intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tổ chức tự sự trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý

Chia sẻ: Minh Lộ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

20
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài góp phần khám phá, phát hiện những đóng góp mới mẻ, độc đáo trong việc tiếp cận hiện thực đời sống và có những đánh giá thỏa đáng về sáng tác của nhà văn Đỗ Bích Thúy. Góp thêm tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên, cho những ai quan tâm đến đề tài này và đặc biệt quan tâm đến sáng tác của Đỗ Bích Thúy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Tổ chức tự sự trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thuý

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG VĂN THÀNH TỔ CHỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN, NĂM 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  2. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM LƢƠNG VĂN THÀNH TỔ CHỨC TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA ĐỖ BÍCH THUÝ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp THÁI NGUYÊN, NĂM 2012 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  3. i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố trong bất cứ một công trình nào khác. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn Lƣơng Văn Thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  4. ii LỜI CẢM ƠN Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ khoa Ngữ văn, Phòng quản lý và Đào tạo sau đại học trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên – Đại học Thái Nguyên đã dạy dỗ, tạo điều kiện cho em học tập. Đặc biệt, em xin trân trọng cảm ơn PGS. TS Nguyễn Đăng Điệp, người trong suốt thời gian qua đã tận tình giúp đỡ và động viên để em hoàn thành luận văn này. Lời cuối cùng, tôi xin cảm ơn những người thân trong gia đình đã hỗ trợ, động viên và cùng tôi vượt qua bao khó khăn trong quá trình vừa làm vừa học. Thái Nguyên, tháng 8 năm 2012 Tác giả luận văn Lƣơng Văn Thành Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  5. iii MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ........................................................................................................ i Lời cảm ơn ..........................................................................................................ii Mục lục .............................................................................................................. iii MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1 NỘI DUNG......................................................................................................... 7 Chƣơng 1. QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA ĐỖ BÍCH THÚY ............ 7 1.1. Những chuyển đổi về tư duy nghệ thuật trong Văn học Việt Nam đương đại ......................................................................................................... 7 1.2. Đề tài miền núi và sự xuất hiện của Đỗ Bích Thúy................................ 11 1.2.1. Giai đoạn 1945 – 1975 ..................................................................... 11 1.2.2. Giai đoạn sau 1975 .......................................................................... 21 1.3. Quan niệm về văn chương của Đỗ Bích Thúy. ...................................... 27 Chƣơng 2. CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT ................................................ 31 2.1. Tổ chức cốt truyện .................................................................................. 31 2.1.1. Quan niệm về cốt truyện .................................................................. 31 2.1.2. Các kiểu cốt truyện trong sáng tác của Đỗ Bích Thúy .................... 44 2.2. Nhân vật .................................................................................................. 50 2.2.1.Khái niệm về nhân vật....................................................................... 50 2.2.2. Các kiểu nhân vật ............................................................................. 54 2.2.3 Nghệ thuật xây dựng nhân vật. ......................................................... 65 Chƣơng 3. TỔ CHỨC TRẦN THUẬT ......................................................... 69 3.1. Tổ chức điểm nhìn .................................................................................. 69 3.2. Ngôn ngữ ................................................................................................ 71 3.3. Giọng điệu............................................................................................... 78 PHẦN KẾT LUẬN .......................................................................................... 83 TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 86 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  6. 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Tự sự học là một ngành nghiên cứu còn non trẻ, định hình từ những năm 1960 – 1970 ở Pháp nhưng đã nhanh tróng trở thành một trong những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, các công trình về tự sự học đã xuất hiện, tuy nhiên công trình chuyên sâu và dày dặn vẫn còn hiếm. 1.2. Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hay nói cách khác là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự. Vì thế, tiếp cận truyện ngắn trên từ phương diện tổ chức tự sự là hướng tiếp cận từ góc độ thi pháp. 1.3. Nhà văn Đỗ Bích Thúy tuy mới xuất hiện trên văn đàn, trên dưới 10 năm sáng tác, đã tạo được khá nhiều dư luận. Giọng văn ấn tượng và tài năng nghệ thuật của chị được khẳng định bằng nhiều giải thưởng quan trọng là ngay từ những sáng tác đầu tay. Chùm truyện ngắn Sau những mùa trăng, Đêm cá nổi, Ngải đắng ở trên núi đoạt giải Nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ Quân đội 1998 – 2000. Tiểu thuyết Bóng cây sồi đoạt giải C trong cuộc thi sáng tác văn học tuổi trẻ 2003 – 2004 do nhà xuất bản Thanh niên và tuần báo Văn nghệ tổ chức. Truyện ngắn Tiếng đàn môi sau bờ rào đá được đạo diễn Ngô Quang Hải chuyển thể thành công tác phẩm điện ảnh Chuyện của Pao – Tác phẩm đoạt giải cánh diều vàng 2005 của Hội điện ảnh Việt Nam. Những thử nghiệm của chị gần đây trong lĩnh vực sân khấu cũng đã đạt được nhiều hứa hẹn và thành công. Tác phẩm của chị hấp dẫn người đọc, bởi Đỗ Bích Thúy có cách Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  7. 2 kể chuyện chân thực, hóm hỉnh và cách miêu tả tài tình, cách thể hiện nhân vật một cách sống động và biết quan tâm tới những số phận, những niềm vui, nỗi buồn… của mọi người trong cuộc sống đời thường. Chính vì vậy tiếp cận truyện ngắn từ phương diện tổ chức tự sự là một hướng tiếp cận khoa học sẽ giúp chúng ta thấy được những đặc sắc trong truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy, đồng thời cũng góp phần khẳng định những đóng góp của chị đối với diện mạo nền văn học Việt Nam đương đại. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Đánh giá chung và những sáng tác của Đỗ Bích Thúy Trước thực trạng phát triển văn học hiện nay, rất nhiều cây bút trước sức ép của nền kinh tế thị trường phải chạy theo những mảng đề tài nóng, những vấn đề thời thượng thì sự lặng lẽ chuyên tâm, tình yêu dành cho miền núi như nhà văn Đỗ Bích Thúy là vô cùng đáng quý. Đề tài chị khai thác là thiên nhiên, con người miền núi, với những vẻ đẹp hoang sơ huyền bí và con người với những phong tục, tập tục và hủ tục. Chị đã khá thành công với mảng đề tài này, mặc dù đề tài này trước đó Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng…họ đã rất thành công. Trong những sáng tác của Đỗ Bích Thúy với những tập truyện ngắn Sau những mùa trăng, Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Tiếng đàn môi sau bờ rào đá đã đạt giải cao trong các cuộc thi truyện ngắn gần đây của các báo và tạp chí Văn nghệ Quân đội, Sông Hương… đã ghi nhận tài năng của chị. Qua những cuộc thi vừa là dịp dành cho Đỗ Bích Thúy và các cây bút trẻ thử sức, thi thố tài năng, vừa là dịp cho chúng ta thấy bộ mặt nông thôn mới, đô thị mới, miền núi mới với bao nhiêu sự khác lạ, phức tạp bề bộn, trăn trở, bao điều mà văn học giai đoạn trước ít có điều kiện đề cập tới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  8. 3 2.2. Đánh giá về truyện ngắn của Đỗ Bích Thúy Trong quá trình quan sát “truyện ngắn hôm nay”, Bùi Việt Thắng nhận thấy: “ văn học đương đại Việt Nam mang gương mặt nữ” [46]. Thực tế sáng tác và từ các cuộc thi trên Tuần báo, Tạp chí Văn nghệ Quân đội đã cho thấy điều đó. Sau một số nhà văn như Phạm Thị Minh Thư, Nguyễn Thị Thu Huệ, Trần Thanh Hà là Đỗ Bích Thúy liên tục giành giải thưởng cao quý nhất cuộc thi truyện ngắn trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai đánh giá cao về Đỗ Bích Thúy. Theo ông, thành công của Đỗ Bích Thúy là mang đến cho người đọc một “món ăn lạ”, khiến họ được sống trong một mảnh đất lạ mà “tất cả được miêu tả dịu nhẹ, chênh vênh, chấm phá, không dài dòng, không đa ngôn”. Ông cũng cho rằng: “chất bình dị, xôn xao, chân thật không chỉ là tiêu chí trong các cuộc thi văn của Tạp chí mà còn là đặc trưng của nền văn học”[22]. Cũng chính yếu tố đó làm nên cái duyên và sức gợi của nhà văn trẻ Đỗ Bích Thúy. Chu Lai cũng chỉ ra những nhược điểm của tập truyện Sau những mùa trăng là sự thử nghiệm sang mảng đề tài khác còn vụng về, gượng gạo (Sông còn chảy mãi, Phía sau kí ức). Những tìm tòi trong cách thể hiện của Đỗ Bích Thúy (cảm hứng giọng điệu, cốt truyện…) được Chu Lai ghi nhận bước đầu. Trong lời giới thiệu tập truyện ngắn Những buổi chiều ngang qua cuộc đời, Nguyễn Hòa khẳng định “trong vài năm trở lại đây, số các cây bút trẻ viết về đề tài dân tộc và miền núi không nhiều và Đỗ Bích Thúy là một người thành công trong số it đó”. Sự vững vàng của cây bút nữ gắn bó với mảnh đất Hà Giang một lần nữa đượ Lê Thành Nghị khẳng định qua lời giới thiệu tập truyện Tiếng đàn môi sau bờ rào đá: “Khát vọng về hạnh phúc, những tâm sự cháy bỏng về lẽ sống, ý thức về những ngày hiện tại ở một vùng đất độc đáo, đầy kỉ niệm đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  9. 4 tạo ra trong ngòi bút của Đỗ Bích Thúy niềm xúc động chân thành, chảy dào dạt trên trang viết”. Với những gì Đỗ Bích Thúy đã, đang và sẽ viết, chúng ta có quyền nghĩ đến “một ngày chị sẽ trở thành một cây bút thực sự trưởng thành của văn xuôi Việt Nam hiện đại” [33]. Đọc Tiếng đàn môi sau bờ rào đá, Nguyễn Phương Liên nhận thấy “Tất cả những truyện ngắn chị đều viết về cuộc sống và con người nơi mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. Nét độc đáo, vẻ đẹp đời sống tâm hồn, chiều sâu tâm linh của người dân tộc thiểu số được chị thể hiện đơn giản mà sâu sắc” [23] Đi một chặng đường dài từ Hà Giang về Hà Nội, mấy năm đã qua, chị vẫn là một cô gái nông thôn chất phác với những cử chỉ chậm rãi, một “con trăng trong rừng ngải đắng”. Đoạt không ít giải thưởng văn xuôi, những tác phẩm của Đỗ Bích Thúy khiến người ta phải nao lòng bởi sự gắn bó bền bỉ, da diết với miền sơn cước”.[10] Trong không khí đổi mới văn chương mạnh mẽ có thể thấy rằng lối viết của Đỗ Bích Thúy không mới, không hiện đại, không cách tân, chị viết trung thành với quan niệm của riêng mình bởi chị quan niệm: “nếu mới mà làm người đọc thất vọng thì thà làm cũ còn hơn”. Lối viết truyền thống và sự “chung thủy với cây hương, bếp lửa quê mình” chị tạo nên một không khí văn chương đích thực trên mỗi trang viết. Với chị, điều quan trọng nhất ở mỗi nhà văn chính là ở chỗ “anh ta luôn sống hết mình, viết hết mình và viết những gì mình có, mình đau đớn vì nó, không vay mượn, cố gắng” [58]. Ngoài thể loại truyện ngắn, hình ảnh Đỗ Bích Thúy còn đa dạng hơn trong đôi mắt độc giả khi chị mạnh dạn thử sức và khá thành công ở lĩnh vực khác như kí, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu, kịch bản phim. Các bài viết của Nguyễn Thị Thu Hiền, Bình Nguyên Trang, Nguyễn Hoàng Linh Giang, Phong Điệp …đã ghi nhận những nỗ lực tìm tòi của Đỗ Bích Thúy ở hướng đi mới này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  10. 5 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Nói đến tổ chức tự sự là nói đến việc tìm hiểu tác phẩm trên nhiều phương diện, khía cạnh khác nhau trong luận văn này chỉ xin đề cập đến những khía cạnh nổi bật như: Quan niệm nghệ thuật của tác giả, cốt truyện và nhân vật, tổ chức trần thuật. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập chung khảo sát một số tập truyện ngắn sau: 1. Sau những mùa trăng – Đỗ Bích Thúy(2001), Nxb Quân đội Nhân dân. 2. Những buổi chiều ngang qua cuộc đời – Đỗ Bích Thúy(2002), Nxb Thanh niên. 3. Tiếng đàn môi sau bờ rào đá – Đỗ Bích Thúy(2005), Nxb Công an Nhân dân. Để có cái nhìn toàn diện, phong phú, luận văn sẽ khảo sát theo những sáng tác của các nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ …, để chọn ra đặc sắc của Đỗ Bích Thúy trong nghệ thuật tổ chức tự sự. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi vận dụng các phương pháp chủ yếu sau: 4.1. Phương pháp tổ chức hệ thống 4.2. Phương pháp phân tích tổng hợp 4.3. Phương pháp khảo sát thống kê 4.4. Phương pháp so sánh 5. Đóng góp của luận văn 5.1. Về mặt lí luận Vân dụng lý thuyết tự sự học và nghiên cứu một tác giả cụ thể để khẳng định trên sự ứng dụng của tự sự học trong nghiên cứu văn học. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  11. 6 5.2. Về mặt thực tiễn Góp phần khám phá, phát hiện những đóng góp mới mẻ, độc đáo trong việc tiếp cận hiện thực đời sống và có những đánh giá thỏa đáng về sáng tác của nhà văn Đỗ Bích Thúy. Góp thêm tư liệu tham khảo cho các bạn sinh viên, cho những ai quan tâm đến đề tài này và đặc biệt quan tâm đến sáng tác của Đỗ Bích Thúy. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương: Chƣơng 1: Quan niệm nghệ thuật của Đỗ Bích Thúy. Chƣơng 2: Cốt truyện và nhân vật. Chƣơng 3: Tổ chức trần thuật. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  12. 7 NỘI DUNG Chƣơng 1 QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT CỦA ĐỖ BÍCH THÚY 1.1. Những chuyển đổi về tƣ duy nghệ thuật trong Văn học Việt Nam đƣơng đại Chiến thắng năm 1975 là một dấu mốc lớn trong lịch sử dân tộc. Tuy không thật trùng khít với những mốc lịch sử, nhưng mỗi bước chuyển lớn của lịch sử đều tạo nên những chuyển động, đều để lại những dấu ấn trong đời sống văn học. Do vậy, có thể thấy, từ sau 1975, văn học đã có những chuyển đổi mang ý nghĩa một sự chuyển bị, một giai đoạn “bản lề” để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện, sâu sắc toàn bộ với sự đổi mới của đất nước từ sau 1986. Tuy nhiên, để có được tư duy nghệ thuật trong văn học mới là cả một hành trình với nhiều “vấp váp và trả giá” (Nguyên Ngọc) với những đóng góp âm thầm nhưng “quả quyết” của nhiều thế hệ nhà văn. Có thể chú trọng đến những đóng góp của một số cây bút văn xuôi vào sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong văn học Việt Nam đương đại. Ngay từ trước 1975, bằng sự mẫn cảm và tài năng, một số cây bút đã sớm nhận ra sự bất cập và khoảng cách của văn học với đời sống. Biết đó là khoảng cách khó tránh và khó vượt trong hoàn cảnh chiến tranh, khi mà mọi nỗ lực của văn học đang phải dồn vào mục tiêu gần như duy nhất “chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc”, nhưng các nhà văn vẫn âm thầm nuôi khát vọng, âm thầm dự cảm về một sự đổi mới tất yếu về tư duy nghệ thuật của văn học. Nguyễn Minh Châu là một trong những số ít cây bút mẫn cảm có bản lĩnh và tài năng đó. Ngay khi đang viết những trang Dấu chân người lính hào sảng, ông đã cảm nhận khá sâu sắc sự “bất lực” của văn học. Trong hình dung của ông hiện thực đời sống như “một cánh rừng già chưa khai phá” với Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  13. 8 biết bao “những vấn đề còn ẩn náu”. Ngay từ thời điểm đó, Nguyễn Minh Châu đã lặng lẽ suy ngẫm và đúc kết được những điều sau này đã trở thành những vấn đề thiết cốt của đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới văn học. Theo ông, người cầm bút không những không được phép biến những “cánh rừng già của đời sống” thành những vườn cây xanh, biến những “trái núi” cuộc đời thành những hòn “non bộ” xinh xẻo mà cao sâu hơn, văn học phải “là cái điều chiêm nghiệm có triết học của cả một đời người viết văn”; văn học phải thâm nhập sâu vào “vương quốc tình đời”, phải “đào sâu cho đến cùng đáy cái thật chứa đầy bí ẩn, đầy nỗi niềm nguồng cơn của con người”… Nói theo Bakhtin là “đi tìm con người bên trong con người”. Tất nhiên trong hoàn cảnh chiến tranh, những ý tưởng, những khắc khoải đó vẫn mới chỉ được âm thầm ấp ủ trong suy ngẫm của nhà văn. Tuy nhiên, ý thức ấy ít nhiều đã để lại dấu ấn trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu với những “âm trầm nốt lặng”, có gì như “lạc giọng” với văn học một thời. Sau 1975, hoàn cảnh đất nước thay đổi. “Từ cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc” văn học phải tham gia vào “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người” một cuộc chiến cam go và gian khổ, một cuộc giao tranh, nói như Nguyễn Minh Châu “không có gì ồn ào nhưng xảy ra từng giờ, từng ngày khắp mọi lĩnh vực đời sống”. Văn học phải có sự chuyển đổi thực sự để đáp ứng nhu cầu mới của đời sống, của công chúng. Theo dõi văn học từ năm 1975 đến nay, có thể nhận thấy sự chuyển đổi này diễn ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, văn học chủ yếu chuyển đổi về chất liệu, về hướng tiếp cận hiện thực đời sống và giai đoạn sau là những chuyển đổi trong chiều sâu, trong ý thức nghệ thuật của nhà văn. Ở giai đoạn thứ nhất, văn học chuyển từ hiện thực chiến tranh, sang hiện thực đời sống thường nhật với tất cả mối quan hệ phong phú, ngổn ngang, phức tạp và luôn vận động. Đây quả là bước chuyển không đơn giản đối với một nền văn học từng nhiều thập kỷ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  14. 9 gắn bó với hiện thực chiến tranh. Chính Nguyễn Khải, cây bút già dặn, có nhiều thanh tựu và cũng rất nhạy cảm trong việc nắm bắt những vấn đề cập nhật, gai góc của đời sống cũng đã phải cảm nhận: “chiến tranh ồn ào náo động mà lại có cái yên tĩnh, giản dị của nó, hòa bình mà lại chứa chất những sóng ngầm, những gió xoáy ở bên trong” (1). Bởi thế, giai đoạn này phần lớn nhà văn vẫn tiếp tục khai thác đề tài chiến tranh(2). Mặc dù đã có đôi cuốn đã có những sắc thái mới ví như Đất trắng (Tập1) của Nguyễn Trọng Oánh khi phản ánh những sự nghiệt ngã, mất mát của chiến tranh, nhưng hầu hết những sáng tác này vẫn trượt theo “quán tính”, vẫn chủ yếu ghi lại “ những ấn tượng còn nóng hổi trong những diễn biến và từng trải được trình bày chưa kịp qua suy ngẫm và sàng lọc, có thể còn chưa đủ độ lắng nhưng lại mang tính chất sinh động kịp thời”(3). Trong khi nhiều cây bút vẫn lúng túng trong hướng tiếp cận những phạm vi hiện thực mới của đời sống, bằng sự nhạy cảm của mình Nguyễn Khải, đặc biệt là Nguyễn Mạnh Tuấn đã kịp thời hòa nhập vào dòng chảy của đời sống, kịp thời nắm bắt những mảng hiện thực mới “tươi ròng” của miền Nam sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước. Nếu như trong Gặp gỡ cuối năm, Nguyễn Khải đi sâu vào những vấn đề sự lựa chọn của mỗi cá nhân để hòa nhập và thích ứng với thời thế, với cuộc sống hiện tại thì Cha và con và…nhà văn lại chú tâm tới vấn đề tôn giáo và dân tộc, tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, tôn giáo và sự vận động để tồn tại và sự hiện hữu với ý nghĩa tích cực nhất trong đời sống tinh thần của dân tộc. Ở giai đoạn này, Nguyễn Mạnh Tuấn là cây bút văn xuôi thu hút được sự chú ý của người đọc. Những vấn đề nhà văn quan tâm khai thác thực sự cấp thiết của đời sống, nó quan hệ đến hàng vạn, hàng triệu người dân miền Nam sau chiến tranh. Xoay quanh xung đột của một gia đình nửa thành viên là cách mạng, nửa kia là tư sản sau giải phóng, Những khoảng cách còn lại đã đề cập đến một vấn đề nhức nhối của đơi sống dân tộc - bi kịch và nỗi đau mới của mỗi gia đình, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  15. 10 của đất nước sau chiến tranh. Vừa ngất ngây hạnh phúc trong niềm vui đoàn tụ ngắn ngủi, con người phải lập tức rơi vào những xung đột mới không kém phần nghiệt ngã - xung đột về chính kiến, nếp sống, suy nghĩ, tình cảm - căn cốt của nó vẫn là xung đột của hai hệ ý thức của những con người từng nhiều năm dai dẳng sống ở hai chiến tuyến đối lập. Những xung đột này không chỉ diễn ra ở phạm vi xã hội mà ở ngay trong một phạm vi gia đình, ngay giữa những người ruột thịt. Mỗi người dù theo chính kiến nào, tư sản hay cách mạng đều không tránh được phải trả giá. Sau Những khoảng cách còn lại, Nguyễn Mạnh Tuấn lại “sáp” ngay vào một mảng hiện thực có phần gai góc, cấn cái hơn của đời sống. Từ bối cảnh một nhà máy đánh cá đã “quá nát”, quá bê bối về phương diện, Đúng trước biển không ngần ngại phản ánh tình trạng yếu kém trong quản lí kinh tế một thời và dự báo về sự chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Với Cù lao Tràm thêm một lần nữa Nguyễn Mạnh Tuấn lại thu hút được sự quan tâm của đông đảo công chúng. Thông qua cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa một Bí thư xã có tri thức, năng động, có trình độ tổ chức, đoàn kết quần chúng với một bí thư huyện ủy vừa kém cỏi về tài năng, vừa thiếu nhân cách, bản lĩnh, ưa xu nịnh luồn lọt… Cù lao Tràm đã phản ánh chân thực và đặt ra những nhu cầu cấp thiết cho công cuộc cải tạo nông thôn Nam Bộ sau chiến tranh. Với những tác phẩm rất cập nhật này Nguyễn Mạnh Tuấn được công luận đánh giá là nhà văn tiêu biểu đầu những năm 80. Bằng việc năng động, nhạy cảm kịp thời nắm bắt và đưa vào văn học những chất liệu mới của đời sống, những cái hôm nay ngổn ngang bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những bất ngờ… Nguyễn Mạnh Tuấn đã góp phần tạo nên một tư duy nghệ thuật trong văn học, có khả năng hòa nhập vào dòng chảy của đời sống, xích gần lại khoảng cách giữa văn học và đời sống và dân chủ hơn ở khả năng tranh luận, đối thoại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  16. 11 1.2. Đề tài miền núi và sự xuất hiện của Đỗ Bích Thúy 1.2.1. Giai đoạn 1945 – 1975 Con người miền núi Văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX gắn với sự thức tỉnh và phát triển của cái Tôi cá nhân thì văn học cách mạng 1945 - 1975 lại phát triển trên nền tảng ý thức cộng đồng. Cách mạng đã tập hợp những cá nhân thành một khối thống nhất, thức tỉnh ở mỗi con người tình cảm dân tộc, ý thức công dân, đưa con người hòa nhập vào cuộc sống cộng đồng, trực tiếp tham gia vào biến cố lịch sử trọng đại. Phản ánh con người trong đời sống lịch sử xã hội, hướng vào thể hiện con người quần chúng nhân dân đã đưa tới những biến đổi đáng kể trong cách xây dựng nhân vật của văn xuôi kháng chiến. Việc xây dựng hình tượng con người trong văn xuôi miền núi giai đoạn này cũng không nằm ngoài quy luật chung đó. Cùng cách mạng đi khắp các nẻo “đường vui” kháng chiến là cuộc hành trình khám phá thế giới và nhận thức lại bản thân của nhiều nghệ sĩ. Chính trong những năm tháng gặp gỡ, chung sống và sẻ chia cuộc sống với con người miền núi “giản dị và biết bao mến phục” đã để lại trên trang viết của những nhà văn - chiến sĩ như Nam Cao, Tô Hoài, Ma Văn Kháng, Nguyên Ngọc…những tình cảm, cảm xúc đầy nâng niu, trân trọng. Ở đâu ta cũng bắt gặp một thái độ ngạc nhiên, thú vị, mê say, náo nức khi phát hiện ra những chiếu kịch mới mẻ của những con người mới. Có lẽ không ai đi khắp, đi lâu và đi sâu như Tô Hoài đi trên các vùng núi cao, rừng sâu của đất nước từ Bắc chí Nam. Núi rừng và tấm lòng con người miền núi đã để thương để nhớ cho ông. Tiếng gọi “Chéo lù! Chéo lù!” văng vẳng kỉ niệm thiết tha luôn vẫy gọi ông trên từng trang Truyện Tây Bắc và Vợ chồng A Phủ được coi là “tác phẩm thành công xuất sắc đầu tiên về đề Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  17. 12 tài miền núi trong văn xuôi cách mạng hiện đại”[26]. Còn với Ma Văn Kháng thì mảnh đất Lào Cai đã trở thành “đất viết”, thành quê hương thứ hai của ông. Mang cảm quan hiện thực và nhân văn mới cùng với trải nghiệm thực tế, thấu hiểu nỗi khổ đau, tủi nhục của con người miền núi, Tô Hoài đào sâu vào những cuộc đời, thân phận những con người trong cuộc đời cũ còn mang nhiều tàn tích có khi còn mang màu sắc thời trung cổ, đặc biệt là người phụ nữ. Bà Ảng (Cứu đất cứu mường) từng là cô gái đẹp nức tiếng Mường Cơi bị bắt đi hầu quan, thành người chuyền tay của các quan châu, quan lang, chúa đất Mường Cơi, Mường Vạt, Mường La. Hai đứa con không ai nhận làm cha nên một đứa phải bán cho người Dao lấy mười đồng bạc trắng nộp vạ làng. Còn một đứa, mẹ con ôm nhau la liếm đi vét cối giã gạo ngoài xuối xin ăn. Đứa con ấy lớn lên tiếp tục đi hầu quan như bà Ảng. Thời gian trôi qua, rách quá, ốm quá, gìa quá, cô Ảng biến thành bà lão Ảng, bà lão Ảng ăn mày. Cả cuộc đời bà Ảng là những chuỗi ngày tủi nhục, bi thảm. Khi gặp và nhận ra chân lí cách mạng, “già sắp chết mới được canh nương ngô của mình thế này” thì cũng là lúc bà bị lính châu đoàn trói đánh chết gục dưới gốc xoan. Mỵ (Vợ chồng A Phủ) là nạn nhân của xã hội đầy hủ tục, tệ nan và bạo lực. Chưa lọt lòng mẹ cô đã mang món nợ truyền kiếp của những người nghèo. Từ cô gái xinh đẹp, yêu đời bị bắt về làm con dâu gạt nợ cho nhà Thống Lí Pá Tra, “ có đến mấy tháng, đêm nào Mỵ cũng khóc” để rồi biến thành “ con rùa lùi lũi trong xó cửa”, chai lì, đui điếc, u mê, vô cảm. “Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi”. Số phận của bà Ảng, của Mỵ của Mát (Mường Giơn) là lời tố cáo tội ác của bọn thống trị và những hủ tục phi nhân tính bao đời trói buộc con người. Tuy khát vọng và hạnh phúc bị dồn nén nhưng trong tâm hồn con người miền núi luôn tiềm tàng một sức sống mãnh liệt, chờ lúc để được bùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  18. 13 lên mạnh mẽ. Mỵ đã giải thoát cho A Phủ và tự giải thoát cho mình. Chạy thoát khoải Hồng Ngài, gặp cán bộ A Châu, gặp cách mạng họ đã bước vào cuộc đời mới. Mỵ và A Phủ tiếp tục tham gia vào đội du kích ở Phiềng Sa. Những ngày đầu khó khăn, khu du kích thường xuyên bị lính đồn càn quét, đã có lúc Mỵ hoang mang, hoảng sợ, ý nghĩ “lại đi” cứ quanh quẩn. Chỉ đến khi A Phủ quát lên: “ Mê à! Đây không phải là Hồng Ngài, đây là khu du kích Phiềng Sa, A Phủ là tiểu đội trưởng du kích mà”, rôi nghĩ đến cán bộ A Châu, Mỵ lại bồi hồi, tin tưởng mong chờ, Mỵ quyết tâm cùng du kích xuống đánh đồn bản Pe cứu người già, trẻ con về. Cuộc đời của Mỵ, A Phủ (Vợ chồng A Phủ) Nhấn (Cứu đất cứu mường), Sạ, Ính (Mường Giơn) tiêu biểu cho quá trình đến với cách mạng từ tự phát đến tự giác của đồng bào các dân tộc miền núi. Họ đã trở thành những chiến sĩ đi đầu trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do cho dân tộc mình. Cách mạng thắng lợi là nhờ có tinh thần đoàn kết của các dân tộc anh em. Đây là vấn đề văn xuôi cách mạng thường xuyên đề cập tới khi viết về miền núi. Cùng chịu cảnh bị áp bức, những con người từ tận cùng đau khổ đã sớm nhận thức và sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù. A Phủ cùng A Châu kết nghĩa anh em. Họ cùng với du kích Phiềng Sa chiến đấu “quyết giữ đường này cho bộ đội”. Tình đoàn kết giữa các dân tộc anh em được thể hiện rõ nét trong Mường Giơn. Những cán bộ du kích người Dao, người Mèo luôn có mặt kịp thời, giúp đỡ, chia sẻ cùng đồng bào Thái trong những thời điểm khó khăn nhất. Người Thái bị bắt về nhốt tập trung, người Dao, người Mèo xuống giúp cất dấu đồ đạc để không bị người Tây cướp mất. Người Thái bị bắt đi phu tải lương, tải đạn, xây đồn Lạn Phạ, người Mèo hướng dẫn cách đối phó: “ cứ lúc nào bỏ chạy được về là chạy thôi. Không chạy được thi bảo nhau làm lười, làm hỏng”. Làm theo lời dặn ấy và được du kích Mèo giúp đỡ, ông Mờng sung sướng kể với các con: “Thằng Tây không Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  19. 14 thể làm được cái đồn Lạn Phạ, thằng Tây phải chạy về hết rồi”. Mùa gặt, Sạ và anh em du kích Mèo bí mật giúp làng Thái chuyển thóc gạo đến nơi cất giấu an toàn. Đồng bào các dân tộc ngày càng đoàn kết, tin tưởng cách mạng. Trước mọi âm mưu thủ đoạn, bao lâu khủng bố, càn đi quét lại của kẻ thù, họ vẫn một lòng chơ bộ đội cụ Hồ. Mường Giơn được giải phóng, nhìn cây hoa mai trắng tinh trên sườn núi Pàng Chải, Sạ lại nhớ đến “những người Dao và Xá ven sông rách và thiếu ăn quanh năm nhưng lúc nào cũng miệt mài trở đò, đi giao thôg và đưa bộ đội đi giấu”. Sự trận trọng, tin yêu, mến phục các nhà văn dành cả cho những người ấy. Đọc Truyện Tây Bắc, chúng ta thấy: “Ở nơi núi rừng thơ mộng ấy, các dân tộc không lặng lẽ chịu đựng. Họ đã thức tỉnh. Cán bộ Đảng tới đâu thì các dân tộc đứng lên tới đó, trước nhất là những người trẻ tuổi. Họ thật đẹp và yêu đời”(Tô Hoài). Vẻ đẹp lí tưởng của những con người trẻ tuổi ấy một lần nữa được các nhà văn tái hiện trên những trang viết vê một giai đoạn lịch sử mới của dân tộc - giai đoạn đâu xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chân dung của những con người miền núi được bồi đắp lại càng trở nên đầy đặn hơn và đẹp hơn trong cuộc sống mới. Liên tục từ 1962 đến 1975 là sự xuất hiện của các tác phẩm Rẻo cao (1962)- Nguyên Ngọc; Miền Tây (1965) - Tô Hoài ; Xa Phủ (1969), Người con trai họ Hạng (1972), Mùa mận hậu (1972); Cái móng ngựa (1973), Bài ca trăng sáng (1974) - Ma Văn Kháng; Lặng lẽ Sa Pa (1970), Núi Đỗ Quyên (1972) - Nguyễn Thành Long ... Hầu hết các tác phẩm đều viết về sự đổi thay trong suy nghĩ, nhận thức và hành động của con người miền núi. Họ đã tích cực, chủ động chuyển minh thành những con người mới làm chủ cuộc đời trong dòng chảy chung của đất nước và làm nên sự đổi thay mạnh mẽ của làng bản quê hương mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
  20. 15 Mùa mận hậu (Ma Văn Kháng) là tập truyện dành cho ca ngợi những tấm gương phụ nữ vùng cao trong cuộc chiến chống đói nghèo, lạc hậu. Người Dao đỏ Dền Sáng xưa kia nghĩ rằng “có thuốc phiện là có tất cả”, “thuốc phiện đổi ra thịt, ra mỡ, gạo, ra muối, ra vải vóc, kim chỉ”. Dân Dền Sáng nghiện thuốc phiện nhiều. Thương xót anh em, bà con trong thôn bản, hiểu bản tính người Dao “có gì nhẹ nhàng bảo nhau, người Dao ta ưa tiếng nhỏ, mưa phùn ướt đất tốt cày”, chị San Mẩy (Hương thảo quả) làm việc hết mình, không quản ngại khó khăn với mong ước, “mọi người đều phải tốt,đều phải thơm như hương thảo quả”. Chị San Mẩy – người tổ trưởng tổ trưởng tổ đổi công đầu tiên, người chủ nhiệm hợp tác xã đầu tiên – đã cảm hóa thành công những người đi cai nghiện bằng tấm lòng nhân ái, tình thương đồng loại, bằng những câu chuyện giản dị mà ý nghĩa, bằng những câu hát, sự quan tâm thuyết phục và vạch đường chỉ lối chân thành. Cô Vàng Mỷ (Đường xa) – chiến sĩ thi đua dân quân La Pan Tẩn, chị Hạng A Cở ( Một khoảng cách) Chủ tịch xã Hồng Ngài, cô giáo Giàng Thị Xóa (Mùa mận hậu) ở Ngải Phón Chổ, Sùng Mỷ (Sùng Mỷ)... là những hình ảnh người phụ nữ Dao, H’Mông hoàn toàn đổi khác, họ không dễ dàn đầu hàng số phận, không chịu để cho những định kiến hủ tục hay những khó khăn trói buộc mình để vươn lên trong cuộc sống mới. Chị Hạng A Cở là nạn nhân của tục cướp vợ. Chị bị chồng và anh chồng trói treo lên xà nhà đánh bằng roi da trâu không cho đi làm hợp tác xã. Nhưng khỏi ốm, chị vẫn quyết tâm đi làm. Có làm mới biết, phải làm để thoát đói, thoát nghèo. Đảng, cách mạng đã cho chị và bà con biết rằng “phụ nữ Mèo cũng giỏi giang chẳng kém gì đàn ông” (Một khoảng cách). Còn đối nới Vàng Mỷ, “cuộc đời mới thật đẹp, nó mở cho Mỷ những con đường mới, quan hệ mới, những người bạn thân yêu, những đồng chí thân thiết. Cuộc đời mới là cuộc đời tạo cho Mỷ được sống hết khả năng của mình... Cuộc đời mới dài rộng quá!”. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2