan hệ tác động qua lại
với những cá nhân khác trong cộng đồng, sự thông cảm, chia sẻ lẫn nhau trong
lúc hoạn nạn, lúc khó khăn cũng như khi yên vui, hạnh phúc đã là những yếu tố
25
cơ bản tạo nên tinh thần xả thân vì nước, quên thân vì cộng đồng của người dân
Việt Nam. Chúng ta thấy tinh thần yêu nước, xả thân vì nước được thể hiện rõ nét
nhất ở ngay cả trong cách nghĩ cũng như trong những hành động thực tế của các
phật tử Việt Nam. Đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ bên ngoài, các phật tử cũng
như các nhà sư đã tự nguyện phá giới luật, đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại
xâm với mong muốn đóng góp sức mình vào sự ổn định, phát triển và tự do của
đất nước.
Thứ ba, tinh thần yêu nước còn được thể hiện sâu sắc trong đường lối ngoại
giao, trong thế ứng xử đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước láng
giềng với xu thế cầu hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.
Với vị trí địa lý đặc biệt cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,
Việt Nam luôn là tâm điểm của những kẻ xâm lược. Nhận thấy rõ thế và lực của
đất nước, với mong ước được sống trong hòa bình, dân tộc Việt Nam luôn nêu
cao tinh thần hòa hiếu, không gây chiến tranh. Nêu cao tinh thần hoà hiếu trong
cách ứng xử giữa con người với con người là nét riêng của văn hóa Việt Nam và
trong đường lối ngoại giao, tinh thần này được nâng cao một bước, trở thành
đường lối “Lấy chí nhân thay cường bạo” (Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi).
Trong các cuộc kháng chiến, khi kẻ thù thất bại, người dân Việt Nam dù mang
trong mình mối căm hận lớn lao nhưng không vì thế mà tàn sát kẻ thù; ngược lại,
còn mở đường “hiếu sinh” cho chúng rút về nước an toàn, lấy đó làm điều kiện
để xây dựng một mối quan hệ hòa hiếu, hữu nghị đối với chính các quốc gia bại
trận đó. Lịch sử dân tộc đã từng chứng kiến những hành động cao cả của vua Trần
đã đảm bảo cho quân Nguyên rút về nước an toàn; của Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi
cung cấp lương thực, phương tiện cho quân Minh về nước sau chiến tranh. Ở đây,
tinh thần hoà hiếu đã trở thành chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Và, không chỉ dừng
lại ở sự giảng hòa đơn giản đó, trong địa vị và hoàn cảnh của mình, dân tộc Việt
Nam còn biết khiêm nhường chấp nhận một sự lệ thuộc về hình thức để giữ gìn
một nền độc lập trên thực tế của mình. Triều đình phong kiến Việt Nam vẫn
26
thường duy trì quy ước sau khi chiến thắng kẻ thù liền phái sứ giả sang cống nạp
và nhận “tước phong” của triều đình phong kiến Trung Quốc nhằm tỏ ý thần phục
theo thể thức của một nước chư hầu, v.v.. Những hành động như vậy đã thể hiện
một cách đầy thuyết phục nguyện vọng, ý chí tự lực tự cường, mong muốn sống
trong hòa bình, hữu nghị và ổn định với các quốc gia, các dân tộc khác của dân
tộc Việt Nam ta.
Như vậy, có thể thấy, sự khoan dung và tinh thần yêu nước đã thực sự trở
thành những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam. Trải qua nhiều thăng trầm
trong lịch sử phát triển của dân tộc, tính nhân văn của văn hóa Việt Nam đã góp
phần khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong sự giao lưu, tiếp biến
với các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, sự phát huy
cao độ tính nhân văn của văn hóa trong những thời kỳ “đen tối” của lịch sử dân tộc
đã giúp cho dân tộc ta tìm ra được những con đường, những cách thức hiệu quả
nhất để mang lại độc lập, tự do cho nhân dân, tránh được sự đồng hóa văn hóa, bảo
vệ toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông ta đã khổ công xây dựng và vun đắp qua hàng
nghìn năm. Trong điều kiện đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, việc phát huy
hơn nữa tính nhân văn của văn hóa Việt Nam sẽ góp phần khẳng định bản sắc văn
hóa Việt Nam trước nguy cơ hòa tan của xu thế hội nhập, nêu cao giá trị Việt Nam
trên trường quốc tế. Ðây chính là cơ sở để có thể định hướng tích hợp giáo dục văn
hóa truyền thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong nhà
trường phổ thông.
1.3. Thực trạng dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong
nhà trường phổ thông
1.3.1. Đặc điểm của chương trình Ngữ văn phổ thông, Sách giáo khoa hiện hành
1.3.1.1. Mục tiêu môn học
Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên 03 mục tiêu, trong đó mục tiêu
đầu tiên là cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính
hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trong tâm là văn học
27
Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lưa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu thứ hai
là hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ
thẩm mĩ…. Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như tình yêu tiếng
Việt, yêu thiên nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…
Có thể thấy rõ cấu trúc nội dung của mục tiêu môn học này gồm ba yếu tố: kiến
thức, năng lực (kĩ năng) và thái độ. Đây chính là cấu trúc “kinh điển” của mục tiêu GD
trong nhà trường phổ thông từ trước đến nay. Tuy nhiên, so với yêu cầu và xu thế mới
có thể thấy một số bất cập trong cách xác định mục tiêu trên:
Thứ nhất: Việc cung cấp kiến thức được coi là mục tiêu số một cho thấy
chương trình tập trung nhấn mạnh kiến thức mà chưa chú trọng thực sự đến hình
thành, rèn luyện kĩ năng, năng lực.
Thứ hai: Các khái niệm “cơ bản, hiện đại” và nhất là “tính hệ thống về ngôn
ngữ và văn học” đã tạo điều kiện cho các tác giả chương trình và sách giáo khoa
nghiêng về trang bị các tri thức mang tính hàn lâm và xây xựng môn Ngữ văn trong
nhà trường tương ứng với toàn bộ khóa học Ngữ văn. Kết quả là HS được học tất
cả từ ngôn ngữ học, Việt ngữ học, lí luận văn học, lịch sử văn học… trong đó có
một số kiến thức quá cao sâu chưa cần đối với HS phổ thông.
Chúng tôi cho rằng khi xác định mục tiêu môn Ngữ văn theo hướng mới
cần điều chỉnh sự bất cập vừa nêu trên, theo hướng:
- Đề cao mục tiêu hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn, mà trước
hết là năng lực giao tiếp với việc sử dụng thành thạo bốn kĩ năng cơ bản: đọc,
viết, nghe, nói. Sau đó mới là các kĩ năng khác.
- Việc lựa chọn kiến thức (văn học, tiếng Việt…) tất nhiên cần cơ bản, hiện
đại nhưng phải hướng tới phục vụ cho yêu cầu phát triển năng lực, tránh kinh
viện, không thiết thực và không quá chú trọng tính hệ thống (hệ thống lịch sử văn
học, hệ thống ngôn ngữ…)
28
- Vừa chú ý mục tiêu GD theo yêu cầu của xã hội; vừa quan tâm đến nhu
cầu, sở thích của cá nhân người học và người dạy để xác định nội dung chương
trình học tập (GV và HS mong đợi dạy và học những gì?).
1.3.1.2. Về cấu trúc nội dung chương trình môn Ngữ văn
Cấu trúc chương trình Ngữ văn hiện hành được thực hiện theo nguyên tắc
tích hợp. Với môn Tiếng Việt ở Tiểu học, chương trình tập trung vào hai thành
phần: kiến thức và kĩ năng, trong đó kiến thức gồm tiếng Việt và văn học; kĩ năng
gồm đọc, viết, nghe, nói. Đến THCS và THPT chương trình lại được cấu trúc ba
phần: Tiếng Việt, Tập làm văn và Văn học. Mỗi phần có các nội dung riêng, theo
hệ thống của mỗi phân môn khá độc lập…Cho nên nhiều nội dung rất khó tích
hợp.
Nhìn chung, cấu trúc của CT và nhất là SGK Ngữ văn hiện hành vẫn chủ
yếu lấy trục nội dung (tiểu học theo hệ thống chủ đề, còn Trung học lấy lịch sử
văn học). Thêm vào đó do làm CT tách rời các cấp nên cấu trúc CT các cấp thiếu
tính thống nhất; một số đơn vị kiến thức lặp lại, một số nội dung không cần thiết
phải học cả 3 cấp, hoặc lặp lại không phát triển, nâng cao…Văn bản đọc hiểu còn
nhiều, một số văn bản dài, chưa chọn lọc, thiếu hấp dẫn…
Có thể nói xây dựng CT và SGK Ngữ văn theo hướng tích hợp là một bước
tiến trong việc phát triển CT, nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Chương trình
Ngữ văn đòi hỏi cần phải thay đổi, trước hết là xác định trục chính của CT. Cấu
trúc nội dung CT phải tập trung vào mục tiêu phát triển năng lực và vì thế trục
chính của CT Ngữ văn, như nhiều nước đã làm phải là trục kĩ năng: đọc, viết,
nghe, nói. Việc trang bị kiến thức văn học và tiếng Việt, ngôn ngữ… vẫn cần thiết
nhưng cần thông qua rèn luyện kĩ năng, liên quan mật thiết và phục vụ trực tiếp
cho rèn luyện kĩ năng.
29
1.3.2. Những khó khăn cơ bản trong dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam
trung đại trong nhà trường phổ thông
1.3.2.1. Về việc lựa chọn, sắp xếp tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong
chương trình Ngữ văn PT hiện hành
Theo khảo sát của chúng tôi ở Phụ lục (Bảng khảo sát các tác phẩm văn
học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành), có
thể thấy việc lựa chọn, sắp xếp các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong
chương trình Ngữ văn PT hiện hành còn một số hạn chế nhất định :
Một là sự phân bố về nội dung của các tác phẩm có sự lặp lại. Ví dụ như tác
phẩm Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi). Tác gia Nguyễn Trãi đã được giới thiệu ở
chương trình Ngữ văn 7 tập 1. Nhưng đến SGK chương trình Ngữ văn 10 (tập 2)
cũng lại có 1 tiết về tác gia Nguyễn Trãi. Thêm nữa, cũng là tác phẩm Đại cáo bình
Ngô, chúng tôi còn bắt găp sự lặp lại trong nội dung giảng dạy. Chương trình Ngữ
văn 8 tập 2 đưa vào giảng dạy trích đoạn Nước Đại Việt ta, trích đoạn này cũng
được dạy lại trong chương trình Ngữ văn 10 tập 2. Mặc dù kiến thức được đưa vào
trong chương trình Ngữ văn THPT sâu sắc và cụ thể hơn cấp THCS nhưng điều
này khiến cho thời lượng của chương trình bị rút ngắn đi phần nào.
Hai là, theo phân phối chương trình hiện hành, một số tác phẩm tự sự trung
đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông không được giảng dạy, đặc biệt là các
bài đọc thêm. Cụ thể, có tới hai tác phẩm nghị luận trung đại: Hiền tài là nguyên
khí của Quốc gia (trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo
thứ ba) và Thái sư Trần Thủ Độ không đưa vào chương trình giảng dạy chính
khóa hiện hành.
Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do mô hình cấu tạo của chương
trình phổ thông hiện hành là mô hình đồng tâm: những thể loại đã có ở chương trình
THCS sẽ lặp lại ở chương trình THPT. Ứng chiếu với mục tiêu giáo dục trong
Chương trình giáo dục PT tổng thể sau 2018 và chủ trương chuyển đổi từ dạy học
chú trọng nội dung sang dạy học chú trọng phát triển năng lực của người học, có thể
khẳng định điều này không còn thực sự phù hợp nữa.
30
1.3.2.2. Việc dạy của giáo viên
Chúng ta đều biết rằng văn học trung đại là bộ phận văn học đồng hành với
sự phát triển của xã hội phong kiến. Trong các tác phẩm đều viết bằng ngôn ngữ
Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại ngày
nay. Vì vậy tìm hiểu, phân tích một tác phẩm văn học trung đại là việc làm không
đơn giản. Trong những năm vừa qua đội ngũ giáo viên dạy văn nói riêng đã được
trang bị nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã thực sự mang lại hiệu
quả tốt. Mặc dù vậy vẫn còn những hạn chế trong cách vận dụng phương pháp từ
đội ngũ. Bản thân những người dạy văn về cơ bản đã tận tâm tận lực với nghề, tích
cực nghiên cứu tìm hiểu các kiến thức.Tuy nhiên với sự đa dạng và phức tạp của
văn học trung đại thì hiệu quả dạy phần văn học này vẫn không tránh khỏi những
hạn chế. Các điển tích, điển cố của văn học trung đại là phức tạp và đa nghĩa. Vì
vậy đòi hỏi phải có một tư duy hết sức khoa học, hết sức sáng tạo đối với đội ngũ
giáo viên khi thực hiện phần văn học quan trọng này.
1.3.2.3. Việc học của học sinh
Thể loại văn học cổ có nhiều khác biệt với thi pháp văn học đương đại nên
gây khó khăn cho học sinh tiếp nhận. Vốn sống kinh nghiệm thực tế học sinh còn
ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển cố
được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển
đi lên của đât nước, chúng ta có những thành tựu quan trong về lĩnh vực kinh tế.
Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị trường đã tạo ra những phức tạp và những
ảnh hưởng không lành mạnh đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc
biệt là đối tượng học sinh, trong đó có học sinh bậc trung học cơ sở. Một bộ phận
lớn học sinh chịu ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức
học tập không cao, thiếu tự giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần
văn học khó nhất. Vì thế, chất lượng học sinh thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm,
cách nhìn nhận của phụ huynh học sinh là sính học các môn khoa học tự nhiên
cũng có những ảnh hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của học sinh
đối với môn Ngữ văn. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để
31
nâng cao chất lượng học bộ môn Ngữ văn đặc biệt là phần văn học Việt Nam
trung đại.
*Tiểu kết chương 1
Ở chương này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết liên
quan: Văn hóa truyền thống và các giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh
trong văn học trung đại rất đặc sắc và đa dạng, những giá trị đó cần được giữ gìn
và phát huy. Chương trình Ngữ văn phổ thông, SGK hiện hành có nhiều thay đổi
qua các thời kì để phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng dạy học. Bên cạnh đó, chúng
tôi tìm hiểu và chỉ ra diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kì trung đại. Lịch
sử- văn hóa- văn học có mối quan hệ chặt chẽ tạo ra hệ gía trị văn hóa truyền
thống còn tồn tại đến ngày nay. Việc tìm hiểu những vấn đề này nhằm tạo cái nhìn
cụ thể nhất cho việc nhận diện các giá trị văn hóa được phản ánh trong văn học
trung đại. Từ đó, chúng tôi khảo sát và nhận diện hệ thống giá trị văn hóa trong
các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiện
hành.
Phục vụ cho việc đưa ra các đề xuất ở chương sau, ngoài cơ sở nắm bắt
được những giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh trong các tác phẩm văn
học Việt Nam trung đại, chúng tôi còn tìm hiểu, nghiên cứu và chỉ ra một số tồn
tại trong việc dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại hiện nay. Đây sẽ
là tiền đề để chúng tôi xây dựng bài học gắn giá trị văn hóa truyền thống trong
việc giảng dạy các tác phẩm trung đại.
Chương đầu tiên là nền tảng vững chắc của đề tài. Từ những kết quả nghiên
cứu ban đầu về các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình Ngữ văn
PT hiện hành, ở chương sau, chúng tôi tiến hành nhận diện những giá trị văn hóa
truyền thống tiêu biểu trong các tác phẩm và xây dựng một số giáo án cụ thể.
Chương 2
32
NHẬN DIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU
TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH
2.1. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do
Chủ nghĩa yêu nước đã phát huy sức mạnh của nó trong các cuộc đấu tranh
chống ngoại xâm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, trong điều kiện quá chênh
lệch về tương quan lực lượng, dân tộc Việt Nam, với sức mạnh của chủ nghĩa yêu
nước, dân ta đã làm nên những chiến công chống ngoại xâm, liên tiếp trong gần
10 thế kỷ. Có thể kể đến Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng, Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất, Lý Thường Kiệt phá Tống lần thứ hai,
Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh,
Quang Trung đại phá quân Thanh. Đó là những chiến công hùng vĩ, được tạo nên
bởi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, mãi mãi rạng ngời trên trang sử nước nhà.
Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được tái hiện qua những trang sử
vẻ vang của dân tộc và cũng đã được thể hiện trong các tác phẩm văn học đặc biệt
là nền văn học Việt Nam trung đại.
Theo thống kê ở Phụ lục 2. Bảng thống kê các tác phẩm phản ánh truyền
thống yêu nước, yêu độc lập- tự do, biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong các tác
phẩm văn học trung đại được chọn dạy trong chương trình Ngữ văn phổ thông rất
phong phú, đa dạng, có thể nhận diện qua một số phương diện cụ thể. Tìm hiểu
các biểu hiện đó trong các tác phẩm tiêu biểu là việc làm cần thiết để phát huy
truyền thống quý báu của dân tộc.
2.1.1. Yêu nước là tự hào dân tộc
Trước hết, lòng tự hào dân tộc được thể hiện ở khát vọng độc lập tự cường,
xây dựng đất nước ngày càng phát triển, huy hoàng, lớn mạnh. Thiên đô chiếu của
Lí Công Uẩn (SGK Ngữ văn 8, tập 2) đã phản ánh khát vọng ấy. Ngay từ đoạn
đầu, Lí Công Uẩn đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục để bàn việc dời đô. Ông đã
33
lấy minh chứng từ các triều đại cổ của Trung Quốc: nhà Thương năm lần dời đô,
nhà Chu cũng ba lần phải chuyển dời. Đây không phải là ý muốn riêng tư cá nhân
mà là lẽ tất yếu, khách quan, là tầm nhìn hẹp hòi của hai triều đại Đinh, Lê trước
đó - khăng khăng giữ kinh đô tại một nơi nên vận nước không được lâu bền. Cuối
đoạn văn, nhà vua còn bày tỏ nỗi niềm “Trẫm rất đau xót vì việc đó”. Như vậy, ta
có thể thấy Lí Công Uẩn là một vị vua hết lòng lo nghĩ cho dân cho nước, luôn
canh cánh sứ mệnh thịnh hưng triều đại, sẵn sàng học hỏi kinh nghiệm từ các bậc
tiền bối.
Đó là lòng tự hào về chủ quyền của non sông đất nước. Trong kho tàng văn
học trung đại phong phú, Nam quốc sơn hà (SGK Ngữ văn 7, tập 1) nổi bật lên
như một trang sử vàng chói lọi, được xem là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên”
của nhà nước ta. Có rất nhiều nghi vấn về tác giả và sự ra đời của bài thơ, trong
đó nhiều người cho rằng thi phẩm được Lí Thường Kiệt sáng tác vào năm 1077,
tại đền thờ thiêng hai anh em Trương Hống - Trương Hát, bên bờ sông Như
Nguyệt. Tiếng thơ đanh thép, hùng hồn vang lên vào đêm khuya khiến quân Tống
khiếp sợ, lo lắng, nhuệ khí suy giảm, tiếp thêm sức mạnh cho quân ta tạo nên
chiến thắng sông Cầu lừng lẫy.
Nam quốc sơn hà được coi là “bản tuyên ngôn độc lập” bởi ngay từ hai câu thơ
đầu, lời khẳng định chủ quyền đầy sức nặng đã vang lên thật cương quyết:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
(Nam quốc sơn hà- SGK Ngữ văn 7, tập 1)
Hai câu thơ đã nhấn mạnh về độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của
nước Đại Việt. Hai tiếng “Nam quốc” (nước Nam) và “Nam đế” (vua Nam) thể
hiện một cách mạnh mẽ rằng mảnh đất phương Nam trù phú này là do người
phương Nam gây dựng. Đây là một chân lí, một sự thật “tiệt nhiên” không thể
chối cãi. Nước Nam do vua Nam cai trị có thể sánh ngang với đất Bắc rộng lớn,
không chịu lép vế trước bất cứ thế lực thù địch nào. Không chỉ vậy, tác giả còn
34
đưa ra lí lẽ rằng sự thật ấy đã định sẵn ở “thiên thư” sách trời ghi nhận, không thể
chối cãi. Với nghệ thuật điệp ngữ, hiệp vần chân cùng những từ ngữ khảng khái,
lần đầu tiên vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được đưa vào thơ ca hào sảng
và đanh thép đến thế. Hai câu thơ này cũng làm bừng lên cảm xúc kiêu hãnh, tự
hào của tác giả nói riêng và nhân dân nước Nam nói chung về sự độc lập, tự chủ
dân tộc. Từ đó, nhà thơ cũng cổ vũ, nêu cao tinh thần chiến đấu đánh đuổi quân
xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc trong nhân dân.
Trong Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2), Nguyễn Trãi đã thể hiện
lòng tự hào dân tộc khi ông khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triê ̣u , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập Đến Há n, Đườ ng, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu từng lú c khác nhau, Song hà o kiê ̣t đờ i nà o cũng có .
Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra mô ̣t quan niê ̣m đươ ̣c
đánh giá là đầy đủ nhất lú c bấy giờ về các yếu tố ta ̣o thành mô ̣t quố c gia đô ̣c lâ ̣p. Nếu như 400 năm trước, trong Nam quố c sơn hà , Lý Thườ ng Kiệt chỉ xác đi ̣nh được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quố c gia cù ng đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c thì trong Đại cá o bình Ngô, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bố n nhân tố nữa, gồ m văn hiến, li ̣ch sử, phong tu ̣c tâ ̣p quán và nhân tài. Và đương nhiên, mỗi quố c gia, dân tô ̣c đều có nét riêng biê ̣t, đặc trưng củ a ho ̣.
Niềm tự hào, tự tôn dân tộc gắn liền với sự tôn vinh những người anh hùng
của đất nước. Thông qua lời ca của các bô lão (Bạch Đằng giang phú – SGK Ngữ
văn 10, tập 2) một lần nữa hình ảnh nước sông trôi đi cuốn theo tất cả kẻ thù bất
nghĩa và chỉ còn danh tiếng người anh hùng lại được lưu danh, có ý nghĩa như
35
điệp khúc được nhấn mạnh, nâng cao. Riêng lời ca của khách nhằm hướng đến ca
ngợi hai vị vua là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông như là biểu tượng của
người tài đức, văn võ song toàn:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thuở thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Như vậy, vai trò và vị trí của con người lại được đề cao và tôn vinh thêm
một lần nữa. Đó là một chân lý đúng đắn, mang tư tưởng nhân văn cao đẹp.
Xin lập khoa luật (SGK Ngữ văn 11, tập 1) là một văn bản nghị luận sâu
sắc thể hiện rõ tinh thần yêu nước nồng nàn khi Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra
những lí do để khẳng định việc lập khoa luật là rất cần thiết với sự phát triển của
đất nước. Tác phẩm được trích trong bản điều trần Tế cấp bát điều của Nguyễn
Trường Tộ gửi cho triều đình nhà Nguyễn bày tỏ nguyện vọng chấn hưng đất
nước. Bài văn thuộc bản điều trần số 27, bàn về sự cần thiết của luật pháp với xã
hội nhằm thuyết phục nhà Nguyễn mở khoa Luật. Khi Nguyễn Trường Tộ viết
bản điều trần (năm 1867), lúc ấy nhà nước ta chưa có khoa luật, điều này cho thấy
tầm nhìn xa trông rộng của ông. Đoạn 1: Tác giả đưa ra các nội dung của luật để
khẳng định tài năng bao quát của luật với xã hội. Sau đó, khẳng định vai trò của
luật đối với việc trị dân- vua. Sang đoạn 2, tác giả khẳng định vai trò của luật.
Ông chỉ ra rằng, cái thứ lí thuyết viển vông của sách Nho “chỉ nói suông trên giấy”
là lẽ phải nhưng không đủ sức để thay đổi tâm tính, tự giác sửa mình. Đưa ra
những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết nhà nho, tác giả không chỉ hướng
đến việc phê phán sách Nho mà còn để khẳng định luật cần thiết cho sự ổn định
của quốc gia. Nho gia giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những
tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông. Đoạn 3, Nguyễn
Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng thời giải quyết triệt để những
nghi ngờ về khả năng của luật. Lập luận của ông sắc sảo để bác bỏ quan điểm
36
“luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi”. Ông khẳng định
“trái luật là tội, giữ đúng luật là đức”. Bằng khả năng lập luận tài tình, Nguyễn
Trường Tộ đã thuyết phục sự cần thiết của việc ban hành luật, khẳng định chân
lý “Lập khoa luật để dạy dân là một việc làm cần thiết”.
Dù hoàn cảnh ra đời của từng tác phẩm khác nhau, sử dụng các thể loại
khác nhau, mục đích nghệ thuật trực tiếp của từng tác phẩm có thể khác nhau
nhưng rất nhiều tác phẩm văn chương thời kì này thể hiện lòng tự hào dân tộc.
Mang hào khí tiêu biểu cho phong cách thơ đời Trần, các sáng tác đều mang cảm
hứng phấn chấn, hứng khởi trong khí thế chiến thắng, tâm hồn nghệ sĩ rộng mở,
giao hòa với non sông, hòa với niềm vui lớn lao của dân tộc.
2.1.2. Truyền thống căm thù giặc sâu sắc
Đó là thái độ căm phẫn, đe dọa sự ngang ngược, tàn bạo của quân xâm lăng:
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Nam quốc sơn hà – SGK Ngữ văn 7, tập 1)
Vì sao giặc dã quân thù lại ngang nhiên xâm lược vào một đất nước đã định
rõ chủ quyền như nước Đại Việt ta? Chứng kiến những hành động ấy, tác giả đã dùng
ngòi bút sắc sảo với tất cả tinh thần tự tôn dân tộc để phản đối và lên án. Vì lãnh thổ
của một quốc gia được trời đất chứng giám nên bất kì hành động nào vi phạm cũng
sẽ đều thất bại. Tác giả gọi giặc là “nhữ đẳng” (bọn chúng mày) bộc lộ sự mỉa mai,
chế giễu và khẳng định chúng sẽ “tan vỡ” vì ý thức được sức mạnh của lòng yêu
nước và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Nguồn lực kì diệu và mạnh mẽ ấy sẽ làm
quân thù phải khiếp sợ, sụp đổ hoàn toàn. Lời kết của bài thơ đã tô đậm thêm tinh
thần quyết tâm đánh giặc, căm phẫn quân thù.
Trần Quốc Tuấn đã phơi bày những tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân
đồng lòng đoàn kết đánh đuổi gặc ra khỏi bờ cõi nước Nam. Điều đó được phản
ánh chân thực và rõ nét trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn (SGK Ngữ
văn 8, tập 2). Ra đời vào năm 1285, trước cuộc khánh chiến chống quân Mông -
37
Nguyên lần thứ hai, Hịch tướng sĩ được danh tướng kiệt xuất Trần Hưng Đạo viết
để khích lệ tinh thần binh lính, đồng thời bộc lộ tinh thần dân tộc, lòng nhân ái,
yêu nước sâu sắc.
Tác giả cũng dùng ngòi bút sắc sảo của mình để phơi bày, tố cáo những
tội ác của giặc ngoại xâm. Chúng không những ngang nhiên đi lại, xâm phạm
triều định mà còn ra sức vơ vét của cải của nhân dân. Nghĩ về chuyện đó,
Hưng Đạo Vương bày tỏ thái độ căm giận, lo lắng tột độ: “Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức
chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những câu văn biền ngẫu,
những động từ mạnh đã lột tả sự phẫn nộ của ông lên đến đỉnh điểm, chỉ muốn
mau chóng đánh đuổi kẻ thù, giành lại một quốc gia độc lập tự chủ.
Chính vì quân giặc có những tội ác không thể dung thứ nên Trần Quốc Tuấn
ra sức kêu gọi binh lính và nhân dân đánh đuổi. Trước hết, ông nhắc về sự đãi ngộ
của mình cho binh lính. Cung cách đối xử của ông rất gần gũi, thân mật, không
để quân lính phải chịu thiệt thòi: “không có mặc thì ta cho áo, không có cơm thì
ta cho ăn, quan nhỏ thì thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng...” Ông sẵn sàng dồn
hết tình cảm, điều kiện để chăm chút cho quân dân. Nhưng một bộ phận quan lại,
binh lính làm ông vô cùng thất vọng: “hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy
việc đánh bạc làm tiêu khiển...” Trần Quốc Tuấn nghiêm túc, thẳng thắn phê bình
những người nhìn chủ nhục mà “không biết lo, thấy nước nhục mà không biết
thẹn”. Nếu sự ngang ngược của kẻ thù đã làm ông căm phẫn thì sự sa đọa, suy đồi
của chính những người thân cận lại khiến ông càng thêm đau đớn, xót xa.
Nguyễn Trãi đã vạch trần dã tâm xâm lược của giặc Minh trong Đại cáo bình
Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2). Chúng đã lợi dụng mâu thuẫn giữa nhà Trần và nhà
Hồ, lấy chiêu bài “phò Trần diệt Hồ” để xâm lược nước ta. Từ “thừa cơ” đã nói lên
tất cả tội ác xâm lược nước ta của giặc ác “trời không dung, đất không tha”:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
38
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Tiếp đến, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác tàn sát, giết hại dân lành của giặc Minh.
Chúng sát hại cả những người dân vô tội, những đứa trẻ thơ hiền lành. Lời văn
giàu hình tượng, cảm xúc, ngùn ngụt căm thù:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Chúng còn lừa dối nhân dân, bóc lột nhân dân ta bằng thuế khóa nặng nề,
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “Người bị đem vào núi đãi cát tìm
vàng”, khiến nhân dân ta điêu đứng, khổ cực. Chúng vơ vét tài nguyên khoáng
sản, tàn sát cả loài “côn trùng cây cỏ”.
Đối lập với người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù tàn ác, man rợ. Nguyễn Trãi
nói về bọn giặc với hình ảnh, lời lẽ thể hiện lòng căm thù cao độ:
Thằng há miệng, đứa nhe răng, màu mỡ bấy no nê chưa chán
Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc, để nói lên nỗi căm hờn chất chứa của
nhân dân. Nguyễn Trãi kết thúc bản cáo trạng bằng câu văn đầy hình tượng:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Từ đó, Nguyễn Trãi đưa ra kết luận: nhân dân ta không thể tha thứ cho tội
ác của giặc:
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được.
Lời văn trong bản cáo trạng đanh thép thống thiết, khi uất hận, sôi trào, khi
cảm thương tha thiết. Đoạn hai của bài văn chứa đựng những yếu tố của bản tuyên
ngôn nhân quyền. Tội ác của giặc Minh quả là “trời không dung đất không tha”,
vậy nên nhân dân ta lúc bấy giờ dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã đứng lên đánh
đuổi giặc Minh, buộc chúng phải thua chạy về nước và mang nỗi nhục nhã ngàn
năm không rửa nổi.
39
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu được
coi là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp ngay từ khi Pháp đặt chân
tới Việt Nam. Bài thơ Chạy giặc (SGK Ngữ văn 11, tập 1) của Nguyễn Đình Chiểu
đã phản ánh thực trạng của đất nước trong cảnh loạn lạc, và nỗi đau, ngóng trông
vào vị “thánh đế” có thể thay trời hành đạo như một trận mưa nhuần rửa sạch
những hôi tanh mà kẻ thù mang đến cho nhân dân.
Bài thơ thể hiện lòng yêu nước, nỗi đau trước cuộc sống khốn cùng của
nhân dân. Tình yêu ấy được thể hiện ở sự xót xa cho hoàn cảnh đất nước, thương
xót cho những số phận con ong cái kiến trong cơn loạn lạc.
Tan chợ vừa nghe súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay.
Tác giả lên án tội ác man rợ của giặc Pháp càn quét. Chúng đốt nhà, giết
người, cướp của, tàn phá quê hương, giống nòi. Lối viết đảo ngữ “Bến Nghé,
Đồng Nai” càng nhấn mạnh sự tang thương trước tội ác của kẻ thù:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Câu thơ vẽ lên một vùng đất bao la, trù phú “Bến Nghé” và “Đồng Nai”
phút chốc biến thành đống tro tàn. Đồng Nai trong thế kỉ thứ XIX vốn là một vựa
lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, vậy mà chỉ trong một khoảnh
khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc
cướp phá sạch tan tành thành bọt nước. Nhà cửa, xóm làng nhuộm một màu chết
chóc, chỉ còn lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh ‘tan bọt
nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể đặc tả cảnh điêu tàn do thực dân
Pháp gây ra.
Lòng yêu nước còn được thể hiện trong những lời điếu khóc thương cho những
anh hùng nghĩa sĩ đã hy sinh vì nghĩa lớn trong trận Cần Giuộc. Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc (SGK Ngữ văn 11, tập 1) là khúc ca hùng tráng tạo nên một cơn sóng ngầm
40
mạnh mẽ của lòng yêu nước nồng nàn. Khúc ca ấy là tiếng khóc đau thương cho thế
nước hiểm nghèo. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên đầu tác phẩm và tiếng khóc đau đớn
của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đâu thương cho cảnh đất nước bị giày xéo.
“Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Câu văn đã dựng lên một khung cảnh bão táp,
căng thẳng của thời đại khái quát đầy đủ hiện thực đất nước: một bên là cuộc xâm
lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù; một bên là vai trò, ý chí chống giặc ngoại xâm bừng
sáng. Hai mặt đó chi phối toàn bộ thời cuộc, cho thấy một cái nhìn sự thế đầy sâu
sắc, tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu.
Nhưng tất cả chỉ là nền để vẻ đẹp anh hùng trong họ bừng sáng. Người
nông dân căm thù giặc trước những hành động ngang ngược, sục sôi trước tội ác
của chúng: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan/ Ngày xem ống
khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”. Người nông dân có ý thức trách nhiệm về độc
lập, lãnh thổ, giang sơn, không chờ hối thúc, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi”.
Chiến đấu vì độc lập tổ quốc bằng tất cả tinh thần dũng cảm, khí thế hào hùng,
hành động như vũ bão với đạp rào lướt tới, “xô cửa xông vào”, “coi giặc như
không”… Tinh thần nghĩa khí bất khuất của họ ai có thể quên. Những con người
ấy mang quan niệm yêu nước truyền thống tích cực: “Sống đánh giặc, thác cũng
đánh giặc”; sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng mang tư tưởng thời đại “chết vinh còn
hơn sống nhục” đầy ngưỡng mộ.
Yêu nước là căm thù giặc sâu sắc, là tố cáo tội ác bất nhân của kẻ thù: tàn
hại sinh linh, giày xéo, tàn phá quê hương. Từ lòng căm phẫn ấy, biết bao sáng
tác thời trung đại đã ủ lửa truyền lại thế hệ sau để biến thành một làn sóng đấu
tranh giải phóng dân tộc sau này.
2.1.3. Truyền thống yêu nước thể hiện ở khát vọng độc lập
Khát vọng độc lập, bảo vệ độc lập chủ quyền đã được Trần Quang Khải
kêu gọi trong bài Tụng giá hoàn kinh sư (SGK Ngữ văn 10, tập 1):
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san.
41
Có thể nói, Trần Quang Khải không chỉ là vị tướng văn võ song toàn mà ông
còn có con mắt nhìn xa trông rộng và tấm lòng luôn lo nghĩ cho đất nước. Chiến
thắng được đội quân hùng mạnh nhất không có nghĩa là đất nước đã hòa bình, ấm
no mà điều ấy còn phụ thuộc vào tinh thần bảo vệ dân tộc của nhân dân. Nhận thấy
được điều đó nên ông khuyên mọi người nên dồn hết tất cả tài năng, sức lực kết
hợp với tinh thần yêu nước sâu sắc để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ hòa bình. Đặc biệt,
việc quan trọng này không chỉ dành riêng cho bất kì ai mà cả non sông đều phải
gắng sức, cả dân tộc đều phải đồng lòng. Như vậy, dư âm của chiến thắng vừa là
động lực thúc đẩy nhân dân gìn giữ non sông, vừa là sứ mệnh cao cả mà khối đại
đoàn kết dân tộc phải tiếp tục đảm nhiệm.
Kết thúc bài Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2), Nguyễn Trãi
trịnh trọng, vui mừng thay mặt Lê Lợi tuyên bố với nhân dân cả nước thắng lợi
vừa qua:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình
lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự
nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện
với "những sự đổi thay" nhưng cũng như càn khôn "bĩ rồi lại thái", như nhật
nguyệt "hối rồi lại minh". Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được
cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là "muôn
thuở nền thái bình vững chắc". Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong
tương lai vững vàng và tươi sáng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy
tân khắp chốn”.
Lòng yêu nước còn thể hiện ở sự mong chờ những con người tài đức ra tay
dẹp loạn, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân:
42
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
(Chạy giặc – SGK Ngữ văn 11, tập 1)
Trang dẹp loạn là trang anh hùng hào kiệt. Nhà thơ vừa trách móc quan
quân triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, bạo nhược, để kể thù dày xéo quê hương,
vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay cứu nước dẹp loạn, để cảnh yên bình
thuở xưa trở lại. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu Nguyễn Đình Chiểu với
những kiếp người lầm than đang quằn quại dưới gót giày của bọn đế quốc. Chạy
giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ
XIX.
Khát vọng độc lập muôn đời cho dân tộc được các tác giả phản ánh cụ thể,
đa dạng trong từng tác phẩm. Đây là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc
thể hiện tinh thần đoàn kết, ước nguyện hòa bình mà nhân dân mong chờ ở mọi
thời đại.
2.1.4. Truyền thống yêu quê hương, đất nước
Lòng yêu nước không chỉ thể hiện khi đất nước lâm nguy, không chỉ ra nơi
chiến trường đối diện với hòn tên, mũi đạn mà cả khi đã thanh bình, mỗi người
yêu quý quê hương, nhớ quê hương da diết và khao khát trở về dù mảnh đất ấy
còn nghèo khó. Điều đó được thể hiện trong bài thơ Quy hứng (SGK Ngữ văn 10,
tập 1) của Nguyễn Trung Ngạn.
Lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của Nguyễn Trung Ngạn trước hết
được thể hiện ở trái tim luôn hướng về quê hương với những hình ảnh rất đỗi bình
dị mà thân thương.
Lão tang diệp lạc tàm phương tận
Tảo đạo hoa hương giải chính phì
Những hình ảnh thân thương của làng quê Việt Nam được thể hiện lên thật
đẹp. Bức tranh làng quê Việt Nam được ông vẽ lên qua nhiều giác quan. Có thị
giác qua việc miêu tả là dâu già rụng “lão tang diệp lạc”, tằm đang độ chín (tàm
43
phương tận); ngửi được mùi thơm của những bông lúa chín sớm “tảo đạo hoa
hương” và như được nếm cả những vị của những con cua béo ngậy “giải chính
phì”. Những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam hiện lên trong thơ khiến
người đọc có cảm giác đó cũng là quê hương của tất cả mọi người bởi nó quen
thuộc, dân dã. Nhớ quê hương tác giả nhớ ngay đến những điều bình dị thân thuộc
nhất của quê hương mình. Phải có một tình yêu quê hương sâu đậm, nỗi nhớ quê
hương dạt dào, tác giả mới có thể bộc lộ hết tình cảm của mình qua những hình
ảnh bình dị như vậy.
Yêu nước không chỉ là ra làm quan, giúp vua, mà có thể là sống thanh nhàn,
gắn bó với thiên nhiên, cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòe
lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng
ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen
tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của
Nguyễn Trãi, bức tranh buổi chiều tàn mà sức sống vẫn tràn đầy. Cuộc đời là
một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ
tích bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống
với đời.
Ta bắt gặp tiết trời thu xanh ngắt, ao thu lạnh lẽo trong Thu điếu của Nguyễn
Khuyến:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời
nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu
44
trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và
cái “lưng dậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm).
Sống trong những triều đại khác nhau, chịu sự chi phối khác nhau của lịch
sử, đồng thời mỗi người với một tâm tính, một cá tính sáng tạo đã làm nên những
cảm hứng riêng về cảm hứng yêu nước. Có nỗi buồn, có niềm vui, niềm say mê
hứng khởi, có giận thương, có buồn tủi, có bâng khuâng hổ thẹn, có rạo rực hả
hê… Nguồn cảm hứng vô tận được thể hiện bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu
riêng. Có giọng điệu hùng tráng ở nhiều cấp độ, hình thái khác nhau. Có giọng
điệu bi tráng, phẫn uất thành tiếng than, lời gọi. Có giọng điệu nhẹ nhàng, say sưa
trước cảnh sắc thiên nhiên, đất nước… Tất cả tạo nên sự đa thanh, đa sắc, thể hiện
sâu sắc, phong phú trong nội dung phản ánh tư tưởng yêu nước - một vẻ đẹp rực
rỡ của tâm hồn dân tộc.
2.2. Truyền thố ng nhân đa ̣o
Chủ nghĩa nhân đạo là toàn bộ những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý
trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.
Chủ nghĩa nhân đạo không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao
hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng,
bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại. Biểu hiện của chủ
nghĩa nhân đạo rất đa dạng, là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm quý trọng các
giá trị của con người, nhưng trong văn học có thể phân ra bốn biểu hiện chính, đó
là: thông cảm, thấu hiểu cho số phận con người; khám phá và tôn vinh vẻ đẹp con
người; tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người; nâng niu ước mơ
của con người hay mở ra một tương lai tươi sáng cho con người. Số lượng những
tác phẩm, đoạn trích thể hiện truyền thống nhân đạo chiếm một số lượng lớn (Xem
Phụ lục 3).
2.2.1. Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người
Nếu trước thế kỉ XVIII, trong văn học thường thấy xuất hiện đề tài tôn giáo,
nhân vật thường là những người xuất thân từ tầng lớp trên thì sau đó đã có nhiều
45
thay đổi: Đề tài được phản ánh là tình yêu; nhân vật xuất hiện với thế chủ động
và đặc biệt là xuất hiện nhiều nhân vật phụ nữ.
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người
phụ nữ đẹp, từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người
lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng
biệt. Đó là lời ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Điều đó được thể hiện qua
đoạn trích Chị em Thúy Kiều (SGK Ngữ văn 9, tập 1). Vẻ đẹp của Thúy Vân được
miêu tả như sau:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của
nhân vật. Bằng bút pháp ước lệ, thủ pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ
thể hóa bằng khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong
việc sử dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”,
“nở nang” “đoan trang”. Còn đây là bức chân dung của nàng Kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ, tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ.
Thúy Kiều là một tuyệt thế giai nhân. Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ
miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài
năng “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong
việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy vân, tưởng như
sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa, để rồi sau đó, Thúy Kiều xuất
46
hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc đẹp của Thúy Kiều là tuyệt
đỉnh.
Thúy Kiều không chỉ “đẹp người” mà nàng còn là người “đẹp nết”. Thuý
Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu “Dẽ
cho để thiếp bán mình chuộc cha”. Không chỉ thế, trong suốt 15 năm lưu lạc, Kiều
không nguôi nhớ về gia đình, về người yêu đầu tiên, về một thời trong trắng thơ
ngây của mình.
Vẻ đẹp của người phụ nữ cũng được nữ sĩ Hồ Xuân Hương khắc họa qua bài
thơ Bánh trôi nước (SGK Ngữ văn 7, tập 1):
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Dù nhan đề là Bánh trôi nước nhưng đọc lên lại làm ta nghĩ đến một người
phụ nữ với làn da trắng và thân hình tròn trịa, đầy đặn như viên bánh trôi nước.
Đó chính là sự tài tình của bà chúa thơ Nôm. Điệp từ “vừa” như nhấn mạnh thêm
vào vẻ đẹp đồng thời diễn tả niềm kiêu hãnh về sắc đẹp của Hồ Xuân Hương nói
riêng và của người phụ nữ nói chung. Và hơn ai hết, họ là những con người đức
hạnh, luôn giữ tấm lòng thủy chung, trong trắng cho dù hoàn cảnh có đẩy đưa phải
“Ba chìm bảy nổi”:
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Vẻ đẹp của người phụ nữ còn được nhà văn Nguyễn Dữ ca ngợi qua hình
tượng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì
mạn lục- Nguyễn Dữ) (SGK Ngữ văn 9, tập 1). Nàng là người con gái “tính đã
thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung,
son sắc trong tình nghĩa vợ chồng. Biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng
luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền
thục, khôn khéo, nết na đúng mực. Khi chồng đi chinh chiến, nàng không mong
được hưởng vinh hoa phú quý mà chỉ xin chồng trở về mang theo hai chữ bình
yên “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc
47
áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ
rồi”. Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã
thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần
phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.
Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với
cha mẹ đẻ của mình. Vũ Nương yêu thương con hết mực. Sợ con thiếu vắng tình
cảm của người cha nên nàng đã chỉ vào cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha
bé. Người phụ nữ ấy đã làm tròn trách nhiệm của một người con dâu, người vợ
khi chồng đi chinh chiến.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến hiện lên sinh động, đa chiều trong
các sáng tác. Họ có những điểm chung là vẻ đẹp về ngoại hình và phẩm chất
nhưng lại mang số phận bi kịch, luôn khát khao hướng về tình yêu và hạnh phúc
gia đình, đều nói lên tiếng nói chống phong kiến, bảo vệ nhân quyền.
2.2.2. Đồng tình với khát vọng của con người
Chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm văn học trung đại còn thể hiện ở sự
đồng tình với những khát vọng chính đáng của con người. Đó là lời ngợi ca mối tình
thủy chung, trong trắng của Thúy Kiều - Kim Trọng đặc biệt trong đêm Thề nguyền
(Ngữ văn 10, tập 2). Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là
sự khẳng định cho niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình
yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi
trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại. Để bảo vệ,
vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:
Cửa ngoài vội rủ rèm the
Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu
sắc, hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời
không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là
tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng Kim món tóc
48
mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây
gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của “vầng trăng vằng
vặc giữa trời”:
Vừng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Nguyễn Du còn đồng tình với ước mơ tự do về công lí, công bằng trong xã
hội và Từ Hải là nhân vật đại diện cho khát vọng ấy. Từ Hải (đoạn trích Chí khí anh
hùng – SGK Ngữ văn 10, tập 2) là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh
hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình cao
lớn: "Râu hùm hàm én mày ngài - Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Những
chiến công hiển hách, lẫy lừng: “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam". Từ Hải là
một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Từ Hải là một con
người luôn đặt sự nghiệp lên hàng đầu. Hình ảnh người anh hùng Từ Hải ra đi thật
đẹp đẽ, mạnh mẽ và phóng khoáng. Con người như mang trong mình một sức mạnh
của thiên nhiên, vẫy vùng giữa trời cao biển rộng. Người anh hùng Từ Hải được
khắc họa rất sinh động:
Trông vời trời bể mênh mang
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.
Hình ảnh con người với thanh gươm yên ngựa giữa bầu trời bao la, với khí
thế hào hùng. Thái độ ra đi dứt khoát “thẳng rong” nghĩa là chàng không hề suy
nghĩ lâu cũng không bị chuyện nữ nhi thường tình níu kéo. Vì vậy khi đã động
lòng bốn phương Từ Hải sẵn sàng lên đường “thẳng rong” tự do như mây bay
gió lượn giữa bầy trời rộng lớn.
Giang hồ quen thói vẫy vùng
Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.
49
Sự nghiệp mà chàng mong muốn là có trong tay một đội quân tinh nhuệ,
hùng hậu và thiện chiến “mười vạn tinh binh” là một đội quân với lực lượng lớn
chỉ những bậc đế vương mới có được. Đây là một viễn cảnh hào hùng, vẻ vang,
một sự nghiệp xứng đáng với bậc anh hùng. Nguyễn Du đã so sánh Từ Hải với
chim bằng (chim đại bàng) để nhấn mạnh sức mạnh bản lĩnh phi thường cảnh ra
đi vì sự nghiệp hùng tráng của chàng như chim bằng bay giữa gió mây biển cả.
Giữa không gian ấy chí khí của người anh hùng được thoả sức vẫy vùng. Hai câu
thơ kết dựng lên hình ảnh phóng khoáng kì vĩ của người anh hùng đồng thời làm
nổi bật rõ chân dung khí phách của người anh hùng này.
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (SGK Ngữ văn 10, tập 1) đề cao tinh
thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của Ngô Tử Văn.
Qua đó, tác giả thể hiện niềm tin vào công lý chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian
tà, đồng thời lên án lũ giặc xâm lược dù đã chết vẫn không ngừng gây tội ác trên
đất nước ta.
Trong mọi giai đoạn lịch sử, khát vọng của con người luôn được đề cao,
trân trọng. Các nhà văn đã rất tinh tế khi thể hiện ước nguyện, mong muốn của
con người trước xã hội còn nhiều bất công. Những khát vọng được thể hiện trong
văn học Việt Nam trung đại không chỉ đúng với thời kì văn học này mà nó còn
tồn tại đến cả thế hệ sau. Đó là những khát vọng chính đáng, thiết thực với con
người mà ở xã hội nào cũng cần được thực hiện.
2.2.3. Đồng cảm, xót thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã
hội phong kiến
Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong văn học trung đại là một bước
tiến mới, tạo tiền đề cho văn học viết về phụ nữ ở giai đoạn sau. Không chỉ đề
cao người phụ nữ, các tác giả còn thể hiện lòng cảm thương sâu sắc cho số phận
bi kịch của họ trong xã hội bất công. Nguyễn Du đã khái quát:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
50
Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu nhất của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong
văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các sáng tác của
ông toát lên tư tưởng, tình cảm, nhân cách của một con người nặng tình đời tình
người. Ông quan tâm tới tất cả số phận bất hạnh trong xã hội, những con người
nhỏ bé, những thân phận “con ong, cái kiến”. Đặc biệt ông quan tâm đến số phận
của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Và Truyện Kiều chính là một tác phẩm đẫm
tinh thần nhân văn ấy. Thúy Kiều là một cô gái tài sắc nhưng cuộc đời nàng đã
phải trải qua mười lăm năm “lên thác xuống ghềnh”. Bi kịch đầu tiên trong cuộc
đời của người con gái tài hoa ấy là phải trao duyên cho em gái. Nguyễn Du thấu
hiểu nỗi đau đớn của Thúy Kiều khi phải Trao duyên (Ngữ văn 10, tập 2):
Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Thúy Kiều đã coi Thúy Vân là đại ân nhân của mình để nàng lạy rồi thưa
chuyện bởi đây là một việc khó nói. Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng là thế giờ
đây lại trở thành của chung:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Khi duyên không còn, Thúy Kiều cất tiếng kêu đau đớn đến xé ruột:
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu
lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã. Nỗi thương mình (SGK Ngữ văn 10, tập 2) là
tâm sự của Thúy Kiều về cuộc sống tủi nhục, đầy nhuốc nhơ của mình:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Trong những lúc như vậy thì “rượu” chính là thứ để Kiều giải sầu khi tỉnh
rượu và đêm đã khuya nàng mới “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Câu
51
thơ như tiếng nấc xen lẫn cả tiếng thở dài không ai thương cho thân phận mình
nên Thúy Kiều tự ôm lấy mình mà khóc mà sầu. Cuộc vui chóng tàn, người rồi
cũng đi, cô đơn lẻ bóng. Từ nỗi đau thân phận lời thơ bật lên những câu hỏi khi
sao, giờ sao, mặt sao, thân sao đó là sự đối lập giữa quá khứ và thực tại. Quá khứ
êm đềm tươi đẹp còn hiện tại thì bị chà đạp vùi dập.
Tiếp nối đề tài người phụ nữ với số phận tài hoa bạc mệnh, tình yêu thương
con người của Nguyễn Du còn dành cho một cô gái ở đất nước Trung Quốc xa
xôi đó là Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí (SGK Ngữ văn 10, tập 1). Tiểu
Thanh là cô gái sống ở đầu thời Minh - Trung Quốc, xinh đẹp tài hoa. Nàng làm
lẽ trong một gia đình quyền quý, thường bị vợ cả ghen ghét, mất ở tuổi 18. Nỗi
uất ức của nàng được gửi gắm trong nhiều bài thơ như bị vợ cả đốt dở chỉ còn lại
phần dư. Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Ngữ văn 10, tập 1) được Nguyễn Du sáng
tác khi đọc “phần dư” và nhớ cố nhân, xót thương cho một kiếp người tài hoa,
cho những giá trị tinh thần bị chà đạp:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát
hạnh phúc, Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh
phúc, được sống trong mái ấm gia đình. Trong bài thơ Tự tình II (SGK Ngữ văn
11, tập 1), nữ sĩ giãi bày cảnh ngộ éo le:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Cảnh đêm khuya với tiếng trống canh từ xa văng vẳng dồn về. Trong thời
điểm đó, nhà thơ - nhân vật trữ tình lại đang một mình trơ trọi giữa đêm khuya.
Từ nỗi cô đơn, thao thức không biết bày tỏ, tâm sự cùng ai, nhà thơ muốn tìm đến
rượu, mượn rượu để giải sầu:
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
52
Cơn say qua đi và khi tỉnh rượu, nhân vật trữ tình giật mình quay về với
thực tại và càng nhận ra nỗi trống vắng, bội bạc khi chạm phải “Vầng trăng
bóng xế khuyết chưa tròn”. Tình duyên vẫn chưa trọn vẹn mà tuổi xuân đã dần
trôi đi:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con.
Vừa đau buồn, cô đơn, vừa phẫn uất trước duyên phận, hình ảnh một
người đàn bà tù túng, bức bối trong dòng thời gian dằng dặc buồn bã đang cay
đắng chán chường nhìn hương sắc đời mình tàn tạ. Thế mà kết thúc lại là một
cái rất bé, rất ít: đã “tí” lắc còn “con con” - tức là rất nhỏ bé, nhỏ đến mức khó
chịu. Khát vọng tình yêu của Hồ Xuân Hương là ôm trùm trời đất, tạc vào vũ
trụ nhưng trong dòng thời gian vô tận. Bài thơ Tự tình II khép lại nhưng thực
chất mở ra một tâm hồn đầy khát vọng của một con người mong cầu hạnh phúc
gia đình.
Chinh phụ ngâm khúc sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ
XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên
miên hết Lê - Mạc đến Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa.
Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp
nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa
chồng. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Ngữ văn 10, tập 2) đã
miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong
tâm trạng người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh
phúc lứa đôi:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Nàng hết dạo hiên rồi lại ngồi cuốn rèm lên, buông rèm xuống, nỗi nhớ
thương thầm gieo từng bước chân. Mỗi bước chân là một nhịp đếm, bước chân
53
như chất chứa nỗi lòng ưu tư phiền muộn với những lo lắng cho số phận của
người chồng. Đêm năm canh với nàng là một khoảng thời gian quá dài:
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình
cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua
chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản
kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Chinh phụ ngâm toát lên tư tưởng chủ đạo
trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng
hạnh phúc rất chính đáng của con người.
Các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ
văn phổ thông đều cho thấy cách nhìn hiện thực và nhân đạo của các tác giả về
con người. Sự xuất hiện của người phụ nữ gắn với những bi kịch trong đời sống
vật chất và đặc biệt là đời sống tình cảm trong thơ trung đại là một bước tiến mới,
một sự cách tân trong quan niệm và tư tưởng. Bởi lẽ, trong xã hội phong kiến,
không phải tác giả nào cũng lấy đó làm chủ đề cho sáng tác của mình. Nhiều tác
giả vượt qua rào cản định kiến để viết lên thái độ, tình cảm và gửi gắm trong sáng
tác một phần số phận của mình. Đồng thời cất lên tiếng nói cảm thông với số phận
bất hạnh của người phụ nữ. Người phụ nữ xuất hiện không đơn thuần bị biến thành
mẫu người nêu gương đạo đức, chỉ biết đến bổn phận mà họ còn là những người
con gái thiết tha với tình yêu, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Điều này khiến các
tác phẩm viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến được nhiều sự đồng cảm
sâu sắc, được nhìn nhận trên tinh thần nhân văn: đề cao, trân trọng con người.
So với người phụ nữ xưa thì người phụ nữ ngày nay đã có nhiều đổi khác,
được cả xã hội trân trọng. Họ có đủ điều kiện để tự giải phóng mình, sống bình đẳng
trong xã hội, đa số người phụ nữ đã có được cuộc sống hạnh phúc và góp phần vào
công cuộc xây dựng đất nước.Tuy nhiên không phải họ đã hết những bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Trải qua hàng nghìn năm phong kiến, những lề
thói cũ vẫn duy trì ở một số nơi khiến người phụ nữ vẫn phải chịu nhiều bất hạnh
54
như: nạn bạo hành gia đình, thói trọng nam khinh nữ, tệ nạn buôn bán phụ nữ... cần
phải đấu tranh để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng. Học sinh là chủ nhân tương
lai của đất nước, các em sẽ là những người trực tiếp đấu tranh trong công cuộc đó.
Hệ thống tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ
thông với cảm hứng nhân đạo viết về người phụ nữ sẽ giúp cho các em thấu hiểu nỗi
bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đồng thời phấn đấu cho một xã
hội hiện đại công bằng, bình đẳng bằng việc trau dồi tri thức, vươn lên làm chủ cuộc
đời, làm chủ tương lai của chính mình.
2.2.4. Hướng tới những giải pháp đem đến hạnh phúc cho con người, cuộc
sống. Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các
dân tộc là những ứng xử đạo lí của dân tộc ta. Chúng ta không vì sự man rợ của
giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có gì quý hơn sinh mạng con
người? “Người ta là hoa của đất”. Do đó, nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng,
là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “Bốn phương biển cả thanh bình,”...
Trong Đại cáo bình Ngô, sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, quân và
dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổi cùng giết tận, việc
làm đó đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc. Chúng ta đã “chẳng giết
hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để xử tội ác chiến tranh,
có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó
khi bọn giặc “đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho
chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày
một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được “nghỉ sức” trong thanh bình:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn
thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không
nhân nghĩa.
55
Dù sống trong bùn nhơ nhưng con người lương thiện vẫn giữ được đạo lý
làm người:
Vui là vui gượng kẻo là,
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự ý
thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường
được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi
nhân vật “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì điều này đã bao hàm ý
nghĩa “cách mạng” . Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà
bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của
bản thân.
Truyền thống nhân đạo còn được biểu hiện trong việc đề cao đạo đức, lối
sống đẹp giữa con người với con người. Một nội dung khá mới mẻ trong thơ ca
trung đại Việt Nam đó là viết về những công lao to lớn của vợ, điều đó được thể
hiện trong bài thơ Thương vợ (SGK Ngữ văn 11, tập 1). Trần Tế Xương là một
người rất thông minh, tuy nhiên sự nghiệp thi cử của ông lại gặp nhiều gian nan
vất vả. Một đời tài hoa, một đời lận đận, ông Tú chỉ có mình bà Tú. Bà Tú cũng
là nỗi day dứt của một người chồng công danh dang dở, sự nghiệp hẩm hiu, bị đời
biến thành một kẻ vô tích sự. Chính vì thế mà nhà thơ xấu hổ vì không làm tròn
trách nhiệm của một người chồng, nhà thơ thương vợ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Ông thấu hiểu nỗi vất vả quanh năm của người vợ. Bà Tú tần tảo buôn bán
ngược xuôi cũng chỉ để “Nuôi đủ năm con, với một chồng”. Con thì có thể đếm,
còn chồng chỉ có một, sao lại đếm. Ông Tú đã hạ bậc mình xuống bằng con, cay
đắng nhận ra mình cũng chỉ là một thứ con trong cái gánh nặng của người vợ. Nỗi
đau cay cực chất chứa trong hai chữ “nuôi đủ” không chỉ đủ về quân số (năm với
một) mà còn đủ về thành phần (cả con lẫn chồng), đủ mọi nhu cầu mọi bề mọi vẻ.
56
Có thể tình thương vợ của Tú Xương đã quặn đau lên trong lòng người chồng
sống dậy, như chỉ ra nguyên nhân gây nên nỗi khổ của vợ là mình và đời:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
Đó thực sự là tiếng chửi đời. Đời bạc, mình cũng bạc, đời bạc đã đày ải người
vợ hiền, đời bạc đã biến mình thành ông chồng vô tích sự. Với tiếng chửi này, tình
thương tột bậc đã chuyển hóa thành căm phẫn. Nếu không có một tình thương như
thế thì bức chân dung về bà Tú không thể sâu đậm được.
Tác phẩm Khóc Dương Khuê (SGK Ngữ văn 11, tập 1) đã thể hiện một tình
cảm cao đẹp trong truyền thống đạo lí của người Việt Nam đó là tình bạn. Dương
Khuê là một người bạn tri kỉ của nhà thơ, là người bạn luôn ủng hộ nhà thơ trong
triều chính, cũng là một bạn thơ văn lúc đàm đạo văn chương. Thế nhưng từ khi
nhà thơ về ở ẩn, cả hai người không có thời gian đến thăm nhau. Cả hai đều ở tuổi
đã già, bác Dương đã mắc bệnh và qua đời. Nhà thơ nhận được tin buồn ấy đau
đớn khi mất đi một người bạn tri kỉ. Bài thơ là một đạo lí về tình bạn cao đẹp, tình
người còn nồng đượm. Nỗi đau của nhà thơ khi nghe tin bạn mất quả thực là một
cú sốc lớn về tinh thần:
Bác Dương thôi đã thôi rồi
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.
Nhà thơ không nói bác Dương mất mà lại nói “thôi đã thôi rồi” để giảm đi
nỗi đau xót trong lòng mình. Nước mây cũng “man mác” buồn trước sự ra đi của
bác và nhà thơ thì ngậm ngùi xót xa.
Nghe tin bác Dương mất nhà thơ chân tay như rụng rời. Hiện thực đau khổ,
bây giờ rượu ngon không có bạn hiền thì làm sao rượu có thể ngon được nữa. Giờ
đây, thơ văn không có ai cùng bàn soạn, giường kia treo cũng hững hờ, đàn kia
gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Nhà thơ nói như không chấp nhận sự thật ấy. Bác
Dương đi rồi, bảo ở lại cũng chẳng ở, thôi thì nhà thơ lấy nhớ làm thương. Bởi
người chết được “lên tiên” thanh thản, chấm dứt những ngày sầu héo. Vả lại,
57
thương bạn một nửa thương mình một nửa. Người đời thường nói: “Nỗi buồn chia
đôi, niềm vui nhân đôi, nỗi buồn chia đôi, buồn vơi một nửa”.
Khóc Dương Khuê khép lại trong nỗi ngậm ngùi xót xa của nhà thơ. Bài
thơ gợi mở ra đạo lí làm người cao đẹp, tình bạn mãi sẽ là tri kỉ, bởi con người
vẫn đúng đạo. Tất cả vì chung “một chữ tình”. Cái tình với non sông, với nhân
thế, với kiếp người.
Chủ nghĩa nhân đạo đã giúp con người thời đại xem xét và định giá lại
những giá trị tinh thần cũ. Chủ nghĩa nhân đạo có vai trò quyết định trong việc
đổi mới văn học cả về nội dung và hình thức sáng tác. Từ đó, đề tài phản ánh và
đối tượng được nói đến trong văn học chủ yếu là hướng tới con người, vì con
người. Đây cũng chính là tiền đề để giai đoạn văn học sau vẫn lấy con người là
đối tượng chính.
2.3. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên Khảo sát hệ thống tác phẩm văn học trữ tình trung đại Việt Nam trong sách
giáo khoa phổ thông hiện hành có thể nhận thấy số lượng các tác phẩm được viết
với cảm hứng thiên nhiên chiếm số lượng lớn. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà
văn trung đại hình như không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện
mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và
tư tưởng triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học. Hiện tượng này có thể
bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con
người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn
tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho
con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của
nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước. Hiện tượng nghệ thuật này cũng
có thể nảy sinh từ hệ triết học phương Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo
vật và con người tương sinh trong thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời
sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.
58
Tiến hành khảo sát hệ thống tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong
chương trình Ngữ văn phổ thông, chúng tôi nhận thấy thiên nhiên trong văn học
Việt Nam trung đại có một số đặc điểm sau:
2.3.1. Thiên nhiên giản dị, thơ mộng giàu sức sống
Trong kho tàng văn học thời Lý -Trần bên cạnh những áng hung văn lẫm
liệt, còn có những bài thơ trữ tình đằm thắm, trong đó bài thơ Thiên Trường vãn
vọng (Ngữ văn 7, tập 1) là một tác phẩm tiểu biểu.
Từ lầu son gác tía, Trần Nhân Tông trở về quê cũ, phóng tầm mắt ra xa,
hòa mình vào thiên nhiên quê nhà cảm nhận trọn vẹn sắc màu rực rỡ. Đó là một
buổi chiều quê bình dị, thân quen. Ánh mặt trời khuất sau rặng tre chỉ còn lại
rơi rớt lại đâu đây, chút ánh sáng yếu mềm, hắt hiu. Làng quê trở nên yên ả,
mọi người quây quần bên bếp lửa hồng sau một ngày lao động mệt nhọc. Ta
nghe đâu đây tiếng sáo vi vu trong trẻo, êm ả, du dương. Nó phải chăng là tiếng
sáo của những chú mục đồng đang đuổi trâu về. Tiếng sáo vui tươi, lòng người
rạo rực, buổi chiều quê hiện lên sao mà thơ mộng. Từng đàn cò trắng chao liệng
trên không trung, chốc chốc lại sà xuống cánh đồng bất tận. Sức trắng của cánh
cò nổi bật trên màu xanh đồng ruộng. Nó cũng là màu sắc của làng quê. Ta
thường thấy trong những câu ca dao mẹ hay hát về đàn cò trắng bay trên đồng
lúa xanh bao la, hình ảnh đã đi vào tâm tưởng và nhận thức của người dân Việt
Nam từ rất xưa. Nó là biểu tượng, là nét đặc trưng của làng quê Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một nhà thơ viết nhiều, viết hay về cảnh trí thiên nhiên và
một tình yêu tha thiết tạo vật, với một cảm hứng lịch sử thể hiện niềm yêu nước và
niềm tự hào dân tộc. Bài thơ Cảnh ngày hè (SGK Ngữ văn 10, tập 1) vừa là bức
tranh thiên nhiên, bức tranh con người, vừa là bức tranh tâm trạng thấm đẫm tình
yêu nước của nhà thơ. Từng nét vẽ nhẹ nhàng, đơn sơ, từng màu sắc bình dị nhẹ
nhàng thân quen, hình ảnh làng quê Việt Nam hiện lên qua thơ Nguyễn Trãi thật
đẹp. Khung cảnh thiên nhiên có sắc có hương: Sắc rực rỡ, hương ngào ngạt. Thiên
nhiên làng quê thanh bình, yên ả, không có loạn lạc chiến tranh. Sự bình dị, dịu
59
dàng trải khắp quê hương mang theo tình yêu thiên nhiên ngọt ngào, sâu lắng nỗi
đắm say nồng nàn của tác giả. Qua ngòi bút của Nguyễn Trãi ta thấy quê hương
hiện lên rất đẹp, giản dị mà thanh tao.
Vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên cũng được Nguyễn Khuyến khắc họa qua
Thu điếu (SGK Ngữ văn 11, tập 1). Bài thơ là một bức tranh tuyệt mĩ về phong
cảnh mùa thu của đồng bằng Bắc bộ. Một bức tranh mùa thu hòa hợp, duyên dáng,
nhẹ nhàng, thanh tao với làn nước trong veo, làn sóng xanh biếc, lá vàng rơi và
trời xanh ngắt. Mọi vật cử động rất nhẹ nhàng như sợ làm xáo động bức tranh thu:
sóng chỉ hơi gợn tí, lá vàng cũng chỉ khẽ đưa:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Hình ảnh thơ gợi một bức tranh phong cảnh rất đẹp với một khoảng không
gian trong trẻo, xinh xắn và tĩnh lặng. Mặc dù chỉ là hình thức bên ngoài nhưng cảnh
câu cá vẫn được miêu tả đầy đủ với không gian “ao thu” “thuyền câu” và người đi
câu. Bức tranh phong cảnh được vẽ thật khéo léo: ao thu với làn nước trong, sóng
gợn nhẹ, bầu trời cao xanh lồng lộng, không gian yên tĩnh, vắng vẻ không gian bức
tranh được khuôn gọn trong một chiếc ao. Chủ thể trữ tình - người phác họa bức
tranh đang ngồi trên chiếc thuyền câu để thả câu câu cá. “Lá vàng trước gió khẽ đưa
vèo” mặc dù là động nhưng vì động khẽ khàng nên thực chất là lấy động để tả cái
tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc ao thu quê nhà. Bài thơ khép
lại trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước cao đẹp của nhà thơ. Từ
thân thế, cuộc đời, hoàn cảnh sống của Nguyễn Khuyến có thể hiểu, tâm sự của người
câu cá chính là nỗi lòng non nước, nỗi lòng thời thế của nhà Nho có lòng tự trọng và
lòng yêu quê hương đất nước tha thiết.
Thiên nhiên như một chiếc vỏ ốc hoàn hảo để các thi sĩ thuở xưa thả hồn
vào đây quên đi những ưu tư phiền muộn, sóng gió ở đời. Hòa mình với thiên
60
nhiên, đắm say trong cảnh sắc tự nhiên của tạo hóa, ngày ngày đọc sách ngâm
thơ, xa rời chính sự cũng là lối sống của không ít các thi nhân Việt Nam trong đó
có Nguyễn Bỉnh Khiêm với bài thơ Nhàn (Ngữ văn 10, tập 1). Bài thơ là lời tâm
sự thâm trầm, sâu sắc, khoáng đạt khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp
với thiên nhiên giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Bản chất của chữ
“nhàn” trong quan niệm đạo giáo là sống theo lẽ tự nhiên, xa rời danh vọng. Thú
vui của tâm của thân chỉ có thể được tìm thấy khi được sống trong thiên nhiên.
Trong cuộc sống đạm bạc hàng ngày tuy thô sơ, đạm bạc nhưng thảnh thơi, thoải
mái. Một trạng nguyên nhưng lại giống như một “lão nông tri điền” ung dung
trong cuộc sống lao động tự cung tự cấp, không gò bó, không phụ thuộc. Đó là
cuộc sống gắn liền với đồng ruộng quê hương, tự tay lao động phục vụ cuộc sống.
Đây cũng là một thú vui trong đời:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Nếu những người ngoài kia ham mê tửu sắc, ham công danh phú quý muốn
sống xa hoa hưởng thụ thì Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ chọn cuộc sống yên bình, hòa
hợp với thiên nhiên. Cuộc sống đạm bạc nhưng yên vui, có trúc ăn trúc có măng
ăn măng, ăn thức ăn theo mùa của tự nhiên, chẳng cần đâu sơn hào hải vị. Khi
tắm hồ sen, khi lại tắm ao, đắm chìm trong thiên nhiên như thế, cuộc sống đạm
bạc an nhàn:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Về với thiên nhiên là về với màu xanh cây lá về với hương thoang thoảng
của hoa sen nội đồng quê bát ngát. Cảnh sắc, hương trôi, êm ả, tĩnh lặng, trong
trẻo, sự trong trẻo ấy như tưới mát tâm hồn con người khiến nó trở lên tươi đẹp
hơn, quên đi những đố kị hẹp hòi. Chỉ còn lại thiên nhiên với con người hòa làm
một. Với tình yêu thiên nhiên đắm say. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về quê nhà, về
61
để sống nhàn, sống không vướng bụi danh vọng. Đó cũng là tình yêu quê hương
đất nước đến vô cùng, yêu từng cành cây tán lá, từ những thứ đơn sơ nhất, bình
dị nhất.
Nếu Nguyễn Trãi miêu tả bức tranh ngày hè thật sống động, cảnh vật cựa
quậy, bứt phá để “phun” ra, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giản dị là
măng trúc, rau giá thì Nguyễn Du lại gửi đến bạn đọc một bức tranh mùa xuân
mới mẻ, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo nhẹ nhàng mà thanh khiết, tinh khôi
trong Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – SGK Ngữ văn 9, tập 1).
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân vừa gợi không
gian vừa gợi thời gian. Bầu trời cao rộng, trong trẻo từng đàn én rộn ràng bay lượn
như thoi đưa. Trong không gian của đất trời mùa xuân, thời gian đang chuyển dần
đến điểm cuối “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” xuân đã đi qua sáu
chục ngày rồi và đất trời đang ở trong tháng ba. Không gian tràn ngập ánh thiều
quang - ánh nắng. Ánh nắng ấy có những nét riêng đặc trưng cho mùa xuân, nó
không nóng bức, như mùa hè, dịu buồn như mùa thu, mà nắng xuân rất tươi vui,
trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngày đầu năm. Bức tranh mùa xuân
thật đẹp, có phông, có nền “cỏ non xanh tận chân trời”. Sắc cỏ tháng ba xanh non
tơ nõn nà, mềm mượt, êm ả, nó trải rộng ra “tận chân trời” không có điểm dừng.
Cả không gian chìm trong sắc xanh tươi mới đầy sức sống. Trên nền cỏ xanh ấy
được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần là nét
vẽ trung tâm của bức tranh.
Bài thơ Qua đèo Ngang (SGK Ngữ văn 7, tập 1) là một bức tranh thiên nhiên
đẹp bình dị hoang sơ nhưng thấm đẫm lòng người, mang nặng tâm sự của nữ thi sĩ.
Lần đầu nữ sĩ “Bước tới đèo ngang” đặt chân dưới con đèo “đệ nhất hung quan” này,
62
địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình vào thời điểm “bóng xế tà” lúc
mặt trời đã nằm ngang sườn, ánh sáng hắt hiu. Nữ sĩ ngắm nhìn cảnh vật nơi đây với
bao tâm trạng. Nắng tắt đêm về, lúc mọi người quay quần, gần gũi nhau trong bữa
cơm chiều xúm xít, quay quần cùng là lúc nỗi buồn trào dâng trong lòng những con
người xa nhà, xa quê. Nỗi buồn lan xa cùng thiên nhiên, cảnh vật càng thêm hoang
sơ, quạnh quẽ đến não lòng. Chỉ có cây và hoa đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt
nhau để sinh sôi, để tồn tại, “chen” với đất đá khô cằn sắc nhọn nơi đèo cao hoang
vắng này. Đứng từ trên cao nhìn xuống và nhìn xa. Cuộc sống của người dân nơi đây
hiện lên qua ba nét vẽ thật đẹp. Ngắm nhìn thiên nhiên hai miền đất nước trên ngọn
đồi cao, gửi tình yêu vào thiên nhiên hay cũng gửi tình yêu với nước nhà với non
nước Việt Nam.
Qua tác phẩm Bạch Đằng giang phú (SGK Ngữ văn 10, tập 2), người đọc sẽ
cảm nhận được vẻ đẹp của hồn thiêng sông núi Đại Việt:
Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
Trong sự bao la của non nước đất trời muôn vàn sóng kình nổi lên thành
từng lớp lớp một. Nó gợi lên cái nhìn thật xa xăm mênh mông sóng nước dập
dềnh. Trên con sông ấy những con thuyền đuôi trĩ một màu giống nhau như làm
nên một bức tranh sông nước con thuyền cong đẹp đến mê hồn người. Tất cả mang
đến cho tâm hồn ta những cảm xúc yên bình thanh thản.
Thiên nhiên trong văn học trung đại không chỉ là những hình ảnh ước lệ tượng
trưng, hùng vĩ lớn lao mà còn là những hình ảnh giản dị, gần gũi, giàu sức sống. Tất
cả đều mang vẻ đẹp của đất trời bao la, tươi đẹp và gắn bó với con người.
2.3.2. Thiên nhiên chứa chất tâm trạng đa chiều của con người
Nguyễn Du đã viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
63
Thiên nhiên không chỉ giàu sức sống mà nó gần gũi với con người là bởi
qua nó, con người gửi gắm những suy tư, tình cảm riêng. Đó là tâm trạng nuối
tiếc “buồn vì thảm cảnh” trước một không gian cô quạnh hiu vắng của dòng sông
Bạch Đằng:
Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu,
Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô.
Thực tại phũ phàng, giờ đây tất cả chỉ còn lại tro tàn của cuộc kháng chiến
oanh liệt khi xưa. Hai bờ sông, lau lách xào xạc mang một vẻ đìu hiu buồn bã,
và trong cái không gian mờ ảo như hiện lên bãi chiến trường xưa kia đang phơi
bày những "giáo gãy", "xương khô" mọi thứ tiêu điều:
… Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.
Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá
Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.
Một tâm trạng buồn, thương tiếc, một cảm xúc "đứng lặng giờ lâu" của
"khách", tất cả đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc đối
với nhân dân, với những anh hùng khi xưa đã đem xương máu bảo vệ dòng sông
và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung "Uống nước nhớ nguồn"
xuất phát từ tâm hồn đồng cảm nơi tác giả.
Thiên nhiên chất chứa tâm trạng con người còn là thiên nhiên đang tiềm
ẩn một sức sống nhưng bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt trong thơ Hồ Xuân
Hương:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
(Tự tình II – SGK Ngữ văn 11)
Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của
thiên nhiên cũng là tâm trạng của con người - câu thơ như muốn nói lên nổi
buồn phẫn uất của tác giả. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với những
bổ ngữ: ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, một
64
tâm trạng khác thường, khác người, sự vật bình thường nhưng có những
hành động phi thường. Tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu
thơ này quả là đáng ghi nhận. Dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm
hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng
chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và tác giả cũng vậy. Điều
đó càng diễn tả tâm trạng của Xuân Hương muốn bứt phá rào cản đề đi tìm
hạnh phúc, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của
nữ sĩ.
Thiên nhiên trong các tác phẩm trữ tình Việt Nam trung đại trong chương
trình Ngữ văn phổ thông không phải lúc nào cũng êm dịu, trong sáng mà thiên
nhiên còn hắt hiu, cô quạnh, thể hiện một cách sâu sắc tâm trạng bi kịch trong tình
yêu của con người thời đại. Thiên nhiên hiu hắt, cô đơn, ẩn chứa những hiểm nguy
như báo trước số phận con người:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
(Kiều ở lầu Ngưng Bích – SGK Ngữ văn 9)
Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà trên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng,
cánh hoa trôi man mác đến nội cỏ rầu rầu, tiếng sóng ầm ầm, đều thể hiện tâm
trạng và cảnh ngộ của Kiều. Đó là sự cô đơn, thân phận bấp bênh vô định. Cảnh
lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ
nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng
kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng như báo trước dông bão của số phận
sẽ vùi dập cuộc đời Kiều. Bản chất trữ tình của thiên nhiên đã được Nguyễn Du
65
khám phá, nói lên tiếng nói nhân đạo của mình về hạnh phúc chân chính của con
người.
Đối với học sinh hiện nay, việc tiếp nhận tác phẩm trữ tình trung đại Việt
Nam có nguồn cảm hứng thiên nhiên là một việc làm tương đối khó khăn. Bởi, xã
hội ngày càng phát triển, học sinh được tiếp cận với nhiều thứ “mới lạ” nên đôi
khi các em không thiết tha với văn chương. Ngoài ra, học sinh đang ở lứa tuổi
mới lớn, khoảng cách về thời đại, nền văn hóa, biểu tượng, cách cảm, cách nghĩ,
sự hiểu biết... của các em đối với nét thiên nhiên cổ xưa ở làng quê còn nhiều hạn
chế (đặc biệt là học sinh thành thị).
Khi tình trạng vô cảm của thanh thiếu niên trong xã hội hiện đại đang là
vấn đề nhức nhối thì việc tạo ra một tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng yêu thương
với những rung động tinh tế về đời sống là việc làm hết sức quan trọng. Hệ
thống tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ
thông có nguồn cảm hứng thiên nhiên giữ vai trò quan trọng trong việc kích
thích trí tưởng tượng, say mê, giúp các em được sống trong không gian và thời
gian cổ xưa đầy chất trữ tình và thi vị. Những sự vật bình dị quanh cuộc sống
như ngọn lúa, con sông, cũng là những chứng nhân lịch sử, bám sát bước đi
của con người thời đại... Đó chính là cách để gợi lên tâm hồn quê hương, tinh
thần dân tộc, đưa học sinh trở về với cội nguồn dân tộc xưa, tăng thêm vốn
sống, làm giàu thêm vẻ đẹp tâm hồn và hoàn thiện về nhân cách sống của thế
hệ trẻ hôm nay.
* Tiểu kết chương 2:
Chương 2 chúng tôi đã nhận diện, chỉ ra những giá trị văn hóa truyền thống
tiêu biểu trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ
văn phổ thông hiện hành, bao gồm: Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do;
Truyền thống nhân đạo; Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên. Mỗi
nét đẹp văn hóa này được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, rất đa dạng và
cụ thể. Trong đó, truyền thống yêu nước và truyền thống nhân đạo được phản ánh
66
xuyên suốt trong các tác phẩm thời trung đại. Qua hai truyền thống tốt đẹp ấy, các
tác giả đã gửi gắm không ít những bài học về đối nhân xử thế, về đạo làm người
và cách ứng xử với thiên nhiên, vạn vật.
Những giá trị văn hóa được phản ánh trong các tác phẩm không chỉ có ý
nghĩa văn chương mà còn gắn với thực tiễn ở mọi thời đại. Các giá trị văn hóa
truyền thống được thể hiện đa dạng trong chương trình Ngữ văn PT hiện hành sẽ
là tiền đề để chương 3 chúng tôi tiến hành xây dựng bài học dạy học tích hợp đối
với các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ
thông hiện hành.
Chương 3 TÍCH HỢP GIÁ O DỤC GIÁ TRI ̣ VĂN HÓ A TRUYỀ N THỐ NG TRONG
DẠY-HỌC CÁ C TÁ C PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜ I TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG
Có thể nói, văn học Việt Nam trung đại là nơi lắng đọng nhiều vỉa tầng văn
hóa dân tộc, trong đó có các giá trị văn hóa truyền thống cần trao truyền cho thế hệ
sau. Tinh thần ôn cố tri tân, tích hợp giáo dục văn hóa truyền thống trong mỗi giờ
dạy - học văn học trung đại trong nhà trường là việc làm hữu ích, cần phát huy.
3.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học tích hợp trong dạy học tác
phẩm văn học Việt Nam thời trung đại
3.1.1. Cơ sở lí luận:
67
Nội hàm khoa học của khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát
là “sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể
thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng chứ không
phải phép cộng đơn giản những thuộc tính của các thành phần ấy”. Như vậy, tích
hợp có hai tính chất cơ bản là tính liên kết và tính toàn vẹn.
Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là “sự kết hợp một cách hữu cơ,
có hệ thống, những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học
khác nhau hoặc các hợp phần của phân môn thành một nội dung thống nhất”.
Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng coi người học là trung
tâm, dạy học theo quan điểm thích hợp đang ngày càng trở thành xu thế dạy học
đem lại hiệu quả cao.
Ngữ văn là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính công cụ. Văn
học đem đến cho người học những tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; làm
phong phú đời sống tâm hồn, hướng người học đến những giá trị của chân, thiện,
mĩ. Ngữ Văn còn rèn luyện cho người học những kỹ năng để trở thành những con
người có ích cho xã hội. Con đường giáo dục của Văn học là đi từ tình cảm, nhận
thức đến hành động. Vì vậy, nó dễ tác động và thấm sâu, thấm lâu trong lòng con
người. Theo xu hướng chung, trong những năm qua, việc tích hợp trong môn Ngữ
văn được thực hiện khá phong phú với nhiều nội dung và hình thức tích hợp: giáo
dục bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông, sức khỏe sinh sản, kỹ năng
sống… Việc tích hợp đem đến cho giờ học không khí sôi nổi và mang tính thực
tiễn cao.
3.1.2. Cơ sở thực tiễn:
Hiện nay trên thế giới, bên cạnh các trào lưu dạy học hiện đại như DH
theo mục tiêu, DH phân hoá, DH tương tác…; DH tích hợp đang dần trở thành
một trào lưu sư phạm chiếm nhiều ưu thế... Ở Việt Nam, bản dự thảo Chương
trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT biên soạn đã xác định:
“Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương
68
trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [6]. Hơn nữa,
“Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn,
Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán
triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích
hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong
hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo” [6].
Như vậy, vấn đề cấp thiết đang đặt ra là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng
DH tích hợp vào chương trình ngữ văn ở nhà trường PT nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới.
Bản chất của mỗi tác phẩm văn học chân chính xét đến cùng là những vấn
đề của cuộc sống và con người bởi “văn học là nhân học”, “văn học là cuộc
sống”... Vì vậy, so với các môn khác, môn Văn rất thuận lợi cho việc lồng ghép
giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh trong từng giờ học. Trong khi
đó, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy môn Văn hiện nay về cơ bản
còn nhiều hạn chế như: nặng về lí thuyết, chưa gắn văn chương với cuộc sống,
không phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, hiệu quả giáo dục chưa
cao… Đặc biệt, chiếm một dung lượng khá lớn và là bộ phận rất quan trọng trong
chương trình Ngữ văn PT nhưng phần văn học Việt Nam trung đại xuyên suốt 10
thế kỷ với nhiều thành tựu rực rỡ chưa thực sự phát huy được tầm quan trọng của
nó. Thực tế cho thấy, việc giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở
trường PT gặp không ít khó khăn. Về phía giáo viên, do tuổi đời và vốn kiến thức,
vốn văn hóa, văn học thời trung đại hạn chế dẫn đến tình trạng không ít giáo viên
đã “hiện đại hóa” tác phẩm, áp đặt cách cảm cách hiểu của người hiện đại vào tác
phẩm của một thời đã xa, hoặc qui tất cả nội dung tư tưởng vào các giá trị yêu
nước, nhân đạo một cách chung chung, không thuyết phục. Về phía học sinh, do
tác động của đời sống văn hóa xã hội đa phương tiện, phần lớn học sinh không
hứng thú khi học các tác phẩm cổ xưa với hàng loạt từ ngữ khó hiểu, hệ tâm lý,
thẩm mỹ, văn hóa xa lạ với hiện thực... Vì vậy, câu hỏi làm thế nào để một giờ
69
dạy học văn trung đại trở nên sinh động, thú vị và có ý nghĩa thiết thực với cuộc
sống thực tại hôm nay vẫn đang được đặt ra với cả thầy và trò trong nhà trường
các cấp.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đã và đang trở thành một cái
làng toàn cầu global village về mọi phương diện. Riêng bình diện văn hóa, toàn
cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau
hơn, là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn
hóa. Không thể phủ nhận một sự thật trong thực tế hội nhập ngày nay, một số giá
trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một và mất đi. Trong khi đó, với đặc
trưng tâm sinh lí lứa tuổi, học sinh PT có xu hướng chạy theo cái mới, rất dễ bị
kích động đến tư tưởng, tình cảm cũng như hành vi. Trên thực tế, không ít học
sinh đang lãng quên các giá trị văn hóa truyền thống, có lối sống tiêu cực, sùng
bái văn hóa ngoại lai… Vì vậy, việc giáo dục giá trị văn hóa truyền thống được
các nhà văn gửi gắm trong các tác phẩm văn học thời trung đại là việc làm quan
thiết, giúp cho thế hệ trẻ - những chủ nhân của tương lai đất nước có đủ tâm, đủ
tài tiếp bước cha ông. Đây chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta trong bối
cảnh “chiến tranh văn hóa”, “xung đột văn minh”, “vấn đề sắc tộc và tôn giáo”
hiện nay.
Mặt khác, đây cũng là một phương án tích cực nhằm đổi mới chương trình
đào tạo và phương pháp giảng dạy môn Văn trong trường PT. Với mỗi giờ học văn
trung đại, học sinh không chỉ tiếp cận được cái hay cái đẹp của hệ thống ngôn ngữ,
nhân vật, cấu trúc tác phẩm… mà còn thấm thía sức sống/giá trị lâu bền và thiết thực
của các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; góp phần đưa văn chương về gần
cuộc sống và góp phần đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện.
3.2. Thiết kế một số chủ đề tiêu biểu theo hướng tích hợp giáo dục văn hóa
truyền thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong
nhà trường PT
70
Dạy học theo chủ đề là một phương thức dạy học mới, chưa phổ biến rộng
rãi nên việc hiểu và vận dụng nó còn tồn tại nhiều vấn đề. Việc tổ chức dạy học
theo chủ đề để hướng tới mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực học sinh hiện nay
chưa thực sự được các tổ chuyên môn ở các trường và các giáo viên quan tâm tìm
hiểu, thiết kế. Việc tiếp cận phương pháp dạy học mới của người dạy rất được chú
trọng song mức độ quan tâm và vận dụng việc dạy học theo chủ đề vẫn chủ yếu ở
mức độ nghiên cứu lí thuyết. Cần tìm hiểu kĩ lưỡng, khắc phục tồn tại, phát huy
những ưu thế để có thể ứng dụng việc dạy học theo chủ đề đạt hiệu quả.
Theo kết quả nghiên cứu ở chương 2, chúng tôi đã tích hợp các giá trị văn
hóa truyền thống trong hai nhóm chủ đề tiêu biểu là nhóm chủ đề yêu nước và
nhóm chủ đề nhân đạo. Các chủ đề dạy học tích hợp giá trị văn hóa truyền thống
đều được xây dựng đều xoay quanh hai nhóm chủ đề lớn này.
3.2.1. Nhóm chủ đề yêu nước
Nhóm chủ đề yêu nước có thể có một số chủ đề nhỏ như: Lòng tự hào dân
tộc, Tinh thần bảo vệ chủ quyền quốc gia, Ca ngợi người anh hùng với lí tưởng
cao đẹp, Hình tượng người nông dân đánh giặc, Tình yêu thiên nhiên, … Yêu
nước là chủ đề xuất hiện trong tất cả các giai đoạn văn học, mức độ và biểu hiện
của nó cũng không giống nhau mà rất đa dạng.
Chương trình THCS có 8 tác phẩm mang nội dung yêu nước nổi bật, chủ
yếu ở lớp 7 (4 tác phẩm: Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, Thiên trường
vãn vọng, Côn Sơn ca), lớp 8 (3 tác phẩm: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Nước
Đại Việt ta (Trích Đại cáo bình Ngô)), lớp 9 (1 tác phẩm: Hoàng Lê nhất thống
chí). Chủ đề yêu nước phản ánh trong các tác phẩm này chủ yếu là việc bảo vệ
chủ quyền quốc gia, lòng tự hào dân tộc như Nam quốc sơn hà, Thiên đô chiếu,
Tụng giá hoàn kinh sư; yêu nước là yêu thiên nhiên, quê hương: Thiên trường vãn
vọng, Côn Sơn ca.
Chương trình THPT có 14 tác phẩm chỉ tập trung ở hai lớp, lớp 10: 8 tác phẩm
(Thuật hoài, Cảnh ngày hè, Quốc tộ, Quy hứng, Bạch Đằng giang phú, Đại cáo bình
71
Ngô, Hiền tài là nguyên khí quốc gia, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên); lớp 11:
6 tác phẩm (Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thu điếu, Hương Sơn phong cảnh
ca, Cầu hiền chiếu, Xin lập khoa luật). Chủ đề yêu nước trong các tác phẩm ở bậc
THPT biểu hiện đa dạng, phức tạp hơn: Yêu nước là yêu thiên nhiên (Cảnh ngày
hè); là lí tưởng lớn lao của người anh hùng vì dân tộc (Thuật hoài); yêu nước là nỗi
lo cho nhân dân trước cảnh lầm than, lên án tội ác của giặc (Chạy giặc). Bên cạnh đó
còn kể đến biểu hiện của lòng yêu nước trong tất cả các tác phẩm thể hiện ở ý thức
sử dụng ngôn ngữ, chất liệu văn học đậm đà bản sắc dân tộc như một số đoạn trích
Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên…
Có thể khẳng định đây là chủ đề văn học xuyên suốt xuất hiện từ văn học
dân gian, văn học trung đại và đến văn học hiện đại. Vì thế, việc đưa nhiều tác
phẩm có nội dung yêu nước vào giảng dạy ở Chương trình phổ thông cũng là điều
dễ hiểu.Tuy nhiên, nhìn vào việc phân phối số lượng các tác phẩm như trên có thể
thấy sự không đồng đều. Hơn nữa, trong tổng số 50 tác phẩm văn học Việt Nam
trung đại được thống kê trong Phụ lục có đến 21 bài có nội dung chủ yếu là yêu
nước - một số lượng tác phẩm tương đối nhiều. Thực trạng này đặt ra vấn đề: cần
sắp xếp, bố trí lại các tác phẩm cho phù hợp hơn, tránh bị trùng lặp mà vẫn đảm
bảo rõ ràng về nội dung, tư tưởng.
Dựa vào việc tìm hiểu Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới nhất
của Bộ có đề cập đến việc dạy học tích hợp, cắt giảm thời lượng tiết học và tham
khảo một số ý kiến [6], chúng tôi tiến hành sắp xếp các tác phẩm cùng thể hiện
một chủ đề nằm trong nhóm chủ đề yêu nước với thời lượng theo phân phối
chương trình như sau:
STT 1
Tác phẩm Nam quốc sơn hà Tụng giá hoàn kinh sư Lớp 7 7 Số tiết 1 1
Chủ đề Lòng tự hào, khẳng định chủ quyền dân tộc Thiên đô chiếu 8 1
Hịch tướng sĩ 8 2
72
Nước Đại Việt ta Quốc tộ 8 10 1 1
Bạch Đằng giang phú 10 2
Đại cáo bình Ngô 10 2
2
Đề cao người anh hùng dân tộc 9 10 2 1
3
Tư tưởng canh tân, cải cách đất nước.
8 10 11 1 1 1
Hoàng Lê nhất thống chí Thuật hoài Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn Thái sư Trần Thủ Độ Bàn luận về phép học Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Cầu hiền chiếu Xin lập khoa luật
4
7 1 Thiên trường vãn vọng Côn Sơn ca
Tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. 10 11 1 1
Cảnh ngày hè Thu điếu Hương Sơn phong cảnh ca
Tùy vào yêu cầu đảm bảo giờ dạy, quan điểm tích hợp của các tổ chuyên
môn, tùy thuộc vào đối tượng tiếp cận mà sắp xếp, chọn lựa, bố trí tác phẩm trong
chủ đề cho hợp lí. Ở phần sau chúng tôi sẽ trình bày nội dung cụ thể của chủ đề
về yêu nước, tự hào dân tộc đã có sự thay đổi một số đơn vị kiến thức cũng như
dung lượng bài học sẽ được bố trí lại.
3.2.2. Nhóm chủ đề nhân đạo
Nhìn chung, nhóm chủ đề này được phản ánh trong các tác phẩm văn học
trung đại biểu hiện trên ba điểm chính:
+ Cảm thông sâu sắc với những nỗi khổ của con người.
73
+ Đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người, những giá trị tốt đẹp của
cuộc sống; niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn của những kiếp người nhỏ bé trong xã
hội.
+ Lên tiếng tố cáo các thế lực trong xã hội đã chà đạp lên quyền sống của
con người, cất tiếng nói bảo vệ và đòi quyền sống xứng đáng cho những kiếp đọa
đày đau khổ.
Hầu hết các tác phẩm đưa vào chương trình phổ thông đều ít nhiều mang tính
nhân đạo. Cũng tương tự như chủ đề yêu nước, ở mỗi lớp, mỗi cấp học lại có sự
phân phối và mức độ phản ánh khác nhau.
Chương trình THCS có 7 tác phẩm: Lớp 6 có hai tác phẩm, cả hai đều là
truyện trung đại (Con hổ có nghĩa và Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng), tính nhân
đạo thể hiện ở việc đề cao ân nghĩa, tấm lòng nhân ái của con người. Lớp 7 cũng
có hai tác phẩm, chủ đề nhân đạo được phản ánh qua hình tượng người phụ nữ:
Sau phút chia li (Trích Chinh phụ ngâm khúc), Bánh trôi nước. Biểu hiện của chủ
đề nhân đạo là thể hiện sự đề cao, trân trọng vẻ đẹp và lòng cảm thương sâu sắc
những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Lớp 9, chủ đề nhân đạo tiếp tục
được phản ánh thông qua hình tượng người phụ nữ (3 tác phẩm: Chuyện người
con gái Nam Xương, đoạn trích trong Truyện Kiều (Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã
Giám Sinh mua Kiều).
Trong chương trình THPT, các tác phẩm mang nội dung nhân đạo về cơ bản
vẫn xoay quanh người phụ nữ (8 tác phẩm). Lớp 10: Độc Tiểu Thanh kí, Tình cảnh
lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm khúc), một số đoạn trích trong
Truyện Kiều (Trao duyên, Nỗi thương mình). Lớp 11: Tự tình II, Thương vợ. Chủ đề
nhân đạo còn thể hiện ở những khía cạnh khác như Lẽ ghét thương (Trích Truyện
Lục Vân Tiên) - tư tưởng yêu, ghét rõ ràng, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - cảm thương,
trân trọng những người nông dân đánh giặc…
Tương tự như chủ đề yêu nước, các tác phẩm phản ánh chủ đề nhân đạo
cũng tồn tại sự gần gũi về nội dung chính, số lượng các tác phẩm khá nhiều (15
74
tác phẩm) đặt ra vấn đề cần có sự sắp xếp, bố trí lại Chương trình cho phù hợp
hơn. Một số chủ đề tiêu biểu trong nhóm chủ đề này bao gồm:
Lớp Số tiết
STT
Tác phẩm Bánh trôi nước
7
1
Chuyện người con gái Nam Xương
9
2
1
Tên chủ đề Đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội phong kiến
9
1
Chị em Thúy Kiều Độc Tiểu Thanh kí
10
1
6
1
Con hổ có nghĩa Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng
Đề cao lòng nhân ái, khoan dung, yêu thương con người
Bạn đến chơi nhà Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
7 9
1 2
2
Lẽ ghét thương
11
2
11
3
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Khóc Dương Khuê
11
2
Thương vợ
Sau phút chia li
7
1
Nỗi nhớ thương, cô đơn thầm lặng
Qua đèo Ngang Kiều ở lầu Ngưng Bích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
7 9 10
1 1 2
3
10
2
Trao duyên Nỗi thương mình Tự tình II
11
1
Qua tìm hiểu hai nhóm chủ đề trên cho thấy các chủ đề của văn học trung
đại được phản ánh rất phong phú, đa dạng. Nhóm chủ đề yêu nước và chủ đề nhân
đạo ở giai đoạn văn học nào cũng xuất hiện và biểu hiện trên nhiều phương diện
khác nhau. Chính vì thế, dạy học theo chủ đề hướng tới cái nhìn xuyên suốt của
văn học Việt Nam. Dạy học theo chủ đề tích hợp các giá trị văn hóa truyền thống
vừa tránh trùng lặp, chồng chéo kiến thức, vừa hình thành được hệ thống kiến
thức sâu rộng. Đồng thời còn phát huy được năng lực, chủ động, sáng tạo của
người học và hướng đến giải quyết các vấn đề thực tiễn. Để việc dạy học theo chủ
đề tích hợp các giá trị văn hóa truyền thống đối với các tác phẩm văn học Việt
Nam trung đại trong Chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành cần tiến hành
75
theo hệ thống các bước tuần tự. Cần xây dựng cấu trúc bài học cụ thể để chuẩn bị
những vấn đề cần thiết nhất cho việc dạy một tiết học dạy học tích hợp theo chủ
đề các giá trị văn hóa truyền thống đối với các tác phẩm văn học Việt Nam trung
đại.
3.3. Các bước chuẩn bị dạy học theo chủ đề tích hợp
3.3.1. Phân chia bài học; cấu trúc lại chương trình
Việc phân chia các tác phẩm trong một chủ đề phải dựa trên các tiêu chí về
nội dung, trình độ tiếp nhận của người học, dựa vào phân phối chương trình hiện
hành để xác định thời lượng bài học.
Để phân chia bài học, trước hết cần tiến hành rà soát, đánh giá Chương trình
phần văn học Việt Nam trung đại trong Chương trình Ngữ văn phổ thông hiện
hành. Theo đó, tiến hành thống kê số lượng, chủ đề của các tác phẩm, phân nhóm
tác phẩm vào những chủ đề thích hợp. Đồng thời, chỉ ra một số tác phẩm có dung
lượng dài, khó tiếp cận, những tác giả đã được học ở lớp dưới và học nhiều tác
phẩm của cùng một tác giả. Ví dụ, tác giả Hồ Xuân Hương đã được học ở THCS
với bài Bánh trôi nước. Có thể xếp bài thơ vào nhóm chủ đề nhân đạo và tìm hiểu
cùng với những tác phẩm khác cùng chủ đề như Nỗi thương mình (trích Truyện
Kiều), Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục), Độc Tiểu
Thanh kí... Một số bài có sự gần gũi về nội dung tình yêu thương con người như:
Thương vợ, Khóc Dương Khuê, Bạn đến chơi nhà…cũng có thể xếp vào một chủ đề.
Trên cơ sở rà soát và đánh giá chương trình, tiến hành thu gọn những bài có nội dung
trùng lặp hoặc không cần thiết với trình độ học vấn phổ thông trong việc rèn luyện,
phát triển các năng lực người học. Có thể bỏ những nội dung bài quá khó, chưa hoặc
không cần thiết với học sinh phổ thông. Ví dụ: Các bài đọc thêm nên để học sinh tự
nghiên cứu ở nhà hoặc lồng ghép vào các chủ đề tương ứng để dạy học cùng tác
phẩm tiêu biểu, …
Bố trí sắp xếp các bài học theo hệ thống chủ đề cho hợp lí hơn với thời lượng
và tiến độ để phù hợp với đối tượng và mục tiêu đề ra. Việc sắp xếp chủ đề phải nhằm
76
hình thành và rèn luyện các kĩ năng cơ bản cho người học, yêu cầu với người dạy. Các
chủ đề bao chứa hết nội dung bài học và có sự linh hoạt trong quá trình sắp xếp. Chẳng
hạn, khi dạy về chủ đề yêu nước có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu đồng thời các tác
phẩm cùng trong hệ thống như Nam quốc sơn hà, Đại cáo bình Ngô, Bạch Đằng giang
phú, Chạy giặc, …
Sau khi bố trí, sắp xếp, cần lựa chọn những phương pháp, hình thức kiểm
tra, đánh giá kết quả phù hợp theo các tiêu chuẩn đã định của Chương trình.
3.3.2. Xác định thời lượng thực hiện dạy học một chủ đề tích hợp
Việc xác định thời lượng dạy học một chủ đề cần bám sát vào sự phân phối
chương trình hiện hành và cấu trúc lại chương trình đã làm ở bước 1. Thời lượng
dạy học bao gồm các vấn đề: dạy chủ đề đó ở cấp học nào, số tuần, số tiết thực
hiện.
* Đối tượng tiếp nhận chủ đề:
- Một chủ đề có thể lặp lại ở nhiều khối lớp, cấp học khác nhau.
- Mỗi chủ đề ở từng khối lớp, cấp học đều phải lựa chọn cho phù hợp với
khả năng tiếp nhận và tâm lí người học.
* Tuần thực hiện:
- Xác định chủ đề dạy học sẽ tiến hành trong tuần thứ mấy theo phân phối
chương trình.
- Thời gian thực hiện một chủ đề dạy học có thể liên tục hoặc cách
quãng, tùy vào việc phân chia bài dạy của giáo viên , của tổ chuyên môn.
* Số tiết thực hiện trên lớp:
- Xác định số tiết sẽ thực hiện cho chủ đề dạy học là bao nhiêu tiết.
- Chú ý phân chia hợp lý thời gian dành cho bài đọc thêm.
3.3.3. Xây dựng mục tiêu, nội dung của chủ đề tích hợp
* Mục tiêu:
- Về kiến thức: Trình bày về nội dung kiến thức mà học sinh sẽ học được
thông qua chủ đề (chỉ trình bày những kiến thức sẽ được đánh giá).
77
- Về kĩ năng: Trình bày về những kĩ năng của học sinh được hình thành
thông qua thực hiện các hoạt động học theo chủ đề (chỉ trình bày những kĩ năng
sẽ được đánh giá).
- Về thái độ: Trình bày về những tác động của việc thực hiện các hoạt động học
theo chủ đề đối với nhận thức, giá trị sống và định hướng hành vi của học sinh.
- Về năng lực: Học sinh được học thông qua phát hiện và giải quyết vấn đề,
sáng tạo và rút ra bài học có ý nghĩa cho bản thân; năng lực hợp tác và tự quản
bản thân cũng được chú trọng hình thành ở học sinh.
* Nội dung của chủ đề
Xây dựng bốn mức độ nhận thức (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận
dụng cao)
3.3.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập kiểm tra theo chủ đề tích hợp
* Về mức độ:
Câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra phải thể hiện được đủ 4 mức độ nhận thức (nhận
biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao). Việc phân chia tỷ lệ giữa các mức
độ nhận thức là dựa vào thực lực học sinh của lớp.
* Về nội dung
Nội dung câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra phải có tính giáo dục, phải khơi gợi
được sự hứng thú, năng lực sáng tạo của học sinh. Giữa câu hỏi này với câu hỏi
kia có sự chặt chẽ, lô gíc, có quan hệ biện chứng. Nếu có nhiều câu hỏi về một
vấn đề thì nên sắp xếp câu hỏi từ dễ đến khó.
3.4. Đề xuất một số chủ đề tích hợp tiêu biểu
3.4.1. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc
3.4.1.1. Cơ sở phân chia bài học, cấu trúc chương trình
Đây là chủ đề được đề cập nhiều trong một số lượng lớn các tác phẩm (đã
liệt kê ở phần 3.2.1). Có thể đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu như: Nam quốc sơn
hà (lớp 7), Tụng giá hoàn kinh sư (lớp 7), Thiên đô chiếu (lớp 8), Hịch tướng sĩ
78
(lớp 8), Đại cáo bình Ngô (lớp 8 và lớp 10), Quốc tộ (lớp 10), Bạch Đằng giang
phú (lớp 10).
Chúng tôi lựa chọn dạy học chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu
nước và tự hào dân tộc trong chương trình lớp 8 qua ba tác phẩm: Nam quốc
sơn hà, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô) dựa trên
những cơ sở sau:
Ba tác phẩm có những nét tương đồng lớn về nội dung phản ánh:
Khi quân xâm lược nhà Tống tràn sang nước ta, Lí Thường Kiệt (?) đọc bài
thơ “Thần” như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất khẳng định chủ quyền nước
Nam là của dân Nam. Khi đại quân Mông - Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu kéo
sang xâm phạm chủ quyền dân tộc, vào năm 1285, Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch
tướng sĩ) đã được Trần Quốc Tuấn truyền dạy trong các cấp tướng sĩ của mình.
Và khi kết thúc mười năm kháng chiến gian khổ chống quân Minh, thắng lợi trọn
vẹn vào năm 1428, Nguyễn Trãi đã tổng kết bằng bản Đại cáo bình Ngô bất hủ.
Ba áng thơ văn đều vang lên tiếng nói yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm và
niềm tự hào về một dân tộc anh hùng.
Yêu nước, tự hào dân tộc là một truyền thống vô cùng quý báu mà từ khi
hình thành dân tộc, ông cha ta đã truyền lại cho đến ngày hôm nay và mãi mãi
mai sau.
Lí Thường Kiệt khẳng định: Nước Nam có lãnh thổ riêng, có chính
quyền riêng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Điều này đã được ghi ở “sách trời”. Sách trời là cơ sở pháp lí, là “thiên
định”. Tác giả đã ghi lại những điều ấy để quân giặc thấy rõ hơn và quân dân ta
càng tin tưởng hơn.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
79
Tác giả khẳng định chủ quyền vào “sách trời” để nêu chính nghĩa của dân tộc.
Đến thế kỉ XV, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi viết bản tuyên ngôn độc lập lần
thứ hai đã nêu đầy đủ niềm tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sống bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác...
Nước ta thật sự là một nước độc lập, có chủ quyền. Nhân dân ta đã ra sức
bồi đắp thành nền văn hiến ngàn năm. Trên lãnh thổ này đã có dân Việt với nền
văn hóa riêng, khác hẳn văn hóa phương Bắc. Anh hùng hào kiệt nước Đại Việt
cũng không thiếu, không thua kém.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.
Tự hào dân tộc, cha ông ta càng yêu nước nồng nàn. Khẳng định “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư” là một khẳng định yêu nước. Vua tức là nước, lúc bấy
giờ nói vua Nam hay hoàng đế nước Nam chính là đối chọi lại với “đế” Trung
Hoa. Không phải là tuyên chiến, mà là cảnh cáo quân giặc cướp nước, cho chúng
biết trước cái thất bại thảm hại tất yếu sẽ đến với chúng.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.
Người viết đã nói lên truyền thống yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân
tộc chân chính. Không tự hào dân tộc chân chính thì không dám đánh giặc giữ
nước. Ta phải đánh giặc vì giặc xâm phạm đất nước ta.
Ở Hịch tướng sĩ, niềm tự hào dân tộc càng sâu sắc hơn. Vì tự hào dân tộc
nên cảm thấy bao nhiêu cái nhục khi quân giặc xâm phạm chủ quyền:
Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn...
Yêu nước là phải biết bảo vệ, gìn giữ đất nước, không thể ngồi yên, khoanh
tay nhìn cảnh:
80
Sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều
đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ..., vơ vét tiền của bạc vàng.
Phải hướng tất cả lòng căm thù về phía quân giặc cướp nước:
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân
này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng...
Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi, cũng là viết thay nhân dân niềm tự hào chân
chính của dân tộc. Khẳng định sự toàn thắng của chính nghĩa:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Ở Đại cáo bình Ngô, chúng ta càng thấy trọn vẹn lòng yêu nước cao độ và
niềm tự hào dân tộc chân chính. Chính lòng yêu nước, tự hào dân tộc đã tạo nên
sức mạnh to lớn chiến thắng quân xâm lược dù chúng đông hơn, mạnh hơn ta gấp
nhiều lần.
Trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, ông cha ta thường lấy lòng tự hào dân
tộc làm chính nghĩa để tập hợp lực lượng, đoàn kết nhân dân chống giặc.
Nguyễn Trãi xác định lập trường chính nghĩa sáng ngời:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Trần Quốc Tuấn kêu gọi các tướng của mình, từ bỏ thái độ thờ ơ hưởng lạc
trước cảnh đất nước lâm nguy, mà phải:
81
Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như
Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa
Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai...
Có như vậy mới bảo vệ được non sông vững bền, xây dựng được hạnh phúc
của mình và của đất nước.
Mỗi tác phẩm được sáng tác trong những giai đoạn, hoàn cảnh khác nhau;
cách thức thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại đều khẳng định lòng yêu nước,
tự hào dân tộc. Đây là tiền đề quyết định cho việc xây dựng một chủ đề dạy học.
Sự phát triển trí tuệ của học sinh ở lứa tuổi Trung học cơ sở nói chung và
học sinh lớp 8 nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì ở lứa tuổi này, những
cơ sở, phương hướng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức, tư
duy nhìn nhận, đánh giá được hình thành, tạo tiền đề cho sự phát triển ở lứa tuổi
sau. Việc hình thành cho học sinh nhận thức về chủ quyền quốc gia, lòng tự hào
dân tộc không phải đến độ tuổi này mới thực hiện. Nhưng với lứa tuổi này, học
sinh sẽ được tiếp cận, đánh giá tư tưởng ở một trình độ cao hơn, với ngữ liệu phức
tạp hơn nhằm hình thành và phát huy khả năng phát hiện vấn đề, phân tích và tổng
hợp tác phẩm văn học trung đại có đặc điểm, cách thể hiện khác với văn học hiện
đại. Đặc biệt là kích thích tư duy khám phá của học sinh để xâu chuỗi, liên hệ, tìm
ra mối tương quan giữa nội dung tác phẩm để có cái nhìn toàn diện hơn. [47, tr.67]
Chủ đề này không chỉ thực hiện dạy học ở lớp 8 mà còn lặp lại ở những lớp
sau, tùy thuộc vào phân phối chương trình mà có sự cắt giảm hay tăng thời lượng
dạy học. Như đã nói, việc phân chia chủ đề chỉ mang tính chất tương đối vì một
tác phẩm có thể phản ánh nhiều chủ đề, một chủ đề được biểu hiện bởi nhiều tác
phẩm.Vì thế khi xây dựng chủ đề, chúng tôi nhận định có thể tăng/ giảm số tiết
của một số tác phẩm để thấy sự chọn lọc, tinh giản, làm nổi bật được nội dung cốt
lõi cho chủ đề đang nói đến. Việc cần nghiên cứu ở đây là xác định những nội
dung, tư tưởng trong tác phẩm đó để sắp xếp cho phù hợp với mục tiêu của chủ
đề. Ví dụ, tác phẩm Đại cáo bình Ngô tiếp tục được học ở lớp 10 và có thể tích
82
hợp trong chủ đề khác như Tư tưởng nhân nghĩa hay chủ đề Đề cao vai trò của
nhân dân trong sự nghiệp dựng và giữ nước… Tác phẩm Hịch tướng sĩ cũng thể
hiện rất nhiều nội dung tư tưởng: Lòng căm thù giặc sâu sắc, Người tướng lĩnh
hết lòng vì dân tộc, Nghệ thuật binh pháp…
3.4.1.2. Thời lượng thực hiện dạy học chủ đề
Chủ đề dự kiến được dạy vào tuần thứ 24, 25 ở lớp 8 với số tiết như sau:
Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới
Nam quốc sơn hà 1 tiết 1 tiết
Nước Đại Việt ta 1 tiết 1 tiết
Hịch tướng sĩ 2 tiết 2 tiết
Chủ đề: Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc
3.4.1.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề
* Mục tiêu
- Về kiến thức:
+ Khẳng định chủ đề yêu nước nồng nàn và lòng tự hào dân tộc chân chính
của ông cha ta thể hiện qua ba tác phẩm.
+ Tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật, giá trị thể hiện nội dung qua thể
cáo, hịch và thơ thất ngôn góp phần phản ánh nội dung chủ đề.
Về kĩ năng:
Hình thành, rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm trung đại theo đặc trung
thể loại, kĩ năng phân tích – tổng hợp, trình bày các nội dung kiến thức để làm rõ
chủ đề.
- Về thái độ
Liên hệ với hiện tại để khẳng định lòng yêu nước và tự hào dân tộc ở mỗi
thời đại là chủ đề tiêu biểu, xuyên suốt. Có ý thức trân trọng, phát huy truyền
thống tốt đẹp này.
83
- Về năng lực
Hình thành năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề; năng lực hợp tác, tự quản
bản thân.
* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề
Mức độ
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao
Đơnvị kiến thức
1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm. Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.
Xác định hoàn cảnh sáng tác của mỗi tác phẩm có ý nghĩa gì trong việc thể hiện nội dung tư tưởng? Đọc hiểu khái quát, phân chia được bố cục và xác định nội dung chính mỗi tác phẩm.
2. Tìm hiểu nội dung
Phân tích, nêu cảm nhận về các tác phẩm. Nêu được nội dung chính của các tác phẩm. Tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện nội dung các tác phẩm. Tổng hợp, khái quát, chứng minh chủ đề thể hiện trong các tác phẩm.
3. Nghệ thuật
Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm.
4. Liên hệ, mở rộng
Liên hệ bản thân về lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Khẳng định chủ đề tồn tại xuyên suốt ở mọi thời đại.
Giá trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Chỉ ra biểu hiện của chủ đề ở từng giai đoạn, trong thơ văn và ngoài đời thực. Đánh giá, phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều về lòng yêu nước, tự hào dân tộc.
84
3.4.1.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ Năng lực, phẩm chất
1 Nhận biết Biểu hiện của lòng yêu nước, tự hào dân tộc? Năng lực phát hiện vấn đề
2 Thông hiểu Năng lực tổng hợp kiến thức Lòng yêu nước, tự hào dân tộc được thể hiện trong ba tác phẩm như thế nào?
3 Vận dụng thấp Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề yêu nước, tự hào dân tộc? Cảm thụ văn học, đánh giá vấn đề
4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao Năng lực giải quyết vấn đề
3.4.2. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong
xã hội phong kiến
3.4.2.1. Cơ sở phân chia
Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ
trong xã hội phong kiến được thể hiện trong các tác phẩm văn học Việt Nam
trung đại khá nhiều: Lớp 7, tập 1: Bánh trôi nước; lớp 9, tập 1: Chuyện người con gái Nam Xương; lớ p 10, tập 1: Độc Tiểu Thanh kí; lớ p 10, tập 2: Nỗi thương mình; lớp 11, tập 1: Tự tình II.
Chủ đề được xây dựng qua việc lựa chọn tích hợp ba tác phẩm dạy học ở
chương trình lớp 10: Bánh trôi nước, Độc Tiểu Thanh kí, Chuyện người con gái
Nam Xương. Ba tác phẩm của ba tác giả khác nhau, ở các thời đại khác nhau
nhưng đều phản ánh vẻ đẹp của người phụ nữ đồng thời cũng thể hiện số phận bất
hạnh của họ.
Người phụ nữ xuất hiện trong văn học trung đại thường là những người phụ
nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách.Trong tác phẩm Bánh trôi nước
của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hình ảnh người con gái hiện lên "vừa trắng lại vừa
tròn", một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Ta cũng bắt gặp người phụ
nữ như thế xuất hiện trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.
85
Vũ Thị Thiết là một người phụ nữ tư dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng,... khiến
Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về
làm dâu. Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí cũng tài sắc vẹn toàn nhưng
vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm lẽ một thương gia giàu có. Người phụ nữ đẹp
về ngoại hình và phẩm chất nhưng lại chịu bao nhiêu oan khuất, bất hạnh. Bị vu
oan, bị nghi ngờ mà không thể giãi bày, không thể minh oan cho bản thân: Vũ Thị
Thiết. Số phận của họ ở thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác, không làm
chủ được số phận của chính họ: “Thân em”, nàng Tiểu Thanh. Dù bị chà đạp
nhưng người phụ nữ luôn khao khát sống, có tinh thần phản kháng trước các thế
lực dù vẫn còn rất yếu ớt.
Đây đều là những tác phẩm rất đặc sắc, nhiều hình ảnh tượng trưng, nhiều
tầng nghĩa nên người học cần có một tầm hiểu biết nhất định. Ở độ tuổi mới bước
vào cấp 3, học sinh lớp 10 thể hiện là những người học khá chủ động, cá tính và
ham học hỏi. [47, tr. 98]. Chính vì vậy, mức độ bài học cũng cần được nâng cao
và hấp dẫn hơn để học sinh được tiếp cận, phát huy mọi khả năng của bản thân.
Cũng như chủ đề trước, việc phân chia, sắp xếp bài học này chỉ mang tính tương
đối, cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp cận kĩ lưỡng về mọi mặt mới có thể đưa
ra những giải pháp tối ưu hơn.
3.4.2.2. Thời lượng thực hiện dạy học
Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 13, 14 lớp 10 với thời lượng
các tiết như sau:
Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới
Bánh trôi nước 1 tiết 1 tiết
Chuyện người con gái Nam Xương 2 tiết 2 tiết
Độc Tiểu Thanh kí 1 tiết 1 tiết
Chủ đề: Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội
phong kiến
86
3.4.2.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề
* Mục tiêu
- Về kiến thức
+ Cảm nhận vẻ đẹp người phụ nữ trong xã hội phong kiến và đồng cảm với
số phận của họ.
+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm.
- Về kĩ năng
Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận
văn học.
Về năng lực
Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.
* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng thấp
Vận dụng cao
Mức độ Đơn vị kiến thức 1. Tìm hiểu chung về tác tác giả, phẩm
Đọc - hiểu khái quát mỗi tác phẩm.
tích Phân những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm.
Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.
Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh tư nội dung
87
tác
2. Tìm hiểu nội dung
tích, Phân nêu cảm nhận về các tác phẩm.
Nêu được nội dung chính của tác các phẩm.
3. Nghệ thuật
hợp, Tổng quát, khái khẳng định chủ đề biểu hiện trong các tác phẩm.
4. Liên hệ, mở rộng
Liên hệ bản suy thân, nhận nghĩ, về thức người phụ nữ như thế nào?
giá, Đánh phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều về hình ảnh người phụ nữ xưa và nay.
tưởng của phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, cốt truyện, hình ảnh thơ thể hiện nội dung các tác phẩm. Giá trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. nét ra Chỉ chung, riêng về vẻ đẹp, thân phận của người phụ nữ ở từng giai đoạn, trong thơ văn và ngoài đời thực.
Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật các trong tác phẩm. hệ Liên thực tế: Người phụ trong nữ mọi thời đại đều có những phẩm chất, vẻ đẹp và bất nỗi hạnh.
3.4.2.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất
Tại sao lại thương cảm, chia sẻ với thân Năng lực phát 1 phận người phụ nữ trong xã hội phong Nhận biết hiện vấn đề kiến?
Số phận bất hạnh của người phụ nữ do Năng lực tổng 2 Thông hiểu những yếu tố nào gây nên? hợp kiến thức
88
Cảm thụ văn
3 Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề? Vận dụng thấp học, đánh giá
vấn đề
Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề
3.4.3. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu
3.4.3.1. Cơ sở phân chia
Chủ đề không phản ánh rộng rãi trong văn học Việt Nam trung đại nhưng
trong khuôn khổ chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành đã đưa vào một số
tác phẩm rất đặc sắc. Văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu là một nét đẹp trong
văn hóa truyền thống được thể hiện đặc sắc trong ba tác phẩm: Bạn đến chơi nhà,
Thề nguyền, Khóc Dương Khuê. Đây đều là những tác phẩm phản ánh đạo làm
người: trân trọng tình cảm bạn bè, người yêu; gắn bó, yêu thương chân thành;
luôn hướng đến những điều tốt đẹp cho mọi người; cách hành xử có văn hóa, thể
hiện đạo lí làm người nhân nghĩa, giàu tình cảm.
Ba tác phẩm trong chủ đề phản ánh nét đẹp văn hóa truyền thống ứng xử
trong tình bạn, tình yêu được dạy tích hợp ở chương trình lớp 11. Ở độ tuổi nhận
thức, tư duy cao và khá nhạy bén, học sinh lớp 11 hoàn toàn có khả năng nhận
thức và đưa ra quan điểm thẳng thắn của mình về cách hành xử trong tình bạn,
tình yêu. Học sinh sẽ có những kĩ năng trong việc ứng xử thực tiễn trước những
hoàn cảnh khác nhau của tình bạn, tình yêu. [47,tr 92]
3.4.3.2. Thời lượng thực hiện dạy học
Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 7, 8 lớp 11 với thời lượng
các tiết như sau:
Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới
89
Bạn đến chơi nhà 1 tiết 1 tiết
Khóc Dương Khuê 1 tiết 1 tiết
Thề nguyền 1 tiết 1 tiết
Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu
3.4.3.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề
* Mục tiêu
- Về kiến thức
+ Cảm nhận tình bạn và tình yêu chân thành được phản ánh trong ba tác phẩm.
+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm: Người xưa
đã có văn hóa ứng xử rất tinh tế, khéo léo trong tình bạn, tình yêu.
- Về kĩ năng
Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận
văn học.
- Về năng lực
Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.
* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề
90
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng hấp Vận dụng cao
Mức độ Đơn vị kiến thức
1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm. Đọc - hiểu khái quát nội dung chính của mỗi tác phẩm.
Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm (từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật).
2. Tìm hiểu nội dung
Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.
Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ thể hiện nội dung các tác phẩm.
Phân tích, nêu cảm nhận chung và riêng về các tác phẩm.
Tổng hợp, khái quát, khẳng định chủ đề được biểu hiện trong các tác phẩm rất đa dạng, rõ nét.
3. Nghệ thuật
Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật tác trong các phẩm. Gía trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng.
4. Liên hệ, mở rộng
Liên hệ thực tế: Ngày nay mọi người ứng xử trong tình bạn, tình yêu như thế nào?
Liên hệ bản thân, suy nghĩ, ý thức về các mối quan hệ tình bạn, tình yêu xung quanh mình. Đánh giá, phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều, lối hành xử sai trái trong tình bạn, tình yêu.
Chỉ ra những điểm giống và khác, mặt giữ gìn, phát huy và những nét mới trong văn hóa ứng xử với tình bạn, tình yêu trong xã hội hiện đại.
3.4.3.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
Năng lực, phẩm STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ chất
91
Quan điểm về tình bạn, tình yêu trong Năng lực phát 1 xã hội phong kiến được phản ánh qua Nhận biết hiện vấn đề các tác phẩm văn học như thế nào?
Tại sao lại có quan điểm và cách ứng xử Năng lực tổng 2 Thông hiểu như vậy? hợp kiến thức
Phân tích tác phẩm để làm rõ nét đẹp Cảm thụ văn
3 văn hóa truyền thống trong cách ứng xử Vận dụng thấp học, đánh giá
các mối quan hệ tình bạn, tình yêu? vấn đề
Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề
3.4.4. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình
3.4.4.1. Cơ sở phân chia
Chủ đề được tích hợp trong ba tác phẩm: Thương vợ, Kiều ở lầu Ngưng
Bích, Chuyện người con gái Nam Xương dự kiến dạy học trong chương trình lớp
12. Văn hóa ứng xử trong gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng. Những
giá trị đạo đức xã hội của tư tưởng Nho giáo được các tác giả phản ánh sinh động
trong tác phẩm: yêu thương, trân trọng các thành viên trong gia đình; thể hiện thứ
bậc, vị thế của từng cá nhân; mối quan hệ đan xen giữa mọi người đòi hỏi cần có
những cách hành xử khác nhau để đạt đến sự hòa thuận, yên ấm trong gia đình.
Trong trường THPT, đối với học sinh lớp 12, những khó khăn, rào cản tâm
lý không chỉ liên quan đến việc học sinh lĩnh hội lượng tri thức lớn hơn, khó hơn
mà còn liên quan đến những khó khăn, rào cản tâm lý khác, làm ảnh hưởng tới tư
tưởng của học sinh như các vấn đề hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, bạn bè,
bản thân cá nhân học sinh. Tuổi công dân là lứa tuổi mà học sinh lớp 12 bắt đầu
phải có trách nhiệm trước pháp luật, có cách ứng xử tinh tế hơn trong mối quan
hệ của mình với các thành viên trong gia đình. Việc tích hợp dạy học chủ đề văn
hóa ứng xử trong gia đình đối với lứa tuổi này sẽ giúp học sinh có ý thức, trách
92
nhiệm hơn với các thành viên trong gia đình; nói ra quan điểm, suy nghĩ cá nhân
về công việc hay những vấn đề liên quan đến gia đình; thể hiện tình cảm rõ ràng,
khéo léo hơn. [47,tr145]
3.4.4.2. Thời lượng thực hiện dạy học
Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 10, 11 lớp 12 với thời lượng
các tiết như sau:
Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới
1 tiết 1 tiết Thương vợ
1 tiết 1 tiết Kiều ở lầu Ngưng Bích
2 tiết 2 tiết Chuyện người con gái Nam Xương
3.4.4.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề
Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình
* Mục tiêu
- Về kiến thức
+ Hiểu được mối quan hệ và văn hóa ứng xử của các thành viên trong gia
đình được phản ánh qua ba tác phẩm.
+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm: Văn hóa ứng
xử trong gia đình là một nét đẹp truyền thống có ý nghĩa to lớn.
- Về kĩ năng
Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận
văn học.
- Về năng lực
Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.
* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề
93
Nhận biết
Thông hiểu
Vận dụng cao
Vận dụng thấp
Mức độ Đơn vị kiến thức
1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.
Đọc - hiểu khái quát nội dung chính của mỗi tác phẩm.
Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm (từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật).
2. Tìm hiểu nội dung
Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.
Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ, chi tiết nghệ thuật thể hiện nội dung các tác phẩm.
Phân tích, nêu cảm nhận chung và riêng về các tác phẩm.
Đưa ra kết luận về chủ đề được phản ánh trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào trong việc làm nên thành công, giá trị của các tác phẩm.
3. Nghệ thuật Chỉ ra nét
4. Liên hệ, mở rộng
Đưa ra chính kiến, đánh giá nhiều quan điểm khác nhau trong mối quan hệ gia đình.
đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm. Liên hệ thực tế: Văn hóa ứng xử trong gia đình xưa và nay có gì và giống khác nhau?
Gía trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Khẳng định vai trò to lớn của gia đình không chỉ thông qua các tác phẩm mà còn thể hiện ở mỗi cá nhân trong xã hội.
Liên hệ bản thân, suy nghĩ, ý thức về mối quan hệ với các thành viên trong gia đình. 3.4.4.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
94
Năng lực, phẩm STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ chất
Văn hóa ứng xử trong gia đình được Năng lực phát 1 phản ánh qua các tác phẩm văn học Nhận biết hiện vấn đề như thế nào?
Tại sao lại có những cách ứng xử như Năng lực tổng 2 Thông hiểu vậy? hợp kiến thức
Phân tích tác phẩm để làm rõ nét đẹp Cảm thụ văn học, 3 văn hóa truyền thống trong cách ứng Vận dụng thấp đánh giá vấn đề xử với các thành viên trong gia đình?
Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề
3.4.5. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên
3.4.5.1. Cơ sở phân chia
Cáo tật thị chúng, Côn Sơn ca, Bạch Đằng giang phú là ba tác phẩm phản
ánh khá sinh động nét đẹp văn hóa trong ứng xử với thiên nhiên của con người
không chỉ ở thời trung đại mà còn đặc biệt cần thiết trong xã hội hiện đại. Với
thiên nhiên, con người luôn ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp, sự gần gũi, mối quan hệ
giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Bên cạnh đó, qua thiên nhiên, con người
thể hiện những chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, gửi gắm tình cảm, tâm trạng
trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Nội dung này đều được thể hiện ở ba tác
phẩm. Chính vì thế, tích hợp dạy học ba tác phẩm này trong chương trình Ngữ
văn lớp 10 là phù hợp.
Ở lứa tuổi 15, học sinh lớp 10 đã có năng lực cảm thụ vẻ đẹp thiên nhiên,
cuộc sống khá tinh tế. Bằng tư duy trực quan, trí tưởng tượng phong phú giao giữa
lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên với lứa tuổi tò mò, ham học hỏi và cũng bắt đầu mơ
mộng, học sinh lớp 10 có hứng thú khám phá thiên nhiên, phát hiện những nét
riêng trong mỗi cảnh vật. [47, tr73]
95
Văn hóa ứng xử với thiên nhiên là nét đẹp truyền thống cần được giữ gìn và
phát huy, biến đổi cho phù hợp trong từng giai đoạn nhưng cách ứng xử đặc sắc
được các tác giả phản ánh trong tác phẩm văn học Việt Nam trung đại là điều
không thể phủ nhận, nó là tiền đề để chúng ta giáo dục thế hệ trẻ có ý thức trước
thiên nhiên, môi trường sống. Hơn nữa, thông qua việc học những tác phẩm này
giúp học sinh thấy rằng văn học trung đại thực chất rất gần gũi, gắn với thực tiễn
và có giá trị to lớn trong mọi thời đại.
3.4.5.2. Thời lượng thực hiện dạy học
Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 9,10 lớp 10 với thời lượng
các tiết như sau:
Phân phối chương trình Phân phối chương trình Bài cũ mới
Côn Sơn ca 1 tiết 1 tiết
Bạch Đằng giang phú 2 tiết 2 tiết
Cáo tật thị chúng 1 tiết 1 tiết
Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên
3.4.5.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề
* Mục tiêu
- Về kiến thức
+ Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên sinh động, giàu sức sống được các nhà nhơ
thể hiện trong tác phẩm.
+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm.
- Về kĩ năng
Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận
văn học.
Về năng lực
Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.
96
* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề
Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao
Mức độ Đơn vị kiến thức 1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
Đọc - hiểu quát khái mỗi tác phẩm.
Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm. tích Phân những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm.
2. Tìm hiểu nội dung
Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.
Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ thể hiện nội dung tác phẩm. Phân tích, cảm nêu nhận về các tác phẩm.
Khẳng định đây là chủ đề tiêu biểu, mang tính thời đại. 3. Nghệ thuật
4. Liên hệ, mở rộng
Gía trị của biện thuật pháp nghệ trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Đối chiếu, liên hệ giữa văn hóa ứng xử với thiên nhiên ở giai đoạn xưa và nay, trong văn học và trên thực tế.
Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm. Đưa ra cảm nhận, đánh giá riêng về thiên vẻ đẹp nhiên và cách phản ánh của nhà thơ trong các tác phẩm. Ý thức, trách nhiệm, tình cảm của bản thân với thiên nhiên, trường môi sống.
Tiếp cận nhiều nhận định khác nhau về việc ứng xử với thiên nhiên để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn.
3.4.5.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề
97
Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất
Năng lực phát Văn hóa ứng xử với thiên nhiên được 1 Nhận biết hiện vấn đề thể hiện như thế nào trong ba tác phẩm?
Năng lực tổng Vai trò, vị trí của thiên nhiên và ý thức 2 Thông hiểu hợp kiến thức của con người trước thiên nhiên ra sao?
Cảm thụ văn
3 Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề? Vận dụng thấp học, đánh giá
vấn đề
Năng lực giải Cảm hứng trước khung cảnh thiên nhiên 4 Vận dụng cao quyết vấn đề tươi đẹp?
* Tiểu kết chương 3
Để có thể tích hợp giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống trong giờ dạy
– học Ngữ văn, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất xây dựng nội dung dạy học một số
tác phẩm văn học Việt Nam trung đại theo chủ đề. Nội dung bao quát gồm việc
xác định các bước chuẩn bị cho dạy học một chủ đề và nội dung chính là tiến hành
đề xuất dạy học hai chủ đề. Việc lựa chọn chủ đề, phân chia bài học đều phải dựa
trên những cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của tình hình
đổi mới dạy học hiện nay. Thời lượng triển khai mỗi chủ đề cũng cần được sắp
xếp, bố trí sao cho hợp lí nhất có thể.
Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc qua ba tác phẩm
Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô) là
chủ đề tiêu biểu không chỉ được chọn lựa dạy học ở lớp 8 mà còn được giảng dạy
ở nhiều lớp khác nhau. Đây là chủ đề lớn, xuyên suốt nên người học có thể dễ
dàng phát hiện, tìm hiểu, tổng hợp qua từng tác phẩm. Các tác phẩm đều nhằm
thể hiện một chủ đề chính nhưng bên cạnh đó cũng cần có sự liên hệ, mở rộng để
người học có cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn về vấn đề được học.
98
Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong
xã hội phong kiến là chủ đề khá phức tạp, người học đòi hỏi phải có một trình độ,
năng lực hiểu biết nhất định mới có thể tiếp cận trọn vẹn được tác phẩm. Bánh
trôi nước, Chuyện người con gái Nam Xương, Độc Tiểu Thanh kí là hiện thân của
ba người phụ nữ được trân trọng, ca ngợi về vẻ đẹp, phẩm chất. Qua đó, nhà văn
thể hiện lòng cảm thông sâu sắc với số phận éo le, bất hạnh của họ. Người học
phải có sự khám phá, tư duy và phân tích để nắm được tác phẩm.
Các chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu; Văn
hóa ứng xử trong gia đình; Văn hóa ứng xử với thiên nhiên đều mang tính thực
tiễn cao và được chúng tôi trình bày cụ thể về cơ sở lựa chọn, định hướng giảng
dạy và kiểm tra, đánh giá. Những chủ đề tích hợp này sẽ đem lại hiệu quả thiết
thực cho người học nếu được triển khai theo trình tự và trên quy mô rộng.
Thông qua bảng mô tả mức độ nhận thức chủ đề có thể thấy dạy học theo
chủ đề là cách thức dạy học mà người học thực sự là trung tâm của các hoạt động.
Nhờ đó người học sẽ có tư duy tổng hợp, đa chiều, giảm tình trạng nhận thức rời
rạc, nhanh quên kiến thức. Việc đề xuất xây dựng chủ đề dạy học các tác phẩm
văn học Việt Nam trung đại được thể hiện trong chương 3 vẫn còn tồn tại một số
vấn đề nhất định, đây là điều khó tránh khỏi và cần được khắc phục trong những
công trình nghiên cứu tiếp theo.
99
KẾT LUẬN
Nói đến các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù
của văn hóa Việt Nam với những bản sắc đậm đà, tốt đẹp đã hình thành và được
lưu truyền từ ngày dựng nước cho đến nay. Hệ thống các giá trị văn hoá truyền
thống của dân tộc Việt Nam rất phong phú, đa dạng, xuyên thấm vào nhau và
được kết tinh trong sáng tác văn học - một phương diện đặc thù của văn hóa, đặc
biệt được bảo lưu và phát triển trong thời kỳ văn học trung đại. Là một giáo viên
dạy văn ở phổ thông, người viết mong muốn làm rõ các giá trị văn hóa truyền
thống của các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông
hiện hành với hi vọng góp một tiếng nói cụ thể, hữu ích trong hành trình đổi mới
giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường nói riêng.
Trước hết, luận văn đã tiến hành nghiên cứu về văn hóa truyền thống, đặc
điểm của chương trình Ngữ văn PT, SGK hiện hành để có cái nhìn cụ thể nhất
cho việc nhận diện, tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh
trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại. Đồng thời, chúng tôi khảo sát và
nhận diện hệ thống giá trị văn hóa trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại
ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành bao gồm: Truyền thống yêu nước,
yêu độc lập tự do; Truyền thống nhân đạo; Truyền thống yêu nước, sống hòa hợp
với thiên nhiên. Những giá trị này không chỉ có ý nghĩa văn chương mà còn gắn
với thực tiễn ở mọi thời đại.
Tìm về quá khứ, nhưng mục tiêu của công trình này không dừng ở việc
khẳng định quá khứ mà là hướng đến tương lai. Nói cách khác, việc khảo cứu
những giá trị văn hoá truyền thống trong chương trình Ngữ văn phổ thông chính
là quá trình nhận chân những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt nhằm
giúp chúng ta tự tin hơn về những gì mình đã có, đang có và tiếp tục phát huy nó
trong cuộc sống hiện tại. Có thể nói, những giá trị văn hóa truyền thống cơ bản
cần được giáo dục cho thế hệ trẻ rất phong phú, đa dạng, nhiều mặt. Tuy nhiên,
100
trong khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi cho rằng những nội dung chủ yếu
nhất có liên quan trực tiếp đến việc giáo dục, bồi dưỡng nhân cách người học hiện
nay chính là giáo dục truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Nam. Nếu
nhân ái, khoan dung thể hiện ở tình yêu thương con người, sẵn sàng giúp đỡ người
khác, không vụ lợi thì giáo dục truyền thống nhân ái, khoan dung cho người học
sẽ có tác dụng giáo dục thái độ kính thầy, yêu bạn, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập,
sinh hoạt, quý trọng của công, quan tâm đến nỗi bất hạnh của người khác; giúp
thế hệ trẻ không ngừng nâng cao nhận thức, tự giác sống tốt đẹp hơn, biết lấy lợi
ích tập thể, lợi ích dân tộc làm định hướng cho cuộc sống của mình, góp phần
hình thành và phát triển nhân cách người học. Nếu truyền thống đoàn kết, ý thức
cộng đồng thể hiện qua các mối quan hệ cộng đồng lớn nhỏ khác nhau như gia
đình, gia tộc, họ hàng, làng xã và lớn hơn là cộng đồng dân tộc, cộng đồng người
Việt Nam thì trong thời điểm hiện nay, giáo dục truyền thống đoàn kết cộng đồng
cho người học là từng bước xây dựng cho họ ý thức tập thể, đoàn kết cá nhân với
tập thể hòa chung vào các phong trào của tập thể từ lớp, đến trường và rộng ra
toàn xã hội. Qua đó trang bị cho thế hệ trẻ phương pháp hữu hiệu để giải quyết
mối quan hệ cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội, biết đặt lợi ích tập thể, lợi
ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng để phục vụ cái chung.
Bên cạnh đó, truyền thống anh dũng, bất khuất, kiên cường, truyền thống “uống
nước nhớ nguồn”... cũng có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống xã
hội của nhân dân ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, việc giáo dục thế
hệ trẻ kế thừa truyền thống dân tộc, nâng truyền thống dân tộc lên một tầm cao
mới, bổ sung và điều chỉnh các giá trị văn hóa truyền thống cho phù hợp với thời
kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu hiện nay là trách nhiệm không chỉ của nhà trường,
của xã hội mà còn là trách nhiệm của mỗi gia đình và của mỗi con người Việt
Nam.
Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi đã đề xuất dạy học tích hợp các giá
trị văn hóa truyền thống sau: Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào
101
dân tộc; đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội phong kiến; văn hóa ứng xử
trong tình bạn, tình yêu; văn hóa ứng xử trong gia đình; văn hóa ứng xử với thiên
nhiên. Việc tích hợp giá trị văn hóa truyền thống trong dạy học các tác phẩm văn
học Việt Nam thời trung đại trong chương trình Ngữ văn PT hiện hành là phương
thức dạy học có tính ưu việt, nên được ứng dụng trong các giờ dạy học hiện đại.
Mỗi tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa văn chương dựa trên câu chữ mà qua đó
còn phản ánh rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Chúng tôi hi vọng việc dạy học tích
hợp theo các chủ đề cụ thể đã đề xuất sẽ được ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu
quả cho cả người dạy và người học.
102
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá - Thông tin, H.
2. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối
cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách
khoa, H.
3. Nguyễn Lương Bằng (2011), Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình
đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện
Chính trị quốc gia, H.
4. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, H.
5. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, H.
6. Bộ GD&ĐT (2002), Chương trình THPT, môn Ngữ văn.
7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền
thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, H.
8. Võ Kim Cương (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 6 từ 1858-1869, Nxb Khoa học
xã hội, H.
9. Đỗ Kiên Cường (2002), Bức thư của A. Ayn Rand và đâu là nguyên tắc đạo
đức mới?, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 555, tr.94.
10. Trần Văn Giàu (1986), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb KHXH, H.
11. Nguyễn Hồng Hà (2011), Văn hóa truyền thống dân tộc với việc giáo dục thế
hệ trẻ, Nxb Văn hóa thông tin, H
12. Dương Thu Hằng (2014), Nghiên cứu giá trị văn hóa truyền thống trong tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Thư viện Trường
ĐH Sư phạm – ĐHTN.
13. Mai Hương (2000), Nguyễn Khuyến - thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hoá
thông tin, H.
103
14. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb.
Văn hóa thông tin, H.
15. Jurgen Osterhammel & Niels P. Petersson (2003), Globalization: A Short
History, translated by Dona Geyer, Princeton University Press, USA
16. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX,
Nxb Giáo dục, H.
17. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 10 tập một, NXB Giáo
dục.
18. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 10 tập hai, NXB Giáo dục.
19. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 11 tập một, NXB Giáo
dục.
20. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại
Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
21. Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời
phong kiến thời Pháp thuộc, Nxb ĐHQG TP HCM.
22. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
23. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ Quốc Âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, H.
24. Nhiều tác giả (2003), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo
dục, H.
25. Nhiều tác giả (2003), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.
26. Nhiều tác giả (2003), Trần Tế Xương về tá c gia và tá c phẩm, Nxb Giáo du ̣c, H. 27. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb thế giới, H.
28. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 6 tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam.
29. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 7 tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam.
30. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 8 tập hai, NXB Giáo
dục Việt Nam.
104
31. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 9 tập một, NXB Giáo
dục Việt Nam.
32. Trương Hoài Phương, Giữ gìn và phá t huy giá tri ̣ truyền thống của con ngườ i Viê ̣t Nam - Một yêu cầu tất yếu khá ch quan trong sự nghiê ̣p công nghiê ̣p hó a,
hiê ̣n đại hó a, Tạp chí phát triển Nhân lực số 5 (26), 2011.
33. Dương Kinh Quốc (2006), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858 - 1918, Trung
tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia viện sử học, Nxb Giáo dục, H.
35. Vũ Quỳnh (Bùi Văn Nguyên dịch thuật, chú thích, dẫn nhập) (1993), Tân đính
Lĩnh Nam chích quái, Nxb Khoa học xã hội, H.
36. Trần Đình Sử (2009), Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy học văn,
Báo Văn nghệ số ra ngày 07/3.
37. Trần Đình Sử (2008), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, H.
38. Anh Đức, Bùi Bình Thi, Bùi Khánh Thế,…(2001), Bản sắc dân tộc trong văn
hóa văn nghệ, Nxb Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.
39. Trần Ngo ̣c Thêm (2009) Cơ sở Văn hó a Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, H. 40. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,
Nxb Giáo dục.
41. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb KHXH, H.
42. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb Trẻ.
43. Đỗ Lai Thuý (2006), Mối quan hệ văn hoá - văn học nhìn từ lí thuyết hệ thống,
vienvanhoc.org.vn.
44. Nguyễn Ngọc Toàn, Về tính nhân văn trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí Triết
học số 6 (193) năm 2007.
45. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1986), Lí luận văn học, tập 1,
tr.69, Nxb Giáo dục, H.
46. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2010), Tú Xương toàn tập, Nxb Văn học, H.
47. Nguyễn Quang Uẩn (2001), Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Quốc gia.
105
48. Văn hóa kỉ yếu hội thảo- Văn kiện đại hội XI của Đảng: Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, Tạp chí cộng sản- Viện khoa học xã hội Việt Nam- Hà Nội 2011.
49. Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ
Hà Nội.
50. Huỳnh Khái Vinh (2000), Giá trị văn hóa truyền thống, Nxb Chính trị quốc gia, H.
51. Tuấn Thành - Anh Vũ (2007), Trần Tế Xương - Tá c phẩm và lờ i bình, Nxb
Văn ho ̣c, H.
52. Tuấn Thành - Anh Vũ (tuyển chọn), (2007), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và
lời bình, Nxb Văn học, H.
53. Trần Ngọc Vương: Vị trí Trần Tế Xương trong lịch sử văn học, Tạp chí Nghiên
cứu văn học, số 7-2012, tr. 26-39.
54. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2010), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.
55. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc,
H.
56.http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNa
m/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&a
rticleId=10038370
57. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-
chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-thong.html
58.http://www.vietnam.gov.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNViet
Nam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000714
&articleId=10038377
106
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Bảng khảo sát các giá trị văn hóa truyền thống trong tác phẩm văn học Việt
Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.
Tên tác phẩm, tác giả
Giá tri ̣ văn hó a
STT
Lớp
Ghi chú
Số tiết, phân phối chương trình
1
Lớp 6, tập 1 Đọc thêm
Tình ân nghĩa của con người và loài vật.
2
Lớp 6, tập 1
1 tiết
Tấm lòng nhân ái, thương yêu của con người.
Con hổ có nghĩa - Truyện trung đại Việt Nam Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng - Hồ Nguyên Trừng
Sgk 7, tập 1
1 tiết
3
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do
Nam quốc sơn hà (Lí Thườ ng Kiê ̣t)
Sgk 7, tập 1
Tự ho ̣c có hướ ng dẫn
Sgk 7, tập 1 Đo ̣c thêm
Sgk 7, tập 1 Đo ̣c thêm
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên
4 5 6
Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) Côn sơn ca (Nguyễn Trãi) Thiên trường vãn vọng (Trần Nhân Tông)
Sgk 7, tập 1
1 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
7
Bá nh trôi nướ c (Hồ Xuân Hương)
Sgk7, tập 1
1 tiết
8
Qua đè o Ngang (Bà huyê ̣n Thanh Quan)
Sgk7, tập 1
1 tiết
Sgk8, tập 2
1 tiết
-Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên - Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
9 10
Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến) Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn)
107
12
Sgk 8, tập 2
1 tiết
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
Nướ c Đại Viê ̣t ta (Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi
13
Sgk 8, tập 2
1 tiết
Truyền thống hiếu học
14
Sgk 9, tập 1
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người
15
SGK 9, tập 1
1 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
16
SGK 9, tập 1
Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên
17
SGK 9, tập 1
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
18
SGK 9, tập 1
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
SGK 10, tập 1
1 tiết
19
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
Luận học pháp (Nguyễn Thiếp) Chuyê ̣n ngườ i con gá i Nam Xương ( Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Chi ̣ em thú y Kiều (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Cả nh ngà y xuân (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Lục Vân Tiên cứ u Kiều Nguyê ̣t Nga (Trích Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão)
SGK 10, tập1
20
1 tiết
Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên
Cả nh ngà y hè (Nguyễn Trãi)
21
SGK 10, tập 1
2 tiết
Nhà n (Nguyễn Bỉnh Khiêm)
22
SGK 10, tập 1
1 tiết
Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du)
Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
Đo ̣c thêm
23
SGK 10, tập 1
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuâ ̣n)
108
24
SGK 10, tập 1
Đọc thêm
Cá o tật thị chúng (Mãn Giác Thiền Sư)
25
SGK 10, tập 1
Quy hứng (NguyễnTrung Ngạn)
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
Đo ̣c thêm
26
SGK 10, tập 2
2 tiết
27
SGK 10, tập 2
2 tiết
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
28
SGK 10, tập 2
1 tiết
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
Đo ̣c thêm
29
SGK 10, tập 2
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
30
SGK 10, tập 2
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
SGK 10, tập 2 Đọc thêm
31
32
SGK 10, tập 1
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
33
SGK 10, tập 2
2 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
34
SGK 10, tập 2
2 tiết
35
SGK 10, tập 2
1 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
Bạch Đằ ng giang phú (Trương Hán Siêu) Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) Hiền tà i là nguyên khí quốc gia (Thân Nhân Trung) Tựa “Trích diễm thi tập” (Hoàng Đứ c Lương) Hưng đạo đại vương Trần Quố c Tuấn (Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) Chuyê ̣n chứ c phá n sự đền Tả n Viên (Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Tình cả nh lẻ loi của ngườ i chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm- Đă ̣ng Trần Côn- Đoàn Thi ̣ Điểm) Trao duyên (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Chí khí anh hù ng
109
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
36
SGK 10, tập 2
Đọc thêm
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
SGK 10, tập 2 Đọc thêm
37
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
38
SGK 11, tập 1
1 tiết
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
SGK 11, tập 1
1 tiết
39
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
(Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Nỗi thương mình (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Thề nguyền (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Và o phủ chú a Tri ̣nh (Trích Thượng kinh kí sự”- Lê Hữu Trác) Tự tình II (Hồ Xuân Hương)
40
SGK 11, tập 1
1 tiết
Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên
Câu cá mù a thu (Nguyễn Khuyến)
41
SGK 11, tập 1
1 tiết
42
SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt
Thương vợ (Trần Tế Xương) Khó c Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)
43
Truyền thống yêu nước
SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm
Vi ̣nh khoa thi hương (Trần Tế Xương)
44
SGK 11, tập 1
1 tiết
45
SGK 11, tập 1
1 tiết
Bà i ca ngất ngưở ng (Nguyễn Công Trứ ) Sa hành đoản ca (Cao Bá Quát)
SGK 11, tập 1
1 tiết
46
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
47
SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm
48
SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm
Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu) Hương Sơn phong cảnh ca (Chu Ma ̣nh Chinh)
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt -Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. -Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên
110
49
SGK 11, tập 1
2 tiết
SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm
Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.
Cầu hiền chiếu (Ngô Thì Nhâ ̣m) Xin lập khoa luật (Nguyễn Trườ ng Tô ̣)
50
Phụ lục 2
Bảng thống kê các tác phẩm phản ánh truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do
Tên tác phẩm, tác giả
STT
Lớp
Số tiết, phân phối chương trình
1 1
Sgk 7, tập 1
1 tiết
2
Sgk 7, tập 1
Tự học có hướng dẫn
3
Sgk 7, tập 1
1 tiết
4
Sgk 8, tập 2
1 tiết
5
Sgk 8, tập 2
2 tiết
6
Sgk 8, tập 2
1 tiết
7
Sgk 10, tập 1
8
Sgk 10, tập 1
2 tiết
9
Sgk 10, tập 2
2 tiết
10
Sgk 10, tập 2
Đọc thêm
11
Sgk 10, tập 2
2 tiết
Nam quốc sơn hà (Lí Thườ ng Kiê ̣t) Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) Qua đè o Ngang (Bà Huyê ̣n Thanh Quan) Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn) Hi ̣ch tướ ng sĩ (Trần Quố c Tuấn) Nướ c Đại Viê ̣t ta (Trích Đại cá o bình Ngô - Nguyễn Trãi) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão) Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuâ ̣n) Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Bạch Đằ ng giang phú (Trương Hán Siêu) Đại cáo bình Ngô
12
Sgk 10, tập 2
2 tiết
111
(Nguyễn Trãi)
13
Sgk 11, tập 1
1 tiết
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)
14
Sgk 11 , tập 1
Đọc thêm
Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)
Phụ lục 3
Bảng thống kê các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại phản ánh truyền thống
nhân đạo
STT Lớp Tên tác phẩm, tác giả
Số tiết, phân phối chương trình
1 Sgk 7, tập 1 1 tiết
2 Sgk 7, tập 1 1 tiết
3 Sgk 9, tập 1 2 tiết
4 Sgk 9, tập 1 1 tiết Bá nh trôi nướ c (Hồ Xuân Hương) Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến) Chuyê ̣n ngườ i con gá i Nam Xương (Nguyễn Dữ) Chi ̣ em Thú y Kiều (Trích “Truyê ̣n Kiều”- Nguyễn Du)
Kiều ở lầu Ngưng Bích 5 Sgk 9, tập 1 2 tiết
6 Sgk 9, tập 1 2 tiết
7 Sgk 10, tập 1 1 tiết (Trích “ Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Lục Vân Tiên cứ u Kiều Nguyê ̣t Nga (Trích “ Lục Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão)
8 Sgk 10, tập 1 1 tiết
9 Sgk 10, tập 1 Đọc thêm Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) Cá o tật thị chứng (Mãn Giác Thiền Sư)
10 Sgk 10, tập 1 Đọc thêm Quy hứng (Nguyễn Trung Ngạn)
112
11 Sgk 10, tập 2 2 tiết
12 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm
13 Sgk 10, tập 1 2 tiết
14 Sgk 10, tập 1 2 tiết
15 Sgk 10, tập 2 2 tiết
16 Sgk 10, tập 2 1 tiết
17 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm
18 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm
19 Sgk 10, tập 2 1 tiết
20 Sgk 11, tập 1 1 tiết Hưng đạo đại Vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Chuyê ̣n chứ c phá n sự đền Tản Viên (Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Tình cả nh lẻ loi của ngườ i chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm- Đă ̣ng Trần Côn- Đoàn Thi ̣ Điểm) Trao duyên (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Chí khí anh hù ng (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Nỗi thương mình (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Thề nguyền (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Và o phủ chú a Tri ̣nh ( Trích Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác) Tự tình II (Hồ Xuân Hương)
21 Sgk 11, tập 1 1 tiết
22 Sgk 11, tập 1 Đọc thêm Thương vợ (Trần Tế Xương) Khó c Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)
23 Sgk 11, tập 1 Đọc thêm
24 Sgk 11, tập 1 1 tiết Vi ̣nh khoa thi hương (Trần Tế Xương) Bà i ca ngất ngưởng
113
25 Sgk 11, tập 1 1 tiết
26 Sgk 11, tập 1 1 tiết (Nguyễn CôngTrứ ) Sa hành đoản ca (Cao Bá Quát) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)