BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Bích Vân

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

TRONG TẬP BẮC HÀNH TẠP LỤC

CỦA NGUYỄN DU

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

TP. Hồ Chí Minh, Năm 2003

LỜI CẢM ƠN

Phòng khoa học-công nghệ sau đại học

Tập thể thầy cô khoa ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM, Đại học Khoa

học Xã hội & Nhân văn, đại học Sư phạm Hà Nội.

Ban giám hiệu cùng đồng nghiệp nơi công tác-Trường PTTH chuyên Lê Hồng

Phong đã giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên

cứu.

Chân thành cảm ơn Cô Lê Thu Yến, người thầy lớn đã giúp đỡ, động viên tôi rất

nhiều để tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Phan Thị Bích Vân

3

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... 3

MỤC LỤC ................................................................................................................. 4

PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............................................................................................... 6

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ ...................................................................................................... 7

2.1.Về văn bản ............................................................................................................ 7

2.2.Về các công trình nghiên cứu ............................................................................. 10

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................................ 14

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU ....................................................................................... 15

4.1.Về đối tượng khảo sát ......................................................................................... 15

4.2.Về nội dung ......................................................................................................... 15

5.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN ..................................................................................... 16

CHƯƠNG 1: BẮC HÀNH TẠP LỤC - TẬP THƠ ĐI SỨ CỦA NGUYỄN DU

..................................................................................................................................18

1.1.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU .............................................. 18

1.2.THƠ ĐI SỨ ............................................................................................................. 26

1.2.1.Tình yêu thiên nhiên và tình cảm gắn bó với con người. ................................ 27

1.2.2.Khí phách và trách nhiệm của công dân Đại Việt ở Bắc Quốc ....................... 38

1.2.3.Tình yêu của sứ giả đối với quê hương đất nước. ........................................... 42

1.3.BẮC HÀNH TẠP LỤC - NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU ................................. 47

1.3.1.Nguyễn Du với nhân vật văn hóa - lịch sử Trung Quốc .................................. 48

1.3.2.Nguyễn Du với phụ nữ .................................................................................... 66

4

1.3.3.Nguyễn Du vối người nghèo ............................................................................ 74

CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP

BẮC HÀNH TẠP LỤC CỦA NGUYỄN DU .......................................................82

2.1.KHÁI NIỆM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT ..................................................... 82

2.2.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI .............................................. 83

2.3.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP BẮC HÀNH

TẠP LỤC ...................................................................................................................... 87

2.3.1.Con người yêu thương ..................................................................................... 89

2.3.2.Con người đời thường .................................................................................... 116

2.3.3.Con người vũ trụ ............................................................................................ 132

PHẦN KẾT LUẬN ...............................................................................................150

PHẦN PHỤ LỤC CHÚ THÍCH .........................................................................153

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................155

5

PHẦN MỞ ĐẦU

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Không biết chính xác tự bao giờ cái tên Nguyễn Du đã trở thành thân thuộc đối với

mọi người - không chỉ người dân vùng Tiên Điền quê ông và cũng không chỉ người Việt

Nam chúng ta. Hai trăm năm có lẻ là khoảng thời gian không ngắn cho một kiếp người

nhưng là thời gian cần thiết cho sự thẩm định giá tri của tác phẩm văn chương - những

sản phẩm tinh thần cao quý của con người. Và trải qua hơn hai trăm năm với biết bao đổi

thay thế sự, những trang thơ Nguyễn Du vẫn đậm sâu trong lòng người đọc như một minh

chứng cho sức sống trường tồn của chúng, như một thách thức đối với thời gian.

Nguyễn Du và những vần thơ ông vì thế từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu

của không ít tác giả trong và ngoài nước với nhiều công trình nghiên cứu có giá trị. Hẳn

nhiên "Truyện Kiều" chiếm được sự quan tâm ưu ái hàng đầu vì sức hấp dẫn độc đáo của

nó. Người ta đọc 'Truyện Kiều" để "thương con Kiều quá" như các mẹ vùng quê hay để

nghĩ suy "Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc", để tìm thấy ở đó "Những điều trông

thấy mà đau đớn lòng" hay tấm lòng "nghĩ suốt nghìn đời" của thi.hào họ Nguyễn,...Có

nhiều lí do để đọc Kiều, có nhiều giá trị mới mẻ được phát hiện sau mỗi lần giở lại những

trang Kiều, và một đôi khi vì sức hút mãnh liệt của Kiều mà có người chỉ còn nhớ một

Nguyễn Du tác giả "Truyện Kiều". Hai trăm năm mươi bài thơ chữ Hán của ông không

sánh bằng ba nghìn hai trăm năm mươi bốn câu Kiều chăng? Tất nhiên không thể làm

phép so sánh như thế, bởi sự so sánh bao giờ cũng khập khiễng và đó cũng không phải là

lí do để nhiều người vô tình với thơ chữ Hán Nguyễn Du. "Truyện Kiều" gần gũi thân

thuộc với mọi tầng lớp trong xã hội, người không có một chữ bẻ đôi vẫn có thể đọc thuộc

Kiều do ngôn ngữ - vần điệu và thể loại quen thuộc từng gắn bó với họ qua ca dao dân ca

họ ngâm ngợi hàng ngày. Còn thưởng thức thơ chữ Hán đòi hỏi ở người đọc một trình độ

nhất định, một trường thẩm mỹ nhất định, một khả năng cảm và nghĩ nhất định - vượt lên

trên yêu cầu đối với người đọc giải trí bình thường. Và làm một hành trình ngược ta thấy

rằng sở dĩ có những yêu cầu ấy là vì thơ chữ Hán chính là phần tinh huyết được Nguyễn

Du chăm chút kỹ, chăm chút không phải để giãi bày "mua vui cưng được một vài trống

6

canh" cho người thiên hạ mà chỉ là để bày tỏ lòng mình, tự giãi bày với chính mình và

một đôi khi giãi bay với vài người ông coi là "đồng thuyền đồng hội". Vì thế tìm hiểu thế

giới nghệ thuật thơ Nguyễn Du không thể bỏ qua mảng thơ chữ Hán, nơi chứa đựng

những trăn trở suy tư, những triết lý, những tư tưởng mà thi sĩ họ Nguyễn từng ấp ôm

suốt một đời.

Chữ Hán là một thứ chữ tạo hình, bản thân nó mang những ký hiệu tượng trưng gợi

nghĩa. Mỗi bài thơ chữ Hán là một không gian mang tính hội họa, tính ấn tượng và gợi

mở về thế giới hiện thực - cảm xúc. Chính vì lý do đó thơ chữ Hán khó đến được với

người đọc mặc dù với Nguyễn Du, thơ chữ Hán mới chính là sự thể hiện cuộc đời của

bản thân mình, những tư tưởng tình cảm, những day dứt, vò xé trong chính tâm hồn mình

một cách trực tiếp, chứ không phải là một cách gián tiếp như trong Truyện Kiều.

Chọn đề tài "Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc hành tạp lục của

Nguyễn Du" tác giả biết rằng đây không phải là một công việc dễ dàng. Và chỉ có lòng

yếu thích và say mê thôi thì chưa đủ. Bởi vì hình tượng nghệ thuật bao giờ cũng mang

tính quan niệm và nó gắn liền với thế giới quan, với quan niệm nghệ thuật, với cách nhìn

nhận lí giải về con người của tác giả. Tầm cao, độ sâu của hình tượng nghệ thuật về con

người trong tác phẩm luôn là một thách thức đối với người nghiên cứu

Với trình độ và đặc biệt là vốn chữ Hán có hạn, người viết đến với đề tài này bằng

tinh thần học hỏi, mong muốn thử sức mình để khả đĩ góp thêm chút gì nhỏ bé trong quá

tình tìm hiểu về Nguyễn Du, để hiểu thêm về tâm tình, tư tưởng của thi nhân trong những

giờ phút khá thảnh thơi, thoát khỏi tai mắt bọn nịnh thần, khỏi những eo sèo của cuộc

sống và tìm thấy ở hình tượng con người nghệ thuật trong "Bắc hành tạp lục" những giá

trị đã làm nên một Nguyễn Du bất tử như ngày hôm nay.

2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

2.1.Về văn bản

Do cần đi sâu vào nguyên bản để tìm hiểu kỹ về nội dung nghệ thuật nên chúng tôi

phải khảo sát các văn bản đã có:

7

1." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh. Sách gồm

102 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du được chia theo ba thời kỳ:

- Thời kỳ làm quan nhà Lê gồm 28 bài.

- Thời kỳ làm quan triều Nguyễn gồm 24 bài.

- Thời kỳ đi sứ Trung Quốc gồm 50 bài.

2." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Lê Thước, Trương Chính. Sách gồm 249 bài thơ

chia theo tên của từng tập thơ. Riêng tập Thanh Hiên được chia làm ba giai đoạn:

- "Mười năm gió bụi" (1786- 1795) gồm 27 bài.

- " Dưới chần núi Hồng" (1796 - 1802) gồm 33 bài.

- " Làm quan ở Bắc Hà" ( 1802 - 1804) gồm 18 bài.

Như vậy Thanh Hiên thi tập" gồm 78 bài, Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài và Bắc

Hành tạp lục gồm 131 bài.

3." Thơ chữ Hán Nguyễn Du" cũng của các cụ Lê Thước, Trương Chính, về cơ bản,

cuốn này cũng giống cuốn trên, được in lại lần thứ hai, và bản in lại lần hai này không có

phần phụ lục chữ Hán.

4.“Tuyển tập thơ Hán Việt” của Đông Xuyên, nhà xuất bản Cảo Thơm Sài Gòn năm

1972. Nguyễn Hữu Lê viết lời tựa. Sách này chọn lọc một số tác phẩm tiêu biểu của

nhiều nhà thơ. Trong đó có thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Sách có 18 bài thơ chữ Hán của

ông.

5."Tố Như thi" do Quách Tấn dịch nghĩa và dịch thơ. Thi Vũ trình bày bìa. Nhà

xuất bản An Tiêm, Sài Gòn năm 1973, sách gồm 72 bài, được chia theo từng tập thơ.

Thanh Hiên Thi tập 30 bài, Nam Trung thi tập 20 bài, Bắc hành tạp lục 22 bài. Riêng tập

Thanh Hiên tác giả chia ra 3 thời kì:

- Mười năm đất khách (1786 - 1795)

8

- Sáu năm quê nhà (1796 - 1802)

- Làm quan Bắc Hà (1802 - 1804)

6."Thơ chữ Hán Nguyễn Du" do Đào Duy Anh sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích,

Nguyễn Kim Hưng hoàn chỉnh bản dịch, biên soạn. Sách được chia theo từng tập thơ, tập

Thanh Hiên gồm 79 bài, Nam Trung tạp ngâm 40 bài, Bắc hành tạp lục 130 bài. Sách

không có phụ lục chữ Hán. Phần chú thích để riêng phía cuối sách. Mục lục ghi theo tên

từng tập thơ.

7.Nguyễn Du toàn tập gồm 2 tập, tập 1 thơ chữ Hán do Mai Quốc Liên phiên âm,

dịch nghĩa chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Luân, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu

Yến. Sách được chia theo từng tập thơ, Thanh Hiên gồm 78 bài, Nam Trung gồm 40 bài,

Bắc Hành 132 bài. Riêng trong tập Bắc Hành có thêm một bài do Giáo sư Mai Quốc Liên

phát hiện, đó là bài "Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ li". Sách này được biên tập kĩ càng,

công phu hơn, có phần phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ, chú thích. Sách có kèm bản đồ đi

sứ, bản tấu trình của Nguyễn Du.

8."192 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du "do Bùi Hạnh cẩn biên dịch và chú thích.

Điều khác biệt của cuốn sách này là chỉ do một người lựa chọn, biên soán, dịch thuật.

Sách này cũng có hướng đi riêng. Không có phần chữ Hán, không có phần dịch nghĩa, chỉ

có phần phiên âm, dịch thơ và chú thích.

9."Nguyễn Du - Tác phẩm và lịch sử văn bản" của Thạch Giang và Trương Chính,

nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001. Cuốn sách này thừa hưởng những thành

tựu nghiên cứu của những nhà Kiều học, nhà Hán học từ trước đến nay. Cuốn sách này ra

đời muộn nhất nhưng hai tác giả đã có nhiều kỳ công rà soát, đối chiếu chặt chẽ để tránh

những sai sót trước đây.

Phần thơ chữ Hán được thực hiện trên cơ sở văn bản văn học, 1965, có bể sung, sửa

chữa lại sau khi đã tham khảo thêm bản dịch chép tay của các cụ Nguyễn Văn Bách,

Phan Trọng Bình, Thạch Can, Trần Hữu Chương, Nguyễn Mỹ Tài gửi cho toàn tập. Các

bài thơ chữ Hán được sắp xếp lại hợp lý hơn để tiện việc học tập, nghiên cứu. Phần dịch

9

nghĩa được sửa chữa. Phần dịch thơ cũng được thay bằng những bài dịch theo nguyên thể

của các cụ Phạm Khắc Hoan, Lê Thước, Ngô Ngọc Can.

2.2.Về các công trình nghiên cứu

Lịch sử vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều rất rộng lớn, đề cập đến nhiều phương diện.

Còn thơ chữ Hán Nguyễn Du ít được giới nghiên cứu quan tâm nên những bài viết về thơ

chữ Hán không nhiều.

Tuy vậy, vấn đề này cũng đã có một số bài viết đề cập đến. Những ý kiến này xoay

quanh đến tình cảm, suy nghĩ của nhân vật trữ tình trong thơ, có khi sâu hơn là những lời

thẩm bình, đánh giá nội dung tư tưởng, tình cảm của tác phẩm. Hầu hết những công trình

nghiên cứu lớn, nhỏ đều có sự nhìn nhận, đánh giá con người thông qua hai dạng trên.

Nhưng, những đánh giá trực tiếp dưới một điểm nhìn khái quát, tổng hợp toàn bộ

sáng tác của Nguyễn Du, dựa trên quan niệm nghệ thuật của tác giả về con người thì xuất

hiện không nhiều và đánh giá chưa đầy đủ: hoặc chỉ nói đến một khía cạnh, hoặc nói quá

khái quát, hoặc chỉ để nhấn mạnh cho một nội dung tư tưởng, tình cảm nào đó...

Ý kiến sớm nhất và có nói đến những biểu hiện của con người trong thơ Nguyễn Du

là của Hoài Thanh, bài được đăng trên tạp chí văn nghệ, tháng 3 năm 1960, có tựa đề: "

Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán". Trong bài viết này, ông có nói đến

những nỗi niềm không nói ra được của Nguyễn Du: "Qua Truyện Kiều, ta thấy Nguyễn

Du thương xót như thế nào dưới ngòi bút Nguyễn Du, Nguyễn Du đã đi sâu như thế nào

trong đời sống cay cực của con nhà kẻ khó. Đọc thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng vậy.

Đặc biệt có hai bài rất hay về phương diện này là bài Thái Bình mại ca giả, và Sở Kiến

hành, cả hai bài đều sáng tác trên con đường đi sứ ". Bài viết còn đưa ra những hình ảnh

chân thật và cảm động của ông già mù hát rong:

"Khẩu phún bạch mạt thủ toan xúc

Khước tọa liễm huyền cảo chung khúc"

(Miệng sùi bọt mép, tay mỏi rã rời,

10

Ông già ngồi xuống, xếp đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong)

Ông còn dựng lên bức tranh ảm đạm của mấy mẹ con người hành khất vì đói phải

lưu lạc tha hương, rồi sẽ chết bỏ thây nơi ngòi rãnh

"Mẫu tử bất túc tuất

Phả nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống tại tâm đầu

Thiên nhật giai vị hoàng"

(Mẹ chết thôi đã đành

Tiếng vỗ con đứt ruột

Đây lòng mẹ dày nát

Mặt trời cũng ùa vàng)

Bài viết của Hoài Thanh còn đưa ra hình ảnh con người đau khổ qua những hình

tượng người nghèo, người ăn xin, người gian ngoan qua những hình tượng Tô Tần,

Thượng quan Ngân Thượng Như vậy, với những nhận định ban đầu, Hoài Thanh đã khái

quát được hình tượng con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, chỉ về mặt nội dung, và

chỉ lướt qua chứ chưa đào sâu vấn đề.

Sau đó không lâu, năm 1966, Xuân Diệu trong bài viết " Thi hào dân tộc Nguyễn

Du " cung có những nhận xét về con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du như sau:

"Trong thơ chữ Hán - trong Vãn chiêu hồn cũng có điểm như thế - nó không phải là

tiểu thuyết, là kịch nữa mà thuần là tâm tình bản thân Nguyễn Du đã để con người của

mình trong thơ, đã cho ta thấy Tố Như, Tố Như bên sau cái vỏ ông quan, ông chánh sứ. Ở

đây, chúng ta quen thuộc với Tố Như, có thể nói là chúng ta vào dưới da của Nguyễn Du.

Thơ chữ Hán (và Văn chiêu hồn) soi cho chúng ta hiểu thêm Truyện Kiều, hai tác phẩm

trên là cho chúng ta yêu thêm Nguyễn Du, do vậy càng yêu Truyện Kiều hơn nữa".

11

Trong bài viết này, Xuân Diệu đưa ra một cái nhìn tương đối về con người Nguyễn

Du trong thơ chữ Hán. Đến ba tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du, Xuân Diệu đã đề cập khá

toàn diện. Ông bày tỏ sự nặng lòng của mình với người trung thần Khuất Nguyên, Hàn

Tín, Văn Thiên Tường, Đỗ Phủ... mấy mẹ con người hành khất, người hát rong mù...

Xuân Diệu cũng nhắc đến sự căm phẫn của Nguyễn Du trước toàn bộ thực trạng xã

hội lúc bấy giờ. Đó là sự nham hiểm, tàn ác của những tên quan, của những kẻ "đi ra xe

ngựa, về vênh váo ".

Như vậy, so với nhận định đầu tiên, bài viết của Xuân Diệu đã phần nào khái quát

thêm nhiều loại con người trong thơ chữ Hán. Ông viết: "Nguyễn Du không phải là con

người hành động mà là con người tư tưởng. Con người ấy tiếp nhận tất cả mọi cay đắng

trong đời với một thái độ lặng lẽ chịu đựng. Nhưng bên trong con người đó, một cuộc đấu

tranh ngấm ngầm chống lại mọi nguy cơ sa ngã vẫn diễn ra dai dẳng không ngừng. Và so

với người khác, những nỗi cực nhọc mà cọn người ấy chịu còn phải nhân lên gây mấy

lần, vì nó dồn nén, súc tích lại thành những nỗi đau vò xé tâm can chứ không được giải

phóng ra thành hành động".

Và ở một chỗ khác: "Con người ấy chỉ biết nâng đau khổ lên thành triết lý, và rồi

quẩn quanh trong triết lý đến nỗi không nhìn thấy nguyên nhân mọi nỗi khổ hiện thực của

mình ".

Rõ nhất và có giá trị nhất vẫn là lời nhận xét của Nguyễn Huệ Chi trong bài

"Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán".

Ông viết: "Hình tượng một con người đi trong bóng đêm dày đặc, hãi hùng, bị gió

lạnh đồn cả vào mình, và cứ mong cho chóng sáng mà không thấy sáng, thật đã phản ánh

đúng cái cảm nghĩ tuyệt vọng của Nguyễn Du về sự mất phương hướng. Đây không chỉ

là hình ảnh tự họa chính xác nhất của nhà thơ mà còn là hình ảnh có một ý nghĩa xã hội

rộng lớn: Tấn bi kịch lịch sử ở giai đoạn cực kỳ thối nát, tan rữa. Ý nghĩa nhận thức đồng

thời cũng là ý nghĩa nhân đạo trong phần lớn những bài thơ chữ Hán nói về mình của

Nguyễn Du, chính là như vậy.

12

Bài viết còn chú trọng khai thác hình thức nghệ thuật:

"Vì thế, trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, các hình tượng nhân vật đối lập cứ xuất

hiện theo cái thế song song tương phản, thành từng cặp không rời."

"Mặt khác, đứng về kết cấu của hình tượng thơ, Nguyễn Du thường ít khi để cho

những nhân vật phản diện đứng riêng biệt một mình. Thông thường, chúng vẫn được hình

dung gắn sát với nhân vật chính diện ", " Nhưng đọc thơ ông, từ những bài nói về người

nghèo khổ đến những bài nói về giai nhân, những anh hùng, rất tự nhiên, một sợi dây liên

tưởng cứ nối liền từng cặp hình tượng nhân vật đối lập lại".

Đào Xuân Quý có bài " Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán "đăng trên báo

văn nghệ tháng 11 năm 1965 cũng có nói đến con người. Tuy chưa đề cập đến vân đề liên

quan tới cảm xúc, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật trữ tình trong thơ nhưhg bài viết đã

đưa ra những nhận xét, bình luận, đánh giá nội dung tư tưởng, tình cảm của tác giả.

Mai Quốc Liên trong lời nói đầu cuốn " Nguyễn Du toàn tập " thì nhận định:

"Nhưng cũng từ cái nhìn đó mà Nguyễn Du thâm cảm và biểu dương hết lời những

nhân vật và quyền lực, đứng về phía con người, đất nước và nhân dân"

Thêm vào đó, Mai Quốc Liến còn phân tích những đặc thù trong thi pháp thơ chữ

Hán Nguyễn Du. Ông viết: "Hàng trăm câu như thế, hàng trăm câu đối nghịch tài hoa mà

sâu sắc như thế, làm nên thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, một thế giới tràn ngập

những suy tư bạc tóc về nhân thế".

Còn "Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán của Trương Chính" chỉ nói đến nội

dung các tập thơ chứ chưa đi sâu vào hình tượng nghệ thuật về con người.

Đến năm 1999, Lê Thu Yến lần đầu tiên cho ra đời chuyên luận "Đặc điểm nghệ

thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du ".Đây là công trình công phu và có giá trị. Chương II và

chương III đi sâu khám phá thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, đã khái quát

được các biểu hiện hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ. Trong đấy tác giả đã

phát hiện ra hình tượng con người âu lo, con người lãng mạn, con người đau khổ. Đó là

13

những nét lớn tập trung trong cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du qua toàn bộ thơ chữ

Hán.

Như vậy, từ chuyên luận này, chúng ta có một cái nhìn khá toàn diện về thơ chữ

Hán Nguyễn Du. ở những công trình trước, từ những nhận xét của mình, các tác giả chỗ

này hay chỗ khác đều có điểm qua cái nhìn nghệ thuật. Còn chuyên luận này cho ta thấy

một cách khái quát cái hình tượng nghệ thuật về con người trong suốt ba tập thơ chữ Hán

của Nguyễn Du, chứ không chỉ riêng ở tập thơ nào.

Do tính chất, mục đích và phạm vi các công trình, các bài viết trên mà các nhà

nghiến cứu chưa đi sâu vào cái nhìn nghệ thuật về con người trong thơ chữ Hán Nguyễn

Du, đặc biệt là hình tượng con người nghệ thuật trong Bắc hành tạp lục.

Nội dung trọng tâm của đề tài mà chúng tôi thực hiện là: "Hình tượng nghệ thuật về

con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du " trong tập Bắc Hành tạp lục - tập thơ viết trên

đường đi sứ chứ không phải toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du, tất cả các bài viết trên,

đặc biệt là công trình "Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du" của tác giả Lê Thu

Yến là một trong những cơ sở, tiền đề giúp chúng tôi thực hiện tốt công trình này.

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong luận văn này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng

hợp, phương pháp lịch sử và phương pháp so sánh, phân loại - thống kê.

Bắc Hành tạp lục là một tập thơ, do đó khi tiến hành nghiên cứu, chúng tôi sẽ cố

gắng khảo sát trên văn bản từng bài, hệ thống hóa các tác phẩm nhỏ trong một tác phẩm

lớn, quan sát chúng như những chỉnh thể. Qua đó có thể rút ra được tính thống nhất cũng

như một số đặc điểm mâu thuẫn trong tình cảm và trong tư tưởng Nguyễn Du. Điều này

sẽ được soi rọi bằng chính cuộc đời tác giả để tìm ra nguồn mạch của tư tưởng Nguyễn

Du thể hiện trong Bắc Hành. Đồng thời chúng tôi cũng tiến hành so sánh, đối chiếu nội

dung tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật của các bài thơ trong Bắc Hành tạp lục với các tác

giả khác cũng làm trong thời gian đi sứ. Cuối cùng, chúng tôi sẽ tổng hợp, khái quát lại

tất cả những điều đã phân tích và đối chiếu để tìm ra hình tượng nghệ thuật về con người

14

trong tập thơ đi sứ của Nguyễn Du. Dưới góc độ thi pháp học, chúng tôi sẽ tìm hiểu quan

niệm nghệ thuật của tác giả thông qua hình tượng con người, nhân vật có mặt trong tác

phẩm của ông. Vì là hình tượng con người nhân vật trong thơ trữ tình nên chúng ta có thể

xem xét ở nhiều góc độ với nhiều mối quan hệ: cái tôi với bản thân, cái tôi với mọi

người, cái tôi với thế giới tự nhiên bên ngoài ...

4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1.Về đối tượng khảo sát

Những tư liệu về thơ chữ Hán Nguyễn Du mà chúng tôi xin được phép sử dụng để

nghiên cứu là cuốn Nguyễn Du toàn tập của Mai Quốc Liên, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu

Yến.

4.2.Về nội dung

- Bổ sung, cụ thể hóa quan điểm về quan niệm nghệ thuật của các tác giả đi trước.

- Dựa vào một số công trình nghiên cứu sẵn có, phát hiện ra điều mà các tác giả đi

trước chưa làm, chưa nghiên cứu cụ thể về quan niệm con người nghệ thuật trong thơ chữ

Hán nói chung và trong tập thơ Bắc Hành tạp lục nói riêng.

- Đưa ra một hướng đi mới về cách tiếp cận hình tượng con người nghệ thuật trong

thơ ca và trong nghiên cứu văn học nói chung. Đó là cách tiếp cận hệ thống - cấu trúc,

cách tiếp cận vấn đề trong mối liên quan với đặc trưng thể loại và cách tiếp cận văn hóa

học.

Được viết ương quá trình đi sứ ở Trung Hoa, Bắc Hành tạp lục sẽ là cánh cửa để

cho ta tiếp cận với con người nghệ thuật Nguyễn Du. Và tuy chỉ là những vần thơ

Nguyễn Du viết cho riêng mình với những đề tài thật xưa cũ, nhưng ngòi bút của đại văn

hào đã khiến cho các thi phẩm ấy xứng đáng được lưu truyền thiên cổ. Tình thương của

Nguyễn Du đã làm xóa mờ đi mọi sự khác biệt hoàn cảnh lịch sử, địa lý, mọi khoảng

cách không gian và thời gian. Bên cạnh đó, với Bắc Hành, ta còn có thể thấy được tầm

kiến thức sâu rộng của Nguyễn Du về lịch sử, về văn hóa, văn học và cả lòng người, hiểu

được vì sao Nguyễn Du không chỉ được tôn vinh là một thi nhân mà còn được coi là một

15

nhà văn hóa lớn. Ông xứng đáng với danh hiệu đó bởi ông "có con mắt nhìn thấu sáu cõi,

tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời". Lời nhận xét của Mộng Liên Đường xưa kia không biết có

làm Nguyễn Du ngậm cười nơi chín suối, khi đến nghìn năm sau có người hiểu mình đến

như vậy.

5.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN

Do những đặc điểm về đối tượng, nội dung, phương pháp nghiên cứu ... như đã nêu

trên, luận văn "Hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc Hành tạp lục của Nguyễn

Du có kết cấu như sau:

Phần Mở Đầu

1.Lý do chọn đề tài

2.Lịch sử vấn đề

3.Phương pháp nghiên cứu

4.Phạm vi nghiên cứu

5.Bố cục luận văn

Phần Nội Dung

Chương 1. Bắc Hành tạp lục - Tập thơ đi sứ của Nguyễn Du

1.1.Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Du

1.2.Thơ đi sứ

1.3.Bắc Hành tạp lục - Những nội dung chủ yếu

1.3.1.Nguyễn Du với những nhân vật văn hóa - lịch sử

1.3.2.Nguyễn Du với người phụ nữ

1.3.3.Nguyễn Du với người nghèo

Chương 2: Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc Hành tạp lục của

Nguyễn Du

16

2.1.Khái niệm hình tượng nghệ thuật

2.2.Hình tượng nghệ thuật về con người

2.3.Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc Hành tạp lục

2.3.1.Con người yêu thương

2.3.2.Con người đời thường

2.3.3.Con người vũ trụ

Phần kết luận

17

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: BẮC HÀNH TẠP LỤC - TẬP THƠ ĐI SỨ CỦA

NGUYỄN DU

1.1.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU

Nguyễn Du sinh năm 1765 tại phường Bích Câu (Thăng Long) quê quán Tiên Điền,

huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con trai tể tướng Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị

Tần.

Mười năm đầu của cuộc đời Nguyễn Du trôi qua êm đềm và có phần tẻ nhạt trong

dinh cơ của cha ở phường Bích Câu, Thăng Long. Hồn thơ Nguyễn Du đã được nảy nở

và nuôi dưỡng chính tại nơi đây, trong không khí và nếp sống của một gia đình Nho học,

có truyền thống văn chương, mấy đời làm quan to. Bước đường đời của Nguyễn Du

chừng như đã được ấn định trước theo truyền thống gia đình như cha, như anh: đi học,

đậu cao, làm quan, vinh hoa, phú quí ... như về sau này ông đã có dịp hoài vọng:

"Tiên chu kích thủy thần long đấu

Bảo cái phù không thụy hạc phi"

(Giang Đình hứa cảm - Thanh Hiên thi tập)

(Thuyền tiên cuộn nước như rồng thần đấu nhau

Chiếc lọng quí phấp phới trên không như chim hạc lành bay)

Không chỉ công thành danh toại, gia đình Nguyễn Du còn có truyền thống văn

chương. Theo cuốn "Nguyễn Du, tác phẩm và lịch sử văn bản" của Trương Chính và

Nguyễn Thạch Giang thì họ Nguyễn Tiên Điền người nào cũng hay thơ. Nguyễn Nghiễm

có hai tập "Quân trung liến vận và Xuân đình tạp ngâm". Bài phú ông làm trong một kỳ

thi ứng chế, tự vua ra đầu bài và chấm thi, đề là "Khổng Tử mộng Chu Công" rất được

truyền tụng.

18

Nguyễn Khản không có tập thơ riêng nào. Thơ ông được chép trong quyển "Nguyễn

Gia Phong vận tập". Ông là một trong những người địch Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần

Côn. Năm 1780 xảy ra vụ "Mật án Canh Tý". Trịnh Sâm lập Cán thay Tông làm thế tử.

Nguyễn Khản giúp Trịnh Tông nhưng việc bị bại lộ, Khản bị giam. Khi bị bắt, ông có

làm một bài thơ tự tình bằng quốc âm. Trịnh Sâm xem cảm động, tha tội cho ông (1).

Nguyễn Nể cũng là người hay thơ. Hai người cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, nhưng tuổi

thì xấp xỉ bằng nhau là Nguyễn Thiện và Nguyễn Hành thường cùng nhà thơ ngâm vịnh.

Hai người con gái Nguyễn Khản là Nguyễn Thị Bành và Nguyễn Thị Đài đều giỏi thơ

quốc âm. Thêm vào đó, Nguyễn Du có điều kiện học và đọc rất nhiều sách thánh hiền từ

bé, được tiếp xúc với những làn điệu dân ca quan họ, những truyền thuyết thần kỳ của

dân tộc mình thông qua người mẹ rất mực dịu hiền xứ Kinh Bắc, một xứ sở nổi tiếng về

nếp sống giàu có và lịch lãm. Nhiữig tuổi thơ tươi đẹp ấy không kéo dài được bao lâu.

Năm Nguyễn Du tròn mười tuổi đã có hai biến cố lớn xảy ra: Nguyễn Trụ, anh cùng mẹ

với Nguyễn Du mắc bệnh mất ở Kinh giữa tuổi mười tám. Tiếp đến, Nguyễn Nghiễm

cũng qua đời. Hai cái tang của gia đình như cánh cửa khép lại thời vàng son của gia đình

họ Nguyễn và cũng kết thúc luôn thời thơ ấu ấm êm của ông.

Mồ côi cả cha lẫn mẹ, Nguyễn Du về ở với người anh cả là Nguyễn Khản. Khản

học giỏi, thông minh, đỗ đạt sớm, làm quan to, được chúa Trịnh quí mến và lại là con

người tài hoa, phong lưu rất mực. Sách "Vũ Trung tùy bút" chép: "Nguyễn Khản ham

thích hát xướng, gặp khi con hát tang trở cùng cứ cho tiền bắt hát trong nhà không lúc

nào bỏ tiếng tơ, tiếng trúc ..." (2)

Hoàn cảnh ấy, cuộc sống ấy đã sớm in vào hồn thơ măng tơ của Nguyễn Du nhiều

ấn tượng sâu đậm. Cũng có thể đây chính là khởi sự của lòng thương cảm đặc biệt của

ông đối với phụ nữ nói chung và ca kỹ nói riêng. Cũng trong thời gian này, Khản thăng

giáng bất thường, cho đến khi kiêu binh nổi loan thì trốn lên Hà Sơn Bình với Nguyễn

Điều rồi sau đó hai anh em phải bỏ về Nghệ Tĩnh (1784).

Khi Tây Sơn ra Bắc, Nguyễn Khản cũng bôn ba theo chúa Trịnh vua Lê một phen

nữa nhưng rồi bị bệnh và chết năm 1786. Nguyễn Điều cũng đã chết mấy tháng trước đó.

19

Cùng với sự sụp đổ của chế độ Lê - Trịnh, gia đình họ Nguyễn cũng dần dần suy sụp

theo. Và đến khi ba anh em Nguyễn Du, Nguyễn Nề, Nguyễn Ức không theo kịp Lê

Chiêu Thống đành quay lại, mỗi người đi một nơi.

Cũng trong những năm bối rối đó, Nguyễn Du đi thi hương ở Sơn Nam đậu Tam

Trường (1784). Tuy đỗ thấp nhưng ông vốn là người học rộng, hiểu nhiều, không những

Nho học mà Phật, Đạo đều thông suốt. Gia phả chép: "Thời làm quan ở Kinh, có nhiều

văn sĩ theo học với ông Điều đó chứng tỏ ông là người có học vấn uyên thâm. Thế nhưtig

vì không đỗ cao, ông chỉ tập ấm người bố nuôi họ Hà mà giữ chức chính thủ hiệu đội

quân hùng hậu tình Bắc Thái sau khi ông này qua đời.

Năm 1789, sau khi chia tay với anh là Nguyễn Nễ, và em là Nguyễn ức, Nguyễn Du

trở về quê vợ ở làng Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình, ở nhà anh vợ là Đoàn

Nguyễn Tuấn. Anh em mỗi người một nơi. Chưa bao giờ Nguyễn Du cảm thấy mình bất

lực và thất vọng như thế này. Tập " Thanh Hiên" ra đời và được Nguyễn Du tiếp tục sáng

tác trong gần 20 năm, chia làm 3 giai đoạn :

1.Giai đoạn " Mười năm gió bụi" từ năm Tây Sơn bắt đầu đưa quân ra Bắc Hà

(1786) cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh ( khoảng cuối 1795 đến

1796)

2.Giai đoạn " Dưới chân Núi Hồng " (từ năm 1796 đến 1802)

3.Giai đoạn " Ra làm quan ở Bắc Hà" (từ cuối 1802 đến cuối 1804) (3)

Nỗi buồn đau trước thời thế và gia đình đã tan tác được Nguyễn Du than thở:

"Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán

Bạch đầu đa hận tuế thời thiên"

(Quỳnh Hải nguyên tiêu - THTT)

(Chốn non Hồng không còn nhà, anh em tan tác

Đầu bạc nhiều giận nỗi ngày tháng trôi)

20

Giống như Đỗ Phủ xưa kia, Nguyễn Du giờ đây lại lênh đênh với cuộc phong trần.

Hiện thực cuộc sống lại đầy rẫy những khó khăn:

"Thập tải phong trần khứ quốc xa

Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia

Trường đồ nhật mộ tân du thiểu

Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa."

(U cư - bài 2 -THTT)

(Mười năm gió bụi rời kinh thành đi xa

Đầu bạc phơ phơ ở nhờ nhà người

Đường dài, trời chiều, bạn mới ít

Một nhà xuân lạnh bệnh cũ nhiều)

Thời gian này ta có thể thấy tâm trạng u uất, bế tắc cùng với những nỗi dày vò, trăn

trở của Nguyễn Du kết đọng trong từng nét bút. Từng ngày, từng giờ trôi nổi cùng cuộc

sống bấp bênh, đã khiến Nguyễn Du quan tâm nhiều đến con người và thời cuộc. Ông trở

nên chán nản, bi quan:

"Sinh vị thành danh thân dĩ suy

Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy"

(Tự thán-bài 1-THTT)

(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu

Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi)

Nguyễn Du sinh thời được hấp thụ một nền nho học chuẩn mực, đã cũng rất tự hào

về tài năng của mình và khao khát được phụng sự nước nhà. Thế nhưng hiện thực cuộc

sống đã không được như ông mong muốn. Danh không thành, chí không đạt, hùng tâm

tráng chí cứ mãi nguội dần theo tháng năm với tóc bạc nghèo đói:

21

"Loạn thế nam nhi tu đối kiếm ( Lưu biệt Nguyễn Đại Lang I - NTTN )

(Làm trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn)

"Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm (Tạp ngâm - NTTN)

(Tấm lòng hùng tráng lụi tàn làm cây đoản kiếm thành vô dụng)

"Thư kiếm vô thành sinh kế xúc ( Tự thán II - NTTN)

(Thư kiếm đều không thành sinh kế quẫn bách)

"Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên " (Tạp thi I - THTT)

(Hùng tâm và sinh kế cả hai đều mờ mịt)

"Bạch phát hùng tâm không đốt ta" ( Khai song - NTTN)

(Tóc bạc rồi dù có hùng tâm cũng chỉ biết than thở )

Buồn đau như thế, Nguyễn Du đã mong ước:

"Gợi tóc vào rừng ở, nằm nghe tiếng thong reo lưng chừng mây"

"Hà năng lạc phát qui lâm khứ (Tự thán II - NTTN)

(Ước sao có thể xuống tóc vào rừng ở)

Thế nhưng tất cả những điều đó cũng chỉ là những lời nói dổi của một con người lỡ

thời. Niềm tâm sự thật, chân tình nhất mà ông vẫn hằng day dứt là :

"Cao hứng cửu vô hoàng các mộng

Hư danh vị phóng bạc đầu nhân"

(Mạn hứng - bài I - THTT )

(Đã lâu không còn cao hứng với giấc mộng gác vàng Nhiừig hư danh vẫn chưa

buông tha cho người đầu bạc). Thêm vào đó, ông phải gánh chịu cuộc sống vô vị, cơ cực,

thiếu thốn:

22

"Văn tự hà tằng vi ngã dụng

Cơ hàn bất giác thụ nhân liên"

(Khất thực-THTT)

(Văn chương chữ nghĩa nào đã từng ích gì cho ta

Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người đời)

Mùa đông năm Bính Thìn (1796), Nguyễn Du bị quân Tây Sơn bắt giữ vì theo

Nguyễn Anh. Nhờ có Quận công Nguyễn Thận, trấn tướng của Tây Sơn ở Nghệ An là

bạn thân của Nguyễn Đề và lại là một người rất mến tài thơ của Nguyễn Du nên chỉ giam

giữ mấy tháng rồi thả cho về. Nguyễn Du có làm bài " My trung mạn hứng " (Cảm hứng

trong tù) ghi lại sự việc này:

"Bốn bề gió bụi nghĩ tình nhà việc nước mà rơi lệ

Mười tuần lao từ nỗi lòng thấp thỏm cái sống cái chết"

Sáu năm ở quê nhà, tâm sự của một người bất đắc chí trong ông đã lên đến tột bực.

Ngập tràn trong các câu thơ là niềm cảm thương da diết của một người tuyệt vọng, vụng

đường sinh kế lại lỡ làng công danh:

"Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên

Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên

(Tạp thi-bài số 1-THTT)

(Trai tài đầu bạc ngóng trời than

Dựng nghiệp mưu sinh luống lỡ làng)

"Bạch phát thu phong không tự ta

(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch - BHTL)

(Nay đầu bạc chỉ luống tự mình than vãn với gió thu)

Và nhà thơ không biết phải chịu đựng như thế đến bao giờ:

23

"Phù sinh lao lục kỷ thời hưu" (Đồng Lung Giang - THTT)

(Còn cảnh phù sinh vất vả đến bao giờ mới thôi)

Trong thời gian này, ông lấy săn bắn, câu cá làm niềm vui. Ông tự đặt mình là Hồng

Sơn liệp bộ (Người đi săn ồ núi Hồng) và Nam Hải điếu đồ (Người đi câu cá ở biển

Nam.)

Và cũng trong thời gian này, Nguyễn Du đã tự thoát ra khỏi cái vỏ của một nhà nho

dòng dõi trâm anh thế phiệt, sống gần gũi hơn với dân quê mình. Những buổi hát đối đáp,

hát ví, hát phường vải tại nơi đây đã nuôi dưỡng con người nghệ sĩ vĩ đại trong Nguyễn

Du. Và có lẽ chính ở khúc quanh này, Nguyễn Du đã kịp nhận ra sự khô cứng, công thức,

sự bức bối tù túng của lối thơ ngâm hoa vịnh nguyệt và nhận ra vẻ đẹp diệu kỳ, tao nhã,

uyển chuyển của thơ ca dân tộc. Có lẽ Truyện Kiều có nguồn gốc từ đây.

Tinh hình chính sự trọng nước cũng có nhiều thay đổi. Lúc này triều Tây Sơn không

còn nữa, triều Nguyễn được dựng lên.

Năm 1802, Nguyễn Anh lên ngôi và lấy hiệu Gia Long. Khi Gia Long lên ngôi, vị

vua này cho vời lại các cựu thần nhà Lê cũ ra triều nhận chức mới trong đó có Nguyễn

Du.

Tháng 8 năm 1802, ông được bổ làm tri huyện Phù Dung ( Hà Nam Ninh ), rồi

tháng li thăng tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Năm 1805 lại được thăng hàm Đông Gác đại

học sĩ.

Năm 1809 ông làm cai bạ Quảng Bình. Năm 1813 ông được cử đi tuế cống nhà

Thanh, lúc về được thăng tham tri bộ lễ và giữ chức ấy cho đến ngày mất (ngày 10 tháng

8 năm 1820).

Con đường làm quan của Nguyễn Du thế phải kể là xuôi chèo mát mái. Ông đã

được lòng tin cậy của triều Nguyễn. Còn với nhân dân, khi làm cai bạ Quảng Bình, ông

được tiếng là "Chính sự giản dị, sĩ dân yêu mến". Gia phả chép: "dầu làm đến chức Á

khanh mà ông vẫn giữ vẻ thanh nhã, đơn giản như một học trò nghèo". Quả thật điều đó

đã làm không ít người yêu quí và cảm thấy gần gũi ông.

24

Dù đường quan xuôi chèo mát mái nhưng dường như những biến động đảo điên của

lịch sử cũng như hiện thực đen tối luôn hiển hiện đã làm nguội lạnh "giấc mộng gác

vàng" của ông. vốn bình lặng và an nhàn trong những ngày ở sông Lam, núi Hồng, giờ

đây phải gò mình trong khuôn khổ mũ cao, áo dài của một ông tri huyện đã thực sự làm

Nguyễn Du bức bối, ngột ngạt:

"Thác phác bất toàn chân diện mục

Nhất châu hà sự tiều công danh"

(Ký hữu - THTT)

(Ngọc mộc đã không toàn mặt thật

Châu xoàng chi bõ bận đanh thời).

Và ông luôn tự dặn lòng:

"Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc"

(Tống nhân -NTTN)

(Các con chim oanh đẹp ở vườn

thượng uyển hay ghen nhau về màu sắc)

Nguyễn Du là người kín đáo. Đại Nam chính biên liệt truyện viết: " Nguyễn Du là

người ngạo nghễ, tự phụ song bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì

ra dáng sợ sệt như không biết nói năng gì hết". Thái độ u uất, trầm mặt đó, ông đã mang

theo đến cuối cuộc đời. "Đến lúc ốm nặng ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ

tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi, ông nói "Được" rồi mất không hề trối trăn lại điều gì".

chẳng còn nghi ngờ gì nữa, rõ ràng ông có điều gì bất đắc ý, một tâm sự u uất nào đó

không thể nói ra trong thời gian làm quan nhà Nguyễn.

Cũng trong những ngày sống ở chốn quan trường, Nguyễn Du đã mở rộng tầm nhìn

để nhận thấy hiện thực xấu xa - cái hiện thực giả tạo, cái bản chất nham hiểm, độc ác của

bè lũ sâu dân mọt nước.

25

"Anh hùng tâm sự hoang trì sính

Danh lợi doanh trường lụy tiếu tần"

(Xuân tiêu lữ thứ - THTT)

(Tâm sự người anh hùng không còn nghĩ đến rong ruổi nữa

Trong trường danh lợi nhiều phen cười và nhăn mày)

“Ngoai lộ văn chương thể

Trung tàn sát phạt ky”

(Khổng tước vũ - THTT)

(Mã ngoài lộ ra vẻ đẹp

Bên trong giấu chất độc giết người)

Giờ đây, tâm hồn bay bổng của nhà thơ bị trói buộc nên trong ông nảy sinh một tâm

sự thật sâu kín: ông tự thương mình và thương đến tất cả ai "tài hoa bạc mệnh". Ông phát

biểu:

"Phàm sinh phụ kỳ khi

Thiên đại phi sở dung"

(Điệu khuyển - NTTN)

(Phàm sinh ra mang khí phách khác thường

thì trời đất không có chỗ dung)

Những tâm sự này Nguyễn Du sẽ có dịp nói rõ, cụ thể hơn trong dịp đi sứ Trung

Quốc qua tập thơ "Bắc hành tạp lục" mà chúng tôi sẽ trình bày rõ hơn ở phần sau.

1.2.THƠ ĐI SỨ

Mười thế kỷ chống phong kiến phương Bắc đã để lại những trang sử vẻ vang và hào

hùng cho dân tộc ta. Văn học cũng có phần kế thừa được nét son ấy. Đó là mảng thơ chữ

26

Hán của các sứ giả từ thời Trần đến thời Nguyễn. Thơ đi sứ đã phản ánh hoạt động quan

ữọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dạn tộc.

Cũng trong tập thơ, chúng tôi thấy nổi rõ ba nội dung chính sau:

1.2.1.Tình yêu thiên nhiên và tình cảm gắn bó với con người.

Có nhiều vần thơ ca ngợi cảnh đẹp, tình người của các sứ giả trong thơ đi sứ. Một

cành mai đợi tuyết trên núi Cô Sơn, một đàn nhạn trắng vượt dãy Lĩnh Nam, một ánh

trăng trên sông Hán, một tiếng chuông khuya trên lầu Hoàng Hạc, đình Tỳ Bà ... tất cả đã

tạo nên nguồn cảm hứng cho các sứ giả.

Nguyễn Đề (anh ruột Nguyễn Du) có bài Tuyết trung hành, được trích trong Hoa

trình tiêu khiển tập:

"Phiêu phiêu vũ tuyết sái hoa trình,

Thập thăng biền xa trám thủy tinh.

Tán bạch, mai tòng thiên thượng lạc;

Đảo quang, nhân tại kính trung hành.

Giang hồ ngọc tế vô cầm ảnh;

Nham dã diêm đôi hữu thú hình.

Tối thị thâm sơn hàn thự lý

Tân mai cổ bách bất phân minh."

Dịch thơ:

Tuyết bay phơi phới tưới đường huê,

Giữa thủy tinh dầm mấy cỗ xe.

Mai tự trời xanh buông trắng xuống;

Người trong gương bạc ngược hình đi.

Ngọc trùm, chim vắng sông hồ nọ;

27

Muối chất, muông in núi nội kia.

Hơn nữa nhà ai trong núi thẳm,

Bách già, mai trẻ, khó phân chia.

(Đào Phương Bình dịch)

Người xưa mỗi khi lên lầu Hoàng Hạc nhìn mây trắng, họ chỉ thấy buồn. Ngày nay

người ta cảm nhận khác, hãy xem tâm sự của Ngô Thì Vị:

Hán thủy hành mây cây đượm thu,

Lầu không vẫn đấy, thây tiên đầu ?

Bao giở trở lại ôi Hoàng Hạc ?

Ý ấy nên chăng gửi bạch âu !

Họ Lý tài thơ sao chịu kém,

Chàng Thôi quê cũ gội chi sầu.

Việt Nam sứ giả Ngô Thì Vị,

Ghi chuyến đì này tạm mấy câu.

Chúng ta chắc ai cũng biết bài thơ Hoàng Hạc nổi tiếng của Thôi Hạo và chuyện Lý

Bạch gác bút than:

"Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hạo đề thi tại thượng đầu"

(Trước mắt có canh đẹp không tả được

Vì đã có thơ Thôi Hạo đề trên đầu)

Bài thơ nổi tiếng đến nỗi mỗi lần đứng trước lầu, nhìn cảnh bãi xa mây trắng, người

xưa lại xúc động, và lại cầm bút đề thơ gởi gắm. Lầu Hoàng Hạc trở thành nơi gởi mối

sầu kim cổ của biết bao người. Nguyễn Du cũng có làm thơ vịnh lầu:

"Kim lai cố vãng lư sinh mộng

28

Hạc khứ lâu khổng Thôi Hạo thi"

(Nay đến xưa qua, cuộc đời như giấc mộng chàng Lư

Chỉ còn hạc bay lầu vắng trong thơ Thôi Hạo.)

Điều thú vị là trong số những bài thơ vịnh lầu, có bài đã toát lên tinh thần yêu nước

và lòng tự hào dân tộc sâu sắc:

"Cõi mộng mơ màng biết mây thu,

Trời già đất cỗi vẫn nguyên lầu.

Tiên lên trời đã chìm mây hạc,

Khách cỡi bè nay vượt Đẩu, Ngưu.

Làn sóng cá rồng sông dãy nước,

Bãi xuân Anh Vũ cỏ vương sầu.

Lên đây tuy nhượng người đường trước,

Vượt bể ta dành cuộc thắng du."

Đó là niềm tự hào, kiêu hãnh của người sứ giả khi chinh phục Đẩu, Ngưu. Bài thơ

có tứ lạ, bay bổng thể hiện tài cao, chí lớn của người sứ giả Việt Nam.

Trong thờ đi sứ có nhiều bài thơ ca ngợi quê hương, đất nước bạn. Một mặt tình

cảm ấy được xuất phát tự đáy lòng, mặt khác vì là đi sứ nên điều đó có lợi cho mục đích

của mình.

Phạm Chi Hương trong lần đi sứ đã đỗ thuyền trên sông Ninh Minh. Vị sứ giả của

triều Nguyễn này đã không cầm lòng trước vẻ đẹp diệu kỳ, lung linh, huyền ảo của đêm

trăng trẽn sông. Anh trăng như nhô lên từ màu biếc của núi, trải dài khắp bốn phương

trời. Cũng trong khung cảnh gió mát trăng thanh đó, đoàn thuyền thôi cuộc ngược dòng,

cùng ghé lại nơi râm mát, cùng khách nâng chén để thưởng ngoạn đêm trăng. Khung

cảnh thiên nhiên thanh bình, yên ả như báo hiệu điềm tốt lành trong suốt chuyên lộ tành.

29

Bài thơ đẹp dịu dàng như một thiếu nữ đương xuân, đắm say nô nức chuẩn bị cho mình

một vận hội mới:

" Khách xa chuốc chén bến Ninh Mình,

Từng đã xuôi chèo đỗ đất lành.

Thuyền núp bóng tre xanh mát rượu

Trăng soi dải núi biếc lung linh.

Mày râu đi sứ, người như cũ;

Sương giá quay về, bước chuyển nhanh.

Hòa dịu giỏ nam xin nhắn nhủ:

Hoa đèn báo hỉ suốt năm canh ..."

(Nhạc Dương lâu - Hoa Bằng dịch)

Trung Hoa giàu đẹp với vô vàn danh lam thắng cảnh, hoa thơm cỏ lạ, là nơi phồn

hoa đô hội đã in đậm vào tâm hồn của người yêu thơ. Giờ đây, đứng trước mặt họ là

khung cảnh hữu tình với " nước hồ như mở ra tấm gương tròn sáng trắng, núi điểm màu

một con ốc xanh ". ơ trên kia, lầu cao ngất gối đầu vào thành Nhạc Dương, dưới thành là

một chiếc thuyền con trôi lơ lửng trên hồ Động Đình...

"Lầu cao vòi vọi gối lên thành,

Thuyền dưới thành buông lướt Đông Đình.

Hồ nước vành gương lòa ánh bạc,

Non Quân chiếc ốc nhuộm màu xanh.

Bá đồ rộng lớn chia Ngô Sở,

Nguyên khí đầm đìa thấm nhật tinh.

Sao được cành Nam giành thuận lợi,

Cánh bằng muôn dặm vượt Nam Ninh."

30

(Nhạc Dương lâu - Nguyễn Trung Ngạn)

Tất cả trời cao, đất thấp, nước trong, mây trắng, núi xanh như được điểm xuyết

trong ánh trăng tròn trong vắt, Bài thơ thể hiện niềm xúc động của thi nhân trước một vẻ

đẹp huyền ảo của không gian, của đất trời.

Lòng yếu cái đẹp của thiên nhiên, đất nước dường như đã trở thành một nét thẩm

mỹ trong tình cảm của con người Việt Nam. Quả thật như vậy, mỗi lần đi qua một địa

danh, phong cảnh nào, cảm hứng trong lòng tác giả đều bừng dậy. Phan Huy Chú có hai

bài tứ tuyệt viết về Tương Âm:

"Sông sâu sắc núi mờ mờ,

Con chèo vượt sóng tới bờ

Tương Ấm Thuyền dừng, thành vắng mưa dầm,

Tấm lòng muôn dặm, khôn cầm đêm nay"

(Nghỉ lại ở Tương Âm I)

"Mưa xa khói sớm tan rồi,

Trên sông một nước, một trời liền nhau

Buồm đi gió đã thuận đâu

Tạm vào trong bóng liễu cao buộc thuyền."

(Nghỉ lại ở Tương Âm II)

Cả hai bài thơ đẹp như một bức tranh lụa có sắc núi lờ mờ, có một mái chèo trong

khói sóng, có mưa tạnh trên bãi cát, có dòng sông xanh ngắt, nước tiếp giáp với trời ...Tứ

thơ bay bổng lãng mạn thể hiện tình yêu, niềm sảng khoái, cảm giác lâng lâng trước thiên

nhiên tươi đẹp. Một tình yêu thuần khiết, thắm nồng, không có sự phân biệt, rẽ chia của

ranh giới, của sự hẹp hòi, ích kỷ, kỳ thị nước ta, xứ người ...Điều đó rõ ràng được bắt

nguồn từ một nhận thức ương sáng, một tư tưởng nhân văn đậm đà về mối quan hệ tương

31

thân, tương ái giữa các dân tộc. Thế mới biết ông cha ta xưa kia đã có tấm lòng, đáng để

trân trọng và gìn giữ biết bao!

Trong thơ đi sứ, nhiều vấn đề xã hội được các nhà thơ đề cập tới: vấn đề mâu thuẫn

giai cấp, mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị. Những vấn đề này được nêu lên dưới những

dạng cụ thể : vấn đề tô thuế, cuộc sống hiện tại đau khổ của nhân dân, cuộc sống xa xỉ

hoang dâm của giai cấp thống trị, vấn đề chiến tranh ... đều được các nhà thơ mô tả. Đó là

lời thơ cảm thông với những người dân đói bán con bên bờ sông Hoàng Hà của Bùi Dị.

Đó là tiếng nói mỉa mai, oán giận, phê phán trong thơ Ngô Thì Vị, Ngô Nhân Tĩnh, Hà

Tông Quyền. Họ đã dũng cảm tố cáo những bất công đau đớn của xã hội qua những bài

thơ "Nhân việc mà tỏ ý".

Điều rất lạ là dân tộc Việt Nam, bao năm sống trong kiếp lầm than, bị thống trị, bị

đọa đày thế mà họ chẳng có một lời thơ nào tỏ ra kỳ thị "nước ta, xứ người". Như Lý

Thường Kiệt ngày xưa đã nói "Chỉ phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân". Điều

này thật mới. Nó bắt nguồn từ một nhận thức trong sáng, đấy ắp tấm lòng nhân hậu, bao

dung. Nguyễn Trung Ngạn đã từng nói rằng các dân tộc tuy cách xa nhau về địa lý,

nhưng đều là anh em.

"Nước nón dẫu vạch bờ Nam, Bắc

Hồ Việt cùng chung nghĩa đệ huynh"

Và chẳng ai trong họ thích chiến tranh, ly loạn. Mong mỏi ngàn đời của nhân dân

vẫn là sống thái bình và làm ăn thịnh vượng.

"Núi sông dẫu ý chia Nam, Bắc

Man, súc mong đâu nỗi chiến trường

Hồ Việt một nhà nay đó nhỉ,

Cửi canh hòa ấm nẻo biên cương"

Lòng yêu mến, cảm thông với những người dân nghèo Bắc quốc cũng được các nhà

thơ đi sứ cảm nhận. Đi đến đâu, nơi nào các sứ giả cũng thấy những cảnh cơ cực, nghèo

32

đói, dân phải ăn xin, phải bán con. Bài hành kể việc dân đói bán con tại vùng sông Hoàng

Hà của Bùi Dị làm người đọc liên tưởng đến những cảnh khổ của người nông dân nước

ta:

" Mạ không đẻ được, lúa chết khô,

Nhân dân bỏ nhà đi phương xa kiếm ăn kể có hàng nghìn.

Những người già khom sống sót còn chưa đến lúc chết,

Nhưng nhà nghèo, cha con khó mà đoàn tụ cùng nhau.

Bán con cho người khác, tuy có đau xót vì biệt ly,

Song còn hơn trông nhau mà chết đói."

Cao Bá Quát nhìn cảnh phân biệt đối xử cảnh áp bức của người đa trắng đối với

người da đen đã không dấu nổi sự căm giận:

"Trập trùng bển nước gác lầu ken,

Bóng mát tùng cao, hoa lạ chen.

Thông thống xe về qua cổng sắt,

Hầu xe da trắng, rặt da đen !

(Hạ Châu tạp thi của Cao Bá Quát)

Còn Nguyễn Du, ở đâu, Nguyễn Du cũng bắt gặp hình ảnh của nhân dân, của quê

hương với những tiếng kêu đau đến xé ruột, những gương mặt đói rau, thiếu thuốc xanh

lè đang chờ chết...

" Mầu tử bất túc tuất

Phủ nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống tại tâm đầu

Thiên nhật giai vị hoàng "

(Sở Kiến Hành)

33

(Mẹ chết không đáng tiếc

Vỗ về con mà thêm đứt ruột

Trong lòng đau xót lạ lùng

Mặt ười cũng vì người mà vàng úa)

Trong bài Thái Bình mại ca giả, Nguyễn Du kể về chuyện một ông già mù đàn hát

rong. Đó là một đêm sáng trăng, thuyền Nguyễn Du đỗ lại ở một bến sông vắng, bên cạnh

chiếc thuyền có ông già mù múa hát. Nguyễn Du đã miêu tả lại những điều trông thấy:

"Miệng xùi bọt mép, tay mỏi rã rời

Ông già ngồi xuống, xếp đàn ngỏ lời đã hái xong

Và cuối bài thơ là lời lạy tạ:

"Đứa bé đã dẫn ông già ra khỏi thuyền,

Ông còn quay lại ngỏ lời chúc tụng."

Tấm lòng cảm thông yêu thương chân thành của Nguyễn Du đến nay vẫn còn làm

chúng ta xúc động. Phải đặt vào tâm thế của Nguyễn Du lúc bây giờ, một ông chánh sứ

được nghênh đón, được cung phụng, mới thấy hết được cả tấm lòng " nghĩ suốt nghìn

đời", như lời đánh giá của Mộng Liên Đường xưa kia.

Các nhà thơ đi sứ cùng viết về một đối tượng nhưng cảm xúc thì mỗi người mỗi vẻ.

Trước và sau Nguyễn Du có nhiều người làm thơ vịnh Đương Phi, nhưng đã có ai

hiểu nàng như ông:

"Tự thị cử triều không lập trượng

Uổng dao thiên cổ tội khuynh thành"

(Chỉ vì cả triều đình như phỗng đứng

Mà nghìn năm cứ đổ tội oan cho sắc đẹp nghiêng thành)

(Dương Phi cố lý)

34

Khi đi ngang qua đền thờ ở huyện Chiếu Bình, Quảng Châu, Nguyễn Tông Khuê đã

nghe câu chuyện về ba liệt nữ nhà họ Lưu; hai vợ và một con gái của quan Thông Phán

Lưu Thời Cử đời Minh đi đường bị cướp, không chịu ô nhục, đều gieo mình xuống sông

tự tử. Cảm khái trước nhân cách cao quí đó, Nguyễn Tông Khuê đã làm thơ ca ngợi họ :

"Trong kẻ nữ nhi so có mấy

Ai chăng ngâm ngợi tấc lòng son ? "

(Miếu tam liệt nữ )

Nguyễn Tông Khuê đã ban tặng họ ba chữ vàng. Liệu trong nhân gian được mấy?

Nguyễn Du khác. Ông nhìn ba tấm gương liệt nữ kia và liên tưởng đến thời bình, bao

nhiêu kẻ vểnh râu lên như mác, bàn chuyện hiếu trung ai cũng cho mình là nhất:

" Thanh thời đa thiểu tu như kích

Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn "

(Thời bình bao xiết phường râu vểnh

Nói hiếu bàn trung những tự kiêu)

Trong dịp đi sứ sang Trung Quốc, thuyền của Nguyễn Du cùng nghỉ chân tại sông

Ninh Minh. Tâm hồn thư thái, Nguyễn Du nhìn thấy ánh trăng trong vắt nhô lên từ sắc

màu biếc xanh của núi như trong mắt Phạm Chi Hương chăng? không phải thế. Ông thấy

nước từ trên trời cao đổ xuống. Trên ghềnh nước chảy mạnh, hung hãn như những con

ứng long nổi giận, ầm ầm như sống động. Còn dưới ghềnh nước chảy ào ạt như tên bay,

nỏ bắn khiến người kinh hồn bạt vía. Thấp thoáng ẩn hiện trong mắt nhà thơ là những con

thuồng luồng, long li hung ác ở vực sâu sẩn sàng nhe nanh ra để nuốt chửng con người.

Sóng không dịu đàng, êm ái, hiền lành như trong mắt của Phạm Chi Hương mà gào thét

dữ dội, vỗ tung bọt ầm ầm cả ngày lẫn đêm.

Thông thường vào mùa hạ nước cạn, nhưng trước mắt Nguyễn Du là cả một bờ

sông nước dâng cao, ngập đầy có thể nuốt chửng con người bất cứ lúc nào. Thuyền

không ghé lại cùng khách nâng chén thù tạc như Phạm Chi Hương mà lòng thuyền đầy

35

những lo âu, thắc thỏm. Lo gì ? Lo bị nước cuốn, lo bị thuồng luồng vồ, lo bị chìm sâu

mà không biết đâu là đáy! thật là kinh sợ. Trong tâm trạng bất an như thế, Nguyễn Du đã

thốt lên :

"Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm,

Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý !"

(Đi thuyền trên sông Ninh Minh)

(Đường sâu thẳm quanh co như lòng người

Nguy hiểm nghiêng đổ đều là ý trời.)

Từ hiện thực tự nhiên đang diễn ra trước mắt, ông chạnh lòng nghĩ đến thế thái nhân

tình. Làm sao dẹp được hết cả những cơn sóng to gió lớn. Con người ta dù có lòng trung

tín đến đâu nhưng nếu gặp nguy thì vẫn không đủ tự tin vào chính mình. Huống chi sống

giữa cuộc đời mà mọi hiểm nguy đang chờ chực, rình rập, bước ra khỏi nhà thì gặp ngay

mọi sự hiểm nguy, tai biến trắc trở. Thế mới biết làm người trong những cơn sóng to gió

lớn của cuộc đời thật khó vậy thay!

Xem thơ của Nguyễn Du trong Thanh Hiên và Nam Trung không có những hiện

tượng thiên nhiên kỳ vĩ, đáng sợ đến như vậy. Có thể dẫn ra đây không phải chỉ bài "Đi

thuyền trên sông Ninh Minh".

"Bách lý tản lưu vô định phái

Nhất ba sực khởi tiện hành châu"

(Hoàng Hà trở lạo)

(Nước tràn trăm dặm dòng sông loạn

Sóng cuộn từng cơn bãi cát dày)

Trong cả hai bài thơ, những con sông của Nguyễn Du thật hung ác và dữ tợn. Nước

từ trên trời trút xuống. Nước đẩy đằng sau, cản đằng trước, cuộn xoáy bên mạn thuyền

như muốn cuốn phăng đi hết thảy, như muốn nuốt chửng lấy con người. Chính những

36

biến động ghê gớm của lịch sử cùng với hiện thực chốn quan trường đã làm ông phải dè

chừng, phải cảnh giác mà dò thấu lòng người bởi cuộc đời này đang đổi thay, suy thoái...

Trong đời gặp cảnh ngộ đau thương mà khổ tâm là lẽ tự nhiên, ai cũng vậy, chẳng

nói làm gì, cũng như đứng trước cảnh đẹp mà vui thì không có gì lạ. Nghệ sĩ khác đời là

ở chỗ người ta khổ một, anh ta khổ hai, người ta vui ít anh ta vui nhiều và thậm chí buồn

trong cả khi vui. Nghệ sĩ ấy là Nguyễn Du. Với ông, bất cứ ở đâu, khi nào, đi qua địa

danh nào, đứng trước một cảnh đẹp nào lòng ông đều chùng lại trong cảm giác miên man

về nó, tim ông rung lên những nốt nhạc giao hòa. Đến Tương Âm, lòng Nguyễn Du

đượm buồn và da diết nhớ đến Khuất Nguyên. Ông thương Khuất Nguyên đã bị bọn gian

thần hãm hại. Một "Tướng Âm dạ" dường như chưa đủ để nói hết tấm lòng yêu mến và

khâm phục Khuất Nguyên. Nguyễn Du có đến sáu bài viếng Khuất Nguyên. Ông thương

mến và kính Khuất Nguyên, một người lắm tài nhưng không được trọng dụng. Luôn luôn

trong Nguyễn Du là sự tự vấn về lẽ đời, về những người lắm tài nhưng bị ruồng bỏ, biếm

trích. Cuộc đời và nhân phẩm sáng ngời của Khuất Nguyên đã làm cho mạch cảm hứng

trong Nguyễn Du tràn ra, tuôn chảy. Càng yêu thương Khuất Nguyên, ông càng căm ghét

bọn gian nịnh, những kẻ đã dèm pha vua ruồng rẫy và bạc đãi Khuất Nguyên.

Cùng viết về Nhạc Phi, tức Vũ Mục Vương, một anh hùng dân tộc, trung thần của

nhà Tống. Nhưtig tấm lòng của Phạm Chi Hương và Nguyễn Du không giống nhau. Với

Phạm Chi Hương thì Nhạc Phi là một anh hùng, xứng đáng được người đời tiếc thương,

yêu quí.

"Sơn hà công sứ ban sư lệ !

Cơ vĩ khống huyền báo quốc tâm!"

(Đề miếu Vũ Mục Vương)

(Rút quân lệ nhớ đau sông núi,

Báo quốc lòng thơ, uổng vĩ ky)

Còn Nguyễn Du khi đến thăm mộ Nhạc Phi đã xót xa đến rơi lệ. Không chỉ có thế,

ông còn cảm thấy bi quan trước sự thật đang phơi bày. Bài thơ "Yến Thành Nhạc Vũ

37

Mục ban sư xứ" tuyệt nhiên chẳng có lời lẽ cảm thương nào nhưng ẩn sâu trong từng câu

từng chữ là sự tự vấn, tự ngạc nhiên đến nghẹt thở của ông về lẽ công bằng, về chân lý

của cuộc đời. Ông đau lòng cho Nhạc Phi đã hoài công ôm cái nhục của nước nhà. Huyết

chiến mười năm có được gì ?. Thật là phí vì cuối cùng cũng bị giết. Đứng trước mộ,

Nguyễn Du bàng hoàng trước cảnh vắng vẻ, xơ xác ở nơi này. Sông núi vẫn còn, cây

tùng cây bách vẫn lao xao, ngạo nghễ trước ngọn gió bấc lạnh lùng. Không gian, thời

gian vẫn lưu chuyển và vô tình lạnh lẽo đi ngang trước nỗi đau và sự mất mát của con

người. Duy chỉ có Nguyễn Du, người đã đến với ông bằng tấm lòng, bằng sự đồng cảm

gần gũi nhất:

"Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục

Quân môn do tích thập niên công"

(Mộ Nhạc Vũ Mục)

(Ở tướng phủ đã khép thành tôi "ba chữ"

Nơi quân còn tiếc công của ông trong mười năm trời)

Viết nên những vần thơ ấy, Nguyễn Du thấy xót xa cho những bậc hiền thần. Mâu

thuẫn. Nhưng mâu thuẫn vốn làm nên cuộc sống, làm nên những vần thơ.

1.2.2.Khí phách và trách nhiệm của công dân Đại Việt ở Bắc Quốc

Như đã nói, những người được cử đi sứ không chỉ có tài năng mà còn có tấm lòng,

không chỉ có lương tâm mà còn có cả khí phách. Bởi họ phải luôn đương đầu với sự đe

dọa, bức bách thậm chí đến cả sự dụ dỗ, mua chuộc của đối phương. Trong những tình

thế ấy, nếu không tỉnh táo thì sẽ rất nguy hiểm cho sự tồn vong của dân tộc. Nguyễn

Trung Ngạn là người rất hiểu điều đó:

"Việc nước lo toan dám quản công,

Ban mai áo thấm hạt sương nồng.

Trời Nam cung khuyết trổng gang tấc,

Đất Bắc quan sơn vượt mây trùng.

38

Cờ Hán bay pha vùng cỏ lách,

Ngựa Hồ thét dội tiếng đao cung

Đường đời gian hiểm ta từng biết,

Chịu đựng xưa nay chẳng nản lòng"

(Sơ phát Vĩnh Bình trại)

Sau Nguyễn Trung Ngạn hơn ba mươi năm, Phạm Sư Mạnh trong một chuyến đi

làm nhiệm vụ tranh cãi về cột đồng mà thực chất là vấn đề biên giới cũng vẫn giữ thái độ

đường hoàng tự tin như vậy:

"Trước đài Hạng Vương mặt trời lặn đỏ rực,

Trên mồ Quán quân nổi trận gió buồn.

Trời đất hoang vu là cảnh chiến trường xưa,

Anh hùng nghìn thủa nay còn đâu nữa.

Nhà ta ở tận côi Nam Giao xa xôi

Tay cầm ngọc tiết lên Hoàng lâu

Xoa nét chữ khắc đá của Tô Đông Pha,

Chuyến đi này hẳn không phụ chí bình sình cửa ta"

(Ngô Linh Ngọc dịch)

Phạm Sư Mạnh viết bài thơ này để đưa cho quan Thị Giảng nhà Nguyên là Dư Gia

Tân xem. Đây là bài thơ ca ngợi khung cảnh tươi đẹp của thiên nhiên. Tuy vậy, ở từng

chữ, từng lời, tác giả bài thơ tỏ ra rất sắc sảo và tinh tế. Điều này thể hiện được bản lĩnh

vững vàng của sứ giả Đại Việt khi đứng trước cái hùng vĩ, bề thế của miền Hoa hạ.

Nét đẹp thơ bang giao còn được thể hiện ở thơ vua, thơ tướng. Dù là thơ tiếp sứ hay

tiễn sứ, bài nào cũng hay, cũng đẹp. Có thể kể đến bài Tống Sài Nghiêm Khanh (Tiễn Sài

Nghiêm Khanh) của Trần Quang Khải:

39

Tống Sài Nghiêm Khanh Dịch:

(Tiễn Sài Nghiêm Khanh)

"Tiễn ông về nước, riêng những bồi hồi

Đầu ngựa xăm xăm hướng về quê hương nhà vua

Tâm tình Nam Bắc treo trên lá cờ trở về,

Mùi đạo chư khách tràn đầy chén biệt ly

Vừa chốc lát nói cười, đã than thở dứt áo ra đi

Trong cuộc ngâm nga thù xướng,

Tiếc khi giường đối diện với nhau

Chưa biết ngày nào lại cùng gặp mặt,

Để ân cần cầm tay kể chuyện hàn huyên!".

Đến một nhà sư vô danh nào đó trong ngôi chùa hẻo lánh đã nhường nửa giường

cho Nguyễn Trung Ngạn ngủ qua đêm:

Tặng thi tăng Nghiêu Sơn

"Một thân nhẹ nhàng siêu thoát ra ngoài cõi đời

Ở đây không nghe nói tới hai chữ vinh, nhục

Cốt cách cây mai ngàn, nguyên chẳng tục,

Phong tư con hạc biển, vốn siêu phàm

Tay áo thơ phẩy động trăng sông Tương

Đôi hài thiền đạp tan mây núi Sở

Biết đâu chuyến đi này chia kẻ Bắc người Nam

Chén trà, trướng giấy bao lần mộng thây người"

(Ngô Linh Ngọc dịch)

40

Tấm lòng đó đã được nhà thơ viết tặng để trạ ơn. Bất cứ người Việt Nam nào cũng

mang trong mình lòng tri ân, nhất là đối với người đã cứu giúp mình. Hơn nữa, bài thơ

còn ngợi ca tấm lòng, sự nhường nhịn, sẻ chia sự đủ đầy của bản thân mình cho người

khác, dù đó không phải là người của dân tộc mình, mà là một người đến từ phương Nam

xa lạ.

Các nhà thơ ngày nay thường sáng tác để đăng báo, in tuyển tập ... dùng thơ như

một phương tiện mựu sinh hay tìm bạn tri âm. Với người xưa, thơ chiếm lĩnh cuộc sống

của họ như một thứ quà tặng. Tặng cho người và tặng cho mình. Và xưa nay thơ văn thù

tạc luôn là món quà đầu miệng của các vị đi sứ Bắc quốc. Một mặt, những lời thơ đó xuất

phát từ đáy lòng của mình, mặt khác những lời thơ ca ngợi lịch sử, quê hương đất nước

bạn dễ làm cho người đối hài lòng và đễ chịu hơn trong công việc của chúng ta.

Nhiều lời thơ thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, kính trọng của sứ giả Việt Nam trước

những di tích lịch sử, những hoài niệm về các danh nhân văn hóa Trung Hoa mà tên tuổi

thơ văn đã ăn sâu vào tâm trí những sứ giả Việt Nam khi tóc còn để chỏm.

Những Tỉ Can, Nhạc Phi, Kinh Kha, Dự Nhượng ... đã làm những điều mà theo luân

lý đạo Nho, họ đã làm đúng, làm tốt.

"Dưới đền Nhạc Vương, thông trắc xum xuê,

Đọc xong tấm bia mòn, dạ khôn cầm!"

(Đề miếu Vũ Mục Vương - Phạm Chi Hương)

"Nghĩa vua tôi ngàn đời sáng chói

Đạo đất trời một thửa làm xong"

(Dự Nhượng kiều - Nguyễn Du)

"Nghĩa lớn vua tôi rất sáng tỏ

Chứng nhân, quốc sĩ, chí đôi đường

Làm tôi hai lòng phải chết thẹn

41

Nghìn thu nghe đến cũng ngùi thương"

(Dự Nhượng chùy thủ hành - Nguyễn Du)

Ca ngợi cảnh đẹp, thể hiện tình yêu với con người và đất nước nước bạn nhưng

không vì thế mà quên đi đất nước và con người dân tộc mình. Không nên khiêm nhường

quá cũng như không nên tự cao quá khi đứng trước "sân rồng Bắc quốc". Phải cố gắng

hết mức thể hiện cho được chân lý "giang sơn hữu ý phân Nam Bắc" và ước nguyện tha

thiết của dân tộc ta là nhân dân hai nước được sinh sống trong cảnh thái bình.

Sống bên cạnh một nước láng giềng to lớn lại luôn có âm mưu thôn tính nước mình,

dân tộc Việt Nam mà đại diện là những vị sứ thần phải luôn có ý thức bảo vệ dân tộc

trước sự đe dọa của đế quốc. Do vậy, thơ bang giao trong dòng thơ đi sứ có một đóng góp

to lớn cho lịch sử dân tộc, cho sự an nguy, tồn vong của dân tộc.

1.2.3.Tình yêu của sứ giả đối với quê hương đất nước.

Lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc trong thơ đi sứ, bang giao biểu hiện dưới nhiều

sắc thái. Một trong những biểu hiện ấy là tấm lòng thương nhớ quê hương. Tấm lòng ấy,

tình yêu ấy được ông truyền đạt qua những vần thơ Nôm đặc sắc.

Xin được trích dẫn một đoạn trong Sứ trình tân truyện.

Kỳ lừa cây rợp bóng êm

Cửa the nhà gấm vây thêm tứ bề

Khách thương buôn bán đi về

Cửa thông hai nước chợ lề sáu phiên

Dịch mai xẩy thấy tin truyền

Quý đông mồng bảy sứ liền quán quan.

Tiếng người, tiếng súng dây ran

Kẻ về Kinh Quốc, kẻ sang Yên Đài

Đã hay mến cảnh nhở người

42

Quan thân hai chữ một vai đã quằn

Tôi người đâu ngại nhọc nhằn

Song le cố quốc khôn ngăn được lòng

Chỉnh phu dóng dã đã xong

Xe xe ngựa ruổi rong trên đường

Bên giời ác đã ban vàng

Lạ người lạ cảnh bước càng dừng chân

Núi quang đường phẳng thôn gần

Điếm quang sặc sỡ, nhà dân sum vầy

Đầu ngàn khỏi tỏa ngàn cây

Tràn về tiếng địch lọt mây xoang dài

Đây là bài thơ miêu tả phong cảnh và sinh hoạt của phố Kỳ Lừa ngày xưa. trong

từng câu chữ, ta thấy hiện lên một bức tranh thôn quê đầm ấm, hiền hòa ...thêm vào đó tài

sử dụng ngôn ngữ của tác giả thật điêu luyện, có sự gần gũi với những vần thơ Nôm sau

này.

Và đây là cảnh một đêm đông trên đường đi thuyền:

"Tuyết núi mưa ngàn phún phún rây,

Trong niềm ngay ngáy thuở đêm chầy

Ngâm nga một quyển đèn tha nguyệt

Bát ngát năm canh gió thổi cây

Tiếng đạc pha sương khoan lại nhặt

Lòng thơ mượn khúc tỉnh thời say

Thuyền ai cầm lại bên tai ấy

43

Nước chảy non cao mấy kẻ hay

(Đi thuyền đêm đông)

Đọc qua một vài chữ cổ như "đạc" nghĩa là "tiếng mõ", tức tiếng mõ cầm canh đêm,

"khúc": lòng như mượn khúc, tức là mượn hơi men, cầm tức là đàn, chúng ta thấy bài thơ

mở ra thế giới của tình và cảnh quyện vào nhau, và trong bức tranh này có ngụ ý ít nhiều

tâm sự.

Thời gian trong bài thơ là một đêm đông. Không gian là đất khách quê người. Trước

thời khắc tịch mịch trong đêm lạnh có mưa, có tuyết ấy đã gợi lên trong lòng nhà thơ bao

nỗi niềm. Bên ngọn đèn, nhà thơ đã thức suốt năm canh để nghĩ ngợi. Tiếng mõ cầm

canh lúc khoan lúc nhặt cùng với tiếng gió thổi xào xạc trên cây làm nhà thơ thêm não

nuột. Không gian, thời gian tưởng chừng như đọng lại trong nỗi nhớ nhà của nhà thơ.

Thêm vào đó, tiếng đàn tỳ bà bên thuyền vọng lại làm nỗi nhớ cứ dày lên, nhức buốt

thêm ... Thế nhưng có ai là người tri âm, tri kỷ với mình. Lời thơ bình dị mà vô cùng

thanh thoát. Tất cả những lời thơ như nối lại mạch nguồn cảm xúc dạt dào đang chảy trôi

miên man vô tận trong ông.

Còn Nguyễn Kiều, chồng nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, trong một đêm mưa đã viết:

"Trích toái hương tâm thiên vạn lý

Xao tàn lữ mộng nguyệt tam canh"

(Nhỏ nát làng quê trường vạn dặm

Khuya tàn mộng khách nguyệt ba canh)

Nỗi nhớ nhà thật thiết tha và đau đớn. Phải chăng trong nỗi nhớ nhung vời vợi ấy có

cả hình bóng người vợ hiền yêu thương mà nhà thơ vừa mới cưới?

Được cử đi sứ là một vinh dự nhưng đôi khi đó là một tai họa. Bởi có người đi sứ bị

giữ lại đến 18 năm như Lê Quang Bí đi sứ Minh. Không kể những chuyện kém may mắn

đó thì chuyến đi xa này cũng làm họ nhớ nhà nhớ nước đến quay quắt. Nhất là vào những

44

lúc chiều tà hay những đêm mưa rả rích càng làm cho nỗi nhớ rộn rã hơn trong lòng các

nhà thơ.

Trong lộ trình đi sứ, Nguyễn Du có qua lầu Nhạc Dương. Nhà thơ không nói rõ là

mình đến thăm lầu trong thời điểm nào nhưng trong cảm nhận của người đọc, có lẽ đó là

quãng xế chiều. Bởi vào thời khắc này, tấm lòng người xa quê thường u buồn, trĩu nặng

nhất. Ai xa quê cũng thấy sợ buổi chiều. Bởi chiều là thời điểm của sự trở về, sự đoàn tụ.

Chiều, đàn chim bay về tổ, thủy triều về với biển. Tất cả đều trở về với nơi chốn, tổ ấm

nguồn cội của mình. Chính vì lẽ đó, người lữ thứ nào khi xa quế cũng đều thường có cái

cảm giác lẻ loi, bơ vơ, cô độc nơi đất khách, quê người. Hiểu được điều đó mới thấm thìa

được nỗi buồn của tác giả.

"Bờ cao lầu chót vót

Trèo lên sảng khoái ghê

Mây nổi Tam Sở khắp,

Nước thu chín sông về

Ba say truyền chuyện cữ,

Một vệt ngắm trời quê.

Tựa cửa gió tây thổi,

Tiếng hồng nhạn não nề."

(Lên lầu Nhạc Dương).

Không chỉ là đêm mưa, chiều tà mà cả đến tiếng chim hót, tiếng chuông đêm cũng

làm các sứ giả thao thức "lòng quê":

"Hành hương thiên lý phiếm chỉnh bồng,

Thiều đệ Nam Quan cách kỷ trùng,

Hồi nhạn phong tiền lương vũ dạ,

Hương tâm liêu khởi số thanh chung"

45

(Phan Huy Chú)

(Con thuyền ngàn dặm lướt dòng Tương,

Xa cách Nam Quan mấy độ đường

Mát rượi đêm mưa bên núi Nhạn

Lòng quê thao thức tiếng chuông vang ...)

(Trần Duy Vân dịch)

Cả đến tiếng chim hót, Đinh Nho Hoàn cũng tưởng như thấy đấy là tiếng chim của

quê hương mình:

"Thúy gian khước ái nam chi điểu,

Hiển hoan kiều nghinh cổ quốc ông"

(Trong khoảng cây biếc đáng yêu thay con chim đậu cành nam

Mắt long lanh trìu mến chào đón ông già cố quốc)

Và chỉ một tiếng lá rụng cũng làm Trương Hảo Hiệp băn khoăn:

''Đêm qua lá đỏ bên bờ rụng

Biết có trôi về đất Việt ta? "

Tấm lòng nhớ nước thương nhà ấy là cơ sở, là nền tảng vững chắc để tạo nên lòng

yêu đất nước, tự hào về dân tộc Việt Nam.

Sống trong cuộc đời, chúng ta đã từng gặp gỡ nhau. Cuộc gặp gỡ nào cũng để lại

một dấu ấn, một kỷ niệm. Các nhà thơ - sứ giả từ đời Trần, Lê, Tây Sơn đến triều Nguyễn

dù không sống chung trong một thời nhưng ai đã đi sứ Trung Quốc đều gặp gỡ nhau ở

một mạch nguồn. Đó là ý thức trách nhiệm của mình trước vận mệnh của quốc gia, dân

tộc, là lòng yêu cái đẹp của phong cảnh, của tình người trên đường đi sứ. Và vượt lên trên

tất cả là tình cảm của các thi nhân đối với quê hướng, đất nước.

46

Tóm lại, có thể nói rằng thấm nhuần trong thơ đi sứ là tấm lòng nghìn đời của các

nhà thơ, những tấm lòng sáng trong và ưu ái. Tấm lòng ấy là cái gốc vĩnh cửu của thơ ca,

nó làm cho thơ ca sống và làm xúc động con người qua bao thế hệ.

1.3.BẮC HÀNH TẠP LỤC - NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU

Một nhà lý luận đã nói: “Thơ đi giữa ước mơ và hiện thực" còn trong thơ Bắc hành

tạp lục của Nguyễn Du còn có một chiều nữa, đó là chiều quá khứ.

Trải dài và lan tỏa khắp tập "Bắc Hành tạp lục" là những hoài niệm, những vấn

vương cùng với những luyến tiếc về lịch sử, về con người trong mấy ngàn năm phong

kiến Trung Hoa. Để lại dấu chân mình nơi đâu, Nguyễn Du đều thốt nên những vần thơ

hoài niệm. Cuộc hành trình bắt đầu ở Thăng Long, cảnh tình nơi đây làm ông nhớ về tuổi

thơ. Gặp lại người ca nữ đất Long Thành, người hầu cũ của em, những người bạn thuở

xưa giờ đã có con bồng, cháu ẵm... Tất cả hiển hiện lại trước mắt Nguyễn Du như một

giấc chiêm bao. Qua cửa ải Quỷ Môn, đi Lạng Sơn, gặp đền thờ Mã Viện, đi thuyền trên

sông Ninh Minh, đậu thuyền trên sông Tam Giang, sông Tương Giang. Chiều xuôi

thuyền qua ghềnh Đại Than, nghe tiếng sáo và nghe người hát rong ở Châu Thái Bình.

Đến Thương Ngô ngắm mưa chiều và khóc thương cho hai bà phi của vua Thuấn. Đến

Tương Am xem đua thuyền và tưởng nhớ Khuất Nguyên. Qua Quế Lâm nhớ ông Cù Các

Bộ, qua sông Hoài nhớ Hoài Am Hầu. Thăm quê cũ Dương Quí Phi, ghé viếng mộ ba liệt

nữ là vợ và con Lưu Thời Cử. Đến sông Tương Giang nhớ Khuất Nguyên và làm đến sáu

bài thơ tưởng niệm. Thăm mộ người tri âm Đỗ Phủ, ghé Hoàng Hạc lâu, nhớ Văn Thiên

Tường. Rồi dừng chân viếng mộ Tỷ Can, mộ Âu Dương Tu, Sở Bá Vương, Liễu Hạ Huệ,

Lưu Linh ...xem Đài Đồng Tước, viếng mộ Nhạc Phi, mộ Chu Du, Phạm Tăng. Qua đình

Tô Tần, xem tượng vợ chồng tên gian thần Tần Cối, mộ Kỳ Lân, đài Quản Trọng, Kê

Khang.

Qua những vần thơ ông làm tặng họ, ta thấy Nguyễn Du không chỉ là một ông quan,

mà ông còn là một thi nhân, một nghệ sĩ, một nhà nhân đạo và vượt lên trên hết ông còn

là một con người.

47

1.3.1.Nguyễn Du với nhân vật văn hóa - lịch sử Trung Quốc

Nghệ sĩ thực sự vĩ đại thì bao giờ di sản tinh thần của họ cũng vượt ra khỏi giới hạn

của một thời đại, một dân tộc.

Trong Bắc Hành tạp lục, vượt lên và chiếm một số lượng lớn trong 132 bài thơ chữ

Hán của Nguyễn Du là tình cảm yêu thương lẫn kính phục đối với những bậc hiền tài. Họ

chính là đối tượng mà Nguyễn Du quan tâm nhiều nhất, dành tình cảm nhiều nhất. Tuổi

thơ đầy biến động nhưng tuổi thơ cũng đã nuôi dưỡng tâm hồn ông bằng những cuốn

sách Thánh hiền. sống trong gia phong ấy, Nguyễn Du được biết đến tên tuổi của những

bậc hiền thần Trung Hoa, những người đã để dấu son lịch sử cho cuộc đời, cho dân tộc.

Họ là những Hoàng Sào, Cù Các Bộ, Liễu Tông Nguyên, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý

Bạch, Hàn Tín, Văn Thiên Tường, Âu Dương Tu, Tỉ Can, Lan Tương Như, Liêm Pha,

Dự Nhượng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huê, Chu Lang, Hai ông họ Sơ ...

Viết về những anh hùng này, Nguyễn Du không có ý định tái hiện lịch sử bởi công

việc ấy là trách nhiệm của các sử gia. Ông chỉ đơn thuần ghi lại những câu chuyện ấy,

bằng cảm xúc của bản thân mình. Chính vì thế, có thể nói rằng "Với Bắc Hành tạp lục,

Nguyễn Du đã thay mặt nước Trung Hoa tổng kết những giá trị văn hóa - lịch sử truyền

thống cho đất nước, cho dân tộc họ bằng thơ" là đúng như lời nhận định của GS Mai

Quốc Liên (4).

Theo dõi Bắc hành, người đọc hôm nay có thể thấy rõ một tư tưởng lớn của Nguyễn

Du đã được phát triển ở chính nơi đây: "Chữ tài chữ mệnh". Điều này cũng được Nguyễn

Du nói trong Truyện Kiều. Luôn luôn trong ông là sự day dứt, xót thương cho kết thúc bi

phẫn của những bậc hiền thần. Phải chăng trong cuộc đời cái ác và sự bất hạnh bao giờ

cũng nhanh chân hơn khi đến với con người ? -Ai dũng khí bằng Kinh Kha, Nhiếp Chính

? Ai có ý chí và lòng bất khuất hơn Tỷ Can, Dự Nhượng? Ai có tấm lòng nghìn đời hơn

Văn Thiên Tường và Nhạc Phi ... Vậy mà cuộc sống họ gặp biết bao phong ba bão tố, họ

đã chết trong nỗi tủi nhục và oan uổng biết nhường nào. Trước thực tại xã hội đầy biến

động ấy, thành trì của tam cương ngũ thường như đang vỡ nát ra trong lòng Nguyễn Du.

48

"Quái để hành tung nguyên thị ẩn

Tằng dữ Yên Đan vô túc phận

Sát thân chỉ vị thụ nhân tri

Đồ đắc Điền Quang khinh nhất vẫn.

Khả liên vô cô Phàn Ô Kỳ,

Nhất triều uổng sát tam liệt sĩ"

(Kinh Kha cố lý)

(Lạ thay, vốn giấu kỹ hành tung giữa chợ,

Không từng có duyên nợ từ kiếp trước với Yên Đan

Liều thân chỉ vì được người biết đến mình,

Luống được Điền Quang nhẹ nhàng đâm cổ chết

Khá thương Phàn Ô Kỳ chẳng có tội tình gì

Đem đầu cho mượn không hẹn kỳ trả lại

Một sớm ba liệt sĩ chết oan)

Các câu thơ man mác một nỗi niềm hoài cổ, nóng bỏng âm hưởng thời sự. Xưa nay,

khi đọc thơ cổ, người ta vẫn thường bảo đấy là thứ thơ nhuốm màu vàng ùa, được kết

đọng từ những tình cảm u hoài và đầy những hình ảnh ước lệ. Thơ chữ Hán của Nguyễn

Du trong Bắc hành tạp lục không thế. Âm hưởng chủ đạo của những bài thơ ấy là tiếng

thét bi phẫn, căm hờn sục sôi. Ba liệt sĩ ấy đã chết đớn đau cùng một lúc đó chỉ vì nghĩa

quân thần, nghĩa vua tôi, nghĩa cương thường.

Trong hành trình đi sứ, trái tim Nguyễn Du đã bao lần rung lên khi gặp những di

tích còn lại giữa cuộc đời. Đến Quảng Tây, Nguyễn Du nghiêng mình tôn kính tấm lòng

cô trung của ông Các Bộ họ Cù: người không chịu hàng phục người Mãn Châu, vẫn để

tóc đài theo phong tục của dân tộc mình.

49

"Trung Nguyên đại thế dĩ đồi đường,

Kiệt lực cô thành khống nhất phương.

Chung nhật tử trung tâm bất động,

Thiên thu địa hạ phát do trường."

(Quế Lâm Cù Các Bộ)

(Đại thế của Trung Nguyên đã sụp đổ rồi,

Ông vẫn dốc sức giữ tòa thành trơ trọi

để khống chế một phương

Suốt ngày trước cái chết, lòng không nao núng,

Nghìn thu nằm dưới đất tóc vẫn dài)

Chẳng cần tỏ bày tấm lòng mình bởi tự thân các câu thơ đã nói lên tất cả. Không

phải là sự ngợi ca, tán tụng chung chung theo công thức mà tất cả là sự thành thật được

thốt lên từ những mất mát, đắng cay trong cuộc đời mà ông từng nếm trải.

Khi viết về các nhân vật lịch sử - văn hóa, Nguyễn Du hay chạm đến quyền lực. Tất

cả những nhân vật quyền lực đều được ông đem ra bình luận. Một Tào Tháo gian hùng

gieo tiếng xấu nghìn đời, một Mã Viện tham lam, xảo trá cuối cùng chuốc họa vào thân,

để lại tiếng cười chê cho tất cả thế gian...

"Thiêu tận Tào gia bách vạn bỉnh,

Trượng phu sai túc úy bình sinh!

Đồng liên giao nghị liên Tôn Sách,

Nhất thế tri âm đắc Khổng Minh.

Ngoa lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,

Kinh trăn cổ mộ thượng hùng danh"

(Chu Lang mộ)

50

(Thiêu sạch một trăm vạn quân của họ Tào,

Trượng phu thế cũng thỏa chí bình sinh!

Vừa là bạn đồng niên, vừa là người có

tình anh em rể với Tôn Sách,

Tri âm một đời có Khổng Minh

Cung Ngô thành đống gạch vụn, nghiệp đế tan tành

Ngôi mộ cổ gai góc mọc đầy còn nức tiếng anh hùng)

Viết về những điều này, có lẽ, Nguyễn Du hiểu rất rõ

"Nhân gian huân nghiệp nhược trường tại,

Thử địa cao đà ưng vị khuynh"

(Công nghiệp ở đời nếu còn mãi,

Thì lâu đài nguy nga này có lẽ chưa nghiêng đổ)

(Đồng Tước đài)

Cuộc đời Nguyễn Du chìm nổi nhiều từ lúc tóc còn xanh tơ đến lúc tóc bạc. Nhưng

có lẽ quãng thời gian đi sứ là quãng đời hạnh phúc nhất của nhà thơ. Xa quê hương

nhưng không phải nổi chìm, như trước nữa mà ngược lại, Nguyễn Du thoát được những

xô bồ, những eo sèo trong cuộc sống thường nhật hàng ngày. Không gian vô tận, thoáng

đãng với núi cao, sông rộng, với những cổ miếu, đền đài đều trở nên u uất trầm mặc,

trong mắt nhà thơ. Quả thật đây là không gian thật lý tưởng để Nguyễn Du kí thác tâm

hồn mình, lắng lòng lại nghe từng tiếng lòng để lần tìm về quá khứ. Một bài thơ hay là sự

tỏ lòng của ông đối với những con người trung nghĩa đã hy sinh cả cuộc đời, cả mạng

sống của cá nhân và gia đình để bảo vệ cho lý tưởng, cho đạo lý? Với Nguyễn Du, chắc

hẳn phải có những nỗi niềm sâu kín hơn khi tìm lời đồng vọng với người xưa để tỏ bày,

để viết nên những vần thơ thật xót xa, cảm kích. Chúng tôi chắc rằng chính những day

51

dứt, trở trăn mà Nguyễn Du đã buông tay bất lực vì mưu đồ "phục quốc, phò Lê" không

thực hiện được đã thôi thúc ông viết nên những vần thơ thấm đẫm ấy:

"Quân thần chính luận kham Thiên cổ

Thiên địa toàn kinh tận nhất triều"

(Dự Nhượng Kiều)

(Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng để muôn đời

Làm trọn đạo trời đất trong một sớm mai)

"Tái hoạch, tái xá, tâm bất di

Lâm tử do năng tam kích y.

Lăng lăng kỳ khí can tiêu thường (thướng)

Tự Thứ Kiều danh canh Dự Nhượng.

Quân thần đại nghĩa tôi phân minh,

Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng.

Quí sát nhân thần hoài nhị tâm

Thiên cổ văn chỉ sắc trù trướng."

(Dự Nhượng chảy thủ hành)

(Bị bắt, được tha, lại bị bắt, lại được tha mấy lần liền,

lòng vẫn không dời.

Đến lúc chết còn đánh được ba lần vào áo Tương Tử,

Khí lạ cao nhất nghìn tầng mây

Từ đó tên cầu đổi là Dự Nhượng

Nghĩa lớn vua tôi cực rõ ràng

Người quốc sĩ và người thương có cách ứng xử khác nhau,

52

Kẻ làm bề tôi mà hai lòng thật đáng hổ thẹn đến chết

Nghìn xưa nghe chuyện ai cũng ngậm ngùi)

Nguyễn Du, đáng lý ra đã làm và phải làm cái việc mà Dự Nhượng, Kinh Kha và

Nhiếp Chính đã, để thực hiện nghĩa trung hiếu của kẻ bầy tôi. Vậy mà ông đã không làm

được. Cuộc sống đói khổ, khốn khó của gia đình với:

"Mười đứa con thơ xanh tựa rau"

(Ngẫu hứng 4-NTTN)

"Mười miệng đói kêu ngoài cõi Bắc

Một mình bệnh rụi góc thành Đông"

(Ngẫu Đề - NTTN)

đã xóa mờ niềm hoài vọng của ông. Nuối tiếc cho cuộc đời mình, ông càng thêm

khâm phục và ngưỡng mộ người xưa. Tấc lòng ấy, Nguyễn Du đã nhờ thơ chuyển hộ.

Dù không biết nhau và ở cách xa nhau nhưng Nguyễn Du cảm thấy họ vô cùng gần

gũi, thân thương với mình. Ồng Các Bộ họ Cù ở Quế Lâm đã anh đũng một mình ra sức

giữa tòa cô thành dù biết đại thế đất Trung Nguyên đã suy đồi:

"Chung nhật tử trung tâm bất động,

Thiên thu địa hạ phát do trường."

(Quế Lâm Cù Các Bộ)

(Suốt ngày sinh tử lòng không núng,

Nghìn thuở u minh tóc vẫn dài)

Nguyễn Du hiểu và cảm thông cho sự ê chề của Liễu Tông Nguyên khi suối trong,

cỏ thơm, cây đẹp sống bên cạnh ông phải mang tiếng là "ngu". Dẫu thân ông có bị đày xa

sáu ngàn dặm thì ông vẫn là một trong tám nhà văn nổi tiếng tự nghìn xưa. Nỗi cảm

53

thương, niềm uất hận trong Nguyễn Du mới sâu thẳm, mới mênh mông làm sao khi với

tấm lòng của một thi nhân ông cảm nhận được bi kịch của những tài năng bị vùi dập,

những cái đẹp lý tưởng bị hủy diệt:

"Nhất thân xích trục lục thiên lý

Thiên cổ văn chương bái đại gia"

(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)

(Nghìn dặm một thân đời biếm trích,

Tám nhà muôn thuở tiếng văn chương)

Cũng trên dòng sông này, phong cảnh núi sông vẫn y như trước, chẳng thay đổi

cũng như tấm gương cô trung của Thừa Tướng được lưu truyền muôn đời. Nguyễn Du

vừa phục tài thơ, vừa cảm kích chí khí của tác giả "Chính Khí ca" một thời lẫy lừng, danh

tiếng. Tấm lòng ngay thẳng, cương trực, thơm tho của Âu Dương, người được mệnh danh

là Hàn Phi đời Tống cũng được Nguyễn Du hết lòng ca ngợi. Không chỉ là nhà văn lớn

đời Đường, Tống, ông còn là một viên quan cương trực, thanh liêm, khẳng khái. Tuy biết

rõ hiểm nguy đang chầu chực mình từ đầu lưỡi tráo trở của bọn nịnh thần, song ông vẫn

can đảm, nhiều lần tìm lời can gián vua. Lo cho người, cống hiến hết cho cuộc đời nên

nghìn năm nằm dưới suối vàng danh tiếng ông vẫn được truyền đi muôn thuở.

"Ngũ xích phong bỉ lập đạo bàng,

Tống triều cổ mộ ký Âu Dương

Bình sình trực đạo vô di hám,

Thiên cổ trùng truyền thượng hữu hương"

(Âu Dương Vân Trung công mộ)

- (Năm thước bia cao dựng cạnh đường,

Ghi rằng triều Tống mộ Âu Dương.

Suốt đời lòng thẳng không ân hận,

54

Chín suối nghìn thu vẫn nức hương)

"Hợp tung bất tại khước cường Tần,

Đãn hướng sở thân kiêu phú quí

Thích cổ nguyên vị quyền lợi mưu,

Ta hồ, Thứ nhân tiểu tai khí !"

(Tô Tần Đình II)

(Bày ra chước hợp tung

Không phải để ngăn cường Tần

Cốt để khoe phú quí với người thân

Giúi vế đọc sách cho tình ngủ

Cốt mưu quyền lợi cho bản thân

Than ôi! Hạng người này thật là tiểu nhân!)

Nguyễn Du đã vạch trần bản chất của Tô Tần, một điển hình của kẻ mưu cầu danh

lợi. Mưu hợp tung của ông ta không phải để đánh lui quân Tần tàn bạo mà là để được phú

quí, rồi lên mặt với người thân. Vinh hoa phú quí có là gì mà làm ông ta khổ sở đến thế!

Ông ta đâm dùi vào vế đọc sách chỉ là để mưu cầu danh lợi! Thật là nhỏ nhen, không

đáng mặt trượng phu. Lúc đầu chạy sang Tần bày kế liên hoàn chống sáu nước, không

được dùng lại chạy sang Triệu bày chước hợp tung liên kết chống Tần. ở đâu lại có con

người xấu xa bỉ ổi thế. Là người có học sao quá bần tiện và lắm đê hèn. Giờ đây, trên

đường đi qua đình Tô Tần, Nguyễn Du không thấy ngựa xe, vàng ngọc mà chỉ còn lại

một vùng cát mênh mông, cỏ mọc xung quanh ngôi đình trông rất ảm đạm và còn cả câu

hỏi bỉ ổi của y "Tiền cứ hậu cung, ngôn chính bỉ" (Trước sao khinh bỉ, nay sao kính

trọng?) đã trở thành "nghìn năm bia miệng". Thế mới hay đời người được - mất, uy

quyền, danh lợi, thực là rỗng không, vô vị, thế mà xưa nay ai nào phá được giấc mơ ấy?

55

"Nhân sinh quyền lợi thành vô vị,

Kim cổ thúy năng phá thử mê ? "

(Tô Tần Đình I)

(Đời người quyền lợi thành vô vị,

Ai phá nghìn xưa giấc mộng này?)

Nguyễn Du còn lên tiếng cảnh báo:

"Thế nhân đa độc Tô Tần truyện,

Do vị vị thế phú quí thương kỳ sinh!"

(Tô Tần Đình II)

(Bao nhiêu kẻ biết rõ chuyện Tô Tần,

Sao còn tham phú quí địa vị để thiệt thân?)

Tất cả đều trôi qua bình thản lặng lờ. Tiền tài, danh vọng, trướng gấm, lầu son, vàng

bạc ... Tất cả sẽ tan biến nhanh như "giấc mộng chàng Lư" và chỉ còn lại một nỗi buồn

với nồi kê chưa chín. Đi đến đâu, lòng Nguyễn Du cũng rung lên, thổn thức. Một Tỷ Can

đang ôm trái tim rỉ máu, một Nhạc Phi ôm uất hận xuống tuyền đài cùng cái án oan “Tam

tự ngục", một Hàn Tín chết oan uổng vì thủ đoạn "Cất cung giết chó" của vua quan

phong kiến ... Đâu chỉ có một... Còn nhiều, nhiều lắm những tấm gương khí tiết mà vô

cùng thảm khốc của lịch sử phong kiến Trung Hoa.

Thời đại mà Nguyễn Du sống là thời đại đầy những biến động, hiểm nguy mà con

người khó lường trước được. Đó là thế kỷ diệt vong của chế độ phong kiến Việt Nam, là

không gian thuận lợi cho những kẻ tiểu nhân dẫm đạp lên nhau để trèo lên nấc thang

danh vọng. ở xã hội mà luôn luôn có những viên quan lớn lo việc nước bằng những thủ

đoạn bỉ ổi, nham hiểm, hèn hạ, có những kẻ luôn vênh vang tự đắc, luôn mồm bàn

chuyện hiếu trung, song kỳ thực bọn chúng chỉ là một phường sâu dân, mọt nước:

"Kim nhân bất thiểu thực đa nhục,

56

Cơ linh gia dưỡng di súc,

Thanh bình thời tiết vô chiến tranh

Nhất khẩu hùng đàm bất kể Liêm Pha dữ Lý Mục"

(Liêm Pha Bi)

(Đời nay chán kẻ ăn thịt nhiều

Hầu như mọi nhà hết gia súc

Gặp thời thanh bình vô chiến tranh

Ngoài miệng nói hạng kể gì Liêm Pha cùng Lý Mục)

Nguyễn Du cũng đã mỉa mai không chút ngần ngại

"Thanh thời đa thiểu tu như kích

Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn"

(Tam liệt miếu)

(Thời bình biết bao kẻ râu vểnh lên như ngọn kích

Nói hiếu, bàn trung ai cũng tự suy tôn mình)

Hiểu được điều này mới thấy hết nỗi lòng ông, mới thấy hết sự phẫn uất khi ông

mắng tên gian thần Tần cối:

"Như thử tranh tranh chân thiết hán,

Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân!"

(Tần Cối I)

(Trông vẻ cứng cáp như thế kia, rõ là một con người sắt thép

Mà sao lại khúm núm thờ lũ người Kim)

"Nhất thế tử tâm hoài đại độc,

Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan"

57

(Tần Cối II)

(Một kiếp lòng đen, đầy nọc độc,

Nghìn năm sắt sống chịu oan lây)

Những lời mắng chửi thể hiện sự khinh bỉ tột cùng, sự căm phẫn đang bùng lên

ngùn ngụt trong lòng Nguyễn Du, không chỉ Tần cối, ông còn làm 2 bài thơ để mắng vào

mặt vợ y là Vương Thị:

"Nhất sinh tâm tính đồng phu tế,

Thiên cố hình hài nhục nữ nhi"

(Vương Thị Tượng I)

(Bụng dạ một đời giống hệt như chồng,

Hình hài ngàn năm làm nhục cho phụ nữ)

Nguyễn Du nguyền rủa thị là "gà mái gáy sớm" loại nhất, bụng dạ thị giống hệt

chồng. Quả thật xứng khéo cùng kẻ quyền gian kết làm chồng vợ:

"Thâm đồ mật toán thắng phu quân,

Ưng thị thần kê đệ nhất nhân

Bất lạn dĩ sinh tam thốn thiệt,

Thuần cương hoàn đắc vạn niên thân."

(Vương Thị Tượng II)

(Trọn đạo xướng tùy hẳn không có gi phải hối hận,

Trình độ gian ác như nhau, lại càng xoắn xít với nhau hơn)

Nguyễn Du tiếc cho cục sắt mang hình hài vợ chồng y mà đứng chịu nhục giữa cuộc

đời. Ông lại thấy vô lý tại sao lại để hắn cạnh Nhạc Phi, nếu vậy thì vô hình trung vợ

chồng hắn cũng bất hủ như bậc trung thần, cái phúc tày trời của hắn thật vô lý quá!

58

Phàm sống ở đời, con người làm gì, cống hiến gì, sai phạm gì khi chết đi đều được

người đời nhắc đến. Chẳng phải ca dao Việt Nam đã có câu:

"Trăm năm bia đá thì mòn

Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ" đó sao. (ca dao)

Tào Tháo gian hùng một đời, muôn thủa lưu lại bao mối ngờ vực con người.

Nguyễn Du lớn tiếng chỉ trích hành động gian đối của ông ta: Làm bảy mươi hai ngôi mộ

giả mà làm gì trong khi tiếng thối đầy sảng, ai chẳng biết. Ông ta chẳng qua chỉ là một

thằng giặc.

"Uổng dụng nhất nhân vô hạn trí

Không lưu vạn cổ hứa đa nghi

Xú danh mãn quách tàng hạ dụng

Tặc cốt thiên niên hạ bất tri"

(Thất thập nhị nghi trủng)

(Dùng mứu trí vô hạn của một người một cách uổng phí,

chỉ để lại bao nỗi ngờ cho muôn đời sau

Tiếng xấu đầy trong quách, thì còn chôn dấu kỹ để làm gì?

Nắm xương tên giặc nghìn đời, bị chửi bới cũng chẳng hay biết)

Nếu đúng là "Muôn kiếp xương tàn mắng cũng trơ" thì những lời phẫn nộ này

phỏng có tác dụng gì với kẻ đã ra người thiến cổ?

Những vị anh hùng, những hiền thần cống hiến cuộc đời, sinh mạng của mình cho

dân tộc đã không được ghi công, đền đáp. Họ đã bị hại, bị biếm trích, bị lưu đày, bị giết...

Dẫu có bị thế nào thì họ vẫn sáng tựa trăng rằm. Họ vẫn được một người tri âm sống xa

hàng nghìn thế kỷ cảm thông, thương xót và đã làm những vần thơ hay nhất để cảm kích,

ngợi ca.

59

Trong số đó, có lẽ Nguyễn Du dành nhiều tình cảm cho Khuất Nguyên. Năm bài

vịnh, chưa kể thêm một số bài nhớ cảnh, nhớ người mà ông đã nhắc qua vài câu. Có lẽ

theo suy nghĩ của ông, Nguyễn Du cho rằng viết về Khuất Nguyên mà chỉ viết một, hai

bài thì chưa thể nói rõ tâm tình sâu nặng và lòng kính trọng mà ông đành cho người bạn

lớn này.

Đến Trung Quốc nhân ngày giỗ Khuất Nguyên, Nguyễn Du nhìn thấy cảnh đua

thuyền trên sông để tưởng niệm Khuất Nguyên. Những kỷ niệm về Khuất Nguyên với

những câu chuyện xửa ồ ạt hiện về làm ông xốn xang, day dứt. Nguyễn Du nhớ Khuất

Nguyên - một con người trong sạch, luôn giữ tâm hồn thanh khiết cho lương tri mình và

người khác. Hãy nghe Khuất Nguyên tâm sự:

"Trong ta đã mười phần lộng lẫy

Chải chuốt càng thêm nảy xinh tươi

Sói ngàn, nhài bãi khoác ngoài

Tét lan thu lại làm đài đeo thường"

(Ly tao - Khuất Nguyên)

Đó là quan niệm và nhân cách sống của các nhân sĩ ngày xưa. Nguyễn Du cũng

muốn sống được như thế. Những hoài vọng, khát khao thời tuổi trẻ Nguyễn Du đã không

làm được, ông cũng chẳng thể "tuẫn quốc" như Khuất Nguyên. Chính vì lẽ đó Nguyễn

Du đã yêu mến, kính phục Khuất Nguyên và ông đã viết riêng cho Khuất Nguyên những

vần thơ xé ruột. Có nguồn cảm hứng dạt đào và lớn thế, chắc hẳn ông đã tiếp nối mạch

suy tư của Lý Bạch

"Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt,

Sở Vương đài tạ không sơn khâu"

(Từ phú Khuất Nguyên treo cao cùng nhật nguyệt

Trong khi đài tạ của Sở Vương chỉ còn là núi gò)

60

Thấu hiểu, cảm phục, mến thương Khuất Nguyên bao nhiêu, Nguyễn Du càng cảm

thấy đau xót. Tương Đàm hay Tương Âm, ở đâu Nguyễn Du cũng chạnh lòng nhớ

thương Khuất Nguyên da diết:

"Ngư long giang thượng vô tần cốt

Đỗ nhược châu biên hữu chứng phương"

(Tương Đàm viếng Tam Lư đại phu I)

(Trên sông đầy cá, rồng, nắm xướng tàn không còn nữa

Bên bãi sông chòm đỗ nhược có thêm những giống hoa tươi)

Vào tháng năm, những người dân Trung Quốc tổ chức đua thuyền, thả bánh trái, cầu

nguyện cá rồng đừng rìa xác Khuất Nguyên. Đó là một hình thức tưởng niệm, một việc

tượng trưng của người hậu thế. Thấy cảnh tượng đo', Nguyễn Du càng thêm buồn, thêm

chán.

"Thiên cổ chiêu hô trung bất phản

Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan

Yên ba điểu điểu không bi oán

Chiêng trống hàng năm hát múa tràn"

(Ngũ nguyệt quan cạnh độ)

(Nghìn thuở gọi hồn nào có thấy

Đầy sông đua trải thật thêm nhàm

Nước mây nhiều lúc sầu thương hão

Chiêng trống hàng năm hát múa tràn)

Lời của Nguyễn Du như trách cứ, đỗi hờn. Hồn Khuất Nguyên còn đâu nữa mà gọi,

lại thêm cảnh đua trải trên sông thật chán và buồn tẻ. Chỉ có Nguyễn Du, người hiểu

được Khuất Nguyên, người biết được "rắn rồng quỉ quái khắp nhân gian" (Ngũ nguyệt

61

quan cạnh độ), người đã từng ngậm đắng nuốt cay mà ở lại với cuộc đời này mới viết lên

những vần thơ chân tình ấy.

Không chỉ chán nản, bi quan, tuyệt vọng, Nguyễn Du còn lớn tiếng phản đối việc

gọi hồn Khuất Nguyên về.

"Hậu thế nhân gian giai Thượng Quan

Đại địa xứ xứ giai Mịch La

Ngư Long bất thực, sài hổ thực

Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?"

(Phản chiêu hồn)

(Đời sau người đều là Thượng Quan

Mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch

La Cá rồng chẳng nuốt, hùm sói cũng ăn

Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn làm thế nào?)

Tấm lòng thanh cao, tài trí tuyệt vời của Khuất Nguyên, cả cái cuộc đời nổi trôi vô

định của Khuất Nguyên cũng có cái gì giống với mình: "Thiên cổ Thúy nhân liên độc

tỉnh, Tứ phương hà xứ thác cô trung " (Nghìn năm sau, ai biết thương người độc tỉnh,

Tấm lòng cô trung biết ký thác vào đâu?) Nguyễn Du ngậm ngùi, ái ngại chơ Khuất

Nguyên hay cho chính thân phận mình. Chế độ mà Nguyễn Du đang sống đâu có khác gì

thời của Khuất Nguyên.

"Hồi nhược qui lai dã vô thác,

Long xà quỉ quắc biến nhân gian"

(Hồn mà trở về thì cũng không biết nương tựa vào đâu,

Khắp nơi trên cõi đời đầy những rắn rồng quỉ quái)

62

về mà làm gì khi cuộc đời này vô cùng đáng sợ. Hãy nghe Nguyễn Du kể lại tình

hình của nước Yên, những đất cũ của nước Sở, những nơi quen biết với Khuất Nguyên

hiện giờ:

"Thành quách do thị, nhân dân phi,

Trần ai cồn cồn ô nhân y

Xuất giả khu xa, nhập cứ tọa,

Tọa đàm lập nghị giai Cao, Quì.

Bất lộ trảo nha dừ giác độc,

Giảo tước nhân nhục cam như di.

Quân bất kiến Hồ Nam Sở bách châu,

Chì hữu sấu tích vô sung phì"

(Phản Chiêu hồn)

(Thành quách như cũ người khác xưa

Bụi mây mù mịt khắp tứ bề,

Đi ra xe ngựa, về vênh váo,

Đứng ngồi, ăn nói như Cao, Quì

Không lộ nanh vuốt cùng nọc độc,

Nhưng chén thịt người cứ tì tì.

Há chẳng thấy mấy trăm châu Hồ Nam?

Người người đói rách, gầy như que)

Viết "Phản Chiêu hồn" hẳn Nguyễn Du đã nhẹ lòng hơn vì những tiếng nói chí tình

của ông sẽ giúp hương hồn Khuất Nguyên siêu thoát. Nếu có quí yêu Khuất Nguyên, xin

hãy để linh hồn kia cất mình mà bay vào khoảng không xanh biếc, nơi không có bụi trần

63

ô trọc, không có những thủ đoạn dã tâm. Đó là tất cả những gì mà Nguyễn Du muốn dành

tặng cho người bạn lớn, người bạn chưa một lần gặp mặt.

Nguyễn Du rất yêu mến Đỗ Phủ. Ồng được xem là một thiên tài xuyên suốt mọi

thời đại. Đỗ Phủ được đánh giá là : "Trên làm nhạt Phong, Tao, dưới làm mờ Thẩm,

Tống; lời thơ vượt cả Tô, Lý; khí thơ át cả Tào, Lưu; che khuất Nhan, Tạ đỉnh cao,

nhuộm đục Từ, Dữu dòng thắm, được tất cả cái thể thế của cổ kim, có tất cả cái độc

chuyên của từng thi sĩ, người làm thơ xưa nay chưa từng có ai như Đỗ Tử Mỹ (Nguyễn

Chẩn). Nguyễn Du đánh giá Đỗ Phủ là "Văn chương nghìn đời và bậc thầy nghìn đời"

(Thiên cổ văn chương, thiên cổ sư). Ồng xác nhận ảnh hưởng của Đỗ Phủ đối với ông:

"Tôi ban đêm hồn mộng đi vào thơ Thiếu Lăng". (Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi).

Tinh cảm chân thật đó ông đã biểu lộ trong hai bài thơ viếng mộ:

"Dị đại tương liên không sái lệ

Nhất cùng chi thử khởi công thi?"

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)

(Sống khác thời đại thương nhau chỉ biết rơi nước mắt

Cùng quẫn đến thế, có phải vì giỏi làm thơ)

Đến Trung Hoa, những kỷ niệm về người tri kỷ Đỗ Phủ ùa về trong tâm trí ông với

một nỗi đau rất thực. Từ cổ chí kim, có thi nhân nào lại có cuộc sống bấp bênh, đói rách,

ăn nhờ ở đậu như Đỗ Phủ, đến lúc qua đời cũng chẳng chỗ yên thân, phải nằm lại trong

một chiếc thuyền nát thả trên dòng sông Tương giữa lúc đang khó khăn, đói rách ...

Nguyễn Du cũng đã từng "hết ăn nhờ ở miền sông lại ở miền bể", "ba tháng xuân bệnh

liên miên, nghèo không thuốc"; "cuộc phù sinh 30 năm, vẫn vì có mà phải lo" (Khỏi hứng

lan man I); "Qua cả hai miền Nam, Bắc, túi vẫn rỗng không," "Trăm năm nghèo xác

trong chốn văn chương", "Thân sáu thước nổi chìm trong vòng trời đất" (Khởi hứng lan

man II), nhưng làm sao khổ bằng Đỗ Phủ. Nguyễn Du chẳng bao giờ quên được những

tháng ngày túng quẫn, những quẩn quanh vụn vặt của gia đình Đỗ Phủ, những ngày đàn

con thơ kêu đói, kêu rét, khi căn nhà mái bằng tranh bị gió thổi tốc lên tận trời ... Cách

64

nhau hàng mấy chục thế kỷ, Nguyễn Du vẫn tìm thấy ở Đỗ Phủ một tâm hồn đồng điệu

với mình. Dù đớn đau, khổ ải thế nào, cả hai đều ngậm ngùi chấp nhận để mà sống với

cuộc đời. Và chính những điều ấy đã làm nên cuộc sống, làm nên những vần thơ.

Trong lịch sử văn hóa nhân loại, người ta hay nói đến tình tri kỷ giữa Lý Bạch và

Đỗ Phủ, Goethe và Schiller, Rimbaud và Verlaine... và hôm nay, đọc những vần thơ xé

lòng này, ta lại tìm thấy tình bạn "dị đại tương liên" (khác thời đại mà thương nhau) của

Nguyễn Du và Đỗ Phủ.

Tình yêu ấy của đôi bạn chỉ được xuất hiện có một chiều, lại cách xa hơn một nghìn

năm, lại ở hai đất nước khác nhau.

"Cộng tiễn thi danh sư bách thế

Độc bi dị vực ký cộ phần"

(Người ta thèm khát, khen khao cái thi danh

làm thầy thơ muôn thủa của ông. Còn riêng tôi, tôi lại

thương cho nấm mồ cô đơn của ông phải gửi nơi đất khách)

Phần (nấm mồ) kết hợp với cô, kỷ, dị vực cho thấy tài dùng chữ súc tích, đa nghĩa

của Nguyễn Du. Ông đã đem đối lập hai yếu tố cộng và độc, mọi người và ta, muôn

người và một ta, đối lập tiễn và bi, thi danh và cô phần. Trong lần gặp gỡ này, Nguyễn

Du đã thở cùng nhịp với Đỗ Phủ để rồi sau đó bản thân ông cũng rơi vào hoàn cảnh

tương tự. Bình luận về ý thơ này, Tiến sĩ Lê Thu Yến cũng có một câu nói rất chí tình:

"Rõ ràng, khi thể hiện cái bi đối với cuộc đời Đỗ Phủ, Nguyễn Du gần như đã tự

ngồi vào con thuyền số mạng chòng chành của Đỗ Phủ để sẻ chia, để bù đắp, để tiếc

nuối..." (5)

Nguyễn Du với Đỗ Phủ là hai người "đồng cảnh, đồng bệnh". Chẳng phải sao khi cả

hai đều phải xa quê hương, phải lưu lạc xa gia đình, cùng mang một nỗi đau, một niềm

trắc ẩn khi nhìn vào kiếp người. Nỗi đau ấy có lẽ xuất phát từ Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị mà

thấm vào Nguyễn Du tự thuở nào, để khi tìm về Đỗ Phủ, Nguyễn Du như muốn viết riêng

65

cho mình. Cũng giống xưa kia Đỗ Phủ đã yêu quí con người hơn yêu quí bản thân mình,

và giờ đây Nguyễn Du cũng thế. Những tình cảm ấy cứ dạt dào, tuôn chảy ra thành

những lời thơ hiện thực, thấm đẫm một nỗi đau vô bờ trước sự khốn khổ của một kiếp

người. Đã có lúc Nguyễn Du xem Đỗ Phủ như là một người bạn bằng vai phải lứa có thể

dễ dàng sẻ chia mọi nỗi niềm riêng tây mà chẳng e dè, giữ gìn một khoảng cách:

"Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị

Địa hạ vô linh quỉ bối xi"

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)

(Chứng lắc đầu cũ đã chữa khỏi được chưa

Dưới đất đừng để cho lũ ma quỉ cười mình)

Người ta yêu quí và ngưỡng mộ tài thơ Đỗ Phủ thì nhiều còn hiểu Đỗ Phủ thì chỉ có

Nguyễn Du. Chính ở sự đồng cảm này đã tạo nên người nghệ sĩ vĩ đại trong ông.

Có một nhà văn nào đã nói: "Trước một bộ óc vĩ đại tôi cúi đầu, trước một trái tim

vĩ đại tôi quì gối", còn tôi, nếu đứng trước Nguyễn Du tôi sẽ vừa cúi đầu và quì gối bởi

ông đã có một trái tim vĩ đại lại thêm một bộ óc vĩ đại.

Viết về những nhân vật văn hóa - lịch sử Trung Hoa, dường như Nguyễn Du ngày

càng tiến nhanh hơn về quá khứ, gần với quá khứ để hiểu, để cảm thông và chia sẻ ... Với

tấm lòng đó, Nguyễn Du đã khắc vào thơ ca, tạc vào thời gian và không gian những linh

hồn nghìn xưa tiết nghĩa. Và chính điều này đã tìm cho ông những tri âm của hậu thế, là

chúng tôi ngày hôm nay.

1.3.2.Nguyễn Du với phụ nữ

Gắn bó với con người, với cuộc sống, Nguyễn Du còn đặc biệt xót thương cho

người có tài và có tình. Đó là những người phụ nữ có nhan sắc, có tài năng mà phải gánh

chịu những mất mát, khổ đau trong đời.

Những người phụ nữ ấy, dù là ca nhi, kỹ nữ hay là vợ vua, thiếp vua ... dù là gì đi

nữa nhưng đã sống và chết khác mọi người thì đều là đối tượng của tấm lòng ưu ái của

66

Nguyễn Du. Trước Nguyễn Du, văn học Trung Đại Việt Nam chưa có một nhà văn, nhà

thơ nào có được cái nhìn xót xa, thông cảm, và đồng cảm sâu nặng đối với người phụ nữ.

Tuy là nhà nho và sống trong giai đoạn lụi tàn nhất của chế độ phong kiến, Nguyễn Du

vẫn ý thức được vai trò và giá trị của người phụ nữ. Không mạnh mẽ và kiên quyết như

Hồ Xuân Hương, người đã có đóng góp quan trọng vào giá trị nhân văn của văn học giai

đoạn này, người đã quẫy đạp, vùng vẫy mạnh mẽ để đề cập đến một yêu cầu chính đáng

của con người trong việc đấu tranh chống lại luân lý, lễ giáo khắc nghiệt, vô nhân đạo

của chế độ phong kiến mà bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ, Nguyễn Du có lẽ bằng tấm

lòng mình đã cảm nhận được tất cả sức nặng của luân lý phong kiến, của bộ máy xã hội,

của gia đình đè nặng lên đôi vai bé nhỏ, gầy guộc, lên tâm hồn của những người vợ,

người mẹ, những tiểu thơ lá ngọc cành vàng và cả những cô gái con nhà nghèo. Quả đúng

như vậy. Văn học dân gian xưa cũng đã từng chỉ ra được cái nhỏ nhoi, vô định của thân

phận người phụ nữ. Họ là những "hạt mưa", những "tấm lụa đào", những "giếng giữa

đàng", những "miếng càu khô",... "trái bần trôi",...

Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân

Thân em như miếng càu khô

Kẻ thanh tham mỏng người thô tham dày

Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu. (Ca dao)

Họ không có giá trị gì, không có chỗ đứng nào trong gia đình nhưng phải gánh gồng

biết bao trách nhiệm, bển phận nặng nề. Từ coi sóc gia đình đến gìn giữ gia phong, từ

67

việc giữ tiết hạnh mình đến việc làm gương cho người khác. Đã có biết bao đau thương,

cay đắng, tủi hờn căm hận trong cái cúi đầu vâng dạ ấy. Khuôn vàng thước ngọc của "tứ

đức - tam tòng" đã ràng buộc chặt họ, muốn quẫy cựa cũng không được. Đã bao lần

chúng ta nghe về sự tích Đá vọng phu, một biểu tượng thiêng liêng, kết tinh cho sự thủy

chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam nhưng đã có bao giờ chúng ta hiểu được đằng

sau sự câm lặng đến nhẫn nhục ấy là sự giấu che một nỗi đau vô bờ trong trái tim người

phụ nữ.

"Vạn kiếp diêu vô vân vũ mộng

Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân

Lệ ngân bất tuyệt tam thu vã

Đài triện trường minh nhất đoạn văn"

(Vọng phu thạch - THTT)

(Bặt mộng mây mưa trong một kiếp

Giữ lòng trinh bạch trọn muôn đời.

Lớp rêu đoạn sách còn ghi mãi,

Dòng lệ mưa thu cứ chảy hoài).

Ngay từ đầu bài thơ, nỗi xúc động của nhà thơ đã tràn ngập. Ba câu hỏi tu từ "thạch

da nhân da? Bỉ hà nhân?" (Là người, là đá, là ai đấy nhỉ?) đã thể hiện sự cảm kích vô

cùng trước tấm thân Hệt nữ kia. Hỏi để mà khẳng định thêm lần nữa phẩm chất trong

ngọc sáng ngần của người đàn bà hóa đá. Con người ấy, nhân cách ấy đáng đứng một

mình trên ngọn núi hàng nghìn năm nay và muôn kiếp sẽ không bao giờ có được giấc

mộng mây mưa nữa. Còn gì hạnh phúc, còn gì khao khát nữa khi đến suốt cuộc đời,

người phụ nữ ây sẽ không còn được hưởng những lạc thú của trần gian. Và đớn đau hơn,

người phụ nữ phải đứng trong bão tuyết, trước gió sương để làm một tấm gương sáng cho

cả cuộc đời, để giữ vững cho đạo cương thường mà mình đã bất hạnh mang lấy. Tất cả

những uất ức, đắng cay ấy sao chẳng có ai thấu hiểu, cảm thông. Các bậc nam nhi quân

68

tử đâu hết mà để cho nàng chinh phụ phải nuốt tủi ngậm hờn, muôn kiếp treo mình ưên

đỉnh núi cao để xây dựng bức thành đạo lý? Để nàng Kiều trầm luân lưu lạc trong bể khổ

đến mười lăm năm trời với câu nói nghìn năm làm người đời thổn thức "Chút lòng trinh

bạch từ sau xin chừa". Thật phũ phàng và cay đắng.

Một người nghệ sĩ chân chính và vĩ đại thì tình yêu con người phải vượt biên

cương. Điều này có nghĩa là người nghệ sĩ ấy phải biết yêu thương, thông cảm với tất cả

những số phận bất hạnh mà họ cảm thấy và nhận biết, không kể quốc gia hay dân tộc nào.

Nghệ sĩ Nguyễn Du đã làm được điều ấy. Một Dương Quí Phi của xứ người với tài sắc

tuyệt trần, được chúa dấu vua yêu, sống trong lầu son gác tía với tột bực giàu sang và uy

quyền ... Thế mà chỉ trong một chốc thôi phải đắng cay, nuốt tủi ngậm hờn khi bị ép bức

tử. Người đời mắng chửi và nguyền rủa Quí Phi, xem nàng là tội nhân của đất nước, chỉ

có Nguyễn Du đã đứng ra nhận lấy nỗi oan của nàng và một phần trách nhiệm của những

kẻ làm quan mà chở che, bênh vực.

"Tự thị cử triều không lập trượng,

Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành"

(Dương Phi cố lý)

(Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng,

Mà ngàn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành)

Đến hai bà phi khóc chồng nước mắt vấy vào khóm trúc thành những vết lốm đốm.

Vì luân thường, vì đạo lý, họ đã hy sinh cả hạnh phúc tuổi xuân mình giữ gìn cho trật tự

cương thường không bị lung lay, phá vỡ. Chỉ còn lại giữa cuộc đời này là "Nhị phi sái lệ

trúc thành ban" (Hai bà vấy lệ đốm thân tre) - Thương Ngô Tức Sự I. Nguyễn Du cũng

không quên ban tặng sơn son, thếp vàng cho ba liệt nữ nhà họ Lưu. Cả ba người phụ nữ

này đã tuẫn tiết để giữ vững tiết hạnh của đạo làm người:

"Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt,

Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn."

69

(Tam liệt miếu)

(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba người đàn bà tiết liệt,

Cương thường một thủa thuộc về một nhà)

Rõ ràng lời thơ không phải chỉ cảm thông suông. Ông nhận thức được những con

người ấy đã không sinh ra cùng một giờ, ở cùng một thời nhưng đều gặp gỡ ở cùng một

số phận và ở cùng một tấm lòng. Họ đều là những người phải sống trong cái vòng ngột

ngạt luẩn quẩn của chế độ phong kiến. Họ dường như chẳng có một chức phận gì trong

khi đó họ lại phải gánh gồng quá nhiều trách nhiệm. Từ việc gìn giữ gia phong cho dòng

tộc, đến lo trau dồi công - dung -ngôn - hạnh cho bản thân mình. Họ long đong, nổi chìm

vì thân phận, phải nhẫn nhục tựa nương dưới bóng của người chồng. Họ luôn phải gặp

những rủi ro, bất trắc:

"Trên lầu cao, dưới dòng nước chảy

Phận đã đành, trâm gãy, bình rơi"

(Văn chiêu hồn)

Những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh còn là đối tượng quan tâm của nhà thơ. Tuy

chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến nhưng Nguyễn Du không có con mắt nhìn sai

lệch của một nhà nho. Đối với ca nhi, kỹ nữ, ông chưa bao giờ xem họ là "xướng ca vô

loài" mà luôn trong ông là tình yêu thương, sự cảm thông sâu sắc.

Sách "Vũ Trung tùy bút" chép:"Nguyễn Khản ham thích hát xướng, gặp khi con hát

tang trở cũng cứ cho tiền bai hát, trong nhà không lúc nào bỏ tiếng tơ, tiếng trúc .-.."(6)

Cuộc sống đó đã lý giải được phần nào lòng trắc ẩn của nhà thơ đối với phụ nữ nói

riêng, với ca kỹ nói chung. Cái cảnh những người đàn bà sống trong xã hội cũ, vì có chút

nhan sắc hay có giọng hát hay, rồi phải đem nhan sắc, giọng hát đó làm trò chơi cho thiên

hạ mà sau này ra đời nhà thơ còn có nhiều dịp chứng kiến nữa. Vì thế, chúng ta chẳng lấy

làm ngạc nhiên khi trong tác phẩm của mình, ông luôn luôn yêu mến, xót thương cho phụ

nữ.

70

Có ai đó đã nói rằng Nguyễn Du khóc cho những người ca kỹ cũng là khóc cho

ông? Có lẽ vậy bởi họ đều là những người tài hoa và cũng bạc phúc như mình. Hoàn cảnh

của cô cầm trong bài Long Thành cầm giả ca giống nhà thơ chỗ nào mà khi gặp lại ông

đã rơi nước mắt?

"Hồng trang yểm ái đào hoa diện

Đà nhan hám thái tối nghi nhân

Lịch hạn ngụ thanh tày thủ biến

Hoãn như sơ phong độ tùng lâm

Thanh như song hạc minh tại âm

Liệt như Tiến Phúc bỉ đầu toái tích lịch

Ai như Trang Tích bệnh Trung vi Việt ngâm

Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện

Tiện thị trung hòa đại nội âm"

(Long Thành cầm giả ca)

(Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào

Má hồng men rượu dáng thơ ngây, rất đáng yêu

Năm cung réo rắt theo ngón tay đàn mà đổi điệu

Tiếng khoan như gió thổi qua rừng thông

Tiếng trong như đôi chim hạc kêu lúc đêm khuya.

Tiếng mạnh như tiếng sét đánh tan bia Tiến phúc

Tiếng buồn như Trang Tích ngâm tiếng Việt lúc ốm đau

Người nghe mê mệt không biết mỏi

Đó là khúc nhạc trong đại điện Trung Hòa)

71

Quả thật tiếng đàn của cô cầm là tinh hoa thuộc về trời đất. Nó là cái đẹp, cái tinh

túy được chắt lọc từ nghìn đời. Thế nhitog cái đẹp ấy, cái tình túy ấy đang bị qui trình

vận động nghiệt ngã, lạnh lùng của thời gian thiêu hủy và đi vào cõi hủy diệt.

Giọng thơ ngậm ngùi, tiếc thương cho một cuộc đời khắc bạc hay chính là lời cảm

thương cho chính thân phận mình? Cái nhìn hôm nay đã được nhìn từ cái của hôm qua,

sự lụi tàn được chiếu soi từ vàng son của quá khứ. Tiếng đàn ấy đã gợi ra bao cung bậc,

bao nỗi niềm, ứng lên bao khúc nôi tâm trạng. Có lẽ, nó là tiếng đàn tiền thân của cùng

đàn bạc mệnh của Kiều sau này. So với tiếng đàn của người con gái "sắc sảo mặn mà" thì

giai điệu của tiếng đàn trong bài thơ này có phần còn sơ lược. Điều đó có lẽ cũng dễ hiểu.

Bởi khúc bạc mệnh trong Truyện Kiều là do người đàn sáng tạo ra từ chiêm nghiệm, suy

tư cá thể còn ở đây là một khúc ca đã trở nên cổ điển, vốn có từ lâu, khúc Trung Hòa đại

nội để phục vụ các bậc đế vương. Dường như đối với người nghe lúc này thì tiếng đàn là

tuyệt vời nhất, đáng nói nhất:

"Ai này nghe nhường quên mệt mỏi,

Rỗ tiếng đàn đại nội Trung Hòa

Tây Sơn quên cả tiếng gà tan canh.

Tả lại hữu tranh giành gieo thưởng,

Tiền như bùn ước lược qua qua."

(Long Thành cầm giả ca)

Ca ngợi tài sắc của giai nhân đất Long Thành, lời thơ của Nguyễn Du còn thấm

đượm ý vị triết lý nhân sinh về vinh, nhục, thăng, trầm ở đời. Tài sắc, tài hoa từ bao đời

nay vẫn thế, lúc nào cũng đứng trước thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Đằng sau từng

câu từng chữ của Long Thành cầm giả ca, ta cảm nhận sâu sắc hơn chất triết lý rất đời ấy.

Lần này Nguyễn Du trở lại Thăng Long trong tâm thế khác. Là một ông chánh sứ.

Trong bữa tiệc hoa của quan Tuyên phủ sứ Hà Thành, có rất nhiều ca nhi, kỹ nữ xinh

tươi. Ấy vậy mà thật là lạ. Đôi mắt của Nguyễn Du cứ đăm đắm nhìn về phía cuối chiếu:

72

"Mé cuối tiệc một người nho nhỏ,

Tóc hoa râm mặt võ mình gầy

Bơ phờ chẳng sửa đôi mày".

Tiếng đàn ấy đã gợi cho Nguyễn Du biết bao nỗi niềm tâm sự. vẫn là tiếng đàn tài

hoa của ngày xưa, chỉ cổ điều người đàn đã tàn tạ, héo khô đi rất nhiều ... Trước sự thay

đổi lạnh lùng và nghiệt ngã ấy, nỗi đau trong ông hiện lên rất đời, rất thực...

Dưới con mắt của một người nghệ sĩ, quỉ luật tự nhiên của tạo hóa mới vô tình và

nghiệt ngã làm sao. Đối với giai nhân, thi sĩ thì cái đẹp là của cải vô giá. Nguyễn Du cũng

là một nghệ sĩ nên ông rất ý thức về điều đó, rằng những trang quốc sắc thiên hương luôn

tâm niệm "bất hứa nhân gian kiến bạch đầu". Thế mà hôm nay, ông lại gặp những người

con gái xưa, kẻ con bồng, con dắt, người xơ xác, tiều tụy héo khô ... Đứng trước bao nỗi

niềm ngổn ngang ấy, Nguyễn Du đã thốt lên những câu thơ giữa mênh mang cảm xúc.

"Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thủy

Đoạn ngẫu thuổng tại vị tuyệt ty!

Kiến thuyết giả nhân dĩ tam tử,

Khả liên do trước khứ thời y

(Ngô gia đệ cựu ca cơ)

(Chậu đổ thôi rồi khôn vớt lại,

Ngó lìa thương nỗi vướng tơ này

Lấy chồng đã có ba con nhỏ,

Áo cũ thương sao mặc đến nay!)

Sợi tơ sen vấn vương hay cõi lòng ông đang luyến lưu không muốn rời đứt với

những kỷ niệm xưa đang ồ ạt hiện về?. Tất cả những tâm sự ấy đã về cùng ông để thổi

bùng lên ngọn lửa yêu thương trong trái tim đa cảm ấy.

73

1.3.3.Nguyễn Du vối người nghèo

Thơ Đường trước Đỗ Phủ cũng như thơ Việt Nam trước Nguyễn Du hầu như chưa

có yếu tố hiện thực.

Chói sáng tên tuổi Nguyễn Du trên thi đàn không phải chỉ vì nghệ thuật tuyệt diệu

trong Truyện Kiều mà là tính hiện thực và nhân đạo rộng lớn và sâu sắc như biển cả. Câu:

"Văn chương hợp vi thời nhì trước,

Thi ca hợp vi sự nhi tác"

(Làm văn phải vì thời thế,

Làm thơ phải vì hiện thực)

của Bạch Cư Dị xưa kia đã được Nguyễn Du tuân thử khá triệt để, có phần nổi trội

hơn. Kể ra điều này cũng dễ hiểu bởi vì Nguyễn Du sống cách Bạch Cư Dị cả hàng ngàn

năm và được nuôi dưỡng bằng luồng gió mới của thời đại, khi chế độ phong kiến đã bước

vào giai đoạn suy tàn.

Tiếng thơ trong Bắc hành lồng lộng một tấm lòng cảm thương, sẻ chia với những số

phận tủi cực, khổ nhục của nhân dần lao động.

Đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã tận mắt thấy được bao cảnh đời cơ cực. Phải đâu

chỉ có người dân đất Việt mới lầm than đói rách, phải đâu chỉ có gia đình của Nguyễn Du

mới khốn khó, đói nghèo! Hiện thực trước mắt đập vào khiến ông phải ngỡ ngàng, chua

xót:

"Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão,

Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!

(Thái Bình mại ca giả)

(Nghe nói Trung Hoa no ấm cả,

Trung Hoa cũng có cảnh này sao?)

74

Những tưởng nhân dân Trung Quốc no ấm, đủ đầy lắm, chẳng ai ngờ Trung Hoa

cũng như đất Việt. Tất cả những tiếng kêu ấy không phải là những tiếng kêu suông,

những công thức thơ mà là tâm huyết, là máu thịt phát ra từ trái tim ông dành cho dân

nghèo. Ông chợt nhận ra rằng xưa cũng như nay, Trung Quốc cũng như Việt Nam, lịch

sử xã hội phong kiến trì trệ đâu đã có gì thay đổi! Giai cấp thống trị dù là ở thời nào, dù

là ở đâu thì có khác gì nhau, chúng đều là một lũ sâu dân mọt nước. Chúng luôn sống phê

phơn, sung túc bên cạnh những cuộc đời đói khổ bơ vơ. Thi nhân chợt nhận ra rằng sự

thống khổ lầm than đang tràn mênh mông, đang bao trùm xuống và phủ chụp hết thảy

mọi kiếp người. Ta hiểu tại sao đi đến đâu, gặp cảnh đói nghèo chết chóc, Nguyễn Du

cũng đều cúi mình xuống thật thấp để nâng đỡ, xoa dịu, vỗ về và dỗ dành mà không hề

phân biệt. Ông đau lòng trước cảnh mất mùa, đói kém phải bỏ làng đi ặn xin của mấy mẹ

con người hành khất.

"Mẩu tử bất túc tuất

Phủ nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống đại tâm đầu

Thiên nhật giai vị hoàng

(Sở kiến hành)

(Mẹ chết không đáng tiếc

Vỗ về con mà thêm đứt ruột

Trong lòng đau xót lạ lùng

Mặt trời cũng vì người mà vàng ùa)

"Đại Nam tiểu nữ tần cơ sắc

Khang ti vi thực lê vi canh

Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo

75

Hoài trung táo tử thân biện khuynh

(Trở binh hành)

(Trai lớn, gái nhỏ đói xanh mặt

Cám nấu thay cơm, cỏ nấu canh

Mắt thấy người đói bên đường chết

Hột táo trong bọc lăn bên mình)

Đó là "Những điều trông thấy" mà Nguyễn Du đã nhìn tận mắt. Một người mẹ dắt

ba đứa con, áo quần nhếch nhác, bẩn thỉu ngồi xin bên đường từ sáng sớm đến trưa mà

vẫn chưa có gì ăn; người mẹ nước mắt đầm đìa, không dám nhìn ai tận mặt. Nhưng đau

xót hơn nữa là những đứa bé hãy còn thơ dại quá, chưa hiểu nổi cái khổ đau đang giày vò

mấy mẹ con, cứ cười nói vui vẻ như thường. Dọc đường phố đầy những thây người chết

đói. Trước cảnh tượng thảm thiết ấy, mặt trời cũng xót xa đến ùa vàng, vậy mà những kẻ

có trách nhiệm với nhân dân thì "bình chân như vại" cứ thản nhiên ăn uống xa xỉ, vui

chơi thỏa thích. Thức ăn thừa mưa đến nỗi "Quan lớn không chọc đũa, kẻ tùy tùng chỉ

nếm qua" đến nỗi "con chó bên hàng xóm cũng chán thức ăn ngon". Thật không còn cách

nào làm nổi bật lên được cái bất công đến tàn nhẫn như thế hơn được nữa.

Mỗi một bài thơ là một nét bút sắc nhọn vẽ đúng hiện thực mà ông đang nhìn thấy.

Đó là nỗi thống khổ của "dân đen" như chiến tranh, mất mùa, thiên tai, đói rét, chết chóc,

cuộc sống phiêu dạt khổng nhà cửa. Và duy chỉ Nguyễn Du là người đầu tiên nhận ra sức

mạnh của đồng tiền, uy lực của nó đối với cuộc sống của con người trong thời đại của

mình. Không có tiền, họ trở thành những người đói rách, đáng thương. Họ có thể chết bất

cứ lúc nào và cũng có khi vì miếng cơm, họ đã đánh mất danh dự

"Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc

Khước tọa, liềm huyền, cáo chung khúc

Đàn tận tâm lực cơ nhất canh

Sở đắc đồng tiền tận ngũ lục

76

Tiểu nhỉ dẫn đắc há thuyền lai

Do thả hồi cố đảo đa phúc"

(Thái Bình mại ca giả)

(Miệng sùi bọt, tay rã rời,

Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong

Dốc hết tâm lực gần một trống canh,

Mà chỉ được năm, sáu đồng tiền.

Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền

Còn quay đầu lại ngỏ lời chúc "đa phúc")

Thật là chua xót khi người nghệ sĩ này phải đứng nhìn người nghệ sĩ khác lạy tạ sau

khi đã cống hiến đến sức tàn lực kiệt. Còn đâu là tiếng đàn tri âm tri kỷ?. Chỉ còn lại giữa

đời là tiếng thét lanh lảnh, tiếng kêu thảng thốt đến uất ức khi nhìn vào hiện thực.

Hẳn sẽ có người ngạc nhiên tại sao Nguyễn Du lại có mối đồng cảm sâu sắc với

người nghèo khó trong khi ông xuất thân từ một dòng dõi cao quí? Đúng là như thế.

Đúng là Nguyễn Du đã có một tuổi thơ nhung lụa, sang quí, nhưng quãng đời tươi đẹp ấy

đã chấm hết khi ông bước sang tuổi li. Những ngày kế tiếp là những tháng ngày nổi trôi,

long đong, lận đận khắp bốn bể chân ười. Suốt thời gian ở chân núi Hồng ông đã nếm trải

đủ cảnh đói nghèo, bệnh tật. Ông đã từng "ngắm hoa cục nở cho qua bữa", "Bệnh nặng

mà không có tiền uống thuốc", đã từng sống nương nhờ nhà người khác. Chính vì thế thơ

ông luôn thấm đẫm hiện thực và sức tố cáo sâu sắc.

"Quân bất kiến sứ thuyền triều cung đốn lệ

Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ

Hành nhân bão thực tiện khí dư

Tàn hào lãnh phạn trầm giang để"

(Thái Bình mại ca giả)

77

(Anh chẳng thấy lệ cung đốn mỗi ngày cho thuyền đi sứ

Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt,

Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vất

Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông)

Và ở một chỗ khác

"Lộc cân tạp ngư xí

Mãn trác trần trư dương

Trưởng quan bất hạ trợ

Tiểu môn chỉ lược thường"

(Sở Kiến hành)

(Gân hươu cùng vây cá

Đầy bàn thịt lợn, thịt dê

Quan lớn chẳng đụng đũa

Tùy tùng chỉ nếm qua loa)

Đọc những câu thơ này chúng tôi tin rằng tiếng thơ của Nguyễn Du được xuất phát

từ một mối đồng cảm "từ dưới lên" với nhân dân chứ không phải là sự ban ơn của kẻ bề

trên đối với người dưới. Nguyễn Du, xét cho cùng cũng đã từng lâm vào cảnh hàn vi, khi

chạy loạn về quê vợ đến những năm nương náu dưới chân núi Hồng, nên ông dễ cảm

thông với cảnh đời cùng khổ của nhân dân, đó cũng là nguyên nhân nảy sinh tư tưởng

nhân ái trong ông. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng một nửa. Bao nhiêu nhà nho xưa kia

cũng xuất thân từ cảnh hàn vi như Nguyễn Du, nhưìig đã có bao nhiêu người có được tấm

lòng, tình yêu thương nhân dân vô cùng sâu sắc như ông? Hay khi trở thành một lớp

người đặc quyền đặc lợi trong xã hội, đa số họ đã quên mất vai trò kẻ sĩ của mình đối với

nhân dân và nền văn hóa dân tộc; rút cục thú vui của cuộc đời họ là nhấm nháp cái thi vị

của từ chương, cú pháp, với văn chương Đường Tống.

78

Cái sĩ diện của phong kiến nhẫn tâm đến thế là cùng! Càng làm to, chúng càng tỏ ra

mình là lớn lao, sang trọng, phải ăn uống no nê đủ đầy, chán chê ở nhà chứ ở những bữa

tiệc đông người thế này thì không thèm chọc đũa. Ngay cả bọn tôi tớ cũng thế! Nhưhg

mặt khác, hình ảnh tương phản trên còn là một lời tố cáo đanh thép, sắc nhọn rằng bọn

chúng đã luôn phải ăn ngon, đến nỗi phải sợ cả thịt! Và cái xã hội cố giai cấp ác nghiệt ấy

như là những bức tường dày, vững chắc, không thể nào xuyên qua được. Trong bài "Hà

Nam đạo trung khốc thử", giữa cảnh nắng cháy tràn, gió tắt im phăng phắt, sau khi tả

những người đi đường vẫn qua lại dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời, tả những con ngựa

mệt nhoài vì kiệt sức, đã kêu rít lên ... Nguyễn Du đã vứt hẳn cái mũ ông quan của mình

và cúi xuống thật gần người phu xe ấy:

"Hà xứ thôi xa hán

Tương khan lục lục đồng"

(Hà Nam đạo trung khóc thử)

(Anh chàng đẩy xe kia quê ở đâu nhỉ?

Nhìn nhau thấy vất vả như nhau)

Còn, còn nhiều nữa những cảnh đời cay cực, long đong và đói khổ của nhân dân mà

Nguyễn Du đã nhìn thấy. Trong ông luôn luôn đậm đặc những tình cảm xót thương cho

người nghèo, người bị đói. Vì thế lời thơ của ông nặng nề hơn, u uất hơn:

"Mã minh tư tự mạt

Dân thực bán tùy khang"

(Tín Dương tức sự)

(Ngựa kêu đòi thức ăn ngon

Dẫu ăn nửa tấm cám)

Mâu thuẫn lại lồ lộ trước mắt. Dường như bao giờ cũng thế. Thơ Nguyễn Du luôn

luôn là một bức tranh tương phản đến chặt chẽ từ lời thơ, hình ảnh đến cấu tứ. Con ngựa

này có thể là con ngựa đã kéo xe cho đoàn sứ Nguyễn Du, còn dân có thể là những người

79

mà Nguyễn Du đang ở trọ trong nhà họ. Hay cũng có thể đó là những cảnh mà Nguyễn

Du bất chợt gặp trên đường. Có thể nói chưa lúc nào Nguyễn Du thấy mình gần gũi nhân

dân như lúc này. Những vần thơ thấm đẫm chất hiện thực của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị xưa

kia lại được dịp sống dậy và tràn về tâm hồn ông, giúp ông yêu thương hơn, cảm thông

hơn với những người nghèo khó ấy.

Nhà văn Lermontop (1814 - 1841) đã có một câu nói rất cảm động: "Tôi ra đời ở

đây, nhitìig tâm hồn tôi không ở đây". Bi kịch của nhà văn Nga là ở mối mâu thuẫn giữa

thực tại với đời sống và những mong ước của người nghệ sĩ đối với thực tế. Sự dằn xé

khôn nguôi ấy đã khiến tâm hồn người nghệ sĩ không yên ổn, họ phải đi đến những nơi

xa, khát khao tìm kiếm một chân trời mà ông hi vọng có thể phù hợp với khát vọng của

mình. Còn sự ra đi của Nguyễn Du phải chăng là một sự may mắn đến bất ngờ của lịch

sử, trước một thực tại xã hội đầy biến động, thì điểm dừng của Nguyễn Du tại Trung

Quốc có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nơi đây Nguyễn Du đã dành cho các thi nhân Trung

Quốc, cho những bậc hiền thần những món quà gan ruột: những bài thơ. Bên cạnh đó,

Nguyễn Du cũng nghiêng mình thấp xuống để cảm thông, để bênh vực, để chở che và

trân trọng với những số phận của kiếp hồng nhan, của ca nhi, kỹ nữ, của những người dân

vì đói vì rét phải bán con, phải lăn lóú nằm chờ chết bên vệ đường.

Công cuộc đi sứ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du trải rộng lòng mình trên mỗi

chặng đường, dành cả tâm hồn để bắt nhịp với những khúc nhạc lòng xưa và nghiêng

mình chiêm vọng. Bản nhạc lòng ấy xin cho phép chúng tôi được trình bày kỹ ở chương

2.

Cuối cùng, xin mượn lời của Giáo sư Mai Quốc Liên và Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị làm

lời kết cho phần này: "Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật

trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một

ngàn năm thơ chữ Hán của ông cho ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của

Trung Quốc nữa" (Lời của Giáo sư Mai Quốc Liên)(7) và Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị khẳng

định thêm: "Tìm hiểu Nguyễn Du mà chỉ nhắc đến Truyện Kiều và một số tác phẩm thơ

Nôm khác thì mới chỉ nói được một nửa THIÊN TÀI MẸ ấy" (8). Và chúng tôi tin rằng

80

nó rất xứng đáng để nhiều nhà nghiên cứu tốn giấy mực hơn nữa, sẽ trỏ nên quen thuộc

như Kiều, sẽ làm mọi người say mê như hôm nay tôi đã.

81

CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

TRONG TẬP BẮC HÀNH TẠP LỤC CỦA NGUYỄN DU

2.1.KHÁI NIỆM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: "Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của

phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật" (9).

Như vậy theo định nghĩa này thì chúng ta có thể hiểu rằng nhà văn khi sáng tác đã chọn

lọc, xây dựng và làm sống lại các yếu tố, hiện tượng của cuộc sống bằng hình tượng.

Hình tượng nghệ thuật, một mặt hiện thực hóa những suy nghiệm của nhà văn về cuộc

đời, mặt khác, nó có khả năng tồn tại độc lập như một khách thể đời sống thực thụ.

Điều này lý giải nguyên nhân tại sao khi xây dựng tính cách hoạt động của nhân vật,

nhà văn thường khó kiềm chế được cảm xúc của mình. Có lúc họ tưởng chừng như chính

mình là nhân vật, đang mang lấy niềm vui và nỗi buồn của nhân vật. Đối với những tác

phẩm văn học có giá trị cũng như những tác phẩm điện ảnh nổi tiếng, nhân vật sống và

tồn tại độc lập đến nỗi người ta quên tên tác giả, quên tên thật của diễn viên. Chỉ nhớ đến

nhân vật. Trong văn học thế giới, người ta nhổ đến Natasa trong "Chiến tranh và hòa

bình", Hạ Du trong "Thuốc". Trong vãn học Việt Nam là nàng Kiều trong Truyện Kiều,

chị Dậu trong Tắt Đèn...

Cũng theo từ điển thuật ngữ văn học: " về mặt cấu trúc, hình tượng nghệ thuật là

một cấu trúc thống nhất, chặt chẽ và hạt nhân của cấu trúc này là phức hợp của một quan

hệ xã hội - thẩm mỹ. Trước hết, đó là mối quan hệ giữa thế giới trong tác phẩm và thực

tại mà nó phản ánh. Thứ đến, quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan

hệ giữa tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa.

Cuối cùng, quan hệ giữa các yếu tố của bức tranh đời sống" (10). Hình tượng nghệ thuật

đước xây dựng do sự chọn lọc, tái tạo của nhà văn, vì thế nó phản ánh cả quan niệm,

nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống. Tim hiểu hình. tượng nghệ thuật, thực chất

cũng chính là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của tác giả thông qua hình tượng trong tác

phẩm.

82

Trần Đình sử còn giải thích thêm: "Quan niệm không phải là khái niệm về đối

tượng, về hiện thực, mà là khái niệm về sự cắt nghĩa đối với đối tượng và hiện thực... Do

vậy, quan niệm xét về bản chất là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ qui chiếu,

thể hiện tầm lý giải, tầm hiểu biết, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm

hoạt động của chỏ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn,

khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng." (11)

Trong tác phẩm, quan niệm nghệ thuật được biểu hiện bằng sự lặp lại trên nhiều

bình điện, nhiều cấp độ, thể hiện cách lý giải, cách cắt nghĩa hình tượng. Xem Bắc Hành

tạp lục, chúng tôi thật sự ngạc nhiên trước các cuộc gặp gỡ giữa ông đối với những nhân

vật lịch sử như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch. Chưa bao giờ Nguyễn Du gặp họ thực

sự. Ông chỉ găp họ qua những vần thơ còn lại giũa cuộc đời thế mà Nguyễn Du đã hiểu

họ biết nhường nào. Chính những vần thơ của những nhà thơ Trung Quốc đã sống một

cuộc đời độc lập trong ông, và sức sống ấy lại mãnh liệt trong ông biết nhường nào bởi

Nguyễn Du là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ chân chính như những nhà thơ xưa.

Sức sống của những Hoài Sa, Ly Tao, Tự kinh phó phụng tiên, Tỳ bà hành, Trương

Tiến Tửu đã được thai nghén và hạ sinh ra từ những tư tưởng, tình cảm của cuộc đời nhà

văn, từ những chân lý đời sống mà nhà văn đã nhọc công tìm kiếm.

Khuất Nguyên viết Ly Tao từ nỗi đau của lý tưởng không thực hiện được, Đỗ Phủ

viết bằng máu và nước mắt của cuộc đời mình, Lý Bạch viết ra từ sự khao khát tự do, còn

Nguyễn Du viết Truyện Kiều và thơ chữ Hán từ những điều trông thấy, từ hiện thực của

chính cuộc đời mình...

2.2.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI

"Con người là yếu tố đầu tiên và cũng là trung tâm trong thế giới nghệ thuật của

một bài thơ hay một dòng thơ, góp phần bộc lộ quan niệm nghệ thuật của một tác giả hay

một bộ phận tác giả văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất

quan trọng của văn học." (12)

83

Văn học nghệ thuật là một sự tự ý thức về đời sống, nên nó mang tính quan niệm rất

cụ thể. Hình tượng nghệ thuật về con người một khi đã hình thành là mang tính quan

niệm. Nhà vãn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan

niệm là một phương tiện thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Thông thường, khi nghiên cứu

tác phẩm, chúng ta chỉ quan tâm đến tính cách của nhân vật rồi kết luận nhân vật đó tốt,

xấu, cao thượng hay thấp hèn...Hiếm khi người nghiên cứu xem nhà văn ấy đã xây dựng,

chọn lọc chi tiết ấy như thế nào.

Ví dụ như trong Bắc Hành tạp lục, Nguyễn Du miêu tả con người theo những giá trị

của tinh thần cộng đồng người Việt, những tư tưởng không gì thay thế được của thời đại,

và trên hết là những cá tính rất riêng biệt của cụ Nguyễn . Bởi thế trong thơ chữ Hán của

Nguyễn Du, ông đã tồn tại thực sự, tồn tại một cá nhân độc lập, không lạc lõng, không

hòa tan với bất cứ điều gí, với bất cứ ai. Và những tư tưởng, tinh thần của văn minh nước

mình đã từ tiềm thức của Nguyễn Du mà qua ý thức để biến thành con người trong thơ.

Nhìn một cách tổng thể thì hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học có nhiều

phương diện tạo thành một chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật. Tuy nhiên, trong một tác

phẩm, nhất là tác phẩm văn học , hình tượng con người là nổi bật nhất. Bởi con người là

đối tượng trung tâm của văn học, là giá trị của tác phẩm văn học. Các yếu tố khác như

thời gian, không gian... đểu có quan hệ chặt chẽ với con người, hoặc thể hiện suy nghĩ,

quan niệm của con người trong tác phẩm.

Có thể dẫn ra đây bài thơ "Tùng" của Nguyễn Trãi. Đây là bài thơ tâm huyết về

cuộc đời, về sự nghiệp, về niềm tin được cống hiến trọn đời cho con người và cho đất

nước. Xét lời thơ, cách xưng hô, ta thấy bài thơ vừa là lời tự bạch của cây tùng, vừa là lời

tâm sự vỗ vệ cây tùng, nói với cây tùng, cho cây tùng. Nhà thơ và cây tùng như hòa

quyện với nhau làm một, cùng chung một tâm sự, một nỗi niềm.

Bài thơ toát lên một niềm tin mãnh liệt, không lay chuyển của nhà thơ vào phẩm

chất, giá trị, vào lý tưởng hữu dụng cao cả của mình. Và chính vì thế, cây tùng có mối

quan hệ chặt chẽ với hình tượng tác giả. Nó làm rõ hơn phẩm chất, năng lực, cảm xúc,

nghĩ suy của tác giả trước thế giới tự nhiên.

84

Hình tượng con người trong tác phẩm văn học tồn tại dưới nhiều hình thức, có thể là

cái tôi cá thể biểu hiện trực tiếp tâm sự, tình cảm của mình:

"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả trả vay

Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể"

(Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ)

Ở đây, hình tượng người anh hùng với chí khí dọc ngang trời đất này thực chất

không trùng khớp với tác giả mà nó là một cá thể tự bày tỏ, tự bộc lộ.

Nó thể hiện sự sôi nổi nhiệt thành, niềm đàm mê mãnh liệt, có hơi "bốc lửa" của cái

tôi cá nhân về "chí làm trai", về "nợ tang bồng" về phận sự của kẻ nam nhi trong vũ trụ.

Hình tượng con người cũng có thể là cái chung đại điện cho giai cấp, cho dân tộc,

thể hiện ý chí chung của cả tập thể. ở vào vị trí đó, nó lớn bổng, kỳ vĩ:

"Hồn chúng tôi quẩn quanh càng đất nước

Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu

Như bóng cờ bay sớm sớm chiều chiều" (13)

Hình tượng con người nghệ thuật có thể được xây dựng trực tiếp như trong truyện

ngắn, tiểu thuyết, hoặc biểu hiện gián tiếp thông qua tình cảm, cảm xúc của tác giả trước

thực tại như trong thơ trữ tình.

Trong các thể loại tự sự, hình tượng con người được xây dựng cụ thể, sống động

bằng lời nói, hành động, diễn biến tâm lý. Ở đây nhà văn đã tận dụng sự tưởng tượng

tổng hợp, sáng tạo của mình từ những mẫu hình sinh động trong đời sống.

Trong truyện của Nam Cao, con người được miếu tả trong một bình diện tồn tại sơ

đẳng nhất. ở đó, con người phải bán dần sự sống để duy trì sự sống. Đó không phải là con

người phàm tục trong cuộc sống tiểu tư sản như mọi người quan niệm. Các nhân vật mà

85

Nam Cao miêu tả đều là những người lao động, người nghèo. Nhân vật mà Nam Cao tập

trung xây dựng đều là những con người muốn vươn lên cho xứng đáng với con người

nhưng luôn bị hoàn cảnh chà đạp, dày xéo. Con người trong tác phẩm của Nam Cao luôn

ở thế chênh vênh của hai bờ vực: "Một bên là sự sống, một bên là cái chết", họ dường

như không còn con đường nào để sống. Vì thế con người luôn uất ức, phẫn nộ, luôn chửi

đời, chửi người.

Còn đối với các tác phẩm trữ tình, mỗi bài thơ là một tâm hồn của con người. Con

người trong thơ là con người tự bày tỏ, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về cuộc sống,

về chính bản thân.

Con người trong thơ luôn gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình. Trong thơ chữ

Hán Nguyễn Du khi ông nói:

"Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan

Tây song nhật lạc thiên tương mộ"

(Hành lạc từ II)

(Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi

Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)

thì đó là sự ý thức về cái hữu hạn của con người. Mặt trời lặn là hình ảnh biểu tượng

cho thời gian sắp tàn, sắp vãn. Con người trong thơ kêu gọi hãy vui chơi cho thỏa thích,

hãy sống hưởng thụ kẻo chẳng còn kịp.

Dù dưới hình thức thể hiện nào, cảm xúc và tình cảm của con người trong thơ muốn

đi sâu vào tâm hồn người đọc thì đó phải là cảm xúc và tình cảm bắt nguồn từ nhịp sống

của thời đại. Tức là nó phản ánh những mong mỏi, những khao khát của biết bao thân

phận con người trong thời đại đó. Muốn vậy, con người trong thơ phải có trái tim đồng

cảm sâu xa với mọi khổ đau và hạnh phúc của con người trong xã hội. Bêlinxki đã từng

nói: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại, nếu chỉ do ở mình, và chỉ miêu tả

mình đù là miêu tả những nỗi khổ đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ

86

thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ

khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là thứ khí quan và đại biểu của xã hội, của

thời đại và của nhân loại". (14)

Đối với văn học Việt Nam, con người trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hương chính là những con người như vậy.

Con người trong thơ hiếm khi được xây dựng cụ thể. Nó là tổng hòa của muôn mặt

cảm xúc và muôn mặt nghĩ suy. Vì vậy, nó tác động trực tiếp đến tâm hồn, nó làm sống

dậy trong lòng người đọc những trăn trở, những xúc cảm được thanh lọc từ cuộc sống

muôn màu muôn vẻ.

Tìm hiểu và nghiên cứu hình tượng con người trong tác phẩm trữ tình tức là tiếp cận

con người trong một tác phẩm cụ thể. Cũng có thể dựa trên một hệ thống tác phẩm để

thấy được những đặc điểm chung nhất của hình tượng trong toàn bộ sáng tác của tác giả

thể hiện qua toàn bộ tình cảm, cảm xúc trong tác phẩm.

2.3.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP BẮC

HÀNH TẠP LỤC

Trong khi phản ảnh đời sống, nghệ thuật thể hiện cái nhìn chủ quan của mình đối

với các hiện tượng, và từ đó bộc lộ ý nghĩa đời sống. Viện sĩ Nga M.B Khrapchencô xác

nhận: "Chân lý của cuộc sống có tính cá nhân đối với thế giới vốn có ở từng nghệ sĩ thực

thụ, không tồn tại bên ngoài các đặc điểm về tư duy hình tượng, bút pháp sáng tác của

nghệ sĩ. " (15)

Như vậy, để hiểu được nội dung cuộc sống trong tác phẩm tất yếu phải khám phá

cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn.

Trong chương này, chúng tôi xem xét hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ

chữ Hán Nguyễn Du - ở tập Bắc Hành tạp lục. Tìm hiểu hình tượng nghệ thuật trong tập

thơ Bắc Hành tạp lục cũng chính là xem xét quan niệm của tác giả thông qua hình tượng

con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm của ông. Có thể xem xét hình tượng nhân vật

87

trong tác phẩm trữ tình ở nhiều góc độ: cái tôi với bản thân, cái tôi với người khác, cái tôi

với thế ệiôi tự nhiên bên ngoài.

Tác giả Lê Thu Yến trong công trình nghiên cứu "Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán

Nguyễn Du" có nhận định "Có thể nói đó là hình tượng của người vừa có tầm nhìn cao

rộng thoáng đạt, khao khát hiểu biết chiếm lĩnh thế giới vừa lê gót chân chậm chạp nặng

nề giữa nhân gian để có thể hội nhập vào thế giới của đói nghèo, bệnh tật, chết chóc,

phóng tầm mắt rà soát lại những cay cực phong trần mà mọi kiếp đời phải nếm trải, để

đặt câu hỏi tại sao và tại sao. Có lẽ bao trùm lên tất cả là sự tự ý thức: ý thức về cá nhân

mình, ý thức về con người và thế giới chung quanh. Sự tự ý thức ấy nó chi phối tất cả các

mặt tâm trạng thể hiện trong tác phẩm." (16)

Nhìn lướt qua về thế giới quan của Nguyễn Du, ta thấy có nhiều điểm phức tạp,

mâu thuẫn và giằng xé. Là một ông quan, một nhà nho, Nguyễn Du đã chịu những ràng

buộc của hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến, chính tư tưởng ấy luôn mâu thuẫn

với những điều trông thấy trước mắt. Đó còn là sự đối nghịch đến chặt chẽ giữa tinh thần

nhân đạo và những luân lý đạo đức, ý thức trung quân và khát vọng tự đo, hạnh phúc,

tinh thần thời đại và đạo đức cổ truyền... Vì vậy việc nhìn nhận và đánh giá con người

trong thơ Nguyễn Du không tránh khỏi những mâu thuẫn phức tạp.

Trên một cái nhìn toàn diện, nhiều chiều, chúng ta thấy được tâm tư, tình cảm, suy

nghĩ của con người trong toàn bộ tập Bắc Hành tạp lục. Đó là một con người yêu thương

luôn khao khát nắm bắt được những chân lý sâu xa, muôn đời của đời sống, tìm được một

lối đến hạnh phúc cho loài người. Đó còn là con người đời thường với bao ước mơ được

thụ hưởng, sống cuộc sống hạnh phúc, vượt khỏi mọi khuôn khổ xã hội đang ràng buộc

chính bản thân mình. Và cuối cùng là con người vũ trụ với mơ ước được sống thoát tục,

thoát khỏi mọi khuôn khổ chật hẹp tù túng bó buộc con người với miếng cơm manh áo,

với bệnh tật già nua, với những toan tính vụn vặt quẩn quanh của đời thường ... Con

người trong tập thơ Bắc Hành tạp lục vừa thống nhất vừa có những mâu thuẫn hết sức

phức tạp. Để tìm hiểu và lý giải nó, có lẽ phải đi thật sâu đến từng biểu hiện của cảm xúc

thông qua toàn bộ tác phẩm trong 132 bài Bắc Hành tạp lục.

88

2.3.1.Con người yêu thương

Mai Quốc Liên trong lời nói đầu Nguyễn Du toàn tập có viết: "Tôi muốn đến cùng

Nguyễn Du như đến với một con người suốt đời khắc khoải về con người, về lẽ đời, về

cái gì là chủ yếu trong đời ... Con người ấy như đang sống giữa chúng ta. "Khác thời đại,

thương nhau, chỉ rớt nước mắt" (Dị đại tương liên không sái lệ). Nguyễn Du đã từng làm

thế, ta há lại không thể đáp lại Nguyễn Du cũng bằng tình cảm ấy?" (17)

Có thể nói, hầu hết 132 bài thơ trong tập Bắc hành tạp lục như một lời tự sự ghi lại

từng chi tiết, từng hình ảnh, từng cảm xúc trong cuộc đời đầy sóng gió của ông.

Trong đó có nhiều mặt của một tâm hồn. Đó là nét bi hùng để làm nên khúc ca bi

tráng của một con người suốt đời mang nặng tâm tự với cuộc sống. Đó là những nếp nhăn

hằn sâu trên trán vì âu lo trước những được mất của cuộc đời. Đó còn là những xúc cảm,

những sự dằn vặt, day dứt khôn nguôi trước những nỗi đau nhân tình thế thái, trước sự

bất công đang đè nặng, phủ chụp, tìm diệt con người ... Chính ở đây nét thơ thể hiện con

người yêu thương trong ông. Đó là hình tượng con người yêu thương với bao trăn trở, âu

lo, suy tư cùng với nỗi xót thương trước nỗi oan trái và sự thống khổ của mọi kiếp người.

Trong số đó, có lẽ Nguyễn Du ưu ái và dành lòng nhiều nhất cho phụ nữ. Có ai hơn

cô cầm về tài đánh đàn. Tiếng đàn của cô dìu dặt, khoan thai, trong như tiếng gió rừng

thông. Nàng nổi danh là nhờ ngón đàn Nguyễn mà nàng học được trong cung vua Lê.

Không những hát hay, đàn giỏi, người ca nữ đất Long Thành ấy còn biết nói chuyện khôi

hài làm nhiều người say mê. Họ đua nhau ban thưởng cho nàng. Trên mặt đất chỗ nàng

ngồi đầy những tiền, lụa, vàng chồng chất. Còn nàng, ánh mắt lúc nào cũng long lanh,

kiêu hãnh về sự ngưỡng mộ mà mọi người dành cho mình. Đi sâu vào, người đọc hẳn

chắc sẽ nhận ra điều này: Tiếng đàn dường như luôn làm ông xúc động. Hơn một lần,

chúng tôi nói hơn một lần là dựa vào con số thống kê trong 4 lần trong Truyện Kiều. Lần

thử nhất Kiều đàn tại nhà Kim Trọng

"So dần dây vũ dây văn,

Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương

89

Khúc đâu Hán Sở chiến trường,

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau.

Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu,

Nghe ra như oán như sầu phải chăng!

Kê Khang này khúc Quảng Lăng,

Một rằng lưu thủy hai rằng hành văn

Quá quan này khúc Chiêu Quân,

Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.

Trong như tiếng hạc bay qua,

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,

Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa."

(Truyện Kiều câu 471 - 475)

Lần thứ hai tại nhà Hoạn Thư

"Bốn dây như khóc như than,

Khiến người yến tiệc cũng tan nát lòng!

Cũng trong một tiếng tơ đồng,

Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm!

Giọt châu lã chã khôn cầm,

Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương

(Truyện Kiều câu 1853 - 1858)

Lần thứ ba, Kiều bị bắt ép phải đàn cho Hồ Tôn Hiến

"Một cung gió thảm mưa sầu,

90

Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!

Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai

Hồ cũng nhăn mày rơi châu,

......

Thưa rằng "Bạc mệnh khúc này,

Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ

Cung cầm lựa những ngày xưa

Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!

(Truyện Kiều câu 2569 - 2578)

Lần thứ tư là lần Kiều đàn trong buổi đoàn viên

"Phím đàn dìu dặt tay tiên,

Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.

Khúc đâu đầm ấm dương hòa

Ấy là hồ điệp hay là Trang Sinh.

Khúc đâu êm ái xuân tình,

Ấy hồn Thục Đế hay mình Đỗ quyên

Trong sao châu nhỏ duềnh quyên

Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!

Lọt tai nghe suốt năm cung,

......

Một phen tri kỷ cùng nhau,

Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.

(Truyện Kiều 3197-3214)

91

Và hai lần trong Long Thành cầm giả ca. Lần thứ nhất, đó là năm 1793, lúc đó

Nguyễn Du mới 28 tuổi đến Thăng Long thăm người anh là Nguyễn Nể đang làm đại

quan cho Tây Sơn.

"Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến,

Giám Hồ hồ biên dạ khai yến"

(Nhớ hồi tuổi trẻ từng được biết

Giám hồ gần bên, đêm yến tiệc)

(Long Thành cầm giả ca)

Hình ảnh người con gái tài sắc của đất Kinh Kỳ được tái hiện vô cùng "lộng lẫy":

21 tuổi xuân mơn mởn, áo hồng ánh lên khuôn mặt hoa đào, với ngón đàn tuyệt diệu:

"Đà nhan hám thái tối nghi nhân,

Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.

Hoãn như sơ phong độ tùng lâm,

Thanh như song hạc minh tại âm.

Liệt như Tiến Phúc bị đầu toái tích lịch,

Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm.

Thính giả mĩ mĩ bất tri quyện,

Tiện thị Trung Hòa đại nội âm.

Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh"

(Dìu dặt năm cung tay nắn phím

Khoan như tiếng hạc vọng từng không

Mạnh như tiếng sét đánh tan bia Tiến Phúc,

Buồn như Trang Tích, giọng Việt ngâm não" nùng,

92

Người nghe mãi mê không biết mệt,

Vốn nhạc Trung Hòa nơi câm cung.

Các quan Tây Sơn trong tiệc đều nghiêng ngả)

(Long Thành Cầm giả ca)

Đó là những nét phác họa gợi lên cái thần thái, cái tinh anh của "người đẹp Long

Thành" . Hai mươi năm ấy "biết bao nhiêu tình", bể dâu biến đổi, thế mà tiếng đàn xưa

vẫn còn ngân vang mãi trong lòng nhà thơ. Năm cung đàn réo rắt. Tiếng đàn chậm dần,

chậm dần, thay đổi tiết tấu giai điệu nghe mênh mang tha thiết buồn như tiếng rên của

Trang Tích, người nước Việt làm quan nước Sở, ốm nặng sắp qua đời vẫn bồi hồi nhớ cố

hương. Tác giả chỉ sử dụng năm câu thơ để tả tài nghệ diễn tấu và âm thanh, giai điệu

tiếng đàn của người kỹ nữ đất Tràng An thuở xưa thế mà đã cho ta biết bao nhiêu xúc

động. Câu thứ nhất tả ngón đàn điêu luyện, như cách nói của Bạch Cư Dị: "Ngón buông

bắt khoan khoan dìu dặt" (Ti Bà hành). Hai câu tiếp theo sử dụng hai so sánh, lấy tiếng

thông reo, tiếng hạc gọi bầy để gợi tả tiếng đàn du dương, êm ái. Sau này, trong Truyện

Kiều khi tả tiếng đàn của Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim thi hào vẫn viết: "Trong

như tiếng hạc bay qua ... Tiếng khoan như gió thoảng ngoài Hai câu cuối đoạn thơ tác giả

lấy hai điển tích về sét đánh vỡ tan bia Tiến Phúc (Xuân Thu chiến quốc) tạo nên những

liên tưởng về âm điệu hùng tráng, não nùng của tiếng đàn cô cầm. vẫn là bút pháp ước lệ

tượng trưng, dùng điển tích, điển cố của thi pháp trung đại, nhưng với lối nói, lối tả giàu

hình tượng gợi cảm và hàm súc đã đem đến cho người đọc nhiều liên tưởng, tưởng tượng

đầy thi vị. Lần thứ hai, từ quá khứ trở về hiện tại, giọng thơ trở nên bùi ngùi, thương cảm.

"Tịch trung ca kỹ giai niên thiếu.

Tịch mạt nhất nhân phất bản hoa,

Nhan sấu thần khổ hình lược tiểu.

Lạng tạ tàn mi bất sức trang,

Thày tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu.

93

Cựu khúc thanh thanh ám lệ thúy,

Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi"

(Danh ca trong tiệc bao cô gái,

Chiếu dưới một nàng tóc đốm hoa,

Dáng thô, hình nhỏ, da mai mái

Phờ phạc mặt mày chẳng điểm trang,

Ai có hay đâu bậc nhất tài hoa từ thuở ây.

Khúc cũ lời lời lệ nhỏ sa,

Lọt tai nghe xót nỗi lòng ta)

(Long Thành Cầm giả ca)

Đắm chìm vào quá khứ, tiếng đàn một thời làm Nguyễn Du say mê, đã đánh thức

Nguyễn Du trở về thực tại. Thì ra cuộc đời chỉ là một chớp mắt, cái chớp mắt đầy kinh

hoàng. Nguyễn Du nhận ra rằng thời gian không chỉ trôi chảy rất nhanh mà còn có tính

năng hủy diệt, loại trừ rất lớn.

Bài thơ chẳng đơn thuần chỉ là sự chuyển cảnh trong một bài thơ kể chuyện thông

thường. Đó là sự trải nghiệm xót xa trước sự còn mất của con người. Quan niệm "sinh kí

tử quy" (Sống gửi thác về) dù sao cũng là nguồn an ủi với Nguyễn Du trong lúc này.

Nguyễn Gia Thiều trong Cung Oán Ngâm đã nâng quan điểm ấy thành cái nhìn triết học.

"Nghĩ thân phù thế mà đau

Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê

Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ

Đường thế đồ gót rỗ kì khu.

Sóng cồn cửa bể nhấp nhô

Chiếc thuyền bão ảnh lô xô gập ghềnh"

94

Có lẽ triết học hiện sinh, văn học hiện sinh xuất hiện ở phương Tây như một thứ

hướng đạo tinh thần một phần cũng là trên cơ sỡ ấy. Nó nói đến sự phi lý, vô nghĩa của

cuộc đời. Lần này ra Bắc, Nguyễn Du được hưởng thụ một bữa tiệc hát múa ở kinh thành,

đó cũng là niềm vui nho nhỏ sau một chặng đường dài. Niềm vui của Nguyễn Du cũng

giống như niềm mong đợi của Bạch Cư Dị trong những tháng ngày dằng dặc ở đất Giang

Châu:

Từ xa kinh khuyết bây lâu

Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai

Chốn càng tịch lấy ai vui thích

Tai chẳng nghe đàn địch cả năm

Niềm vui thì giống nhau nhưng tình huống nghe đàn thì khác hẳn. Người đánh đàn

mà Bạch Cư Dị gặp là lần đầu tiên, cô ấy lại tự kể về cuộc đời mình.

Còn người đánh đàn trong thơ Nguyễn Du không lạ. Người ca nhi ấy dấu tích tang

thương của hai chục năm biến thiên dâu bể, là cái gạch nối chông chênh của cuộc đời

sóng gió nổi chìm của Nguyễn Du. Giá mà con người trong thơ có thể nói cùng nhau vài

lời với cô kỹ nữ kia thì khối ẩn ức tinh thần kia sẽ được sẻ chia một ít. Chính vì không

nói lời nào nên nỗi đau ấy càng dày lên, nhức buốt thêm. Nguyễn Du đã khóc cho Đạm

Tiên, khóc cho Thúy Kiều, khóc cho Tiểu Thanh. Và bây giờ ông khóc nhiều hơn nữa

cho con người xa lạ kia. Có thể cách bày tỏ tấm lòng của ông khác nhau với từng người,

nhưng xét cho cùng, tình thương ấy đều xuất phát từ ngọn nguồn "giật mình, mình lại

thương mình xót xa". Tình yêu thương của Nguyễn Du thật đáng ngợi ca, cảm kích.

Thế kỷ XVIII với sự mục nát đến cùng cực của vương triều nhà Lê, với chiến tranh

liên miên, sinh linh oán thán, vấn đề nổi lên hàng đầu là số phận con người và quyền

sống của cá nhân. Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, những người sáng tác khúc ngâm, là

những người mở đầu cho khuynh hướng văn học nhân đạo: Thức tỉnh ý thức về quyền

sống và số phận con người; cất lên tiếng kêu đau thương oán hận thương thân, xót mình

thống thiết của những người trong cuộc. Thơ văn trước thế kỷ XVIII như của Nguyễn

95

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng ... thường đề cao đạo đức và những giá trị tinh

thần. Họ cốt giữ mình cho trong sạch, thanh cao, thoát tục, còn cuộc sống vật chất, hạnh

phúc trần thế như thế nào không phải là vấn đề lớn. Đối với Nguyễn Du, dưới sự bùng nổ

dữ dội của ý thức cá nhân, ông nhìn thấy những cuộc đời đau khổ đang rên xiết, đang kêu

gào, những bất công đang truy bức, đang đe dọa, đang dồn con người vào chốn hủy diệt,

tan rữa. Con người trong thơ cảm thấy thương cho mọi kiếp đời, thương cho mình. Con

người thương cho cuộc đời chung trước mắt, thương cả cho những mảnh đời cụ thể

chung quanh.

"Thương tâm vãng sự lệ triêm y"

(Long Thành Cầm giả ca)

(Ta cảm thương việc cũ, nước mắt thấm áo)

"Ngã sa kiến chi bi thả tân

Phàm nhân nguyện tử bất nguyện bần"

(Thái Bình mại ca giả)

(Ta trông thấy mà thương. Người ta thà chết còn hơn sống nghèo)

"Cực mục thương tâm hà xứ thị?

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương"

(Tương Đàm viếng Tam Lự Đại Phu I)

(Ta nhìn hết tầm mắt mà đau lòng, chẳng rõ ông trầm mình ở chỗ nào? Khi đi qua

vùng sông Nguyên, sông Tương, gió thu thổi chỉ thấy lá thu rụng tơi bời)

"Dị đại tương liên không sái lệ

Nhất cùng chí thử khởi công thi?"

(Ông với tôi sống ở hai thời đại xa nhau mà vẫn thương nhau, nhớ ông mà rơi nước

mắt. Ông cũng khổ như thế há phải vì ông thơ hay).

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ I)

96

"Kỳ thống tại tâm đầu,

Thiên nhật giai vị hoàng,

Âm phong diệc thê hoàng

Tạc Tiêu Tây hà dịch"

(Sở Kiến hành)

(Lòng đau xót vô cùng, trông lên tận trời, mặt trời vàng ùa.

Gió lạnh bỗng đâu ào tới, khách qua đường cũng cảm động xót thương).

Nguyễn Du đã từng chứng kiến nhiều kiếp đời đau thương, bất hạnh. Từ cái hiện tại

ê chề đầy tủi nhục đến cái tương lai đen tối, mù mịt đang chờ đón cả gia đình người hát

rong, mấy mẹ con người hành khất, những người dân chạy loạn, những người lao động

chân tay nghèo khổ...Nguyễn Du cảm thấy, nhận thấy hết... Tất cả những sự cảm thông

ấy thể hiện rất rõ tấm lòng của con người yêu thương trong thơ.

Nguyễn Du trong thơ mình có nhiều lần dùng từ "khả liên". Có lúc ông nói cho

mình.

"Khả liên bạch phát cung khu dịch" (Thiên thai tự)

(Khá thương mình đầu bạc rồi vẫn phải chịu để người sai khiến)

"Mỗi liên cố thác duy cuồng tại" (Từ châu đạo trung)

(Thường nghĩ thương cho tính cũ của mình vẫn còn cuồng phóng)

Rồi đến thương cho người

"Khả liên đối diện bất tương tri" (Long Thành cầm giả ca)

(Thương thay gặp mặt mà không nhận ra nhau)

"Khả liên do trước khứ thời y" (Ngô gia đệ cựu ca cơ)

(Ái ngại thay vẫn phải mặc cái áo thời trước)

(tức vẫn là con hát)

97

"Khả liên thế đại tương canh diệt" (Triệu Vũ đế cố cảnh)

(Thương thay, đời nọ kế tiếp đời sau)

Từ những cảm xúc ấy, con người trong thơ thấy buồn, thấy tiếc.

"Thành quách suy di nhân sự cải

Kỷ xứ tang điền biến thương hải

Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,

Ca vũ không di nhất nhân tại"

(Long Thành cầm giả ca)

(Thành quách đổi dời, việc người cũng khác

Bao nơi nương dâu biến thành biển cả

Cơ nghiệp Tây Sơn tiếu vong đâu hết,

Mà còn sót lại một người trong làng ca múa)

Công bằng và khách quan mà nhận xét thì những giọt nước mắt thương tâm mà ông

rỏ xuống làm ướt vạt áo kia đâu phải chỉ cảm thương cho ông, hay cho cô Cầm, hay là

oán trách sự khắc bạc, tàn nhẫn của thời gian mà lý do còn sâu kín hơn nhiều. Hai mươi

năm không phải là ngắn đối với một đời người. Hai mươi năm với đầy ắp những sự kiện

và biến cố. Buồn nhiều hơn vui. Bao nhiêu lần đổi thay triều đại là bấy nhiêu lần con

người phải nếm cảnh ly tao, loạn lạc, mất mát, bi thương. Bằng tình yêu, sự cảm thông,

Nguyễn Du muốn nhấn mạnh rằng xã hội mà họ đang sống hay đã sống - tất cả đang bị

chìm xuống, nhất là tài năng và sắc đẹp thì càng bị hủy diệt một cách nhanh chóng.

Hình tượng con người yêu thương trong thơ Nguyễn Du còn thể hiện ở hình ảnh

người phụ nữ có tài, có sắc, có phận nhưng bạc mệnh. Đó là hai bà vợ vua Thuấn, chị em

Tiểu Kiều, Đại Kiều thời Tam Quốc, Dương Quí Phi, Ngu Cơ, Chiêu Quân, ba người đàn

bà ở miếu Tam liệt. Nguyễn Du luôn trân trọng phụ nữ, biết ơn phụ nữ. Nên khi viết về

họ, tay bút ông mềm mại hơn, uyển chuyển hơn. Ông nhận thức được rằng một nửa nhân

98

loại này được sinh ra bởi phụ nữ nhưng hễ có chuyện gì thì người đời đổ tội lên đầu

người phụ nữ, mang họ ra để mắng nhiếc, lăng nhục. Muôn đời Nguyễn Du vẫn không

thay đổi quan niệm của mình. Ồng cho rằng tạo hóa đã ban phát cái đẹp cho phụ nữ, như

một món quà tặng. Và cái đẹp tự bản thân nó không làm nên tội. Chỉ có con người, vì

lòng tham, vì dục vọng, vì sự đố kỵ, vì sự ghen tuông và cả sự ngu dốt làm hại cái đẹp,

chà đạp lên cái đẹp như chà đạp lên những giá trị đạo đức chân chính.

"Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,

Đông Phong thành hạ bất thăng tình"

(Dương Phi cố lý)

(Hương tàn phấn rã, nay tìm đâu?

Đứng dưới thành, trước làn gió đông, lòng ta cảm xúc vô hạn)

Xưa nay, khi nhắc. đến Dương Quí Phi, người đời thường không tiếc lời chửi rủa,

lăng mạ nàng, xem nàng là tội nhân của đất nước. Chỉ duy nhất Nguyễn Du thấy được

nguyên nhân của thảm họa mất nước, của sự sụp đổ vương triều, là cuộc sống sa đọa của

vua, là sự bất lực, nhu nhược hèn yếu của cả triều đình phong kiến. Và cũng giống tình

yêu thương của Nguyễn Du dành cho Đạm Tiên, cho Kiều, cho các cô gái buôn nguyệt

bán hoa trong Văn Chiêu hồn, nàng Tiểu Thanh, cô cầm, người hầu cũ của em, cô gái ở

đất La Thành ...

Con người chừng như thấu hiểu được nỗi niềm của hai bà vợ vua Thuấn là Nga

Hoàng và Nữ Anh. Hình ảnh "Nhị phi sái lệ trúc thành ban" thể hiện tấm lòng, sự ngưỡng

mộ tôn thờ và khâm phục của con người về tình chung thủy, nghĩa sắt son của hai bà.

"Ngu đế nam tuần canh bất hoàn,

Nhị phi sái lệ trúc thành ban."

(Thương Ngô Tức Sự)

(Vua nước Ngu đi tuần phương Nam không trở về nữa,

hai bà phi khóc, nước mắt vấy vào khóm trúc thành những vết lốm đốm)

99

"Bình ba nhật mộ Tương Đàm viễn

Bổi tửu bằng lan điếu nhị phi"

(Thương Ngô mộ vũ)

(Sóng lặng trời tối mà Tương Đàm còn xa, đành rót

rượu viếng hai bà phi vậy!)

"Ngu vương táng xứ vô khâu mộ,

Thủy diện huyền thanh tự nhị phi"

(Thương Ngô Trúc chi ca III)

(Không thây mộ nơi chôn Vua Thuấn,

Trên mặt nước có tiếng đàn giống tiếng đàn của hai bà phi)

"Tưởng ước đổng gia cụ chu tiếp,

Thiên phi các thượng cộng phàn hương"

(Thương Ngô Trúc chi ca VIII)

(Mình đã hẹn với chủ nhà sửa soạn thuyền trèo cùng

lên thắp hương ở gạc Thiên Phi)

Vừa bước chân vào đời, Nguyễn Du đã ngập chìm trong những cơn khủng hoảng

trầm trọng, những biến cố đảo điên của triều đình phong kiến. Vì thế, con người nghệ sĩ

trong Nguyễn Du ngày càng lớn và ngày càng chiếm lĩnh cuộc đời ông. Nhiều bài thơ

làm trong Bắc hành ông dành những lời đẹp đẽ để khen tặng các bậc trung thần. Trong số

đó, đầu tiến phải kể đến Khất Nguyên.

Trong Bắc hành, có đến sáu bài thơ Nguyễn Du viết liếng cho Khuất Nguyên. Có lẽ

theo ông, viết về Khuất Nguyên mà chỉ viết một bài thì sẽ không nói hết được lòng quí

trọng, tình yêu mến mà Nguyễn Du dành cho người bạn lớn này.

"Hiếu tu nhân khứ nhỉ thiên tải,

100

Thử địa do văn lan chỉ hương,

......

(Người thích trau dồi phẩm chất đạo đức ấy sống cách ta hai nghìn năm, ngày nay

đất này còn thơm mãi mùi hoa lan, hoa chỉ)

"Cực mục thương tâm hà xử thỉ?

Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương"

(Ta nhìn hết tầm mắt mà đau lòng, chẳng rõ ông trầm mình ở chỗ nào? Khi đi qua

vùng sông Nguyên, sông Tương, gió thu thổi chỉ thấy lá thu rụng tơi bời!)

(Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu I)

"Sở quốc oan hồn táng thử trung,

Yên ba nhất vọng diêu hà cùng?

(Hồn oan của người nước Sở ấy chôn ở nơi này đây, Nhưng nhìn chỉ thấy khói sóng

mênh mang, không bờ bến)

"Tứ phương hà xứ thác cô trung?"

(Khắp bốn phương trời, đâu là chỗ gửi gắm tấm lòng cô trung?)

(Tương Đàm điếu Tam Lư Đại phu II)

"Khuất Nguyên tâm, Tương giang thủy,

Thiên thu vạn thu thanh kiến để"

(Nỗi lòng Khuất Nguyên cũng như nước sông Tương, nghìn năm vẫn trong suốt

nhìn thấu đáy)

(Biện giả)

"Tịch liêu kim dạ vọng,

Thiên trích cổ nhân tình"

(Đêm nay nhìn cảnh vắng lặng, chạnh nghĩ đến tâm tình người xưa bị biếm trích)

101

(Tương Âm dạ)

Con người trong thơ tỏ bày tấm lòng yêu quí Khuất Nguyên hết sức chân thành,

xem Khuất Nguyên là một điển hình về số phận con người tài hoa và bất hạnh. Đó là con

người luôn "Thiên cổ thúy nhân lân độc tỉnh" (Xưa nay ai người thương con người tĩnh

một mình ấy?). Nhiều lần trong nhiều bài thơ, con người yêu thương nhắc đến hoa lan,

hoa chỉ (lan chỉ hương) ý nói đến tấm lòng thơm tho và cao khiết của Khuất Nguyên.

Hiểu Khuất Nguyên, yêu quí Khuất Nguyên, con người trong thơ phản đối việc Tống

Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên về:

"Hồn hề? Hồn hề? Hề bất quỉ?

Đông tây nam bắc vô sở y

Thương thiên há địa giai bất khả

Yên Dĩnh thành trung lai hà vị?"

(Phản Chiêu hồn)

(Hồn ơi! Hồn ơi! Hồn đừng về

Đông tây nam bắc không có nơi nương tựa.

Lên trời hay xuống đất đều không được,

Về đất Yên, đất Dĩnh mà làm gì?)

"Tảo liễm tinh thần phản thái cực,

Thận vật tái phản linh nhân xi.

Hậu thế nhân dân giai Thượng Quan,

Đại địa xứ xứ giai Mịch La,

Ngư long bất thực, sài hổ thực,

Hồn hề! Hồn hề! Nại hồn hà?"

(Phản Chiêu hồn)

102

(Hãy sớm thu tinh thần về cõi thái hư, đừng trở lại đây làm chi cho người ta mai

mỉa! Đời sau này, ai ai cũng gian nịnh như Thượng Quan, trên mặt đất đâu đâu cũng là

sông Mịch La! Thân thể không bị cá rồng nuốt thì hùm sói cũng ăn. Hồn ơi! Hồn ơi! Biết

làm thế nào?)

Tất cả cũng chỉ là vô ích bởi "Trên mặt đất này đâu đâu cũng là sông Mịch La, rắn

rồng quỉ quái khắp nhân gian" về lại mà làm gì khi cuộc đời này đầy những sự việc xấu

xa, đầy những con người tham quyền cố vị như xưa Khuất Nguyên đã từng lên án:

"Trên dưới xáo trộn, đen trắng đổi thay

Phượng hoàng bị nhốt, gà trĩ múa may

Ngọc đá lẫn lộn so nhau một bầy"

đang ngự trị khắp cõi đời.

Hơn ai hết, con người trong thơ đã rất hiểu nỗi niềm của Khuất Nguyên cái người

luôn "tính một mình" ấy, con người luôn tự hào về sự tuyết sạch giá trong của liếng mình

ấy không thể ở lại và cũng không thể để linh hồn mình quay trở lại cõi người. Tình cảm

thật chân tình và thống thiết kia đã được bắt nguồn từ mối đồng cảm sâu xa của Nguyễn

Du với người xưa từ nhận thức sâu xa về hiện thực, về thời đại mà mình đang sống. Nhà

văn Hoài Thanh nói len cảm nhận của mình trong bài Phản Chiêu hồn: "ở đây cũng như

Truyện Kiều vẫn một cái nhìn rất bi đát và đầy phẫn uất đối với cuộc đời. Nhưng ỏ đây

cũng như ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chưa nhìn rõ nguồn gốc sâu xa của mọi điều ngang

trái" (18) còn Xuân Diệu trong bài viết "Những nhà thơ cổ điển Việt Nam" nhận định

rằng: "Cái buổi chiều thu tê tái trong thơ chữ Hán đấy, bỗng nhiên có sấm chớp mưa gió

bão bùng, có bài Phản Chiêu hồn căm giận ưên đầu tóc dựng" và "viết Phản Chiêu hồn

Nguyễn Du đã đặt ngón tay vào tận trong vết thương lở loét của xã hội". (19)

Rồi đến bài phú của Giả Nghị trách người bạn. lớn của mình nữa, điều ấy ắt hẳn đã

làm cho con người yêu thương trong Nguyễn Du buồn lòng. Giả Nghị chẳng hiểu gì về

Khuất Nguyên. Giả Nghị chê Khuất Nguyên ôm lòng cô trung, sao không đi khắp chín

châu để tìm vua khác mà nhảy sông tự vẫn làm gì? Có thể Giả Nghị đã không hiểu Khuất

103

Nguyên và cũng không đơn giản như suy nghĩ của Giả Nghị. Một người như Khuất

Nguyên sao có thể đi thờ vua khác. Khi quyết định tuẫn tiết, Khuất Nguyên đã tự ý thức

được nhân phẩm của mình, rằng mình không thể sống, dù chỉ một ngày cũng là vô nghĩa.

Có cái gì đó thân thuộc, gần gũi và đồng điệu giữa Khuất Nguyên và Nguyễn Du

chăng? Đó là sự đồng cảm giữa những con người có cùng một chí hướng, một niềm tin ở

đời.

"Châm giới dị tương cảm " (Đề Vi, Lư tập hậu)

(Cây kim hạt cải dễ cảm ứng với nhau)

Chính sự đồng điệu, gần gũi và tình yêu dành cho Khuất Nguyên đã giục giã ông

viết nên những vần thơ giao cảm với người bạn lớn này - người bạn lớn của lòng cao

khiết mà Nguyễn Du đã tôn thờ, ngưỡng mộ.

Lịch sử đã qua rất nhanh và trên dòng lịch sử đó, cách đến hai mươi ba thế kỷ, một

tâm hồn phương Nam đã gặp một tâm hồn đồng điệu phương Bắc để cùng gảy một khúc

nhạc lòng. Khúc nhạc ây ngày nay đã xoáy vào lòng nhân thế. Đó là hàng năm, vào ngày

mồng 5 tháng 5, nhân dân Trung Quốc đua thuyền, thả bánh lá, cầu nguyện cho cá rồng

đừng ria thịt Khuất Nguyên. Nhân dân Việt Nam ở một số địa phương có tục lệ tổ chức

giỗ trong ngày tết giữa năm này. Đó chỉ là việc làm tượng trưng nhưng biết đâu đó là một

nén nhang để an ủi linh hồn cao khiết của ông, giúp hương hồn ông siêu thoát.

Ngoài Khuất Nguyên, Nguyễn Du còn dành tình cảm của mình cho những bậc thầy

văn chương như Liễu Tôn Nguyên - một trong "bát đại gia" đời Đường Tống, vì theo "tân

phái" mà "nhất thân xích trục lục thiên lý" (Tấm thân bị đày ải 6000 dặm), văn chương

lừng lẫy vẫn cứ phải đau xót tự rủa mình: "Thanh khê gia mộc hại ngu hà" (Khe trong

cây đẹp cũng mang tiếng ngu, biết làm thế nào).

Những câu chuyện thương tâm về cái chết, về nỗi đau chiến tranh, về sự phản bội,

về sự mất mát của con người đã được Nguyễn Du tái hiện lại trong những trang viết giữa

cuộc đời:

"Trung Nguyên đại thế dĩ đời đường,

104

Kiệt lực cô thang khống nhất phương.

Chung nhật tử trung tâm bất động,

Thiên thu địa hạ phát do trường"

(Quế Lâm Cù Các Bộ)

(Đại thế đất Trung Nguyên đã suy rồi, riêng mình ông vẫn ra sức giữ tòa cô thành

này, khống chế một phương. Trước cái chết, suốt ngày lòng ông không chút nao núng.

Nghìn thu sau, ở dưới đất, tóc ông vẫn cứ để dài, không chịu theo người Mãn bắt cạo đầu,

gióc bím).

Qua Yến Thành, chỗ Nhạc Vũ Mục rút quân về ở, Nguyễn Du chạnh lòng nhớ về

nỗi oan của Nhạc Phi.

Đến mộ Chu Lang

"Ngoa Lịch Ngô cung hoang đế nghiệp,

Kinh trăn cổ mộ thương hùng danh."

(Chu Lang mộ)

(Cung điện nhà Ngô nay đã thành đống gạch vụn, mà nghiệp đế cũng đã tan hoang.

Ngôi mộ của ông đầy gai góc, nhưng tiếng anh hùng vẫn còn).

Lời thơ chan chứa nỗi niềm, tâm sự kín đáo của Nguyễn Du. Con người trong thơ

chợt nhận ra một sự bẽ bàng, chua xót của kiếp làm người. Tất cả mọi sự tồn tại đều tạm

thời, là hư vô và chóng vánh. Nó cũng giống như sự thăng trầm, biến đổi của thời đại:

Thời đại này tàn rồi thời đại kia lên rồi lại xuống ... Tất cả cùng đều nhanh chóng đi vào

cõi hủy diệt. Có lẽ, ngọn nguồn của sự cảm thương ấy xuất phát từ những day dứt, những

trăn trở, vò xé trong lòng người, khi con người thơ trong Nguyễn Du cảm thấy mình thật

bất lực và thừa thãi trong cuộc sống. Yếu quí cuộc sống nhưng đành buông tay, nuối tiếc.

Hẳn thế nên ông càng thấy cảm phục người xưa, cảm phục những lý tưởng "trung hiếu

tiết nghĩa" mà mình tôn thờ nhưng không làm được. Tiếc nuối cho cuộc đời dở dang của

mình. Ông đã viết tặng các bậc hiền thần những vần thơ thật cảm kích.

105

"Quân thần chính luận kham thiên cổ

Thiên địa toàn kỉnh tận nhất triều"

(Dự Nhượng Kiều)

(Lời bàn về nghĩa quân thần có thể truyền thiên cổ, nhưng điều chính nghĩa trọn vẹn

trong trời đất đã làm trọn trong một sớm).

"Quân thần đại nghĩa tối phân minh,

Quốc sĩ chúng nhân các dị thượng

"Quí sát nhân thần hoài nhị tâm"

Thiên cổ văn chỉ sắc trù trướng "

(Dự Nhượng chủy thủ hành)

(Đại nghĩa vua tôi rất rõ ràng, trang quốc sĩ và người thường mỗi bên chuộng một

cách. "Làm cho kẻ bầy tôi hai lòng phải chết thẹn!" câu nói đó nghìn năm nghe còn xót

thương) Đến tấm lòng dũng khí của Kinh Kha:

"Thần dũng, nghị nhiên duy độc quân

Túng nhiên bắt sát Tần Hoàng Đế,

Dã toán cổ kim vô tỉ luân

Quái đề hành tung nguyên thị ẩn,

Tằng dữ Yên Đan vô túc phận

Sát nhân chỉ vị thụ nhân tri"

(Kinh Kha cố lý)

(Chỉ một mình ông có cái dũng khí cao cả, cứng cỏi. Tuy ông không giết được vua

Tần nhưng cũng đã là người không ai sánh kịp. Lạ thay, ông vốn là người ở ẩn giữa chợ,

không có danh phận gì với thái tử Đan nước Yến cả. Ông liều mình chỉ vì được người

biết đến).

106

Đó là chân dung và cũng là đạo đức của những con người đã sống hết mình với xã

hội, với đạo làm người mà thời đại đã qui định. Giờ đây, tất cả đã lùi vào quá khứ, tất cả

đã bị xóa mờ ... Tất cả những ký ức ngổn ngang ấy con người đang muốn giữ lấy, nắm

lấy lưu lại trong tâm thức mình để ước mong một ngày hạnh ngộ. Những bài thơ hay

những thanh âm của tiếng lòng Nguyễn Du? Liệu những lời thơ ấy có gội rửa được, giải

tỏa được nỗi niềm trắc ẩn, thăm thẳm của con người đang kiếm tìm một lời đồng vọng ...

"Thi nhân bất đắc kiến

Kiến thị như kiến nhân"

(Đề Vi, Lư tập hậu)

(Nay không được thấy nhà thơ nữa,

Nhưng đọc thơ cũng như thấy người)

Trong số các nhà thơ cổ điển Trung Hoa, Nguyễn Du có cảm tình đặc biệt với Đỗ

Phủ. Và tình cảm quí mến đó Nguyễn Du đã biểu lộ trọn vẹn trong hai bài thơ "Lời

Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ" trong tập Bắc hành tạp lục.

Với Khuất Nguyên, Nguyễn Du đã yêu thương, đã cảm phục, và đã hoài niệm như

một vị thánh, còn đối với Đỗ Phủ, Nguyễn Du xem ông như là một con người của trần thế

với nỗi đau rất thực, rất đời thường. Bởi vì từ cổ chí kim có nhà thơ nào lại khốn khó, cay

cực, ê chề trong mưu sinh như Đỗ Phủ. Xecvantes của Tây Ban Nha cũng nghèo nhưng

đâu khốn cùng như Đỗ Phủ. Dù có là thi nhân thì cả Nguyễn Du và Đỗ Phủ cũng chung

một kiếp người, cũng phải lo toan, phải day dứt với những vướng bận thường ngày.

Nguyễn Du đã thốt lên những lời đắng cay thay cho Đỗ Phủ:

"Văn chương quang diêm thành hà dụng

Nam nữ thân ngâm bất khả văn"

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ - bài số 2)

(Văn chương ông sáng chói, nhưng nào có ích gì cho ông? Con trai, con gái rên ri,

nghe không sao đành)

107

Tiếng rên rỉ vì đói, vì rét của con Đỗ Phủ hay của con Nguyễn Du? Con người trong

thơ đã quặn lòng khi bất lực nhìn cảnh đói rét của các con mình.

"Thập khẩu đề cơ thành Lĩnh Bắc

Nhất thần ngoa bệnh đế thành Đông"

(Ngẫu đề - Nam Trung tạp ngâm)

(Mười miệng đói đang kêu ở phía bắc Hoành Sơn,

Một thân nằm bệnh ở phía Đông đế thành)

Nguyễn Du cảm thông, yêu quí Đỗ Phủ bởi ông cũng có hoàn cảnh sống như mình,

thương xót cho lũ con thơ của Đỗ Phủ cũng là một cách biểu lộ tấm lòng của ông. Trong

ông luôn trăn trở, dằn vặt về một lẽ sống, về một lý tưởng mà mình luôn ôm ấp. Tấc lòng

của con người dù đã mãi trở trăn, mãi dằn vật nhưng cuối cùng cũng chẳng làm được gì.

Đỗ Phủ đã hy sinh, đã nhận, đã chịu cùng cực khổ đau để giữ trọn vẹn đạo làm người, để

ngày nay, có người "Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi" (Tôi ban đêm hồn mộng đi vào

thơ Thiếu Lăng).

Con người trong thơ khóc thương cho Đỗ Phủ hay cho thân phận mình? Bản thân

con người cũng đã trải qua những tháng ngày túng cùng, quẩn quanh vụn vặt của gia

đình, của những cơn bệnh ngặt nghèo.

"Thập tải phong trần khứ quốc xa,

Tiểu tiểu bạch phát ký nhân gia" (Ư cư II)

(Bỏ quê hương đi suốt 10 năm trong gió bụi,

đầu bạc lốm đốm, còn phải ăn nhờ ở đậu ...)

"Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa

Hoại bích nguyệt minh bàn tích địch " (Ư cư li)

(Giữa mùa xuân, nhà lạnh ngắt, bệnh cũ tái phát

Dưới ánh trăng, thạch sùng leo trên vách nát)

108

Đã từng nếm trải những cảnh đời cay cực như vậy nên Nguyễn Du rất thấu hiểu và

cảm thông với Đỗ Phủ. Con người trong thơ không quên ông già tóc bạc vác mai vào

rừng đào củ mài, không quên căn nhà tranh bị gió thổi tốc mái ... và nhớ mãi ngôi mộ đắp

điếm vội vàng nơi đất khách quê người. Có thể theo dòng thời gian, Nguyễn Du sẽ dần

nguôi đi nỗi nhớ Đỗ Phủ nhưng chắc rằng mãi trong con người yêu thương Nguyễn Du sẽ

tồn tại một bóng hình Đỗ Phủ rất đời, rất thực...

Nguyễn Du hiểu Đỗ Phủ một cách sâu sắc. Điều này có lý do là Nguyễn Du có một

"độ lùi" khá xa về khoảng cách với thời đại và bi kịch của Đỗ Phủ nên ông hiểu Đỗ Phủ

một cách đầy đủ và trọn vẹn. Bi kịch của Đỗ Phủ là bi kịch của cái đẹp, cái tài của một

trái tim đập chung một nhịp với những người đau khổ đã bị vùi đập, đọa đày, là lý tưởng

vì người, muốn cứu người không thực hiện được. Đó cũng chính là lý do cơ bản để

Nguyễn Du "Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lãng thi" (Hồn tôi đếm đêm nhập vào thơ Thiếu

Lăng), "Lỗi Dương Thiếu Lăng mộ I". Bên cạnh sự tương đồng về những khổ đau vụn

vặt đời thường, về sự nhếch nhác, đói rách của lũ con thơ. Thế nhưng, Đỗ Phủ đù đau

khổ vì lý tưởng không được thực hiện, vì chết chóc, loạn li, vì chính cuộc đời đói rách,

khốn khó của ông nhưng ông vẫn có "con đường" mà đi và niềm tin vào một "ông vua" -

dù không cụ thể. Còn với Nguyễn Du, tất cả đã sụp đổ. Phía trước chì là con đường tăm

tối, mờ mịt, đi mãi không tìm thấy lối ra. Con người ấy thời tuổi trẻ cũng đã từng xông

xáo dấu thân, hăng hái cống hiến và phụng sự .... mặc dù tích cực là thế nhưng những

cánh cửa của tương lai vẫn đóng kín trước Nguyễn Du. Chính vì lẽ đó, ông đã thốt lên:

"Thiên cổ văn chương thiên cổ si

Bình sinh bội phục vị thường ly"

(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ - bài 1)

(Văn chương ông lưu truyền thiên cổ, ông là bậc thầy muôn đời Tôi bình sinh khâm

phục ông, không lúc nào rời thơ ông)

Những gì mà Đỗ Phủ để lại cho con người là còn mãi, là bất biến. Đó là những tiếng

kêu gào thảm thiết, tiếng than vãn uất ức của ông già, bà lão, tiếng nức nở nghẹn ngào

109

của những người vợ lính, người vợ trẻ, tiếng quát tháo nạt nộ hống hách của bọn sai nha

trong những "Binh xa hành", "Thạch hào lại", "Tự kinh phó phụng tiên" ... và biết đâu

chính những bài thơ hiện thực trên đã khơi nguồn cho những "Trở binh hành", "Sở kiến

hành", "Thái Bình mại ca giả" mà Nguyễn Du đã viết từ nỗi đau dậy sóng của cuộc đời

ông, của thế kỷ mà ông đang sống...

Khóc cho Đỗ Phủ ấy chính là con người đang khóc cho chính bản thân mình. Bởi

cuộc đời hai người đều gặp cảnh ngộ giống nhau. Họ là những người "đồng cảnh, đồng

bệnh".

Cũng giống như Nguyễn Du ngày nay được yêu mến bởi bản cáo trạng Truyện

Kiều, chúng ta và cả Nguyễn Du sẽ không thể quên được những bài ca bất tuyệt của lòng

nhân đạo đã vang lên từ đáy vực đói nghèo trong cuộc đời Đỗ Phủ.

Ước gì ngàn vạn gian nhà rộng

Che khắp thế gian dân rét mừng

Vững như núi gió mưa chằng chuyển

Than ôi, bao giờ thấy được gian nhà ấy

Dẫu lều tan riêng ta chịu chết cóng cũng bỏ

(Bài hát gió thu thổi tốc mái)

Sở dĩ Nguyễn Du yêu thương Đỗ Phủ là vì: "Cách hàng ngàn năm gặp gỡ, tâm sự

vẫn giống nhau". Nguyễn Du và Đỗ Phủ đã gặp nhau ở sức tố cáo mãnh liệt vì một tấm

lòng đau đời, thương đời rộng lớn, bao la, chính điều đó làm cho sáng tác của hai nhà thơ

trỏ thành bất tử.

Tình hình Bắc Hà từ những năm 70 của thế kỷ XVIII đã rất bê bối. Nhiều nông dân

đang trên đà phá sản trầm trọng. Từng đoàn người nghèo đói dắt díu nhau đi lang thang

trên những con đường lớn đi từ vùng này sang vùng khác nhưng cuối cùng cũng chẳng

tìm được một mảnh đất nào để sống. Nhiều người đã nằm lại bên vệ đường thành những

thây ma vô thừa nhận. Lại thêm thường năm bị hạn, trăm thứ thuế má, không thể sống

110

được đến nỗi dân phải ăn sống rau cỏ, nấu củ nâu mà ăn cũng không thể kéo dài được.

Hiện thực đau xót ấy đập vào mắt Nguyễn Du ngay lúc còn ở quê nhà. Đến khi sang

Trung Quốc, Nguyễn Du lại tận mắt thấy được bao cảnh đời cay cực. Ông thấy đâu chỉ có

người dân đất Việt mới lầm than đói rách, phải đâu gia cảnh mình mới khó nghèo!. Càng

đi, thi kiến của ông càng rộng mở, càng thấy rõ những khổ đau ngập tràn trong đời sống

muôn dân, không riêng gì đất Việt.

Niềm tin vào thiên quốc trong Nguyễn Du đã vơi đi một ít nhưng biển lòng nước

mắt ổng thì đầy thêm rất nhiều. Nguyễn Du thấy thương không chỉ cho cuộc sống lao

đao, lận đận của mình mà còn thương cho những người dân nghèo bên lũy tre làng với

cuộc sống một nắng hai sương đầy những âu lo về no, đói. Nguyễn Du cũng thương cả

cho những người dân Trung Hoa vì đói, vì rét phải lao đao khắp nơi để kiếm miếng ăn

cho mình. Ồng ý thức được rằng người nghèo thì dù ở đâu cũng bị khinh khi, rẻ rúng, bị

hành hạ về thể xác lẫn tinh thần. Và như thế lòng thương cảm trong Nguyễn Du càng trĩu

nặng hơn, chìm xuống thấp hơn, chuyển hóa thành niềm cảm thông, đồng cảm:

"Hồi xứ thôi xa hán

Tương khan lục lục đồng"

(Hà Nam đạo trung khốc thử)

(Anh chàng đẩy xe kia ở đâu nhỉ

Nhìn nhau thấy vất vả như nhau)

Nguyễn Du không cần biết người đẩy xe kia là ai, họ ở đâu, ông chỉ thấy họ nghèo

đói và vất vả, họ có phẩm chất tốt đẹp là chăm chỉ và yêu quí lao động nhưng cuộc đời họ

trần trụi và khổ ải, thật đáng thương.

"Hiểu sắc hà thương mang,

Sơ nhật ẩn sơn phúc.

Lộ thượng nhân ký hành,

Chi đầu điểu do túc

111

Vạn cổ nhất hồng trần,

Kỳ trung giai lục lục"

(Lý gia trại tảo phát)

(Buổi sáng mai trời mờ mịt, mặt trời còn khuất sau lưng núi. Trên đường đã có

người đi, trên cành cây chim vẫn ngủ. Trong đám bụi hồng từ muôn thuở, con người cứ

phải vất vả như thế).

Đó chỉ là những nét phác họa chung chung về những điều tai nghe mắt thấy khi ông

đến thượng quốc. Còn đây, đây mới là những nét đời thật cụ thể, thật riêng biệt và vô

cùng xót xa. Đó là hình ảnh đáng thương của ông già mù hát rong, là tiếng kêu khóc rên

la của mấy mẹ con người hành khất, là tiếng thét uất ức của những người dân nghèo chạy

loạn ...

"Hữu phụ huề tam nhi

Tương tương tọa đạo bàng

Tiểu giả tại hoài trung

Đại giả trì túc khuông

Khuông trung hà sở thịnh?

Lê hoắc tạp tì khang.

Nhật án bất đắc thực

Y quần hà khuâng nhương!

(Sở Kiến hành)

(Có người đàn bà dắt 3 con ngồi với nhau bên vệ đường. Đứa bé nhất, ẩm trong

lòng, đứa lớn thì xách giỏ tre. Trong giỏ đựng những gì? Một nắm rau cỏ lẫn tấm cám.

Trưa rồi, vẫn chưa có gì ăn. Áo quần thì rách rưới).

Và đây là cuộc sống của làng quê họ:

112

"Tuế cơ lưu dị hương

Dị hương sản phong thục,

Mễ giá bất thậm ngang.

Bất tịch khí hương thổ,

Cẩu đồ cứu sinh phương

Nhất nhân kiệt dung lực,

Bất sung tứ khấu lương

Dương nhai nhật khất thực

Thử kế an khả trường?

Nhẫn hạ ủy câu hác,

Huyết nhục tự sài lang

Mầu tử bất túc tuất,

Phủ nhi tăng đoạn trường

Kỳ thống tại tâm đầu"

(Sở kiến hành)

(Năm đói kém, phải lưu lạc quê người, ở đấy mùa màng có khá hơn, giá gạo không

cao lắm. Bỏ làng đi cũng chẳng quản, cốt tạm tìm phương cứu sống. Một người làm

mướn hết sức không đủ nuôi bốn miệng ăn. Hàng ngày đi xin dọc đường phố, kế ấy lâu

dài sao được? Cảnh chết lăn nơi ngòi rãnh, trông thấy trước rồi! Máu thịt nuôi sài lang.

Mẹ chết không đáng tiếc, vỗ về con mà càng thêm đứt ruột. Lòng đau xót vô cùng).

Cảnh đói kém chực chết của mấy mẹ con người hành khất nghèo được vẽ lên từ một

nét bút rất chân thật. Nguyễn Du chỉ vẽ ra thôi nhưng người đọc muôn đời cảm nhận

được biển lòng mênh mông, tràn đầy ưu ái của ồng với nhân loại. Con người trong thơ

cảm nhận được, nghe thấy được tiếng bụng sôi khi đến bữa ăn trưa, nghe được tiếng thổn

113

thức thét gào trong lòng người mẹ, tiếng rên la vì đói của mấy đứa trẻ nhà nghèo. Biết

đâu những âm thanh đau đớn kia phát ra từ kiếp người lầm than, cơ cực chính là hồi ức

sâu thẳm nhất về cảnh đời cay nghiệt, ê chề mà con người đã từng kinh qua, nếm trải.

Nguyễn Du cũng đã vạch ra hai thế giới đối lập giàu - nghèo. Trong khi bố con ông

già mà hát đến mức "Miệng sùi bọt mép tay mỏi rã rời" mà cũng chỉ kiếm được "năm sáu

đồng tiền" thì ở chỗ kia:

"Quân bất kiến sứ thuyền lai cung đốn lệ

Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ

Hành nhân bão thực tiện khí dư

Tàn hào lãnh phạn Trầm giang để"

(Thái Bình mại ca giả)

(Kìa không thấy lệ cung đốn cho đoàn đi sứ, thuyền này thuyền kia, đầy gạo thịt!

Mọi người trong sứ bộ ăn uống no say, còn thì bỏ lại, cơm thừa canh cặn đổ cả xuống

sông) Trong thời đại của mình, có lẽ Nguyễn Du là nhà thơ đầu tiên nhận ra sức mạnh

của đồng tiền. Đồng tiền đã làm người con gái nết na, tài tình, thanh quí như Kiều phải bị

đày đọa, bị vò nát, phải chia lìa với người yêu, phải hai lần làm đĩ, hai lần làm đầy tớ

"Thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần" và bao phen bị đánh đập, dập vùi. Và bây giờ, đồng

tiền đã thui chột danh dự cao quý của người nghệ sĩ - người chỉ quen sống bằng tiếng

thơm của mình. Có ai hiểu người nghệ sĩ kia bằng Nguyễn Du, người đã sống với đời,

với người bằng cả tấm lòng mình. Đứng trước người nghệ sĩ đó, Nguyễn Du đã cảm

thương, đau giận biết bao nhiêu. Giận cho người và hổ thẹn cho mình.

Khi ở điểm nhìn này, con người hoàn toàn thoát khỏi địa vị của một ông quan mũ

cao, áo dài mà trở thành một Nguyễn Du đã từng nếm chịu những cảnh đói nghèo, đã

từng "ngắm hoa cúc nở cho qua bữa", đã từng nhìn con "mặt xanh như lá rau" ... Phải viết

thật chân như thế thì mới thấy hết sự phẫn uất đang tràn ngập lòng người, nỗi đau giận

với bè lũ thông trị và cả chính mình. Ngày xưa Nguyễn Du cũng đã từng đói rách, khốn

khổ vì miếng cơm, manh áo. Còn hiện tại thì chính bản thân cũng đã chọc đũa vì ngán

114

ngẩm trước mâm cao cỗ đầy ... Tấm lòng yêu thương con người nghèo khó ấy thật đúng

như lời nhận xét của Xuân Diệu: "Nguyễn Du nhìn người ăn mày thứ một vạn cũng giống

như nhìn người ăn mày thứ nhất, không bao giờ tê liệt lòng cảm thông" (20). Không chỉ

tố cáo, lên án, con người yêu thương trong ông còn thẳng thắn bóc trần luận điệu giả dối,

gian ngoan lừa phỉnh của bọn quan lại trước nạn đói đang hoành hành trong dân.

"Dân tử tại tuế, bất tại ngã"

Vật đắc khi tâm, tế thánh mình.

Tạc hiến Tân Trịnh thành môn niêm bảng thị,

Án hộ cáp tức tô tân manh.

Hoàng Hà dĩ bắc mạch hưu thục,

Bách nhật nhỉ bối thê tử giai đắc sinh.

Qui lai, quỉ lai vật tác tử,

Phủ thần huệ bảo như phụ huynh"

(Trở binh hành)

(Không nên nói: "Dân chết là tại trời làm mất mùa chứ không phải tại ta. Hôm qua

thây trước thành Tân Trịnh có yết bảng theo hộ phát gạo cứu dân nghèo. Phía Bắc Hoàng

Hà lúa mạch đã chín, trăm ngày nữa, vợ và con cái người sẽ được sống. Hãy trở về đi,

không nên liều mạng. Quan tuần phủ thương yêu giúp đỡ các người như cha anh!").

Nguyễn Du là nhà thơ có cuộc sống "Hùng tâm sinh kế lưỡng man nhiên" (Tạp thi

II) nhưng ông đã không bị cái đau khổ của riêng mình làm nhụt chí, trốn trách nhiệm với

cuộc đời, với con người. Ông lên tiếng:

"Thủy nhân tả thử đồ

Trì dĩ phụng quân vương"

(Sở kiến hành)

(Ai vẽ bức tranh này

115

Dâng lên nhà vua rõ)

Tóm lại, thấp thoáng trong hình ảnh những con người nghệ thuật là hình hài của

Nguyễn Du với nỗi đau nhân thế. Nguyễn Du không chỉ thương cảm cho số phận bi

thương của những bậc hiền tài mà ông còn khâm phục và ngưỡng mộ họ. Đối với ông, họ

sống giữa đời ôm tài, nuốt tiếng, thân xác biến thành tro lạnh nhưng khi họ chết rồi thì

những phẩm chất tốt đẹp, sáng trong kia vẫn còn sống mãi với con người và cuộc đời.

Còn với người nghèo, Nguyễn Du chưa bao giờ cảm thông suông. Ông luôn

nghiêng mình xuống để sớt chia cùng họ, chưa bao giờ ông bước đi một cách thản nhiên,

hờ hững nghe một câu chuyện thương tâm hay nhìn thấy một cảnh đau lòng. Nguyễn Du

thật chí tình. Những người phụ nữ xinh đẹp, tài hoa và gặp nhiều trắc trỏ cũng là đối

tượng yêu thương của Nguyễn Du. Ông xem họ là những người "cùng hội cùng thuyền"

với mình nên những trang thơ viết về họ lúc nào cũng đầy ắp những nỗi niềm thương

cảm. Không đợi đến Truyện Kiều, đến Văn chiêu hồn, tấm lòng của con người yêu

thương của Nguyễn Du đã dàn trải chính trong Bắc hành, trên đất nước Trung Hoa để từ

đó lan tỏa khắp nhân loại. Phải chăng điều đó rất đáng để tìm hiểu.

2.3.2.Con người đời thường

Nhà thơ Quách Tấn phát biểu: 'Thơ chữ Hán là mảnh đất thể hiện rõ tư tưởng và ý

chí của Nguyễn Du". Tuy nhiên hoàn toàn trong tiếng thơ ấy không hề thấy có khẩu khí

của một ông quan, không có những chuyện "tu tề trị bình, không những việc ích lợi quốc

lợi dân ... mà chỉ thấy dằng dặc trong ấy là những nỗi niềm, những day dứt âu lo về no,

đói, về nhân tình thế thái, về những sự được, mất của cuộc đời, về ước mơ được một cuộc

sống an lành, nhẹ nhàng, thanh thoát như bao người ... Chính ở đây, nét thơ thể hiện hình

tượng con người đời thường trong Nguyễn Du.

Trước hết, con người đời thường trong thơ Nguyễn Du ý thức và lo lắng về no, đói.

Dường như với ông, cái đói luôn nhanh chân đến với người nghèo. Ông đã từng nói

"Người ta thà chết còn hơn nghèo", đã từng nhìn thấy dáng điệu rầu rĩ vỗ về con ưong

cơn đói khát của người mẹ hành khất.

116

"Kiến nhân bất ngưỡng thị

Lệ lưu khâm lang lang"

(Sở kiến hành)

(Thấy người không dám ngước nhìn lên

Nước mắt chảy ròng ròng trên vạt áo)

Rồi đến sắc mặt xanh xao, ốm đói của những người dân khốn khổ chạy loạn, đói

khát.

"Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc

Khang tì vi thực lê vi canh"

(Trở binh hàng)

(Trai lớn gái bé đều có sắc mặt ốm đói

Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh)

Nguyễn Du thấy thương xót cho những cuộc đời trần trụi khổ ải.

"Dã túc phùng tiều giả

Tương liên bất tại đồng"

(Phượng hoàng lộ thượng tảo hành)

(Trọ nơi đồng quê gặp người hái củi

Thương nhau không cứ ở chỗ giống nhau)

Con người vất vả quanh năm không biết đến xuân là gì. Nguyễn Du là người rất ý

thức về cái nghèo. Cái nghèo của chính bản thân mình, của gia đình mình. Trong Nam

Trung tạp ngâm, ông đã xót xa viết:

"Cố hương cang cạn cửu phương nông

Thập khẩu hài nhì thái sắc đồng"

117

(Ngẫu hứng 4)

(Quê nhà hạn hán hại hoa màu

Mười đứa con thơ xanh tựa rau)

Và ở một bài khác:

"Thập khẩu để cơ Hoành Lĩnh Bắc

Nhất thân ngoa bệnh đế thành Đông"

(Ngẫu đề - NTTN)

(Mười miệng đói kêu ngoài cửa Bắc

Một mình bệnh rụi góc thành Đông)

Cái nghèo, cái đói trở thành nỗi ám ảnh thường nhật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Ông nói đến chúng nhiều lần, và không chỉ trong Bắc hành tạp lục.

Trong bài Khất thực (Xin ăn) ở tập Nam Trung tạp ngâm ông đã nói đến cái nghèo

một cách cay đắng:

"Tằng lăng trường kiếm ỷ thanh thiên

Triển chuyển nê đồ tam thập niên

Văn tự hà tằng vi ngã dụng?

Cơ hàn bất giác thụ nhân liên"

(Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang như tựa trời xanh

Lăn lóc trong bùn lầy đã ba mươi năm

Văn chương chữ nghĩa nào đã từng có ích gì cho ta?

Không dè đói rét phải nhận lòng thương hại của người)

Văn chương, chữ nghĩa cũng trở nên vô ích trước cái đói, cái nghèo. Con người

cũng có ý chí nhưng phải dậm chân gác kiếm mà đứng nhìn trời xanh. Thật là đau xót.

118

Trong "Mười năm gió bụi" (Thập tải phong trần) Nguyễn Du là người chạy trốn

"khứ quốc" và "cùng đồ". Hoàn cảnh của nhà thơ lúc bấy giờ thật thương cảm. Nghèo

túng, ăn nhờ ở đậu đã đành, nhưng cái chính là đang bế tắc vì không biết theo ai, làm gì.

Thật là một đêm tối (hắc dạ) đối với ông.

Trải thân trong cuộc đời, con người có nhiều thứ để lo toan. Thời loạn lo chạy giặc,

lo chết, lo đói ... thời bình thì lo già, lo bệnh, lo đói, lo sao cho có cuộc sống đủ đầy, lo

sao cho được ăn ngon, mặc đẹp ...

Khi đứng trước quá nhiều nỗi lo trong cuộc đời, con người cảm thấy bế tắc, mất

phương hướng, cũng chẳng có chỗ để cậy nhờ, tựa nương. Con người lo toan xuất hiện,

luôn âu lo, trăn trở về cuộc đời.

Con người trong thơ Nguyễn Du còn ý thức và lo lắng về sự già nua của mình. Cái

già đến đầu tiên ở mái tóc bạc. Nguyễn Du là người luôn bị ám ảnh bởi mái đầu bạc. Lúc

bấy giờ ông mới ba mươi mà đã thấy nói đến mái đầu bạc rồi, Trong bài "Mạn hứng" ông

than:

"Hư danh vị phóng bạc đầu nhân"

Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du nhiều lần nổi đến tóc bạc:

"Người tráng sĩ bạc đầu buồn ngửa mặt lên trời"

"Bạc đầu buồn chẳng trở về quê, mấy sợi tóc bạc lòng thòng xuống vạt áo. Bạc đầu

còn được thấy Thăng Long".

"Trên cát hiện rõ mái đầu bạc, tóc bạc phơ phơ trước gió chiều, trên gối nằm nơi

đất khách, hai mái tóc bạc lù xù ..."

Còn trong Bắc Hành tạp lục, có đến 14 lần hình ảnh con người tóc bạc xuất hiện:

"Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh"

(Thăng Long II)

(Mái tóc của mình đã lốm đốm bạc rồi!)

119

"Nam hà qui lai đầu tận bạch"

(Long Thành cầm giả ca)

(Ta từ Nam Hà trở lại, đầu bạc trắng hết)

"Nhất lộ giai lai duy bạch phát"

(Nam Quan đạo trung)

(Dọc đường chỉ làm bạn với mái tóc bạc)

"Chu trung niên thiếu giai bạch đầu"

(Bất tiến hành)

(Ngồi trong thuyền, bọn ưẻ cùng bạc đầu!)

"Nại hà đầu dĩ bạch như ngân"

(Quảng Tế Ký thắng)

(Khốn nỗi trên đầu tóc đã bạc trắng)

"Bạch phát thu hà hạn,"

(Tín Dương tức sự)

(Tóc mình bạc nên tứ thu càng nhiều)

"Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên"

(Hàm Đan tức sự)

(Đầu bạc mà đấu chân còn in khắp núi sông)

"Tiếu ngã bạch đầu mang bất liễu,"

(Đông A sơn lộ hành)

(Cười cho mình bạc đầu mà vẫn lận đận chưa thôi)

"Ba ba bạch phát hồng trần lộ"

(Tổ Sơn đạo trung)

120

(Giữa đám bụi hồng, tóc ta càng thấy trắng phau)

"Đáo đắc thanh sơn tận,

Kỳ như bạch phát hà”

(Hoàng Mai đạo trung)

(Đi cho hết núi xanh

Khốn nỗi tóc đã bạc)

"Tiếng hoa bách tử khẳng hứa thực,

Bạch đầu khứ thử tương an qui? "

(Hoàng Mai sơn thượng thôn)

(Hoa tùng hạt bách mà ăn được, khi đầu bạc, không về đây)

"Tráng niên ngã diệc vì tài giả,

Bạch phát thu phong khổng tự ta"

(Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)

(Thuở trẻ, ta cũng là kẻ tài ba, nay đầu đã bạc,

Chỉ than thở trước gió thu mà thôi)

"Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong"

(Nhiếp khẩu đạo trung)

(Đầu bạc còn phải đi giữa gió thu ngoài nghìn dặm)

"Tiểu ngã bạch đầu mang bất liễu,

Nghiêm hàn nhất lộ quá Sơn Đổng"

(Đông A sơn lộ hành)

(Cười cho mình bạc đầu mà vẫn lận đận chưa thôi,

121

Giữa lúc giá lạnh phải qua Sơn Đông!)

Sống trên đời ai cũng sợ tuổi già. Người bình thường sợ, văn nghệ sĩ thường sợ hơn.

Các nhà thơ khi về già ai cũng nói đến tóc bạc với nỗi lo nhưng chắc có lẽ chưa ai nói

nhiều và nói với giọng điệu thảm thiết như Nguyễn Du. Đọc những lời đau thương này,

người ta rất muốn biết cụ thể, chính xác những vất vả, luân trong cuộc đời thật của

Nguyễn Du, gió mưa làm gì đủ sức làm cho đầu thi sĩ chớm bạc như vậy! Ai cũng biết

thế. vả lại trong thơ cổ điển Việt Nam, Nguyễn Trãi cũng nói về tóc bạc:

"Lòng một tất son còn nhớ chúa

Tóc hai phần bạc bởi thương thu"

"Tóc nên bạc bởi lòng ưu ái"

"Âu thì tóc đã bạc mười phân "

"Tuổi năm mươi đầu đã bạc"

Nhưng đó cũng là một kiểu nói khác. Là giọng điệu của người hài lòng khi đã làm

xong, phụng sự tốt sự nghiệp của nước nhà, là người mãn nguyện với thú quét tuyết

thưởng mai, với non nước, sơn thủy hữu tình. Nguyễn Trãi quay lui về để sống cùng tuổi

già trong tâm thế của người bỏ qua nỗi buồn thế sự. Còn Nguyễn Du nói đến tuổi già với

lòng miễn cưỡng, u uất, lẫn khiếp sợ. Có lẽ ông suốt đời mang một nỗi sầu không thể tâm

sự, cũng không thể cởi bỏ nên nó ẩn vào bên trọng và làm tóc chóng bạc chăng?

Theo dõi cuộc đời Nguyễn Du từ lúc là một trang thanh niên với nhiều khát khao

hoài bão đến lúc "Tóc bạc phơ phơ trước gió chiều" ấy làm chúng ta muôn phần thương

cảm. Còn gì đáng thương hơn một con người chỉ ngoài ba mươi tuổi mà tóc đã bạc trắng,

sức khỏe tàn tạ, gầy yếu. Một vị quan chưa hẳn là đạt quan, chưa khi nào thấy hài lòng

thực sự về sự nghiệp, công danh của mình. Luôn luôn, trong tâm thức con người đầy lo

toan ấy là sự khắc khoải day đứt đến bạc đầu cho nỗi niềm thế sự, cho sự nghiêng ngả

đảo điên của kiếp phù sinh. Một mái đầu bạc chênh vênh vẫn mãi còn rong ruổi trên

đường chiều mờ mịt, giữa đám bụi hồng, giữa dãy núi xanh. Từ lúc tóc còn xanh cho đến

khi tóc bạc là cả một quãng đời dài mà con người ai cũng phải trải qua. Vậy mà con

122

người trong thơ lại thấy nó rất ngắn "thoáng đó mà tóc đã bạc, thoáng đó mà đã trăm

năm". Cái "một thoáng" đó nhanh chóng phủ chụp lấy con người, nhanh chóng đi vào cõi

hư vô, đi vào hủy diệt. Con người cảm nhận được hết nhưng không thể nào chạy trốn

được.

Luôn bị ám ảnh, luyến tiếc quá khứ vàng son tươi đẹp đã qua là một nét biểu hiện

nữa của con người đời thường. Trên đường đi qua Thăng Long, Nguyễn Du bùi ngùi khi

nhìn thấy dấu tích của con đường cũ. Thành quách, cung điện, đường sá, những ngôi nhà

đồ sộ nghìn xửa nay đã trở thành đường cái ...

"Tản Lĩnh Lộ Giang tuế tuế đồng

Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long

Thiên niên cự thất thành quan đạo,

Nhất phiến tân thành một cố cung"

(Thăng Long I)

(Núi Tản, Sông Lô bao nhiêu năm vẫn thế, đầu bạc rồi mà còn được thấy lại cảnh

Thăng Long. Những ngôi nhà đồ sộ nghìn xưa nay thành đường cái. Dải thành mới làm

mất dấu vết cung điện xưa).

"Cổ thời minh nguyệt chiếu tận thành,

Do thị Thăng Long cựu đế kinh

Cù hang tứ khai mê cựu tích,

Quản huyền nhất biến tập tân thanh"

(Thăng Long II)

(Mảnh trăng ngày trước soi xuống ngôi thành mới. Đây vẫn là Thăng Long, đô

thành của các triều vua xưa. Đường sá dọc ngang, xóa mất hết dấu vết cũ. Tiếng đàn sáo

cống đổi khác, xen lẫn nhiều âm thanh mới).

Con người trong thơ bồi hồi nhớ về người quen cũ:

123

"Tương thức mỹ nhân khan bão tử,

Đông du hiệp thiếu tấn thành ông."

(Thăng Long I)

(Các cô gái xinh đẹp ngày trước nay đã có con ẵm, Các bạn hào hiệp thuở nhỏ nay

cũng thành ông già).

"Phồn hoa nhân vật loạn lai phi,

Huyền hạc qui lai kỷ cá tri.

Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển,

Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly"

(Ngô gia đệ cựu ca cơ)

(Sau buổi loạn lạc, nhân vật nơi phồn hoa này đã khác trước nhiều. Con chim hạc

đen bay trở lại, nào mấy ai biết?)

Ta từng nghe giọng hát uyển chuyển của nàng hồi ấy mặc áo màu hồng. Nay đầu đã

bạc, mới gặp lại nhau, chỉ nghe nàng than thở nỗi lưu ly).

Rõ ràng, không hề giấu che hình ảnh của một con người có cảm xúc chân thực, rất

đời thường:

"Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thủy

Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti"

(Ngô gia đệ cựu ca cơ)

(Chậu nước đã đổ rồi, khó lòng vét lại

Thương cho ngó sen đã đứt mà tơ vẫn còn vương!)

Sợi tơ sen vấn vương không muốn đứt kia có phải chăng là tấm lòng là niềm luyến

tiếc mà con người muốn níu lại, giữ lại cho cuộc đời mình. Và trong ấy dường như có cả

sự tiếc thương cho sự sụp đổ của một triều đại mà Nguyễn Du đã từng cúc cung phụng

124

sự. Trong từng lời, có cái gì cay đắng, chua chát lắm nhưng rồi cuối cùng thì con người

cũng phai bình tĩnh mà chấp nhận sự thật, và tự xoa dịu cơn bão lòng của mình.

"Cổ kim vị kiến thiên niên quốc"

Vị Hoàng Doanh (THTT)

(Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào đứng vững nghìn năm)

Câu nói như một tiếng thở dài khẽ khàng, chấp nhận. Tâm sự này, Nguyễn Du cũng

đã bộc lộ khi có dịp ra xứ người.

"Đãn đắc thử tâm vô phụ Sở

Bất tri thiên mệnh dĩ qui Lưu"

(Á Phủ mộ)

(Ông chỉ được điều không phụ nước Sở, nhưng lại không biết mệnh trời đã thuộc về

họ Lưu)

Đọc cả ba tập thơ chữ Hán chứ không riêng gì Bắc hành tạp lục sẽ thấy miên man

nỗi niềm sâu thẩm của ông về thế thái nhân tình. Con người trong thơ luôn nhận thức

được sự khắc bạc của cuộc đời. Bao nhiêu năm giong ruổi xuôi ngược, rồi có được gì hay

kết cục chỉ là một cuộc sống long đong, lận đận trong tấm thân dài thước sáu nổi chìm

trong vòng trời đất! Cuộc sống hiện tại chẳng có gì để hy vọng, vì từng ngày từng giờ

tuổi già cứ sồng sọc chạy đến, sức khỏe suy sụp, đau yếu liên miên cùng với cuộc sống

đói nghèo đầy xót xa, tủi cực ...

Cứ thế, trải dài trong những trang thơ là những nỗi buồn, nỗi lo chung cho cuộc đời,

cho người, cho mình ... rồi để tự trấn an mình, Nguyễn Du đã tìm ra một giải pháp giúp

con người sống hạnh phúc hơn, sung sướng hơn. Con người tìm đến rượu:

"Bách kỳ đản đắc chung triều túy" (Đối tửu)

(Cuộc đời trăm năm chỉ ước được say suốt ngày)

"Thôn cư bất yếm tần cố tửu " (Tạp thi II)

125

(Ở thôn quê mua rượu hoài không chán)

Ông thần rượu Lưu Linh cũng là thần tượng làm cho Nguyễn Du mê say, ca ngợi:

"Túy lý dĩ năng tề vạn vật,

Tử thời hà tất niệm di hài"

(Lưu Linh mộ)

(Khi say đã coi vạn vật như nhau thì sau khi chết, hà tất lo đến hình hài). Người thơ

lãng mạn cũng rất hâm mộ Thi Tiên Lý Bạch trong làng say

"Tự ngôn Thần thị tửu trung tiên

Bạc thị vinh danh đồng tệ lý

(Đào hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)

(Tự xưng ta là tiên trong làng rượu

Xem nhẹ vinh hoa như chiếc giày rách)

"Khuyến quân ấm tửu thả vi hoan

Tây song nhật lạc thiên tương mộ"

(Hành lạc từ II)

(Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi)

Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)

Con người ta xưa nay khi chán nản hay có tâm sự buồn thường tìm đến rượu. Hình

như từ xưa đến nay vẫn thế. Hồ Xuân Hương dùng rượu để giải khuây, để tránh nỗi buồn

hẩm hiu của duyên phận đang cấu xé mình.

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh.

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"

(Tự tình - Hồ Xuân Hương)

126

Uống say, mục đích là để quên thực tại, quên nỗi buồn nhưtig sau khi say nỗi buồn

lại thêm nhiều hơn, minh lại thấy trơ trọi hơn. Nó cũng giống tâm trạng Kiều khi ở lầu

xanh:

"Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa"

(Kiều - Nguyễn Du)

Tìm đến rượu để khỏa lấp nỗi đau là giải pháp hữu hiệu nhất từ xưa đến nay. Chí

Phèo sau khi "thất tình" với Thị Nở đã uống say đến thành tình và phát hiện ra rất nhiều

điều; cô Mỵ ương vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, uống rượu say, bị trói vẫn tưởng ra hạnh

phúc đang rập rờn bên mình ...

Còn con người trong thơ khi say chừng như thấy được sự hữu hạn của kiếp người.

Kiếp người ngắn và đầy những âu lo toan tính, vì vậy mà nếu có dịp thì hãy vui chơi cho

thỏa thích, có rượu thì cứ uống, Hãy như Nguyễn Công Trứ xưa kia ...

"Nhân sinh ba vạn sáu nghìn ngày

Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi.

Nhắn con tạo hóa xoay thời lại.

Để khách tang bồng rộng bước chơi"

(Đời người thấm thoắt)

"Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đấy

Nếu không chơi thiệt ấy ai bù "

(Chơi xuân kẻo hết xuân đi)

Nhắc đến rượu, con người ta hẳn chắc sẽ nhớ đến ông "Thần rượu Lưu Linh. Người

này sống ở đời Ngụy Tấn đã say suốt đêm ngày. Ông tìm quên trong rượu, tìm vui trong

rượu vì ông cho rằng chính trị đương thời hắc ám, vua hôn ngu, quan tham bạo, quốc thế

sắp khuynh vong trước oai võ uy hiếp của rợ Ngũ Hồ. Câu nói "Tử tiện mai" (Chết đâu

127

chốn đó) trở thành câu nói bất tử, giúp Lưu Linh trở thành đệ nhất danh rượu trong làng

say. Còn thơ ca Việt Nam hẳn chắc không quên Cao Bá Quát:

"Say khướt về không cần kẻ đỡ

Một sống khói trúc mơ hồ xa ...

Lầm rầm ghé tối hoa sen hơi.

- Có đỏ được bằng mặt rượu ta?"

"Gõ lấy nhịp đọc câu Trương Tiến Tửu

Quân bất kiến, Hoàng hà chi thủy thiên

Thượng lai hôn lưu đáo hai bất phục hồi?

Làm cho cho mệt một đời"!

(Bài thơ đề ở vách núi Sài Sơn)

Và có lúc ông xem rượu như một trò tiêu khiển:

"Hãy tiêu khiển một vài chung lếu láo

Trầm tư bách kế bất thư nhàn"

Đó là suy nghĩ của Cao Bá Quát khi thất chí, buồn chán sự đời. Còn Nguyễn Du,

rượu đối với ông không phải là thứ nước cay nồng mà là phương thuốc giải trị nỗi buồn.

Con người trong thơ hài lòng, sung sướng khi thưởng thức nó.

"Thế lộ trần ai tín hỗn trọc

Bất như chung nhật thống ẩm toàn ngô thiên!"

(Đào hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)

(Đường đời đầy gió bụi, thật quả là dơ đục,

Chi bằng suốt ngày uống tràn để giữ trọn tính thiên nhiên của ta!)

Con người trong thơ đôi lúc lại có những ước muốn kỳ quặc, muốn được hưởng lạc

thú khi đã đặt chân xuống mồ, ước được con cháu rưới rượu xuống đất để tận hưởng.

128

"Phục lạp tử tôn không loại tửu"

(Dọc đường cảm hứng - THTT)

(Con cháu giỗ chạp rưới rượu tưới hoài)

Nghe có vẻ như lời của một chuyên gia hành lạc thực sự. Rượu là lạc thú muôn đời

với muôn người. Rượu trước tiên là thứ để giải sầu, sau đó mới là một thú tiêu khiển.

Mặc đù thích thú đến thế nhưng trong con người vẫn còn tỉnh táo để nhận thức rằng mình

sinh ra không phải chỉ để hưởng lác, để say vùi trong men rượu. Lý do con người đưa ra

để biện minh cho lòng ham muốn của mình là sự thất chí, quẫn bách của một người lỡ

thời, không gặp vận. Chứ thực ra con người trong thơ chưa bao giờ là một con người

muốn hưởng thụ, thích hưởng thụ ... Sở đĩ con người lao vào những cuộc say đó là do dư

âm của tính nết cuồng phóng thời trẻ. Muốn rồi sau đó lại thôi. Ở đây lời thơ như có gì đó

ngập ngừng, nghĩ ngợi. Con người trong thơ đã thể hiện được cái tôi cá thể của mình đó

là sự dằn vặt, trăn trở, đấu tranh với bản thân để mình là chính mình, để mình được sống

tốt đẹp hơn.

"Mỗi liên cố thái duy cuồng tại,

Dục mịch tân hoan nài lão hà?

(Từ Châu đạo trung)

(Nghĩ thương cho mình vẫn giữ tính cuồng phóng cũ.

Muốn tìm thú vui mới, nhưng khốn nỗi đã già rồi!)

"Dục điển túc sương mưu nhất túy,

Nại hà đầu đĩ bạch như ngân."

(Quảng Tế ký thắng)

(Muốn bán cái áo cừu túc sương mua lấy cuộc say,

Khốn nỗi trên đầu tóc đã bạc trắng!)

129

Với những lý do đưa ra trên đây, con người thơ quay trở về với cuộc đời. Con người

ước ao đổi cái áo cừu túc sương để chỉ mua lấy một cuộc say, được nghe nhạc, được tắm

trong một nhà tắm có chậu sơn đựng nước, có xà phòng thơm, được ngắm nhìn những

bàn tay ngà ngọc của các cô gái người Hồ Thái làm gỏi (Ghi cảnh đẹp ở đất Quảng Tế).

Con người mơ ước có được niềm vui bình dị:

"Trường quần tập tập duệ khỉnh tiêu,

Vân kế nga ngan ưng Thúy Kiều

Doanh đắc quỉ đầu mãn nang khấu,

Bằng quân vô phúc dã năng tiều."

(Thưởng Ngô Trúc chi ca XIV)

(Các cô gái mặc quần lụa dài tha thướt, tóc mây búi cao, cài trâm lông chim thúy.

Họ chỉ cần có tiền đầy túi, , anh không có phúc cũng gần gũi được)

"Hoàng Hoa khuê nữ tham hành lạc,

Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân "

(Thương Ngô trúc chi ca XI)

(Cô gái đầu cài hoa vàng chen ra đứng trước mũi thuyền xem, ham vui, thấy người

lạ cũng không tránh).

"Thặng hữu nhàn tâm vổ quai ngại,

Bất phương chung nhật đối phù âu "

(Hoàng Hà trở lạo)

(Còn lại tấm lòng nhàn nhã, không bận bịu,

Suốt ngày nhìn đàn chim âu bơi lội cũng chẳng ngại)

"Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại

Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân "

130

(Sơn thôn - THTT)

(ước chi thoát được trần tục

Mà ngồi dưới cây tùng, thú biết bao nhiêu)

Ở trong nước trong cương vị của một ông quan tại triều, để đảm bảo cho thanh danh

của mình, Nguyễn Du ít có điều kiện gần gũi với những người bình dân bên lũy tre, bờ

ruộng, mái tranh ... sang xứ người, ông bỗng thấy hình bóng thân thương của họ lẩn

khuất trong lũy tre, bóng trúc, cổng nhà...Những người dân hiền lành ấy gợi trong

Nguyễn Du bao nỗi niềm:

Sơn hạ hữu trường từng,

Sơn thượng hữu dao thôn

Sơn hạ trường tùng sao,

Chính đương sơn thượng môn

Môn nội sở cư nhân

Cùng niên hà sở vỉ

Nữ sự duy tích ma

Kỳ nam nghiệp vân ti

Vân ti cẩu đắc nhân,

Há sơn phạt tùng chỉ

Liêu dĩ túc quan thuế,

Bất sự thư dĩ thi.

Thôi tô nhất bất đảo

Kê khuyển giai hi hi...

(Hoàng Mai sơn thượng thôn)

(Dưới chân núi có dãy thông cao, trên núi có xóm xa.

131

Ngọn thông dưới chân núi cao ngang tầm cổng nhà trên núi

Người ở trong cổng ấy quanh năm làm những việc gì?

Đàn bà chuyên dệt đay, gai, đàn ông chuyên vun cây, bừa cỏ. Bừa cỏ, vun cây xong,

nhàn rỗi thì xuống núi chặt cành thông, kiếm tiền đủ nộp thuế cho quan, không đọc sách

thi thư. Lúc nào quan không thúc thuế, con gà con chó cũng vui mừng theo). Những hình

ảnh rất đỗi thân thương bình dị ấy phải chăng là niềm ấp ủ sâu kín nhất của con người về

giấc mơ một cuộc sống hiền hòa, bình lặng mà con người ước ao vươn tới. Hẳn là đúng

như thế.

"Tiễn sát bắc song cao ngoa giả,

Bình cư vô sự đáo hư linh"

(Kỷ hữu - THTT)

(Rất thèm được như bạn nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc, Thảng thích chẳng có gì

bận đến tâm linh). Con người đời thường chịu sự chi phối nhiều của cuộc sống. Con

người phải lo lắng vì cái đói, cái nghèo. Những cái đó tạo nên sự bức bối, ngột ngạt. Nó

có thể làm xói mòn đi hùng tâm, tráng chí, cái khoáng đạt rộng mở của chân tính thiên

nhiên. Vì vậy con người phải tìm cho mình một cuộc sống. Con người đời thường trong

thơ Nguyễn Du đã tìm đến những niềm vui, hạnh phúc. Con người tìm đến rượu, đến

những cuộc vui chơi để giải sầu, để phá tan đi nỗi lo về no đói ... Nhiửig khi đến với cuộc

vui rồi con người cũng kịp dừng lại. Con người trong thơ còn ước mơ có được cuộc sống

bình dị, hiền hòa ... Nói tóm lại, những biểu hiện của con người trong tập thơ hết sức sinh

động, hết sức trần thế và cũng hết sức đời thường.

2.3.3.Con người vũ trụ

Như trên đã nói, quan niệm về con người nghệ thuật không đồng nhất với quan

niệm triết học về con người nhưng thật ra thì giữa chúng luôn có một mối quan hệ tương

thông cần thiết. Quan hệ của triết học về con người luôn ảnh hưởng sâu sắc đến nghệ

thuật.

132

Con người trong thời cổ luôn tự đặt mình trong mối quan hệ tương thông, tương

hợp với thiên nhiên. Người Trung Quốc thì cho rằng đó là quan niệm "Thiên nhân hợp

nhất", "Thiên thân tương dữ" nghĩa là trời và người có quan hệ mật thiết với nhau. "Nhân

thân tiểu thiên địa" (Con người là một đất ười, là một thế giới nhỏ). Đến những bậc tiền

bối đáng kính như Trang Tử, Mạnh Tử cũng luôn xem mình là một thế giới nhỏ của đất

trời. Chắc ai cũng biết câu nói nổi tiếng của Thiên Tử 'Thiên địa dữ ngã tinh sinh, vạn vật

dữ ngã vi nhất" (Trời đất cùng sinh ra với ta, vạn vật với ta là một) hay của Mạnh Tử

"Vạn vật giai bị ư ngã" (Vạn vật đều có đầy đủ trong ta)...

Con người trong thơ cổ thường gắn liền với không gian vũ trụ. Theo Trần Đình Sử:

"Không gian nghệ thuật trong thơ cổ điển là không gian vũ trụ bởi vì người xưa rất khao

khát được lên cao để chan hòa với vũ trụ, để chiếm lĩnh không gian. Và trong thơ cổ

không có chỗ cho không gian cá nhân. Thơ trữ tình dù rất riêng tư nhưng cá nhân ở đây là

hòa đồng với thế giới, hòa tan với vũ trụ. Cá nhân cũng là một vũ trụ do quan niệm triết

học: Con người là một trong 'Tam tài" (Thiên - địa - nhân) chi phối". Con người có thể

cảm thông với trời đất "Thiên nhân tương cảm"; trời đất cùng sinh ra với ta "Thiên địa dữ

ngã tịnh sinh" (21).

Như vậy, từ khái niệm ban đầu, con người vũ trụ có nghĩa là con người có liên quan

mật thiết với đất trời - vũ trụ. Con người là một "tiểu vũ trụ" trong lòng đại vũ trụ mênh

mông. Đó cũng là quan niệm về con người thời cổ và tồn tại mãi suốt thời phong kiến và

thời cận đại.

Trong thơ Đường, con người vũ ưu luôn ở trong tầm nhìn thoáng đạt rộng rãi, bao

la. sống trong tâm thái đó, họ hầu như quên hết nhọc nhằn, âu lo, phiền muộn, những toan

tính của cuộc đời. Họ tự giải phóng mình ra khỏi khung thời gian tuyến tính. Vì thế, cuộc

sống họ thỏa mái, vô tư.

Dữ Lư Viên ngoại tượng quá

Thôi Xử Sĩ Hưng Tôn lâm đinh

(Vương Duy)

133

Lục thụ trùng âm cái tứ lân

Thanh đài nhật hậu tự vô trần

Khoa đầu cô cử trường tùng hạ.

Bạch nhãn Khan Tha thế thượng nhân"

(Đến nhà ẩn sĩ Thôi Hưng Tôn trong rừng

cùng với Lư Viên Ngoại)

"Bốn bễ rợp dưới bóng cây

Rêu xanh chẳng gạn mảy may bụi hồng

Từ quan, nằm khểnh rừng thông.

Gương đôi mắt trắng mà trông người đời"

(Nguyễn Sĩ Đại)

Và ở một bài thơ khác:

Đăng Quán Tước Lâu

(Vương Chi Hoàn)

"Bạch nhật y sơn tận

Hoàng Hà nhập hải lưu

Dục cùng thiên lý mục

Cảnh thưởng nhất tằng lâu"

(Mặt trời tắt sau núi

Hoàng hà nhập biển sâu

Muốn lên xa nghìn dặm

Lên nữa một tầng lầu)

(Nguyễn Sĩ Đại - Lên lầu Quán Tước)

134

Và đây, có thể xem là tuyệt cú của thơ Đường về hình ảnh con người vũ trụ

Tuyệt Cú

Đỗ Phủ

"Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu

Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên

Song hàm Tây Lĩnh thiên thu tuyết

Môn bạc Đông Ngô vạn lý thuyền"

(Hai cái oanh vàng kêu liễu liếc

Một hàng cò trắng vút trời xanh

Nghìn năm tuyết núi song in sắc

Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình)

(Tản Đà)

Đây là bài thơ của Đỗ Phủ viết sau loạn An Lộc Sơn. Hoàn toàn trong bài thơ không

có dấu vết của chiến tranh, ly tán. Thấp thoáng ở từng lời là khung cảnh thanh bình đầy

sức sống của thiến nhiên, muôn vật. Từ con chim oanh gọi liễu đến từng đàn cò bay vút

vỗ cánh giữa bầu trời xanh... Một bức tranh cuộc sống yên bình, êm ấm.

Thơ Nguyễn Du nhuốm đầy màu sắc tâm trạng. Cho nên, con người vũ trụ trong thơ

ông cũng là con người tâm trạng. Con người ấy được thiết lập ở vị thế đối chọi lại với đất

trời.

Khác với Cao Bá Quát là người luôn đặt mình giữa khung trời đất.

"Thị thành nơi ở thấp ồn

Một anh già ốm trong khuôn đất trời

Giữa trời đất, một anh tù làm thơ"

135

"Trời cao, đêm mờ mịt

Dưới có người không ngủ

Trên có vì sao muốn rơi"

Con người vũ trụ trong thơ Cao Bá Quát có tầm vóc, hòa nhập, tương thông với trời

đất. Con người ấy lên trời thăm tiên:

"Ta khoa tay rồi sà từ ngọn gió nồm

Trở về ta huýt một hồi sáo dài

Nâng chén rượu toan hỏi trời..."

Trong bài thơ thứ tư đề vào vách núi Sài Sơn người đọc càng thấy rõ cái tầm vóc vũ

trụ của con người trong thơ:

"Tham chơi đầu bạc hứng chưa nguôi

Chống gậy trèo cao rộng bước chơi

Bút cuốn khói mây mười sáu ngọn

Mắt thu non nước vạn trùng khơi

Am xưa hạc Ốm nghe im tiếng

Rồng bướng vây gương dậy giữa đồi

Hãy tới chợ trời tung điệu sáo

Vòm trời cười hỏi mất xa vời"

Con người trong thơ tự xem mình là "tiểu vũ trụ" có xu hướng hội nhập tương thông

cùng với "đại vũ trụ" và "những tiểu thiên địa". Nói như người xưa, đó là cách làm của

giọt nước đi tìm về biển cả để cho mình khỏi bị tan biến đi.

Con người ta khi thoát khỏi những nhỏ nhen, vụn vặt của đời thường đều muốn hòa

nhập, tương thông với vũ trụ. Nhất là khi bước lên đài cao, ai cũng thấy được thoải mái,

thật sự cởi bỏ cái tâm đầy ưu tư âu lo của mình. Ngày xưa, Nguyễn Trãi lo đời, ưu dân ái

136

quốc đó, lúc cuối đời bị hãm vào cảnh phải chướng tai gai mắt nhìn bọn gian thần lũng

đoạn vây quanh mà Nguyễn Trãi đâu có giấu được tấm lồng son của mình. Với Ưc Trai,

cái đẹp luôn thường trực ở trong tâm hồn. Vậy cho nên, gặp cái đẹp trong vũ trụ thì hòa

mình ngay, thích ứng ngay.

Ngồi ương một chiếc thuyền câu trong cảnh lạ, đêm thanh, nhìn "nguyệt mọc đầu

non" và "khói tan mặt nước", ức Trai bảo đó là:

"Giang san dạm được đồ hai bức

Thế giới đông nên ngọc bầu"

(Giang thiên mộ tuyết - Hồng Đức quốc âm thi tập - Nguyễn Trãi)

Vậy đó, con người cao khiết ấy dù nếm biết bao giông bão của đời vẫn luôn có trái

tim riêng dành cho cuộc đời. Còn Nguyễn Du đi đâu, người chỉ thấy toàn bụi, cát, và

bóng tối ... thấy toàn những cuộc đời chìm nổi, chuyện trăm năm, nghìn năm, chuyện bãi

bể hóa nương dâu...

Khi lên lầu Hoàng Hạc, nhìn trước mắt khói sóng mênh mang. Con người như đứng

trước một khoảng không gian rộng lớn, nhìn hút tầm mắt. Ở đây con người không còn

cảm thấy ngột ngạt, bức bối nữa nhưng lại rơi vào một trạng thái khác, đó là cảm giác

chới với của người mất điểm tựa, mất phương hướng.

"Hạm ngoại yên ba chung diếu diếu,

Nhãn trung thảo thụ thượng y ý.

Trung tình vô hạn bằng thúy tố,

Mình nguyệt thanh phong dã bất tri"

(Hoàng Hạc lâu)

(Phía ngoài lan can, khói sóng vẫn mênh mang,

Trước mắt cỏ cây, vẫn như cũ không hề đổi thay

Mối tình chan chứa biết ngỏ cùng ai?

137

Trăng trong gió mát cũng không thể hiểu thấu)

Con người vũ trụ trong thơ Nguyễn Du cũng có lúc ao ước muốn được vĩnh cửu,

cùng trường tồn ười đất, hòa hợp với thiên nhiên.

"Thanh Sơn lâu các nhất tằng tằng,

Trả kiến yên hà, dạ kiến đăng.

Cổ tự vô danh nan vấn tấn,

Bạch vân thâm xứ ngoa sơn tăng"

(Thương Ngô trúc chi ca - bài số 4)

(Non xanh lớp lớp gác chen lầu

Ngày sáng đêm đèn đẹp biết bao!

Chùa cổ không tên tìm hỏi khó,

Nằm bên mây trắng một thầy tu)

Con người trong thơ xuất hiện trong tư thế vũ trụ, nằm bên mây trắng, đất nối liền

với trời. Tiếng thơ cất lên nhẹ nhàng, êm ái, không gian thật thoát tục. Con người cũng

đường như trải nhẹ lòng mình vào khoảng không bao la ấy ...

Ở nhiều bài thơ, điểm nhìn nghệ thuật được đặt ở chính giữa trung tâm của vũ trụ.

"Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng,

Kinh khởi sa đỉnh nhạn sở hàng.

Thiên tế dao chiêm quì khứ xứ,

Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương"

(Thương Ngô trúc chi ca VI)

(Tiếng ran pháo nổ khói lưu hoàng,

Hoảng sợ bay lên nhạn mấy hàng,

138

Nhìn với bến ười nơi thẳng tới,

Thương Ngô phía bắc ấy Hành Dương)

Con người trong thơ đang đứng ở giao điểm của không gian, thời gian mà lên tiếng.

Đó là tiếng nói của một tiểu thiến địa giữa lòng đại thiên địa mênh mông và giữa thời

gian tiền - hậu vô thủy vô chung. Cái tiểu thiên địa ấy thật cô độc, đơn lẻ và hữu hạn

trước cái vô hạn, vô cùng vô tận của vũ trụ bao la.

Con người vũ trụ trong thơ thường rất muốn "đăng cao". Ngày xưa, Đỗ Phủ cũng đã

từng có được giây phút hòa cùng đất trời, vũ trụ:

"Phong cấp, thiên cao, viên khiếu ai

Chữ thanh, sa bạch, điếu phi hồi

Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ,

Bất tận trường giang cổn cổn lai"

(Đỗ Phủ- Đăng Cao)

Con người đã ở trên cao lại càng thấy trời cao hơn. Đầu tiên, đó là cái nhìn quét

theo chiều thẳng đứng, từ trời cao gió mạnh thổi dài mang theo tiếng vượn ai oán, đến

bến cát trắng có bầy chim lượn vòng. Rồi tia nhìn ấy lại lướt theo chiều rộng, thì chiều

rộng cũng "vô biên", "bất tận" với lá rụng tơi bời, sông dài cuồn cuộn. Không gian, cả

chiều cao, chiều rộng đều bao la ... chính lúc ở những tầm cao ấy, con người dường như

thấy mình bé nhỏ lại đơn độc giữa không gian vô tận, rộng lớn của đất trời.

"Vạn lý bi thu thường tác khách

Bách niên đa bệnh độc đăng đài"

(Muôn dặm thu buồn làm khách mãi

Một thân già ốm bước lên đài)

Hai câu thơ chồng chất bao tầng ý thương đau. Người đọc có cảm giác như gieo một

chữ là một ngẫm ngợi, day dứt.

139

Cả hai nhà thơ đều "đãng cao" nhưng tư thế của Đỗ Phủ là tư thế buồn là nỗi đau,

nỗi sợ luôn dày vò, ám ảnh.

"Gian nan khổ hận phồn sương mẩn"

(Gian nan khổ hận đầu thêm bạc)

Câu thơ như là một bản tổng kết mọi nỗi truân chuyên, đau khổ, uất hận của cả một

kiếp người. Và thấp thoáng trong lời thơ ấy là một dự cảm về số phận, về cuộc đời trôi

giạt tha phương, về một cái chết không được yên nơi, yên chỗ.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du nằm trong khuôn khổ của nền văn hóa trung đại nên con

người nghệ thuật của ông chắc chấn sẽ là con người vũ trụ. Và thơ chữ Hán có làm bật

sáng được một tiểu vũ trụ trong lòng đại vũ trụ hay không?

"Nguy lâu trĩ cao ngạn

Đăng lâm hà tráng tai!

Phù vân tam sở tận,

Thu thủy cửu giăng lai"

(Đăng Nhạc Dương lâu)

(Bờ cao lầu chót vót

Trèo lên sảng khoái ghê

Mây nổi Tam Sở khắp

Nước thu chín sông về)

Bài thơ thể hiện khát vọng lớn của con người trong thơ. Đó là ước muốn vươn lên

ngang tầm với thiên nhiên, khẳng định tầm vóc của mình. Dù nhận thức được giới hạn

của mình nhưng khát khao được mở rộng cuộc đời, mở rộng tâm hồn mình vào vũ trụ.

Con người trong thơ mong ước được cưỡi lên trời, được hòa tan vào mây như người đời

trước.

"Thu trung khả hữu phù sà quá,

140

Ngã dục thừa chi tái thượng thiên".

(Hoàng Hà)

(Thu này nếu có bè đi qua

Ta sẽ cưỡi lên trời như người đời trước)

Có vẻ Nguyễn Du "đăng cao" trong tư thế sảng khoải, như ôm hết bầu trời cao rộng,

không gian bát ngát về. Cái tư thế sảng khoái của con người gợi lên khí phách và ước mơ

của một tâm hồn mong mỏi được tung hoành trong trời đất, hòa vào vạn vật. Thế nhưng

đó chỉ là cái tư thế của lúc ban đầu, lúc con người vừa nhón gót bước lên đưa đôi bàn tay

mong được giao hòa cùng vũ trụ. Tiếp theo cái tâm thế ung dung, sảng khoái ấy là cả một

nỗi niềm.

"Cố hương không nhất nhai"

(Ta trông về cố hương chỉ thấy một vết chân trời mà thôi!)

"Tây phong ỷ cô hạm "

(Một mình đứng tựa lan can trước ngọn gió tây)

"Hồng nhạn hữu dư ai"

(Nghe tiếng chim hồng chim nhạn kêu, càng thêm buồn)

(Đăng Nhạc Dương lâu)

Con người dù đã "đăng cao" nhưng vẫn không thể nào thoát ra khỏi cái u uất, trầm

mặc của cõi lòng. Có cái gì đó bức bối, ngột ngạt đang đè nặng, đang phủ chụp lấy con

người.

Bên cạnh đó, con người vũ trụ trong thơ Nguyễn Du còn thể hiện cái tôi. Cái tôi

luôn vùng vẫy, cựa quậy, quay đầu, nhớ tiếc về quá khứ. Trong thơ chữ Hán, đặc biệt là

ữong Bắc hành con người trong thơ thường khắc khoải đi tìm mình, hiểu mình ... điều

này rõ ràng rất thích ứng với giai đoạn cuối của thời Trung Đại. Và ở thời kỳ ấy, con

người luôn mang một tâm trạng u uất, tiếc nuối.

141

Con người "đăng cao" trong thơ chữ Hán Nguyễn Du khao khát vươn tới chiếm lĩnh

không gian rộng lớn. Nhiửig khi đứng trước không gian rộng lớn ấy, con người lại "hồi

thủ", "hồi đầu", con người vũ trụ trong thơ lại đấm chìm ương nỗi nhớ nhà, nhớ quê quay

quắt.

Trên đường vạn lý, người lữ khách đi trong rừng phong đầy gió, đầy cát. "Trên

đường Tổ Sơn" vẽ ra một con người gần như thất chí. Đó là hình ảnh của một con người

có dáng vẻ mệt mỏi, u sầu, đang đi lang thang giữa đám bụi hồng. Trong khoảng không

mờ mịt hắt hiu ấy con người cảm thấy cô đơn. Làn tóc bạc trắng phau như ngạo nghễ

cười cợt với ánh tà dương của buổi chiều. Thời gian cứ tuần hoàn lưu chuyển, chẳng hề

thấy chạnh lòng trước nỗi đau và sự mất mát cửa con người.

"Phong thu lâm trung diệp loạn phỉ,

Kinh sa tác vũ thướng chinh y.

Tiêu tiểu khô thảo lộ nhất tuyến,

Tịch tích tà dương sơn tứ vi"

......

"Ba ba bạch phát hồng trần lộ"

(Trên đường Tổ Sơn)

(Rừng phong xơ xác lá tung bay,

Cát tựa mưa sa áo khách đầy.

Cỏ lia tiêu điều đường dặm thẳm,

Bóng tà ảm đạm núi bao vây

......

Giữa lối hồng trần phơ tóc bạc)

"Thập niên dĩ thất hoàn lương lộ,

142

Ná đắc gia hương nhập mộng tần ?"

(Tam giang khẩu đườns dạ bạc)

(Mười năm nay, ta quên đường về làng cũ rồi, làm sao cố hương vào được ưong

mộng?)

"Nhị thập thất nhân cộng hồi thả.

Cố hương đĩ cách vạn trừng san!"

(Thái Bình Thành hạ văn xuy địch)

(Hai mươi bảy người trong đoàn đều ngoảnh đầu lại nhìn

Nhưng cố hương đã cách muôn trùng núi non!)

"Ỷ bồng thiên lý vọng,

Hợp nhãn cách niên ti (tư)"

(Sơn Đường dạ bạc)

(Ta tựa mui thuyền trồng ngoài nghìn đăm,

nhắm mắt lại nghĩ, thì ra xa nhà đã một năm!)

"Cố hương không nhất nhai"

(Đặng Nhạc Dương Lâu)

(Ta trông về cố hương chỉ thấy một vệt chân trời mà thôi !)

"Nhất đái mao từ dương liễu trung

Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng"

(Nhiếp khẩu đạo trung)

(Một dãy nhà tranh dưới hàng dương liễu. Hơn năm nay,

ý muốn trở về Hồng Lĩnh đã trỏ thành huyền ảo).

"Vạn lý hương tâm hồi thư xứ,

143

Bạch vân nam hạ bất thăng đa!"

(Ngẫu hứng)

(Ở nơi muôn dặm, nhớ tới quê hương, ngoảnh đầu nhìn

lại, chỉ thấy mây trắng bay về Nam nhiều không kể xiết)

"Hành sắc thông thông tuế vân mộ,

Bất câm bằng thức thán "qui dư""

(Đồng Lộ)

(Cuộc hành trình vội vàng, năm cung sắp hết.

Bất giác ta vịn vào thành xe mà than thở "Hãy trỏ về thôi")

"Khứ nhật Lưỡng Hà tằng tập chiến,

Vu đồ thiên lý chính tư qui"

(Tổ Sơn đạo trung)

(Hôm trước, đất Hà Nam, Hà Bắc giặc giã, thành ra sứ đoàn phải đi vòng quan ngàn dặm,

càng nhớ quê hương).

"Mang nhiên bất biện hoàn lương lộ,

Xúc mục phù vân xứ xứ đồng"

(Nhiếp khẩu đạo trung)

(Mịt mờ chẳng nhận ra đường về quê hương ở phía nào.

Đâu đâu cũng chỉ thấy những áng mây trôi).

"Vạn lý huống tâm hồi thủ xứ,

Bạch Vân nam hạ bất thăng đa!"

(Ngẫu hứng)

(Ở nơi muôn dặm, nhớ tới quê hương, ngoảnh đầu nhìn lại,

144

chỉ thấy mây trắng bay về Nam nhiều không kể xiết).

"Vu đồ thiện lý chính tư qui"

(Tế Sơn đạo trung)

(Sứ đoàn phải đi vòng quanh ngàn dặm, càng nhớ quê hương).

"Du du hương quốc bát thiên lý"

(An Huy đạo trung).

(Quê hương mịt mù, xa tám nghìn dặm),

Thêm vào đó, tần số xuất hiện của các hiện tương thiên nhiên, vũ trụ càng nhiều. Có

đến 41 lần những hình ảnh này xuất hiện: bóng chim hồng, chim nhạn, mây, núi xanh,

mặt trời xế, gió thu, bụi hồng, bóng chiều, mây chiều, khói chiều, núi non muôn trùng ...

"thanh vân" (mây xanh), bích vân (tầng mây xanh), thanh san (Núi xanh), vạn trùng san

(muôn trùng núi non), thanh sơn (núi xanh), "đông phong" (gió đông), thu phong (gió

thu), "tây phong" (gió tây), "phù vân" (mây nổi), nhật mộ vân (áng mây chiều), phù vân

(mây che), hồng trần (bụi hồng), phù vân (những áng mây trôi), diệt qui hồng (bóng chim

hồng), không mộ vân (đám mây chiều lơ lửng), mộ yên trung (trong khói chiều), "tịch

dương" (bóng chiều tà), "hồng trần tà dương" (bóng tà dương tịch mịch), "hồng trần lộ"

(đám bụi hồng), "nhất phiến trần" (bụi mịt mù).

Phải chăng những cánh chim, những bóng mây kia ... cũng nổi trôi, phiêu dạt vô

định như cuộc đời của chính mình. Ý nghĩa triết lý chính là ở chỗ ông luôn băn khoăn với

cuộc đời chìm nổi của mình. Chim bay còn định được hướng đến, mây theo gió bay theo

trăm nẻo, biết ngày nào được về nguồn cội nơi nó đã bay lên! Ấy vậy mà nhiều lúc ông

thấy buồn, một nỗi buồn thấm sâu, day dứt. Nhà cửa không có mà cuộc sống thì quẩn

quanh, thiếu thốn. Thơ chữ Hán là những nỗi niềm tâm sự, là chỗ mà ông có thể trút cạn

nỗi lòng, là nơi mà ông có thể gởi vào đó bao chí nguyện, tâm huyết. Nó ỉa gan, là ruột, là

máu và cả nước mắt nữa. Nên ở đó ta thấy rất rõ mọi khía cạnh của con người Nguyễn

Du. Chỗ nào Nguyễn Du nhấn đi nhấn lại là chỗ đó có gì khúc mắc, bức bối, ngột ngạt

145

khiến ông phải nói đến nhiều lần như để vơi bớt, nhẹ bớt cho cõi lòng u ám của mình. Có

lẽ vì vậy mà cảnh vật gần với tâm hồn con người hơn.

Đăng cao gắn liền với "hồi thủ" , "hồi đầu" là một nét nữa trong con người vũ trụ

Nguyễn Du. Trên đường đi, Nguyễn Du luôn quay đầu lại. Tâm tình ấy, nỗi niềm ấy của

ông đã được người đời sau xẻ chia, thấu hiểu.

"Khi ta ở đất là nơi đất ở.

Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn"

(Chế Lan Viên)

Mảnh đất mà Nguyễn Du đã từng vui, từng buồn, từng ấp iu những hoài vọng và

cũng đã từng đắng cay vì thất chí ấy lại hiện về đầy ắp trong ông. Chẳng phải thế sao khi

trên đường đài vạn dặm, Nguyễn Du luôn ngoảnh lại phía sau mình để kiếm tìm lời đồng

vọng, để mong được nhìn thấy dáng hình yêu thương của non sông nước Việt, để được

mong nhận một niềm yêu thương, một lời dỗ dành, vỗ về, chở che, an ủi trên đường đầy

gió bụi này. Sự khát khao được yêu thương, được cảm thông ấy đôi lúc đả bùng lên thật

dữ dội, thật mãnh liệt trong ông.

"Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ,

Mãn mục Sở sơn vô hạn thanh"

(Đăng Nhạc Dương lâu)

(Ngoài ngàn dặm, ta bùi ngùi ngoảnh đầu lại, Khắp nơi là núi non đất Sở một màu

xanh ngắt) Con người ta khi rời khỏi quê hương thường hay ngoảnh đầu nhìn lại sau lưng

mình. Dù chỉ là một chút thôi nhưng hình ảnh ấy cũng thật có ý nghĩa. Hành động ấy thể

hiện cái tâm trong sáng, sự hàm ơn mảnh đất đã nuôi dưỡng tâm hồn và thể xác mình. Cái

nhìn ấy còn có ý nghĩa thâu tóm toàn bộ niềm kỷ ức sâu kín nhất, những dư âm cùng với

nỗi niềm xốn xang mà người lữ thứ sê mang theo để làm hành trang cho mình. Cái nhìn,

cái ngoảnh đầu của con người trong thơ đã đánh động lòng người, làm thức dậy thiên

146

lương trong sánơ vốn có ồ mỗi người chúng ta. Hình ảnh đó làm người đọc liên tưởns

dấn hai câu thơ :

"Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy."

(Đất Nước – Nguyễn Đình Thi)

Biết bao niềm tâm sự, quẩn quanh trong cái quyết tà Ha khôn 2 ngoảnh đầu ấy. Còn

Nguyễn Du, rất nhiều lần trong thơ ông đã ngoảnh đầu nhìn ỉại. Để làm gì? Để kiếm tìm,

để hoài vọng, mong được cảm thông, được sẻ chia những tâm sự mà mình đã âm thầm

gánh chịu trong hai mươi mấy năm trời. Một con người không ngoảnh đầu lại, và con

người kia luôn quay về phía sau là hai tư thế rất khác nhau, biểu hiện hai nỗi niềm, hai

niềm trắc ẩn không giống nhau. Một kia là sự ra đi đứt khoát, quyết tâm không lưu luyến.

Còn một này ỉa sự bịn rịn, vấn vươnơ, tiếc nuối dường như muốn níu lại, giữ lấy quãng

đời nhọc nhằn. khắc bạc nhưng đầy ắp kỷ niệm mà mình đã nếm trải. Lời thơ thể hiện rất

chán thành tâm sự sâu kín của Nguyễn Du.

Nguyễn Du là người sống trong thời hạ kỳ - trung đại nên ồng không thoát khỏi

cách nhìn của người trung đại. Ông "đăng cao" lá để phóng tầm mắt bao quát tìm hiểu

chứ không hòa mình, hòa tan vào vũ trụ như Không Lộ Thiền Sư xưa kia:

"Hữu thì trực thướng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"

(Ngôn hoài)

(Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót

Kêu lên một tiếng to vang làm lạnh cả bầu trời)

Vì vậy nếu so sánh con người vũ trụ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du sẽ thấy không

giống với các tác giả khác. Con người trong thơ lúc nào cũng thấy mình mong manh, bé

nhỏ. Minh là "chiếc thân", là "một mình'. Con người luôn khao khát vươn tới chiếm lĩnh

khoảng không gian rộng lớn, thu vào tầm mắt tất cả những gì của thế giới, nhiữig những

147

phiền muộn, âu lo, thương nhớ cứ canh cánh bên lòng. Chính ở đây nét thơ trong con

người vũ trụ đã bị con người đời thường con nsười yêu thương chi phối.

Nói tóm lại, con người trong thơ chữ Hán cửa Nguyễn Du dù ở bình điện khoáng

đạt, rộns lớn nhưng nó vẫn toát lên cái không khí thâm trầm, u ám, nsột ngạt, bế tắc, mờ

tối ... Trên cái nền chung ấy, con người biểu hiện khát vọng khám phá hiểu biết, tự đối

lập mình với vũ trụ, thiên nhiên để kêu gọi đồng cảm, biểu hiện sự cam chịu nhẫn nhục

khi cảm thấy mình không vượt được không gian hiện thực để đạt tới một lý tưởng vạch

sẩn cho mình. Con người dường như không có sự tương thông với vũ trụ dù đã nhiều lần

"đăng cao". Và vũ ưu đường như cũng quay lưng lại với con người, chỉ đem lại cho con

người những gì con người không thích ứng nổi: Sự chết chóc, ứa tàn, xa cách, lạnh lẽo ...

và đến cả những bí ẩn muôn đời mà con nsười không thể giải thích được.

Thế kỷ XVIII - XIX với nhiều chuyển biến lịch sử, kinh tế, chính trị, nhất là về mặt

tư tưởng, văn hóa đã thúc đẩy những chuyển biến lổn lao trong; vãn học. Thơ văn của

những nhà thơ, nhà văn trong giai đoạn này là nhữns lời than vãn về "chí nam nhi", về

"hùng tâm, sinh kế". Họ bắt đầu hướng về cá nhân mình, hướng về những gì thuộc mình.

Tất cả những gì trước đây được coi là qui phạm, cao nhã trong văn học phong kiến đều bị

phá vỡ. Đặc biệt văn học giai đoạn này đánh dấu sự trỗi dậy mạnh mẽ của con người cá

nhân. Đó ỉa sự khám phá mới mẻ về con người: "Nét đặc trưng về quan niệm con người

trong thơ trữ tình trong giai đoạn này là nhu cầu tự nhiên của con người được khẳng định,

chữ thân, chữ tài, chữ tinh trở thành khái niệm để con người tự ý thức về mình".(22)

Hồ Xuân Hương là con người nổi loạn nên con người trons thơ Nôm của bà phá

phách, đạp tung tất cả những định kiến xã hội, tập trung biểu hiện cái tự nhiên của con

người, đối kháng với con người qui phạm. Còn Nguyễn Du, ông không những bắt kịp với

thời đại mà còn vượt lên trên thời đại mình. Con người trong thơ ông luôn vọng về quá

khứ để chiêm nghiệm, suy tư về sự được - mất, sống — còn. Vọng về tương lai để âu lo,

toan tính ... từ cái lớn lao đến cái bé nhỏ vặt vãnh ...

Con người đời thường luôn đay dứt, quanh quẩn với những nghĩ suy, những dằn vặt

khônơ lối thoát. Con ngươi yêu thương luôn thấu hiểu, sẻ chia, thâm cảm với nhiều thân

148

phận bi thương trong lịch sử, trong cuộc đời thường. Con người vũ trụ luôn khao khát

hòa nhập, tương thông với vũ trụ nhưng chẳng bao dờ có được phút giây thảnh thơi, thoải

mái.

So với quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát và

gần nhất là Hồ Xuân Hương thì hình tượng con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du

phản ánh rõ nét quan niệm nghệ thuật thời đại. Chính những biến động của thời đại đã

thôi thúc con người tự vươn lên để hiểu mình, hiểu người...

Có thể nói con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du đã bắt đầu cựa mình để tiến lên

đấu tranh giành quyền sống một cách quyết liệt như con người của thế kỷ XX.

149

PHẦN KẾT LUẬN

1. Luận văn này đã hệ thống lý giải và nêu bật được các vấn đề sau đây Ì. Khảo sát

toàn bộ các văn bản và các công trình nghiên cứu khác, trên cơ sở đó thành lập một bảng

thống kê để kiểm nhận, tìm ra những sai biệt để tiến tới một văn bản thống nhất. Điều này

giúp người nghiên cứu có cái nhìn tương đối nhất quán về tác giả, tạo điều kiện thuận lợi

cho việc tiếp cận có chiều sâu vào từng cấu trúc tác phẩm.

2. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du để phát hiện hình tượng con

người với tầm-nhìn sâu rộng về cuộc đời, về bản thân, về thế giới chung quanh. Con

người yêu thương được thể hiện qua nhiều loại nhân vật: người phụ nữ, người nghèo, các

bật hiền tài rất đa dạng, phong phú và nhiều cung bậc. Tình cảm của Nguyễn Du thể hiện

vừa bao quát vừa riêng biệt, vừa lo chung cho cuộc đời, vừa lo riêng cho một ai kia.

Chính vì thế hình tượng con người yếu thương trong Nguyễn Du hiện lên trong nhiều

cảm xúc: yêu thương người phụ nữ đẹp, tiết hạnh, yêu quí và kính trọng các bậc hiền tài,

căm giận, oán ghét sự tàn ác, bất công đã chà đạp lèn hạnh phúc ấm no của người dân

nghèo khổ ...

Con người đời thường còn là một nét thơ xuất phát từ tâm tư tình cảm của nhà thơ

mà ra. Đó là hình tượng về con người luôn lo lắng về no đói, nhớ tiếc quá khứ, ước mơ

hy vọng ... Xuân Diệu có nói rằng: "Thơ chữ Hán chứa đựng bóng hình, đời sống, nét

mặt, mái tóc, dấu chân, tâm tình, suy nghĩ của Nguyễn Du" (23). So với con người vũ trụ

trong văn học Trung Đại, con người vũ trụ trong thơ Nguyễn Du cũng có hoài bão, có

ước mơ nhutag lại chưa bao giờ muốn hòa điệu, hòa tan vào thiên nhiên, vào đất ười mà

cái thực thể ấy luôn bị con người đời thường, con người yêu thương chi phối. Chính vì

thế, con người vũ trụ trong thơ Nguyễn Du không trộn lẫn với bất cứ ai, với bất cứ cái

gì...

Trên đây là một vài điều thu nhận được sau khi khảo sát tập Bắc Hành tạp lục. Dù

chưa toàn điện, song có lẽ đây cũng là một khổ công của một quá trình kiếm tìm. Mong

rằng sự cố gắng này sẽ giúp đi sâu hơn vào thế giới nghệ thuật thơ của một số tác giả lớn

150

thời kỳ văn học Trung Đại. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu hình tượng con người nghệ thuật

trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du sẽ giúp cho người đọc thấy được cái hay, cái đẹp cũng

như góp phần soi sáng một nửa bức chân dung còn lại mà lâu nay đã bị che khuất.

Có thể nói, bá đặc điểm về hình tượng con nsười trong thơ đã thể hiện toàn bộ cái

nhìn của Nguyễn Du về con người. Bên cạnh con người yêu thương, con người đời

thường, con người vũ trụ còn có con người âu lo, con người lãng mạn, con người đau

khổ. Nhưng hình tượng con người này giúp nêu bật được thế giới quan, nhân sinh quan

của Nguyền Du. Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng nhưng quan niệm về con

người của Nguyền Du trong thơ một mặt chịu ảnh hưởng của văn học phong kiến, mặt

khác nó phản ánh tư tưởne nhân văn của thời đại. Nó có nhưng bước phát triển mạnh mẽ

về chất trong quan niệm về con người trong vãn học hiện đái. Cụ thể chưa có ai nói về

hình tượng con người yêu thương đầy đủ. đa dạng và nhiều chiều như trong thơ chữ Hán

Nguyễn Du. Trên bình diện ý thức, con người bộc lộ rõ ràng quan niệm sốna của mình

trước những vấn đề của đời sống. về mặt ý thức cá nhân, con người trong thơ ý thức rất

rõ về tài nănơ và phẩm chất của mình, nhưng trước thực tế của cuộc đời, con người luôn

âu lo, trân trở. băn khoăn ... Một quan niệm như vậy được xem là khá toàn diện. Nó góp

phần khám phá, tìm hiểu, phát hiện bản chất con người trong vãn học. Nó giúp chúng tá

có một cái nhìn cụ thể và đầy đủ hơn nữa đối với con người.

3. Ngày nay trong quan niệm về con người hiện đại, văn học đã đưa ra nhiều cái

nhìn mới mẻ. Đó là con người cá nhân được giải phóng trong văn học lãng mạn 1930 -

1945. Con người bị vật hóa, con người oan trái, con người ý thức trong văn học hiện thực

phế phán, con người tập thể, con người số đông, con người chuyên hóa trong văn học

cách mạng từ năm 1945 trở lại đây. Con người xả thân, con người khí phách, con neười

anh hùng trong vãn học từ 1975.

Tất cả những khám phá đó. xét cho cùng, đều có sự kế thừa không nhỏ ở thành tựu

văn học trong quá khứ. Mà ở đó, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương là những đại

điện tiêu biểu. Xã hội ngày càng phát triển, vãn học cũng vận động không ngừng. Chúng

ta đang chứng kiến một sự kiện vận động của nhận thức và quan niệm nghệ thuật về con

151

người. Vì vậy, việc tìm hiểu những thành tựu văn học quá khứ cũng có ý nghĩa không

nhỏ đối văn học nói riêng, đối với tư tưởng văn hóa nói chung;trong thời đại ngày nay.

Khi bắt tay vào đề tài, chúng tôi hiểu rằng mình có một điểm thuận lợi và đồng thời

cũng là khó khăn rất lớn là đã nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà phê bình đà viết về

Nguyễn Du với những công trình đồ sộ. Thế nhưng người nghệ sĩ Nguyền Du này luồn

luôn, muôn đời là "miền bí ẩn" để con người vươn tới khám phá, chinh phục. Thơ chữ

Hán đà cuốn hút nên tôi đã quyết định tự vượt sức mình, tiếp nhận những thành quả của

những người đi trước và cố gắng đưa ra một vài điều mới cho đề tài của mình. Mặt khác,

do khả năng và trình độ hạn chế chúng tôi chì có thể khảo sát qua những bản dịch nghĩa,

địch thơ của các học giả chứ không thể tiếp cận nguyên văn chữ Hán. Vì vậy luận văn

này chắc hẳn sẽ có ít nhiều thiếu sót. Rất mong được các Thầy, Cô đóng góp ý kiến.

Luận văn "Hình tượng nghệ thuật về con người trong Bắc Hành tạp lục" của

Nguyễn Du chỉ mới thực hiện trên cơ sở khảo sát văn bản dịch. Nhưng những nhận xét

rút ra từ quá trình phân tích, thống kê chủ yếu được thực hiện dưới góc độ Thi pháp học.

Việc sử dụng cách tiếp cận Thi pháp học để phân tích, lý giải vấn đề về hình tượng nghệ

thuật chỉ mới ở mức ban đầu. Chúng tôi hy vọng những khái quát có tính chất luận điểm

sẽ được bổ sung và đính chínhìại khi có điều kiện so sánh thống kê. tư liệu đầy đủ hơn.

Và đó là công việc của tương lai, đối với chúng tôi.

152

PHẦN PHỤ LỤC CHÚ THÍCH

(1)Trương Chính, Lê Thước - Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản Văn học,

1978

(2)Trương Chính, Lê thước - Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản Văn học,

1978

(3)Trương Chính, Lê Thước - Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản Văn học.

1978

(4)Mai Quốc Liên, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến - Nguyễn Du toàn tập. Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, 1995

(5)Bài viết Mây chiều Lỗi Dương - Nhà văn trong nhà trườne Nguyễn Du.

(6)Trương Chính, Lê Thước - Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản Văn học,

1978

(7)Mai Quốc Liên, Ngô Linh Ngọc. Lê Thu Yến - Nguyễn Du toàn tập, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, 1995

8)Lê Thu Yến - Đặc điểm nghệ thuật thơ chừ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản Thanh

niên, 1999

(9)Lê Bá Hán (chỏ biên) - Từ điển Thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục, 1992

(10)Lê Bá Hán (chủ biên) - Từ điển Thuật ngữ văn học. Nhà xuất bản Giáo dục,

1992

(11)Trần Đình Sử - Lý luận văn học. Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội, 1996,

(12)Trần Đình sử - Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản

Giáo dục, 1999

(13)Thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Giáo dục, 1996

(14)Dẫn theo: Lý luận văn học, Phương lựu chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục (tái

bản). 1997

153

(15)M.B Khrapchencô Cá tính sáns tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học,

Nhà xuất bản Văn học nghệ thuật, 1997

(16)Lê Thu Yến - Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản

Thanh niên, 1999

(17)Mai Quốc Liên, Ngô Linh Ngọc, Lê Thu Yến - Nguyễn Du toàn tập, Nhà xuất

bản Khoa học xã hội, 1995

(18)Xem bài viết Tâm tình Nguyễn Du qua những bài thơ chừ Hán của Hoài Thanh

(19)Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam

(20)Lê Bá Hán (Chủ biên) - Từ điển Thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Giáo dục,

1992

(21)Trần Đình Sử - Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội,

1996

(22)Trần Đình Sử - Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản

Giáo dục, 1996

(23)Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam

154

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Nguyễn Sĩ Cẩn - Mấy vấn đề phương pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam, Nhà xuất

bản giáo dục, 1984

2.Nguyễn Huệ Chi - Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, Nhà xuất bản Tác phẩm mới và

Hội nhà văn Việt Nam, 1983

3.Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I, II, Nhà xuất bản Văn học, 1987

4.Đỗ Đức Dục - về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, Nhà xuất bản Vãn học

1989

5.Khương Hữu Dụng (Dịch) - Thơ Đường, Nhà xuất bản Đà Nấng. 1996

6.Hữu Đạt - Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2000

7.Nguyễn Thị Bích Hải - Thi pháp thơ Đường, Nhà xuất bản Thuận Hóa. 1995

8.Vũ Hạnh - Đọc lại Truyện Kiều, Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1993

9.Đỗ Đức Hiểu - Đổi mới phê bình văn học, Nhà xuất bản KHXH Mũi Cà Mau,

1993

10.Trần Đình Hượu - Nho giáo và văn học Trung cận đại Việt Xam, Nhà xuất bản

Giáo dục, 1998

11.Nguyễn Thị Dư Khánh - Phân tích tác phẩm nhìn từ góc độ :hi pháp học -Nhà

xuất bản Giáo dục Hà Nội, 1995

12.Vũ Ngọc Khánh - Giai thoại văn học Trung Quốc, Nhà xuất bản Vãn học, 1992

13.Đinh Gia Khánh (Chủ biên) - Hợp tuyển thơ văn thế kỷ X - XVII, Nhà xuất bản

Văn học Hà Nội, 1978

14.Lê Đình Kỵ - Tìm hiểu văn học, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 1984

15.Lê Đình Kỵ - Phê bình nghiên cứu văn học, Nhà xuất bản giáo dục, 1998

155

16.Lê Đình Kỵ - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Nhà xuất bản

KHXH TP Hồ Chí Minh, 1997

17.Nguyễn Lai - Ngôn ngữ sáng tạo văn học, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1991

18.Đặng Thanh Lê - Văn học Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1990

19.Đặng Thanh Lê - Truyện Kiều và thể loại ưuyện thơ Nôm, Nhà xuất bản KHXH

Hà Nội, 1979

20.Mai Quốc Liên - Tạp luận, Khá xuất bản Hội nhà văn, trung tâm nghiên cứu

quốc học. 1997

21.Mai Quốc Liên - Nguyễn Du toàn tập, Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm quốc

học. 1996

22.Mai Quốc Liên. Trước đền, Nhà xuất bản Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1992

23.Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX, Nhà xuất bản Đại học và

trung học chuvên nghiệp, 1978

24.Nguyễn Lọc - Nguyễn Du con người và cuộc đời, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1990

25.Lưu Trọng Lư - Nhật ký đọc Kiều, Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội,

1995

26.Phương Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, Nhà xuất bản giáo

dục, 1985

27.Phương Lựu - về quan niệm văn chương cổ Việt Nam. Nhà xuất bản giáo dục.

1985

28.Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nhà xuất bản

KHXH. Hà Nội, 1985

29.Phan Ngọc - Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Trẻ,

1995

156

30.Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức - Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức

thơ ca trong văn học Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Nhà xuất bản Cà Mau, 1969

31.Bùi Văn Nguyên - Nguyễn Du tình người và Nguyễn Du người tình. Nhà xuất

bản KHXH. 1992

32.Lê Đức Niệm - Thơ Đường, Nhà xuất bản KHXH Hà Nội, 1993

33.Đặng Duy Phúc - về Tiên Điền nha, Nhà xuất bản Hà Nội, 1994

34.Vũ Tiến Phúc - Việt Nam văn học giảng minh, Nhà xuất bản sống mới, Sài gòn,

1968

35.Vũ Tiến Quỳnh - Nguyễn Du (Bình luận văn học), Nhà xuất bản Tổng hợp

Khánh Hòa, 1992

36.Vũ Tiến Quỳnh - Lý Bạch, Đồ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu (tuyển chọn và trích

dẫn những bài phê bình nghiên cứu văn học của các nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam).

37.Trần Trọng San - Kim Thánh Thán, Phê bình thơ Đường, Nhà xuất bản Đại học

Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 1990

38.Lê Đình Siêu - Nguồn gốc văn học Việt Nam. Nhà xuất bản Thế giới Sài gòn,

1956

39.Trần Đình Sử - Thi pháp thơ Tố Hữu, Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Hội nhà văn

Việt Nam. 1987

40.Trần Đình Sử - Những thế giới nghệ thuật thơ. Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội,

1995

41.Trần Đinh Sử - Giáo trình Thi pháp học, Nhà xuất bản TP. HCM. 1993

42.Trần Đình Sử, Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Hội nhà văn Hà Nội,

1996

43.Trần Đình Sử - Thi pháp Truyện Kiều (chuyên luận), Nhà xuất bản giáo dục,

2001

157

44.Quách Tấn - Thi pháp thơ Đường, Nhà xuất bản Tp. Hồ Chí Minh, 1998

45.Phạm Thiều - Thơ đi sứ, Nhà xuất bản KHXH Hà Nội, 1992

46.Nguyễn Đăng Thục - Thế giới thơ ca Nguyễn Du. Nhà xuất bản Kinh thi, Sài

gòn, 1971

47.Chu Quang Tiềm - Tám lý văn nghệ mỹ học hiện đại. Khổng Đức Đinh Tấn

Dung dịch, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh, 1991

48.Lê Ngọc Trà - Lý luận vãn học, Nhà xuất bản Trẻ. 1990

49.Lê Ngọc Trà - Lý luận và Văn học, Nhà xuất bản Trẻ, 1990

50.Lê Ngọc Trà - Mỹ học đại cương, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1994

51.Nam Trân -Thơ Đường Tập li, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1987

52.Hoàng Trinh - Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1997

53.Đỗ Minh Tuấn - Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nhà

xuất bản Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1995

54.Nguyễn Minh Tuấn - Từ trong di sản, Nhà xuất bản Tác phẩm mới, Hội Nhà văn

Việt Nam, 1988

55.Đỗ Minh Tuấn - Nghệ thuật trữ tình của Nguyền Du trong Truyện Kiều, Nhà

xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội, 1995

56.Nguyễn Quảng Tuân - Chỏ nghĩa Truyện Kiều, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,

Hà Nội. 1994

57.Đoàn Thị Thu Vân - Khảo sát đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền Việt Nam thế

kỷ XI - XIV, Trung tâm nghiên cứu Quốc học và Nhà xuất bản Văn học, 1996

58.Lê Trí Viễn - Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử văn học Việt Nam, Nhà xuất

bản Đại học Sư Phạm. 1984

59.Lê Trí Viễn - Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nhà xuất bản Giáo dục, 1978

158

60.Lê Trí Viễn - Đến với Thơ hay, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997

61.Trần Ngọc Vượng - Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nhà xuất

bản Giáo dục, 1997

62.Lê Thu Yến - Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhà xuất bản

Thanh Niên, 2000

63.Trần Thị Băng Thanh, Ngô Thì Sĩ - Những chặng đường thơ văn, Nhà xuất bản

KHXH Hà Nội, 1992

64.Lê Xuân Vĩnh, Nguyễn Văn Dân - Chủ nghĩa nhân đạo trong vãn học hiện đại.

Hà Nội. 1989

65.Trần Ngọc Vượng - Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung, Nhà xuất

bản giáo dục, 1998

66.Đông Xuyên - Tuyển tập thơ Hán Việt, Nhà xuất bản Cáo Thơm, Sài gòn, 1972

67.Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội,

1993

68.Nguyễn Hữu Sơn. Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thị Thu Vân - về con người cá nhân trong văn học Cổ-Việt Nam, Nhà xuất

ban giáo dục, 1997

69.Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi - Tự điển thuật ngữ văn học, Nhà

xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội, 1997

70.Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương - Lý luận văn học, vấn đề suy nghĩ, Nhà

xuất bản Giáo dục, 1998

71.Phan Ngọc - Đỗ Phủ, nhà thơ dân đen. Nhà xuất bản Đà Nang, 1990

72.Nhiều tác giả - Chân dung Nguyễn Du, Nhà xuất bản Nam Sơn, Sài Gòn, 1971

73.Nhiều tác giả - Công việc viết văn. Nhà xuất bản Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội. 1985

159

74.Viện văn học - Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Nhà xuất bản KHXH,

Hà Nội. 1965

75.Ni. Niculin - Văn học Việt Nam (Tiểu luận tóm tắt) Phòng nghiên cứu khoa học,

Đại học Sư Phạm

76.M.B Kheaptrenkô - Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển vãn học, Nhà

xuất bản tác phẩm mới, Hà Nội, 1997

TẠP CHÍ

1.Nguyễn Huệ Chi - Tim hiểu thơ chữ Hán - Tạp chí Văn học số li, 1965

2.Trương Chính - Một vài suy nghĩ về thân thế Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 10,

1965

3.Trương Chính - Một vài ý kiến về tập thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học

số 68,1962

4.Thanh Lăng - Nguyễn Du như là một huyền thoại, Tạp chí nghiên cứu văn học số

4. 5, 6, 1971

5.Lê Đình Kỵ - Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, kiến thức ngày nay số 30, 1988

6.Lưu Trọng Lư - vấn đề thương ghét qua tập thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tuần báo

văn nshệ số 135, 1965

7.D. X. Likhachôp - Thời gian nghệ thuật của tác phẩm văn học. Tạp chí văn học số

3. 1989

8.Nimlin - Nguyễn Du một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc, Tạp chí văn học số 10, 1960

9.Trần Đình Sử - Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Tạp chí

văn học số 6, 1983

10.Trần Đình Sử - Thời gian nshệ thuật trong Truyện Kiều và cảm quan hiện thực

của Nguyễn Du, Tạp chí văn học số 2. 1981

160

11.Phạm Đình Tân - Nguyễn Du Thi sĩ của đau khổ, Tạp chí Minh Đức, số 4, 1973

12.Hoài Thanh - Nguyễn Du, một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn, Tạp chí văn học sấn,

1965

13.Nguyễn Đức Vần - Quan niệm văn học của một số nhà Nho Việt Nam, Tạp chí

Văn học số 6, 1958

14.Nhiều tác giả - 200 năm sinh Nguyễn Du, Tạp chí Văn học, số 43, 44, 1965 (Sài

Gòn)

161