ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HOÀI THU

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

CỦA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI

TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN

HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2017

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THỊ HOÀI THU

GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

CỦA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI

TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN

HÀNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.01.21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Dương Thu Hằng

Thái Nguyên – 2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoài Thu

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban Giám

hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học – Đại học

Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá

trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS.TS Dương Thu Hằng đã luôn tận tình hướng dẫn, quan tâm trong suốt

thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã giúp

đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hoài Thu

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chương trình CT

Dạy học DH

Học sinh HS

Giáo dục GD

Giáo viên GV

Phổ thông PT

Trung học cơ sở THCS

Trung học phổ thông THPT

Sách giáo khoa SGK

iv

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................. iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 5

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 6

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI ............................................................................................................... 8

1.1. Một số vấn đề lí luận về văn hóa truyền thống và giá trị của nó trong tác phẩm

văn học ................................................................................................................ 8

1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống .................. 8

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và tác phẩm văn học ..................................... 10

1.1.3. Diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kỳ trung đại ........................ 12

1.2. Hệ giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong văn học Việt Nam thời kỳ

trung đại ............................................................................................................. 19

1.2.1. Sự khoan dung ......................................................................................... 19

1.2.2. Tinh thần yêu nước .................................................................................. 23

1.3. Thực trạng dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong nhà

trường phổ thông ............................................................................................... 26

1.3.1. Đặc điểm của chương trình Ngữ văn phổ thông, Sách giáo khoa hiện hành 26

1.3.2. Những khó khăn cơ bản trong dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam

trung đại trong nhà trường phổ thông ............................................................... 29

v

Chương 2 NHẬN DIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

TIÊU BIỂU TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI

TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN

HÀNH ............................................................................................................... 32

2.1. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do ............................................... 32

2.1.1. Yêu nước là tự hào dân tộc ..................................................................... 32

2.1.2. Truyền thống căm thù giặc sâu sắc ......................................................... 36

2.1.3. Truyền thống yêu nước thể hiện ở khát vọng độc lập ............................. 40

2.1.4. Truyền thống yêu quê hương, đất nước .................................................. 42

2.2. Truyền thố ng nhân đa ̣o ............................................................................... 44

2.2.1. Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người .............................................. 44

2.2.2. Đồng tình với khát vọng của con người .................................................. 47

2.2.3. Đồng cảm, xót thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội

phong kiến ......................................................................................................... 49

2.2.4. Hướng tới những giải pháp đem đến hạnh phúc cho con người, cuộc sống.

Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người ..................... 54

2.3. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên ................................... 57

2.3.1. Thiên nhiên giản dị, thơ mộng giàu sức sống ......................................... 58

2.3.2. Thiên nhiên chứa chất tâm trạng đa chiều của con người ..................... 62 Chương 3 TÍCH HỢP GIÁ O DỤC GIÁ TRI ̣ VĂN HÓ A TRUYỀ N THỐ NG

TRONG DẠY- HỌC CÁ C TÁ C PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜ I TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG

........................................................................................................................... 66

3.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học tích hợp trong dạy học tác phẩm

văn học Việt Nam thời trung đại ....................................................................... 66

3.1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 66

3.1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................ 67

vi

3.2. Thiết kế một số chủ đề tiêu biểu theo hướng tích hợp giáo dục văn hóa truyền

thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong nhà trường PT

........................................................................................................................... 69

3.2.1. Nhóm chủ đề yêu nước ............................................................................ 70

3.2.2. Nhóm chủ đề nhân đạo..........................................................................73

3.3. Các bước chuẩn bị dạy học theo chủ đề tích hợp ....................................... 75

3.3.1. Phân chia bài học; cấu trúc lại chương trình ......................................... 75

3.3.2. Xác định thời lượng thực hiện dạy học một chủ đề tích hợp .................. 76

3.3.3. Xây dựng mục tiêu, nội dung của chủ đề tích hợp .................................. 76

3.3.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập kiểm tra theo chủ đề tích hợp ........ 77

3.4. Đề xuất một số chủ đề tích hợp tiêu biểu ................................................... 77

3.4.1. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc .... 77

3.4.2. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong

xã hội phong kiến .............................................................................................. 84

3.4.3. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu ...... 88

3.4.4. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình ..................... 91

3.4.5. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên .................... 94

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 99

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 102

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 107

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, toàn cầu hoá không chỉ mang lại thời cơ

lớn mà còn tạo ra những thách thức đối với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với

các nước đang phát triển. Trước xu thế toàn cầu hoá, văn hoá Việt Nam có cơ

hội giao lưu với các nền văn hoá khác trên thế giới. Đây cũng là giai đoạn mà

các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc phải đối diện với những tác động

tiêu cực của quá trình hội nhập. Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá

dân tộc là những nhu cầu tất yếu, khách quan để một dân tộc có thể tồn tại và

phát triển trong xu thế toàn cầu hoá. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng

Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan,

lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này vừa có mặt tích cực vừa có

mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” [48].

Hội nhập quốc tế và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là hai mặt thống nhất,

có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thách thức lớn nhất đối với Việt Nam là làm thế

nào để nền văn hóa dân tộc vừa có thể tiếp thu được các giá trị thời đại, tinh

hoa văn hoá nhân loại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc vốn có; tiếp tục phát

triển trong sự giao lưu với cộng đồng thế giới mà không bị hoà tan, không bị

nhấn chìm vào các nền văn hóa khác hoặc trở thành “cái bóng mờ” của dân tộc

khác, nền văn hoá khác.

Giáo dục việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá truyền thống dân tộc cho

thế hệ trẻ là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm. Trong Cương lĩnh

xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt

Nam xác định mục tiêu đó như sau: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây

dựng là một xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” [58]. Tại

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng vẫn tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã

hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ...; có nền văn hóa tiên tiến, đậm

2

đà bản sắc dân tộc...” và để thực hiện được mục tiêu đó, Đảng cũng nhấn mạnh

đến nhiệm vụ của văn hóa là phải “gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời

sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng

của phát triển”. [48]

Trong chương trình giáo du ̣c đào tạo phổ thông, môn Ngữ văn có vi ̣ trí đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách, tài năng con người.

Không chỉ rèn luyện, phát triển năng lực tư duy logic, trí tưởng tượng phong phú,

sáng tạo, các kỹ năng phát triển và sử dụng ngôn ngữ, văn học còn hướng đối

tượng giáo dục biết thẩm thấu, cảm thụ giá trị đích thực của nghệ thuật, hướng tới

chân - thiện - mỹ của văn chương với cách ứng xử và hành động trong thực tiễn

đời sống xã hội.

Những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc được thể hiện rất

đa dạng và phong phú trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại nhưng hiện

nay chưa đươ ̣c quan tâm tìm hiểu. Vì vậy, đề tài này nếu được thực hiện sẽ có ý

nghĩa không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục thế hệ trẻ nói riêng, góp

phần đổi mới giáo dục nói chung.

2. Lịch sử vấn đề

Văn hóa và những giá trị văn hó a truyền thố ng là mô ̣t vấn đề đã đươ ̣c đề câ ̣p rất nhiều. Về văn hóa không thể không nhắc tới cuốn Việt Nam văn hóa sử

cương của Đào Duy Anh in lần đầu tiên năm 1938 được ấn hành bởi Quan Hải

Tùng Thư. Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu khác như: Cơ sở văn

hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm, Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế của Nguyễn Chí Bền, Văn hóa truyền thống dân tộc với việc giáo

dục thế hệ trẻ củ a Nguyễn Hồ ng Hà, Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập củ a Ngô Đức Thịnh,

Văn hóa gia đình Việt Nam của Vũ Gia Khánh…

Trong bài viết Một số vấn đề lí luận nghiên cứ u hê ̣ giá tri ̣ văn hó a truyền thống trong đổi mớ i và hội nhập, tác giả Ngô Đứ c Thi ̣nh cho rằng: “Chúng ta bảo

3

tồn văn hoá truyền thống hay các giá trị văn hoá truyền thống phải trên nguyên

tắc phát triển, vì mục tiêu phát triển. Nói cách khác, cái gì trong kho vốn giá trị

truyền thống đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển thì chúng ta bảo tồn, phát

huy, còn cái nào cản trở, kìm hãm sự phát triển thì cần hạn chế và dần loại trừ. Do

vậy, nguyên tắc phát triển phải là nguyên tắc mang ý nghĩa chỉ đạo cho việc bảo

tồn, phát huy giá trị truyền thống”. [42]

Bàn về nhiê ̣m vu ̣ Giữ gìn và phá t huy giá tri ̣ truyền thống của con ngườ i Việt Nam - Một yêu cầu tất yếu khá ch quan trong sự nghiê ̣p công nghiê ̣p hó a, hiê ̣n

đại hó a, tác giả Trương Hoài Phương viết: “Nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá

trị truyền thống của con người Việt Nam là yêu cầu tất yếu khách quan trong sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn thực hiện đươ ̣c nhiê ̣m vu ̣ đó cần có hai nguyên tắc. Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức

về các giá trị truyền thống của con người Việt Nam. Thứ hai, thường xuyên quan

tâm, tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các

giá trị truyền thống của con người Việt Nam” [32, tr 63].

Trong bài viết Bà n thêm về vấn đề truyền thống văn hó a Viê ̣t Nam, giáo sư Trần Quốc Vươ ̣ng đã hoạch đi ̣nh ba phương hướ ng, chiến lươ ̣c trong viê ̣c xây dựng nền văn hó a mớ i Việt Nam xã hô ̣i chủ nghĩa. Thứ 1, chiến lược kế thừa tinh hoa truyền thống, hay nói vắn và dễ hiểu, chiến lược bảo tồn. Thứ 2, chiến lược

xóa bỏ những phong tục - tập quán cổ truyền, những lạc hậu, lỗi thời, và những

ảnh hưởng, di hại của văn hóa (đúng hơn: phản văn hóa) đô hộ - thực dân cũ và

mới, gọi là chiến lược cải tạo. Thứ 3, chiến lược xây dựng ý thức hệ mới, nền văn

hóa mới, con người mới Việt Nam, trên nển tảng chủ nghĩa Mác – Lê- nin hay

chính là chiến lược phát triển - đổi mới. [55]

Tác giả Huỳnh Thanh Phương trong bài viết Văn học và văn hó a dân tộc đã

nêu lên mố i quan hê ̣ giữa văn ho ̣c và văn hó a: Văn học biểu hiện văn hóa, cho nên văn học là tấm gương của văn hóa. Ông khẳng đi ̣nh: “Văn học, nghệ thuật cùng với

triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục… là những bộ phận hợp thành của

4

chỉnh thể cấu trúc văn hóa” [57]. Nếu văn hóa thể hiện quan niệm và cách ứng xử

của con người trước thế giới thì văn học là hoạt động lưu giữ thành quả sáng tạo

một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả đó, văn hóa của một dân tộc

cũng như của nhân loại từng trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lọc, bảo

tồn và phát triển để hình thành những giá trị trong xã hội. Văn học vừa là chặng

đường tìm kiếm, vừa là nơi định hình những giá trị. Có thể nói văn học là văn hóa

lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật.

Trong công trình Nghiên cứ u về những giá tri ̣ văn hóa truyền thố ng trong tá c phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tác giả Dương Thu Hằng nhận định: “Giá trị văn hóa truyền thống là tập hợp những nhân tố tích cực,

phổ biến về tư tưởng, tình cảm, thói quen, tập quán, lối sống và cách ứng xử của

một cộng đồng người nhất định, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở

nên ổn định và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một số biểu hiện củ a giá

tri ̣ văn hóa truyền thống đã được đề cập đến như: Tinh thần yêu nước; tinh thần tự

chủ, tự lực, tự cường, ý thức độc lập tự do; tinh thần nhân ái, khoan dung; tinh thần

đoàn kết; tinh thần cần cù, tiết kiệm; tinh thần hiếu học; tinh thần mong muốn cuộc

sống bình dị, yên ổn trong hòa bình, đề cao các giá trị văn hóa làng xã, dòng họ,

gia đình; tinh thần nhẫn nại chịu đựng; giản dị, khiêm tốn, chất phác, thật thà...”

[12, tr 21]. Đó là những giá trị văn hóa truyền thống cơ bản, vô cùng quý báu, đã

tạo nên cốt cách riêng biệt của con người Việt Nam.

Những công trình nghiên cứ u kể trên đã tiếp câ ̣n giá tri ̣ văn hó a ở nhiều phương diê ̣n khác nhau. Tuy nhiên chưa có mô ̣t công trình nào đề câ ̣p đến vấn đề giá tri ̣ củ a văn hó a truyền thố ng trong các tác phẩm văn ho ̣c Viê ̣t Nam trung đa ̣i ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành. Khai thác đề tài giá tri ̣ truyền thố ng trong các tác phẩm văn ho ̣c trung đa ̣i Viê ̣t Nam sẽ bổ sung thêm hướng nghiên cứ u về văn hó a Viê ̣t đồ ng thờ i sẽ gó p phần đổ i mớ i da ̣y - ho ̣c Ngữ văn ở trườ ng phổ thông. Đề tài của chúng tôi kế thừa, tiếp nối những công trình, bài nghiên cứu

trước đó, đồng thời phát triển một số điểm, cung cấp thêm tài liệu tham khảo về

5

dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.

Trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành có 50 tác phẩm/đoạn trích văn ho ̣c Việt Nam trung đại. Trong Sách giáo khoa, Sách giáo viên và Sách

tham khảo, các tác giả đề câ ̣p chủ yếu những vấn đề về nô ̣i dung và nghê ̣ thuâ ̣t. Khi giảng dạy, giáo viên chỉ chú trọng nhấn ma ̣nh nô ̣i dung và các hình thứ c nghê ̣ thuật của tác phẩm mà chưa chú ý tớ i những giá tri ̣ văn hó a truyền thố ng. Đề tài

củ a chúng tôi sẽ đóng góp thêm một hướng khai thác mới trong nội dung giảng

dạy giú p các thầy cô có thể tích hợp giáo du ̣c giá tri ̣ truyền thố ng trong da ̣y và ho ̣c các tác phẩm văn học Viê ̣t Nam trung đa ̣i trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.

3. Mục đích nghiên cứu

- Nhận diện những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong tác phẩm

văn học Việt Nam trung đa ̣i ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiê ̣n hành. - Cung cấp thêm tri thức, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy tác

phẩm văn học thời trung đại và giáo dục nhân cách người học trong nhà trường

phổ thông thông qua việc xây dựng một số chủ đề dạy học theo hướng tích hợp

giáo dục văn hóa truyền thống trong giờ dạy – học Ngữ văn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những giá trị văn hoá truyền thố ng củ a các tác phẩm văn học Việt Nam

trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Các sáng tác văn học Việt Nam thờ i trung đa ̣i có trong chương trình phổ

thông hiện hành.

- Một số vấn đề liên quan đến việc đổi mới dạy – học Ngữ văn trong chương

trình Ngữ văn phổ thông.

6

5. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nhận diện những giá trị văn hóa truyền thống của các tác phẩm văn học

trung đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.

- Tích hợp giáo dục giá trị văn hóa truyền thống trong dạy- học các tác

phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông

hiện hành.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Thực hiện luận văn, chúng tôi vận dụng đồng bộ các phương pháp nghiên cứu

sau:

- Phương pháp thống kê, phân loại: Thống kê, phân loại các tác phẩm văn học

Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành và tổng hợp các

giá trị văn hóa truyền thống trong các sáng tác đó theo những tiêu chí nhất định.

- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Sử dụng phương pháp tiếp cận văn hóa

học để giải mã các giá trị văn hóa tìm ra nền tảng nền tảng hệ giá trị văn hóa truyền

thống của các tác giả văn học Việt Nam trong chương trình phổ thông.

- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Kết hợp phương pháp nghiên cứu văn

hóa, nghiên cứu lịch sử - xã hội, lí luận văn học,...trên cơ sở kế thừa và khai thác

thế mạnh của các ngành khoa học khác, tìm hiểu mối quan hệ giữa yếu tố đó và

văn học.

Ngoài ra luận văn của chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu khác

như tổng hợp, phân tích, so sánh...

6. Đóng góp mới của luận văn

Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu hê ̣ thố ng các giá tri ̣ văn hó a truyền thố ng tiêu biểu của các tác phẩm văn ho ̣c Việt Nam trung đa ̣i trong chương trình Ngữ văn phổ thông.

7

Trên cơ sở xây dựng một số chủ đề dạy học văn theo hướng tích hợp giáo dục giá trị văn hóa truyền thống, luận văn góp phần đổ i mớ i da ̣y - ho ̣c Ngữ văn trong nhà trườ ng.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Nội dung đề tài

gồm 3 chương chính:

Chương 1: Những vấn đề lí luận và thực tiễn liên quan đến đề tài

Chương 2: Nhận diện những giá trị văn hoá truyền thống cơ bản trong các

tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện

hành

Chương 3: Tích hợp giáo dục giá trị văn hoá truyền thống trong dạy -

học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ

thông

8

NỘI DUNG

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Một số vấn đề lí luận về văn hóa truyền thống và giá trị của nó trong tác

phẩm văn học

1.1.1. Quan niệm về giá trị văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống

Trước khi tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống, chúng ta cần giới thiệu

khái niệm về văn hóa. Vậy văn hóa là gì? Định nghĩa văn hoá đến nay đã có hàng

trăm các tác giả nổi tiếng của trường phái nhân văn như Dilthey, Casirrer, Arnold,

T. Eliot… đến trường phái thực chứng như Taylor, Malinowski, Boas, Kroeber,

Benedict, Durkheim…. Việc xác định khái niệm văn hóa không hề đơn giản bởi

nó xuất phát từ mục đích, góc độ riêng và các cách tiếp cận để đưa ra khái niệm.

Xét về mối quan hệ giữa văn hóa và xã hội, hiện nay chúng ta có bốn cách tiếp

cận: tiếp cận giá trị học, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân cách và tiếp cận ký hiệu

học. Trong bốn cách tiếp cận này thì tiếp cận giá trị học có một lịch sử lâu đời.

Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam của tác giả Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa:

“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người

sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con

người với môi trường tự nhiên và xã hội” [39]. Như vậy, với cách định nghĩa này

thì nội hàm của khái niệm văn hóa bao gồm: Thứ nhất, đó là những giá trị vật chất

và tinh thần do con người sáng tạo ra nhằm thỏa mãn các nhu cầu của con người

và vì con người. Thứ hai, những giá trị mà con người sáng tạo ra đó phải mang

tính nhân tính nghĩa là nó phải mang tính người. Đến năm 1982, tại Hội nghị thế

giới về các chính sách văn hóa đã thông qua tuyên bố: “Trong ý nghĩa rộng nhất,

ngày nay văn hóa có thể được coi là toàn bộ các đặc tính đặc biệt về tâm hồn, vật

chất, trí tuệ và tình cảm đặc trưng cho một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó không

9

chỉ bao gồm nghệ thuật và văn học, mà cả lối sống, các quyền cơ bản của nhân

loại, các hệ thống giá trị, truyền thống và tín ngưỡng” [58].

Về giá trị và giá trị văn hóa: giá trị là phạm trù gắn liền với sự xuất hiện của

con người (tách khỏi động vật) và phát triển cùng đời sống con người như là một

chủng loại có văn hoá. Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của

con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng chân, thiện, mĩ, giúp khẳng

định và nâng cao bản chất người. Giá trị văn hóa là sự khẳng định của con người

với sự tồn tại vật chất, tinh thần của bản thân mình, quan hệ, hành vi, thái độ, khích

lệ, động viên con người sống theo thang giá trị của mình. Giá trị văn hóa truyền

thống là những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn hóa, tạo nên bản sắc văn

hóa của một dân tộc, được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong

suốt chiều dài phát triển của lịch sử. Các giá trị văn hóa truyền thống đó kết tinh lại

trong quan niệm, tư tưởng, triết lý, trong đạo đức và cách thức ứng xử, phản ánh

diện mạo tinh thần, tâm hồn và tình cảm của cả một dân tộc, có trong các sản phẩm

vật thể và phi vật thể của văn hóa. Nếu giá trị là những cái thuộc về sự vật, hiện

tượng và những thuộc tính của chúng mà có ý nghĩa tích cực đối với xã hội, một

nhóm người và cá nhân, với tư cách là phương tiện thoả mãn những nhu cầu và lợi

ích, đồng thời biểu thị niềm tin của con người về những mục đích và phương thức

ứng xử lý tưởng thì giá trị văn hoá là yếu tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và

kết tinh trong quá trình lịch sử của dân tộc và nhân loại. Giá trị văn hóa tuy có ý

nghĩa lâu dài nhưng là phạm trù có tính lịch sử, không phải là vĩnh viễn. Theo thời

gian có những giá trị lạc hậu, lỗi thời sẽ bị mất đi và những giá trị mới sẽ nảy sinh.

Các giá trị văn hóa theo thời gian lịch sử được lưu truyền sẽ trở thành giá

trị văn hóa truyền thống. Vậy giá trị văn hóa truyền thống là gì? Đó là những tư

tưởng, biểu tượng, giá trị và chuẩn mực xã hội hóa những tác phẩm văn hóa được

cộng đồng tin tưởng và mong muốn gìn giữ, truyền đạt và noi theo. Nói đến giá

trị văn hóa truyền thống là nói đến những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn

hóa được lưu truyền, gìn giữ trong quá trình lịch sử. Nhiều học giả, những nhà

10

nghiên cứu về văn hóa đã đúc kết nên những giá trị văn hóa truyền thống rất quý

báu của dân tộc Việt. Theo giáo sư Trần Văn Giàu, có bảy giá trị mang tính tổng

quát nhất của dân tộc Việt Nam, đó là: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc

quan, thương người, vì nghĩa [10, tr 35]. Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa

sử cương cũng nêu lên bảy giá tri ̣ có thể xem là bản sắc văn hóa Việt: Sức ký ức

(trí nhớ tốt, thiên về nghệ thuật và trực giác); Ham học, thích văn chương; Ít

mộng tưởng (thiết thực); Sức làm việc khó nhọc (cần cù); Giỏi chi ̣u khổ và hay

nhẫn nhục; Chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hy sinh vì đại nghĩa; Khả

năng “bắt chướ c, thích ứng và dung hòa rất tài” [1, tr 73]… Nếu như các giá trị

văn hóa có ý nghĩa lâu dài nhưng không phải là vĩnh viễn thì giá trị văn hóa truyền

thống là những giá trị tương đối ổn định, tốt đẹp tạo nên bản sắc cho dân tộc đó.

Như vậy, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, các giá trị văn hóa truyền

thống không chỉ có vai trò to lớn đối với sự tồn vong mà còn khẳng định sức sống

mãnh liệt của dân tộc trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Ngày nay, các giá trị

văn hóa truyền thống dân tộc đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc sẽ tạo

nên sức mạnh trong công cuộc phát triển đất nước và giảm bớt, loại trừ hay ít ra

làm hạn chế không ít những tiêu cực phát sinh từ mặt trái của cơ chế thị trường.

Một trong những nguồn có thể khai thác và giáo dục giá trị văn hóa truyền thống

đó là thông qua dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình

Ngữ văn phổ thông hiện hành.

1.1.2. Mối quan hệ giữa văn hóa và tác phẩm văn học

Như trên đã nói, văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều

cách hiểu khác nhau, liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của con người.

Có thể hiểu, văn hoá là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía

cạnh của đời sống bao quanh con người, tồn tại hữu thức và cả vô thức trong mỗi

cá nhân con người. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhất của cuộc sống cũng mang

dấu hiệu văn hoá.

11

Trên thực tế, văn hóa của bất kỳ quốc gia nào cũng được phản ánh trong

văn học. Văn học là nghệ thuật dùng ngôn từ và hình tượng để thể hiện đời sống

và xã hội con người. “Văn học ở thời nào cũng phải đặt trong cấu trúc tổng thể

của văn hoá, nhưng ở ta xem xét văn học và tiếp cận văn học từ góc độ văn hoá

hiện nay vẫn là vấn đề hết sức mới mẻ. Trước đây, văn học và văn hoá bị xem xét

một cách biệt lập do người ta quan niệm văn học có đặc trưng loại biệt. Bây giờ

đặc trưng loại biệt không phải là không còn, nhưng trong nhiều cách tiếp cận thì

cách tiếp cận văn học từ góc độ văn hoá đang cho thấy là một hướng tiếp cận có

hiệu quả. Cách tiếp cận này xem văn học như một thành tố trong cấu trúc của tổng

thể văn hoá nó truyền tải, lưu giữ được những giá trị văn hoá.” [56]. Có thể nói,

trong lịch sử văn học của bất cứ quốc gia nào cũng tồn tại mối quan hệ giữa văn

hoá và văn học. Quan trọng hơn, đó là một mối quan hệ hai chiều khăng khít

không thể tách rời.

Trong thực tế nghiên cứu, suốt một thời gian dài, văn hoá và văn học được

đặt ở vị trí ngang bằng, được coi là quan hệ tương hỗ, tức là nghiên cứu văn hoá

thì dùng văn học làm tư liệu, còn nghiên cứu văn học lại dùng văn hoá để soi chiếu.

Gần đây, sau khi Unesco phát động những thập kỷ phát triển văn hoá cùng sự thay

đổi nhận thức văn hoá, các nhà nghiên cứu đã thống nhất văn hoá là nhân tố chi

phối văn học. Văn hoá học, nghiên cứu các lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn từ

điểm nhìn văn hóa trở thành một hướng nghiên cứu có sức hút lớn và đã đạt được

những thành quả đáng ghi nhận. Ở Việt Nam, đã có khá nhiều tác giả đi theo hướng

nghiên cứu này tiêu biểu như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Đỗ Lai Thuý,

Trần Nho Thìn… Theo tác giả Đỗ Lai Thuý: “…Văn hoá là một tổng thể, một hệ

thống bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có văn học. Như vậy, văn hoá chi phối văn

học với tư cách là hệ thống chi phối yếu tố, toàn thể chi phối bộ phận. Đây là quan

hệ bất khả kháng. Tuy nhiên, văn học so với các yếu tố khác là một yếu tố mạnh và

năng động. Bởi thế, nó luôn có xu hướng đi trượt ra ngoài hệ thống. Trong khi đó

thì hệ thống, nhất là hệ thống văn hoá, luôn có xu hướng duy trì sự ổn định. Như

12

vậy, sự xung đột, sự chống lại của văn học đối với văn hoá là không thể tránh khỏi.

Nhưng nhờ thế mà văn học có sáng tạo. Sáng tạo những giá trị mới cho bản thân

nó và cho hệ thống. Sáng tạo lớn thì có thể dẫn tới sự thay đổi của hệ thống” [43].

Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau

của văn hoá truyền thống. Có thể nói nhà văn đích thực là một nhà hoạt động văn

hoá, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá và người học là một người thụ

hưởng văn hoá. Trong thời đại ngày nay, đa số quốc gia đều là xã hội đa văn hoá,

văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá. Chính sách đối với văn học là một phần

của chính sách văn hoá mà tiêu điểm là con người với những nhu cầu tinh thần

ngày càng phát triển.

1.1.3. Diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kỳ trung đại

1.1.3.1. Hoàn cảnh lịch sử - xã hội

Chế độ phong kiến Việt Nam tồn tại gần 10 thế kỉ (từ năm 938 đến năm

1858). Trải qua nhiều triều đại, lịch sử Việt Nam chứng kiến không ít những biến

động trong đường lối cai trị cũng như hệ thống cầm quyền. Đời Lí- Trần, tinh thần

đoàn kết của nhân dân được nêu cao nhằm thực hiện hai nhiệm vụ to lớn là bảo vệ

và xây dựng đất nước. Thời kì hoàng kim nhất của lịch sử phong kiến là triều đại

Hậu Lê (1428- 1489) qua ba đời vua trị vì, đặc biệt là đời vua Lê Thánh Tông. Sau

nhà Hậu Lê, xã hội dần bước vào thời kì hỗn loạn: Nội chiến Lê- Mạc (1540- 1592),

Trịnh- Nguyễn phân tranh (1627- 1672), .... Những biến cố khiến mâu thuẫn giữa

nhân dân với giai cấp thống trị ngày càng sâu sắc; đất nước loạn li; kỉ cương đạo

đức phong kiến suy tàn, rạn nứt. Thế kỉ XVIII, trước những biến cố lịch sử, phong

trào khởi nghĩa của nông dân phát triển mạnh mẽ. Năm 1771, lần đầu tiên trong

lịch sử phong kiến Việt Nam, những người nông dân bước lên võ đài chính trị với

một khí thế mạnh mẽ, tự chủ nắm chắc ngọn cờ giữ và dựng nước: Cuộc khởi nghĩa

Tây Sơn thắng lợi, triều đại Tây Sơn ra đời và thực hiện nhiều chính sách có lợi

cho đất nước. Tuy nhiên, nhà Tây Sơn cũng sụp đổ và thay thế bằng một triều đại

khác- triều đình nhà Nguyễn.

13

Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu cuộc xâm lược nước ta. Khởi nghĩa đã

nổ ra khắp nơi chống triều đình phong kiến và chống Pháp xâm lược. Trước những

biến cố lớn lao, xã hội Việt Nam nửa cuối thế kỉ XIX có sự biến đổi sâu sắc. Cuộc

xâm lược của thực dân Pháp đem theo nền tư bản tấn công vào Việt Nam, cùng

với nó là mối giao lưu văn hóa bắt buộc, tất yếu làm hao hụt khá nhiều giá trị tư

tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc.

Hoàn cảnh lịch sử- xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành hệ

tư tưởng cũng như các giá trị văn hóa truyền thống của người dân Việt Nam.

Điều này được phản ánh sinh động, rõ nét trong các tác phẩm văn học theo từng

giai đoạn.

1.1.3.2. Tình hình văn hóa, giáo dục ở Việt Nam

Về văn hóa, giáo dục, năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho lập Văn Miếu.

Năm 1075, khoa thi quốc gia đầu tiên được tổ chức ở kinh thành.

Từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện

và phát triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài cho đất nước. Nội

dung học tập được quy định chặt chẽ. Thời Lê sơ, quy chế thi cử được ban hành

rõ ràng: cứ 3 năm có một kì thi Hội, chọn Tiến sĩ. Riêng thời vua Lê Thánh Tông

(1460 - 1497) đã tổ chức 12 khoa thi Hội. Số người đi học ngày càng đông, dân

trí do đó được nâng cao. Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia, ghi tên Tiến

sĩ.

Hàng loạt trí thức tài giỏi được đào tạo đã góp phần quan trọng vào việc

xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên, giáo dục Nho học không tạo điều kiện

cho sự phát triển kinh tế.

Thời nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế hoạt động của các

tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa giáo. Tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển.

Đình làng, đền thờ mọc lên ở khắp các xóm làng. Văn học chữ Hán kém phát

triển. Trong lúc đó, văn học chữ Nôm ngày càng phong phú và hoàn thiện. Xuất

14

hiện những tác phẩm văn học chữ Nôm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn

Du; các bài thơ của Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan…

Về kiến trúc, nổi bật lên quần thể cung điện nhà vua ở Huế và các lăng tẩm,

rạp hát đầu tiên được xây dựng có sân khấu và phòng khán giả. Lị sở các tỉnh đều

có thành lũy xây theo kiểu Pháp cổ; nổi lên ở thành Hà Nội là cột cờ được xây

dựng cao đẹp. Các ngành nghệ thuật dân gian tiếp tục phát triển theo các hình

thức cũ.

Văn hóa, giáo dục thời kì trung đại của nước ta là tiền đề xuất hiện tầng lớp

trí thức có học vấn, có khả năng sáng tác văn học. Văn hóa, giáo dục ảnh hưởng

trực tiếp đến nền văn học nước nhà trong giai đoạn này.

1.1.3.3. Tình hình văn học

Trong gần mười thế kỉ, lịch sử - văn học - văn hóa luôn gắn bó chặt chẽ với

nhau. Văn học trung đại là tấm gương phản chiếu thực tại xã hội, đời sống, tâm

hồn cũng như tư tưởng dân tộc Việt Nam thời trung cổ rõ nhất, đa dạng và sinh

động nhất.

Việc phân kì văn học trung đại cần dựa trên nhiều tiêu chí: Căn cứ vào lịch

sử, xã hội, văn hóa và quy luật nội tại của văn học; Căn cứ vào các sự kiện văn

học như tác giả, tác phẩm, nội dung tư tưởng, thể loại,…; Căn cứ vào đặc điểm

và tính chất của nền văn học: thi pháp, tư tưởng thẩm mĩ,… Dưới đây chúng tôi

chọn cách phân chia theo bốn giai đoạn văn học của một bộ phận lớn giới nghiên

cứu:

* Thế kỷ X đến thế kỷ XIV

Thời kì này tồn tại hai dòng văn học chủ yếu là dòng văn học tôn giáo và

văn học yêu nước. Thế kỉ X, Phật giáo trở thành quốc giáo và ảnh hưởng sâu rộng

đến đời sống và khả năng tư duy của người Việt. Nhiều sáng tác của các nhà sư

tuy tập trung thuyết lý cho đạo Phật nhưng vẫn chứa đựng những yêu tố xã hội

tích cực và có giá trị văn học: Quốc tộ, Thị đệ tử, Cáo tật thị chúng…

15

Hầu hết những tác phẩm được sáng tác trong giai đoạn này đều thể hiện rõ

tinh thần yêu nước mạnh mẽ và khát vọng đất nước thái bình. Rực rỡ nhất về đề

tài này phải kể đến nền văn học thời Lý- Trần. Một trong những tác phẩm nổi bật

trong giai đoạn này là những sáng tác của Lí Thái Tổ (Thiên đô chiếu), Lý Thường

Kiệt (Nam quốc sơn hà), Trần Quang Khải (Tụng giá hoàn kinh sư), Trần Quốc

Tuấn (Hịch tướng sĩ). Nam quốc sơn hà với những vần thơ đanh thép đã góp phần

quan trọng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Cũng là chủ đề yêu nước, nhưng

Trần Quang Khải lại mang đến cho nền văn học một sắc màu tươi sáng hơn qua

bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư:

Đoạt sóc Chương Dương độ,

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san.

(Tụng giá hoàn kinh sư-Ngữ văn 7, tập 1)

Lực lượng sáng tác trong giai đoạn này chủ yếu là các tăng lữ, vua chúa,

hoặc những người trí thức trực tiếp tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Các

tác phẩm của họ chủ yếu viết bằng chữ Hán. Tuy nhiên, bên cạnh dòng văn học chữ

Hán còn có sự xuất hiện của một dòng văn học mới. Đó là dòng văn học chữ Nôm

vào cuối thế kỷ XIII, do những bậc trí thức sáng tạo nên. Văn học chữ Nôm đã đặt

những viên gạch đầu tiên trên con đường phát triển của văn học viết bằng ngôn ngữ

dân tộc với một số bài thơ, bài phú Nôm.

* Thế kỷ XV- thế kỷ XVII

Tình hình văn học trong những thập kỷ này cũng không có thay đổi gì đáng

kể về mặt nội dung. Đại cáo bình Ngô là một trong những tác phẩm nổi bật nhất

trong giai đoạn này. Trong thi phẩm của mình, Nguyễn Trãi đã một lần nữa khẳng

định chủ quyền, lãnh thổ vững vàng của dân tộc. Không chỉ có thế, theo tác giả,

nước ta còn có một nền văn hóa lâu đời, một phong tục tập quán riêng và một lịch

sử đầy những chiến công của các anh hùng, hào kiệt. Những nhân tố này hòa

16

quyện với nhau tạo thành một khối thống nhất. Nó có thể đánh tan bất kì cuộc

xâm lược nào. Dựa vào quan niệm mới mẻ này, nên tác phẩm Đại cáo bình Ngô

được xem là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta. Bên cạnh đó, trong

văn học cũng xuất hiện tư tưởng ưu thời mẫn thế. Tư tưởng này bắt đầu manh nha

khi xã hội ngày một suy đồi: chiến tranh liên miên, vua quan chỉ lo đến cái lợi,

cái danh của mình mà bỏ mặc đời sống nhân dân. Chứng kiến những cảnh ấy

nhưng lại không thể thay đổi được nên các nhà văn thường có khuynh hướng lui

về ẩn dật. Họ ẩn dật không phải là để đối lập lại với xã hội. Cho nên, trong hầu

hết những tác phẩm của mình, các nhà văn không phê phán bản thân xã hội phong

kiến, mà chủ yếu phê phán những tệ lậu, những cái xấu trong xã hội phong kiến.

Các nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng này là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn

Dữ,… Nguyễn Bỉnh Khiêm một mặt lên án gay gắt sự tàn bạo do bọn phong kiến

gây ra một mặt lên tiếng bảo vệ đạo đức và nhân phẩm làm người. Tác phẩm Truyền

kỳ mạn lục nổi tiếng của Nguyễn Dữ đã tố cáo kẻ cầm quyền bạo tàn, bất lực, xa

hoa, truỵ lạc, đồng thời biểu lộ tâm tư nguyện vọng của ông và của nhiều nho sĩ ẩn

dật đương thời. Về mặt chữ viết, chữ Nôm phát triển khá mạnh mẽ và do thế các

sáng tác bằng chữ Nôm cũng ngày một nhiều hơn. Lực lượng sáng tác cũng vì thế

mà đông đảo hơn. Bên cạnh những tác phẩm của vua quan hoặc của những nhà

Nho, chúng ta còn thấy xuất hiện thêm những tác giả “ngoài cung đình”.Với sự

phát triển lớn mạnh như thế nên ngôn từ được sử dụng trong các tác phẩm văn học

ngày càng phong phú, đa dạng.

* Thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX

Văn ho ̣c giai đoa ̣n này không thể không kể tớ i Hồ Xuân Hương - một người phụ nữ tài hoa nhưng cuộc đời bà lại không gặp nhiều may mắn bởi chế độ đa thê và

tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Bà có tài nhưng cái tài ấy lại không được xã hội chấp

nhận; hai lần lấy chồng, hai lần đều phải làm lẽ. Cay đắng là vậy, đau khổ là vậy

nhưng trong thơ bà, ta ít khi bắt gặp bà khóc lóc hay uỷ mị. Trái lại, càng đau khổ,

càng chịu nhiều uất ức, bà càng trở nên mạnh mẽ, táo bạo. Bằng cách này hay cách

khác, bà luôn tìm cách chống đối lại xã hội. Trong khi người phụ nữ bị xã hội coi

17

khinh, bị chèn ép thì bằng những vần thơ của mình, bà đứng về phía họ, ủng hộ họ

và luôn tìm những đức tính tốt đẹp để nâng cao giá trị của họ lên. Chính vì vậy mà

khi đọc thơ bà, người ta luôn tìm thấy được niềm cảm thông, chia sẻ đối với số phận

của mình. Điều này được thể hiện trong một số tác phẩm tiêu biểu của bà: Tự tình II,

Bánh trôi nước,…

Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người chinh phụ, khai thác chủ

yếu tâm trạng của một người thiếu phụ có chồng đi chiến trận. Nếu ở giai đoạn

trước, khi người chồng tham gia chiến tranh, phục vụ đất nước thì người vợ sẽ

xem chuyện đó là bình thường, là điều cần làm ở một người đàn ông thì đến giai

đoạn này, tâm trạng của họ lại hoàn toàn khác. Họ không còn thiết tha đến cái

danh, cái lợi của người chồng nữa, bởi họ ý thức được rằng để có được những thứ

đó, bản thân họ phải đánh đổi nhiều thứ trong đó tuổi xuân và hạnh phúc là hai

thứ quý giá nhất. Cho nên, đọc tác phẩm lên ta chỉ thấy nỗi sầu, nỗi tủi của người

vợ.

Tài năng của Nguyễn Du được khẳng định khi ông viết Truyện Kiều. Bằng

bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du đã kể lại cuộc đời nàng Kiều tài hoa bạc

mệnh thật rõ nét. Và điều làm nên giá trị Truyện Kiều, làm cho Truyện Kiều trở

thành kiệt tác ngàn đời chính là tinh thần nhân đạo được thể hiện trong toàn tác

phẩm. Trong truyện, thông qua các nhân vật, Nguyễn Du đã thể hiện những khát

vọng, ước mơ của mình. Ông ước mơ về một tình yêu đẹp, về một xã hội công

bằng, tự do. Đồng thời, do hiểu rõ nguồn gốc sâu xa gây nên nỗi khổ đau cho

nhiều người đặc biệt là người phụ nữ. Cho nên, tác phẩm cũng là một bản cáo

trạng lên án xã hội phong kiến mục nát, tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống, nhân

phẩm tốt đẹp của con người. Nhận xét về Nguyễn Du, Bùi Văn Nguyên có nhận

định rằng: “Nếu Nguyễn Trãi tượng trưng cho truyền thống của chủ nghĩa yêu

nước chống ngoại xâm thì Nguyễn Du tượng trưng cho tinh thần nhân đạo chống

áp bức trong văn học cổ đỉển nước ta, cả hai tượng trưng cho truyền thống yêu

nước, yêu người của dân tộc ta và của văn học ta, tượng trưng cho sức sống tinh

18

thần mãnh liệt và vẻ đẹp tâm hồn tươi sáng của nhân dân ta từ những ngày xưa”

[23]. Với sự góp mặt của nhiều tác giả, tác phẩm nổi tiếng như thế có thể nói rằng

đây là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của nền văn học trung đại Việt Nam, không

chỉ phát triển về nội dung, đề tài mà thể loại cũng có nhiều biến thể.

* Cuối thế kỷ XIX

Văn học giai đoạn này đã phát triển trong sự gắn bó chặt chẽ với các diễn

biến của lịch sử dân tộc. Nội dung yêu nước, chống xâm lược, chống đầu hàng là

nét nổi bật dễ nhận thấy nhất của văn học giai đoạn này. Điều có ý nghĩa nhất mà

văn học giai đoạn này đã làm được là việc xây dựng thành công hình tượng người

nghĩa sĩ xả thân vì độc lập dân tộc. Nhân vật lí tưởng của văn học bấy giờ là người

anh hùng cứu nước. Họ gồm cả người trí thức phong kiến lẫn người nông dân,

những người khốn cùng trong xã hội dám xả thân vì đại nghĩa. Nguyễn Đình

Chiểu với những tác phẩm có giá trị cao như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Ngư tiều

y thuật vấn đáp,... được xem là tác gia văn học yêu nước lớn nhất của giai đoạn

này. Ngoài ra còn kể đến thơ văn yêu nước của Phan Văn Trị, Nguyễn Thông,

Nguyễn Quang Bích, Nguyễn Ôn,… Đến đây, bức tranh hiện thực của xã hội cũng

được ghi lại rất chi tiết và đầy đủ trong văn học bằng nhiều giọng điệu khác nhau.

Có khi đó là giọng thương cảm khi nhìn thấy một mảnh đời cơ cực nào đó, có khi

đó lại là giọng trào phúng, châm biếm, mỉa mai một tầng lớp nào đó của xã hội

phong kiến. Tiêu biểu có thể kể đến là Nguyễn Khuyến. Ông được xem là là một

trong những nhà thơ nổi tiếng trong dòng thơ trào phúng. Sáng tác của ông tập

trung đả kích những hiện trạng nhơ nhớp của một xã hội thực dân phong kiến mới

hình thành. Với một giọng thơ độc đáo, đầy chua chát và dữ dội, ông đã dồn tất

cả sự phẫn nộ của mình vào những kẻ bán nước, quan lại sâu mọt, sự đớn hèn của

đám sĩ phu vong quốc, sự suy thoái về đạo đức, danh dự:

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,

Cũng gọi ông Nghè có kém ai.

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,

19

Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,

Cái giá khoa danh ấy mới hời.

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

(Tiến sĩ giấy- SGK Ngữ văn 11, tập 1)

Mỗi giai đoạn văn học lại xuất hiện những tác giả có phong cách riêng

nhưng nhìn chung, các thi sĩ thời kì này vẫn tập trung thiên về phản ánh, tố cáo

xã hội phong kiến bất công. Văn học thời kì trung đại đã để lại nhiều dấu ấn sâu

đậm, có vai trò quan trọng trong tiến trình văn học nước nhà. Đây là thời kì văn

học không thể để lãng quên mà phải không ngừng nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá

thêm nhiều điều thú vị từ các sáng tác đặc sắc này.

1.2. Hệ giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu trong văn học Việt Nam thời

kỳ trung đại

Hệ giá trị văn hóa truyền thống được hình thành từ những điều kiện đặc thù

của nền văn minh lúa nước, tính nhân văn của văn hóa Việt Nam mang đậm tính chất

của nền nông nghiệp lúa nước, biểu hiện trên nhiều khía cạnh, trong đó nổi bật lên

hai đặc trưng cơ bản là sự khoan dung và tinh thần yêu nước [44].

1.2.1. Sự khoan dung

Trong văn hóa, khoan dung được coi là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc

của mỗi dân tộc, là con đường thuận tiện và an toàn để mỗi nền văn hóa tự đổi

mới, tiếp nhận và biến đổi các giá trị văn hóa bên ngoài cho phù hợp với nền văn

hoá của mình, làm giàu chính bản thân nền văn hóa mình; đồng thời tạo điều kiện

cho mỗi nền văn hoá thích nghi được những điều kiện, hoàn cảnh đã thay đổi của

xã hội và chống được nguy cơ đồng hóa cưỡng bức của một nền văn hóa này với

một hoặc nhiều nền văn hóa khác trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Sự

khoan dung trong văn hóa Việt Nam được biểu hiện cụ thể như sau:

20

Thứ nhất, đó là sự bản địa hóa, sự thích nghi hóa các giá trị văn hóa ngoại

lai vào văn hóa bản địa. Trong lịch sử phát triển của dân tộc ta, hiện tượng những

tôn giáo lớn khi du nhập vào Việt Nam bị bản địa hóa theo tín ngưỡng, lối sống

và cách tư duy của người Việt Nam không phải là điều hiếm gặp. Phật giáo là một

ví dụ. Khi vào Việt Nam, trong quá trình giao lưu với các tín ngưỡng bản địa, Phật

giáo đã ngay lập tức kết hợp chặt chẽ với các tín ngưỡng này tạo nên những nét

đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Kết hợp với tín ngưỡng thờ thần của người dân

bản địa, Phật giáo Việt Nam đã tạo nên hệ thống tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ,

Pháp Lôi, Pháp Điện) và chính những ngôi chùa thờ tứ pháp, tuy mang hình dáng

chùa của Phật giáo, nhưng thực chất vẫn là những đền miếu dân gian thờ các vị

thần tự nhiên của người bản địa. Người Việt còn đưa thần thánh, thành hoàng

làng, thổ địa, các anh hùng dân tộc có công với nước vào trong chùa, tạo nên một

lối kiến trúc độc đáo “tiền Phật, hậu Thần” trong các ngôi chùa Việt Nam. Cũng

cần phải nói thêm rằng, ngôi chùa của người Việt không chỉ là một nơi linh thiêng

dành riêng cho các phật tử, sư sãi, mà hơn thế, còn là nơi mang tính cộng đồng

sâu sắc. Đó không chỉ là nơi người dân đến cầu an lành, hạnh phúc, mà còn là nơi

hội họp, sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của người dân lao động bên cạnh ngôi đình

làng. Chùa còn là nơi yên tĩnh, nơi giải thoát cho những vong hồn, linh hồn của

những người đã mất. Chính vì vậy, hầu như không có ngôi chùa nào ở Việt Nam

mà lại không có bia hậu, có khu vực dành riêng để bát nhang tưởng nhớ những

linh hồn đã khuất. Ở đây, sự bản địa hóa Phật giáo đã làm cho Phật giáo ở Việt

Nam dần trở thành một tôn giáo nhập thế, khác xa với nguồn gốc xuất thế của nó.

Thứ hai, đó là sự hỗn dung tôn giáo. Nằm trên ngã ba đường của sự giao

lưu văn hóa, kinh tế của phương Đông và phương Tây, nên không chỉ các giá trị

văn hóa mà cả các tôn giáo lớn trên thế giới dường như đều có mặt ở Việt Nam.

Khi vào nước ta, chúng cũng đều bị biến đổi cho phù hợp với lối sống và tâm lý

của người dân. Điều đáng nói ở đây là, trong quá trình xâm nhập và bị bản địa

hóa, các tôn giáo ở Việt Nam có thể “chung sống” hòa bình với nhau, tạo nên hiện

21

tượng “tôn giáo vào trước mở rộng cửa đón nhận tôn giáo vào sau, tạo nên một sự

hòa hợp rộng rãi” [39]. Sự du nhập của các tôn giáo vào Việt Nam, đặc biệt là của

Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, đã tạo nên sự hỗn dung của ba tôn giáo này trên

đất nước. Nghiên cứu lịch sử phát triển của dân tộc, một điều dễ dàng nhận thấy,

mà có thể rất ít gặp ở các dân tộc khác, đó là, mặc dù có sự thâm nhập, sự giao

thoa của rất nhiều loại hình tôn giáo, nhưng ở Việt Nam chưa hề có mâu thuẫn

dẫn đến xung đột hay chiến tranh giữa các tôn giáo. Những khác biệt, những mâu

thuẫn tôn giáo thường không gay gắt và dường như được dung hòa bởi tính cố kết

cộng đồng, bởi lối sống tình cảm của người dân. Bước vào nơi linh thiêng nhất

của người Việt - ngôi chùa làng - thì hiện tượng các vị thánh thần, Phật được thờ

chung một điện là khá phổ biến. Bên cạnh đó, trong cuộc đời của một người Việt

Nam, hiện tượng hỗn dung các tôn giáo cũng được thể hiện một cách rõ nét. Điều

này có lẽ, các tôn giáo về hình thức thì khác nhau nhưng nghiên cứu kỹ thì có thể

thấy, nhiều khi sự khác nhau đó chỉ là những cách diễn đạt khác nhau về cùng một

vấn đề, các phương pháp thực hiện tuy khác nhau nhưng cùng hướng về một nội

dung, một mục đích cụ thể. Chẳng hạn, cùng giải thích về đạo đức, Nho giáo dạy

nhân nghĩa; Đạo giáo dạy yêu quý thiên nhiên, yêu quý sự sống; Phật giáo không

sát sinh. Khi bàn đến đời sống của con người, Nho giáo nhấn mạnh tới mặt tổ

chức xã hội, Đạo giáo nhấn mạnh tới phần thân xác con người sao cho khỏe

mạnh, Phật giáo chú trọng đến tâm linh của con người thoát khỏi cái khổ, v.v…

Đó là những điều rất gần gũi với đời sống, với ước mong sống hạnh phúc, bình

yên của người dân. Do vậy, người dân tiếp nhận cả ba tôn giáo, đồng thời lĩnh

hội và phát huy những cái hay, cái tiến bộ của từng tôn giáo trong cuộc sống,

làm cho các tôn giáo hỗ trợ, bổ sung mà không mâu thuẫn với nhau. Chính vì

thế, cùng một người Việt Nam, khi trẻ thì học Nho để ra giúp nước, khi khổ ải

trầm luân thì cầu khấn Phật phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ chữa

bệnh trừ tà hoặc luyện tập dưỡng khí an thần.

22

Có thể thấy rằng, văn hóa Việt Nam không những đã dung hợp các tôn giáo

ngoại sinh mà hơn nữa, đã bản địa hóa chúng, kết hợp chúng với tín ngưỡng bản

địa, tạo nên sự độc đáo riêng biệt trong đời sống sinh hoạt tinh thần cũng như

trong văn hóa của dân tộc. Có được điều này là nhờ ở tính khoan dung truyền

thống trong văn hóa Việt Nam và sự chi phối mạnh mẽ của nó trong các lĩnh vực

khác nhau của đời sống xã hội. Điều đó đã tạo nên sự thuần hậu, sự ứng xử linh

hoạt, biện chứng trong văn hóa Việt Nam nói chung, trong tính nhân văn của văn

hóa Việt Nam nói riêng.

Thứ ba, là sự chủ động trong thế bị động tiếp nhận các giá trị văn hóa.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của đất nước, sự du nhập các giá trị văn hóa

từ bên ngoài vào Việt Nam chủ yếu theo con đường áp đặt, qua bước chân của

những kẻ xâm lược, với một mưu đồ thâm hiểm nhằm đồng hóa dân tộc ta theo

thứ văn hóa xâm lược đó. Nhưng cũng cần thấy rằng, chính ở đây, yếu tố mềm

dẻo, linh hoạt, sự khoan dung, thuần hậu vốn có trong văn hóa Việt Nam đã thật

sự phát huy vai trò to lớn của mình. Sự tấn công mạnh mẽ của các giá trị văn hóa

bên ngoài đã góp phần thay đổi văn hóa Việt Nam ở một số lĩnh vực nhất định,

song không phải tất cả những giá trị đó đều phát huy tác dụng, đều có ảnh hưởng

sâu rộng trong đời sống của người Việt Nam. Điều gì có lợi, phù hợp với người

Việt Nam thì được tiếp nhận, được biến đổi; điều gì không phù hợp thì cũng chỉ

có thể được chấp nhận một phần nào đó để tìm cách cải biến cho phù hợp hoặc bị

đào thải hoàn toàn. Chính vì vậy, trong suốt 1000 năm Bắc thuộc, dân tộc ta vẫn

không bị đồng hóa, văn hóa của chúng ta không bị hòa tan vào văn hóa Trung

Hoa, vẫn giữ gìn được bản sắc riêng của mình. Đó là biểu hiện của việc sẵn sàng

tiếp nhận, biến đổi và đồng thời kiên quyết loại bỏ những yếu tố bất đồng, mâu

thuẫn với văn hóa của dân tộc; nói một cách khác, đó chính là sự chủ động tiếp

nhận và biến đổi văn hóa trong tình thế bị động, bị áp đặt của một dân tộc trước

những nguy cơ đe dọa bị đồng hóa, bị hòa tan văn hóa của mình vào những nền

văn hóa khác.

23

1.2.2. Tinh thần yêu nước

Cùng với sự khoan dung, tinh thần yêu nước là một đặc trưng tiêu biểu của

văn hóa Việt. Khi nói đến tinh thần yêu nước, một điều chắc chắn là không có

một dân tộc nào trên thế giới lại không có tinh thần yêu nước. Vấn đề đáng quan

tâm là tinh thần yêu nước Việt Nam có những đặc điểm gì khác với tinh thần yêu

nước của các dân tộc trên thế giới.

Nói đến tinh thần yêu nước Việt Nam chính là nói đến ý thức trách nhiệm

về giống nòi, về cộng đồng, về dân tộc được biểu hiện thành những quan điểm,

những lý luận; là những nhận thức về con đường, biện pháp đấu tranh giải phóng

dân tộc; về động lực và khả năng giành lại lãnh thổ và xây dựng đất nước, v.v…

Tinh thần yêu nước đã góp phần hình thành những nguyên lý: cùng một giống nòi

thì phải có nghĩa vụ thương yêu nhau, đùm bọc nhau; nếu đoàn kết sẽ có sức

mạnh. Tiến lên một bước cao hơn nữa, tinh thần yêu nước đã góp phần khẳng định

chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán, sự độc lập tự chủ trong quản lý và phát

triển đất nước, đặt ra yêu cầu được đứng ngang hàng với phương Bắc… Nhìn

chung, tinh thần yêu nước - một đặc trưng cơ bản của tính nhân văn trong văn hóa

Việt Nam - được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Trước hết, yêu nước là thương yêu đồng bào, yêu nơi chôn nhau cắt rốn của

mỗi cá nhân, và hơn nữa, là tư tưởng xây dựng một quốc gia độc lập, tự chủ đủ

sức đảm bảo cuộc sống an lành, hạnh phúc cho mỗi người dân.

Dân tộc Việt Nam được hình thành trong những điều kiện hết sức khắc

nghiệt. Để tồn tại và phát triển được, người Việt Nam đã biết đoàn kết nhau lại

đắp đê phòng lụt, biết tin ở khả năng của mình, không đợi thời, đợi thế, đối đầu

với thiên nhiên để giành cuộc sống cho cộng đồng của mình. Cuộc sống gian khổ,

vất vả đã tạo nên sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng người Việt.

Là sản phẩm được hình thành nhờ bàn tay khối óc, sự hy sinh của các thế hệ người

Việt Nam, đất nước, đối với người Việt Nam không đơn thuần chỉ là nơi ở, nơi

làm ăn để sinh tồn mà hơn thế, nó thực sự trở thành một phần cơ thể, là máu thịt

24

của mỗi người. Có thể thấy rằng, mỗi người Việt Nam, từ buổi đầu dựng nước

cho đến ngày nay, đều ý thức được trọng trách của mình đối với non sông của tổ

tiên để lại, tức là ý thức được cộng đồng của mình và chủ quyền của đất nước.

Chính sự đe dọa bị xâm lăng và thấu hiểu được nỗi thống khổ dưới ách nô lệ của

ngoại bang đã khiến người Việt Nam đoàn kết thương yêu nhau, cùng nhau hành

động dựa trên sức mạnh cộng đồng để vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, giành

độc lập, tự do cho Tổ quốc. Mỗi khi đứng trước vận mệnh cam go của đất nước,

mỗi người dân Việt Nam đều nhận thức rõ được trách nhiệm của mình đối với Tổ

quốc, với dân tộc và cũng chính ở đây, tư tưởng khẳng định chủ quyền quốc gia,

khẳng định sự độc lập tự chủ với mong muốn đứng ngang hàng với phương Bắc

lại nổi lên mạnh mẽ. Tư tưởng độc lập dân tộc, người dân được sống ấm no, hạnh

phúc được hun đúc qua hàng ngàn đời của dân tộc Việt Nam thể hiện qua lao động

sản xuất, qua quá trình dựng nước và giữ nước đã được khái quát trong những áng

thiên cổ hùng văn, như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Hịch tướng sĩ của

Trần Quốc Tuấn và đỉnh cao là Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi sau này.

Thứ hai, yêu nước là sẵn sàng hy sinh vì đất nước, vì sự tự do của dân tộc.

Điều này đã trở thành ý thức thường trực trong mỗi người dân Việt Nam. Trải qua

lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu quý độc lập tự do,

mong muốn mang lại hạnh phúc cho mọi người, sự yên bình cho mọi nhà. Mỗi

người Việt Nam đều mang trong mình ý thức cộng đồng, dám hy sinh thân mình

vì sự tồn vong của đất nước, người Việt Nam mang trong mình một “Tổ quốc

luận” sâu sắc, xả thân vì nước, vì độc lập, tự do của dân tộc đến mức “giặc đến

nhà đàn bà cũng đánh”.

Dân tộc Việt Nam được hình thành từ sự đoàn kết cộng đồng trong công

cuộc chinh phục thiên nhiên, đối đầu với nạn ngoại xâm. Chính vì vậy, sự xác

định vị trí cũng như vai trò của mỗi cá nhân trong mối quan hệ tác động qua lại

với những cá nhân khác trong cộng đồng, sự thông cảm, chia sẻ lẫn nhau trong

lúc hoạn nạn, lúc khó khăn cũng như khi yên vui, hạnh phúc đã là những yếu tố

25

cơ bản tạo nên tinh thần xả thân vì nước, quên thân vì cộng đồng của người dân

Việt Nam. Chúng ta thấy tinh thần yêu nước, xả thân vì nước được thể hiện rõ nét

nhất ở ngay cả trong cách nghĩ cũng như trong những hành động thực tế của các

phật tử Việt Nam. Đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ bên ngoài, các phật tử cũng

như các nhà sư đã tự nguyện phá giới luật, đứng lên cầm vũ khí chống giặc ngoại

xâm với mong muốn đóng góp sức mình vào sự ổn định, phát triển và tự do của

đất nước.

Thứ ba, tinh thần yêu nước còn được thể hiện sâu sắc trong đường lối ngoại

giao, trong thế ứng xử đối với các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước láng

giềng với xu thế cầu hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Với vị trí địa lý đặc biệt cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú,

Việt Nam luôn là tâm điểm của những kẻ xâm lược. Nhận thấy rõ thế và lực của

đất nước, với mong ước được sống trong hòa bình, dân tộc Việt Nam luôn nêu

cao tinh thần hòa hiếu, không gây chiến tranh. Nêu cao tinh thần hoà hiếu trong

cách ứng xử giữa con người với con người là nét riêng của văn hóa Việt Nam và

trong đường lối ngoại giao, tinh thần này được nâng cao một bước, trở thành

đường lối “Lấy chí nhân thay cường bạo” (Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi).

Trong các cuộc kháng chiến, khi kẻ thù thất bại, người dân Việt Nam dù mang

trong mình mối căm hận lớn lao nhưng không vì thế mà tàn sát kẻ thù; ngược lại,

còn mở đường “hiếu sinh” cho chúng rút về nước an toàn, lấy đó làm điều kiện

để xây dựng một mối quan hệ hòa hiếu, hữu nghị đối với chính các quốc gia bại

trận đó. Lịch sử dân tộc đã từng chứng kiến những hành động cao cả của vua Trần

đã đảm bảo cho quân Nguyên rút về nước an toàn; của Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi

cung cấp lương thực, phương tiện cho quân Minh về nước sau chiến tranh. Ở đây,

tinh thần hoà hiếu đã trở thành chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Và, không chỉ dừng

lại ở sự giảng hòa đơn giản đó, trong địa vị và hoàn cảnh của mình, dân tộc Việt

Nam còn biết khiêm nhường chấp nhận một sự lệ thuộc về hình thức để giữ gìn

một nền độc lập trên thực tế của mình. Triều đình phong kiến Việt Nam vẫn

26

thường duy trì quy ước sau khi chiến thắng kẻ thù liền phái sứ giả sang cống nạp

và nhận “tước phong” của triều đình phong kiến Trung Quốc nhằm tỏ ý thần phục

theo thể thức của một nước chư hầu, v.v.. Những hành động như vậy đã thể hiện

một cách đầy thuyết phục nguyện vọng, ý chí tự lực tự cường, mong muốn sống

trong hòa bình, hữu nghị và ổn định với các quốc gia, các dân tộc khác của dân

tộc Việt Nam ta.

Như vậy, có thể thấy, sự khoan dung và tinh thần yêu nước đã thực sự trở

thành những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam. Trải qua nhiều thăng trầm

trong lịch sử phát triển của dân tộc, tính nhân văn của văn hóa Việt Nam đã góp

phần khẳng định bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam trong sự giao lưu, tiếp biến

với các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, sự phát huy

cao độ tính nhân văn của văn hóa trong những thời kỳ “đen tối” của lịch sử dân tộc

đã giúp cho dân tộc ta tìm ra được những con đường, những cách thức hiệu quả

nhất để mang lại độc lập, tự do cho nhân dân, tránh được sự đồng hóa văn hóa, bảo

vệ toàn vẹn lãnh thổ mà cha ông ta đã khổ công xây dựng và vun đắp qua hàng

nghìn năm. Trong điều kiện đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, việc phát huy

hơn nữa tính nhân văn của văn hóa Việt Nam sẽ góp phần khẳng định bản sắc văn

hóa Việt Nam trước nguy cơ hòa tan của xu thế hội nhập, nêu cao giá trị Việt Nam

trên trường quốc tế. Ðây chính là cơ sở để có thể định hướng tích hợp giáo dục văn

hóa truyền thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong nhà

trường phổ thông.

1.3. Thực trạng dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam thời trung đại trong

nhà trường phổ thông

1.3.1. Đặc điểm của chương trình Ngữ văn phổ thông, Sách giáo khoa hiện hành

1.3.1.1. Mục tiêu môn học

Chương trình Ngữ văn hiện hành nêu lên 03 mục tiêu, trong đó mục tiêu

đầu tiên là cung cấp cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính

hệ thống về ngôn ngữ (trọng tâm là tiếng Việt) và văn học (trong tâm là văn học

27

Việt Nam), phù hợp với trình độ phát triển của lưa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn

nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mục tiêu thứ hai

là hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ

thẩm mĩ…. Mục tiêu thứ ba là bồi dưỡng tinh thần, tình cảm như tình yêu tiếng

Việt, yêu thiên nhiên, gia đình, lòng tự hào dân tộc…

Có thể thấy rõ cấu trúc nội dung của mục tiêu môn học này gồm ba yếu tố: kiến

thức, năng lực (kĩ năng) và thái độ. Đây chính là cấu trúc “kinh điển” của mục tiêu GD

trong nhà trường phổ thông từ trước đến nay. Tuy nhiên, so với yêu cầu và xu thế mới

có thể thấy một số bất cập trong cách xác định mục tiêu trên:

Thứ nhất: Việc cung cấp kiến thức được coi là mục tiêu số một cho thấy

chương trình tập trung nhấn mạnh kiến thức mà chưa chú trọng thực sự đến hình

thành, rèn luyện kĩ năng, năng lực.

Thứ hai: Các khái niệm “cơ bản, hiện đại” và nhất là “tính hệ thống về ngôn

ngữ và văn học” đã tạo điều kiện cho các tác giả chương trình và sách giáo khoa

nghiêng về trang bị các tri thức mang tính hàn lâm và xây xựng môn Ngữ văn trong

nhà trường tương ứng với toàn bộ khóa học Ngữ văn. Kết quả là HS được học tất

cả từ ngôn ngữ học, Việt ngữ học, lí luận văn học, lịch sử văn học… trong đó có

một số kiến thức quá cao sâu chưa cần đối với HS phổ thông.

Chúng tôi cho rằng khi xác định mục tiêu môn Ngữ văn theo hướng mới

cần điều chỉnh sự bất cập vừa nêu trên, theo hướng:

- Đề cao mục tiêu hình thành và phát triển năng lực Ngữ văn, mà trước

hết là năng lực giao tiếp với việc sử dụng thành thạo bốn kĩ năng cơ bản: đọc,

viết, nghe, nói. Sau đó mới là các kĩ năng khác.

- Việc lựa chọn kiến thức (văn học, tiếng Việt…) tất nhiên cần cơ bản, hiện

đại nhưng phải hướng tới phục vụ cho yêu cầu phát triển năng lực, tránh kinh

viện, không thiết thực và không quá chú trọng tính hệ thống (hệ thống lịch sử văn

học, hệ thống ngôn ngữ…)

28

- Vừa chú ý mục tiêu GD theo yêu cầu của xã hội; vừa quan tâm đến nhu

cầu, sở thích của cá nhân người học và người dạy để xác định nội dung chương

trình học tập (GV và HS mong đợi dạy và học những gì?).

1.3.1.2. Về cấu trúc nội dung chương trình môn Ngữ văn

Cấu trúc chương trình Ngữ văn hiện hành được thực hiện theo nguyên tắc

tích hợp. Với môn Tiếng Việt ở Tiểu học, chương trình tập trung vào hai thành

phần: kiến thức và kĩ năng, trong đó kiến thức gồm tiếng Việt và văn học; kĩ năng

gồm đọc, viết, nghe, nói. Đến THCS và THPT chương trình lại được cấu trúc ba

phần: Tiếng Việt, Tập làm văn và Văn học. Mỗi phần có các nội dung riêng, theo

hệ thống của mỗi phân môn khá độc lập…Cho nên nhiều nội dung rất khó tích

hợp.

Nhìn chung, cấu trúc của CT và nhất là SGK Ngữ văn hiện hành vẫn chủ

yếu lấy trục nội dung (tiểu học theo hệ thống chủ đề, còn Trung học lấy lịch sử

văn học). Thêm vào đó do làm CT tách rời các cấp nên cấu trúc CT các cấp thiếu

tính thống nhất; một số đơn vị kiến thức lặp lại, một số nội dung không cần thiết

phải học cả 3 cấp, hoặc lặp lại không phát triển, nâng cao…Văn bản đọc hiểu còn

nhiều, một số văn bản dài, chưa chọn lọc, thiếu hấp dẫn…

Có thể nói xây dựng CT và SGK Ngữ văn theo hướng tích hợp là một bước

tiến trong việc phát triển CT, nhưng vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Chương trình

Ngữ văn đòi hỏi cần phải thay đổi, trước hết là xác định trục chính của CT. Cấu

trúc nội dung CT phải tập trung vào mục tiêu phát triển năng lực và vì thế trục

chính của CT Ngữ văn, như nhiều nước đã làm phải là trục kĩ năng: đọc, viết,

nghe, nói. Việc trang bị kiến thức văn học và tiếng Việt, ngôn ngữ… vẫn cần thiết

nhưng cần thông qua rèn luyện kĩ năng, liên quan mật thiết và phục vụ trực tiếp

cho rèn luyện kĩ năng.

29

1.3.2. Những khó khăn cơ bản trong dạy - học các tác phẩm văn học Việt Nam

trung đại trong nhà trường phổ thông

1.3.2.1. Về việc lựa chọn, sắp xếp tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong

chương trình Ngữ văn PT hiện hành

Theo khảo sát của chúng tôi ở Phụ lục (Bảng khảo sát các tác phẩm văn

học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành), có

thể thấy việc lựa chọn, sắp xếp các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong

chương trình Ngữ văn PT hiện hành còn một số hạn chế nhất định :

Một là sự phân bố về nội dung của các tác phẩm có sự lặp lại. Ví dụ như tác

phẩm Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi). Tác gia Nguyễn Trãi đã được giới thiệu ở

chương trình Ngữ văn 7 tập 1. Nhưng đến SGK chương trình Ngữ văn 10 (tập 2)

cũng lại có 1 tiết về tác gia Nguyễn Trãi. Thêm nữa, cũng là tác phẩm Đại cáo bình

Ngô, chúng tôi còn bắt găp sự lặp lại trong nội dung giảng dạy. Chương trình Ngữ

văn 8 tập 2 đưa vào giảng dạy trích đoạn Nước Đại Việt ta, trích đoạn này cũng

được dạy lại trong chương trình Ngữ văn 10 tập 2. Mặc dù kiến thức được đưa vào

trong chương trình Ngữ văn THPT sâu sắc và cụ thể hơn cấp THCS nhưng điều

này khiến cho thời lượng của chương trình bị rút ngắn đi phần nào.

Hai là, theo phân phối chương trình hiện hành, một số tác phẩm tự sự trung

đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông không được giảng dạy, đặc biệt là các

bài đọc thêm. Cụ thể, có tới hai tác phẩm nghị luận trung đại: Hiền tài là nguyên

khí của Quốc gia (trích Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo

thứ ba) và Thái sư Trần Thủ Độ không đưa vào chương trình giảng dạy chính

khóa hiện hành.

Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do mô hình cấu tạo của chương

trình phổ thông hiện hành là mô hình đồng tâm: những thể loại đã có ở chương trình

THCS sẽ lặp lại ở chương trình THPT. Ứng chiếu với mục tiêu giáo dục trong

Chương trình giáo dục PT tổng thể sau 2018 và chủ trương chuyển đổi từ dạy học

chú trọng nội dung sang dạy học chú trọng phát triển năng lực của người học, có thể

khẳng định điều này không còn thực sự phù hợp nữa.

30

1.3.2.2. Việc dạy của giáo viên

Chúng ta đều biết rằng văn học trung đại là bộ phận văn học đồng hành với

sự phát triển của xã hội phong kiến. Trong các tác phẩm đều viết bằng ngôn ngữ

Hán văn cổ hay chữ Nôm có phần xa lạ với ngôn ngữ Tiếng Việt hiện đại ngày

nay. Vì vậy tìm hiểu, phân tích một tác phẩm văn học trung đại là việc làm không

đơn giản. Trong những năm vừa qua đội ngũ giáo viên dạy văn nói riêng đã được

trang bị nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học tích cực đã thực sự mang lại hiệu

quả tốt. Mặc dù vậy vẫn còn những hạn chế trong cách vận dụng phương pháp từ

đội ngũ. Bản thân những người dạy văn về cơ bản đã tận tâm tận lực với nghề, tích

cực nghiên cứu tìm hiểu các kiến thức.Tuy nhiên với sự đa dạng và phức tạp của

văn học trung đại thì hiệu quả dạy phần văn học này vẫn không tránh khỏi những

hạn chế. Các điển tích, điển cố của văn học trung đại là phức tạp và đa nghĩa. Vì

vậy đòi hỏi phải có một tư duy hết sức khoa học, hết sức sáng tạo đối với đội ngũ

giáo viên khi thực hiện phần văn học quan trọng này.

1.3.2.3. Việc học của học sinh

Thể loại văn học cổ có nhiều khác biệt với thi pháp văn học đương đại nên

gây khó khăn cho học sinh tiếp nhận. Vốn sống kinh nghiệm thực tế học sinh còn

ít, học sinh khó khăn khi tái hiện hoàn cảnh xã hội, hiểu các điển tích, điển cố

được sử dụng trong tác phẩm văn học cổ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển

đi lên của đât nước, chúng ta có những thành tựu quan trong về lĩnh vực kinh tế.

Tuy nhiên với cơ chế nền kinh tế thị trường đã tạo ra những phức tạp và những

ảnh hưởng không lành mạnh đối với đời sống con người, nhất là thế hệ trẻ. Đặc

biệt là đối tượng học sinh, trong đó có học sinh bậc trung học cơ sở. Một bộ phận

lớn học sinh chịu ảnh hưởng của các yếu tố tiêu cực của xã hội chi phối nên ý thức

học tập không cao, thiếu tự giác. Trong khi đó, phần văn học trung đại là phần

văn học khó nhất. Vì thế, chất lượng học sinh thuyên giảm. Ngoài ra, sự quan tâm,

cách nhìn nhận của phụ huynh học sinh là sính học các môn khoa học tự nhiên

cũng có những ảnh hưởng không tích cực đến việc nỗ lực phấn đấu của học sinh

đối với môn Ngữ văn. Điều đó càng đòi hỏi phải có những giải pháp tích cực để

31

nâng cao chất lượng học bộ môn Ngữ văn đặc biệt là phần văn học Việt Nam

trung đại.

*Tiểu kết chương 1

Ở chương này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết liên

quan: Văn hóa truyền thống và các giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh

trong văn học trung đại rất đặc sắc và đa dạng, những giá trị đó cần được giữ gìn

và phát huy. Chương trình Ngữ văn phổ thông, SGK hiện hành có nhiều thay đổi

qua các thời kì để phù hợp với hoàn cảnh, đối tượng dạy học. Bên cạnh đó, chúng

tôi tìm hiểu và chỉ ra diện mạo văn hóa, văn học Việt Nam thời kì trung đại. Lịch

sử- văn hóa- văn học có mối quan hệ chặt chẽ tạo ra hệ gía trị văn hóa truyền

thống còn tồn tại đến ngày nay. Việc tìm hiểu những vấn đề này nhằm tạo cái nhìn

cụ thể nhất cho việc nhận diện các giá trị văn hóa được phản ánh trong văn học

trung đại. Từ đó, chúng tôi khảo sát và nhận diện hệ thống giá trị văn hóa trong

các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiện

hành.

Phục vụ cho việc đưa ra các đề xuất ở chương sau, ngoài cơ sở nắm bắt

được những giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh trong các tác phẩm văn

học Việt Nam trung đại, chúng tôi còn tìm hiểu, nghiên cứu và chỉ ra một số tồn

tại trong việc dạy học các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại hiện nay. Đây sẽ

là tiền đề để chúng tôi xây dựng bài học gắn giá trị văn hóa truyền thống trong

việc giảng dạy các tác phẩm trung đại.

Chương đầu tiên là nền tảng vững chắc của đề tài. Từ những kết quả nghiên

cứu ban đầu về các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở chương trình Ngữ văn

PT hiện hành, ở chương sau, chúng tôi tiến hành nhận diện những giá trị văn hóa

truyền thống tiêu biểu trong các tác phẩm và xây dựng một số giáo án cụ thể.

Chương 2

32

NHẬN DIỆN NHỮNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG TIÊU BIỂU

TRONG CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI

TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG HIỆN HÀNH

2.1. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do

Chủ nghĩa yêu nước đã phát huy sức mạnh của nó trong các cuộc đấu tranh

chống ngoại xâm. Từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, trong điều kiện quá chênh

lệch về tương quan lực lượng, dân tộc Việt Nam, với sức mạnh của chủ nghĩa yêu

nước, dân ta đã làm nên những chiến công chống ngoại xâm, liên tiếp trong gần

10 thế kỷ. Có thể kể đến Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch

Đằng, Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất, Lý Thường Kiệt phá Tống lần thứ hai,

Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh,

Quang Trung đại phá quân Thanh. Đó là những chiến công hùng vĩ, được tạo nên

bởi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, mãi mãi rạng ngời trên trang sử nước nhà.

Đây là truyền thống quý báu của dân tộc ta đã được tái hiện qua những trang sử

vẻ vang của dân tộc và cũng đã được thể hiện trong các tác phẩm văn học đặc biệt

là nền văn học Việt Nam trung đại.

Theo thống kê ở Phụ lục 2. Bảng thống kê các tác phẩm phản ánh truyền

thống yêu nước, yêu độc lập- tự do, biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước trong các tác

phẩm văn học trung đại được chọn dạy trong chương trình Ngữ văn phổ thông rất

phong phú, đa dạng, có thể nhận diện qua một số phương diện cụ thể. Tìm hiểu

các biểu hiện đó trong các tác phẩm tiêu biểu là việc làm cần thiết để phát huy

truyền thống quý báu của dân tộc.

2.1.1. Yêu nước là tự hào dân tộc

Trước hết, lòng tự hào dân tộc được thể hiện ở khát vọng độc lập tự cường,

xây dựng đất nước ngày càng phát triển, huy hoàng, lớn mạnh. Thiên đô chiếu của

Lí Công Uẩn (SGK Ngữ văn 8, tập 2) đã phản ánh khát vọng ấy. Ngay từ đoạn

đầu, Lí Công Uẩn đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục để bàn việc dời đô. Ông đã

33

lấy minh chứng từ các triều đại cổ của Trung Quốc: nhà Thương năm lần dời đô,

nhà Chu cũng ba lần phải chuyển dời. Đây không phải là ý muốn riêng tư cá nhân

mà là lẽ tất yếu, khách quan, là tầm nhìn hẹp hòi của hai triều đại Đinh, Lê trước

đó - khăng khăng giữ kinh đô tại một nơi nên vận nước không được lâu bền. Cuối

đoạn văn, nhà vua còn bày tỏ nỗi niềm “Trẫm rất đau xót vì việc đó”. Như vậy, ta

có thể thấy Lí Công Uẩn là một vị vua hết lòng lo nghĩ cho dân cho nước, luôn

canh cánh sứ mệnh thịnh hưng triều đại, sẵn sàng học hỏi kinh nghiệm từ các bậc

tiền bối.

Đó là lòng tự hào về chủ quyền của non sông đất nước. Trong kho tàng văn

học trung đại phong phú, Nam quốc sơn hà (SGK Ngữ văn 7, tập 1) nổi bật lên

như một trang sử vàng chói lọi, được xem là “bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên”

của nhà nước ta. Có rất nhiều nghi vấn về tác giả và sự ra đời của bài thơ, trong

đó nhiều người cho rằng thi phẩm được Lí Thường Kiệt sáng tác vào năm 1077,

tại đền thờ thiêng hai anh em Trương Hống - Trương Hát, bên bờ sông Như

Nguyệt. Tiếng thơ đanh thép, hùng hồn vang lên vào đêm khuya khiến quân Tống

khiếp sợ, lo lắng, nhuệ khí suy giảm, tiếp thêm sức mạnh cho quân ta tạo nên

chiến thắng sông Cầu lừng lẫy.

Nam quốc sơn hà được coi là “bản tuyên ngôn độc lập” bởi ngay từ hai câu thơ

đầu, lời khẳng định chủ quyền đầy sức nặng đã vang lên thật cương quyết:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.

(Nam quốc sơn hà- SGK Ngữ văn 7, tập 1)

Hai câu thơ đã nhấn mạnh về độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của

nước Đại Việt. Hai tiếng “Nam quốc” (nước Nam) và “Nam đế” (vua Nam) thể

hiện một cách mạnh mẽ rằng mảnh đất phương Nam trù phú này là do người

phương Nam gây dựng. Đây là một chân lí, một sự thật “tiệt nhiên” không thể

chối cãi. Nước Nam do vua Nam cai trị có thể sánh ngang với đất Bắc rộng lớn,

không chịu lép vế trước bất cứ thế lực thù địch nào. Không chỉ vậy, tác giả còn

34

đưa ra lí lẽ rằng sự thật ấy đã định sẵn ở “thiên thư” sách trời ghi nhận, không thể

chối cãi. Với nghệ thuật điệp ngữ, hiệp vần chân cùng những từ ngữ khảng khái,

lần đầu tiên vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được đưa vào thơ ca hào sảng

và đanh thép đến thế. Hai câu thơ này cũng làm bừng lên cảm xúc kiêu hãnh, tự

hào của tác giả nói riêng và nhân dân nước Nam nói chung về sự độc lập, tự chủ

dân tộc. Từ đó, nhà thơ cũng cổ vũ, nêu cao tinh thần chiến đấu đánh đuổi quân

xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc trong nhân dân.

Trong Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2), Nguyễn Trãi đã thể hiện

lòng tự hào dân tộc khi ông khẳng định chủ quyền của dân tộc Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triê ̣u , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập Đến Há n, Đườ ng, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương. Tuy mạnh yếu từng lú c khác nhau, Song hà o kiê ̣t đờ i nà o cũng có .

Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra mô ̣t quan niê ̣m đươ ̣c

đánh giá là đầy đủ nhất lú c bấy giờ về các yếu tố ta ̣o thành mô ̣t quố c gia đô ̣c lâ ̣p. Nếu như 400 năm trước, trong Nam quố c sơn hà , Lý Thườ ng Kiệt chỉ xác đi ̣nh được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quố c gia cù ng đô ̣c lâ ̣p dân tô ̣c thì trong Đại cá o bình Ngô, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bố n nhân tố nữa, gồ m văn hiến, li ̣ch sử, phong tu ̣c tâ ̣p quán và nhân tài. Và đương nhiên, mỗi quố c gia, dân tô ̣c đều có nét riêng biê ̣t, đặc trưng củ a ho ̣.

Niềm tự hào, tự tôn dân tộc gắn liền với sự tôn vinh những người anh hùng

của đất nước. Thông qua lời ca của các bô lão (Bạch Đằng giang phú – SGK Ngữ

văn 10, tập 2) một lần nữa hình ảnh nước sông trôi đi cuốn theo tất cả kẻ thù bất

nghĩa và chỉ còn danh tiếng người anh hùng lại được lưu danh, có ý nghĩa như

35

điệp khúc được nhấn mạnh, nâng cao. Riêng lời ca của khách nhằm hướng đến ca

ngợi hai vị vua là Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông như là biểu tượng của

người tài đức, văn võ song toàn:

Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thăng bình,

Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.

Như vậy, vai trò và vị trí của con người lại được đề cao và tôn vinh thêm

một lần nữa. Đó là một chân lý đúng đắn, mang tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Xin lập khoa luật (SGK Ngữ văn 11, tập 1) là một văn bản nghị luận sâu

sắc thể hiện rõ tinh thần yêu nước nồng nàn khi Nguyễn Trường Tộ đã đưa ra

những lí do để khẳng định việc lập khoa luật là rất cần thiết với sự phát triển của

đất nước. Tác phẩm được trích trong bản điều trần Tế cấp bát điều của Nguyễn

Trường Tộ gửi cho triều đình nhà Nguyễn bày tỏ nguyện vọng chấn hưng đất

nước. Bài văn thuộc bản điều trần số 27, bàn về sự cần thiết của luật pháp với xã

hội nhằm thuyết phục nhà Nguyễn mở khoa Luật. Khi Nguyễn Trường Tộ viết

bản điều trần (năm 1867), lúc ấy nhà nước ta chưa có khoa luật, điều này cho thấy

tầm nhìn xa trông rộng của ông. Đoạn 1: Tác giả đưa ra các nội dung của luật để

khẳng định tài năng bao quát của luật với xã hội. Sau đó, khẳng định vai trò của

luật đối với việc trị dân- vua. Sang đoạn 2, tác giả khẳng định vai trò của luật.

Ông chỉ ra rằng, cái thứ lí thuyết viển vông của sách Nho “chỉ nói suông trên giấy”

là lẽ phải nhưng không đủ sức để thay đổi tâm tính, tự giác sửa mình. Đưa ra

những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết nhà nho, tác giả không chỉ hướng

đến việc phê phán sách Nho mà còn để khẳng định luật cần thiết cho sự ổn định

của quốc gia. Nho gia giáo dục con người bằng chuẩn mực đạo đức, bằng những

tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông. Đoạn 3, Nguyễn

Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng thời giải quyết triệt để những

nghi ngờ về khả năng của luật. Lập luận của ông sắc sảo để bác bỏ quan điểm

36

“luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi”. Ông khẳng định

“trái luật là tội, giữ đúng luật là đức”. Bằng khả năng lập luận tài tình, Nguyễn

Trường Tộ đã thuyết phục sự cần thiết của việc ban hành luật, khẳng định chân

lý “Lập khoa luật để dạy dân là một việc làm cần thiết”.

Dù hoàn cảnh ra đời của từng tác phẩm khác nhau, sử dụng các thể loại

khác nhau, mục đích nghệ thuật trực tiếp của từng tác phẩm có thể khác nhau

nhưng rất nhiều tác phẩm văn chương thời kì này thể hiện lòng tự hào dân tộc.

Mang hào khí tiêu biểu cho phong cách thơ đời Trần, các sáng tác đều mang cảm

hứng phấn chấn, hứng khởi trong khí thế chiến thắng, tâm hồn nghệ sĩ rộng mở,

giao hòa với non sông, hòa với niềm vui lớn lao của dân tộc.

2.1.2. Truyền thống căm thù giặc sâu sắc

Đó là thái độ căm phẫn, đe dọa sự ngang ngược, tàn bạo của quân xâm lăng:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Nam quốc sơn hà – SGK Ngữ văn 7, tập 1)

Vì sao giặc dã quân thù lại ngang nhiên xâm lược vào một đất nước đã định

rõ chủ quyền như nước Đại Việt ta? Chứng kiến những hành động ấy, tác giả đã dùng

ngòi bút sắc sảo với tất cả tinh thần tự tôn dân tộc để phản đối và lên án. Vì lãnh thổ

của một quốc gia được trời đất chứng giám nên bất kì hành động nào vi phạm cũng

sẽ đều thất bại. Tác giả gọi giặc là “nhữ đẳng” (bọn chúng mày) bộc lộ sự mỉa mai,

chế giễu và khẳng định chúng sẽ “tan vỡ” vì ý thức được sức mạnh của lòng yêu

nước và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Nguồn lực kì diệu và mạnh mẽ ấy sẽ làm

quân thù phải khiếp sợ, sụp đổ hoàn toàn. Lời kết của bài thơ đã tô đậm thêm tinh

thần quyết tâm đánh giặc, căm phẫn quân thù.

Trần Quốc Tuấn đã phơi bày những tội ác của giặc và kêu gọi nhân dân

đồng lòng đoàn kết đánh đuổi gặc ra khỏi bờ cõi nước Nam. Điều đó được phản

ánh chân thực và rõ nét trong bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn (SGK Ngữ

văn 8, tập 2). Ra đời vào năm 1285, trước cuộc khánh chiến chống quân Mông -

37

Nguyên lần thứ hai, Hịch tướng sĩ được danh tướng kiệt xuất Trần Hưng Đạo viết

để khích lệ tinh thần binh lính, đồng thời bộc lộ tinh thần dân tộc, lòng nhân ái,

yêu nước sâu sắc.

Tác giả cũng dùng ngòi bút sắc sảo của mình để phơi bày, tố cáo những

tội ác của giặc ngoại xâm. Chúng không những ngang nhiên đi lại, xâm phạm

triều định mà còn ra sức vơ vét của cải của nhân dân. Nghĩ về chuyện đó,

Hưng Đạo Vương bày tỏ thái độ căm giận, lo lắng tột độ: “Ta thường tới bữa

quên ăn, nửa đêm vỗ gối ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức

chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những câu văn biền ngẫu,

những động từ mạnh đã lột tả sự phẫn nộ của ông lên đến đỉnh điểm, chỉ muốn

mau chóng đánh đuổi kẻ thù, giành lại một quốc gia độc lập tự chủ.

Chính vì quân giặc có những tội ác không thể dung thứ nên Trần Quốc Tuấn

ra sức kêu gọi binh lính và nhân dân đánh đuổi. Trước hết, ông nhắc về sự đãi ngộ

của mình cho binh lính. Cung cách đối xử của ông rất gần gũi, thân mật, không

để quân lính phải chịu thiệt thòi: “không có mặc thì ta cho áo, không có cơm thì

ta cho ăn, quan nhỏ thì thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng...” Ông sẵn sàng dồn

hết tình cảm, điều kiện để chăm chút cho quân dân. Nhưng một bộ phận quan lại,

binh lính làm ông vô cùng thất vọng: “hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy

việc đánh bạc làm tiêu khiển...” Trần Quốc Tuấn nghiêm túc, thẳng thắn phê bình

những người nhìn chủ nhục mà “không biết lo, thấy nước nhục mà không biết

thẹn”. Nếu sự ngang ngược của kẻ thù đã làm ông căm phẫn thì sự sa đọa, suy đồi

của chính những người thân cận lại khiến ông càng thêm đau đớn, xót xa.

Nguyễn Trãi đã vạch trần dã tâm xâm lược của giặc Minh trong Đại cáo bình

Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2). Chúng đã lợi dụng mâu thuẫn giữa nhà Trần và nhà

Hồ, lấy chiêu bài “phò Trần diệt Hồ” để xâm lược nước ta. Từ “thừa cơ” đã nói lên

tất cả tội ác xâm lược nước ta của giặc ác “trời không dung, đất không tha”:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

38

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Tiếp đến, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác tàn sát, giết hại dân lành của giặc Minh.

Chúng sát hại cả những người dân vô tội, những đứa trẻ thơ hiền lành. Lời văn

giàu hình tượng, cảm xúc, ngùn ngụt căm thù:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Chúng còn lừa dối nhân dân, bóc lột nhân dân ta bằng thuế khóa nặng nề,

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc”, “Người bị đem vào núi đãi cát tìm

vàng”, khiến nhân dân ta điêu đứng, khổ cực. Chúng vơ vét tài nguyên khoáng

sản, tàn sát cả loài “côn trùng cây cỏ”.

Đối lập với người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù tàn ác, man rợ. Nguyễn Trãi

nói về bọn giặc với hình ảnh, lời lẽ thể hiện lòng căm thù cao độ:

Thằng há miệng, đứa nhe răng, màu mỡ bấy no nê chưa chán

Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc, để nói lên nỗi căm hờn chất chứa của

nhân dân. Nguyễn Trãi kết thúc bản cáo trạng bằng câu văn đầy hình tượng:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Từ đó, Nguyễn Trãi đưa ra kết luận: nhân dân ta không thể tha thứ cho tội

ác của giặc:

Lẽ nào trời đất dung tha

Ai bảo thần nhân chịu được.

Lời văn trong bản cáo trạng đanh thép thống thiết, khi uất hận, sôi trào, khi

cảm thương tha thiết. Đoạn hai của bài văn chứa đựng những yếu tố của bản tuyên

ngôn nhân quyền. Tội ác của giặc Minh quả là “trời không dung đất không tha”,

vậy nên nhân dân ta lúc bấy giờ dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã đứng lên đánh

đuổi giặc Minh, buộc chúng phải thua chạy về nước và mang nỗi nhục nhã ngàn

năm không rửa nổi.

39

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Đình Chiểu được

coi là lá cờ đầu của dòng văn học yêu nước chống Pháp ngay từ khi Pháp đặt chân

tới Việt Nam. Bài thơ Chạy giặc (SGK Ngữ văn 11, tập 1) của Nguyễn Đình Chiểu

đã phản ánh thực trạng của đất nước trong cảnh loạn lạc, và nỗi đau, ngóng trông

vào vị “thánh đế” có thể thay trời hành đạo như một trận mưa nhuần rửa sạch

những hôi tanh mà kẻ thù mang đến cho nhân dân.

Bài thơ thể hiện lòng yêu nước, nỗi đau trước cuộc sống khốn cùng của

nhân dân. Tình yêu ấy được thể hiện ở sự xót xa cho hoàn cảnh đất nước, thương

xót cho những số phận con ong cái kiến trong cơn loạn lạc.

Tan chợ vừa nghe súng Tây

Một bàn cờ thế phút sa tay.

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ đàn chim dáo dác bay.

Tác giả lên án tội ác man rợ của giặc Pháp càn quét. Chúng đốt nhà, giết

người, cướp của, tàn phá quê hương, giống nòi. Lối viết đảo ngữ “Bến Nghé,

Đồng Nai” càng nhấn mạnh sự tang thương trước tội ác của kẻ thù:

Bến Nghé của tiền tan bọt nước

Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.

Câu thơ vẽ lên một vùng đất bao la, trù phú “Bến Nghé” và “Đồng Nai”

phút chốc biến thành đống tro tàn. Đồng Nai trong thế kỉ thứ XIX vốn là một vựa

lúa và nơi buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền, vậy mà chỉ trong một khoảnh

khắc đã bị giặc Pháp tàn phá tan hoang. Tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc

cướp phá sạch tan tành thành bọt nước. Nhà cửa, xóm làng nhuộm một màu chết

chóc, chỉ còn lửa khói nghi ngút nhuốm màu mây. Hai hình ảnh so sánh ‘tan bọt

nước” và “nhuốm màu mây” là cách nói cụ thể đặc tả cảnh điêu tàn do thực dân

Pháp gây ra.

Lòng yêu nước còn được thể hiện trong những lời điếu khóc thương cho những

anh hùng nghĩa sĩ đã hy sinh vì nghĩa lớn trong trận Cần Giuộc. Văn tế nghĩa sĩ Cần

Giuộc (SGK Ngữ văn 11, tập 1) là khúc ca hùng tráng tạo nên một cơn sóng ngầm

40

mạnh mẽ của lòng yêu nước nồng nàn. Khúc ca ấy là tiếng khóc đau thương cho thế

nước hiểm nghèo. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên đầu tác phẩm và tiếng khóc đau đớn

của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đâu thương cho cảnh đất nước bị giày xéo.

“Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Câu văn đã dựng lên một khung cảnh bão táp,

căng thẳng của thời đại khái quát đầy đủ hiện thực đất nước: một bên là cuộc xâm

lăng ào ạt, tàn bạo của kẻ thù; một bên là vai trò, ý chí chống giặc ngoại xâm bừng

sáng. Hai mặt đó chi phối toàn bộ thời cuộc, cho thấy một cái nhìn sự thế đầy sâu

sắc, tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu.

Nhưng tất cả chỉ là nền để vẻ đẹp anh hùng trong họ bừng sáng. Người

nông dân căm thù giặc trước những hành động ngang ngược, sục sôi trước tội ác

của chúng: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan/ Ngày xem ống

khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”. Người nông dân có ý thức trách nhiệm về độc

lập, lãnh thổ, giang sơn, không chờ hối thúc, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi”.

Chiến đấu vì độc lập tổ quốc bằng tất cả tinh thần dũng cảm, khí thế hào hùng,

hành động như vũ bão với đạp rào lướt tới, “xô cửa xông vào”, “coi giặc như

không”… Tinh thần nghĩa khí bất khuất của họ ai có thể quên. Những con người

ấy mang quan niệm yêu nước truyền thống tích cực: “Sống đánh giặc, thác cũng

đánh giặc”; sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng mang tư tưởng thời đại “chết vinh còn

hơn sống nhục” đầy ngưỡng mộ.

Yêu nước là căm thù giặc sâu sắc, là tố cáo tội ác bất nhân của kẻ thù: tàn

hại sinh linh, giày xéo, tàn phá quê hương. Từ lòng căm phẫn ấy, biết bao sáng

tác thời trung đại đã ủ lửa truyền lại thế hệ sau để biến thành một làn sóng đấu

tranh giải phóng dân tộc sau này.

2.1.3. Truyền thống yêu nước thể hiện ở khát vọng độc lập

Khát vọng độc lập, bảo vệ độc lập chủ quyền đã được Trần Quang Khải

kêu gọi trong bài Tụng giá hoàn kinh sư (SGK Ngữ văn 10, tập 1):

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san.

41

Có thể nói, Trần Quang Khải không chỉ là vị tướng văn võ song toàn mà ông

còn có con mắt nhìn xa trông rộng và tấm lòng luôn lo nghĩ cho đất nước. Chiến

thắng được đội quân hùng mạnh nhất không có nghĩa là đất nước đã hòa bình, ấm

no mà điều ấy còn phụ thuộc vào tinh thần bảo vệ dân tộc của nhân dân. Nhận thấy

được điều đó nên ông khuyên mọi người nên dồn hết tất cả tài năng, sức lực kết

hợp với tinh thần yêu nước sâu sắc để bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ hòa bình. Đặc biệt,

việc quan trọng này không chỉ dành riêng cho bất kì ai mà cả non sông đều phải

gắng sức, cả dân tộc đều phải đồng lòng. Như vậy, dư âm của chiến thắng vừa là

động lực thúc đẩy nhân dân gìn giữ non sông, vừa là sứ mệnh cao cả mà khối đại

đoàn kết dân tộc phải tiếp tục đảm nhiệm.

Kết thúc bài Đại cáo bình Ngô (SGK Ngữ văn 10, tập 2), Nguyễn Trãi

trịnh trọng, vui mừng thay mặt Lê Lợi tuyên bố với nhân dân cả nước thắng lợi

vừa qua:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Kiền khôn bĩ rồi lại thái

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình

lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự

nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện

với "những sự đổi thay" nhưng cũng như càn khôn "bĩ rồi lại thái", như nhật

nguyệt "hối rồi lại minh". Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được

cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là "muôn

thuở nền thái bình vững chắc". Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong

tương lai vững vàng và tươi sáng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy

tân khắp chốn”.

Lòng yêu nước còn thể hiện ở sự mong chờ những con người tài đức ra tay

dẹp loạn, đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân dân:

42

Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng

Nỡ để dân đen mắc nạn này”

(Chạy giặc – SGK Ngữ văn 11, tập 1)

Trang dẹp loạn là trang anh hùng hào kiệt. Nhà thơ vừa trách móc quan

quân triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, bạo nhược, để kể thù dày xéo quê hương,

vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay cứu nước dẹp loạn, để cảnh yên bình

thuở xưa trở lại. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu Nguyễn Đình Chiểu với

những kiếp người lầm than đang quằn quại dưới gót giày của bọn đế quốc. Chạy

giặc là bài ca yêu nước mở đầu cho thơ văn yêu nước của dân tộc ta từ cuối thế kỉ

XIX.

Khát vọng độc lập muôn đời cho dân tộc được các tác giả phản ánh cụ thể,

đa dạng trong từng tác phẩm. Đây là truyền thống văn hóa quý báu của dân tộc

thể hiện tinh thần đoàn kết, ước nguyện hòa bình mà nhân dân mong chờ ở mọi

thời đại.

2.1.4. Truyền thống yêu quê hương, đất nước

Lòng yêu nước không chỉ thể hiện khi đất nước lâm nguy, không chỉ ra nơi

chiến trường đối diện với hòn tên, mũi đạn mà cả khi đã thanh bình, mỗi người

yêu quý quê hương, nhớ quê hương da diết và khao khát trở về dù mảnh đất ấy

còn nghèo khó. Điều đó được thể hiện trong bài thơ Quy hứng (SGK Ngữ văn 10,

tập 1) của Nguyễn Trung Ngạn.

Lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của Nguyễn Trung Ngạn trước hết

được thể hiện ở trái tim luôn hướng về quê hương với những hình ảnh rất đỗi bình

dị mà thân thương.

Lão tang diệp lạc tàm phương tận

Tảo đạo hoa hương giải chính phì

Những hình ảnh thân thương của làng quê Việt Nam được thể hiện lên thật

đẹp. Bức tranh làng quê Việt Nam được ông vẽ lên qua nhiều giác quan. Có thị

giác qua việc miêu tả là dâu già rụng “lão tang diệp lạc”, tằm đang độ chín (tàm

43

phương tận); ngửi được mùi thơm của những bông lúa chín sớm “tảo đạo hoa

hương” và như được nếm cả những vị của những con cua béo ngậy “giải chính

phì”. Những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam hiện lên trong thơ khiến

người đọc có cảm giác đó cũng là quê hương của tất cả mọi người bởi nó quen

thuộc, dân dã. Nhớ quê hương tác giả nhớ ngay đến những điều bình dị thân thuộc

nhất của quê hương mình. Phải có một tình yêu quê hương sâu đậm, nỗi nhớ quê

hương dạt dào, tác giả mới có thể bộc lộ hết tình cảm của mình qua những hình

ảnh bình dị như vậy.

Yêu nước không chỉ là ra làm quan, giúp vua, mà có thể là sống thanh nhàn,

gắn bó với thiên nhiên, cảm nhận những vẻ đẹp của thiên nhiên:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Hòe lục đùn đùn tán rợp giương

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòe

lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng

ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen

tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của

Nguyễn Trãi, bức tranh buổi chiều tàn mà sức sống vẫn tràn đầy. Cuộc đời là

một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ

tích bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống

với đời.

Ta bắt gặp tiết trời thu xanh ngắt, ao thu lạnh lẽo trong Thu điếu của Nguyễn

Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Cảnh mùa thu trong thơ ông không phải là mùa thu ở bất cứ miền nào, thời

nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đồng chiêm Bắc bộ lúc bấy giờ. Chỉ với bầu

44

trời “xanh ngắt” (Thu vịnh), với cái nước “trong veo” của ao cá (Thu điếu), và

cái “lưng dậu phất phơ màu khói nhạt, làn ao lóng lánh bóng trăng loe” (Thu ẩm).

Sống trong những triều đại khác nhau, chịu sự chi phối khác nhau của lịch

sử, đồng thời mỗi người với một tâm tính, một cá tính sáng tạo đã làm nên những

cảm hứng riêng về cảm hứng yêu nước. Có nỗi buồn, có niềm vui, niềm say mê

hứng khởi, có giận thương, có buồn tủi, có bâng khuâng hổ thẹn, có rạo rực hả

hê… Nguồn cảm hứng vô tận được thể hiện bằng nhiều cách nói, nhiều giọng điệu

riêng. Có giọng điệu hùng tráng ở nhiều cấp độ, hình thái khác nhau. Có giọng

điệu bi tráng, phẫn uất thành tiếng than, lời gọi. Có giọng điệu nhẹ nhàng, say sưa

trước cảnh sắc thiên nhiên, đất nước… Tất cả tạo nên sự đa thanh, đa sắc, thể hiện

sâu sắc, phong phú trong nội dung phản ánh tư tưởng yêu nước - một vẻ đẹp rực

rỡ của tâm hồn dân tộc.

2.2. Truyền thố ng nhân đa ̣o

Chủ nghĩa nhân đạo là toàn bộ những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý

trọng các giá trị của con người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp.

Chủ nghĩa nhân đạo không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao

hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trò, khả năng,

bản chất…) trong các quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại. Biểu hiện của chủ

nghĩa nhân đạo rất đa dạng, là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm quý trọng các

giá trị của con người, nhưng trong văn học có thể phân ra bốn biểu hiện chính, đó

là: thông cảm, thấu hiểu cho số phận con người; khám phá và tôn vinh vẻ đẹp con

người; tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người; nâng niu ước mơ

của con người hay mở ra một tương lai tươi sáng cho con người. Số lượng những

tác phẩm, đoạn trích thể hiện truyền thống nhân đạo chiếm một số lượng lớn (Xem

Phụ lục 3).

2.2.1. Ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người

Nếu trước thế kỉ XVIII, trong văn học thường thấy xuất hiện đề tài tôn giáo,

nhân vật thường là những người xuất thân từ tầng lớp trên thì sau đó đã có nhiều

45

thay đổi: Đề tài được phản ánh là tình yêu; nhân vật xuất hiện với thế chủ động

và đặc biệt là xuất hiện nhiều nhân vật phụ nữ.

Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người

phụ nữ đẹp, từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách. Đều là đẹp nhưng mỗi người

lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng

biệt. Đó là lời ngợi ca vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Điều đó được thể hiện qua

đoạn trích Chị em Thúy Kiều (SGK Ngữ văn 9, tập 1). Vẻ đẹp của Thúy Vân được

miêu tả như sau:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.

Câu thơ đầu “Vân xem trang trọng khác vời” đã khái quát đặc điểm của

nhân vật. Bằng bút pháp ước lệ, thủ pháp liệt kê, vẻ đẹp của Vân được tác giả cụ

thể hóa bằng khuôn mặt, đôi mày, mái tóc, làn da, nụ cười, giọng nói. Cụ thể trong

việc sử dụng từ ngữ làm nổi bật vẻ đẹp của đối tượng được miêu tả: “đầy đặn”,

“nở nang” “đoan trang”. Còn đây là bức chân dung của nàng Kiều:

Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.

Đây cũng là vẻ đẹp ước lệ, tượng trưng thường gặp trong thơ văn cổ.

Thúy Kiều là một tuyệt thế giai nhân. Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ

miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ vừa miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài

năng “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong

việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy vân, tưởng như

sắc đẹp của Thúy Vân không ai hơn được nữa, để rồi sau đó, Thúy Kiều xuất

46

hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc đẹp của Thúy Kiều là tuyệt

đỉnh.

Thúy Kiều không chỉ “đẹp người” mà nàng còn là người “đẹp nết”. Thuý

Kiều đã hi sinh thân mình, hi sinh tình yêu của mình để làm tròn chữ hiếu “Dẽ

cho để thiếp bán mình chuộc cha”. Không chỉ thế, trong suốt 15 năm lưu lạc, Kiều

không nguôi nhớ về gia đình, về người yêu đầu tiên, về một thời trong trắng thơ

ngây của mình.

Vẻ đẹp của người phụ nữ cũng được nữ sĩ Hồ Xuân Hương khắc họa qua bài

thơ Bánh trôi nước (SGK Ngữ văn 7, tập 1):

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Dù nhan đề là Bánh trôi nước nhưng đọc lên lại làm ta nghĩ đến một người

phụ nữ với làn da trắng và thân hình tròn trịa, đầy đặn như viên bánh trôi nước.

Đó chính là sự tài tình của bà chúa thơ Nôm. Điệp từ “vừa” như nhấn mạnh thêm

vào vẻ đẹp đồng thời diễn tả niềm kiêu hãnh về sắc đẹp của Hồ Xuân Hương nói

riêng và của người phụ nữ nói chung. Và hơn ai hết, họ là những con người đức

hạnh, luôn giữ tấm lòng thủy chung, trong trắng cho dù hoàn cảnh có đẩy đưa phải

“Ba chìm bảy nổi”:

Mà em vẫn giữ tấm lòng son

Vẻ đẹp của người phụ nữ còn được nhà văn Nguyễn Dữ ca ngợi qua hình

tượng Vũ Thị Thiết trong Chuyện người con gái Nam Xương (Trích Truyền kì

mạn lục- Nguyễn Dữ) (SGK Ngữ văn 9, tập 1). Nàng là người con gái “tính đã

thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung,

son sắc trong tình nghĩa vợ chồng. Biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng

luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.

Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền

thục, khôn khéo, nết na đúng mực. Khi chồng đi chinh chiến, nàng không mong

được hưởng vinh hoa phú quý mà chỉ xin chồng trở về mang theo hai chữ bình

yên “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc

47

áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ

rồi”. Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo. Chồng xa nhà, nàng đã

thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần

phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.

Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với

cha mẹ đẻ của mình. Vũ Nương yêu thương con hết mực. Sợ con thiếu vắng tình

cảm của người cha nên nàng đã chỉ vào cái bóng trên tường và bảo rằng đó là cha

bé. Người phụ nữ ấy đã làm tròn trách nhiệm của một người con dâu, người vợ

khi chồng đi chinh chiến.

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến hiện lên sinh động, đa chiều trong

các sáng tác. Họ có những điểm chung là vẻ đẹp về ngoại hình và phẩm chất

nhưng lại mang số phận bi kịch, luôn khát khao hướng về tình yêu và hạnh phúc

gia đình, đều nói lên tiếng nói chống phong kiến, bảo vệ nhân quyền.

2.2.2. Đồng tình với khát vọng của con người

Chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm văn học trung đại còn thể hiện ở sự

đồng tình với những khát vọng chính đáng của con người. Đó là lời ngợi ca mối tình

thủy chung, trong trắng của Thúy Kiều - Kim Trọng đặc biệt trong đêm Thề nguyền

(Ngữ văn 10, tập 2). Thề nguyền là một cung bậc tình cảm trong tình yêu. Lời thề là

sự khẳng định cho niềm tin, lòng thuỷ chung son sắt của hai con người, nó cho tình

yêu một chỗ dựa vững chắc, bền chặt. Tình yêu ấy đã phá rào định kiến, gỡ bỏ mọi

trói buộc để đến với nhau tự do, tự nguyện. Một tình yêu vượt trên thời đại. Để bảo vệ,

vun đắp cho mối tình đẹp đẽ của mình Thuý Kiều đã:

Cửa ngoài vội rủ rèm the

Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.

Không khí đêm thề nguyền được gợi lên đầy ấn tượng, với ánh sáng, màu

sắc, hương thơm; với cảnh đẹp, người đẹp… tạo nên dấu ấn tình yêu đầu đời

không bao giờ phai mờ trong tâm hồn Kiều. Biểu hiện của buổi thề nguyền là

tiên thề, tóc mây, dao vàng, vầng trăng và lời thề. Kiều trao chàng Kim món tóc

48

mây biểu hiện sự hẹn ước. Đêm thề nguyền của hai người yêu nhau được vây

gọn trong thiên nhiên đẹp đẽ, êm đềm với sự minh chứng của “vầng trăng vằng

vặc giữa trời”:

Vừng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai miệng một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Nguyễn Du còn đồng tình với ước mơ tự do về công lí, công bằng trong xã

hội và Từ Hải là nhân vật đại diện cho khát vọng ấy. Từ Hải (đoạn trích Chí khí anh

hùng – SGK Ngữ văn 10, tập 2) là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh

hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình cao

lớn: "Râu hùm hàm én mày ngài - Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”. Những

chiến công hiển hách, lẫy lừng: “Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi Nam". Từ Hải là

một anh hùng đầy chí khí “Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Từ Hải là một con

người luôn đặt sự nghiệp lên hàng đầu. Hình ảnh người anh hùng Từ Hải ra đi thật

đẹp đẽ, mạnh mẽ và phóng khoáng. Con người như mang trong mình một sức mạnh

của thiên nhiên, vẫy vùng giữa trời cao biển rộng. Người anh hùng Từ Hải được

khắc họa rất sinh động:

Trông vời trời bể mênh mang

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.

Hình ảnh con người với thanh gươm yên ngựa giữa bầu trời bao la, với khí

thế hào hùng. Thái độ ra đi dứt khoát “thẳng rong” nghĩa là chàng không hề suy

nghĩ lâu cũng không bị chuyện nữ nhi thường tình níu kéo. Vì vậy khi đã động

lòng bốn phương Từ Hải sẵn sàng lên đường “thẳng rong” tự do như mây bay

gió lượn giữa bầy trời rộng lớn.

Giang hồ quen thói vẫy vùng

Gươm đàn nửa gánh non sông một chèo.

49

Sự nghiệp mà chàng mong muốn là có trong tay một đội quân tinh nhuệ,

hùng hậu và thiện chiến “mười vạn tinh binh” là một đội quân với lực lượng lớn

chỉ những bậc đế vương mới có được. Đây là một viễn cảnh hào hùng, vẻ vang,

một sự nghiệp xứng đáng với bậc anh hùng. Nguyễn Du đã so sánh Từ Hải với

chim bằng (chim đại bàng) để nhấn mạnh sức mạnh bản lĩnh phi thường cảnh ra

đi vì sự nghiệp hùng tráng của chàng như chim bằng bay giữa gió mây biển cả.

Giữa không gian ấy chí khí của người anh hùng được thoả sức vẫy vùng. Hai câu

thơ kết dựng lên hình ảnh phóng khoáng kì vĩ của người anh hùng đồng thời làm

nổi bật rõ chân dung khí phách của người anh hùng này.

Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (SGK Ngữ văn 10, tập 1) đề cao tinh

thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác của Ngô Tử Văn.

Qua đó, tác giả thể hiện niềm tin vào công lý chính nghĩa nhất định sẽ thắng gian

tà, đồng thời lên án lũ giặc xâm lược dù đã chết vẫn không ngừng gây tội ác trên

đất nước ta.

Trong mọi giai đoạn lịch sử, khát vọng của con người luôn được đề cao,

trân trọng. Các nhà văn đã rất tinh tế khi thể hiện ước nguyện, mong muốn của

con người trước xã hội còn nhiều bất công. Những khát vọng được thể hiện trong

văn học Việt Nam trung đại không chỉ đúng với thời kì văn học này mà nó còn

tồn tại đến cả thế hệ sau. Đó là những khát vọng chính đáng, thiết thực với con

người mà ở xã hội nào cũng cần được thực hiện.

2.2.3. Đồng cảm, xót thương cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã

hội phong kiến

Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong văn học trung đại là một bước

tiến mới, tạo tiền đề cho văn học viết về phụ nữ ở giai đoạn sau. Không chỉ đề

cao người phụ nữ, các tác giả còn thể hiện lòng cảm thương sâu sắc cho số phận

bi kịch của họ trong xã hội bất công. Nguyễn Du đã khái quát:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

50

Nguyễn Du là tác giả tiêu biểu nhất của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong

văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các sáng tác của

ông toát lên tư tưởng, tình cảm, nhân cách của một con người nặng tình đời tình

người. Ông quan tâm tới tất cả số phận bất hạnh trong xã hội, những con người

nhỏ bé, những thân phận “con ong, cái kiến”. Đặc biệt ông quan tâm đến số phận

của người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Và Truyện Kiều chính là một tác phẩm đẫm

tinh thần nhân văn ấy. Thúy Kiều là một cô gái tài sắc nhưng cuộc đời nàng đã

phải trải qua mười lăm năm “lên thác xuống ghềnh”. Bi kịch đầu tiên trong cuộc

đời của người con gái tài hoa ấy là phải trao duyên cho em gái. Nguyễn Du thấu

hiểu nỗi đau đớn của Thúy Kiều khi phải Trao duyên (Ngữ văn 10, tập 2):

Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Thúy Kiều đã coi Thúy Vân là đại ân nhân của mình để nàng lạy rồi thưa

chuyện bởi đây là một việc khó nói. Những kỉ vật tình yêu thiêng liêng là thế giờ

đây lại trở thành của chung:

Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Khi duyên không còn, Thúy Kiều cất tiếng kêu đau đớn đến xé ruột:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu

lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã. Nỗi thương mình (SGK Ngữ văn 10, tập 2) là

tâm sự của Thúy Kiều về cuộc sống tủi nhục, đầy nhuốc nhơ của mình:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.

Trong những lúc như vậy thì “rượu” chính là thứ để Kiều giải sầu khi tỉnh

rượu và đêm đã khuya nàng mới “Giật mình mình lại thương mình xót xa”. Câu

51

thơ như tiếng nấc xen lẫn cả tiếng thở dài không ai thương cho thân phận mình

nên Thúy Kiều tự ôm lấy mình mà khóc mà sầu. Cuộc vui chóng tàn, người rồi

cũng đi, cô đơn lẻ bóng. Từ nỗi đau thân phận lời thơ bật lên những câu hỏi khi

sao, giờ sao, mặt sao, thân sao đó là sự đối lập giữa quá khứ và thực tại. Quá khứ

êm đềm tươi đẹp còn hiện tại thì bị chà đạp vùi dập.

Tiếp nối đề tài người phụ nữ với số phận tài hoa bạc mệnh, tình yêu thương

con người của Nguyễn Du còn dành cho một cô gái ở đất nước Trung Quốc xa

xôi đó là Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí (SGK Ngữ văn 10, tập 1). Tiểu

Thanh là cô gái sống ở đầu thời Minh - Trung Quốc, xinh đẹp tài hoa. Nàng làm

lẽ trong một gia đình quyền quý, thường bị vợ cả ghen ghét, mất ở tuổi 18. Nỗi

uất ức của nàng được gửi gắm trong nhiều bài thơ như bị vợ cả đốt dở chỉ còn lại

phần dư. Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí (Ngữ văn 10, tập 1) được Nguyễn Du sáng

tác khi đọc “phần dư” và nhớ cố nhân, xót thương cho một kiếp người tài hoa,

cho những giá trị tinh thần bị chà đạp:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Thông qua hình ảnh một người phụ nữ chịu kiếp làm lẽ hẩm hiu, khao khát

hạnh phúc, Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đòi quyền được hưởng hạnh

phúc, được sống trong mái ấm gia đình. Trong bài thơ Tự tình II (SGK Ngữ văn

11, tập 1), nữ sĩ giãi bày cảnh ngộ éo le:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Cảnh đêm khuya với tiếng trống canh từ xa văng vẳng dồn về. Trong thời

điểm đó, nhà thơ - nhân vật trữ tình lại đang một mình trơ trọi giữa đêm khuya.

Từ nỗi cô đơn, thao thức không biết bày tỏ, tâm sự cùng ai, nhà thơ muốn tìm đến

rượu, mượn rượu để giải sầu:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

52

Cơn say qua đi và khi tỉnh rượu, nhân vật trữ tình giật mình quay về với

thực tại và càng nhận ra nỗi trống vắng, bội bạc khi chạm phải “Vầng trăng

bóng xế khuyết chưa tròn”. Tình duyên vẫn chưa trọn vẹn mà tuổi xuân đã dần

trôi đi:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình san sẻ tí con con.

Vừa đau buồn, cô đơn, vừa phẫn uất trước duyên phận, hình ảnh một

người đàn bà tù túng, bức bối trong dòng thời gian dằng dặc buồn bã đang cay

đắng chán chường nhìn hương sắc đời mình tàn tạ. Thế mà kết thúc lại là một

cái rất bé, rất ít: đã “tí” lắc còn “con con” - tức là rất nhỏ bé, nhỏ đến mức khó

chịu. Khát vọng tình yêu của Hồ Xuân Hương là ôm trùm trời đất, tạc vào vũ

trụ nhưng trong dòng thời gian vô tận. Bài thơ Tự tình II khép lại nhưng thực

chất mở ra một tâm hồn đầy khát vọng của một con người mong cầu hạnh phúc

gia đình.

Chinh phụ ngâm khúc sáng tác bằng chữ Hán vào khoảng nửa đầu thế kỉ

XVIII, thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên

miên hết Lê - Mạc đến Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa.

Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp

nơi. Dân chúng sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa

chồng. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Ngữ văn 10, tập 2) đã

miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khổ trong

tâm trạng người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh

phúc lứa đôi:

Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Nàng hết dạo hiên rồi lại ngồi cuốn rèm lên, buông rèm xuống, nỗi nhớ

thương thầm gieo từng bước chân. Mỗi bước chân là một nhịp đếm, bước chân

53

như chất chứa nỗi lòng ưu tư phiền muộn với những lo lắng cho số phận của

người chồng. Đêm năm canh với nàng là một khoảng thời gian quá dài:

Khắc giờ đằng đẵng như niên

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.

Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình

cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua

chúa, tác giả có chủ ý đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện thái độ bất bình, phản

kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Chinh phụ ngâm toát lên tư tưởng chủ đạo

trong văn chương một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền được hưởng

hạnh phúc rất chính đáng của con người.

Các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại được đưa vào Sách giáo khoa Ngữ

văn phổ thông đều cho thấy cách nhìn hiện thực và nhân đạo của các tác giả về

con người. Sự xuất hiện của người phụ nữ gắn với những bi kịch trong đời sống

vật chất và đặc biệt là đời sống tình cảm trong thơ trung đại là một bước tiến mới,

một sự cách tân trong quan niệm và tư tưởng. Bởi lẽ, trong xã hội phong kiến,

không phải tác giả nào cũng lấy đó làm chủ đề cho sáng tác của mình. Nhiều tác

giả vượt qua rào cản định kiến để viết lên thái độ, tình cảm và gửi gắm trong sáng

tác một phần số phận của mình. Đồng thời cất lên tiếng nói cảm thông với số phận

bất hạnh của người phụ nữ. Người phụ nữ xuất hiện không đơn thuần bị biến thành

mẫu người nêu gương đạo đức, chỉ biết đến bổn phận mà họ còn là những người

con gái thiết tha với tình yêu, khát khao hạnh phúc lứa đôi. Điều này khiến các

tác phẩm viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến được nhiều sự đồng cảm

sâu sắc, được nhìn nhận trên tinh thần nhân văn: đề cao, trân trọng con người.

So với người phụ nữ xưa thì người phụ nữ ngày nay đã có nhiều đổi khác,

được cả xã hội trân trọng. Họ có đủ điều kiện để tự giải phóng mình, sống bình đẳng

trong xã hội, đa số người phụ nữ đã có được cuộc sống hạnh phúc và góp phần vào

công cuộc xây dựng đất nước.Tuy nhiên không phải họ đã hết những bi kịch của

người phụ nữ trong xã hội hiện đại. Trải qua hàng nghìn năm phong kiến, những lề

thói cũ vẫn duy trì ở một số nơi khiến người phụ nữ vẫn phải chịu nhiều bất hạnh

54

như: nạn bạo hành gia đình, thói trọng nam khinh nữ, tệ nạn buôn bán phụ nữ... cần

phải đấu tranh để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng. Học sinh là chủ nhân tương

lai của đất nước, các em sẽ là những người trực tiếp đấu tranh trong công cuộc đó.

Hệ thống tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ

thông với cảm hứng nhân đạo viết về người phụ nữ sẽ giúp cho các em thấu hiểu nỗi

bất hạnh của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đồng thời phấn đấu cho một xã

hội hiện đại công bằng, bình đẳng bằng việc trau dồi tri thức, vươn lên làm chủ cuộc

đời, làm chủ tương lai của chính mình.

2.2.4. Hướng tới những giải pháp đem đến hạnh phúc cho con người, cuộc

sống. Đề cao quan hệ đạo đức, lối sống tốt đẹp giữa người với người

Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các

dân tộc là những ứng xử đạo lí của dân tộc ta. Chúng ta không vì sự man rợ của

giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có gì quý hơn sinh mạng con

người? “Người ta là hoa của đất”. Do đó, nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng,

là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “Bốn phương biển cả thanh bình,”...

Trong Đại cáo bình Ngô, sau khi đánh thắng quân xâm lược nhà Minh, quân và

dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù chứ không phải đuổi cùng giết tận, việc

làm đó đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc. Chúng ta đã “chẳng giết

hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để xử tội ác chiến tranh,

có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó

khi bọn giặc “đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho

chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày

một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được “nghỉ sức” trong thanh bình:

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới.

Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn

thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không

nhân nghĩa.

55

Dù sống trong bùn nhơ nhưng con người lương thiện vẫn giữ được đạo lý

làm người:

Vui là vui gượng kẻo là,

Ai tri âm đó mặn mà với ai?

Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự ý

thức của con người cá nhân trong văn học trung đại. Người phụ nữ xưa thường

được giáo dục theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu và nhẫn nhục. Khi

nhân vật “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì điều này đã bao hàm ý

nghĩa “cách mạng” . Con người không chỉ biết hi sinh, nhẫn nhục, cam chịu mà

bước đầu đã có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của

bản thân.

Truyền thống nhân đạo còn được biểu hiện trong việc đề cao đạo đức, lối

sống đẹp giữa con người với con người. Một nội dung khá mới mẻ trong thơ ca

trung đại Việt Nam đó là viết về những công lao to lớn của vợ, điều đó được thể

hiện trong bài thơ Thương vợ (SGK Ngữ văn 11, tập 1). Trần Tế Xương là một

người rất thông minh, tuy nhiên sự nghiệp thi cử của ông lại gặp nhiều gian nan

vất vả. Một đời tài hoa, một đời lận đận, ông Tú chỉ có mình bà Tú. Bà Tú cũng

là nỗi day dứt của một người chồng công danh dang dở, sự nghiệp hẩm hiu, bị đời

biến thành một kẻ vô tích sự. Chính vì thế mà nhà thơ xấu hổ vì không làm tròn

trách nhiệm của một người chồng, nhà thơ thương vợ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông thấu hiểu nỗi vất vả quanh năm của người vợ. Bà Tú tần tảo buôn bán

ngược xuôi cũng chỉ để “Nuôi đủ năm con, với một chồng”. Con thì có thể đếm,

còn chồng chỉ có một, sao lại đếm. Ông Tú đã hạ bậc mình xuống bằng con, cay

đắng nhận ra mình cũng chỉ là một thứ con trong cái gánh nặng của người vợ. Nỗi

đau cay cực chất chứa trong hai chữ “nuôi đủ” không chỉ đủ về quân số (năm với

một) mà còn đủ về thành phần (cả con lẫn chồng), đủ mọi nhu cầu mọi bề mọi vẻ.

56

Có thể tình thương vợ của Tú Xương đã quặn đau lên trong lòng người chồng

sống dậy, như chỉ ra nguyên nhân gây nên nỗi khổ của vợ là mình và đời:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Đó thực sự là tiếng chửi đời. Đời bạc, mình cũng bạc, đời bạc đã đày ải người

vợ hiền, đời bạc đã biến mình thành ông chồng vô tích sự. Với tiếng chửi này, tình

thương tột bậc đã chuyển hóa thành căm phẫn. Nếu không có một tình thương như

thế thì bức chân dung về bà Tú không thể sâu đậm được.

Tác phẩm Khóc Dương Khuê (SGK Ngữ văn 11, tập 1) đã thể hiện một tình

cảm cao đẹp trong truyền thống đạo lí của người Việt Nam đó là tình bạn. Dương

Khuê là một người bạn tri kỉ của nhà thơ, là người bạn luôn ủng hộ nhà thơ trong

triều chính, cũng là một bạn thơ văn lúc đàm đạo văn chương. Thế nhưng từ khi

nhà thơ về ở ẩn, cả hai người không có thời gian đến thăm nhau. Cả hai đều ở tuổi

đã già, bác Dương đã mắc bệnh và qua đời. Nhà thơ nhận được tin buồn ấy đau

đớn khi mất đi một người bạn tri kỉ. Bài thơ là một đạo lí về tình bạn cao đẹp, tình

người còn nồng đượm. Nỗi đau của nhà thơ khi nghe tin bạn mất quả thực là một

cú sốc lớn về tinh thần:

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Nhà thơ không nói bác Dương mất mà lại nói “thôi đã thôi rồi” để giảm đi

nỗi đau xót trong lòng mình. Nước mây cũng “man mác” buồn trước sự ra đi của

bác và nhà thơ thì ngậm ngùi xót xa.

Nghe tin bác Dương mất nhà thơ chân tay như rụng rời. Hiện thực đau khổ,

bây giờ rượu ngon không có bạn hiền thì làm sao rượu có thể ngon được nữa. Giờ

đây, thơ văn không có ai cùng bàn soạn, giường kia treo cũng hững hờ, đàn kia

gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. Nhà thơ nói như không chấp nhận sự thật ấy. Bác

Dương đi rồi, bảo ở lại cũng chẳng ở, thôi thì nhà thơ lấy nhớ làm thương. Bởi

người chết được “lên tiên” thanh thản, chấm dứt những ngày sầu héo. Vả lại,

57

thương bạn một nửa thương mình một nửa. Người đời thường nói: “Nỗi buồn chia

đôi, niềm vui nhân đôi, nỗi buồn chia đôi, buồn vơi một nửa”.

Khóc Dương Khuê khép lại trong nỗi ngậm ngùi xót xa của nhà thơ. Bài

thơ gợi mở ra đạo lí làm người cao đẹp, tình bạn mãi sẽ là tri kỉ, bởi con người

vẫn đúng đạo. Tất cả vì chung “một chữ tình”. Cái tình với non sông, với nhân

thế, với kiếp người.

Chủ nghĩa nhân đạo đã giúp con người thời đại xem xét và định giá lại

những giá trị tinh thần cũ. Chủ nghĩa nhân đạo có vai trò quyết định trong việc

đổi mới văn học cả về nội dung và hình thức sáng tác. Từ đó, đề tài phản ánh và

đối tượng được nói đến trong văn học chủ yếu là hướng tới con người, vì con

người. Đây cũng chính là tiền đề để giai đoạn văn học sau vẫn lấy con người là

đối tượng chính.

2.3. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên Khảo sát hệ thống tác phẩm văn học trữ tình trung đại Việt Nam trong sách

giáo khoa phổ thông hiện hành có thể nhận thấy số lượng các tác phẩm được viết

với cảm hứng thiên nhiên chiếm số lượng lớn. Trong sáng tác của các nhà thơ, nhà

văn trung đại hình như không thể vắng bóng thiên nhiên. Thiên nhiên làm nên diện

mạo, linh hồn của tác phẩm. Thiên nhiên biểu hiện cảm quan vũ trụ, mỹ cảm và

tư tưởng triết học phương Đông của các nghệ sĩ Nho học. Hiện tượng này có thể

bắt nguồn từ xã hội kinh tế nông nghiệp thô sơ của thời trung đại. Thời ấy con

người sống giữa thiên nhiên. Con người trực tiếp khai thác thiên nhiên bằng bàn

tay lao động của mình. Thiên nhiên là nguồn nuôi dưỡng tinh thần và vật chất cho

con người. Thiên nhiên có mặt trong cuộc sống gia đình, xã hội của cư dân của

nền văn hóa thảo mộc, nền văn minh lúa nước. Hiện tượng nghệ thuật này cũng

có thể nảy sinh từ hệ triết học phương Đông: con người hòa đồng với vạn vật, tạo

vật và con người tương sinh trong thế giới này. Và cũng có thể xuất phát từ đời

sống văn hóa tín ngưỡng Tô-tem hay tín ngưỡng phồn thực phương Đông.

58

Tiến hành khảo sát hệ thống tác phẩm văn học trung đại Việt Nam trong

chương trình Ngữ văn phổ thông, chúng tôi nhận thấy thiên nhiên trong văn học

Việt Nam trung đại có một số đặc điểm sau:

2.3.1. Thiên nhiên giản dị, thơ mộng giàu sức sống

Trong kho tàng văn học thời Lý -Trần bên cạnh những áng hung văn lẫm

liệt, còn có những bài thơ trữ tình đằm thắm, trong đó bài thơ Thiên Trường vãn

vọng (Ngữ văn 7, tập 1) là một tác phẩm tiểu biểu.

Từ lầu son gác tía, Trần Nhân Tông trở về quê cũ, phóng tầm mắt ra xa,

hòa mình vào thiên nhiên quê nhà cảm nhận trọn vẹn sắc màu rực rỡ. Đó là một

buổi chiều quê bình dị, thân quen. Ánh mặt trời khuất sau rặng tre chỉ còn lại

rơi rớt lại đâu đây, chút ánh sáng yếu mềm, hắt hiu. Làng quê trở nên yên ả,

mọi người quây quần bên bếp lửa hồng sau một ngày lao động mệt nhọc. Ta

nghe đâu đây tiếng sáo vi vu trong trẻo, êm ả, du dương. Nó phải chăng là tiếng

sáo của những chú mục đồng đang đuổi trâu về. Tiếng sáo vui tươi, lòng người

rạo rực, buổi chiều quê hiện lên sao mà thơ mộng. Từng đàn cò trắng chao liệng

trên không trung, chốc chốc lại sà xuống cánh đồng bất tận. Sức trắng của cánh

cò nổi bật trên màu xanh đồng ruộng. Nó cũng là màu sắc của làng quê. Ta

thường thấy trong những câu ca dao mẹ hay hát về đàn cò trắng bay trên đồng

lúa xanh bao la, hình ảnh đã đi vào tâm tưởng và nhận thức của người dân Việt

Nam từ rất xưa. Nó là biểu tượng, là nét đặc trưng của làng quê Việt Nam.

Nguyễn Trãi là một nhà thơ viết nhiều, viết hay về cảnh trí thiên nhiên và

một tình yêu tha thiết tạo vật, với một cảm hứng lịch sử thể hiện niềm yêu nước và

niềm tự hào dân tộc. Bài thơ Cảnh ngày hè (SGK Ngữ văn 10, tập 1) vừa là bức

tranh thiên nhiên, bức tranh con người, vừa là bức tranh tâm trạng thấm đẫm tình

yêu nước của nhà thơ. Từng nét vẽ nhẹ nhàng, đơn sơ, từng màu sắc bình dị nhẹ

nhàng thân quen, hình ảnh làng quê Việt Nam hiện lên qua thơ Nguyễn Trãi thật

đẹp. Khung cảnh thiên nhiên có sắc có hương: Sắc rực rỡ, hương ngào ngạt. Thiên

nhiên làng quê thanh bình, yên ả, không có loạn lạc chiến tranh. Sự bình dị, dịu

59

dàng trải khắp quê hương mang theo tình yêu thiên nhiên ngọt ngào, sâu lắng nỗi

đắm say nồng nàn của tác giả. Qua ngòi bút của Nguyễn Trãi ta thấy quê hương

hiện lên rất đẹp, giản dị mà thanh tao.

Vẻ đẹp bình dị của thiên nhiên cũng được Nguyễn Khuyến khắc họa qua

Thu điếu (SGK Ngữ văn 11, tập 1). Bài thơ là một bức tranh tuyệt mĩ về phong

cảnh mùa thu của đồng bằng Bắc bộ. Một bức tranh mùa thu hòa hợp, duyên dáng,

nhẹ nhàng, thanh tao với làn nước trong veo, làn sóng xanh biếc, lá vàng rơi và

trời xanh ngắt. Mọi vật cử động rất nhẹ nhàng như sợ làm xáo động bức tranh thu:

sóng chỉ hơi gợn tí, lá vàng cũng chỉ khẽ đưa:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

Hình ảnh thơ gợi một bức tranh phong cảnh rất đẹp với một khoảng không

gian trong trẻo, xinh xắn và tĩnh lặng. Mặc dù chỉ là hình thức bên ngoài nhưng cảnh

câu cá vẫn được miêu tả đầy đủ với không gian “ao thu” “thuyền câu” và người đi

câu. Bức tranh phong cảnh được vẽ thật khéo léo: ao thu với làn nước trong, sóng

gợn nhẹ, bầu trời cao xanh lồng lộng, không gian yên tĩnh, vắng vẻ không gian bức

tranh được khuôn gọn trong một chiếc ao. Chủ thể trữ tình - người phác họa bức

tranh đang ngồi trên chiếc thuyền câu để thả câu câu cá. “Lá vàng trước gió khẽ đưa

vèo” mặc dù là động nhưng vì động khẽ khàng nên thực chất là lấy động để tả cái

tĩnh lặng của mùa thu trong không gian của một chiếc ao thu quê nhà. Bài thơ khép

lại trong tình yêu thiên nhiên, tình yêu quê hương đất nước cao đẹp của nhà thơ. Từ

thân thế, cuộc đời, hoàn cảnh sống của Nguyễn Khuyến có thể hiểu, tâm sự của người

câu cá chính là nỗi lòng non nước, nỗi lòng thời thế của nhà Nho có lòng tự trọng và

lòng yêu quê hương đất nước tha thiết.

Thiên nhiên như một chiếc vỏ ốc hoàn hảo để các thi sĩ thuở xưa thả hồn

vào đây quên đi những ưu tư phiền muộn, sóng gió ở đời. Hòa mình với thiên

60

nhiên, đắm say trong cảnh sắc tự nhiên của tạo hóa, ngày ngày đọc sách ngâm

thơ, xa rời chính sự cũng là lối sống của không ít các thi nhân Việt Nam trong đó

có Nguyễn Bỉnh Khiêm với bài thơ Nhàn (Ngữ văn 10, tập 1). Bài thơ là lời tâm

sự thâm trầm, sâu sắc, khoáng đạt khẳng định quan niệm sống nhàn là hòa hợp

với thiên nhiên giữ cốt cách thanh cao, vượt lên trên danh lợi. Bản chất của chữ

“nhàn” trong quan niệm đạo giáo là sống theo lẽ tự nhiên, xa rời danh vọng. Thú

vui của tâm của thân chỉ có thể được tìm thấy khi được sống trong thiên nhiên.

Trong cuộc sống đạm bạc hàng ngày tuy thô sơ, đạm bạc nhưng thảnh thơi, thoải

mái. Một trạng nguyên nhưng lại giống như một “lão nông tri điền” ung dung

trong cuộc sống lao động tự cung tự cấp, không gò bó, không phụ thuộc. Đó là

cuộc sống gắn liền với đồng ruộng quê hương, tự tay lao động phục vụ cuộc sống.

Đây cũng là một thú vui trong đời:

Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.

Nếu những người ngoài kia ham mê tửu sắc, ham công danh phú quý muốn

sống xa hoa hưởng thụ thì Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ chọn cuộc sống yên bình, hòa

hợp với thiên nhiên. Cuộc sống đạm bạc nhưng yên vui, có trúc ăn trúc có măng

ăn măng, ăn thức ăn theo mùa của tự nhiên, chẳng cần đâu sơn hào hải vị. Khi

tắm hồ sen, khi lại tắm ao, đắm chìm trong thiên nhiên như thế, cuộc sống đạm

bạc an nhàn:

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.

Về với thiên nhiên là về với màu xanh cây lá về với hương thoang thoảng

của hoa sen nội đồng quê bát ngát. Cảnh sắc, hương trôi, êm ả, tĩnh lặng, trong

trẻo, sự trong trẻo ấy như tưới mát tâm hồn con người khiến nó trở lên tươi đẹp

hơn, quên đi những đố kị hẹp hòi. Chỉ còn lại thiên nhiên với con người hòa làm

một. Với tình yêu thiên nhiên đắm say. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về quê nhà, về

61

để sống nhàn, sống không vướng bụi danh vọng. Đó cũng là tình yêu quê hương

đất nước đến vô cùng, yêu từng cành cây tán lá, từ những thứ đơn sơ nhất, bình

dị nhất.

Nếu Nguyễn Trãi miêu tả bức tranh ngày hè thật sống động, cảnh vật cựa

quậy, bứt phá để “phun” ra, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm giản dị là

măng trúc, rau giá thì Nguyễn Du lại gửi đến bạn đọc một bức tranh mùa xuân

mới mẻ, giàu sức sống, khoáng đạt, trong trẻo nhẹ nhàng mà thanh khiết, tinh khôi

trong Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều – SGK Ngữ văn 9, tập 1).

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.

Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.

Khung cảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của mùa xuân vừa gợi không

gian vừa gợi thời gian. Bầu trời cao rộng, trong trẻo từng đàn én rộn ràng bay lượn

như thoi đưa. Trong không gian của đất trời mùa xuân, thời gian đang chuyển dần

đến điểm cuối “thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi” xuân đã đi qua sáu

chục ngày rồi và đất trời đang ở trong tháng ba. Không gian tràn ngập ánh thiều

quang - ánh nắng. Ánh nắng ấy có những nét riêng đặc trưng cho mùa xuân, nó

không nóng bức, như mùa hè, dịu buồn như mùa thu, mà nắng xuân rất tươi vui,

trẻ trung, mới mẻ trong sự nồng ấm của những ngày đầu năm. Bức tranh mùa xuân

thật đẹp, có phông, có nền “cỏ non xanh tận chân trời”. Sắc cỏ tháng ba xanh non

tơ nõn nà, mềm mượt, êm ả, nó trải rộng ra “tận chân trời” không có điểm dừng.

Cả không gian chìm trong sắc xanh tươi mới đầy sức sống. Trên nền cỏ xanh ấy

được điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Đây chính là cái hồn, cái thần là nét

vẽ trung tâm của bức tranh.

Bài thơ Qua đèo Ngang (SGK Ngữ văn 7, tập 1) là một bức tranh thiên nhiên

đẹp bình dị hoang sơ nhưng thấm đẫm lòng người, mang nặng tâm sự của nữ thi sĩ.

Lần đầu nữ sĩ “Bước tới đèo ngang” đặt chân dưới con đèo “đệ nhất hung quan” này,

62

địa giới tự nhiên giữa hai tỉnh Hà Tĩnh - Quảng Bình vào thời điểm “bóng xế tà” lúc

mặt trời đã nằm ngang sườn, ánh sáng hắt hiu. Nữ sĩ ngắm nhìn cảnh vật nơi đây với

bao tâm trạng. Nắng tắt đêm về, lúc mọi người quay quần, gần gũi nhau trong bữa

cơm chiều xúm xít, quay quần cùng là lúc nỗi buồn trào dâng trong lòng những con

người xa nhà, xa quê. Nỗi buồn lan xa cùng thiên nhiên, cảnh vật càng thêm hoang

sơ, quạnh quẽ đến não lòng. Chỉ có cây và hoa đang quấn quýt lấy nhau, bám chặt

nhau để sinh sôi, để tồn tại, “chen” với đất đá khô cằn sắc nhọn nơi đèo cao hoang

vắng này. Đứng từ trên cao nhìn xuống và nhìn xa. Cuộc sống của người dân nơi đây

hiện lên qua ba nét vẽ thật đẹp. Ngắm nhìn thiên nhiên hai miền đất nước trên ngọn

đồi cao, gửi tình yêu vào thiên nhiên hay cũng gửi tình yêu với nước nhà với non

nước Việt Nam.

Qua tác phẩm Bạch Đằng giang phú (SGK Ngữ văn 10, tập 2), người đọc sẽ

cảm nhận được vẻ đẹp của hồn thiêng sông núi Đại Việt:

Bát ngát sóng kình muôn dặm

Thướt tha đuôi trĩ một màu

Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.

Trong sự bao la của non nước đất trời muôn vàn sóng kình nổi lên thành

từng lớp lớp một. Nó gợi lên cái nhìn thật xa xăm mênh mông sóng nước dập

dềnh. Trên con sông ấy những con thuyền đuôi trĩ một màu giống nhau như làm

nên một bức tranh sông nước con thuyền cong đẹp đến mê hồn người. Tất cả mang

đến cho tâm hồn ta những cảm xúc yên bình thanh thản.

Thiên nhiên trong văn học trung đại không chỉ là những hình ảnh ước lệ tượng

trưng, hùng vĩ lớn lao mà còn là những hình ảnh giản dị, gần gũi, giàu sức sống. Tất

cả đều mang vẻ đẹp của đất trời bao la, tươi đẹp và gắn bó với con người.

2.3.2. Thiên nhiên chứa chất tâm trạng đa chiều của con người

Nguyễn Du đã viết:

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

63

Thiên nhiên không chỉ giàu sức sống mà nó gần gũi với con người là bởi

qua nó, con người gửi gắm những suy tư, tình cảm riêng. Đó là tâm trạng nuối

tiếc “buồn vì thảm cảnh” trước một không gian cô quạnh hiu vắng của dòng sông

Bạch Đằng:

Bờ lau san sát, bến lách đìu hiu,

Sông chìm giáo gẫy, gò đầy xương khô.

Thực tại phũ phàng, giờ đây tất cả chỉ còn lại tro tàn của cuộc kháng chiến

oanh liệt khi xưa. Hai bờ sông, lau lách xào xạc mang một vẻ đìu hiu buồn bã,

và trong cái không gian mờ ảo như hiện lên bãi chiến trường xưa kia đang phơi

bày những "giáo gãy", "xương khô" mọi thứ tiêu điều:

… Buồn vì cảnh thảm, đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Một tâm trạng buồn, thương tiếc, một cảm xúc "đứng lặng giờ lâu" của

"khách", tất cả đều biểu lộ sự xúc động, lòng tiếc thương và biết ơn sâu sắc đối

với nhân dân, với những anh hùng khi xưa đã đem xương máu bảo vệ dòng sông

và sự tồn vong của dân tộc. Đó là tình nghĩa thuỷ chung "Uống nước nhớ nguồn"

xuất phát từ tâm hồn đồng cảm nơi tác giả.

Thiên nhiên chất chứa tâm trạng con người còn là thiên nhiên đang tiềm

ẩn một sức sống nhưng bị đè nén và đang vươn lên mãnh liệt trong thơ Hồ Xuân

Hương:

Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

(Tự tình II – SGK Ngữ văn 11)

Hai câu thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh trạng thái của

thiên nhiên cũng là tâm trạng của con người - câu thơ như muốn nói lên nổi

buồn phẫn uất của tác giả. Các động từ mạnh: xiên, đâm kết hợp với những

bổ ngữ: ngang, toạc thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh, phẫn uất, một

64

tâm trạng khác thường, khác người, sự vật bình thường nhưng có những

hành động phi thường. Tác dụng của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở hai câu

thơ này quả là đáng ghi nhận. Dừơng như có một điểm giống nhau giữa tâm

hồn thơ và những hình ảnh thiên nhiên ấy. Rêu và đá bé nhỏ là thế nhưng

chúng giống nhau ở sức sống mạnh mẽ vô cùng và tác giả cũng vậy. Điều

đó càng diễn tả tâm trạng của Xuân Hương muốn bứt phá rào cản đề đi tìm

hạnh phúc, muốn giải thoát số phận hoàn cảnh, thể hiện cá tính táo bạo của

nữ sĩ.

Thiên nhiên trong các tác phẩm trữ tình Việt Nam trung đại trong chương

trình Ngữ văn phổ thông không phải lúc nào cũng êm dịu, trong sáng mà thiên

nhiên còn hắt hiu, cô quạnh, thể hiện một cách sâu sắc tâm trạng bi kịch trong tình

yêu của con người thời đại. Thiên nhiên hiu hắt, cô đơn, ẩn chứa những hiểm nguy

như báo trước số phận con người:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

(Kiều ở lầu Ngưng Bích – SGK Ngữ văn 9)

Mỗi biểu hiện của cảnh chiều tà trên bờ biển, từ cánh buồm thấp thoáng,

cánh hoa trôi man mác đến nội cỏ rầu rầu, tiếng sóng ầm ầm, đều thể hiện tâm

trạng và cảnh ngộ của Kiều. Đó là sự cô đơn, thân phận bấp bênh vô định. Cảnh

lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ

nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và tiếng sóng

kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng như báo trước dông bão của số phận

sẽ vùi dập cuộc đời Kiều. Bản chất trữ tình của thiên nhiên đã được Nguyễn Du

65

khám phá, nói lên tiếng nói nhân đạo của mình về hạnh phúc chân chính của con

người.

Đối với học sinh hiện nay, việc tiếp nhận tác phẩm trữ tình trung đại Việt

Nam có nguồn cảm hứng thiên nhiên là một việc làm tương đối khó khăn. Bởi, xã

hội ngày càng phát triển, học sinh được tiếp cận với nhiều thứ “mới lạ” nên đôi

khi các em không thiết tha với văn chương. Ngoài ra, học sinh đang ở lứa tuổi

mới lớn, khoảng cách về thời đại, nền văn hóa, biểu tượng, cách cảm, cách nghĩ,

sự hiểu biết... của các em đối với nét thiên nhiên cổ xưa ở làng quê còn nhiều hạn

chế (đặc biệt là học sinh thành thị).

Khi tình trạng vô cảm của thanh thiếu niên trong xã hội hiện đại đang là

vấn đề nhức nhối thì việc tạo ra một tâm hồn nhạy cảm, giàu lòng yêu thương

với những rung động tinh tế về đời sống là việc làm hết sức quan trọng. Hệ

thống tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ

thông có nguồn cảm hứng thiên nhiên giữ vai trò quan trọng trong việc kích

thích trí tưởng tượng, say mê, giúp các em được sống trong không gian và thời

gian cổ xưa đầy chất trữ tình và thi vị. Những sự vật bình dị quanh cuộc sống

như ngọn lúa, con sông, cũng là những chứng nhân lịch sử, bám sát bước đi

của con người thời đại... Đó chính là cách để gợi lên tâm hồn quê hương, tinh

thần dân tộc, đưa học sinh trở về với cội nguồn dân tộc xưa, tăng thêm vốn

sống, làm giàu thêm vẻ đẹp tâm hồn và hoàn thiện về nhân cách sống của thế

hệ trẻ hôm nay.

* Tiểu kết chương 2:

Chương 2 chúng tôi đã nhận diện, chỉ ra những giá trị văn hóa truyền thống

tiêu biểu trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ

văn phổ thông hiện hành, bao gồm: Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do;

Truyền thống nhân đạo; Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên. Mỗi

nét đẹp văn hóa này được thể hiện ở nhiều phương diện khác nhau, rất đa dạng và

cụ thể. Trong đó, truyền thống yêu nước và truyền thống nhân đạo được phản ánh

66

xuyên suốt trong các tác phẩm thời trung đại. Qua hai truyền thống tốt đẹp ấy, các

tác giả đã gửi gắm không ít những bài học về đối nhân xử thế, về đạo làm người

và cách ứng xử với thiên nhiên, vạn vật.

Những giá trị văn hóa được phản ánh trong các tác phẩm không chỉ có ý

nghĩa văn chương mà còn gắn với thực tiễn ở mọi thời đại. Các giá trị văn hóa

truyền thống được thể hiện đa dạng trong chương trình Ngữ văn PT hiện hành sẽ

là tiền đề để chương 3 chúng tôi tiến hành xây dựng bài học dạy học tích hợp đối

với các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ

thông hiện hành.

Chương 3 TÍCH HỢP GIÁ O DỤC GIÁ TRI ̣ VĂN HÓ A TRUYỀ N THỐ NG TRONG

DẠY-HỌC CÁ C TÁ C PHẨM VĂN HỌC VIỆT NAM THỜ I TRUNG ĐẠI TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN PHỔ THÔNG

Có thể nói, văn học Việt Nam trung đại là nơi lắng đọng nhiều vỉa tầng văn

hóa dân tộc, trong đó có các giá trị văn hóa truyền thống cần trao truyền cho thế hệ

sau. Tinh thần ôn cố tri tân, tích hợp giáo dục văn hóa truyền thống trong mỗi giờ

dạy - học văn học trung đại trong nhà trường là việc làm hữu ích, cần phát huy.

3.1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc dạy học tích hợp trong dạy học tác

phẩm văn học Việt Nam thời trung đại

3.1.1. Cơ sở lí luận:

67

Nội hàm khoa học của khái niệm tích hợp có thể hiểu một cách khái quát

là “sự hợp nhất hay là sự nhất thể hoá đưa tới một đối tượng mới như là một thể

thống nhất trên những nét bản chất nhất của các thành phần đối tượng chứ không

phải phép cộng đơn giản những thuộc tính của các thành phần ấy”. Như vậy, tích

hợp có hai tính chất cơ bản là tính liên kết và tính toàn vẹn.

Trong lí luận dạy học, tích hợp được hiểu là “sự kết hợp một cách hữu cơ,

có hệ thống, những mức độ khác nhau, các kiến thức, kĩ năng thuộc các môn học

khác nhau hoặc các hợp phần của phân môn thành một nội dung thống nhất”.

Cùng với việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng coi người học là trung

tâm, dạy học theo quan điểm thích hợp đang ngày càng trở thành xu thế dạy học

đem lại hiệu quả cao.

Ngữ văn là môn học vừa mang tính nghệ thuật vừa mang tính công cụ. Văn

học đem đến cho người học những tri thức về tự nhiên, xã hội, con người; làm

phong phú đời sống tâm hồn, hướng người học đến những giá trị của chân, thiện,

mĩ. Ngữ Văn còn rèn luyện cho người học những kỹ năng để trở thành những con

người có ích cho xã hội. Con đường giáo dục của Văn học là đi từ tình cảm, nhận

thức đến hành động. Vì vậy, nó dễ tác động và thấm sâu, thấm lâu trong lòng con

người. Theo xu hướng chung, trong những năm qua, việc tích hợp trong môn Ngữ

văn được thực hiện khá phong phú với nhiều nội dung và hình thức tích hợp: giáo

dục bảo vệ môi trường, giáo dục an toàn giao thông, sức khỏe sinh sản, kỹ năng

sống… Việc tích hợp đem đến cho giờ học không khí sôi nổi và mang tính thực

tiễn cao.

3.1.2. Cơ sở thực tiễn:

Hiện nay trên thế giới, bên cạnh các trào lưu dạy học hiện đại như DH

theo mục tiêu, DH phân hoá, DH tương tác…; DH tích hợp đang dần trở thành

một trào lưu sư phạm chiếm nhiều ưu thế... Ở Việt Nam, bản dự thảo Chương

trình THPT, môn Ngữ văn, năm 2002 do Bộ GD&ĐT biên soạn đã xác định:

“Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương

68

trình, biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy” [6]. Hơn nữa,

“Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn,

Tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán

triệt tromg mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích

hợp trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong

hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo” [6].

Như vậy, vấn đề cấp thiết đang đặt ra là phải tiếp cận, nghiên cứu và vận dụng

DH tích hợp vào chương trình ngữ văn ở nhà trường PT nhằm đáp ứng yêu cầu

đổi mới.

Bản chất của mỗi tác phẩm văn học chân chính xét đến cùng là những vấn

đề của cuộc sống và con người bởi “văn học là nhân học”, “văn học là cuộc

sống”... Vì vậy, so với các môn khác, môn Văn rất thuận lợi cho việc lồng ghép

giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho học sinh trong từng giờ học. Trong khi

đó, chương trình đào tạo và phương pháp giảng dạy môn Văn hiện nay về cơ bản

còn nhiều hạn chế như: nặng về lí thuyết, chưa gắn văn chương với cuộc sống,

không phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh, hiệu quả giáo dục chưa

cao… Đặc biệt, chiếm một dung lượng khá lớn và là bộ phận rất quan trọng trong

chương trình Ngữ văn PT nhưng phần văn học Việt Nam trung đại xuyên suốt 10

thế kỷ với nhiều thành tựu rực rỡ chưa thực sự phát huy được tầm quan trọng của

nó. Thực tế cho thấy, việc giảng dạy các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại ở

trường PT gặp không ít khó khăn. Về phía giáo viên, do tuổi đời và vốn kiến thức,

vốn văn hóa, văn học thời trung đại hạn chế dẫn đến tình trạng không ít giáo viên

đã “hiện đại hóa” tác phẩm, áp đặt cách cảm cách hiểu của người hiện đại vào tác

phẩm của một thời đã xa, hoặc qui tất cả nội dung tư tưởng vào các giá trị yêu

nước, nhân đạo một cách chung chung, không thuyết phục. Về phía học sinh, do

tác động của đời sống văn hóa xã hội đa phương tiện, phần lớn học sinh không

hứng thú khi học các tác phẩm cổ xưa với hàng loạt từ ngữ khó hiểu, hệ tâm lý,

thẩm mỹ, văn hóa xa lạ với hiện thực... Vì vậy, câu hỏi làm thế nào để một giờ

69

dạy học văn trung đại trở nên sinh động, thú vị và có ý nghĩa thiết thực với cuộc

sống thực tại hôm nay vẫn đang được đặt ra với cả thầy và trò trong nhà trường

các cấp.

Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, thế giới đã và đang trở thành một cái

làng toàn cầu global village về mọi phương diện. Riêng bình diện văn hóa, toàn

cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau

hơn, là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn

hóa. Không thể phủ nhận một sự thật trong thực tế hội nhập ngày nay, một số giá

trị văn hóa truyền thống đang dần bị mai một và mất đi. Trong khi đó, với đặc

trưng tâm sinh lí lứa tuổi, học sinh PT có xu hướng chạy theo cái mới, rất dễ bị

kích động đến tư tưởng, tình cảm cũng như hành vi. Trên thực tế, không ít học

sinh đang lãng quên các giá trị văn hóa truyền thống, có lối sống tiêu cực, sùng

bái văn hóa ngoại lai… Vì vậy, việc giáo dục giá trị văn hóa truyền thống được

các nhà văn gửi gắm trong các tác phẩm văn học thời trung đại là việc làm quan

thiết, giúp cho thế hệ trẻ - những chủ nhân của tương lai đất nước có đủ tâm, đủ

tài tiếp bước cha ông. Đây chính là cội nguồn sức mạnh của dân tộc ta trong bối

cảnh “chiến tranh văn hóa”, “xung đột văn minh”, “vấn đề sắc tộc và tôn giáo”

hiện nay.

Mặt khác, đây cũng là một phương án tích cực nhằm đổi mới chương trình

đào tạo và phương pháp giảng dạy môn Văn trong trường PT. Với mỗi giờ học văn

trung đại, học sinh không chỉ tiếp cận được cái hay cái đẹp của hệ thống ngôn ngữ,

nhân vật, cấu trúc tác phẩm… mà còn thấm thía sức sống/giá trị lâu bền và thiết thực

của các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; góp phần đưa văn chương về gần

cuộc sống và góp phần đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện.

3.2. Thiết kế một số chủ đề tiêu biểu theo hướng tích hợp giáo dục văn hóa

truyền thống trong dạy – học tác phẩm văn học Việt Nam trung đại trong

nhà trường PT

70

Dạy học theo chủ đề là một phương thức dạy học mới, chưa phổ biến rộng

rãi nên việc hiểu và vận dụng nó còn tồn tại nhiều vấn đề. Việc tổ chức dạy học

theo chủ đề để hướng tới mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực học sinh hiện nay

chưa thực sự được các tổ chuyên môn ở các trường và các giáo viên quan tâm tìm

hiểu, thiết kế. Việc tiếp cận phương pháp dạy học mới của người dạy rất được chú

trọng song mức độ quan tâm và vận dụng việc dạy học theo chủ đề vẫn chủ yếu ở

mức độ nghiên cứu lí thuyết. Cần tìm hiểu kĩ lưỡng, khắc phục tồn tại, phát huy

những ưu thế để có thể ứng dụng việc dạy học theo chủ đề đạt hiệu quả.

Theo kết quả nghiên cứu ở chương 2, chúng tôi đã tích hợp các giá trị văn

hóa truyền thống trong hai nhóm chủ đề tiêu biểu là nhóm chủ đề yêu nước và

nhóm chủ đề nhân đạo. Các chủ đề dạy học tích hợp giá trị văn hóa truyền thống

đều được xây dựng đều xoay quanh hai nhóm chủ đề lớn này.

3.2.1. Nhóm chủ đề yêu nước

Nhóm chủ đề yêu nước có thể có một số chủ đề nhỏ như: Lòng tự hào dân

tộc, Tinh thần bảo vệ chủ quyền quốc gia, Ca ngợi người anh hùng với lí tưởng

cao đẹp, Hình tượng người nông dân đánh giặc, Tình yêu thiên nhiên, … Yêu

nước là chủ đề xuất hiện trong tất cả các giai đoạn văn học, mức độ và biểu hiện

của nó cũng không giống nhau mà rất đa dạng.

Chương trình THCS có 8 tác phẩm mang nội dung yêu nước nổi bật, chủ

yếu ở lớp 7 (4 tác phẩm: Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, Thiên trường

vãn vọng, Côn Sơn ca), lớp 8 (3 tác phẩm: Thiên đô chiếu, Hịch tướng sĩ, Nước

Đại Việt ta (Trích Đại cáo bình Ngô)), lớp 9 (1 tác phẩm: Hoàng Lê nhất thống

chí). Chủ đề yêu nước phản ánh trong các tác phẩm này chủ yếu là việc bảo vệ

chủ quyền quốc gia, lòng tự hào dân tộc như Nam quốc sơn hà, Thiên đô chiếu,

Tụng giá hoàn kinh sư; yêu nước là yêu thiên nhiên, quê hương: Thiên trường vãn

vọng, Côn Sơn ca.

Chương trình THPT có 14 tác phẩm chỉ tập trung ở hai lớp, lớp 10: 8 tác phẩm

(Thuật hoài, Cảnh ngày hè, Quốc tộ, Quy hứng, Bạch Đằng giang phú, Đại cáo bình

71

Ngô, Hiền tài là nguyên khí quốc gia, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên); lớp 11:

6 tác phẩm (Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Thu điếu, Hương Sơn phong cảnh

ca, Cầu hiền chiếu, Xin lập khoa luật). Chủ đề yêu nước trong các tác phẩm ở bậc

THPT biểu hiện đa dạng, phức tạp hơn: Yêu nước là yêu thiên nhiên (Cảnh ngày

hè); là lí tưởng lớn lao của người anh hùng vì dân tộc (Thuật hoài); yêu nước là nỗi

lo cho nhân dân trước cảnh lầm than, lên án tội ác của giặc (Chạy giặc). Bên cạnh đó

còn kể đến biểu hiện của lòng yêu nước trong tất cả các tác phẩm thể hiện ở ý thức

sử dụng ngôn ngữ, chất liệu văn học đậm đà bản sắc dân tộc như một số đoạn trích

Truyện Kiều, Truyện Lục Vân Tiên…

Có thể khẳng định đây là chủ đề văn học xuyên suốt xuất hiện từ văn học

dân gian, văn học trung đại và đến văn học hiện đại. Vì thế, việc đưa nhiều tác

phẩm có nội dung yêu nước vào giảng dạy ở Chương trình phổ thông cũng là điều

dễ hiểu.Tuy nhiên, nhìn vào việc phân phối số lượng các tác phẩm như trên có thể

thấy sự không đồng đều. Hơn nữa, trong tổng số 50 tác phẩm văn học Việt Nam

trung đại được thống kê trong Phụ lục có đến 21 bài có nội dung chủ yếu là yêu

nước - một số lượng tác phẩm tương đối nhiều. Thực trạng này đặt ra vấn đề: cần

sắp xếp, bố trí lại các tác phẩm cho phù hợp hơn, tránh bị trùng lặp mà vẫn đảm

bảo rõ ràng về nội dung, tư tưởng.

Dựa vào việc tìm hiểu Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông mới nhất

của Bộ có đề cập đến việc dạy học tích hợp, cắt giảm thời lượng tiết học và tham

khảo một số ý kiến [6], chúng tôi tiến hành sắp xếp các tác phẩm cùng thể hiện

một chủ đề nằm trong nhóm chủ đề yêu nước với thời lượng theo phân phối

chương trình như sau:

STT 1

Tác phẩm Nam quốc sơn hà Tụng giá hoàn kinh sư Lớp 7 7 Số tiết 1 1

Chủ đề Lòng tự hào, khẳng định chủ quyền dân tộc Thiên đô chiếu 8 1

Hịch tướng sĩ 8 2

72

Nước Đại Việt ta Quốc tộ 8 10 1 1

Bạch Đằng giang phú 10 2

Đại cáo bình Ngô 10 2

2

Đề cao người anh hùng dân tộc 9 10 2 1

3

Tư tưởng canh tân, cải cách đất nước.

8 10 11 1 1 1

Hoàng Lê nhất thống chí Thuật hoài Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn Thái sư Trần Thủ Độ Bàn luận về phép học Hiền tài là nguyên khí của quốc gia Cầu hiền chiếu Xin lập khoa luật

4

7 1 Thiên trường vãn vọng Côn Sơn ca

Tình yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước. 10 11 1 1

Cảnh ngày hè Thu điếu Hương Sơn phong cảnh ca

Tùy vào yêu cầu đảm bảo giờ dạy, quan điểm tích hợp của các tổ chuyên

môn, tùy thuộc vào đối tượng tiếp cận mà sắp xếp, chọn lựa, bố trí tác phẩm trong

chủ đề cho hợp lí. Ở phần sau chúng tôi sẽ trình bày nội dung cụ thể của chủ đề

về yêu nước, tự hào dân tộc đã có sự thay đổi một số đơn vị kiến thức cũng như

dung lượng bài học sẽ được bố trí lại.

3.2.2. Nhóm chủ đề nhân đạo

Nhìn chung, nhóm chủ đề này được phản ánh trong các tác phẩm văn học

trung đại biểu hiện trên ba điểm chính:

+ Cảm thông sâu sắc với những nỗi khổ của con người.

73

+ Đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người, những giá trị tốt đẹp của

cuộc sống; niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn của những kiếp người nhỏ bé trong xã

hội.

+ Lên tiếng tố cáo các thế lực trong xã hội đã chà đạp lên quyền sống của

con người, cất tiếng nói bảo vệ và đòi quyền sống xứng đáng cho những kiếp đọa

đày đau khổ.

Hầu hết các tác phẩm đưa vào chương trình phổ thông đều ít nhiều mang tính

nhân đạo. Cũng tương tự như chủ đề yêu nước, ở mỗi lớp, mỗi cấp học lại có sự

phân phối và mức độ phản ánh khác nhau.

Chương trình THCS có 7 tác phẩm: Lớp 6 có hai tác phẩm, cả hai đều là

truyện trung đại (Con hổ có nghĩa và Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng), tính nhân

đạo thể hiện ở việc đề cao ân nghĩa, tấm lòng nhân ái của con người. Lớp 7 cũng

có hai tác phẩm, chủ đề nhân đạo được phản ánh qua hình tượng người phụ nữ:

Sau phút chia li (Trích Chinh phụ ngâm khúc), Bánh trôi nước. Biểu hiện của chủ

đề nhân đạo là thể hiện sự đề cao, trân trọng vẻ đẹp và lòng cảm thương sâu sắc

những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Lớp 9, chủ đề nhân đạo tiếp tục

được phản ánh thông qua hình tượng người phụ nữ (3 tác phẩm: Chuyện người

con gái Nam Xương, đoạn trích trong Truyện Kiều (Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã

Giám Sinh mua Kiều).

Trong chương trình THPT, các tác phẩm mang nội dung nhân đạo về cơ bản

vẫn xoay quanh người phụ nữ (8 tác phẩm). Lớp 10: Độc Tiểu Thanh kí, Tình cảnh

lẻ loi của người chinh phụ (trích Chinh phụ ngâm khúc), một số đoạn trích trong

Truyện Kiều (Trao duyên, Nỗi thương mình). Lớp 11: Tự tình II, Thương vợ. Chủ đề

nhân đạo còn thể hiện ở những khía cạnh khác như Lẽ ghét thương (Trích Truyện

Lục Vân Tiên) - tư tưởng yêu, ghét rõ ràng, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - cảm thương,

trân trọng những người nông dân đánh giặc…

Tương tự như chủ đề yêu nước, các tác phẩm phản ánh chủ đề nhân đạo

cũng tồn tại sự gần gũi về nội dung chính, số lượng các tác phẩm khá nhiều (15

74

tác phẩm) đặt ra vấn đề cần có sự sắp xếp, bố trí lại Chương trình cho phù hợp

hơn. Một số chủ đề tiêu biểu trong nhóm chủ đề này bao gồm:

Lớp Số tiết

STT

Tác phẩm Bánh trôi nước

7

1

Chuyện người con gái Nam Xương

9

2

1

Tên chủ đề Đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội phong kiến

9

1

Chị em Thúy Kiều Độc Tiểu Thanh kí

10

1

6

1

Con hổ có nghĩa Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng

Đề cao lòng nhân ái, khoan dung, yêu thương con người

Bạn đến chơi nhà Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

7 9

1 2

2

Lẽ ghét thương

11

2

11

3

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Khóc Dương Khuê

11

2

Thương vợ

Sau phút chia li

7

1

Nỗi nhớ thương, cô đơn thầm lặng

Qua đèo Ngang Kiều ở lầu Ngưng Bích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

7 9 10

1 1 2

3

10

2

Trao duyên Nỗi thương mình Tự tình II

11

1

Qua tìm hiểu hai nhóm chủ đề trên cho thấy các chủ đề của văn học trung

đại được phản ánh rất phong phú, đa dạng. Nhóm chủ đề yêu nước và chủ đề nhân

đạo ở giai đoạn văn học nào cũng xuất hiện và biểu hiện trên nhiều phương diện

khác nhau. Chính vì thế, dạy học theo chủ đề hướng tới cái nhìn xuyên suốt của

văn học Việt Nam. Dạy học theo chủ đề tích hợp các giá trị văn hóa truyền thống

vừa tránh trùng lặp, chồng chéo kiến thức, vừa hình thành được hệ thống kiến

thức sâu rộng. Đồng thời còn phát huy được năng lực, chủ động, sáng tạo của

người học và hướng đến giải quyết các vấn đề thực tiễn. Để việc dạy học theo chủ

đề tích hợp các giá trị văn hóa truyền thống đối với các tác phẩm văn học Việt

Nam trung đại trong Chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành cần tiến hành

75

theo hệ thống các bước tuần tự. Cần xây dựng cấu trúc bài học cụ thể để chuẩn bị

những vấn đề cần thiết nhất cho việc dạy một tiết học dạy học tích hợp theo chủ

đề các giá trị văn hóa truyền thống đối với các tác phẩm văn học Việt Nam trung

đại.

3.3. Các bước chuẩn bị dạy học theo chủ đề tích hợp

3.3.1. Phân chia bài học; cấu trúc lại chương trình

Việc phân chia các tác phẩm trong một chủ đề phải dựa trên các tiêu chí về

nội dung, trình độ tiếp nhận của người học, dựa vào phân phối chương trình hiện

hành để xác định thời lượng bài học.

Để phân chia bài học, trước hết cần tiến hành rà soát, đánh giá Chương trình

phần văn học Việt Nam trung đại trong Chương trình Ngữ văn phổ thông hiện

hành. Theo đó, tiến hành thống kê số lượng, chủ đề của các tác phẩm, phân nhóm

tác phẩm vào những chủ đề thích hợp. Đồng thời, chỉ ra một số tác phẩm có dung

lượng dài, khó tiếp cận, những tác giả đã được học ở lớp dưới và học nhiều tác

phẩm của cùng một tác giả. Ví dụ, tác giả Hồ Xuân Hương đã được học ở THCS

với bài Bánh trôi nước. Có thể xếp bài thơ vào nhóm chủ đề nhân đạo và tìm hiểu

cùng với những tác phẩm khác cùng chủ đề như Nỗi thương mình (trích Truyện

Kiều), Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục), Độc Tiểu

Thanh kí... Một số bài có sự gần gũi về nội dung tình yêu thương con người như:

Thương vợ, Khóc Dương Khuê, Bạn đến chơi nhà…cũng có thể xếp vào một chủ đề.

Trên cơ sở rà soát và đánh giá chương trình, tiến hành thu gọn những bài có nội dung

trùng lặp hoặc không cần thiết với trình độ học vấn phổ thông trong việc rèn luyện,

phát triển các năng lực người học. Có thể bỏ những nội dung bài quá khó, chưa hoặc

không cần thiết với học sinh phổ thông. Ví dụ: Các bài đọc thêm nên để học sinh tự

nghiên cứu ở nhà hoặc lồng ghép vào các chủ đề tương ứng để dạy học cùng tác

phẩm tiêu biểu, …

Bố trí sắp xếp các bài học theo hệ thống chủ đề cho hợp lí hơn với thời lượng

và tiến độ để phù hợp với đối tượng và mục tiêu đề ra. Việc sắp xếp chủ đề phải nhằm

76

hình thành và rèn luyện các kĩ năng cơ bản cho người học, yêu cầu với người dạy. Các

chủ đề bao chứa hết nội dung bài học và có sự linh hoạt trong quá trình sắp xếp. Chẳng

hạn, khi dạy về chủ đề yêu nước có thể hướng dẫn học sinh tìm hiểu đồng thời các tác

phẩm cùng trong hệ thống như Nam quốc sơn hà, Đại cáo bình Ngô, Bạch Đằng giang

phú, Chạy giặc, …

Sau khi bố trí, sắp xếp, cần lựa chọn những phương pháp, hình thức kiểm

tra, đánh giá kết quả phù hợp theo các tiêu chuẩn đã định của Chương trình.

3.3.2. Xác định thời lượng thực hiện dạy học một chủ đề tích hợp

Việc xác định thời lượng dạy học một chủ đề cần bám sát vào sự phân phối

chương trình hiện hành và cấu trúc lại chương trình đã làm ở bước 1. Thời lượng

dạy học bao gồm các vấn đề: dạy chủ đề đó ở cấp học nào, số tuần, số tiết thực

hiện.

* Đối tượng tiếp nhận chủ đề:

- Một chủ đề có thể lặp lại ở nhiều khối lớp, cấp học khác nhau.

- Mỗi chủ đề ở từng khối lớp, cấp học đều phải lựa chọn cho phù hợp với

khả năng tiếp nhận và tâm lí người học.

* Tuần thực hiện:

- Xác định chủ đề dạy học sẽ tiến hành trong tuần thứ mấy theo phân phối

chương trình.

- Thời gian thực hiện một chủ đề dạy học có thể liên tục hoặc cách

quãng, tùy vào việc phân chia bài dạy của giáo viên , của tổ chuyên môn.

* Số tiết thực hiện trên lớp:

- Xác định số tiết sẽ thực hiện cho chủ đề dạy học là bao nhiêu tiết.

- Chú ý phân chia hợp lý thời gian dành cho bài đọc thêm.

3.3.3. Xây dựng mục tiêu, nội dung của chủ đề tích hợp

* Mục tiêu:

- Về kiến thức: Trình bày về nội dung kiến thức mà học sinh sẽ học được

thông qua chủ đề (chỉ trình bày những kiến thức sẽ được đánh giá).

77

- Về kĩ năng: Trình bày về những kĩ năng của học sinh được hình thành

thông qua thực hiện các hoạt động học theo chủ đề (chỉ trình bày những kĩ năng

sẽ được đánh giá).

- Về thái độ: Trình bày về những tác động của việc thực hiện các hoạt động học

theo chủ đề đối với nhận thức, giá trị sống và định hướng hành vi của học sinh.

- Về năng lực: Học sinh được học thông qua phát hiện và giải quyết vấn đề,

sáng tạo và rút ra bài học có ý nghĩa cho bản thân; năng lực hợp tác và tự quản

bản thân cũng được chú trọng hình thành ở học sinh.

* Nội dung của chủ đề

Xây dựng bốn mức độ nhận thức (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận

dụng cao)

3.3.4. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập kiểm tra theo chủ đề tích hợp

* Về mức độ:

Câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra phải thể hiện được đủ 4 mức độ nhận thức (nhận

biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao). Việc phân chia tỷ lệ giữa các mức

độ nhận thức là dựa vào thực lực học sinh của lớp.

* Về nội dung

Nội dung câu hỏi, bài tập, đề kiểm tra phải có tính giáo dục, phải khơi gợi

được sự hứng thú, năng lực sáng tạo của học sinh. Giữa câu hỏi này với câu hỏi

kia có sự chặt chẽ, lô gíc, có quan hệ biện chứng. Nếu có nhiều câu hỏi về một

vấn đề thì nên sắp xếp câu hỏi từ dễ đến khó.

3.4. Đề xuất một số chủ đề tích hợp tiêu biểu

3.4.1. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc

3.4.1.1. Cơ sở phân chia bài học, cấu trúc chương trình

Đây là chủ đề được đề cập nhiều trong một số lượng lớn các tác phẩm (đã

liệt kê ở phần 3.2.1). Có thể đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu như: Nam quốc sơn

hà (lớp 7), Tụng giá hoàn kinh sư (lớp 7), Thiên đô chiếu (lớp 8), Hịch tướng sĩ

78

(lớp 8), Đại cáo bình Ngô (lớp 8 và lớp 10), Quốc tộ (lớp 10), Bạch Đằng giang

phú (lớp 10).

Chúng tôi lựa chọn dạy học chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống yêu

nước và tự hào dân tộc trong chương trình lớp 8 qua ba tác phẩm: Nam quốc

sơn hà, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô) dựa trên

những cơ sở sau:

Ba tác phẩm có những nét tương đồng lớn về nội dung phản ánh:

Khi quân xâm lược nhà Tống tràn sang nước ta, Lí Thường Kiệt (?) đọc bài

thơ “Thần” như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất khẳng định chủ quyền nước

Nam là của dân Nam. Khi đại quân Mông - Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu kéo

sang xâm phạm chủ quyền dân tộc, vào năm 1285, Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch

tướng sĩ) đã được Trần Quốc Tuấn truyền dạy trong các cấp tướng sĩ của mình.

Và khi kết thúc mười năm kháng chiến gian khổ chống quân Minh, thắng lợi trọn

vẹn vào năm 1428, Nguyễn Trãi đã tổng kết bằng bản Đại cáo bình Ngô bất hủ.

Ba áng thơ văn đều vang lên tiếng nói yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm và

niềm tự hào về một dân tộc anh hùng.

Yêu nước, tự hào dân tộc là một truyền thống vô cùng quý báu mà từ khi

hình thành dân tộc, ông cha ta đã truyền lại cho đến ngày hôm nay và mãi mãi

mai sau.

Lí Thường Kiệt khẳng định: Nước Nam có lãnh thổ riêng, có chính

quyền riêng:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Điều này đã được ghi ở “sách trời”. Sách trời là cơ sở pháp lí, là “thiên

định”. Tác giả đã ghi lại những điều ấy để quân giặc thấy rõ hơn và quân dân ta

càng tin tưởng hơn.

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

79

Tác giả khẳng định chủ quyền vào “sách trời” để nêu chính nghĩa của dân tộc.

Đến thế kỉ XV, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi viết bản tuyên ngôn độc lập lần

thứ hai đã nêu đầy đủ niềm tự hào chân chính của dân tộc Đại Việt:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sống bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác...

Nước ta thật sự là một nước độc lập, có chủ quyền. Nhân dân ta đã ra sức

bồi đắp thành nền văn hiến ngàn năm. Trên lãnh thổ này đã có dân Việt với nền

văn hóa riêng, khác hẳn văn hóa phương Bắc. Anh hùng hào kiệt nước Đại Việt

cũng không thiếu, không thua kém.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.

Tự hào dân tộc, cha ông ta càng yêu nước nồng nàn. Khẳng định “Nam

quốc sơn hà Nam đế cư” là một khẳng định yêu nước. Vua tức là nước, lúc bấy

giờ nói vua Nam hay hoàng đế nước Nam chính là đối chọi lại với “đế” Trung

Hoa. Không phải là tuyên chiến, mà là cảnh cáo quân giặc cướp nước, cho chúng

biết trước cái thất bại thảm hại tất yếu sẽ đến với chúng.

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.

Người viết đã nói lên truyền thống yêu nước nồng nàn và niềm tự hào dân

tộc chân chính. Không tự hào dân tộc chân chính thì không dám đánh giặc giữ

nước. Ta phải đánh giặc vì giặc xâm phạm đất nước ta.

Ở Hịch tướng sĩ, niềm tự hào dân tộc càng sâu sắc hơn. Vì tự hào dân tộc

nên cảm thấy bao nhiêu cái nhục khi quân giặc xâm phạm chủ quyền:

Nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn...

Yêu nước là phải biết bảo vệ, gìn giữ đất nước, không thể ngồi yên, khoanh

tay nhìn cảnh:

80

Sứ giặc đi nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà xỉ mắng triều

đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ..., vơ vét tiền của bạc vàng.

Phải hướng tất cả lòng căm thù về phía quân giặc cướp nước:

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm

đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù, dẫu cho trăm thân

này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng...

Nguyễn Trãi viết thay Lê Lợi, cũng là viết thay nhân dân niềm tự hào chân

chính của dân tộc. Khẳng định sự toàn thắng của chính nghĩa:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi.

Ở Đại cáo bình Ngô, chúng ta càng thấy trọn vẹn lòng yêu nước cao độ và

niềm tự hào dân tộc chân chính. Chính lòng yêu nước, tự hào dân tộc đã tạo nên

sức mạnh to lớn chiến thắng quân xâm lược dù chúng đông hơn, mạnh hơn ta gấp

nhiều lần.

Trong hoàn cảnh đất nước bị ngoại xâm, ông cha ta thường lấy lòng tự hào dân

tộc làm chính nghĩa để tập hợp lực lượng, đoàn kết nhân dân chống giặc.

Nguyễn Trãi xác định lập trường chính nghĩa sáng ngời:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Trần Quốc Tuấn kêu gọi các tướng của mình, từ bỏ thái độ thờ ơ hưởng lạc

trước cảnh đất nước lâm nguy, mà phải:

81

Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như

Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở Cửa

Khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai...

Có như vậy mới bảo vệ được non sông vững bền, xây dựng được hạnh phúc

của mình và của đất nước.

Mỗi tác phẩm được sáng tác trong những giai đoạn, hoàn cảnh khác nhau;

cách thức thể hiện khác nhau nhưng tựu chung lại đều khẳng định lòng yêu nước,

tự hào dân tộc. Đây là tiền đề quyết định cho việc xây dựng một chủ đề dạy học.

Sự phát triển trí tuệ của học sinh ở lứa tuổi Trung học cơ sở nói chung và

học sinh lớp 8 nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì ở lứa tuổi này, những

cơ sở, phương hướng chung của sự hình thành quan điểm xã hội và đạo đức, tư

duy nhìn nhận, đánh giá được hình thành, tạo tiền đề cho sự phát triển ở lứa tuổi

sau. Việc hình thành cho học sinh nhận thức về chủ quyền quốc gia, lòng tự hào

dân tộc không phải đến độ tuổi này mới thực hiện. Nhưng với lứa tuổi này, học

sinh sẽ được tiếp cận, đánh giá tư tưởng ở một trình độ cao hơn, với ngữ liệu phức

tạp hơn nhằm hình thành và phát huy khả năng phát hiện vấn đề, phân tích và tổng

hợp tác phẩm văn học trung đại có đặc điểm, cách thể hiện khác với văn học hiện

đại. Đặc biệt là kích thích tư duy khám phá của học sinh để xâu chuỗi, liên hệ, tìm

ra mối tương quan giữa nội dung tác phẩm để có cái nhìn toàn diện hơn. [47, tr.67]

Chủ đề này không chỉ thực hiện dạy học ở lớp 8 mà còn lặp lại ở những lớp

sau, tùy thuộc vào phân phối chương trình mà có sự cắt giảm hay tăng thời lượng

dạy học. Như đã nói, việc phân chia chủ đề chỉ mang tính chất tương đối vì một

tác phẩm có thể phản ánh nhiều chủ đề, một chủ đề được biểu hiện bởi nhiều tác

phẩm.Vì thế khi xây dựng chủ đề, chúng tôi nhận định có thể tăng/ giảm số tiết

của một số tác phẩm để thấy sự chọn lọc, tinh giản, làm nổi bật được nội dung cốt

lõi cho chủ đề đang nói đến. Việc cần nghiên cứu ở đây là xác định những nội

dung, tư tưởng trong tác phẩm đó để sắp xếp cho phù hợp với mục tiêu của chủ

đề. Ví dụ, tác phẩm Đại cáo bình Ngô tiếp tục được học ở lớp 10 và có thể tích

82

hợp trong chủ đề khác như Tư tưởng nhân nghĩa hay chủ đề Đề cao vai trò của

nhân dân trong sự nghiệp dựng và giữ nước… Tác phẩm Hịch tướng sĩ cũng thể

hiện rất nhiều nội dung tư tưởng: Lòng căm thù giặc sâu sắc, Người tướng lĩnh

hết lòng vì dân tộc, Nghệ thuật binh pháp…

3.4.1.2. Thời lượng thực hiện dạy học chủ đề

Chủ đề dự kiến được dạy vào tuần thứ 24, 25 ở lớp 8 với số tiết như sau:

Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới

Nam quốc sơn hà 1 tiết 1 tiết

Nước Đại Việt ta 1 tiết 1 tiết

Hịch tướng sĩ 2 tiết 2 tiết

Chủ đề: Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc

3.4.1.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề

* Mục tiêu

- Về kiến thức:

+ Khẳng định chủ đề yêu nước nồng nàn và lòng tự hào dân tộc chân chính

của ông cha ta thể hiện qua ba tác phẩm.

+ Tìm hiểu những nét đặc sắc nghệ thuật, giá trị thể hiện nội dung qua thể

cáo, hịch và thơ thất ngôn góp phần phản ánh nội dung chủ đề.

Về kĩ năng:

Hình thành, rèn luyện kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm trung đại theo đặc trung

thể loại, kĩ năng phân tích – tổng hợp, trình bày các nội dung kiến thức để làm rõ

chủ đề.

- Về thái độ

Liên hệ với hiện tại để khẳng định lòng yêu nước và tự hào dân tộc ở mỗi

thời đại là chủ đề tiêu biểu, xuyên suốt. Có ý thức trân trọng, phát huy truyền

thống tốt đẹp này.

83

- Về năng lực

Hình thành năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề; năng lực hợp tác, tự quản

bản thân.

* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề

Mức độ

Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao

Đơnvị kiến thức

1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm. Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.

Xác định hoàn cảnh sáng tác của mỗi tác phẩm có ý nghĩa gì trong việc thể hiện nội dung tư tưởng? Đọc hiểu khái quát, phân chia được bố cục và xác định nội dung chính mỗi tác phẩm.

2. Tìm hiểu nội dung

Phân tích, nêu cảm nhận về các tác phẩm. Nêu được nội dung chính của các tác phẩm. Tìm những từ ngữ, hình ảnh thể hiện nội dung các tác phẩm. Tổng hợp, khái quát, chứng minh chủ đề thể hiện trong các tác phẩm.

3. Nghệ thuật

Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm.

4. Liên hệ, mở rộng

Liên hệ bản thân về lòng yêu nước, tự hào dân tộc. Khẳng định chủ đề tồn tại xuyên suốt ở mọi thời đại.

Giá trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Chỉ ra biểu hiện của chủ đề ở từng giai đoạn, trong thơ văn và ngoài đời thực. Đánh giá, phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều về lòng yêu nước, tự hào dân tộc.

84

3.4.1.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề

STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ Năng lực, phẩm chất

1 Nhận biết Biểu hiện của lòng yêu nước, tự hào dân tộc? Năng lực phát hiện vấn đề

2 Thông hiểu Năng lực tổng hợp kiến thức Lòng yêu nước, tự hào dân tộc được thể hiện trong ba tác phẩm như thế nào?

3 Vận dụng thấp Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề yêu nước, tự hào dân tộc? Cảm thụ văn học, đánh giá vấn đề

4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao Năng lực giải quyết vấn đề

3.4.2. Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong

xã hội phong kiến

3.4.2.1. Cơ sở phân chia

Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ

trong xã hội phong kiến được thể hiện trong các tác phẩm văn học Việt Nam

trung đại khá nhiều: Lớp 7, tập 1: Bánh trôi nước; lớp 9, tập 1: Chuyện người con gái Nam Xương; lớ p 10, tập 1: Độc Tiểu Thanh kí; lớ p 10, tập 2: Nỗi thương mình; lớp 11, tập 1: Tự tình II.

Chủ đề được xây dựng qua việc lựa chọn tích hợp ba tác phẩm dạy học ở

chương trình lớp 10: Bánh trôi nước, Độc Tiểu Thanh kí, Chuyện người con gái

Nam Xương. Ba tác phẩm của ba tác giả khác nhau, ở các thời đại khác nhau

nhưng đều phản ánh vẻ đẹp của người phụ nữ đồng thời cũng thể hiện số phận bất

hạnh của họ.

Người phụ nữ xuất hiện trong văn học trung đại thường là những người phụ

nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho đến tính cách.Trong tác phẩm Bánh trôi nước

của nữ sĩ Hồ Xuân Hương, hình ảnh người con gái hiện lên "vừa trắng lại vừa

tròn", một người mang vẻ bề ngoài đầy đặn, tròn trịa. Ta cũng bắt gặp người phụ

nữ như thế xuất hiện trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ.

85

Vũ Thị Thiết là một người phụ nữ tư dung tốt đẹp, chăm chỉ siêng năng,... khiến

Trương Sinh phải đem lòng thương mến mà bỏ ra trăm lạng vàng rước nàng về

làm dâu. Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí cũng tài sắc vẹn toàn nhưng

vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm lẽ một thương gia giàu có. Người phụ nữ đẹp

về ngoại hình và phẩm chất nhưng lại chịu bao nhiêu oan khuất, bất hạnh. Bị vu

oan, bị nghi ngờ mà không thể giãi bày, không thể minh oan cho bản thân: Vũ Thị

Thiết. Số phận của họ ở thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác, không làm

chủ được số phận của chính họ: “Thân em”, nàng Tiểu Thanh. Dù bị chà đạp

nhưng người phụ nữ luôn khao khát sống, có tinh thần phản kháng trước các thế

lực dù vẫn còn rất yếu ớt.

Đây đều là những tác phẩm rất đặc sắc, nhiều hình ảnh tượng trưng, nhiều

tầng nghĩa nên người học cần có một tầm hiểu biết nhất định. Ở độ tuổi mới bước

vào cấp 3, học sinh lớp 10 thể hiện là những người học khá chủ động, cá tính và

ham học hỏi. [47, tr. 98]. Chính vì vậy, mức độ bài học cũng cần được nâng cao

và hấp dẫn hơn để học sinh được tiếp cận, phát huy mọi khả năng của bản thân.

Cũng như chủ đề trước, việc phân chia, sắp xếp bài học này chỉ mang tính tương

đối, cần có sự nghiên cứu, tìm hiểu, tiếp cận kĩ lưỡng về mọi mặt mới có thể đưa

ra những giải pháp tối ưu hơn.

3.4.2.2. Thời lượng thực hiện dạy học

Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 13, 14 lớp 10 với thời lượng

các tiết như sau:

Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới

Bánh trôi nước 1 tiết 1 tiết

Chuyện người con gái Nam Xương 2 tiết 2 tiết

Độc Tiểu Thanh kí 1 tiết 1 tiết

Chủ đề: Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội

phong kiến

86

3.4.2.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề

* Mục tiêu

- Về kiến thức

+ Cảm nhận vẻ đẹp người phụ nữ trong xã hội phong kiến và đồng cảm với

số phận của họ.

+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm.

- Về kĩ năng

Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận

văn học.

Về năng lực

Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.

* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng thấp

Vận dụng cao

Mức độ Đơn vị kiến thức 1. Tìm hiểu chung về tác tác giả, phẩm

Đọc - hiểu khái quát mỗi tác phẩm.

tích Phân những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm.

Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.

Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh tư nội dung

87

tác

2. Tìm hiểu nội dung

tích, Phân nêu cảm nhận về các tác phẩm.

Nêu được nội dung chính của tác các phẩm.

3. Nghệ thuật

hợp, Tổng quát, khái khẳng định chủ đề biểu hiện trong các tác phẩm.

4. Liên hệ, mở rộng

Liên hệ bản suy thân, nhận nghĩ, về thức người phụ nữ như thế nào?

giá, Đánh phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều về hình ảnh người phụ nữ xưa và nay.

tưởng của phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, cốt truyện, hình ảnh thơ thể hiện nội dung các tác phẩm. Giá trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. nét ra Chỉ chung, riêng về vẻ đẹp, thân phận của người phụ nữ ở từng giai đoạn, trong thơ văn và ngoài đời thực.

Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật các trong tác phẩm. hệ Liên thực tế: Người phụ trong nữ mọi thời đại đều có những phẩm chất, vẻ đẹp và bất nỗi hạnh.

3.4.2.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề

Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất

Tại sao lại thương cảm, chia sẻ với thân Năng lực phát 1 phận người phụ nữ trong xã hội phong Nhận biết hiện vấn đề kiến?

Số phận bất hạnh của người phụ nữ do Năng lực tổng 2 Thông hiểu những yếu tố nào gây nên? hợp kiến thức

88

Cảm thụ văn

3 Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề? Vận dụng thấp học, đánh giá

vấn đề

Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề

3.4.3. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu

3.4.3.1. Cơ sở phân chia

Chủ đề không phản ánh rộng rãi trong văn học Việt Nam trung đại nhưng

trong khuôn khổ chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành đã đưa vào một số

tác phẩm rất đặc sắc. Văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu là một nét đẹp trong

văn hóa truyền thống được thể hiện đặc sắc trong ba tác phẩm: Bạn đến chơi nhà,

Thề nguyền, Khóc Dương Khuê. Đây đều là những tác phẩm phản ánh đạo làm

người: trân trọng tình cảm bạn bè, người yêu; gắn bó, yêu thương chân thành;

luôn hướng đến những điều tốt đẹp cho mọi người; cách hành xử có văn hóa, thể

hiện đạo lí làm người nhân nghĩa, giàu tình cảm.

Ba tác phẩm trong chủ đề phản ánh nét đẹp văn hóa truyền thống ứng xử

trong tình bạn, tình yêu được dạy tích hợp ở chương trình lớp 11. Ở độ tuổi nhận

thức, tư duy cao và khá nhạy bén, học sinh lớp 11 hoàn toàn có khả năng nhận

thức và đưa ra quan điểm thẳng thắn của mình về cách hành xử trong tình bạn,

tình yêu. Học sinh sẽ có những kĩ năng trong việc ứng xử thực tiễn trước những

hoàn cảnh khác nhau của tình bạn, tình yêu. [47,tr 92]

3.4.3.2. Thời lượng thực hiện dạy học

Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 7, 8 lớp 11 với thời lượng

các tiết như sau:

Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới

89

Bạn đến chơi nhà 1 tiết 1 tiết

Khóc Dương Khuê 1 tiết 1 tiết

Thề nguyền 1 tiết 1 tiết

Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu

3.4.3.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề

* Mục tiêu

- Về kiến thức

+ Cảm nhận tình bạn và tình yêu chân thành được phản ánh trong ba tác phẩm.

+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm: Người xưa

đã có văn hóa ứng xử rất tinh tế, khéo léo trong tình bạn, tình yêu.

- Về kĩ năng

Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận

văn học.

- Về năng lực

Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.

* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề

90

Nhận biết Thông hiểu Vận dụng hấp Vận dụng cao

Mức độ Đơn vị kiến thức

1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm. Đọc - hiểu khái quát nội dung chính của mỗi tác phẩm.

Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm (từ ngữ, hình ảnh nghệ thuật).

2. Tìm hiểu nội dung

Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.

Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ thể hiện nội dung các tác phẩm.

Phân tích, nêu cảm nhận chung và riêng về các tác phẩm.

Tổng hợp, khái quát, khẳng định chủ đề được biểu hiện trong các tác phẩm rất đa dạng, rõ nét.

3. Nghệ thuật

Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật tác trong các phẩm. Gía trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng.

4. Liên hệ, mở rộng

Liên hệ thực tế: Ngày nay mọi người ứng xử trong tình bạn, tình yêu như thế nào?

Liên hệ bản thân, suy nghĩ, ý thức về các mối quan hệ tình bạn, tình yêu xung quanh mình. Đánh giá, phản biện, nhận định một số ý kiến trái chiều, lối hành xử sai trái trong tình bạn, tình yêu.

Chỉ ra những điểm giống và khác, mặt giữ gìn, phát huy và những nét mới trong văn hóa ứng xử với tình bạn, tình yêu trong xã hội hiện đại.

3.4.3.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề

Năng lực, phẩm STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ chất

91

Quan điểm về tình bạn, tình yêu trong Năng lực phát 1 xã hội phong kiến được phản ánh qua Nhận biết hiện vấn đề các tác phẩm văn học như thế nào?

Tại sao lại có quan điểm và cách ứng xử Năng lực tổng 2 Thông hiểu như vậy? hợp kiến thức

Phân tích tác phẩm để làm rõ nét đẹp Cảm thụ văn

3 văn hóa truyền thống trong cách ứng xử Vận dụng thấp học, đánh giá

các mối quan hệ tình bạn, tình yêu? vấn đề

Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề

3.4.4. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình

3.4.4.1. Cơ sở phân chia

Chủ đề được tích hợp trong ba tác phẩm: Thương vợ, Kiều ở lầu Ngưng

Bích, Chuyện người con gái Nam Xương dự kiến dạy học trong chương trình lớp

12. Văn hóa ứng xử trong gia đình được người Việt đề cao và rất coi trọng. Những

giá trị đạo đức xã hội của tư tưởng Nho giáo được các tác giả phản ánh sinh động

trong tác phẩm: yêu thương, trân trọng các thành viên trong gia đình; thể hiện thứ

bậc, vị thế của từng cá nhân; mối quan hệ đan xen giữa mọi người đòi hỏi cần có

những cách hành xử khác nhau để đạt đến sự hòa thuận, yên ấm trong gia đình.

Trong trường THPT, đối với học sinh lớp 12, những khó khăn, rào cản tâm

lý không chỉ liên quan đến việc học sinh lĩnh hội lượng tri thức lớn hơn, khó hơn

mà còn liên quan đến những khó khăn, rào cản tâm lý khác, làm ảnh hưởng tới tư

tưởng của học sinh như các vấn đề hoàn cảnh gia đình, môi trường sống, bạn bè,

bản thân cá nhân học sinh. Tuổi công dân là lứa tuổi mà học sinh lớp 12 bắt đầu

phải có trách nhiệm trước pháp luật, có cách ứng xử tinh tế hơn trong mối quan

hệ của mình với các thành viên trong gia đình. Việc tích hợp dạy học chủ đề văn

hóa ứng xử trong gia đình đối với lứa tuổi này sẽ giúp học sinh có ý thức, trách

92

nhiệm hơn với các thành viên trong gia đình; nói ra quan điểm, suy nghĩ cá nhân

về công việc hay những vấn đề liên quan đến gia đình; thể hiện tình cảm rõ ràng,

khéo léo hơn. [47,tr145]

3.4.4.2. Thời lượng thực hiện dạy học

Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 10, 11 lớp 12 với thời lượng

các tiết như sau:

Phân phối chương Phân phối chương Bài trình cũ trình mới

1 tiết 1 tiết Thương vợ

1 tiết 1 tiết Kiều ở lầu Ngưng Bích

2 tiết 2 tiết Chuyện người con gái Nam Xương

3.4.4.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề

Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong gia đình

* Mục tiêu

- Về kiến thức

+ Hiểu được mối quan hệ và văn hóa ứng xử của các thành viên trong gia

đình được phản ánh qua ba tác phẩm.

+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm: Văn hóa ứng

xử trong gia đình là một nét đẹp truyền thống có ý nghĩa to lớn.

- Về kĩ năng

Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận

văn học.

- Về năng lực

Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.

* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề

93

Nhận biết

Thông hiểu

Vận dụng cao

Vận dụng thấp

Mức độ Đơn vị kiến thức

1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm.

Đọc - hiểu khái quát nội dung chính của mỗi tác phẩm.

Phân tích những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm (từ ngữ, hình ảnh, chi tiết nghệ thuật).

2. Tìm hiểu nội dung

Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.

Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ, chi tiết nghệ thuật thể hiện nội dung các tác phẩm.

Phân tích, nêu cảm nhận chung và riêng về các tác phẩm.

Đưa ra kết luận về chủ đề được phản ánh trong tác phẩm có ý nghĩa như thế nào trong việc làm nên thành công, giá trị của các tác phẩm.

3. Nghệ thuật Chỉ ra nét

4. Liên hệ, mở rộng

Đưa ra chính kiến, đánh giá nhiều quan điểm khác nhau trong mối quan hệ gia đình.

đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm. Liên hệ thực tế: Văn hóa ứng xử trong gia đình xưa và nay có gì và giống khác nhau?

Gía trị của biện pháp nghệ thuật trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Khẳng định vai trò to lớn của gia đình không chỉ thông qua các tác phẩm mà còn thể hiện ở mỗi cá nhân trong xã hội.

Liên hệ bản thân, suy nghĩ, ý thức về mối quan hệ với các thành viên trong gia đình. 3.4.4.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề

94

Năng lực, phẩm STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ chất

Văn hóa ứng xử trong gia đình được Năng lực phát 1 phản ánh qua các tác phẩm văn học Nhận biết hiện vấn đề như thế nào?

Tại sao lại có những cách ứng xử như Năng lực tổng 2 Thông hiểu vậy? hợp kiến thức

Phân tích tác phẩm để làm rõ nét đẹp Cảm thụ văn học, 3 văn hóa truyền thống trong cách ứng Vận dụng thấp đánh giá vấn đề xử với các thành viên trong gia đình?

Năng lực giải 4 Liên hệ, mở rộng chủ đề Vận dụng cao quyết vấn đề

3.4.5. Chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên

3.4.5.1. Cơ sở phân chia

Cáo tật thị chúng, Côn Sơn ca, Bạch Đằng giang phú là ba tác phẩm phản

ánh khá sinh động nét đẹp văn hóa trong ứng xử với thiên nhiên của con người

không chỉ ở thời trung đại mà còn đặc biệt cần thiết trong xã hội hiện đại. Với

thiên nhiên, con người luôn ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp, sự gần gũi, mối quan hệ

giao hòa giữa con người và thiên nhiên. Bên cạnh đó, qua thiên nhiên, con người

thể hiện những chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, gửi gắm tình cảm, tâm trạng

trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Nội dung này đều được thể hiện ở ba tác

phẩm. Chính vì thế, tích hợp dạy học ba tác phẩm này trong chương trình Ngữ

văn lớp 10 là phù hợp.

Ở lứa tuổi 15, học sinh lớp 10 đã có năng lực cảm thụ vẻ đẹp thiên nhiên,

cuộc sống khá tinh tế. Bằng tư duy trực quan, trí tưởng tượng phong phú giao giữa

lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên với lứa tuổi tò mò, ham học hỏi và cũng bắt đầu mơ

mộng, học sinh lớp 10 có hứng thú khám phá thiên nhiên, phát hiện những nét

riêng trong mỗi cảnh vật. [47, tr73]

95

Văn hóa ứng xử với thiên nhiên là nét đẹp truyền thống cần được giữ gìn và

phát huy, biến đổi cho phù hợp trong từng giai đoạn nhưng cách ứng xử đặc sắc

được các tác giả phản ánh trong tác phẩm văn học Việt Nam trung đại là điều

không thể phủ nhận, nó là tiền đề để chúng ta giáo dục thế hệ trẻ có ý thức trước

thiên nhiên, môi trường sống. Hơn nữa, thông qua việc học những tác phẩm này

giúp học sinh thấy rằng văn học trung đại thực chất rất gần gũi, gắn với thực tiễn

và có giá trị to lớn trong mọi thời đại.

3.4.5.2. Thời lượng thực hiện dạy học

Chủ đề dự kiến được triển khai trong các tuần 9,10 lớp 10 với thời lượng

các tiết như sau:

Phân phối chương trình Phân phối chương trình Bài cũ mới

Côn Sơn ca 1 tiết 1 tiết

Bạch Đằng giang phú 2 tiết 2 tiết

Cáo tật thị chúng 1 tiết 1 tiết

Chủ đề: Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử với thiên nhiên

3.4.5.3. Mục tiêu, nội dung của chủ đề

* Mục tiêu

- Về kiến thức

+ Cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên sinh động, giàu sức sống được các nhà nhơ

thể hiện trong tác phẩm.

+ Khái quát nội dung chủ đề được thể hiện trong ba tác phẩm.

- Về kĩ năng

Rèn kĩ năng đọc - hiểu tác phẩm theo thể loại, kĩ năng phân tích, cảm nhận

văn học.

Về năng lực

Hình thành, phát huy năng lực giao tiếp, phát hiện, giải quyết vấn đề.

96

* Mô tả mức độ nhận thức của chủ đề

Nhận biết Thông hiểu Vận dụng thấp Vận dụng cao

Mức độ Đơn vị kiến thức 1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm

Đọc - hiểu quát khái mỗi tác phẩm.

Nêu được những thông tin cơ bản về tác gia, tác phẩm. tích Phân những yếu tố góp phần làm nổi bật giá trị tác phẩm.

2. Tìm hiểu nội dung

Nêu được nội dung chính của các tác phẩm.

Xác định bối cảnh ra đời tác phẩm, cuộc đời tác giả có ý nghĩa gì trong việc phản ánh nội dung tư tưởng của tác phẩm? Xác định đối tượng phản ánh, hình ảnh thơ thể hiện nội dung tác phẩm. Phân tích, cảm nêu nhận về các tác phẩm.

Khẳng định đây là chủ đề tiêu biểu, mang tính thời đại. 3. Nghệ thuật

4. Liên hệ, mở rộng

Gía trị của biện thuật pháp nghệ trong việc thể hiện nội dung tư tưởng. Đối chiếu, liên hệ giữa văn hóa ứng xử với thiên nhiên ở giai đoạn xưa và nay, trong văn học và trên thực tế.

Chỉ ra nét đặc sắc nghệ thuật trong các tác phẩm. Đưa ra cảm nhận, đánh giá riêng về thiên vẻ đẹp nhiên và cách phản ánh của nhà thơ trong các tác phẩm. Ý thức, trách nhiệm, tình cảm của bản thân với thiên nhiên, trường môi sống.

Tiếp cận nhiều nhận định khác nhau về việc ứng xử với thiên nhiên để có cái nhìn bao quát, toàn diện hơn.

3.4.5.4. Hệ thống câu hỏi kiểm tra, đánh giá chủ đề

97

Năng lực, STT Câu hỏi/ bài tập Mức độ phẩm chất

Năng lực phát Văn hóa ứng xử với thiên nhiên được 1 Nhận biết hiện vấn đề thể hiện như thế nào trong ba tác phẩm?

Năng lực tổng Vai trò, vị trí của thiên nhiên và ý thức 2 Thông hiểu hợp kiến thức của con người trước thiên nhiên ra sao?

Cảm thụ văn

3 Phân tích tác phẩm để làm rõ chủ đề? Vận dụng thấp học, đánh giá

vấn đề

Năng lực giải Cảm hứng trước khung cảnh thiên nhiên 4 Vận dụng cao quyết vấn đề tươi đẹp?

* Tiểu kết chương 3

Để có thể tích hợp giáo dục các giá trị văn hóa truyền thống trong giờ dạy

– học Ngữ văn, chúng tôi đã mạnh dạn đề xuất xây dựng nội dung dạy học một số

tác phẩm văn học Việt Nam trung đại theo chủ đề. Nội dung bao quát gồm việc

xác định các bước chuẩn bị cho dạy học một chủ đề và nội dung chính là tiến hành

đề xuất dạy học hai chủ đề. Việc lựa chọn chủ đề, phân chia bài học đều phải dựa

trên những cơ sở lí luận và thực tiễn phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của tình hình

đổi mới dạy học hiện nay. Thời lượng triển khai mỗi chủ đề cũng cần được sắp

xếp, bố trí sao cho hợp lí nhất có thể.

Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào dân tộc qua ba tác phẩm

Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô) là

chủ đề tiêu biểu không chỉ được chọn lựa dạy học ở lớp 8 mà còn được giảng dạy

ở nhiều lớp khác nhau. Đây là chủ đề lớn, xuyên suốt nên người học có thể dễ

dàng phát hiện, tìm hiểu, tổng hợp qua từng tác phẩm. Các tác phẩm đều nhằm

thể hiện một chủ đề chính nhưng bên cạnh đó cũng cần có sự liên hệ, mở rộng để

người học có cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn về vấn đề được học.

98

Chủ đề Tích hợp giáo dục truyền thống đồng cảm với người phụ nữ trong

xã hội phong kiến là chủ đề khá phức tạp, người học đòi hỏi phải có một trình độ,

năng lực hiểu biết nhất định mới có thể tiếp cận trọn vẹn được tác phẩm. Bánh

trôi nước, Chuyện người con gái Nam Xương, Độc Tiểu Thanh kí là hiện thân của

ba người phụ nữ được trân trọng, ca ngợi về vẻ đẹp, phẩm chất. Qua đó, nhà văn

thể hiện lòng cảm thông sâu sắc với số phận éo le, bất hạnh của họ. Người học

phải có sự khám phá, tư duy và phân tích để nắm được tác phẩm.

Các chủ đề Tích hợp giáo dục văn hóa ứng xử trong tình bạn, tình yêu; Văn

hóa ứng xử trong gia đình; Văn hóa ứng xử với thiên nhiên đều mang tính thực

tiễn cao và được chúng tôi trình bày cụ thể về cơ sở lựa chọn, định hướng giảng

dạy và kiểm tra, đánh giá. Những chủ đề tích hợp này sẽ đem lại hiệu quả thiết

thực cho người học nếu được triển khai theo trình tự và trên quy mô rộng.

Thông qua bảng mô tả mức độ nhận thức chủ đề có thể thấy dạy học theo

chủ đề là cách thức dạy học mà người học thực sự là trung tâm của các hoạt động.

Nhờ đó người học sẽ có tư duy tổng hợp, đa chiều, giảm tình trạng nhận thức rời

rạc, nhanh quên kiến thức. Việc đề xuất xây dựng chủ đề dạy học các tác phẩm

văn học Việt Nam trung đại được thể hiện trong chương 3 vẫn còn tồn tại một số

vấn đề nhất định, đây là điều khó tránh khỏi và cần được khắc phục trong những

công trình nghiên cứu tiếp theo.

99

KẾT LUẬN

Nói đến các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc ta là nói đến đặc thù

của văn hóa Việt Nam với những bản sắc đậm đà, tốt đẹp đã hình thành và được

lưu truyền từ ngày dựng nước cho đến nay. Hệ thống các giá trị văn hoá truyền

thống của dân tộc Việt Nam rất phong phú, đa dạng, xuyên thấm vào nhau và

được kết tinh trong sáng tác văn học - một phương diện đặc thù của văn hóa, đặc

biệt được bảo lưu và phát triển trong thời kỳ văn học trung đại. Là một giáo viên

dạy văn ở phổ thông, người viết mong muốn làm rõ các giá trị văn hóa truyền

thống của các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông

hiện hành với hi vọng góp một tiếng nói cụ thể, hữu ích trong hành trình đổi mới

giáo dục nói chung, nâng cao chất lượng dạy học văn trong nhà trường nói riêng.

Trước hết, luận văn đã tiến hành nghiên cứu về văn hóa truyền thống, đặc

điểm của chương trình Ngữ văn PT, SGK hiện hành để có cái nhìn cụ thể nhất

cho việc nhận diện, tìm hiểu những giá trị văn hóa truyền thống được phản ánh

trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại. Đồng thời, chúng tôi khảo sát và

nhận diện hệ thống giá trị văn hóa trong các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại

ở chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành bao gồm: Truyền thống yêu nước,

yêu độc lập tự do; Truyền thống nhân đạo; Truyền thống yêu nước, sống hòa hợp

với thiên nhiên. Những giá trị này không chỉ có ý nghĩa văn chương mà còn gắn

với thực tiễn ở mọi thời đại.

Tìm về quá khứ, nhưng mục tiêu của công trình này không dừng ở việc

khẳng định quá khứ mà là hướng đến tương lai. Nói cách khác, việc khảo cứu

những giá trị văn hoá truyền thống trong chương trình Ngữ văn phổ thông chính

là quá trình nhận chân những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt nhằm

giúp chúng ta tự tin hơn về những gì mình đã có, đang có và tiếp tục phát huy nó

trong cuộc sống hiện tại. Có thể nói, những giá trị văn hóa truyền thống cơ bản

cần được giáo dục cho thế hệ trẻ rất phong phú, đa dạng, nhiều mặt. Tuy nhiên,

100

trong khuôn khổ vấn đề nghiên cứu, chúng tôi cho rằng những nội dung chủ yếu

nhất có liên quan trực tiếp đến việc giáo dục, bồi dưỡng nhân cách người học hiện

nay chính là giáo dục truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Nam. Nếu

nhân ái, khoan dung thể hiện ở tình yêu thương con người, sẵn sàng giúp đỡ người

khác, không vụ lợi thì giáo dục truyền thống nhân ái, khoan dung cho người học

sẽ có tác dụng giáo dục thái độ kính thầy, yêu bạn, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập,

sinh hoạt, quý trọng của công, quan tâm đến nỗi bất hạnh của người khác; giúp

thế hệ trẻ không ngừng nâng cao nhận thức, tự giác sống tốt đẹp hơn, biết lấy lợi

ích tập thể, lợi ích dân tộc làm định hướng cho cuộc sống của mình, góp phần

hình thành và phát triển nhân cách người học. Nếu truyền thống đoàn kết, ý thức

cộng đồng thể hiện qua các mối quan hệ cộng đồng lớn nhỏ khác nhau như gia

đình, gia tộc, họ hàng, làng xã và lớn hơn là cộng đồng dân tộc, cộng đồng người

Việt Nam thì trong thời điểm hiện nay, giáo dục truyền thống đoàn kết cộng đồng

cho người học là từng bước xây dựng cho họ ý thức tập thể, đoàn kết cá nhân với

tập thể hòa chung vào các phong trào của tập thể từ lớp, đến trường và rộng ra

toàn xã hội. Qua đó trang bị cho thế hệ trẻ phương pháp hữu hiệu để giải quyết

mối quan hệ cá nhân với tập thể, cá nhân với xã hội, biết đặt lợi ích tập thể, lợi

ích xã hội lên trên lợi ích cá nhân, biết hy sinh cái riêng để phục vụ cái chung.

Bên cạnh đó, truyền thống anh dũng, bất khuất, kiên cường, truyền thống “uống

nước nhớ nguồn”... cũng có một vị trí và vai trò rất quan trọng trong đời sống xã

hội của nhân dân ta trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Do vậy, việc giáo dục thế

hệ trẻ kế thừa truyền thống dân tộc, nâng truyền thống dân tộc lên một tầm cao

mới, bổ sung và điều chỉnh các giá trị văn hóa truyền thống cho phù hợp với thời

kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu hiện nay là trách nhiệm không chỉ của nhà trường,

của xã hội mà còn là trách nhiệm của mỗi gia đình và của mỗi con người Việt

Nam.

Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi đã đề xuất dạy học tích hợp các giá

trị văn hóa truyền thống sau: Tích hợp giáo dục truyền thống yêu nước và tự hào

101

dân tộc; đồng cảm với người phụ nữ trong xã hội phong kiến; văn hóa ứng xử

trong tình bạn, tình yêu; văn hóa ứng xử trong gia đình; văn hóa ứng xử với thiên

nhiên. Việc tích hợp giá trị văn hóa truyền thống trong dạy học các tác phẩm văn

học Việt Nam thời trung đại trong chương trình Ngữ văn PT hiện hành là phương

thức dạy học có tính ưu việt, nên được ứng dụng trong các giờ dạy học hiện đại.

Mỗi tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa văn chương dựa trên câu chữ mà qua đó

còn phản ánh rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Chúng tôi hi vọng việc dạy học tích

hợp theo các chủ đề cụ thể đã đề xuất sẽ được ứng dụng rộng rãi và mang lại hiệu

quả cho cả người dạy và người học.

102

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá - Thông tin, H.

2. Nguyễn Duy Bắc (chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối

cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển Bách

khoa, H.

3. Nguyễn Lương Bằng (2011), Kết hợp truyền thống và hiện đại trong quá trình

đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Học viện

Chính trị quốc gia, H.

4. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập

kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, H.

5. Phan Kế Bính (2011), Việt Nam phong tục, Nxb Văn học, H.

6. Bộ GD&ĐT (2002), Chương trình THPT, môn Ngữ văn.

7. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền

thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị quốc gia, H.

8. Võ Kim Cương (2013), Lịch sử Việt Nam, tập 6 từ 1858-1869, Nxb Khoa học

xã hội, H.

9. Đỗ Kiên Cường (2002), Bức thư của A. Ayn Rand và đâu là nguyên tắc đạo

đức mới?, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 555, tr.94.

10. Trần Văn Giàu (1986), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,

Nxb KHXH, H.

11. Nguyễn Hồng Hà (2011), Văn hóa truyền thống dân tộc với việc giáo dục thế

hệ trẻ, Nxb Văn hóa thông tin, H

12. Dương Thu Hằng (2014), Nghiên cứu giá trị văn hóa truyền thống trong tác

phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Thư viện Trường

ĐH Sư phạm – ĐHTN.

13. Mai Hương (2000), Nguyễn Khuyến - thơ, lời bình và giai thoại, Nxb Văn hoá

thông tin, H.

103

14. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb.

Văn hóa thông tin, H.

15. Jurgen Osterhammel & Niels P. Petersson (2003), Globalization: A Short

History, translated by Dona Geyer, Princeton University Press, USA

16. Nguyễn Lộc (2009), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX,

Nxb Giáo dục, H.

17. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 10 tập một, NXB Giáo

dục.

18. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 10 tập hai, NXB Giáo dục.

19. Phan Trọng Luận (Tổng chủ biên) 2006), Ngữ văn lớp 11 tập một, NXB Giáo

dục.

20. Phương Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại

Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.

21. Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời

phong kiến thời Pháp thuộc, Nxb ĐHQG TP HCM.

22. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.

23. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ Quốc Âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, H.

24. Nhiều tác giả (2003), Nguyễn Đình Chiểu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo

dục, H.

25. Nhiều tác giả (2003), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, H.

26. Nhiều tác giả (2003), Trần Tế Xương về tá c gia và tá c phẩm, Nxb Giáo du ̣c, H. 27. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb thế giới, H.

28. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 6 tập một, NXB Giáo

dục Việt Nam.

29. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 7 tập một, NXB Giáo

dục Việt Nam.

30. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 8 tập hai, NXB Giáo

dục Việt Nam.

104

31. Nguyễn Khắc Phi (Tổng chủ biên) (2012), Ngữ văn lớp 9 tập một, NXB Giáo

dục Việt Nam.

32. Trương Hoài Phương, Giữ gìn và phá t huy giá tri ̣ truyền thống của con ngườ i Viê ̣t Nam - Một yêu cầu tất yếu khá ch quan trong sự nghiê ̣p công nghiê ̣p hó a,

hiê ̣n đại hó a, Tạp chí phát triển Nhân lực số 5 (26), 2011.

33. Dương Kinh Quốc (2006), Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858 - 1918, Trung

tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia viện sử học, Nxb Giáo dục, H.

35. Vũ Quỳnh (Bùi Văn Nguyên dịch thuật, chú thích, dẫn nhập) (1993), Tân đính

Lĩnh Nam chích quái, Nxb Khoa học xã hội, H.

36. Trần Đình Sử (2009), Con đường đổi mới căn bản phương pháp dạy học văn,

Báo Văn nghệ số ra ngày 07/3.

37. Trần Đình Sử (2008), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, H.

38. Anh Đức, Bùi Bình Thi, Bùi Khánh Thế,…(2001), Bản sắc dân tộc trong văn

hóa văn nghệ, Nxb Văn học và Trung tâm nghiên cứu Quốc học, H.

39. Trần Ngo ̣c Thêm (2009) Cơ sở Văn hó a Viê ̣t Nam, Nxb Giáo du ̣c, H. 40. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá,

Nxb Giáo dục.

41. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn

hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb KHXH, H.

42. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb Trẻ.

43. Đỗ Lai Thuý (2006), Mối quan hệ văn hoá - văn học nhìn từ lí thuyết hệ thống,

vienvanhoc.org.vn.

44. Nguyễn Ngọc Toàn, Về tính nhân văn trong văn hóa Việt Nam, Tạp chí Triết

học số 6 (193) năm 2007.

45. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1986), Lí luận văn học, tập 1,

tr.69, Nxb Giáo dục, H.

46. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (2010), Tú Xương toàn tập, Nxb Văn học, H.

47. Nguyễn Quang Uẩn (2001), Tâm lí học đại cương, NXB Đại học Quốc gia.

105

48. Văn hóa kỉ yếu hội thảo- Văn kiện đại hội XI của Đảng: Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn, Tạp chí cộng sản- Viện khoa học xã hội Việt Nam- Hà Nội 2011.

49. Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt, Trung tâm từ điển ngôn ngữ

Hà Nội.

50. Huỳnh Khái Vinh (2000), Giá trị văn hóa truyền thống, Nxb Chính trị quốc gia, H.

51. Tuấn Thành - Anh Vũ (2007), Trần Tế Xương - Tá c phẩm và lờ i bình, Nxb

Văn ho ̣c, H.

52. Tuấn Thành - Anh Vũ (tuyển chọn), (2007), Nguyễn Đình Chiểu tác phẩm và

lời bình, Nxb Văn học, H.

53. Trần Ngọc Vương: Vị trí Trần Tế Xương trong lịch sử văn học, Tạp chí Nghiên

cứu văn học, số 7-2012, tr. 26-39.

54. Trần Quốc Vượng (Chủ biên) (2010), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, H.

55. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc,

H.

56.http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNa

m/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&a

rticleId=10038370

57. http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/vhvn-nhung-van-de-

chung/2022-huynh-nhu-phuong-van-hoc-va-van-hoa-truyen-thong.html

58.http://www.vietnam.gov.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNViet

Nam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000714

&articleId=10038377

106

PHỤ LỤC

Phụ lục 1

Bảng khảo sát các giá trị văn hóa truyền thống trong tác phẩm văn học Việt

Nam trung đại trong chương trình Ngữ văn phổ thông hiện hành.

Tên tác phẩm, tác giả

Giá tri ̣ văn hó a

STT

Lớp

Ghi chú

Số tiết, phân phối chương trình

1

Lớp 6, tập 1 Đọc thêm

Tình ân nghĩa của con người và loài vật.

2

Lớp 6, tập 1

1 tiết

Tấm lòng nhân ái, thương yêu của con người.

Con hổ có nghĩa - Truyện trung đại Việt Nam Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng - Hồ Nguyên Trừng

Sgk 7, tập 1

1 tiết

3

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do

Nam quốc sơn hà (Lí Thườ ng Kiê ̣t)

Sgk 7, tập 1

Tự ho ̣c có hướ ng dẫn

Sgk 7, tập 1 Đo ̣c thêm

Sgk 7, tập 1 Đo ̣c thêm

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên

4 5 6

Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) Côn sơn ca (Nguyễn Trãi) Thiên trường vãn vọng (Trần Nhân Tông)

Sgk 7, tập 1

1 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

7

Bá nh trôi nướ c (Hồ Xuân Hương)

Sgk7, tập 1

1 tiết

8

Qua đè o Ngang (Bà huyê ̣n Thanh Quan)

Sgk7, tập 1

1 tiết

Sgk8, tập 2

1 tiết

-Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên - Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

9 10

Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến) Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn)

107

12

Sgk 8, tập 2

1 tiết

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

Nướ c Đại Viê ̣t ta (Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi

13

Sgk 8, tập 2

1 tiết

Truyền thống hiếu học

14

Sgk 9, tập 1

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người

15

SGK 9, tập 1

1 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

16

SGK 9, tập 1

Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên

17

SGK 9, tập 1

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

18

SGK 9, tập 1

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

SGK 10, tập 1

1 tiết

19

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

Luận học pháp (Nguyễn Thiếp) Chuyê ̣n ngườ i con gá i Nam Xương ( Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Chi ̣ em thú y Kiều (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Cả nh ngà y xuân (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Kiều ở lầu Ngưng Bích (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Lục Vân Tiên cứ u Kiều Nguyê ̣t Nga (Trích Lục Vân Tiên- Nguyễn Đình Chiểu) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão)

SGK 10, tập1

20

1 tiết

Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên

Cả nh ngà y hè (Nguyễn Trãi)

21

SGK 10, tập 1

2 tiết

Nhà n (Nguyễn Bỉnh Khiêm)

22

SGK 10, tập 1

1 tiết

Độc Tiểu Thanh kí ( Nguyễn Du)

Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

Đo ̣c thêm

23

SGK 10, tập 1

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuâ ̣n)

108

24

SGK 10, tập 1

Đọc thêm

Cá o tật thị chúng (Mãn Giác Thiền Sư)

25

SGK 10, tập 1

Quy hứng (NguyễnTrung Ngạn)

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

Đo ̣c thêm

26

SGK 10, tập 2

2 tiết

27

SGK 10, tập 2

2 tiết

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

28

SGK 10, tập 2

1 tiết

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

Đo ̣c thêm

29

SGK 10, tập 2

Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

30

SGK 10, tập 2

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

SGK 10, tập 2 Đọc thêm

31

32

SGK 10, tập 1

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

33

SGK 10, tập 2

2 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

34

SGK 10, tập 2

2 tiết

35

SGK 10, tập 2

1 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

Bạch Đằ ng giang phú (Trương Hán Siêu) Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) Hiền tà i là nguyên khí quốc gia (Thân Nhân Trung) Tựa “Trích diễm thi tập” (Hoàng Đứ c Lương) Hưng đạo đại vương Trần Quố c Tuấn (Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Ngô Sĩ Liên) Chuyê ̣n chứ c phá n sự đền Tả n Viên (Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Tình cả nh lẻ loi của ngườ i chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm- Đă ̣ng Trần Côn- Đoàn Thi ̣ Điểm) Trao duyên (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Chí khí anh hù ng

109

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

36

SGK 10, tập 2

Đọc thêm

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

SGK 10, tập 2 Đọc thêm

37

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

38

SGK 11, tập 1

1 tiết

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

SGK 11, tập 1

1 tiết

39

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

(Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Nỗi thương mình (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Thề nguyền (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Và o phủ chú a Tri ̣nh (Trích Thượng kinh kí sự”- Lê Hữu Trác) Tự tình II (Hồ Xuân Hương)

40

SGK 11, tập 1

1 tiết

Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên

Câu cá mù a thu (Nguyễn Khuyến)

41

SGK 11, tập 1

1 tiết

42

SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt

Thương vợ (Trần Tế Xương) Khó c Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)

43

Truyền thống yêu nước

SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm

Vi ̣nh khoa thi hương (Trần Tế Xương)

44

SGK 11, tập 1

1 tiết

45

SGK 11, tập 1

1 tiết

Bà i ca ngất ngưở ng (Nguyễn Công Trứ ) Sa hành đoản ca (Cao Bá Quát)

SGK 11, tập 1

1 tiết

46

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)

47

SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm

48

SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm

Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu) Hương Sơn phong cảnh ca (Chu Ma ̣nh Chinh)

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt -Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. -Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do. Truyền thống yêu và sống hòa hợp với thiên nhiên

110

49

SGK 11, tập 1

2 tiết

SGK 11, tập 1 Đo ̣c thêm

Truyền thống đạo lý tốt đẹp của con người Việt Truyền thống yêu nước, yêu độc lập tự do.

Cầu hiền chiếu (Ngô Thì Nhâ ̣m) Xin lập khoa luật (Nguyễn Trườ ng Tô ̣)

50

Phụ lục 2

Bảng thống kê các tác phẩm phản ánh truyền thống yêu nước, yêu độc lập- tự do

Tên tác phẩm, tác giả

STT

Lớp

Số tiết, phân phối chương trình

1 1

Sgk 7, tập 1

1 tiết

2

Sgk 7, tập 1

Tự học có hướng dẫn

3

Sgk 7, tập 1

1 tiết

4

Sgk 8, tập 2

1 tiết

5

Sgk 8, tập 2

2 tiết

6

Sgk 8, tập 2

1 tiết

7

Sgk 10, tập 1

8

Sgk 10, tập 1

2 tiết

9

Sgk 10, tập 2

2 tiết

10

Sgk 10, tập 2

Đọc thêm

11

Sgk 10, tập 2

2 tiết

Nam quốc sơn hà (Lí Thườ ng Kiê ̣t) Tụng giá hoàn kinh sư (Trần Quang Khải) Qua đè o Ngang (Bà Huyê ̣n Thanh Quan) Thiên đô chiếu (Lí Công Uẩn) Hi ̣ch tướ ng sĩ (Trần Quố c Tuấn) Nướ c Đại Viê ̣t ta (Trích Đại cá o bình Ngô - Nguyễn Trãi) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão) Quốc tộ (Đỗ Pháp Thuâ ̣n) Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Bạch Đằ ng giang phú (Trương Hán Siêu) Đại cáo bình Ngô

12

Sgk 10, tập 2

2 tiết

111

(Nguyễn Trãi)

13

Sgk 11, tập 1

1 tiết

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)

14

Sgk 11 , tập 1

Đọc thêm

Chạy giặc (Nguyễn Đình Chiểu)

Phụ lục 3

Bảng thống kê các tác phẩm văn học Việt Nam trung đại phản ánh truyền thống

nhân đạo

STT Lớp Tên tác phẩm, tác giả

Số tiết, phân phối chương trình

1 Sgk 7, tập 1 1 tiết

2 Sgk 7, tập 1 1 tiết

3 Sgk 9, tập 1 2 tiết

4 Sgk 9, tập 1 1 tiết Bá nh trôi nướ c (Hồ Xuân Hương) Bạn đến chơi nhà (Nguyễn Khuyến) Chuyê ̣n ngườ i con gá i Nam Xương (Nguyễn Dữ) Chi ̣ em Thú y Kiều (Trích “Truyê ̣n Kiều”- Nguyễn Du)

Kiều ở lầu Ngưng Bích 5 Sgk 9, tập 1 2 tiết

6 Sgk 9, tập 1 2 tiết

7 Sgk 10, tập 1 1 tiết (Trích “ Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Lục Vân Tiên cứ u Kiều Nguyê ̣t Nga (Trích “ Lục Vân Tiên” - Nguyễn Đình Chiểu) Thuật hoài (Pha ̣m Ngũ Lão)

8 Sgk 10, tập 1 1 tiết

9 Sgk 10, tập 1 Đọc thêm Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du) Cá o tật thị chứng (Mãn Giác Thiền Sư)

10 Sgk 10, tập 1 Đọc thêm Quy hứng (Nguyễn Trung Ngạn)

112

11 Sgk 10, tập 2 2 tiết

12 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm

13 Sgk 10, tập 1 2 tiết

14 Sgk 10, tập 1 2 tiết

15 Sgk 10, tập 2 2 tiết

16 Sgk 10, tập 2 1 tiết

17 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm

18 Sgk 10, tập 2 Đọc thêm

19 Sgk 10, tập 2 1 tiết

20 Sgk 11, tập 1 1 tiết Hưng đạo đại Vương Trần Quốc Tuấn (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Thá i sư Trần Thủ Độ (Trích Đại Việt sử kí toàn thư- Ngô Sĩ Liên) Chuyê ̣n chứ c phá n sự đền Tản Viên (Trích Truyền kì mạn lục- Nguyễn Dữ) Tình cả nh lẻ loi của ngườ i chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm- Đă ̣ng Trần Côn- Đoàn Thi ̣ Điểm) Trao duyên (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Chí khí anh hù ng (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Nỗi thương mình (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Thề nguyền (Trích Truyê ̣n Kiều- Nguyễn Du) Và o phủ chú a Tri ̣nh ( Trích Thượng kinh kí sự- Lê Hữu Trác) Tự tình II (Hồ Xuân Hương)

21 Sgk 11, tập 1 1 tiết

22 Sgk 11, tập 1 Đọc thêm Thương vợ (Trần Tế Xương) Khó c Dương Khuê (Nguyễn Khuyến)

23 Sgk 11, tập 1 Đọc thêm

24 Sgk 11, tập 1 1 tiết Vi ̣nh khoa thi hương (Trần Tế Xương) Bà i ca ngất ngưởng

113

25 Sgk 11, tập 1 1 tiết

26 Sgk 11, tập 1 1 tiết (Nguyễn CôngTrứ ) Sa hành đoản ca (Cao Bá Quát) Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu)