BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ PHẠM HẠNH NGUYÊN
GIÁ VÀNG VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ VÀNG
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LÊ PHẠM HẠNH NGUYÊN
GIÁ VÀNG VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ VÀNG
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
: 60340201
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – 2012
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của quá trình học tập tại Trường Đại học Kinh tế
Thành phố Hồ Chí Minh và quá trình phấn đấu học hỏi của bản thân trong các năm
qua.
Với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến quý Thầy Cô giáo đã
tham gia giảng dạy lớp Cao học Khóa 19, chuyên ngành Kinh tế Tài chính – Ngân
hàng; Phòng Quản lý Đào tạo Sau đại học đã tạo môi trường học tập thuận lợi cho
các học viên, trong đó có tôi; gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã tận tình giúp đỡ,
cổ vũ động viên, tạo điều kiện tốt nhất để tôi học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn
Thị Liên Hoa đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi nghiên cứu và hoàn chỉnh luận
văn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp bổ sung của quý Thầy Cô cùng
các bạn bè, đồng nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 9 năm 2012
Tác giả luận văn
Lê Phạm Hạnh Nguyên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
EU: Liên Minh Châu Âu
EUR: đồng Euro
FED: Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ
IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế
MLR: Hồi quy tuyến tính bội
NHNN: Ngân Hàng Nhà Nước
NHTW: Ngân hàng trung ương
TMCP: Thương mại cổ phần
XNK: Xuất nhập khẩu
USD: đô la Mỹ
VND: Việt Nam đồng
WGC: Hội đồng Vàng thế giới
WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Bàng 2.1: Correlation matrix
Bảng 2.2: Correlation coefficient for lagged variables
Bảng 4.1: Thống kê tình hình xuất nhập khẩu vàng
Bảng 4.2: Correlations Bảng 4.3: Model Summaryg
Bảng 4.4: Coefficientsa Bảng 4.5: ANOVAb Bảng 4.6: Coefficientsa Bảng 4.7: Model Summaryb Bảng 4.8: Model Summaryb
DANH MỤC ĐỒ THỊ SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
Đồ thị Đồ thị 2.1: Đồ thị phân tán giữa giá vàng và cung tiền (M1) (Scatter plot of GP vs M1) Đồ thị 2.2: Đồ thị của giá vàng và dự báo giá vàng Đồ thị 4.1: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2007
Đồ thị 4.2: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2008 Đồ thị 4.3: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2009
Đồ thị 4.4: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2010
Đồ thị 4.5: Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2011
Đồ thị 4.6: Giá vàng thế giới qua từng giai đoạn
Đồ thị 4.7: Giá vàng SJC năm 2007
Đồ thị 4.8: Giá vàng SJC năm 2008
Đồ thị 4.9: Giá vàng SJC năm 2009
Đồ thị 4.10: Giá vàng SJC năm 2010
Đồ thị 4.11: Giá vàng SJC năm 2011 Đồ thị 4.12: Toàn cảnh giá vàng Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2011
Đồ thị 4.13: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới Đồ thị 4.14: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và tỷ giá
Đồ thị 4.15: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và lạm phát Đồ thị 4.16: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và chỉ số VN-Index
Đồ thị 4.17: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và giá dầu Đồ thị 4.18: Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và cung tiền
Đồ thị 4.19: Đồ thị phân tán giữa các phần dư
MỤC LỤC
TÓM TẮT ............................................................................................................................................ 1
1. GIỚI THIỆU .................................................................................................................................... 2
2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY .................................................... 5
2.1. Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri – Khoa Toán, Đại học Công nghệ Malaysia (2009) ............ 5
2.2. Eric J. Levin và Robert E. Wright, (2006) ................................................................................ 9
2.3. Dipak Gosh và Eric J. Levin và Peter Macmillan, Robert E. Wright (2000).......................... 10
2.4. Các nhà kinh tế thuộc tổ chức Oxford Economics.................................................................. 11
2.5. Một số các nghiên cứu của nhà kinh tế học khác .................................................................... 13
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................................................................................................. 18 4. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 21 4.1. Phân tích các yếu tố tác động đến giá vàng thế giới từ năm 2007 đến năm 2011 ................... 21 4.1.1 Biến động giá vàng thế giới giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 .................................. 21 4.1.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng giá vàng thế giới từ năm 2007 đến năm 2011 ............... 26
4.1.2.1. Tình hình kinh tế thế giới .......................................................................................... 26
4.1.2.2. Tình hình cung cầu vàng ........................................................................................... 29
4.1.2.3. Sự biến động thuộc các thị trường khác .................................................................... 33
4.2. Phân tích các yếu tố tác động đến giá vàng trong nước từ năm 2007 đến năm 2011 ............. 37
4.2.1. Biến động giá vàng trong nước giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 ............................ 37
4.2.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước từ năm 2007 đến năm 2011 ... 44
4.2.2.1. Tình hình kinh tế trong nước ..................................................................................... 44
4.2.2.2. Tình hình cung cầu vàng trong nước ........................................................................ 46 4.2.2.3. Tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ và Việt Nam đồng .......................................................... 48
4.2.2.4. Sự biến động của các thị trường khác ....................................................................... 50
4.3. Kiểm định sự tương quan của các nhân tố đến giá vàng ......................................................... 53
5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................................. 71
PHỤ LỤC ........................................................................................................................................... 74
1
GIÁ VÀNG VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
GIÁ VÀNG TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các nhân tố tác động đến giá vàng Việt Nam, cụ thể tìm hiểu các nhân tố nào tác động đến sự thay đổi của giá vàng trong nước
và tồn tại hay không sự tương quan giữa các nhân tố đó với giá vàng trong nước. Các nhân tố tác động đến giá vàng trong nước được khảo sát trong luận văn bao gồm giá vàng thế giới,
giá dầu thô, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, chỉ số chứng khoán Vn-Index, chỉ
số lạm phát và cung tiền. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng nhằm khảo sát dữ liệu là
phương pháp hồi quy tuyến tính bội (Multiple Linear Regression Meth od), đây là phương
pháp nhằm kiểm định mối quan hệ giữa một biến phụ thuộc (giá vàng) với nhiều biến độc
lập (các nhân tố tác động đến giá vàng) đã được các nhà kinh tế học thuộc Đại học Malaysia
chứng minh có thể ứng dụng vào thực tế để dự đoán sự thay đổi của giá vàng dựa vào sự
thay đổi của các biến giải thích. Kết quả nghiên cứu đã xây dựng mô hình hồi quy của giá
vàng trong nước và cho thấy có tồn tại mối quan hệ giữa các nhân tố đến giá vàng. Cụ thể sự
thay đổi của giá vàng thế giới, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng và chỉ số lạm
phát có ảnh hưởng cùng chiều l ên sự thay đổi của giá vàng trong nước và sự thay đổi của
cung tiền có ảnh hưởng ngư ợc chiều lên sự thay đổi của giá vàng trong nước.
2
1. GIỚI THIỆU
Giá của vàng, một loại hàng hóa, theo lý thuyết kinh tế vi mô đơn giản sẽ phụ thuộc
vào cung và cầu vàng trên thị trường. Về phía cầu, đó có thể là những yếu tố như thu nhập, sở thích và kỳ vọng của người tiêu dùng, giá các hàng hóa có liên quan hay các yếu tố vụ mùa. Trong đó, giá cả của các hàng hóa liên quan sẽ đặc biệt quan trọng trong trường hợp mua vàng đầu tư. Trong trường hợp mua vàng để tiêu dùng thì các yếu tố như thu nhập, sở
thích và mùa vụ lại càng quan trọng hơn. Về phía cung, vàng phụ thuộc vào các yếu tố như
khả năng khai thác, cấu trúc thị trường kinh doanh vàng và chính sách dự trữ vàng của các
quốc gia. Tuy nhiên, cần phải lưu ý một đặc điểm quan trọng rằng vàng là hàng hóa có thể
sử dụng tiêu dùng đồng thời cũng là đối tượng để đầu tư. Chính vì thế biến động giá vàn g
trong nhiều trường hợp rất khó lường.
Trong thời gian vừa qua (từ năm 2007 đến năm 2011) giá vàng ở thị trường thế giới
cũng như Việt Nam biến động bất thường làm ngạc nhiên những chuyên gia kinh nghiệm
nhất. Điều này thu hút nhiều người quan tâm đến giá vàng hơn. Ở đó trước hết là cơ hội kinh
doanh vàng và đồng thời là khả năng biến động của các thị trường khác đi kèm, ví như thị
trường bất động sản, thị trường ngoại hối…Nguyên nhân rõ rệt nhất gây nên những bất thường này chính là khủng hoảng kinh tế th ế giới nói chung và khủng hoảng kinh tế trong nước nói riêng. Khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, rồi nhanh chóng lan rộng sang Châu Âu và toàn thế giới. Khủng hoảng kinh tế làm cho tình
hình kinh tế khó khăn, hàng loạt các ngân hàng, doanh nghiệp…lâm vào cảnh phá sản. Bất
ổn về chính trị xã hội khiến giá dầu tăng cao, nợ công bùng phát ở các nước Châu Âu, trong
đó vấn đề nợ công của Hy Lạp được quan tâm nhất. Thị trường chứng khoán liên tục lao
dốc, thị trường bất động sản đóng băng khiến nhà đầu tư lầ n lượt tháo chạy. Lạm phát xuất
hiện ở khắp nơi, từ Mỹ sang Châu Âu, Châu Á và ngay tại Việt Nam, lạm phát cũng trở
thành một vấn đề nhức nhối khi giá cả hàng hóa dịch vụ liên tục tăng cao , sức mua liên tục
sụt giảm. Nguồn cung vàng ngày càng giảm, khi trữ lượng vàng khai thác bắt đầu cạn, trong
khi nhu cầu về vàng lại tăng cao, từ nhu cầu mua để tích trữ, đầu tư đến dùng vàng để làm
trang sức, dùng trong ngành công nghiệp, y tế…Các vấn đề trên kết hợp đ ồng thời với sự
3
suy giảm kinh tế của Mỹ và Châu Âu làm cho đồng Đô la Mỹ, đồng Euro bị mất giá đã đưa
vàng trở thành “hầm trú an toàn”, thu hút giới đ ầu tư trên toàn thế giới.
Chính những biến động mạnh về mặt kinh tế nêu trên đã gây áp lực lớn đến giá vàng,
góp phần đẩy giá vàn g thế giới và trong nước ngày một tăng cao. Ngoài ra, việc giá vàng
trong nước liên tục tăng cao trong giai đoạn này đã gây ra cảnh náo loạn khi mọi người tranh nhau mua bán vàng. Điều lạ kỳ là hầu hết mọi người tranh nhau mua lúc giá vàng lên cao và
tranh nhau bán lúc giá vàng xuống thấp, cho thấy có hiện hữu tâm lý bất ổn của nhà đầu tư
trong nước. Để hạn chế tình trạng đầu tư vào vàng theo tâm lý, các chính sách điều tiết thị trường vàng trong nước gần như ngay lập tức được ban hành, tuy chưa thiết lập được trật tự
trên thị trường vàng một cách nhanh chóng, nhưng đã từng bước mang lại những kết quả khả quan, qua đó chứng tỏ sự điều hành linh hoạt, hiệu quả của Chính phủ trước các vấn đề bất
ổn của nền kinh tế.
Nếu nhà đầu tư nắm bắt được chiều dao động của giá vàng tức là nắm bắt được khả
năng đầu tư kiếm lợi hay ít nhất có thể hạn chế một phần rủi ro do thị trường mang lại. Tuy
nhiên, rõ ràng điều này không dễ. Tất cả còn tùy thuộc vào khả năng phân tíc h và dự báo của
từng nhà đầu tư dựa trên những nhân tố chính tác động lên giá vàng trong nước. Chính việc
quan tâm đến sự thay đổi của giá vàng, muốn tìm hiểu các yếu tố nào ảnh hưởng đến giá vàng và có tồn tại hay không mối quan hệ giữa các yếu tố này tác động đến giá vàng, tôi đã
thực hiện luận văn với tên “GIÁ VÀNG VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
GIÁ VÀNG TẠI VIỆT NAM”. Luận văn nhằm phân tích những lý do, những yếu tố khác
nhau tạo ra sự thay đổi của giá vàng trong nước, đồng thời cho thấy mối quan hệ giữa giá
vàng trong nước với những biến ảnh hưởng độc lập như giá vàng thế giới, giá dầu thô, tỷ
giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, chỉ số chứng khoán Vn-Index, chỉ số lạm phát
và cung tiền.
Mục tiêu nghiên cứu là tìm hiểu các nhân tố tác động đến giá vàng trong nước và ảnh
hưởng như thế nào. Mục đích nghiên cứu là dựa vào việc tìm hiểu các nhân tố tác động đến
giá vàng trong nước để có những nhận định, phân tích đúng về thị trường vàng ngay tại thời điểm nghiên cứu.
4
Luận văn sử dụng dữ liệu nghiên cứu là sự biến động của giá vàng trong nước, giá
vàng thế giới, giá dầu thô, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, chỉ số chứng khoán
Vn-Index, chỉ số lạm phát và cung tiền từ giai đoạn năm 2007 đến năm 2011 có nguồn được
liệt kê tại phần tài liệu tham khảo. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu biến động giá vàng trong nước, xác định các nhân tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng đến giá
vàng trong nước.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn nhằm tìm ra mối quan hệ giữa
giá vàng trong nước và các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước là phương pháp hồi quy tuyến tính bội (Multiple Linear Regression Method - MLR) dựa trên phần mềm thống
kê SPSS. Trong mô hình này, giá vàng trong nước được coi là biến phụ thuộc, các nhân tố tác động đến giá vàng trong nước được coi là các biến độc lập, qua khảo sát sẽ xây dựng mô
hình hồi quy của giá vàng trong nước. Đồng thời, trả lời cho câu hỏi nghiên cứu: có hay
không các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá vàng trong nước? Nếu có thì ảnh hưởng
như thế nào?
Luận văn này góp phần tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng lên sự thay đổi của giá vàng
trong nước trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011, đồng thời cung cấp một mức độ ảnh
hưởng cụ thể của các nhân tố lên giá vàng trong nước. Từ đó, luận văn đưa ra một số đề xuất
nhằm kiểm soát được sự thay đổi của giá vàng trong nước.
5
2. TỔNG QUAN CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY
Trên thế giới có khá nhiều bài nghiên cứu về vàng được thực hiện bởi các nhà kinh tế
học dựa trên nhiều mô hình kiểm định khác nhau. Kết quả thu được từ các bài nghiên cứu cho thấy có sự tương quan giữa giá vàng với các yếu tố như lãi suất, lạm phát, cung tiền,
đồng Đô la Mỹ, chỉ số chứng khoán, chỉ số S&P 500…Dưới đây, tôi sẽ trích lược và giới thiệu một số bài nghiên cứu tiêu biểu của các nhà kinh tế học uy tín trên thế giới.
2.1. Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri – Khoa Toán, Đại học Công nghệ Malaysia (2009)
Các nhà kinh tế học này thuộc Khoa Toán - Trường Đại học Công Nghệ Malaysia đã
thực hiện bài nghiên cứu với tựa đề “Dự đoán giá vàng bằng phương pháp hồi quy tuyến
tính bội (Forecasting Gold Prices Using Multiple Linear Regression Method)”, bài được
đăng trên Tạp chí Khoa học Ứng dụng Mỹ số 6 (Tháng 01/2009 - tạp chí uy tín của Mỹ
chuyên xuất bản các nghiên cứu mới, đã được kiểm định có giá trị ứng dụng cao), đề xuất dự
đoán giá vàng dựa vào các yếu tố kinh tế như lạm phát, sự thay đổi của giá cả và các nhân tố khác trên mô hình hồi quy tuyến tính bội (MLR). Giá vàng là biến phụ thuộc trong mô hình.
Các biến độc lập sẽ đưa vào mô hình gồm có tỷ giá giữa đồng Đô là và đồng Euro, chỉ số theo dõi sự biến động của các hàng hóa (CRB), chỉ số lạm phát, cung tiền, chỉ số chứng
khoán New York (NYSE), chỉ số S&P 500, trái phiếu, chỉ số niêm yết đồng Đô la Mỹ (US
Dollar Index).
Mô hình hồi quy tuyến tính bội được sử dụng có dạng như sau:
Y = B0 + B1X1 +...+ BiXi + ε
Y : Giá vàng (GP) Trong đó:
X1: chỉ số biến động của các hàng hóa (CRB)
X2: tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ và đồng Euro (EUROUSD)
X3: lạm phát (INF)
X4: cung tiền (M1)
X5: chỉ số chứng khoán New York (NYSE)
X6: chỉ số S&P 500 (SPX)
6
X7: Trái phiếu (T-BILL)
X8: chỉ số Đô la Mỹ (USDX)
Đồ thị phân tán giữa giá vàng và các biến độc lập cho thấy có mối quan hệ tuyến tính
thuận giữa biến phụ thuộc giá vàng và các biến độc lập khác, ngoại trừ đồ thị phân tán giữa
giá vàng và cung tiền, đồ thị cho thấy sự phân tán là ngẫu nhiên
Đồ thị 2.1. Đồ thị phân tán giữa giá vàng và cung tiền (M1)
(Scatter plot of GP vs M1)
Ma trận hệ số tương quan cho thấy mối quan hệ qua lại giữa các biến độc lập và có
tồn tại hiện tượng đa cộng tuyến. Trong đó biến độc lập CRB và EUROUSD có độ trễ kỳ 1
cao nhất với giá vàng, biến lạm phát có độ trễ kỳ 6 cao nhất là -0,566.
Bảng 2.1. Correlation matrix
GP
1.00
CRB INF 0.464* 1.000
-0307* 0.650* 0.478* 0.257* -0.201 1.000 1.000
SPX Ml NYSE -0.694* -0.754* -0.208* -0.227* 0.533* 0.512* -0.632* -0.679* 1.000 0.947* 1.000
T-BILL -0.609* -0.038* 0.492* -0.900* 0.728* 0.825* 1.000
USDX -0332* 0.006 0.266* 0290* 0.267* 0.081 -0.197 1.000
GP CRB INF Ml NYSE SPX T-BILL USDX EUROUSD
EUROUSD 0332* -0.134 -0.418* -0.281* -0341* -0.190 0.108 -0.952* 1.000
7
Bảng 2.2. Correlation coefficient for lagged variables
Variable Correlation coefficient
CRB (lag 1)
0.436
EUROUSD (lag 1)
0.248
INF (lag 6)
-0.566
M1 (lag 9)
0.667
Các tác giả đã cân nhắc kiểm định hai mô hình, mô hình 1 có sử dụng hết tất cả các
biến độc lập, mô hình 2 chỉ có 4 biến độc lập là biến CRB (lag 1), biến EUROUSD (lag 1),
biến INF (lag 2) và biến M1 (lag 2).
Sau khi thực hiện kiểm định bằng phần mềm “Statistical Packages for Social Science
package (SPSS)” các tác giả thu được mô hình hồi quy tuyến tính bội của giá vàng và các
nhân tố kinh tế như sau:
Mô hình 1:
Y = -560,618 + 0,712X1 + 161,740X2 – 7,836X3 + 0,424X4
- 0,010X5 + 0,010X6 + 3,198X7 + 0,580X8
Mô hình này được các tác giả dự đoán giá vàng khá chính xác và 85,2% sự thay đổi
giá vàng trong từng tháng được giải thích bởi các biến trong mô hình, đồng thời chứng minh
được sự liên hệ giữa giá vàng và các nhân tố ảnh hưởng thuộc về kinh tế như tỷ giá, lạm
phát, cung tiền, chỉ số chứng khoán,…
Mô hình 2:
Y = -301,509 + 0,676X1 + 114,651X2 - 5,563X3 + 0,309X4
Mô hình này được các tác giả dự đoán giá vàng khá chính xác và 84,5% sự thay đổi
giá vàng trong từng tháng được giải thích bởi các biến trong mô hình. Tuy nhiên, giá trị d =
1,196 thấp hơn dL = 1,28 (α = 0,01). Thống kê này chỉ ra có sự tự tương quan giữa các biến
trong mô hình. Để khắc phục hiện tượng này các tác giả đã xây dựng mô hình 3.
Mô hình 3:
Y = -285,827 + 0,599X1 + 117,512X2 – 4,728X3 + 0,305X4
Mô hình 3 được xây dựng dựa trên biến đổi: (ρ = 0,4166)
Yt’ = Yt – 0,4166Yt-1
8
Xit’ = Xit – 0,4166Xi.(t-1)
Lúc này d = 1,769, dU = 1,56
Mô hình dự báo khá chính xác 70,8% sự thay đổi trong giá vàng có thể giải thích
được bởi 4 yếu tố X1, X2, X3 và X4. Tuy nhiên, biến X3 không có ý nghĩa trong mô hình ( lớn
hơn 0 nhiều) nên loại ra khỏi mô hình, thực hiện kiểm định lại cho mô hình 4 như sau.
Mô hình 4:
Y = -311,939 + 0,474X1 + 133,258X2 + 0,3279X4
Kiểm định mô hình cho R2 = 0,656 chứng tỏ 65,6% sự thay đổi trong giá vàng được
giải thích bởi ba biến X1, X2 và X4.
Đồ thị 2.2. Đồ thị của giá vàng và dự báo giá vàng
“Time series plot of Gold prices (GP) and predicted GP”
Dựa trên nghiên cứu của mình các tác giả thuộc Khoa Toán - Trường Đại học Công nghệ Malaysia đã đưa ra kết luận có thể dùng mô hình hồi quy tuyến tính bội để kiểm định
sự tương quan và dự báo giá vàng dựa trên các nhân tố kinh tế một cá ch hiệu quả trong thực
tế. Bằng nghiên cứu này các tác giả đã dự đoán sự thay đổi của giá vàng trong thực tế (xem
đồ thị 2.2) có độ chính xác khá cao, từ đó cho thấy nghiên cứu mang tính ứng dụng trong
thực tiễn cao, có thể sử dụng để dự đoán chiều hướng thay đổi của giá vàng thế giới dựa trên
sự thay đổi của các nhân tố trong mô hình hồi quy tuyến tính bội.
9
2.2. Eric J. Levin và Robert E. Wright, (2006)
Tiến sĩ Eric Levin sinh năm 1944 tại Scotland, ông đã theo đuổi sự nghiệp kinh
doanh sau một thời gian học tập và làm việc tại Đại học Glasgow. Đến khi bài nghiên cứu này được công bố (06/2006) thì ông đang là Phó Giáo sư Khoa Kinh tế thuộc Trường Đại học Stirling. Lĩnh vực nghiên cứu ưu thích của ông là về tài chính, kinh tế công và vấn đề
nhà ở.
Tiến sĩ Robert E. Wright (sinh năm 1958 tại Canada) gia nhập Đại học Strathclyde vào tháng 9 năm 2005 với vai trò Giáo sư kinh tế, sau khi làm Trưởng Khoa Kinh tế và phó
Khoa Quản Trị tại Đại học Stirling. Lĩnh vực nghiên cứu yêu thích của ông là về dân số,
kinh tế công, sự bất công và nghèo đói, tài chính, môi trường kinh doanh, kinh tế ứng dụng
và thống kê.
Mục tiêu nghiên cứu của nhà kinh tế Eric J. Levin và Robert E. Wright, (2006) là
“Xác định những nhân tố quyết định đến giá vàng trong ngắn hạn và dài hạn (Short-
run and Long-run: Determinants of the price of gold)”.
Để phục vụ cho công việc nghiên cứu của mình, hai ông đã xây dựng mô hình lý thuyết dựa trên nguyên lý cơ bản của kinh tế là cung và cầu, phù hợp để nghiên cứu tình
hình lúc bấy giờ là vàng đang được coi là phương tiện phòng ngừa lạm phát trong dài hạn,
đồng thời nghiên cứu dao động bất thường rõ rệt của giá vàng trong ngắn hạn. Trong mô
hình này, tổng nguồn cung vàng có ảnh hưởng đến giá vàng, lãi suất cho vay vàng, lợi nhuận
từ chênh lệch giá và phần bù rủi ro vỡ nợ. Nhu cầu về vàng trong ngắn hạn được đưa vào mô
hình là giá vàng, tỷ giá giữa đồng đô la và các ngoại tệ khác trên thế giới, lãi suất cho vay
vàng, lạm phát của Mỹ, độ bất ổn định của lạm phát Mỹ, rủi ro tín dụng.
Phương pháp thống kê được sử dụng nhằm tìm ra nhân tố chính ảnh hưởng đến giá vàng là kỹ thuật phân tích hồi quy đồng liên kết, phân tích dữ liệu từ tháng 01/1976 đến năm
tháng 8/2005. Phương pháp này thường dùng để đánh giá và xác định các nhân tố có tương
quan với sự chuyển động của giá vàng cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Họ đã đưa ra các phát hiện chính đối với việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến
giá vàng trong dài hạn. Trước tiên, trong dài hạn có mối quan hệ giữa giá vàng và đồng đô la
10
Mỹ. Thứ hai, mức giá chung của Mỹ tăng một phần trăm dẫn theo giá vàng cũng tăng một
phần trăm được chứng minh dựa trên một kết quả thống kê có ý nghĩa mối quan hệ này trong dài hạn (dữ liệu từ 01/1976 – 08/2005). Bằng chứng này chứng minh việc tin rằng giá vàng là sự đảm bảo trong dài hạn nhằm chống lại lạm phát.
Có một mối quan hệ rất rõ ràng giữa sự chuyển động giá vàng với sự thay đổi của tỷ
lệ lạm phát, tỷ giá USD, lãi suất cho vay vàng, phần bù rủi ro tín dụng và rủi ro chính trị.
Các kết quả phân tích thực nghiệm cho thấy rằng giá vàng và mức giá chung ở Mỹ có mối
liên quan với nhau (nghĩa là lạm phát Mỹ và giá vàng trong dài hạn có liên quan với nhau).
Những nhân tố quyết định trong ngắn hạn là cung cầu, lãi suất cho vay vàng (tỷ lệ
nghịch). Trong khi các nhân tố quyết định trong dài hạn là tỷ lệ lạm phát hoặc độ bất ổn trong lạm phát, rủi ro tín dụng và tỷ g iá USD (tỷ lệ thuận).
2.3. Dipak Gosh và Eric J. Levin và Peter Macmillan, Robert E. Wright (2000)
Từ mối quan hệ nguồn cung và cầu vàng t rong bài nghiên cứu “Vàng có phải là
công cụ phòng ngừa lạm phát? (Gold as an Inflation Hedge?)” các nhà kinh tế học trên đã xây dựng nên mô hình về giá vàng và các chuyển động của giá vàng trong ngắn hạn và
dài hạn. Bài nghiên cứu giải thích sự mâu thuẫn giữa các chuyển động trong ngắn hạn và c ác chuyển động trong dài hạn của giá vàng. Vàng có thể là công cụ phòng ngừa lạm phát trong
dài hạn nhưng nó còn có thể diễn tả những đặc điểm quan trọng của sự biến động trong ngắn
hạn. Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu là giá vàng hàng tháng từ năm 1976 đến năm 1999 và sử dụng kỹ thuật phân tích hồi quy đồng liên kết để phân tích dữ liệu.
Mô hình lý thuyết được xây dựng dựa trên việc thỏa mãn các giả thuyết sau: giá vàng
tăng trong suốt thời gian có lạm phát và sau đó vàng trở thành công cụ phòng ngừa lạm ph át
hiệu quả trong dài hạn. Mô hình có cấu trúc cơ bản như sau:
Pg = f(Pusa,Pw,Rg,Y,βg,er,θ)
Pg là giá vàng tính bằng đồng đô la Trong đó:
Pusa là giá niêm yết của đồng đô la
Pw là chỉ số giá cả thế giới
11
Rg là lãi suất cho vay bằng vàng
Y là thu nhập của thế giới βg là chỉ số bêta của vàng er là tỷ lệ tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la so với các ngoại tệ khác trên thế giới
θ là những biến cố ngẫu nhiên có ảnh hưởng đến giá vàng
Mô hình lý thuyết trên giả thuyết rằng sự thay đổi trong lãi suất cho vay bằng vàng,
nơi kinh doanh chênh lệch giá, chỉ số bêta của vàng và rủi ro hệ thống ảnh hưởng đến giá
vàng trong ngắn hạn.
Chỉ số bêta của vàng βg đo lường hiệp phương sai giữa việc quay lại nắm giữ vàng và
một danh mục đầu tư được đa dạng hóa tốt. Chỉ số bêta của vàng (βg) trong mỗi tháng t được
ước tính bởi mô hình hồi quy đơn giản sau đây:
(Pgt-n – Pgt-n-1)/Pgt-n-1 = α _+ βgt[(dt-n + SPt-n – SPt-n-1)/SPt-n-1] + εt
Trong đó:
Pg: giá vàng
SP: chỉ số S&P 500
d: tiền lãi cổ phần
n: từ 1 đến 36 tháng
Do đó, βg được ước tính cho từng tháng bằng cách hồi quy giá thống kê giá vàng và
chỉ số S&P 500 từng tháng trong vòng 36 tháng trước đó.
Kết quả từ bài nghiên cứu cho thấy, mô hình chứng minh rằng những thay đổi trong
ngắn hạn bởi các nhân tố như lãi suất cho vay vàng, lãi suất thực, lợi nhuận từ chênh lệch giá, rủi ro vỡ nợ, hiệp phương sai của lợi nhuận từ vàng so với các tài sản khác và tỷ giá giữa
đồng đô la và các ngoại tệ khác trên thế giới có khả năng gây chấn động nghiêm trọng đến sự cân bằng và gây ra các bất ổn định lớn trong ngắn hạn.
2.4. Các nhà kinh tế thuộc tổ chức Oxford Economics
Tổ chức Oxford Economics được thành lập năm 1981 nhằm đưa ra những lời khuyên
về kinh tế, những dự báo và các công cụ phân tích cho các tổ chức quốc tế, chính phủ và các
12
công ty lớn. Từ đó đến nay, Oxford Economics đã trở thành một trong những tổ chức độc
lập hàng đầu thế giới về dự đoán các tình hình các công ty, kế hoạch sản xuất, phân tích dữ
liệu của 190 quốc gia, 85 khu công nghiệp và hơn 2.500 tiểu bang và thành phố.
Tháng 07/2011, Tổ chức Oxford Economics đã thực hiện bài nghiên cứu “Tác động của lạm phát và giảm phát đến vàng (The impact of inflation and deflation on the case
for gold)” bởi sự ủy thác của Hội Đồng Vàng Thế Giới (WGC). Tại thời điểm thực hiện bài nghiên cứu này của Tổ chức Oxford Economics, nền kinh tế toàn cầu đang đối mặt với sự lo
lắng về mức tín nhiệm nợ công, tác động của chính sách nới lỏng tiền tệ bao gồm việc nới
lỏng định lượng chỉ số lạm phát trong trung hạn và những ản h hưởng khả dĩ của tình hình
bất ổn tại khu vực Trung Đông đến thị trường dầu mỏ toàn cầu. Ngoài ra, còn có những vấn
đề trong dài hạn như tương lai của đồng đô la với tư cách là loại tiền tệ dùng để dự trữ và sự
thay đổi đang diễn ra trong cán cân sức mạn h kinh tế thế giới và sự trỗi dậy mạnh mẽ của
các nước “đang phát triển” như Trung Quốc và Ấn Độ.
Mục tiêu của bài nghiên cứu nhằm khảo sát vàng như một dạng tài sản và có khả
năng có mối quan hệ với các loại tài sản khác trong rất nhiều viễn cảnh khác nha u của nền
kinh tế bằng cách dựa trên các bài nghiên cứu về các nhân tố tác động đến giá vàng và so
sánh với các phân tích định lượng theo mô hình kinh tế vĩ mô toàn cầu Oxford (Oxford
Global Macroecomomics Model). Các nhà nghiên cứu không chỉ cố gắng thực hiện việc
kiểm tra sự phục hồi của vàng trong các điều kiện như lạm phát cao, khủng hoảng tài chính và giảm phát mà còn cố gắng đánh giá, ước lượng vị trí thích hợp của vàng trong danh mục
đầu tư dài hạn dưới những điều kiện khác nhau của nền kinh tế.
Dựa trên các bài nghiên cứu truớc đó, đặc biệt là nghiên cứu của Levine & Wright
(2006 – xem 2.2), cho thấy vai trò của vàng như một cách để phòng ngừa lạm phát trong dài
hạn, để chống lại sự biến đổi của tỷ giá và đa dạng hóa danh mục đầu tư trong ngắn hạn.
Theo những kết quả nghiên cứu này, các tác giả của Tổ chức Oxford Economics đã xây
dựng một phương trình với nhiều biến giải thích để cố gắng giải thích một cách đầy đủ hơn
vai trò của giá vàng. Các biến này gồm có mức giá chung, lãi suất thực, đồng đô la, sự căng
thẳng tài chính, sự bất ổn về chính trị, hoạt động của các tổ chức kinh tế. Phương trình này
13
được gọi là mô hình điều chỉnh sai số (error – correction model – ECM) bao gồm tại một
thời điểm trong dài hạn mà tại đó giá vàng dịch chuyển cùng với lạm phát và tại một thời điểm trong ngắn hạn có chứa đựng các nhân tố (các biến) trên, các nhân tố có khả năng gây ra những dao động lớn và liên tục đến giá vàng trong bối cảnh lạm phát. Dùng các ước tính
của phương trình ECM làm cơ sở để khảo sát thói quen s ử dụng vàng trong nhiều kịch bản khác nhau như lạm phát toàn cầu, tăng trưởng kinh tế và các điều kiện tài chính. Các kịch bản này được xây dựng bởi mô hình kinh tế vĩ mô toàn cầu Oxford (Oxford Global
Macroeconomic Model), mô hình chứa đựng cả các giao dịch thương mại giữa các quốc gia
và các tổ chức kinh tế.
Kết quả khảo sát cho thấy, vai trò của vàng như một công cụ phòng ngừa rủi ro trong
việc giữ cân bằng cho danh mục đầu tư là rất rõ ràng. Hơn nữa, sự phân tích đầy lạc quan
của Tổ chức Oxford Economics cho rằng sự thiếu tương quan của vàng với những tài sản
khác nghĩa là vàng đóng vai trò giảm đi sự bất ổn của danh mục đầu tư. Những kết luận trên
có lẽ phần nào giải thích tại sao vàng được sử dụng như một phương tiện đầu tư khi giá lên
(nhu cầu đầu tư vàng trong năm 2010 tăng vọt lên khoảng 40% trong khi nhu cầu này năm
2002 chỉ dưới mức 15%).
2.5. Một số các nghiên cứu của nhà kinh tế học khác
Dr. David Davis, (2007)
Tiến hành nghiên cứu để dự đoán giá vàng “The future of gold: Price forecast”. Ông cũng xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng, gồm môi trường kinh tế Mỹ, cung cầu vàng, tỷ giá hối đoái, đặc biệt nhấn mạnh sự ảnh hưởng của đồng Đô la Mỹ và giá dầu
đến giá vàng. Giá dầu cao cũng có thể gây ra áp lực lạm phát, dẫn đến áp lực tăng giá v àng
vì vàng được sử dụng để phòng ngừa nguy cơ lạm phát. Giá vàng tăng đồng thời với tỷ giá
giữa đông đô la Mỹ và đồng Euro (USD/EUR). Đã bắt đầu xuất hiện việc tăng lên về nhu
cầu đầu tư vàng, tiêu thụ vàng và sự sụt giảm về trữ lượng tại các mỏ vàng. Sự mất cân bằng
cung – cầu sẽ dẫn đến giá vàng tăng. Theo dự báo về giá vàng tương lai trong bài nghiên cứu
14
này, dưới sự tác động của các nhân tố trên trong dài hạn giá vàng sẽ tiếp tục chiều hướng đi
lên, ảnh hưởng mạnh mẽ đến thị trường vàng trên thế giới .
Joelle Noreau và Martin Lefebvre (2006)
Nhóm tác giả dự báo về đánh giá của các nhà đầu tư đối với việc đầu tư vàng trong
tương lai gần bằng cách đưa ra các biến phụ thuộc về sự gia tăng giá vàng, Đô la Mỹ (USD), lượng tiêu thụ và sản xuất vàng. Ngoài ra, giá vàng còn bị ảnh hưởng bởi các nhân tố riêng thuộc về tâm lý những nhà đầu tư. Tất nhiên,những nhân tố mới này góp phần giúp giá vàng
tăng cao hơn, nhưng mối quan hệ giữa chúng với giá vàng (quan hệ cùng chiều) dường như
không đủ mạnh như các nhân tố k hác và việc đoán trước được ý định của các nhà đầu tư lại
không dễ dàng. Cũng theo nghiên cứu này dự đoán, trong tương lai gần, giá vàng sẽ theo xu
hướng gia tăng, và điều này chắc chắn sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nhiều hơn.
Greg Tkcaz
Từ Bộ phận nghiên cứu thuộc Ngân hàng của Canada (2007) đã phân tích sử dụng dữ
liệu của 14 quốc gia trong đó vàng có thể là thước đo tiềm năng của lạm phát. Ông đã đưa ra
kết luận về mối tương quan giữa lạm phát – giá vàng ở nhiều quốc gia. Ở Canada, nếu giá
vàng tăng thêm 10% thì tỷ lệ lạm phát tăng thêm 0,25% trong 12 tháng. Ở New Zealand, giá
vàng tăng 19% sẽ làm lạm phát tăng 1,1% trong 24 tháng nếu tỷ giá hối đoái không đổi.
Suất sinh lời ở các nước như New Zealand, Austrlia, Thụy Điển cao hơn những nước khác.
Những nước như Nhật, Mỹ, tác động của giá vàng đến lạm phát tỏ ra yếu hơn. Ở Trung Quốc, nếu giá vàng tăng thêm 10%, lạm phát sẽ tăng thêm 1,2% trong 12 tháng tiếp theo.
Jonathan Phair,(2004) Tác giả đã nghiên cứu về vai trò của kim loại quý đối với đầu tư ngày nay. Bài nghiên
cứu đã chỉ ra rằng vai trò của vàng đã thay đổi đáng kể trong 1 vài thập niên vừa qua. Trong những năm 1970, lạm phát tăng cao; vàng, bạc sinh lời lớn. Vào thời điểm đó, chúng là một
trong những loại hình đầu tư có thể được sử dụng để phòng ngừa áp lực lạm phát lớn chưa
từng có, và giá vàng tăng tương ứng với tỷ lệ lạm phát. Ngược lại, trong 20 năm qua, lãi suất
lại thấp, thị trường chứng khoán tăng đều và giá kim loại quý ì ạch. Đã có một chút lo lắng
về siêu lạm phát, và các đ ịnh chế tài chính quan ngại về áp lực lạm phát nhỏ đã phòng ngừa
15
rủi ro bằng cách sử dụng các hợp đồng hoán đổi, tỷ giá thả nổi và kỳ hạn. Ông nhận thấy
vàng và bạc đem lại nhiều tiềm năng cho các nhà đầu tư. T uy nhiên, một câu hỏi cũng được
đặt ra về tính ổn định của các kim loại này đối với danh mục đầu tư hiện đại. Cần phải thực
hiện những nghiên cứu mới nếu các nhà đầu tư cần thêm thông tin về tiềm năng của các thị
trường kim loại.
Stephen Harmstone, (1998)
Ông muốn xác định về vai trò của vàng khi vàng được xem như là nơi cất giữ giá trị
lâu dài. Tuy nhiên, trong suốt các thời kỳ có sự thống trị của các sức mạnh nước ngoài hoặc
thời kỳ sụp đổ của hệ thống tiền tệ, tính thanh khoản, khả năng chấp nhận và khả năng linh
động của vàng có vai trò đặc biệt q uan trọng và có lẽ sẽ phù hợp hơn so với tỷ lệ chuyển đổi
của vàng với tiền giấy. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và lạm phát cao, vàng là công cụ
lưu trữ của cải tốt hơn bất kỳ loại tài sản nào khác. Trong thời kỳ đầu cơ cổ phiếu giá lên kéo
dài với lạm phát thấp và thị trường ngoại hối tương đối ổn định, các nhà đầu cơ kỳ vọng tỷ
suất sinh lời cao trên khoản đầu tư. Đôi khi cũng cần phải có một khoảng thời gian giá cổ
phiếu rớt và thị trường khủng hoảng để tập trung xem xét thực t ế là việc dành một phần
trong danh mục đầu tư vào các tài sản giữ được giá trị của nó, ít nhất là như thế là một việc
hết sức quan trọng.
Collin Lawrence, (2003)
Tác giải tiến hành nghiên cứu tại sao vàng lại khác với các tài sản khác. Ông đã kiểm tra lập luận rằng nguyên nhân căn bản của sự khác biệt là do suất sinh lợi của vàng không có
liên quan đến hoạt động kinh tế trong khi suất sinh lợi của các tài sản khác lại có. Một vài mối quan hệ khác cũng được kiểm nghiệm để cho thấy rằng suất sinh lời của vàn g độc lập
với chu kỳ kinh doanh. Sử dụng phân tích tĩnh và phân tích động, nghiên cứu đã kiểm nghiệm mối quan hệ giữa các biến kinh tế với chỉ số tài chính, hàng hóa và vàng. Vàng độc lập với chu kỳ kinh tế và là một kênh tốt để đa dạng danh mục đầu tư.
Paul Mylchreest, (2007)
Mục đích chính của nghiên cứu này là xem xét nhiều khía cạnh của thị trường vàng
như cung cầu, tính minh bạch và sự can thiệp cũng như những cảnh báo từ thị trường vàng.
16
Dữ liệu được sử dụng là giá vàng và giá dầu mỏ từ 1970 đến 2007. Ông kết luận rằng giá
vàng bị tác động mạnh (tỷ lệ nghịch) bởi nguồn cung ít hơn do số lượng có hạn. Giá vàng
cũng bị ảnh hưởng bởi thay đổi trong giá dầu (tỷ lệ thuận).
David Greely và Jeff Currie (25/03/2009)
Mục đích của bài nghiên cứu của David Greely và Jeff Currie (25/03/2009) là
nghiên cứu các khía cạnh của vàng với vai trò là hàng hóa và liệu có mối quan hệ nào giữa
lãi suất và giá vàng. Bài nghiên cứu nói rằng những nhân tố tác động đến giá vàng là tỷ giá,
lãi suất và chỉ số giá tiêu dùng. Cũng có những nhân tố tác độn g đến việc tăng giá vàng là nguồn cung – cầu, nhu cầu vàng tiền tệ và phi tiền tệ. Nhu cầu vàng tiền tệ và phi tiền tệ có
tác động đến giá vàng. Và cũng có mối liên hệ nghịch giữa lãi suất và việc định giá vàng.
Ronald Peter Stoeferley, (05/2008)
Tác giả đã nghiên cứu về những nhân tố quyết định đến giá vàng. Ông kiểm định rằng
giá vàng trong tương lai bị ảnh hưởng cùng chiều bởi giá dầu, lạm phát, tỷ giá hối đoái và
ngược chiều bởi cung – cầu. Hàng hóa sẽ trở nên quan trọng hơn trong danh mục hàng hóa.
Giá vàng sẽ được củng cố bởi những nhân tố khác nữa. Khủng hoảng tín dụng vẫn chưa kết
thúc, và dữ liệu kinh tế vĩ mô Mỹ mâu thuẫn với nhau. Vấn đề của thị trường nhà ở Mỹ ngày
càng trầm trọng. Do cuộc khủng hoảng trên, người d ân dường như chú ý hơn đến lợi ích thật sự của vàng và phi tiền tệ hóa vàng bắt đầu.
Rhona O’Connell, (2007) Bài nghiên cứu của tác giả là nghiên cứu về cơ hội trong thị trường vàng nội địa.
Nghiên cứu của ông cho ra kết luận là thị trường vàng ở Ấn Độ có bước tăng trưởng đáng kể. Những thay đổi trong môi trường điều hành sẽ có tác dụng lớn trong việc đưa ra các sản
phẩm mới và những nhu cầu mới. Thật vậy, một số quỹ tương hỗ hàng đầu cùng với văn phòng tổ chức vàng thế giới ở Ấn Độ đang hợp tác chặt chẽ với các nhà điều hành để đưa
quỹ vàng vào hoạt động trên thị trường Ấn Độ.
Dựa theo các nghiên cứu trên của các nhà kinh tế học thuộc các tổ chức kinh tế khác
nhau trên thế giới, cho thấy một số nhân tố chính tác động rõ nét đến sự thay đổi của giá
vàng như tỷ giá, giá dầu thô, chỉ số chứng khoán, lạm phát...tác động cùng chiều với sự thay
17
đổi của giá vàng; cung vàng, lãi suất thực…tác động ngược chiều lên sự thay đổi của giá
vàng. Qua đó, khi đặt trong bối cảnh của Việt Nam, tôi lựa chọn các nhân tố tác động đến
giá vàng trong nước gồm giá vàng thế giới, giá dầu thô, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt
Nam đồng, chỉ số chứng khoán Vn-Index, chỉ số lạm phát và cung tiền. Kiểm định các nhân
tố này để xác định có hay không mối quan hệ cúa các nhân tố đến giá vàng, kết quả kiểm
định đưa ra có p hù hợp với các kết quả nghiên cứu trên và dự đoán ban đầu trước khi kiểm
định không.
18
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu về vàng, giá vàng được thực hiện khá nhiều bởi nhiều tác giả và
nhiều phương pháp khác nhau. Các nghiên cứu này đề xuất những mô hình để đo lường, kiểm định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến giá vàng ví dụ như nghiên cứu của Z.
Ismail, A. Yahya và A. Shabri – Khoa Toán, Đại học Công nghệ Malaysia đề xuất mô hình hồi quy tuyến tính bội để kiểm định các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng, nghiên cứu của
Eric J. Levin và Robert E. Wright và nghiên cứu của Dipak Gosh, Eric J. Levin, Peter
Macmillan và Robert E. Wright đều đề xuất mô hình phân tích hồi quy đồng liên kết để đánh
giá, xác định các nhân tố có tương quan với sự chuyển động của giá vàng cả trong ng ắn hạn,
dài hạn và vàng có trở thành công cụ phòng ngừa lạm phát không, nghiên cứu của các nhà
kinh tế thuộc tổ chức Oxford Economics đề xuất mô hình điều chỉnh sai số để giải thích một
cách đầy đủ hơn vai trò của giá vàng và các mô hình khác.
Qua tìm hiểu về các mô hình trên, tôi quyết định lựa chọn mô hình hồi quy tuyến tính
bội (gọi tắt là MLR) được sử dụng trong nghiên cứu của Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri
(2009) để áp dụng cho mục tiêu tìm hiểu mối quan hệ giữa giá vàng và các nhân tố ảnh
hưởng đến giá vàng vì các lý do sau đây:
Mô hình hồi quy tuyến tính bội là một kỹ thuật thống kê được sử dụng nhiều, nhằm dựa vào các biến độc lập để dự đoán kết quả của biến phụ thuộc. Dựa
vào các biến độc lập để tìm ra mối quan hệ (về mặt toán học) giữa các biến với
nhau và theo mô hình này mối quan hệ có dạng tuyến tính (đường thẳng). Mô hình được các tác giả chứng minh có sự tác động của một số nhân tố kinh tế lên sự thay đổi giá vàng và cho thấy mô hình dùng được trong thực tế nhằm
dự báo sự thay đổi của giá vàng.
Dữ liệu sử dụng trong mô hình MLR có thể thu thập được, trong khi dữ liệu sử dụng trong các mô hình khác khó thu thập trong điều kiện công bố những
thông tin, số liệu, chỉ số kinh tế trong nước hiện nay còn rất hạn chế.
19
Mô hình MLR cho phép việc mở rộng nghiên cứu trong tương lai bằng cách thêm các biến vào mô hình để kiểm định tính bền vững hay đo lườn g tác động
của các nhân tố khác lên giá vàng.
Trong các đặc trưng tổng quát của một mô hình hồi quy tuyến tính bội, việc lựa chọn
các biến độc lập và biến phụ thuộc xuất phát từ các lý thuyết, trực giác và kinh nghiệm quá
khứ. Mô hình hồi quy tuyến tính bội được sử dụng trong nghiên cứu của nhóm tác giả thuộc
Khoa Toán - Trường Đại học Công nghệ Malaysia dùng để dự đoán sự thay đổi của giá vàng
thế giới và các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng. Do đó, khi vận dụng vào điều kiện thực tế Việt Nam và ứng dụng phương pháp này tôi sử dụng các nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng
trong nước là các biến độc lập như sau: giá vàng thế giới, giá dầu, chỉ số chứng khoán VN- Index, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam, lạm phát và cung tiền lên biến phụ thuộc là
giá vàng tại Việt Nam trong thời gian từ năm 2007 đến năm 2011 . Những biến khác trong
mô hình của các tác giả Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri không đưa vào mô hình như chỉ số
S&P 500, trái phiếu Mỹ vì phạm vi nghiên cứu của luận văn là giá vàng trong nước, trong
khi các tác giả nghiên cứu về giá vàng thế giới, vốn chịu ảnh hưởng mạnh bởi các yếu tố
kinh tế từ nước Mỹ - quốc gia có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới, nơi bắt nguồn của
cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Cuối cùng, mô hình hồi quy tuyến tính bội của giá
vàng trong nước có dạng như sau:
GiaVangi = a1 + a2*GiaVangTGi + a3*TyGiai + a4*LamPhati
+ a5*VnIndexi + a6*GiaDaui + a7*CungTieni + ui
ui là sai số ngẫu nhiên, được giả thiết có E(u i) = 0
Nguồn thu thập dữ liệu gồm:
Về giá vàng trong nước là giá vàng mua vào thu thập từ trang web của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (Ngân hàng TMCP Á Châu – ACB) (chọn
giá vàng mua vào nhằm hạn chế ảnh hưởng của yếu tố tâm lý đám đông lên giá
vàng).
Về giá vàng thế giới là giá vàng được công bố trên trang web kitco.com.
20
Về tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng là tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân Hàng Nhà Nước (NHNN) công bố (không sử dụng tỷ giá thị
trường vì giá thị trường tỷ giá của Việt Nam rất khác nhau và không ổn định). Về giá dầu thô là giá dầu thô được công bố trên trang w eb của Cơ Quan Thông
Tin Năng Lượng Mỹ (U.S Energy Information Administration – EIA).
Về chỉ số lạm phát là dữ liệu thu thập từ công bố của Tổng cục Thống kê Việt
nam.
Về cung tiền là dữ liệu thu thập từ Ngân hàng Châu Á ADB, phần mục số liệu
thống kê.
Các dữ liệu thu thập được đưa vào phần mềm thống kê SPSS để tiến hành khảo sát, kiểm định và qua đó đưa ra câu trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu của luận văn: có hay
không các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi giá vàng trong nước? Nếu có thì ảnh hưởng
như thế nào?
21
4. NỘI DUNG VÀ CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích các yếu tố tác động đến giá vàng thế giới từ năm 2007 đến năm 2011
Năm 2007, thị trường vàng được ví là một cơn sóng ngầm, giá vàng lên xuống thất
4.1.1 Biến động giá vàng thế giới giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011
thường. Vào nửa cuối tháng 02/2007, giá vàng thế giới đột ngột tăng mạnh lên gần 690
USD/ounce rồi chuyển hướng nhanh xuống đáy 640 USD/ounce. Diễn biến quá nhanh với sự
vận động khá mờ nhạt nối tiếp khiến thị trường vàng đầu tư tạm mất sức hấp dẫn vốn có.
Cũng trong năm 2007, thị trường quốc tế đã chứng kiến giá vàng lập mức giá kỷ lục mới. Với
sự tụt dốc kéo dài của đồng Đô la Mỹ và "sức nóng" từ thị trường dầu mỏ tăng cao vượt mức
90 USD/thùng, giá vàng quốc tế tăng mạnh, có thời điểm lên đến sát mức 840 USD/ounce.
Bên cạnh đó, một số Ngân hàng trung ương (NHTW) các nước Nga, Trung Quốc dự kiến thay
đổi cơ cấu dự trữ ngoại hối theo hướng tăng dần tỷ lệ dự trữ bằng vàng trong cơ cấu dự trữ quốc gia cũng là một nguyên nhân quan trọng đẩy giá vàng tăng cao. Tính đến thời điểm 27/12/2007, giá vàng trên thị trường quốc tế đã tăng 186,1 USD/ounce .
Đồ thị 4.1. Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2007
Nguồn: www.kitco.com
22
Sang năm 2008, vào ngày giao dịch đầu tiên tại thị trường New York, giá vàng giao
ngay đóng cửa ở mức 857,4 USD/ounce. Ở thời điểm đó, đây là những mức giá cao nhất trên
thị trường vàng thế giới kể từ năm 1990. Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát và giảm phát đã tạo những cơn sóng trồi sụt liên tục cho quý kim. Vàng nhập cuộc khá
tốt và liên tục gia tăng giá trị của nó cùng với sự leo dốc không mệt mỏi của chỉ số lạm phát
trong những tháng đầu năm, tuy nhiên nửa cuối năm còn lại thật sự là quãng thời gian khó
khăn cho giá vàng khi nó phải liên tục dò tìm những đáy mới trong bối cảnh nỗi lo suy giảm
kinh tế toàn cầu gia tăng. Năm 2008 chứng kiến sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo một số lượng con nợ lớn chưa từng
thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Ảnh hưởng của nó đã khiến nhiều nền kinh tế
trên thế giới chao đảo và trong bối cảnh lạm phát tăng cao, các nhà đầu tư ồ ạt chuyển vốn
sang thị trường vàng - loại hàng hóa an toàn và hấp dẫn trong thời kỳ lạm phát và xu hướng
này thực sự đã tạo ra một hậu phương hết sức vững chắc giúp quý kim thẳng tiến chinh phục
những đỉnh cao mới. Vào ngày 17/03/2008, thị trường tiền tệ thế giới ghi nhận mức giá kỷ lục
trong lịch sử của giá vàng – mức 1.033,90 USD/ounce. Chỉ tính trong quý I/2008, vàng đã gia
tăng được 14% giá trị của nó. Tiếp tục đà tăng, giá vàng lên đỉnh cao vào ngày 10/10/2008 ở
mức 950 USD/ounce khi vụ sụp đổ Lehman Brother và các tổ chức tài chính khổng lồ khác
bùng lên, đưa vàng trở thành “hầm tránh bão” an toàn trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế.
Đồ thị 4.2. Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2008
Nguồn: www.kitco.com
23
Bước sang năm 2009, thị trường chứng kiến sự xuất hiện liên tiếp những mốc giá
vàng chưa từng có. Tăng khá đều đặn trong các quý I, II và III rồi bứt phá mạnh trong quý IV là xu hướng chính của giá vàng thế giới năm 2009. Khởi động năm 2009 với mức giá khoảng 880 USD/ounce, giá vàng giao ngay thị trường thế giới đến ngày 23/12/2009 đóng
cửa ở mức gần 1.090 USD/ounce, tăng xấp xỉ 24%. Mức đỉnh cao lịch sử của giá vàng giao
ngay đóng cửa tại thị trường New York ở mức 1.215,8 USD/ounce thiết lập vào ngày 02/12/2009. Mức giá này đã bỏ xa kỷ lục đóng cửa 1.002,8 USD/ounce của năm 2008.
Đồ thị 4.3. Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2009
Nguồn: www.kitco.com
Đầu tháng 10/2009, thế giới xôn xao trước tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm
thầm bàn thảo một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa. Thông tin này
sau đó đã bị các nước liên quan phủ nhận, nhưng cũng đủ đẩy tỷ giá USD thế giới sụt sâu,
giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh. Sau đó, đến cuối tháng 11, thị trường một lần
nữa bất ngờ trước việc tập đoàn Dubai World của Dubai có nguy cơ vỡ nợ góp phần làm giá
vàng quay đầu đi xuống.
Năm 2010 quả thực là một năm hoàng kim của “vàng” – kim loại này đã duy trì được một thập niên liên tục tăng giá. Trong số những nguyên nhân thổi giá vàng phải kể đến việc
Mỹ duy trì lãi suất cơ bản ở mức thấp kỷ l ục để hỗ trợ đà phục hồi kinh tế. Khi kinh tế Mỹ chưa có dấu hiệu phục hồi, các nhà đầu tư tìm đến vàng như một chốn trú ẩn an tòan để đảm
24
bảo tài sản. Tuy nhiên, sau khi kinh tế Mỹ có những dấu hiệu khả quan hơn, vàng lại leo
thang do cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu lan tràn. Trong những tháng cuối năm, vàng tiếp tục chịu sức ép từ việc Trung Quốc siết chặt chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm
kiềm chế tăng trưởng quá nóng. Trước hàng loạt các yếu tố hỗ trợ cho sự tăng giá của vàng
như đã nêu trên: sự phục hồi kinh tế toàn cầu còn gặp nhiều khó khăn, những lo ngại về vấn đề khủng hoảng nợ công ở Châu Âu, sự suy yếu của đồng đôla, những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, áp lực lạm phát gia tăng trên thế giới, xu hướng thực hiện thắt chặt chính
sách tiền tệ của nhiều NHTW, xu hướng tăng dự trữ vàng của các NHTW để thay thế cho các loại ngoại tệ và tài sản tài chính khác, những biến động trên thị trường ngoại hối, diễn
biến của thị trường chứng khoán chưa ổn định, đặc biệt nhu cầu vàng vật chất rất lớn ở khu vực các nước Châu Á…đã tạo lực kéo cho giá vàng đi lên. Nếu như trong ngày đầu năm
mới, mỗi ounce chỉ tương đương 1.096 USD thì đến ngày 6/12, kỷ lục mới nhất trong năm
đã đưa giá lên đỉnh cao của mọi thời đại tại 1.427 USD/ounce. Năm 2010, giá vàng thế giới
đã liên tiếp lập nhiều kỷ lục mới với các mốc 1.240 USD/ounce (12/05); 1.250 USD/ounce
(08/06); 1.263 USD/ounce (21/06); 1.293,5 USD/ounce (22/09) và 1.421 USD/ounce (9/11)
và sau đó đã quay trở lại trên ngưỡng 1.400 USD/ounce trong tháng 12/2010.
Đồ thị 4.4. Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2010
Nguồn: www.kitco.com
25
Biến động mạnh, vọt lên đỉnh cao và lùi xuống rất nhanh là tóm tắt ngắn gọn về diễn
biến của thị trường vàng thế giới trong năm 2011. Vốn chỉ sát trên ngưỡng 1.400
USD/ounce lúc khởi đầu năm 2011, vàng bắt đầu lao vùn vụt từ giữa năm và lên trên 1.920
USD/ounce, đạt mức cao lịch sử 1.923 USD/ounce trong phiên 06/9/2011, rồi nhanh chóng
rút khỏi đỉnh cao và chỉ còn giao dịch ở gần 1.600 USD/ounce trước thềm năm mới 2012.
Trong nửa đầu năm những bất ổn chính trị trên thế giới, nỗi lo khủng hoảng nợ công tại
Châu Âu dần đẩy vàng từng bước lên hơn 1.500 USD/ounce. Tháng 7, 8 và 9 là lúc vàng
“sục sôi” nhất, giá kim loại quý này liên tiếp xác lập các kỷ lục mới, trên 1.600, 1.700, 1.800
và 1.900 USD/ounce, với tốc độ chóng mặt. Theo các chuyên gia phân tích, nguyên nhân
chính đẩy giá vàng lên cao đó là việc các nhà đầu tư “quay lưng” lại với các tài sản rủi ro,
chuyển hướng sang vàng và coi đây là “nơi trú ẩn an toàn” cho tài sản của họ. Sau khi
“thăng hoa” trên đỉnh cao 1.923 USD/ounce phiên ngày 06/9/2011, vàng lập tức để mất gần
100 USD và rơi xuống dưới ngưỡng 1.900 USD/ounce ngay phiên kế tiếp, do đồng USD
mạnh lên làm vàng trở nên kém hấp dẫn giới đầu tư. Từ đó đến tháng 11, vàng liên tục lên
xuống cố gắng tìm lại ngưỡng cao 1.800 USD/ounce song lại để tuột mất; sau đó liên tục dao
động quanh mức 1.700 USD/ounce. Trong hai tháng cuối năm, vàng đánh mất cơ hội nâng
cao giá trị với vị thế là “nơi trú ẩn an toàn,” cho dù khủng hoảng nợ công tiếp tục lan rộng
tại Châu Âu, thay vào đó, vàng quay sang biến động cùng chiều với các tài sản rủi ro khác.
Đồ thị 4.5. Diễn biến giá vàng thế giới trong năm 2011
Nguồn: www.kitco.com
26
Cuối năm 2011, giá vàng dao động dưới ngưỡng 1.600 USD/ounce và như vậy đã
giảm hơn 18% so với đỉnh điểm của năm và chỉ còn cách mức khởi điểm của năm 2011 chưa đầy 200 USD/ounce. Tình hình này khiến một số người hay lo tính đến khả năng sau một vài phiên trồi sụt nữa, biết đâu vàng lại vẽ lên một đồ thị hình sin gây sốt.
4.1.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng giá vàng thế giới từ năm 2007 đến năm 2011
4.1.2.1. Tình hình kinh tế thế giới
Nổi bật của thị trường tài chính thế giới năm 2007 là “bóng ma” tín dụng uy hiếp
nước Mỹ. Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn hoạt động cho vay có phần dễ dãi và ồ ạt – được
gọi là “nợ dưới chuẩn” (subprime) – của các ngân hàng đối với người vay tiền mua nhà trả
góp với hy vọng sau đó bán đi để kiếm lời. Sau một thời kỳ sốt dài, thị trường địa ốc Mỹ rơi
vào tình trạng đóng băng khiến người vay tiền không thể bán nhà để trả nợ. Cơn địa chấn tài
chính thực sự nổ ra vào ngày 17/9/2008 khi hai nhà cho vay cầm cố khổng lồ của Mỹ là
Frenddie Mac và Fannie Mae buộc phải được Chính phủ tiếp quản để tránh khỏi nguy cơ
phá sản. Năm 2008, Mỹ đã 8 lần cắt giảm lãi suất, lãi suất cơ bản từ 5% đã xuống chỉ còn
0,25%. Ngày 13/10/2008, các quốc gia Châu Âu đã công bố gói giải pháp cứu trợ kinh tế
khổng lồ có trị giá lên tới 2.300 tỷ đô la. Dưới tác động của các gói kích thích kinh tế liên
tục của các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, Trung Quốc…và tổ chức Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) đã phần nào giúp cho các nhà đầu tư tạm dừng sự quan tâm cho giá vàng và chợ
đợi các tín hiệu khả quả từ các nỗ lực cứu trợ này. Tuy nhiên, khi Mỹ chính thức thừa nhận
đã suy thoái từ cuối năm 2007 và vụ lừa đảo 50 tỷ USD của Bernard Madoff bị vỡ lỡ với
hàng nghìn nạn nhân đã khiến lòng tin của người dân Mỹ và giới đầu tư sụt giảm lòng tin
vào hiệu quả của các gói cứu trợ kinh tế. Trước các yếu tố trên, giá vàng đã liên tục suy
giảm từ tháng 7 đến đầu tháng 12/2008 (từ 937 USD/ounce vào ngày 01/7 còn 778
USD/ounce vào đầu tháng 12), và tăng trở lại vào những ngày cuối năm 2008, bằng 869,75
USD/ounce vào ngày 30/12/2008.
Năm 2009, khủng hoảng kinh tế lan rộng ra toàn thế giới, vấn đề nợ công trở thành
một đề tài được bàn tán khắp nơi ở Châu Âu, đặc biệt là nỗi lo về nợ công của Hy Lạp gia
27
tăng khi Hy Lạp bị hạ mức tín nhiệm, đồng Euro bị suy giảm, tạo đà phục hồi cho đồng Đô
la Mỹ, thị trường vàng giảm mạnh về mức 1.090 USD/ounce vào tháng cuối năm 2009. Tín
hiệu khả quan cho nền kinh tế thế giới đang khủng hoảng là sự phát triển của Châu Á, đang
được đánh giá là khu vực đưa nền kinh tế thế giới thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu hiện nay, nổi bật nhất là sự phát triển không ngờ của Trung Quốc. Thị trường thế
giới năm 2009, mà chủ yếu là quý 4, cũng chứng kiến một số sự kiện gây sốc, có tác động
mạnh đến giá vàng. Đầu tháng 10, trước tin đồn một số nước vùng Vịnh đang âm thầm bàn
thảo một kế hoạch nhằm loại đồng USD ra khỏi giao dịch dầu lửa đã đẩy tỷ giá USD thế giới
sụt sâu, giúp giá vàng có những bước tăng tốc mạnh. Sau đó, đến cuối tháng 11, thị trường
một lần nữa bất ngờ trước việc tập đoàn Dubai World của Dubai có nguy cơ vỡ nợ. Rủi ro về một cuộc khủng hoảng nợ ở thế giới Arab đã thúc đ ẩy giới đầu tư quay trở lại với trái phiếu
kho bạc Mỹ và USD để tìm kiếm sự an toàn, kéo tỷ giá USD tăng và giá vàng đi xuống.
Kinh tế thế giới 2010 trải qua một năm đầy những biến động bất ngờ, mà trong đó nổi
bật là sự phục hồi kinh tế không đồng đều giữa các khu vực, tình hình nợ công của khu vực
Châu Âu, nguy cơ lạm phát khiến nhiều nước quyết định thắt chặt chính sách tiền tệ và thị
trường tài chính biến động phức tạp. Vấn đề nợ công tại khu vực Châu Âu đã có dấu hiệu
ngay từ đầu năm 2010 và chỉ đến tháng 4/2010, nó mới thực sự trở thành một vấn đề lớn khi Hy Lạp, với mức nợ công lên tới 110% GDP, đã rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán
khiến nền kinh tế nước này ngày càng chìm sâu vào khủng hoảng. Tiếp đến, một số nền kinh
tế khác trong khu vực Châu Âu có các khoản thâm hụt tài chính lớn như Bồ Đào Nha
(85,1%), Bỉ (100,9%), Ailen (116,3%) và Tây Ban Nha (69,1%) cũng bị cảnh báo về vấn đề
này. Vấn đề nợ công của Hy Lạp cuối cùng đã đ ạt được sự đồng thuận của các nền kinh tế
trong khu vực trong kế hoạch giải cứu trị giá gần 1.000 tỷ USD để ngăn cuộc khủng hoảng
nợ Hy Lạp lan khắp Châu Âu và bảo vệ đồng Euro trước nguy cơ sụt giá. Cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu và suy thoái đã làm cho đồng đô la Mỹ, đồng tiền chung Châu Âu và bảng
Anh chao đảo và không ổn định khiến lòng tin của giới đầu tư và người tiêu dùng vào các
đồng tiền này bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bên cạnh sự trượt dốc của đồng tiền chung Châu Âu, thì đồng bạc xanh của Mỹ cũng không có gì sáng sủa hơn.
28
Năm 2011 tiếp tục là một năm đầy thách thức đối với Khu vực đồng tiền chung Châu
Âu (Eurozone) nói riêng và Liên minh Châu Âu (EU) nói chung. Lần lượt Hy Lạp, Tây Ban
Nha, Ireland, Bồ Đào Nha và Italia rơi vào vòng xoáy nợ công, phải viện tới các gói cứu trợ của EU và IMF. Cuộc khủng hoảng nợ công tại Eurozone đã tác động mạnh tới nền kinh tế
thế giới và giới chuyên gia đã tính tới khả năng khu vực này tan rã cũng như sự rời bỏ đồng
tiền chung Euro. Hạ điểm tín nhiệm đã trở thành “chuyện thường ngày ở huyện” đối với
hàng loạt quốc gia trong Eurozone.
Còn tại Mỹ, nợ công cũng đang là v ấn đề làm đau đầu giới lãnh đạo. Nợ công có
nguy cơ khiến Mỹ và các nền kinh tế phát triển khác phải hứng chịu một đợt suy thoái
nghiêm trọng thứ hai trước khi rơi vào một cuộc khủng hoảng mới. Ngày 04/03/2011, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) bất ngờ tuyên bố chấm dứt chương trình mua trái phiếu kho bạc
trị giá 600 tỷ USD. Các nhà đầu tư trên thị trường vàng lo ngại việc các nhà hoạch định
chính sách của FED chấm dứt nới lỏng tiền tệ để kiềm chế lạm phát khiến giá vàng chấm dứt
đà tăng giá mạnh trước đó và đi ngang trong suốt hơn một tháng, giá vàng về mốc 1.434,6
USD/ounce. Ngày 07/04/2011, NHTW Châu Âu ECB tăng lãi suất lên 1,25% khiến đồng
euro tăng giá so với đồng USD, đẩy giá vàng tăng mạnh vượt 1.500 USD/ounce lên sát
1.600 USD/ounce. Ngày 01/08/2011, các cuộc đàm phán xung quanh vấn đề nâng trần nợ
công 14.300 tỷ USD của nước Mỹ trở thành tâm điểm của thị trường tài chính. Tuy nhiên,
khi Châu Âu lâm vào cảnh bế tắc giải quyết nợ công và sự giảm giá mạnh của đồng Euro đã
góp phần tạo sự phục hồi cho đồng tiền xanh Đôla Mỹ, cũng như thu hút s ự chú ý của giới
đầu tư trở lại đối với đồng tiền này, đặc biệt là vào giai đoạn những tháng cuối năm 2011.
Nhìn lại giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2010, kế hoạch bơm tiền của FED dẫn đến
sự thiếu lòng tin vào đồng USD, sự không thành công của các gói cứu trợ kinh tế, khủng
hoảng nợ công ở Eurozone, tình hình kinh tế khu vực Trung Đông... là loạt lý do đẩy giá
vàng leo thang. Các yếu tố trên cho thấy về hình thức vàng đã tăng giá, nhưng v ề bản chất
chính là sự mất giá của đồng Đô la Mỹ.
29
4.1.2.2. Tình hình cung cầu vàng
Nguồn cung vàng trên trái đất là hữu hạn và việc khai thác kim loại quý này ngày
càng trở nên khó khăn đã khiến cung ngày càng khó bắt kịp so với cầu, nhất là khi các quốc
gia sản xuất vàng hàng đầu đang cạn kiệt dần tài nguyên. Vào đầu thế kỷ này, Nam Phi cung
cấp tới 74% lượng vàng khai thác trên thế giới, song đến thời điểm hiện nay con số này giảm
xuống còn 19%. Ước tính tổng khối lượng vàng dự trữ đã qua chế biến của thế giới hiện ở
mức 160.000 tấn. Mỗi năm lại có thêm 2.400 tấn nữa được bổ sung, tương đương với mức
tăng 1,7% - thấp hơn nhiều so với mức tăng của cầu. Tổng cầu trên thị trường vàng hiện
đang vượt tổng cung khoảng 1%/năm, và mức chênh lệch này đang gia tăng. Trong khoảng
thời gian từ năm 1999 đến năm 2008, Tổ chức vàng thế giới GFMS tính toán rằng sản lượng
vàng trên toàn cầu giảm 0,8%. Dự báo tình hình sản xuất vàng sẽ vẫn trì trệ trong vài năm
tới bởi sản lượng từ các mỏ cũ hết và chưa tìm được nguồn mới thay thế. Các nước sản xuất
vàng lớn như Nam Phi và Mali gặp nhiều trục trặc trong khai thác vàng. Sản lượng của các
nước Tây Phi giảm 9% trong năm 2007. Khi nhu cầu ngày một tăng, chênh lệch cung – cầu
ngày một lớn.
Ngày 27/09/2010, Tờ Financial Times đưa tin, các NHTW thuộc khu vực đồng tiền
chung Euro cùng với Thụy Điển và Thụy Sỹ đã giảm mạnh lượng vàng bán ra trong 1 năm trở lại đây. Trong vòng 1 năm tính tới tháng 9/2010, các quốc gia ký kết Thỏa thuận vàng
giữa các NHTW (CBGA - được ký kết bởi các quốc gia nằm trong khu vực đồng Euro, Thụy
Sỹ và Thụy Điển nhằm đặt mức trần cho tổng lượng vàng bán ra bởi các NHTW hàng năm)
chỉ bán ra 6,2 tấn vàng, giảm 96% so với năm trước. Đây là lượng vàng bán ra thấp nhất kể
từ khi CBGA ra đời. Cũng theo Financial Times, việc các NHTW Châu Âu ngừng việc bán
vàng ra xuất phát từ việc họ đánh giá lại vai trò của vàng trong bối cảnh khủng hoảng nợ tấn
công vào khu vực. Trước kia, vàng bị Châu Âu xem là một tài sản có khả năng sinh lợi kém.
Thỏa thuận CBGA đã hết hạn vào ngày 26/09 vừa qua. Trong khi đó, theo ước tính của công
ty tư vấn kim loại quý GFMS thì năm 2010 là năm mà các NHTW lần đầu tiên mua ròng
vàng kể từ năm 1988 trở lại đây, dù khối lượng mua ròng mới chỉ vào khoảng 15 tấn. Những
đợt mua vàng chính thức với quy mô lớn, lên tới vài trăm tấn, chưa lần nào diễn ra kể từ năm
30
1965 - trước giai đoạn sụp đổ của hệ thống tỷ giá hối đoái cố định neo buộc vào vàng
Bretton Woods.
Trước các áp lực mất giá của tiền, đặc biệt là sự mất giá của USD trong thời qua và sự leo thang của lạm phát hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007, NHTW các nước đã
điều chỉnh dự trữ ngoại hối quốc gia, chuyển qua mua ròng vàng sau 2 thập kỷ đóng vai trò
nguồn cung ổn định cho thị trường. Năm 2009, NHTW Trung Quốc mua vào 450 tấn vàng,
Ấn Độ mua 200 tấn, Nga mua 71 tấn,… Hiện nay, Mỹ là quốc gia dẫn đầu về dự trữ vàng
thế giới với 8.133 tấn chiếm 78,9% dự trữ ngoại hối quốc gia, tiếp đó là Đức (3.412 tấn,
71,5%), Ý (2.702,6 tấn, 66,5%), Pháp (2.987 tấn, 72%)...
Trong giai đoạn từ 1989 tới 2007, các NHTW trung bình mỗi năm bán ra từ 400- 500
tấn vàng. Năm 2008, lượng vàng bán ra giảm còn phân nửa và một năm sau, giảm còn 30 tấn
vàng. Năm 2010, các NHTW đã mua ròng xấp xỉ 90 tấn vàng. Trong cơ cấu dự trữ của các
nền kinh tế phát triển ở Tây Âu và Bắc Mỹ, dự trữ bằng vàng chiếm 40%. Trong khi tỉ lệ này
ở các nước đang phát triển là 5%. Trong số các nền kinh tế mới nổi mua vàng dự trữ nhiều,
Nga là nước dẫn đầu với 135 tấn. NHTW của Thái Lan, Bangladesh, Venezuela và
Philippines, lần lượt mua vào 16 tấn, 10 tấn, 5 tấn và 1,4 tấn. Động thái cất trữ vàng của khu
vực tư nhân cũng tăng mạnh, đặc biệt là từ những năm đầu thế kỷ 21. Ngoài áp lực mất giá của các đồng nội tệ, sự bùng phát cất trữ vàng khu vực tư nhân còn gắn liền với việc nới
lỏng quyền sở hữu vàng cá nhân của một số quốc gia, trong đó phải kể đến Trung quốc, Ấn
độ.
Ngoài nhu cầu vàng với mục tiêu cất trữ, đảm bảo giá trị tài sản, đặc biệt trong điều
kiện rủi ro tiềm ẩn, thì nhu cầu vàng cho mục đích sản xuất, tiêu dùng cũng tăng nhanh.
Theo thống kê của WGC, 9 tháng đầu năm 2010, tổng lượng vàng trang sức toàn cầu lên tới
1.468 tấn, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2009. Nhu cầu vàng trang sức đã tăng nhanh cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế Châu Á và tâm lý chuộng sử dụng vàng trang
sức của khu vực này, đặc biệt là Trung quốc, Ấn độ. Bên cạnh đó nhu cầu vàng phục vụ sản
xuất cũng tăng mạnh cùng với sự bùng nổ của các ngành công nghiệp ứng dụng, sự phát
triển của ngành nha khoa. Cũng theo WGC, trong 9 tháng đầu năm 2010, nhu cầu vàng phục
31
vụ sản xuất tăng 19% so với cùng kỳ năm trước. Đóng góp vào tổng cầu vàng, còn có nhu
cầu đầu cơ vàng, gắn liền với xu thế tăng giá vàng. Hệ quả là, tổng cầu vàng có xu hướng
tăng mạnh, vượt so với tổng cung vàng khoảng 3% năm 2010, kéo dài chuỗi tăng giá vàng
trong vòng 10 năm liên tiếp.
Đồ thị 4.6. Giá vàng thế giới qua từng giai đoạn
Nguồn: Ngân Hàng Công Thương Việt Nam
Mức độ sinh lợi từ đầu tư vàng tương đối cao so với các sản phẩm đầu tư khác, trong
khi mức độ rủi ro thị trường tương đối thấp. Giá vàng liên tục tăng và mức tăng lên tới 29%
trong năm 2010, đưa vàng trở thành một kênh đầu tư có khả năng sinh lời cao hơn nhiều so
với các kênh đầu tư khác.
Tiêu thụ vàng của cả thế giới trong năm 2010 là 3.812 tấn, mức cao nhất trong 10
năm qua nhưng vẫn thấp hơn 296 tấn so với tổng nguồn cung, theo báo cáo xu hướng nhu
cầu về vàng năm 2010 của WGC công bố ngày 17/02/2011. Tiêu thụ vàng năm 2010 tăng
9% so với năm 2009, tổng giá trị tiêu thụ tăng 38% do giá vàng tăng cao. Theo WGC, hai
nguyên nhân khiến tiêu thụ tăng mạnh. Thứ nhất, nhu cầu vàng nữ trang, thị trường Ấn Độ
hồi phục và nhu cầu từ Trung Quốc gia tăng. Thứ hai, NHTW ở các nước lần đầu tiên trong
21 năm qua chuyển từ trạng thái bán ròng sang mua ròng. Báo cáo cho thấy, tiêu thụ vàng
32
trang sức trong năm 2010 lên tới 2.059,6 tấn, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Động lực
của vàng trang sức đến từ thị trường Ấn Độ và Trung Quốc, chiếm 51% lượng vàng trang
sức và vàng thỏi, tiền vàng của cả thế giới. Nhu cầu nắm giữ vàng thỏi tăng mạnh trong năm qua. Lượng tiêu thụ vàng ở Ấn Độ đã tăng 66% so với năm 2009. Giới đầu tư Trung Quốc
mua vào 179,9 tấn vàng ở dạng thỏi và tiền vàng, tăng 70% so với cùng kỳ năm trước. Tổng
số vàng tiêu thụ ở Trung Quốc năm 2010 là 607,1 tấn, tăng 29% so với năm trước.
Trong khi nhu cầu mua vàng của người dân và NHTW của nhiều nước tăng, thì các
quỹ đầu tư lại giảm lượng nắm giữ, với tổng số lượng mua vào là 338 tấn, giảm 45% so với
năm trước. Trên thị trường quốc tế, quỹ đầu tư hàng đầu thế giới SPDR Gold Trust bán 0,3
tấn vàng nhưng số liệu gần đây cho thấy tổ chức này mua vào nhiều hơn bán ra. Cụ thể, từ
đầu tháng 9/2010 đến nay, SPDR Gold Trust mua vào 17,3 tấn vàng, bán ra 14,4 tấn vàng;
trong tháng 8/2010, tổ chức này mua vào 22 tấn vàng và chỉ bán ra gần 2 tấn vàng. Ngày
28/09/2010, SPDR Gold Trust cũng đã mua vào 5,2 t ấn vàng, nâng khối lượng nắm giữ lên
mức kỷ lục 1.305,7 tấn. Giới kinh doanh vàng cho biết động thái mua - bán của SPDR Gold
Trust thường dẫn dắt thị trường, kéo theo sức mua – bán của nhiều nhà đầu tư khác, tác động
rất lớn đến giá vàng.
Cũng giống như các quỹ lớn trên thế giới, Chính phủ các nước mà điển hình là Trung
Quốc và Ấn Độ đang ngày càng có xu hướng quay sang sử dụng vàng như một phương tiện
cất giữ hiệu quả và thay thế tiền tệ trong các trường hợp hoán đổi quốc tế nhất định. Cụ thể,
Ngân hàng dự trữ Ấn Độ đã chi 6,7 tỷ USD để mua 200 tấn vàng hồi cuối năm 2009 từ IMF
khi giá dao động ở mức hơn 1.000USD/ounce đưa dự trữ vàng chiếm 6% tổng dự trữ ngoại
tệ. Trong khi đó, Trung Quốc liên tục là nước nhập ròng vàng trong vòng 5 năm qua, đưa dự
trữ vàng của nước này từ 600 tấn lên 1.054 tấn. Nước này sẽ còn phải tiếp tục tăng lượng
vàng dự trữ nếu như muốn thế giới chấp nhận đồng Nhân dân tệ làm đồng tiền thanh toán
quốc tế.
Tình hình khủng hoảng kinh tế, sự mất giá của đồng Đô la Mỹ khiến cho đầu tư vào
vàng trở thành sự lựa chọn hàng đầu cho các tổ chức kinh tế lẫn cá nhân. Đồng thời, nguồn
cung vàng ngày càng hiếm trong khi nhu cầu về vàng tăng cao (kể cả vàng sử dụng trong
33
công nghiệp, y tế). Những điều này đã tác động mạnh đến giá vàng, làm giá vàng biến động
mạnh (chủ yếu là tăng mạnh) trong thời gian qua.
4.1.2.3. Sự biến động thuộc các thị trường khác
Dầu là nguồn đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất. Bất cứ sự biến động của giá
dầu mỏ cũng tác động dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế thế giới. Khi giá năng lượng tăng, có thể đẩy các ngành sản xuất dịch vụ nhất là vận chuyển rơi vào khó khăn vì vậy khi giá
dầu tăng quá mức thường gây tác động xấu đến nền kinh tế nhất là gây ra tình trạng lạm
phát, kém tăng trưởng khiến giá cả các loại hàng hóa sản xuất ra trở nên đắt đỏ, dẫn đến tình
trạng lạm phát. Chính vì vậy, giá vàng cũng sẽ biến động theo cùng chiều hướng là tăng theo
giá dầu do nhu cầu đầu tư tránh rủi ro. Vì thế để giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, các nước có nền kinh tế lớn như Nga, Mỹ… có xu hướng xây dựng các kho dự trữ dầu mỏ và
tăng cường dự trữ vàng. Bởi lẽ đây là hai loại hàng hóa không bị mất giá trị.
Tuy nhiên, dầu mỏ dưới vai trò lớn hơn hàng hóa tích trữ, khi giá dầu mỏ tăng tất yếu
dẫn đến hệ quả tiền USD giảm giá trị, và các nước càng có xu hướng nhập vàng về tích trữ,
do đó nhu cầu vàng trên thế giới sẽ tăng và kéo theo sự tăng giá của vàng.
Người ta đã chứng minh được rằng, một trong những nguyên nhân khiến giá vàng
liên tục thay đổi là do nền kinh tế toàn cầu chao đảo bởi sự leo thang chóng mặt của giá dầu mỏ. Giá dầu tăng khiến tỷ lệ lạm phát vọt lên rất nhanh. Ngày 31/01, giá dầu thế giới đã
vượt ngưỡng 100 USD/thùng lần đầu tiên kể từ năm 2008, tăng hơn 1%, do các nhà giao dịch lo ngại những biến động tại Ai Cập có thể làm gián đoạn nguồn cung cấp dầu qua kênh
đào Suez và những dự đoán nhu cầu năng lượng tăng. Giá dầu sau đó liên tiếp chinh phục các đỉnh cao mới là 147,24 USD/thùng thì giá vàng lúc đó cũng lên đến đỉnh kỷ lục là 1032
USD/ounce. Vào tháng 4/2009, giá dầu đã giảm xuống chỉ còn khoảng 50 USD/thùng, mặc
dù đã giảm khoảng 2/3 so với mức kỷ lục ở mùa hè năm trước đó, giá dầu hiện vẫn ở mức
tương đối cao so với những mức giá trong lịch sử. Ngày 31/12, trong phiên giao dịch cuối cùng của năm 2010, giá dầu thế giới đã tăng lên mức cao nhất trong hơn 2 năm qua tại thị
trường New York do ngày càng xuất hiện nhiều dự đoán về việc nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu
toàn cầu sẽ tăng mạnh hơn. Đối với các hợp đồng lớn tại New York, giá dầu thô ngọt nhẹ
34
giao tháng 2/2011 đã đứng ở mức 91,38 USD/thùng tại phiên đóng cửa, tăng tới 1,54
USD/thùng so với ngày 30/12. Cùng ngày, phiên giao dịch cuối cùng của năm 2010, giá vàng duy trì được trên mức 1.400USD/ounce và như vậy tăng được 29,7% trong năm 2010,
mức tăng mạnh nhất trong 3 năm gần đây. Trong năm 2011, giá dầu thô tăng sau khi EU cho
biết các Bộ trưởng có ý định công bố các biện pháp trừng phạt khắc nghiệt hơn về năng
lượng và ngân hàng của Iran. Iran trước đó đã đưa ra đe dọa ngăn chặn dòng chảy d ầu qua
eo biển Hormuz, nơi mà thông qua đó có khoảng 20% lượng dầu của thế giới được vận
chuyển qua, nếu xuất khẩu bị hạn chế. Tình hình trên khiến giá dầu thô giao tháng 2/2011
tăng 26 cents, tương đương 0,3% lên 103,22 USD/thùng trên sàn New York, mức đóng cửa
cao nhất kể từ ngày 10/5/2010. Giá dầu đã tăng 8,2% trong năm 2011, hoàn thành năm tăng
giá thứ 3 liên tiếp. Nguyên nhân chủ yếu khiến giá dầu mỏ tăng, theo nhận định của giới
phân tích, là do đồng USD tiếp tục bị mất giá và sự phục hồi gần đây trên các thị trường
chứng khoán toàn cầu.
Chứng khoán và vàng là hai kênh đầu tư có tính chất thay thế cho nhau, nghĩa là khi
có tiền, nhà đầu tư có thể chọn đầu tư vào chứng khoán, hoặc vàng hoặc cả hai để sinh lời.
Về lý thuyết, luồng vốn đầu tư sẽ dịch chuyển từ kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời thấp sang
kênh đầu tư có tỷ suất sinh lời cao hơn. Trên phương diện này, khi chứng khoán lên, sẽ tạo nhiều cơ hội cho mọi người kiếm lợi nhuận từ thị trường chứng khoán và giảm đầu tư vào
vàng và ngược lại.
Vào tháng 5/2006, sau cú tăng vọt đến trên 30%, giá vàng thế giới đã thực hiện một
cú bổ nhào đến 23% chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là giai đoạn mà thị trường chứng khoán Mỹ và nhiều thị trường chứng khoán quốc tế, trong đó có cả Việt Nam, đang nằm
trong xu thế tăng đều để sau đó tăng mạnh. Vào năm 2007, chứng khoán Mỹ đã tạo đỉnh rồi bắt đầu chu kỳ sụt giảm. Cũng trong thời gian đó, giá vàng thế giới đã tăng liên tục 50%,
nhưng từ tháng 3/2008 đã giảm liên tục trong 8 tháng sau với tỷ lệ khoảng 23%. Thị trường chứng khoán và hàng hóa đã quay đầu giảm đột ngột trong năm 2008 do nền kinh tế toàn
cầu rơi vào khủng hoảng. Mặc dù các chỉ số chứng khoán đã hồi phục phần nào nhưng
những biến động vẫn tiếp tục được duy trì và nhiều nhà đầu tư thận trọng trong kế hoạch bảo
35
vệ vốn của mình. Trong khi các tài sản khác như bất động sản và hàng hóa mất đi giá trị thì
vàng vẫn được coi là một tài sản an toàn cho giới đầu tư - những người đang tìm cách bảo vệ
bản thân trong suốt thời kỳ kinh tế đầy khó khăn.
Phiên giao dịch ngày 10/8/2011, thị trường chứng khoán Mỹ, Châu Âu một lần nữa
rơi vào trạng thái hoảng loạn, nhà đầu tư bán tống bán tháo các loại cổ phiếu tài chính, ngân hàng nâng khối lượng giao dịch toàn thị trường lên gần gấp đôi mức trung bình hàng ngày từ
đầu năm. Nỗi lo sợ cuộc khủng hoảng nợ Châu Âu có thể tác động xấu đến các ngân hàng
Pháp và dần lan sang hệ thống tài chính Mỹ đã khiến các chỉ số chính trên Phố Wall bốc hơi
hơn 4%, trong khi cũng lấy đi của các sàn Châu Âu ít thì hơn 3%, nhiều thì trên 5%. Đây là
phiên thứ hai kể từ đầu tuần tới nay, các sàn chứng khoán thế giới chòng chành dữ dội, khiến
giới đầu tư hoang mang, tìm cách tháo chạy khỏi lĩnh vực kinh doanh cổ phiếu. Nhiều người
đã phải tìm tới vàng như một kênh trú ẩn an toàn.
Kết thúc phiên ngày 10/8/2011, giá vàng quốc tế một lần nữa xác lập kỷ lục. Cụ thể,
giá vàng giao tháng 12/2011 chốt ở mức 1.784,3 USD/ounce, tăng 2,4% so với phiên trước
đó. Đến 6h10 theo giờ Việt Nam, giá vàng đã lên 1.804,9 USD/ounce. Trước đó, kỷ lục của
giá vàng được thiết lập ở mức 1.816,1 USD/ounce. Giá vàng giao ngay tăng 1,5% lên 1.769
USD/ounce, dù trong phiên giao dịch chính thức có thời điểm đã tăng hơn 3% lên 1.796,86 USD/ounce. Tuy nhiên, đến 6h10 theo giờ Việt Nam, giá vàng này đã leo lên tới 1.806,54
USD/ounce. Tính tới hết phiên hôm qua, giá vàng đã tăng 7% trong tuần này và tăng 20% kể
từ tháng 6/2011.
Mối lo lắng về tiềm lực tài chính của các ngân hàng Pháp đã châm ngòi cho làn sóng bán tháo cổ phiếu ngân hàng của Châu Âu, Mỹ và đẩy giá mặt hàng vàng t ăng đột biến. Chỉ
số ngân hàng Châu Âu rớt 6,7%, chỉ số KBW của các ngân hàng Mỹ trượt 4,9%. Giá vàng cao kỷ lục và chưa có dấu hiệu chững lại cho thấy niềm tin vào đồng USD và đồng Euro đã
bị đổ vỡ, khi kinh tế Mỹ và Eurozone ngày càng lao đao. Giới đầu tư đang thá o chạy khỏi
chứng khoán để đổ sang vàng, bất chấp giá vàng cao ngất ngưỡ ng.
Nhiều người nghĩ rằng, năm 2011 là phần tiếp theo của cuộc khủng hoảng năm 2008.
Vào thời điểm năm 2008, chỉ bằng việc hạ xếp hạng tín dụng, hãng xếp hạng tín nhiệm
36
Standard & Poor's đã khiến một loạt các ngân hàng đầu tư sụp đổ.Và điều đó có vẻ đang lặp
lại, khi cuối tuần trước tổ chức định mức tín dụng Standard & Poor's hạ bậc tín nhiệm nợ của Mỹ, và tiếp sau đó các thị trường chứng khoán thế giới chao đảo dữ dội trong phiên giao
dịch đầu tuần 8/8/2011 kéo theo sự biến động mạnh của giá vàng thế giới vào cuối năm
2011.
Kinh tế thế giới chao đảo hình thành nên "cơn lốc sa thải" với tốc độ lây lan nhanh
chóng. Trong số các doanh nghiệp buộc phải cắt giảm việc làm, xuất hiện cả những cái tên
"đình đám" nhất như: Yahoo, General Electric, Coca -Cola, Goldman Sachs, Citigroup... và tất nhiên là có cả các hãng xe hơi nổi tiếng.
Tại Mỹ, hàng ngàn người đã bị sa thải sau khi nhiều ngân hàng, công ty bị phá sản.
Tính riêng trong tháng 10/2008 vừa qua có khoảng 240.000 người mất việc, đưa tỷ lệ thất
nghiệp ở quốc gia này tăng lên mức 6,5% (so với 6,1% của tháng 9), mức cao nhất trong 14
năm qua. Mất việc làm được ghi nhận ở phần lớn 274 ngành, chỉ có 37,6% ngành nhận thêm
người trong tháng 10, trong đó ngành y tế nhận nhiều người mới nhất, 26.000 người. Các
ngành sản xuất hàng hoá giảm 132.000 việc làm, ngành cơ khí giảm 90.000 việc làm, ngành
xây dựng giảm 49.000 việc làm. Trong ngành dịch vụ, 108.000 người mất việc, trong đó
38.000 việc trong ngành bán lẻ, 24.000 trong ngành dịch vụ tài chính và 51.000 trong các nghề hỗ trợ tạm thời. Mặc dù Tổng thống mới đắc cử Barack Obama hứa sẽ tạo thêm 2,5
triệu việc làm và cân nhắc phương án đầu tư 700 tỷ USD vào hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng để đưa nền kinh tế tăng trưởng trở lại bên cạnh mục đích an sinh xã hội , nhưng cơn lốc
sa thải vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại và sẽ liên tục tăng cho đến khoảng nửa đầu năm
2009...
Tình hình Châu Âu cũng bất ổn không kém. Một loạt các hãng, tập đoàn lớn của Anh đã tuyên bố cắt giảm nhân viên khiến tỷ lệ thất nghiệp của nước này đã t ăng lên mức cao nhất trong 11 năm qua. Cụ thể tập đoàn dịch vụ viễn thông BT lớn nhất Anh đã công bố kế
hoạch cắt giảm 10.000 nhân viên trên phạm vi toàn cầu. Thông tin này đã gây ra cú sốc trên
thị trường lao động nước Anh. Trước đó, các hãng Virgin Media, Yell và GlaxoSmithKline
thông báo cắt giảm 5.000 việc làm. Rolls-Royce, nhà sản xuất động cơ máy bay của Anh
37
cũng có kế hoạch cắt giảm tới 2.000 việc làm trên khắp thế giới vào năm tới. Nhà sản xuất
quốc phòng BAE Systems cũng giảm 200 việc làm. Như vậy tính đến hết quý III/2008 số người thất nghiệp của nước Anh là 1,82 triệu người, số việc làm mới được tạo ra giảm xuống còn 589.000. Dự tính trong thời gian tới tỷ lệ thất nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa. Tại Pháp,
trong tháng 8/2008 số người thất nghiệp tăng thêm 40.000 người. Theo dự báo Tổ Chức Hợp
Tác và Phát Triển Kinh Tế, OCDE, nước Pháp sẽ có tỷ lệ thất nghiệp là 8,5% vào cuối 2009,
và khoảng 9% trong năm 2010...
Ở phương Đông, bên bờ Thái Bình Dương tưởng như êm ả, Trung Quốc cũng đang phải vật lộn với làn sóng sa thải lớn chưa từng có. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2008 có thêm
10,2 triệu người mất việc, trong quý III/2008, nhu cầu tuyển lao động giảm xuống còn 5,5%.
Trước tình hình đó, Trung Quốc đã phải công bố một loạt biện pháp như trợ giúp tài chính
để giúp các công ty giữ nhân công và hỗ trợ những người mất việc làm.
Theo tổ chức Lao động Thế giới (ILO), nếu các biện pháp thích hợp nhằm hỗ trợ việc
làm không được thông qua hoặc không được tiếp tục thực hiện, sẽ có hơn 40 triệu lao động
tại 51 quốc gia trên thế giới gia nhập đội quân thất nghiệp. Trong đó, năm 2009, tỷ lệ thất
nghiệp tại khu vực đồng euro cao nhất trong 12 năm qua với 9,8% tính đến tháng 10/2009.
Tại Mỹ, FED ngày 24/11 khẳng định tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên 10,2% trong tháng 10/2009 với thêm 190.000 việc làm bị mất. Đây là mức thất nghiệp cao nhất kể từ năm 1983.
Tỉ lệ thất nghiệp tăng làm giới đầu tư sống lại hy vọng FED sẽ có thêm sự nới lỏng tiền tệ, điều này đã hỗ trợ thị trường vàng v à các hàng hóa tăng.
4.2. Phân tích các yếu tố tác động đến giá vàng trong nước từ năm 2007 đến năm 2011
4.2.1. Biến động giá vàng trong nước giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011
Năm 2007, năm kinh tế thế giới bắt đầu đối mặt với những dấu hiệu đầu tiên của cuộc khủng hoảng kinh tế mới và nơi bắt đầu chín h là nước Mỹ. Đồng đô la Mỹ giảm giá liên tục
so với các ngoại tệ khác, giá dầu thô tăng, khủng hoảng thị trường bất động sản kéo theo tình
trạng khủng hoảng kinh tế của Mỹ với hàng loạt các tổ chức tín dụng lâm vào cảnh phá sản.
“Cơn địa chấn” từ Mỹ lan ra thế giới ngày càng nhanh, liên tục đến các nước Châu Âu, Châu
38
Á trở thành nạn nhân tiếp theo của cuộc khủng hoảng kinh tế. Trước các biến động đó, vàng
trở thành nơi trú ẩn an toàn cho giới đầu tư. Giá vàng thế giới liên tục tăng trong năm 2007, đặc biệt vào ba tháng cuối năm và vượt kỷ lục khi đạt mốc 840 USD/ounce vào tháng 11/2007. Giá vàng trong nước cũng không nằm ngoài sự biến động của giá vàng thế giới khi
liên tục thay đổi. Đầu năm 2007, theo dữ liệu từ Ngân hàng TMCP Á Châu, giá vàng SJC
giao dịch ở mức 12,25 triệu/lượng, sang ngày 27/02 giá vàng đã đạt 13,1 triệu đồng/lượng và
liên tục điều chỉnh trong ngày do ảnh hưởng của mức tăng giá vàng thế giới. Mức tăng của
giá vàng lần lượt được lập kỷ lục vào ngày 20/09 mức 14,15 triệu đồng/lượng, ngày 2 9/10
mức 15,28 triệu đồng/lượng và mức đỉnh trong năm là vào ngày 08/11 ở mức 16,2 triệu
đồng/lượng. Tuy trong năm có những đợt giá vàng điều chỉnh giảm theo xu hướng của giá
vàng thế giới nhưng nhìn chung cả năm đà tăng của vàng được duy trì suốt.
Đồ thị 4.7. Giá vàng SJC năm 2007
16.500.000
16.000.000
15.500.000
15.000.000
14.500.000
14.000.000
g n ợ ư
l /
13.500.000
g n ồ đ
13.000.000
12.500.000
12.000.000
11.500.000
11.000.000
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
7 0 0 2 1 0 1 0
7 0 0 2 2 0 1 0
7 0 0 2 3 0 1 0
7 0 0 2 4 0 1 0
7 0 0 2 5 0 1 0
7 0 0 2 6 0 1 0
7 0 0 2 7 0 1 0
7 0 0 2 8 0 1 0
7 0 0 2 9 0 1 0
7 0 0 2 0 1 1 0
7 0 0 2 1 1 1 0
7 0 0 2 2 1 1 0
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
Bức tranh thị trường vàng trong nước trở nên sôi động kể từ năm 2008, khi khủng
hoảng kinh tế toàn cầu đưa vàng lên ngôi, trở thành vật bảo chứng tài sản thuộc loại an to àn
bậc nhất, và cũng là lúc sự liên thông với thị trường thế giới . Giá vàng trong nước đã trải qua
2 đợt sóng lớn vào tháng 3 và tháng 7 khi vượt qua mức 19 triệu đồng/lượng, sau đó lại giảm
39
mạnh về cuối năm. Theo số liệu từ Ngân Hàng TMCP Á Châu, giá vàng SJC trong nước đạt
mức cao kỷ lục là 19,35 triệu đồng/lượng vào ngày 17/3/2008 và 15/7/2008, mức thấp nhất là 16,10 triệu đồng/lượng vào ngày 24/10/2008. Tính bình quân cả năm 2008, giá vàng xoay
quanh mức 17,64 triệu đồng/lượng. Mặc dù những đợt sóng tăng giảm khá giống nhau, nhưng diễn biến tâm lý nhà đầu tư cũng đã có sự khác biệt. N ếu như đợt tháng 3, giá vàng càng tăng mạnh, thậm chí cao hơn giá vàng thế giới gần 2 triệu đồng/lượng thì nhà đầu tư trong nước lại đua nhau mua vào. Nhưng vào những đợt tăng giá sau đó, mặc dù giá vàng
vẫn có xu hướng tăng, nhưng nhà đầu tư lại có tâm lý bán ra thay vì mua vào. Những thời điểm gần cuối năm, giá vàng thế giới thậm chí có những lúc lại cao hơn giá vàng trong nước
cả triệu đồng, nhưng lực mua lại rất yếu.
Đồ thị 4.8. Giá vàng SJC năm 2008
20.000.000
19.500.000
19.000.000
18.500.000
18.000.000
17.500.000
g n ợ ư
l /
17.000.000
16.500.000
g n ồ đ
16.000.000
15.500.000
15.000.000
14.500.000
14.000.000
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
8 0 0 2 1 0 1 0
8 0 0 2 2 0 1 0
8 0 0 2 3 0 1 0
8 0 0 2 4 0 1 0
8 0 0 2 5 0 1 0
8 0 0 2 6 0 1 0
8 0 0 2 7 0 1 0
8 0 0 2 8 0 1 0
8 0 0 2 9 0 1 0
8 0 0 2 0 1 1 0
8 0 0 2 1 1 1 0
8 0 0 2 2 1 1 0
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
Năm 2009 chứng kiến sự xuất hiện liên tiếp những mốc giá vàng chưa từng có trong
lịch sử, đồng thời cũng ghi nhận những biện pháp can thiệp tích cực nhằm bình ổn thị trường của ngân sách Nhà nước. Trong 3 quý đầu năm 2009, giá vàng SJC biến động tăng từ mức 17,84 triệu đồng/lượng vào đầu năm 2009 đã tăng lên mức 22,35 triệu đồng/lượng vào ngày 17/09/2009 (mức giá cao nhất trong 9 tháng đầu năm). Lượng cầu mua vàng trong nước
40
ngày một tăng trong mọi người dân càng gia tăng sức ép lên giá vàng. Dù có lúc giá vàng
trong nước giảm nhưng đà phục hồi nhanh chóng được khôi phục lại theo hướng đi lên.
Thị trường vàng chỉ thật sự tăng mạnh trong quý 4/2009 và dấu mốc quan trọng n hất
của thị trường vàng trong năm qua có lẽ là việc vàng SJC vượt mức 22 triệu đồng đạt 23,05 triệu đồng/lượng vào ngày 07/10/2009 khi giá vàng thế giới phá vỡ mức kỷ lục 1.033
USD/ounce vào ngày 6/10/2009, cũng như việc thiết lập mức kỷ lục mới tại 1.226,5
USD/ounce vào ngày 2/12/2009 của vàng thế giới và ngày lập tức vàng trong nước vượt xa
mốc 27 triệu đồng để đạt mức 28,47 triệu đồng/lượng vào ngày 03/12/2009 . Đáng chú ý là giá trong nước luôn bỏ xa giá thế giới, có lúc lên tới 1,2 – 1,3 triệu đồng/lượn g, trong khi đó
lượng khách mua vàng lại không ngừng tăng, tạo “cơn sốt” trên thị trường vàng trong nước.
Việc chứng kiến sự tăng giá điên đảo của vàng, với 18 -19 triệu đồng/lượng những
tháng đầu năm nhưng đến cuối năm đã ở mức 27 -29 triệu đồng/lượng. Loại trừ yếu tố tăng
giá của thị trường thế giới, giá vàng trong nước đã diễn biến quá phức tạp, chịu nhiều tác
động bởi yếu tố kỳ vọng của nhà đầu tư, của những tin đồn và yếu tố tâm lý. Kết thúc năm
2009, để lại cho giới đầu tư lẫn những người dân lao động bình thường sự “ấn tượng” về một
năm tăng chóng mặt và “ồn ào” của giá vàng trong nước.
Đồ thị 4.9. Giá vàng SJC năm 2009
27.500.000
26.000.000
24.500.000
g n ợ ư
23.000.000
l /
g n ồ đ
21.500.000
20.000.000
18.500.000
17.000.000
01/01/2009
01/02/2009
01/03/2009
01/04/2009
01/05/2009
01/06/2009
01/07/2009
01/08/2009
01/09/2009
01/10/2009
01/11/2009
01/12/2009
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
41
Mở cửa năm 2010 ở 26,7 triệu đồng/lượng, giá vàng trong nước đều đặn đi lên , dần
tăng tốc vào tháng 8 và đạt mốc 36,04 triệu đồng/lượng vào ngày 30/12/2010. Trong năm, thị trường vàng trải qua hai cú sốc lớn vào tháng 2/2010 và tháng 11/2010.
Ngày 05/02/2010, người dân nháo nhào khi chỉ sau một đêm, mỗi lượng vàng mất 1,5 triệu đồng/lượng, xuống quanh mức 25 triệu đồng/lượng, tuy nhiên, đà giảm chỉ kéo dài được 3 ngày. Vào lúc giá thấp, người dân ồ ạt đi mua vào, khiến cho một số cửa hàng không còn vàng để bán, đẩy giá quay lại mức trước đó là 26 triệu đồng/lượng vào ngày 11/02/20 10.
Nhưng cơn sốt vàng tháng 11/2010 mới là cú sốc thực sự của giá vàng trong năm 2010. Ngay từ đầu tháng 11/2010, thị trường vàng không ngừng thiết lập các kỷ lục mới việc vượt
mốc 33 triệu đồng/lượng vào đầu tháng, 34 triệu đồng/lượng vào ngày 04/11/2010 , 35 triệu
đồng/lượng vào ngày 06/11/2010 rồi ngay lập tức vượt luôn mốc 36 triệu đồng/lượng vào
ngày 09/11/2010 chỉ trong vòng một tuần lễ. Trong khi giá mỗi lúc một đắt thì người dân
vẫn ùn ùn đi mua vàng, trong khi thế giới điều chỉnh giảm thì giá trong nước vẫn đều đều
thẳng tiến. Điều bất thường này càng khiến thị trường rơi vào “vòng xoáy điên loạn” hơn khi
giá tăng từng giờ và nhảy lên kỷ lục chưa từng thấy.
Đồ thị 4.10. Giá vàng SJC năm 2010
36.500.000
35.000.000
33.500.000
32.000.000
g n ợ ư
l /
30.500.000
g n ồ đ
29.000.000
27.500.000
26.000.000
24.500.000
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
0 1 0 2 1 0 1 0
0 1 0 2 2 0 1 0
0 1 0 2 3 0 1 0
0 1 0 2 4 0 1 0
0 1 0 2 5 0 1 0
0 1 0 2 6 0 1 0
0 1 0 2 7 0 1 0
0 1 0 2 8 0 1 0
0 1 0 2 9 0 1 0
0 1 0 2 0 1 1 0
0 1 0 2 1 1 1 0
0 1 0 2 2 1 1 0
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
42
Thị trường vàng Việt Nam năm 2011 đã trải qua rất nhiều biến động, để lại những
dấu ấn khó phai mờ, cả những dấu ấn âu lo, những niềm vui bất chợt và sự hồ nghi e ngại đến tận những ngày cuối năm. Giá vàng trong nước khởi động ở mức 35,8 triệu đồng/lượng khi giá thế giới dao động nhẹ quanh 1.370 USD/ounce vào đầu năm 2011 sau khi đã xác lập
kỷ lục cao nhất là 1.432 USD/ounce vào ngày 7/12/2010. Ngay sau khi Việt Nam điều chỉnh
tỷ giá tăng kỷ lục tới 9,3% vào ngày 11/2/2011 thì cỗ xe giá vàng bắt đầu bứt p há lên mức
36 triệu đồng lượng mặc dù giá vàng thế giới không ghi nhận biến động nào đáng kể.
Chỉ 1 tuần sau đó, giá vàng phá ngưỡng 37 triệu đồng/lượng và “cơn sốt vàng” xuất
hiện sớm ngay trung tuần tháng 2/2011, chỉ 3 tháng sau cơn sốt ngày 11/11/2010, với giá
vàng biến động liên tục, tăng mạnh vào buổi sáng, giảm nhẹ vào buổi trưa rồi lại tăng vào
buổi chiều và ổn định đến cuối ngày. Ngưỡng giá 37,5 triệu đồng/lượng bị phá cùng lúc giá
vàng thế giới ở mức 1.384 USD/ounce. Không dừng lại ở đó, ngày 19/2/2011, giá vàng lại
vượt 38 triệu đồng/lượng rồi 38,5 triệu đồng/lượng và giá vàng thế giới xấp xỉ 1.390
USD/ounce trước khi lên đến 1.400 USD/ounce vào ngày 21/2/2011 . Sau khi Chính phủ
“đánh động” về khả năng cấm kinh doanh vàng miếng đồng thời siết chặt quản lý thị trường
ngoại tệ tự do nhằm thực thi Nghị quyết 11/2011/NQ-CP thì thị trường vàng lập tức hạ sốt
với giá vàng lùi về dưới 38 triệu đồng/lượng và giá USD tự do xoay quanh 22.000 đồng
trong khi giá vàng thế giới vẫn bám trụ ở mốc 1.410 USD/ounce vào đầu tháng 3/2011. Đầu
tháng 4/2011, giá vàng thế giới lại lập kỷ lục mới trên 1.460 USD/ounce, theo đó, giá vàng
trong nước lại vượt qua mốc 37 triệu đồng/lượng. Theo đà tăng của vàng thế giới, giá vàng
tại Việt Nam lại vượt mốc 38 triệu/lượng vào gần cuối tháng 4/2011. Khi giá thế giới lập kỷ lục 1.624 USD/ounce thì giá trong nước cũng nhanh chóng tiệm cận rồi vượt qua mốc 40
triệu đồng/lượng ngày 25/7/2011. Sang đầu tháng 8/2011, giá vàng lên sát 41 triệu đồng/lượng khi vàng thế giới vượt qua 1.660 USD /ounce.
Sau cú sốc hạ mức tín nhiệm của Mỹ, giá vàng thế giới bùng nổ lên sát 1.700
USD/ounce và giá vàng Việt Nam tăng 3,5 triệu đồng mỗi lượng trong ngày 8/8/2011 lên tới
44,2 triệu đồng/lượng - cao hơn giá thế giới tới 2 triệu đồng/lượng - rồi lại rơi về 43,2 triệu đồng/lượng ngay trong ngày . Ngày 24/8/2011, giá vàng tuột dốc xuống 47,6 triệu đồng với
43
mức giảm gần 1,5 triệu đồng/lượng do đà tuột dốc trên thị trường thế giới khi các nhà đầu tư
ào ạt chốt lời với giá thế giới xuống sát 1.820 USD một ounce, mất gần 90 USD so với đỉnh
cao.
Cuối tháng 9/2011, thị trường vàng Việt nam lại chứng kiến cảnh hỗn loạn đội mưa
để bán vàng khi giá vàng lao dốc xuống 41 triệu đồng/lượng. Đến cuối tháng 10/2011 giá vàng lại đột ngột đảo chiều lên 1.700 USD/ounce sau hơn một tháng dao động trong vùng
1.600 USD/ounce khiến cho vàng trong nước lại leo lên 45 triệu đồng/lượng. Khép lại một
năm biến động đầy kịch tính, giá vàng cuối năm 2011 dao động nhẹ quanh mốc 1.600 USD/ounce trên thị trường quốc tế và 43 triệu đồng/lượng trên thị trường Việt Nam. Tính
chung cả năm, giá vàng cuối năm 2011 tăng 24,09% so với cuối năm trước nhưng tính bình
quân lại tăng tới 39%.
Đồ thị 4.11. Giá vàng SJC năm 2011
48.000.000
46.000.000
44.000.000
42.000.000
g n ợ ư
l /
40.000.000
g n ồ đ
38.000.000
36.000.000
34.000.000
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
1 1 0 2 1 0 1 0
1 1 0 2 2 0 1 0
1 1 0 2 3 0 1 0
1 1 0 2 4 0 1 0
1 1 0 2 5 0 1 0
1 1 0 2 6 0 1 0
1 1 0 2 7 0 1 0
1 1 0 2 8 0 1 0
1 1 0 2 9 0 1 0
1 1 0 2 0 1 1 0
1 1 0 2 1 1 1 0
1 1 0 2 2 1 1 0
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
44
4.2.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng trong nước từ năm 2007 đến năm
2011
4.2.2.1. Tình hình kinh tế trong nước
Nổi bật về kinh tế trong nước giai đoạn 2007 – 2011 là các vấn đề về lạm phát, lãi
suất, đầu tư công kém hiệu quả, thâm hụt cán cân thương mại, tỷ giá do áp lực từ cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới.
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện cam kết quy chế thương mại bình thường vĩnh
viễn với Hoa Kỳ. Do đó, thị trường xuất khẩu m ở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam
với các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế. Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế
Việt Nam năm 2007. Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với thu hút vốn FDI đạt kỷ lục
17,8 tỷUSD và kinh tế tăng trưởng 8,4%.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bùng nổ năm 2008 đã tác động mạnh mẽ lên
nền kinh tế Việt Nam và gây ảnh hưởng nặng nề tới tất cả các chủ thể trong nền kinh tế. Nền
kinh tế Việt Nam trong năm 2008 và những tháng đầu năm 2009 đã trải qua những trạng thái
hoàn toàn trái ngược từ quá nóng sang quá lạnh. Những tháng đầu năm 2008 do giá nguyên
liệu, dầu mỏ và lương thực tăng chóng mặt kèm theo chính sách nới lỏng tiền tệ và tài khóa
một cách quá mức của chính phủ trong những năm trước đây đã tạo là chỉ số giá tiêu dùng
tăng vọt ở mức cao nhất trong vòng 17 năm qua lên đến 23%. Đồng thời với đó do nền kinh
tế phát triển quá nóng dẫn tới đầu tư tràn lan kém hiệu quả gây ra nhập khẩu tăng vọt đẩy
thâm hụt thương mại lên mức kỉ lục là 17 tỷ USD. Mức thâm hụt lớn này gây sức ép lên VND và khiến VND có khả năng bị mất giá nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh khó khăn đó
chính phủ Việt Nam đã thực thi hàng loạt các biện pháp cấp bách n hư thắt chặt tiền tệ (lãi suất cơ bản có lúc đã đẩy lên đến mức 14%), siết chặt đầu tư công và chi tiêu chính phủ
bằng việc đình hoãn, hủy bỏ hàng loạt các dự án chưa cấp bách. Các chính sách này đã tỏ ra
45
hiệu quả khi lạm phát đã hạ nhiệt vào các tháng cuố i năm, thâm hụt thương mại giảm bớt
qua đó tỷ giá VND/USD đã trở nên cân bằng và ổ n định hơn.
Tuy nhiên ngay sau đó tháng 10/2008, Chính phủ lại chuyển hướng chính sách, tập
trung chống suy giảm kinh tế cùng tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và an si nh xã hội.
Chính sách tiền tệ được nới lỏng dần và từ tháng 12/2008, một gói 6 tỷ USD kích thích kinh
tế được chính thức triển khai nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển
kết cấu hạ tầng, kích thích tiêu dùng và giảm thiểu khó khăn xã hội. Trong bối cảnh có
những biến động không thuận của thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta năm 2008 đã
chậm lại, còn 6,2% so với 8,5% năm 2007.
Ngay từ đầu năm 2009, trước những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn
cầu và ngăn chặn s uy giảm kinh tế, chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế. Gói kích cầu
có giá trị 143.000 tỷ đồng (tương đương 8 tỷ USD) của Chính phủ, sau đó tăng lên 160
nghìn tỷ đồng (tương đương 9 tỷ USD) chủ yếu là chính sách hỗ trợ lãi suất tín dụng, miễn
giảm thuế, khuyến khích xuất khẩu, kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Việc thực hiện cơ chế hỗ
trợ lãi suất cùng với việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới
lỏng làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao gây nguy cơ tá i lạm
phát, gây đột biến trên thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản.
Dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quá trình suy giảm kinh tế
của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ
ở các quý sau. Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng hơn một thập kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới ha i
con số.
Năm 2010 lạm phát tăng cao (11,75%), nhập siêu cả năm là 12,37 tỉ đô la Mỹ, giá
vàng tăng mạnh và cao hơn giá vàng thế giới, tiền đồng mất giá hơn 9,68%, chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do quá rộng (có lúc là 2.000 đồng/đô la Mỹ),
đầu tư công tràn lan kém hiệu quả là những bất ổn vĩ mô tác động mạnh đến đời sống người dân, doanh nghiệp và cả nền kinh tế nói chung trong năm. Cuộc đua lãi suất quyết liệt giữa
46
các ngân hàng trong năm qua đã lên đến đỉnh, khi lãi suất hu y động có thời điểm đạt
17%/năm. Bằng sự can thiệp của NHNN, lãi suất hạ nhiệt nhưng vẫn đứng ở mức cao và đã xuất hiện hiện tượng hai lãi suất. Đây chính là gánh nặng lớn nhất đối với doanh nghiệp
trong năm qua. Từ chỗ được hỗ trợ lãi suất 4% trong năm 20 09, sang đầu năm 2010 doanh nghiệp phải chịu lãi suất vay vốn trên 10%, rồi tăng dần đến 16 -18%/năm, thậm chí có lúc
hơn 20%.
Năm 2011 là một năm khó khăn đối với nền kinh tế trong nước. Về lạm phát, mặc dù
các biện pháp kiềm chế lạm phát và ổn định vĩ mô được Chính phủ tập trung triển khai quyết liệt đã khiến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 9 tháng đầu năm giảm đáng kể song theo số
liệu của Tổng cục Thống kê, tính chung cả năm 2011, lạm phát vẫn ở mức cao 18,58% - cao
hơn dự đoán trước đó của các bộ ngành và các chuyên gia. Hệ thống ngân hàng đã lộ rõ
nhiều điểm yếu nguy hiểm: tỷ trọng sở hữu chéo cao, đạo đức kinh doanh xuống thấp, những
cuộc đua lãi suất không ngừng và có dấu hiệu "sa lầy" vào bất động sản, nợ xấu gia
tăng...Hàng loạt vụ vỡ nợ tín dụng đen dây chuyền xảy ra trên nhiều địa phương và hàng loạt
các doanh nghiệp bị phá sản do khả năng tiếp cận vốn bị suy giảm tạo thêm khó khăn cho
nền kinh tế trong năm 2011. Trong bối cảnh đó, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11 ngày
24/02/2011 nhằm thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, kiềm chế nhập siêu... và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù lạm phát vẫn cán
mốc trên 18% nhưng những dấu hiệu cải thiện vĩ mô rõ rệt vào thời điểm cuối năm cũng như các định hướng tái cấu trúc kinh tế, cắt giảm lãi suất, thoái vốn ngoài ngành, tăng hiệu quả
đầu tư công...cho thấy hiệu quả của Nghị quyết 11 này.
Chính sự bất ổn của nhiều yếu tố nêu trên tác động lên nền kinh tế trong nước nên
nhà đầu tư đã chọn vàng để đảm bảo đồng vốn kinh doanh, tránh bị ảnh hưởng bởi lạm phát.
4.2.2.2. Tình hình cung cầu vàng trong nước
Nguồn cung vàng chủ yếu trên thị trường vàng trong nước là từ hạn ngạch nhập khẩu
vàng Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng. Theo thông báo bằng văn bản trả lời của Thống đốc NHNN Việt nam ngày 22/11/2010 Nguyễn Văn Giàu số vàng nhập
47
khẩu là 339,86 tấn, và xuất khẩu là 268,86 tấn (tức con số nhập siêu vàng vào khoảng 71
tấn).
Bảng 4.1. Thống kê tình hình xuất nhập khẩu vàng
Nhập khẩu (tấn)
Xuất khẩu (tấn)
Năm
0,52
1998
3,7
0,53
1999
6,7
0,61
2000
7,69
2001
7,57
1,3
2002
7,92
15,38
2003
7,35
43,06
2004
9,34
8,32
2005
9,43
96,67
2006
8,54
58,01
2007
12,18
96,38
2008
28,31
12,21
2009
87,25
6,86
9 tháng/2010
72,87
339,86
268,86
Tổng
Theo các báo cáo của WGC, lượng tiêu thụ vàng năm 2009 của Việt Nam là 73,3 tấn tương đương 0,8544 gram/người, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.900 USD. Ấn Độ, nước sử dụng vàng lớn nhất thế giới, tiêu thụ 578,5 tấn tương đương 0,4874 gram/người, thu nhập trung bình đạt 3.100USD. Trung Quốc tiêu thụ 457,8 tấn tương đương 0,3418
gram/người, thu nhập bình quân đầu người là 6.600USD. Đối với mức thu nhập bình quân tương đương, lượng tiêu thụ vàng tính bình quân đầu người của Việt Nam cao gấp 2 lần so
với Ấn Độ và ca o gấp 5 lần Trung Quốc. Tổng lượng vàng tiêu thụ ở Việt Năm trong năm 2010 là 81,4 tấn, tăng 11% so với năm trước. Trong đó, tiêu thụ vàng trang sức trong năm
2010, là 14,4 tấn, giảm 5% so với năm trước. Trong bối cảnh giá tăng 30%, mức giảm như
vậy, theo báo cáo, chứng tỏ nhu cầu vẫn khá lớn. Về đầu tư vàng, Việt Nam tiêu thụ 67 tấn,
tăng 15% so với năm trước. Báo cáo ghi nhận lượng cầu tăng mạnh trong quý cuối cùng của năm 2010, với 21,4 tấn, tăng 67% do “sức ép lạm phát và tiền đồng giảm giá”.
48
Theo báo cáo về xu hướng nhu cầu vàng năm 2011 (Global Demand Trends Report)
mà WGC công bố tháng 03/2012, Việt Nam đã vươn lên xếp thứ 8 thế giới về mức tiêu thụ kim loại quý này với mức tiêu thụ: 100,3 tấn, tăng 23% so với năm 2010. Trong năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu 35-38 tấn vàng. Trong khi đó, nhu cầu tiêu thụ vàng trong nước tăng
23% từ 81,4 tấn năm 2010 lên 100,3 tấn năm 2011. Đáng nói là xu hướng đầu tư vàng miếng
và vàng thỏi của người dân đã trở thành một kênh mới trong thời điểm lạm phát tăng cao, thị
trường chứng khoán xuống dốc và đồng nội tệ mất giá.
Nguồn cung hạn chế kết hợp với nhu cầu cao ngày càng cao về vàng trong dân (do
lạm phát, khả năng sinh lời cao của vàng, thói quen mua vàng cho dịp cưới xin…) đã gây áp
lực lên giá vàng trong nước. Ngoài ra, nguồn cung không đáp ứng đủ cầu còn do nguyên
nhân các doanh nghiệp kinh doanh vàng xuất khẩu vàng ra nước ngoài dưới dạng vàng trang
sức đã góp thêm “sức nóng” trên thị trường vàng.
4.2.2.3. Tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ và Việt Nam đồng
Mối quan hệ giữa vàng và đô la Mỹ bắt nguồn từ thực tế rằng vàng được coi là công
cụ hữu hiệu để phòng ngừa lạm phát nhờ vào giá trị ổn định, trong khi đó, đô la Mỹ thể hiện
vị thế của mình thông qua mức lãi suất được neo theo tỷ giá đô la. Khi giá trị trao đổi của đô
la Mỹ giảm đi, phải mất nhiều đô la hơn để mua được vàng, nên giá trị của vàng được nâng lên. Ngược lại, khi giá trị trao đổi của đô la Mỹ tăng lên, cần ít đô la hơn để mua được vàng,
dẫn đến việc giá trị vàng tính bằng đô la giảm xuống.
Khác với tiền tệ, trái phiếu chính phủ, và cổ phiếu doanh nghiệp – đều được quyết
định bởi cung cầu cũng như khả năng phát hành của chính phủ hay các doanh nghiệp – vàng gần như độc lập với cung và cầu, cũng không hề liên quan đến việc thay đổi các chính sách
tiền tệ hay chính sách công ty, cũng như sự xuất hiện của các nguồn vốn, khoản nợ hay đồng
tiền mới.
Nhìn lại thị trường vàng và tỷ giá trong nước từ tháng 8/2010 đến nay, qua từng giai
đoạn, có thể thấy vàng có sự liên thông chặt chẽ đến tỷ giá.
49
Cụ thể, mốc thứ nhất: từ tháng 8 đến 24/9/2010, sau khi NHNN điều chỉnh tỷ giá
ngày 19/8/2010, tỷ giá ổn định quanh giá trần nhờ nguồn cung ngoại tệ từ xuất khẩu vàng trang sức với mức tương đương 1,2 tỷ USD trong tháng 8 và 9/2010. Điều này là hợp lý vì
khi cung cầu ngoại tệ (không tính yếu tố vàng) ổn định, tỷ giá chịu ảnh hưởng lớn từ xuất -
nhập khẩu vàng.
Tiếp theo là từ 27/9 /2010 đến 7/10/2010 khi giá vàng trong nước (quy đổi) cao hơn
giá thế giới, thị trường ngoại tệ bắt đầu bất ổn, thanh khoản giảm, khối lượng giao dịch chỉ
vài chục triệu USD/ngày, tỷ giá trong và ngoài hệ thống tăng do nhu cầu thanh toán và nhập
khẩu vàng. Cụ thể, tỷ giá liên ngân hàng ngày 7/10 đạt đỉnh 19.860 đồng/USD (tăng 360
đồng/USD trong vòng 2 tuần) và tỷ giá tự do là 19.930 đồng/USD. Song song, giá vàng trong nước lúc đó là 33,3 triệu đồng/lượng và giá v àng thế giới vọt lên 1.360 USD/ounce.
Cụ thể, trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá giảm khoảng 50 điểm về mức 19.800 đồng với
tâm lý bán ra để hiện thực hóa lợi nhuận nhưng lực bán chưa mạnh mẽ vì quy mô nhập khẩu
vàng chỉ 100 triệu USD, tương đương 3 tấn vàng như nói trên .
Đầu năm 2011, NHNN quyết định tăng tỷ giá thêm 9,3% lên 20.693 đồng/USD đẩy
mức trần các ngân hàng có thể niêm yết công khai lên tới 20.900. Cùng với quyết định này
NHNN thu hẹp biên độ dao động của tỷ giá từ +/-3% xuống +/-1% áp dụng ngay từ ngày 11/02. Xu hướng tăng mạnh của tỷ giá đồng USD trong nước kéo giá vàng miếng SJC tăng
vọt thêm bình quân 100.000 đồng/lượng ngay sáng 11/2 so với mức mở cửa đầu ngày. Có doanh nghiệp đưa giá bán ra lên 36 triệu đồng/lượng và thận trọng nới rộng khoảng chênh
lệch giá mua - bán.
NHNN không có chủ trương phá giá VND nhưng do áp lực cung - cầu ngoại tệ, do
khuyến khích xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu, do yếu tố đầu cơ… tỷ giá VND/USD phải
tăng lên. Tâm lý và niềm tin của người dân vào đồng VND phụ thuộc vào chính sách điều
hành kinh tế vĩ mô của nhà nước và các thành quả điều hành trong quá khứ. Một khi người
dân còn chưa tin tưởng vào giá tr ị VND, vàng sẽ vẫn lên ngôi.
50
4.2.2.4. Sự biến động của các thị trường khác
Đối với thị trường xăng dầu trong nước thì chỉ riêng nửa năm 2009, ảnh hưởng của
giá dầu thế giới khiến cho giá xăng bán lẻ trong nước liên tục điều chỉnh giá tăng năm lần, từ
mức 11.000 đồng/lít xăng A92 lên 14.200 đồng/lít (dù giá dầu thế giới điều chỉnh giảm vào
tháng 4/2009) và liên tiếp điều chỉnh tăng giá trong các năm tiếp theo. Điều chỉnh tăng hai
lần trong năm 2010, lên 16.400 đồng/lít xăng A92, điều chỉnh tăng 2 lần trong năm 2011 lên
thành 21.300 đồng/lít xăng A92, gây áp lực lớn lên lạm phát, tiêu dùng và cả giá vàng trong
nước.
Tuy nhiên, chưa thể khẳng định sự thay đổi của giá dầu là cùng chiều hay trái chiều
với sự thay đổi của giá vàng, mà cần phân tích từng thời điểm, tình hình kinh tế chính trị và
cụ thể là kiểm định bằng mô hình.
Từ thời điểm cuối năm 2006, chỉ số chứng khoán VN-Index đã tăng từ 753,81 điểm
đến đỉnh điểm là 1.170,67 điểm vào thời điểm tháng 3/2007. Chỉ số VN Index trong phiên
giao dịch cuối cùng của năm 2007 đạt 927,02 điểm tuy nhiên qua năm 2008 tình hình tài
chính có nhiều bất ổn làm thị trường chứng khoán đi xuống không phanh VN Index đụng
đáy thấp nhất trong 5 năm trở lại đây còn 364,71 đi ểm vào ngày 20/6/2008 đã làm nhà đầu
tư ít nhiều mất lòng tin và hiện nay trong giai đoạn phục hồi. Ngược lại, trong giai đoạn đó
là lúc giá vàng đi lên không mệt mỏi từ khoảng 17 triệu cuối năm 2007 đến gần 19 triệu giữ
năm 2008,việc sụt giảm giá chứng khoán tác động lên tâm lý hành vi của nhà đầu tư, rút bớt tiền sang đầu tư vàng-công cụ được coi là rủi ro thấp hơ n.
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2011 tiếp tục chứng kiến đà lao dốc không
phanh của cả hai chỉ số chính. Trong khi VN-Index giảm từ 486 điểm xuống mức 356,2
điểm (mức thấp nhất kể từ tháng 5/2010) thì HNX-Index đạt mức thấp nhất từ khi chỉ số này
ra đời, giảm 55,4 điểm xuống 58 điểm tính đến ngày 26/12. Trong khi đó, thị trường vàng
giai đoạn nửa đầu năm 2011, giá vàng khá bình ổn, dao động từ 35 - 40 triệu đồng/lượng, từ
nửa cuối năm 2011, giá vàng lên cơn sốt khi liên tục phá vỡ các mốc quan trọng và lập kỷ
lục 49 triệu đồng/lượng vào ngày 23/8/2011, tăng 36% so với mốc 36 triệu đồng/lượng vào
cuối năm 2010.
51
Về thị trường lao động, trong khi thế giới tỷ lệ thất nghiệp đang tăng cao nhiều người
cho rằng cuộc khủng hoảng tài chính đang ở tầm xa, ảnh hưởng của nó đến Việt Nam sẽ
không lớn. Tuy nhiên, trên phương diện này, khi xét về thị trường lao động trong nước,
chúng ta cũng cần nhìn nhận một cách tỉnh táo. Những biến động từ cuộc khủng hoảng cùng
với sức ép từ việc điều chỉnh tiền lương đã khiến ngay cả các đại gia lớn như tập đoàn FPT,
Công ty Sony tại Việt Nam, công ty sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải... phải lên kế hoạch
điều chỉnh nhân sự. Dự kiến trong thời gian tới, nhu cầu về nhân lực sẽ tiếp tục chững lại
hoặc chỉ tăng cục bộ ở một số lĩnh vực ngành nghề. Những ngành vốn được coi là “nóng”
trong lĩnh vực tuyển dụng như tài chính, bất động sản, công nghệ thông tin… trong năm tới
sẽ trở thành những ngành dư thừa lao động. Với tình hình như hiện nay, nếu không nhanh
chóng đưa ra hướng khắc phục thì những dự báo như trên thậm chí có thể vẫn còn thấp.
Chính vì thế mục tiêu ưu tiên trong thời gian tới là bình ổn thị trường việc làm, phối hợp
hành động, nâng cao chất lượng lao động để tránh một cuộc “khủng hoảng xã hội”, tạo áp
lực lên nền kinh tế, gián tiếp ảnh hưởng đến giá vàng.
Theo tập quán truyền thống từ lâu đời, người dân Việt Nam có thói quen sử dụng
vàng để định giá nhà đất hoặc bất động sản. Nhà đất là tài sản có giá trị rất lớn có khi phải
tích lũy vài chục năm mới sở hữu được, vì vậy việc người dân “neo” giá bán nhà đất vào
vàng cũng là điều dễ hiểu. Dù hiện nay, việc rao bán nhà đất bằng tiền đồng thay cho vàng
có tăng lên, nhưng đó chỉ là hình thức. Bởi xét về bản chất, người bán nhà hay bất động sản
thường quy đổi ra tiền đồng theo giá vàng hiện hành. Giá vàng tăng, dẫn đến giá trị nhà đất,
bất động sản tăng theo, khiến các nhà đầu tư ngại mua bán nhà đất/bất động sản do sợ rủi ro
giá vàng đảo chiều. Chính thị trường bất động sản trong thời gian qua tăng trưởng “bong
bóng”, nhà đầu tư tranh nhau mua để đầu cơ (tiền mua bất động sản chủ yếu là đi vay). Đến
khi “bong bóng” bất động sản vỡ, lạm phát tăng, tiền đồng Việt nam mất giá, lãi suất cho
vay bất động sản tăng, thị trường vàng “sốt” khiến cho nhà đầu tư muốn thoát khỏi thị
trường, rút vốn để thanh toán nợ, bán đi bất động sản cũng không được mà người muốn mua
cũng phải e dè. Các yếu tố đó đã làm thị trường bất động sản kém sôi động hoặc thậm chí
“đóng băng” suốt trong giai đoạn này.
52
Thêm một yếu tố cần nhắc đến là đầu cơ. Hiện tượng mọi người chen nhau ở tiệm
vàng, tranh mua tranh bán là biểu hiện rõ nhất của việc bị ảnh hưởng từ giới đầu cơ. Thời gian gần đây, khoảng giữa năm 2010, giá vàng tăng đột biến ở mức khá cao. Nguyên nhân
một phần là do các tổ chức đầu cơ trong nước đã ráo r iết mua vàng cắt lỗ. Thực tế thì hiện
nay, Việt Nam không cho phép kinh doanh vàng tài khoản nhưng vẫn có một bộ phận vay
vàng vật chất từ ngân hàng để đầu cơ. Trong đó phần đông là những đơn vị kinh doanh, tiệm
vàng, một bộ phận nhỏ là cá nhân đầu cơ… Cũng có một bộ phận người vay vàng rồi bán lấy
VND để kinh doanh vì lãi suất vay vàng rất thấp, 3,85 -4,25%/năm.
Đồ thị 4.12. Toàn cảnh giá vàng Việt nam từ năm 2007 đến năm 2011
g n ợ ư
l /
g n ồ đ
48.000.000 46.500.000 45.000.000 43.500.000 42.000.000 40.500.000 39.000.000 37.500.000 36.000.000 34.500.000 33.000.000 31.500.000 30.000.000 28.500.000 27.000.000 25.500.000 24.000.000 22.500.000 21.000.000 19.500.000 18.000.000 16.500.000 15.000.000 13.500.000 12.000.000 10.500.000 9.000.000 7.500.000 6.000.000 4.500.000 3.000.000 1.500.000
-
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
/
7 0 0 2 1 0 1 0
7 0 0 2 3 0 1 0
7 0 0 2 5 0 1 0
7 0 0 2 7 0 1 0
7 0 0 2 9 0 1 0
7 0 0 2 1 1 1 0
8 0 0 2 1 0 1 0
8 0 0 2 3 0 1 0
8 0 0 2 5 0 1 0
8 0 0 2 7 0 1 0
8 0 0 2 9 0 1 0
8 0 0 2 1 1 1 0
9 0 0 2 1 0 1 0
9 0 0 2 3 0 1 0
9 0 0 2 5 0 1 0
9 0 0 2 7 0 1 0
9 0 0 2 9 0 1 0
9 0 0 2 1 1 1 0
0 1 0 2 1 0 1 0
0 1 0 2 3 0 1 0
0 1 0 2 5 0 1 0
0 1 0 2 7 0 1 0
0 1 0 2 9 0 1 0
0 1 0 2 1 1 1 0
1 1 0 2 1 0 1 0
1 1 0 2 3 0 1 0
1 1 0 2 5 0 1 0
1 1 0 2 7 0 1 0
1 1 0 2 9 0 1 0
1 1 0 2 1 1 1 0
thời gian
Nguồn: Tỷ giá hối đoái, ngoại tệ - Ngân Hàng TCMP Á Châu
53
4.3. Kiểm định sự tương quan của các nhân tố đến giá vàng
Mô hình hồi quy tuyến tính bội của giá vàng được xây dựng như sau:
GiaVangi = a1 + a2*GiaVangTGi + a3*TyGiai + a4*LamPhati
+ a5*VnIndexi + a6*GiaDaui + a7*CungTieni + ui
ui là sai số ngẫu nhiên, được giả thiết có E(u i) = 0
Do các ai này nói chung là không biết và ta sẽ ước lượng chúng dựa trên các quan sát
trong thực tế. Việc ước lượng được dựa vào phương pháp hồi quy tuyến tính bội (MLR). Sử dụng phần mềm thống kê SPSS để kiểm định các nhân tố trên.
Sử dụng đồ thị Scatter thể hiện dạng chung giữa 2 biến (biến độc lập và biến phụ
thuộc với nhau), ta có các đồ thị sau:
Đồ thị 4.13. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế giới
54
Đồ thị 4.14. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và tỷ giá
Đồ thị 4.15. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và lạm phát
55
Đồ thị 4.16. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và chỉ số Vn-Index
Đồ thị 4.17. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và giá dầu
56
Đồ thị 4.18. Đồ thị phân tán giữa giá vàng trong nước và cung tiền
Theo các kết quả nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy giá vàng có xu hướng chuyển động cùng chiều với sự thay đổi của tỷ giá, lạm phát và giá dầu; đồng thời, chuyển động
ngược chiều với chỉ số chứng khoán, lãi suất. Dựa vào đồ thị và các kết quả nghiên cứu trên
thế giới, có thể dự báo giá vàng thế giới, giá dầu, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ và Việt Nam và
lạm phát liên hệ tuyến tính thuận với sự thay đổi của giá vàng trong nước; cung tiền và chỉ
số chứng khoán Vn-Index tỷ lệ nghịch với sự thay đổi của giá vàng trong nước. Những đồ
thị trên còn cho thấy các nhân tố giá vàng thế giới, tỷ giá và chỉ số chứng khoán VN-Index
có quan hệ tuyến tính với giá vàng trong nước. Tuy nhiên, R square của đồ thị sự phân tán
giữa giá vàng trong nước và lạm phát, giá dầu, cung tiền rất nhỏ nên (gần bằng 0) nên thực
hiện kiểm định để xem các biến này có phù hợp để đưa vào mô hình không.
Xem xét ma trận hệ số tương quan:
Bảng 4.2. Correlations
gia vang
gia vang the gioi
ty gia
lam phat
Vn-Index
gia dau
cung tien
Pearson
gia vang
1.000
.981
.960
.220
-.540
.278
-.105
Correlation
gia vang the gioi
.981
1.000
.936
.224
-.547
.308
-.099
57
ty gia
.960
.936
1.000
.077
-.581
.137
-.142
lam phat
.220
.224
.077
1.000
-.047
.655
.448
Vn-Index
-.540
-.547
-.581
-.047
1.000
-.080
-.349
gia dau
.278
.308
.137
-.080
1.000
.146
.655
cung tien
-.105
-.099
-.142
-.349
1.000
.448
.146
Sig. (1-tailed)
gia vang
.
.000
.000
.000
.000
.000
.000
gia vang the gioi
.000
.
.000
.000
.000
.000
.000
ty gia
.000
.000
.
.001
.000
.000
.000
lam phat
.000
.000
.001
.
.000
.022
.000
Vn-Index
.000
.000
.000
.022
.000
.
.000
gia dau
.000
.000
.000
.000
.
.000
.000
cung tien
.000
.000
.000
.000
.000
.000
.
gia vang
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
N
gia vang the gioi
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
ty gia
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
lam phat
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
Vn-Index
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
gia dau
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826
cung tien
1826
1826
1826
1826
1826
1826
1826 Bảng ma trận hệ số tương quan cho thấy dấu của các biến độc lập đối với biến phụ
thuộc giá vàng trong nước là phù hợp với dự đoán về mối quan hệ giữa giá vàng trong nước
và các nhân tố ở phần trên.
Áp dụng thủ tục kiểm định chọn biến đưa vào mô hình, thu được kết quả như sau:
Bảng 4.3. Model Summaryg
Change Statistics
Adjusted R
Std. Error of
Durbin-
Model
R
R Square
Square
the Estimate
R Square Change F Change df1 df2 Sig. F Change
Watson
.981a
.963
.963
1.90151E6
.963
4.779E4
1 1824
.000
1
.988b
.977
.977
1.50022E6
.014
1107.313
1 1823
.000
2
.989c
.977
.977
1.49779E6
.000
6.908
1 1822
.009
3
.990d
.980
.980
1.40871E6
.003
238.730
1 1821
.000
4
58
.990e
.980
.980
1.39656E6
.000
32.810
1 1820
.000
5
.990f
.980
.980
1.39632E6
.000
1.634
1 1819
.201
.430
6
a. Predictors: (Constant), gia vang the
gioi
b. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia
c. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung
tien
d. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung tien, lam phat
e. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung tien, lam phat, Vn-
Index
f. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung tien, lam phat, Vn-Index, gia dau
g. Dependent Variable: gia vang
Kết quả kiểm định cho thấy R square change khi có thêm biến giá dầu và cung tiền trong mô hình là bằng 0, chứng tỏ hai biến này không làm tăng thêm tầm quan trọng và khả năng giải thích sự thay đổi của giá vàng trong nước.
Bảng 4.4. Coefficientsa
Unstandardized
Standardized
95% Confidence Interval
Collinearity
Coefficients
Coefficients
for B
Correlations
Statistics
Lower
Upper
Zero-
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Bound
Bound
order Partial Part Tolerance
VIF
1 (Constant)
-7.819E6 154108.749
-50.738 .000
-8.121E6
-7.517E6
gia vang
30164.453
137.980
.981 218.615 .000
29893.838
30435.068
.981
.981 .981
1.000
1.000
the gioi
2 (Constant)
-3.208E7 739241.450
-43.400 .000
-3.353E7
-3.063E7
gia vang
20540.635
309.019
.668 66.471 .000
19934.567
21146.703
.981
.841 .235
.124
8.058
the gioi
ty gia
1918.793
57.662
.335 33.276 .000
1805.702
2031.885
.960
.615 .118
.124
8.058
3 (Constant)
-3.273E7 777761.184
-42.080 .000
-3.425E7
-3.120E7
gia vang
20462.322
309.955
.666 66.017 .000
19854.418
21070.226
.981
.840 .233
.123
8.133
the gioi
ty gia
1940.139
58.139
.338 33.371 .000
1826.113
2054.166
.960
.616 .118
.122
8.218
cung tien
11072.803
4212.953
.009
2.628 .009
2810.078
19335.528 -.105
.061 .009
.971
1.030
59
4 (Constant)
-3.724E7 787516.507
-47.282 .000
-3.878E7
-3.569E7
gia vang
18249.609
324.796
.594 56.188 .000
17612.597
18886.621
.981
.796 .187
.099 10.096
the gioi
ty gia
2275.409
58.829
.397 38.678 .000
2160.029
2390.789
.960
.672 .129
.105
9.513
cung tien
-21659.906
4493.156
-.018
-4.821 .000 -30472.188 -12847.625 -.105
-.112 -.016
.755
1.324
lam phat
134401.027
8698.588
.065 15.451 .000 117340.769 151461.284
.220
.340 .051
.628
1.592
5 (Constant)
-3.991E7 909625.212
-43.874 .000
-4.169E7
-3.812E7
gia vang
18464.835
324.181
.601 56.958 .000
17829.029
19100.640
.981
.800 .188
.098 10.233
the gioi
ty gia
2352.621
59.860
.410 39.302 .000
2235.220
2470.022
.960
.678 .130
.100 10.021
cung tien
-2056.624
5617.342
-.002
-.366 .714 -13073.740
8960.491 -.105
-.009 -.001
.475
2.106
lam phat
116384.490
9179.307
.056 12.679 .000
98381.405 134387.574
.220
.285 .042
.554
1.804
Vn-Index
1208.370
210.960
.029
5.728 .000
794.622
1622.119 -.540
.133 .019
.417
2.399
6 (Constant)
-4.039E7 984616.428
-41.022 .000
-4.232E7
-3.846E7
gia vang
18329.470
340.980
.596 53.755 .000
17660.717
18998.224
.981
.783 .177
.088 11.325
the gioi
ty gia
2376.926
62.796
.414 37.851 .000
2253.766
2500.086
.960
.664 .125
.091 11.032
cung tien
-538.043
5740.599
.000
-.094 .925 -11796.902
10720.816 -.105
-.002 .000
.454
2.201
lam phat
108339.886
11127.684
.052
9.736 .000
86515.505 130164.268
.220
.223 .032
.377
2.652
Vn-Index
1241.765
212.534
.030
5.843 .000
824.928
1658.601 -.540
.136 .019
.411
2.436
gia dau
2858.603
2235.988
.006
1.278 .201
-1526.772
7243.978
.278
.030 .004
.477
2.098
a. Dependent Variable: gia
vang
Trong mô hình 3, sau khi đưa biến cung tiền vào thì giá trị sig. tương ứng là 0.09 lớn
hơn mức ý nghĩa 0.05. Nhưng tiếp đó, trong mô hình 4, khi thêm biến lạm phát vào mô hình
thì các giá trị sig. lại rất nhỏ (gần bằng 0). Tuy nhiên, sau khi tiếp tục thêm biến Vn-Index và
giá dầu thì lại xuất hiện sig. có giá trị lớn hơn α và t < 2. Qua đó cho thấy, biến giá dầu và
chỉ số chứng khoán Vn-Index không phù hợp đưa vào mô hình.
Nếu giá dầu trên thế giới trực tiếp ảnh hưởng đến giá vàng thế giới thì ngược lại giá
dầu thế giới lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của biến tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam
đồng (biến đã có trong mô hình và có ảnh hưởng rất lớn đến sự thay đổi của giá vàng trong
60
nước) nên việc đưa thêm biến này vào mô hình không tăng thêm khả năng giải thích cho mô
hình.
Ngoài ra, trong phần Unstandardized Coefficients cho thấy bêta của biến Vn-Index
mang dấu dương nghĩa là tỷ lệ thuận với sự thay đổi của giá vàng trong nước, điều này
không phù hợp với dự báo và các kết quả nghiên cứu trên thế giới (các biến còn lại là phù
hợp). Điều này dễ dàng nhận thấy là bởi thị trường chứng khoán Việt Nam chịu ảnh hưởng
của một yếu tố đặc thù là yếu tố tâm lý đám đông, vốn không hề xuất hiện ở thị trường
chứng khoán thế giới, do đó biến này cũng không phù hợp và loại ra khỏi mô hình.
Vậy mô hình hồi quy của giá vàng trong nước thu được chính là mô hình 4 trong
bảng 4.4 gồm các biến tác động đến giá vàng trong nước là giá vàng thế giới, tỷ giá, cung
tiền và chỉ số lạm phát được viết dưới dạng sau:
GiaVang = -0,0003724 + 18.249,609*GiaVangTG + 2.275,409*TyGia
- 21.659,906*CungTien + 134.401,027*LamPhat
Đánh giá mô hình giả định tuyến tính có thỏa mãn không
Quan sát đồ thị phân tán giữa các phần dư dưới đây
Đồ thị 4.19. Đồ thị phân tán giữa các phần dư
61
Quan sát thấy phần dư phân tán ngẫu nhiên, không t heo một hình dạng nào nhất định
xung quanh đường đi qua tung độ 0. Điều này đã chứng tỏ giả định tuyến tính của mô hình được thỏa mãn.
Đồng thời, quan sát bảng 4.4 (mô hình 4) bên trên cho thấy t khác 0 (t ≠ 0) và p-value
< 0,05 khẳng định tồn tại mối quan hệ giữa các biến đến giá vàng trong nước với hệ số gốc
ai ≠ 0 (trong mô hình hồi quy tuyến tính bội).
Xem xét tính phù hợp của mô hình
Bảng 4.5. ANOVAb
Model
Sum of Squares
Df
Mean Square
F
Sig.
1
Regression
1.757E17
3
5.858E16
2.916E4
.000a
Residual
3.660E15
1822
2.009E12
Total
1.794E17
1825
a. Predictors: (Constant), ty gia, lam phat, gia vang the gioi
b. Dependent Variable: gia vang
Kết quả kiểm định cho thấy P-value của F = 0.00000 < alpha=0.05 chứng tỏ mô hình phù hợp và R2 = 0,980 trong bảng 4.3 nói lên mô hình bám sát thực tế giải thích được 98%
sự thay đổi giá vàng trong nước .
Xem mô hình có đa cộng tuyến cao hay không
Chọn giá vàng thế giới là biến phụ thuộc, ta có kết quả như sau:
Bảng 4.6. Coefficientsa
Unstandardized
Standardized
Coefficients
Coefficients
95% Confidence Interval for B Collinearity Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Lower Bound Upper Bound
Tolerance
VIF
1
(Constant)
-2113.980
27.819
-75.991
.000
-2168.540
-2059.421
lam phat
11.809
.175
20.969
.000
10.704
12.913
.780
1.283
.563
ty gia
.171
.916 121.393
.000
.168
.174
.955
1.047
.001
cung tien
-1.823
-.048
-5.675
.000
-2.453
-1.193
.768
1.301
.321
a. Dependent Variable: gia vang the gioi
62
Theo kết quả trên, độ chấp nhận (Tolerance), thường dùng để đo lường hiện tượng đa
cộng tuyến, cao và hệ số phóng đại (Variance inflation factor – VIF) nhỏ của biến lạm phát,
biến tỷ giá và biến cung tiền đã khẳng định không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến
độc lập.
Xem xét mô hình có tự tương quan không
Giả thiết: Tự tương quan: H0: trong mô hình không có tự tương quan
Quan sát cột Durbin-Watson trong bảng Model sumary trong bảng dưới ta thấy
d=0,105 (0 < d < 1), chứng tỏ mô hình có tự tương quan dương.
Bảng 4.7. Model Summaryb
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
Durbin-Watson
1
.949a
.901
.901
101.60990
.105
a. Predictors: (Constant), cung tien, ty gia, lam phat
b. Dependent Variable: gia vang the gioi
Ta có thể khắc phục tự tương quan dựa trên giá trị của d của durbin-watson:
ρ = 1- d/2 = 1- 0,105/2 = 0,9475
Biến đổi biến phụ thuộc và biến độc lập theo dạng:
’ = Yt – ρ*Yt-1
Yt
’ = Xt – ρ*Xt-1
Xt
Sau khi biến đổi các biến mới sẽ được thể hiện như sau :
GoldPrice = GiaVang – 0,9475*GiaVang-1
GoldPriceW = GiaVangTG – 0,9475*GiaVangTG-1
RateExchange = TyGia – 0,9475*TyGia-1
InflationNew = LamPhat – 0,9475*LamPhat-1
MoneySupply = CungTien – 0,9475*CungTien-1
Kiểm định biến phụ thuộc mới (GoldPrice) và các biến độc lập mới (GoldPriceW,
OilPrice, RateExchange, InflationNew) cho kết quả như sau:
63
Bảng 4.8. Model Summaryb
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
Durbin-Watson
1
.810a
.656
.656
3.36347E8
1.594
a. Predictors: (Constant), lam phat moi, gia vàng the gioi moi, cung tien moi, ty gia moi
b. Dependent Variable: gia vang moi
Kết quả trên cho thấy d = 1,594 (gần bằng 2) nên không còn tự tương quan đối với
phương trình sai phân tổng quát.
Như vậy hàm hồi quy của giá vàng là:
GiaVang = -0,0003724 + 18.249,609*GiaVangTG + 2.275,409*TyGia
- 21.659,906*CungTien + 134.401,027*LamPhat
Kết quả nghiên cứu :
Qua nghiên cứu cho thấy, có tồn tại các nhân tố ảnh hưởng lên giá vàng trong nước là
giá vàng thế giới, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, cung tiền và chỉ số lạm phát.
Sự thay đổi của các nhân tố giá vàng thế giới, tỷ giá và chỉ số lạm phát có mối quan hệ tỷ lệ
thuận đối với sự thay đổi của giá vàng trong nước, riêng sự thay đổi của nhân tố cung tiền thì
tỷ lệ nghịch với sự thay đổi của giá vàng trong nước. Cụ thể mức độ ảnh hưởng là :
+ Khi giá vàng thế giới tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ
tăng, giá vàng thế giới tăng 1 USD/1 ounce thì giá vàng Việt Nam sẽ tăng trung bình khoảng
18.249,609 đồng/lượng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi tỷ giá tăng thì giá vàng trong nước cũng tăng theo, tỷ giá tăng 1 đồng thì giá
vàng trong nước sẽ tăng 2.275,409 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi cung tiền tăng thì giá vàng trong nước giảm, cung tiền tăng 1% thì giá vàng
trong nước sẽ giảm 21.659,906 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi lạm phát tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ tăng,
lạm phát tăng 1% thì giá vàng trong nước tăng 134.401,027 đồng.
Theo kết quả từ hàm hồi quy giá vàng vừa thu thập được ở trên, ta có thể kết luận
rằng sự thay đổi của giá vàng thế giới, tỷ giá đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng và chỉ số lạm
64
phát có ảnh hưởng cùng chiều tới sự thay đổi giá vàng trong nước, sự thay đổi của cung tiền
ảnh hưởng ngược chiều tới sự thay đổi của giá vàng trong nước, điều này cũng phù hợp với
dự đoán ban đầu khi chưa kiểm định và tương đồng với các kết quả nghiên cứu khác trên thế
giới.
65
5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Trong những phần trên, luận văn đã trình bày một số nhân tố ảnh hưởng đến giá vàng,
cũng như nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng đến giá vàng. Nhìn chung, việc giá vàng thay
đổi (tăng/giảm) bị chi phối bởi các nhân tố gồm giá vàng trong nước, giá dầu, tỷ giá giữa
đồng Đô la Mỹ và Việt Nam đồng, lạm phát. Qua kiểm định cho kết quả có tồn tại mối quan
hệ giữa các nhân tố đến sự thay đổi của giá vàng. Cụ thể:
+ Khi giá vàng thế giới tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ
tăng, giá vàng thế giới tăng 1 USD/1 ounce thì giá vàng Việt Nam sẽ tăng trung bình khoảng
18.249,609 đồng/lượng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi tỷ giá tăng thì giá vàng trong nước cũng tăng theo, tỷ giá tăng 1 đồng thì giá
vàng trong nước sẽ tăng 2.275,409 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi cung tiền tăng thì giá vàng trong nước giảm, cung tiền tăng 1% thì giá vàng
trong nước sẽ giảm 21.659,906 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi lạm phát tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ tăng,
lạm phát tăng 1% thì giá vàng trong nước tăng 134.401,027 đồng.
Sự thay đổi của giá vàng trong nước, giá dầu, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ và Việt Nam
đồng và lạm phát có ảnh hưởng cùng chiều tới sự thay đổi giá vàng.
Đến đây, luận văn đưa ra một số kiến nghị để làm giảm tác động của các nhân tố đến
giá vàng, nhằm kiểm soát và quản lý thị trường vàng được ổn định trong các điều kiện kinh tế
văn hóa xã hội khác nhau.
Trong bối cảnh giá vàng thế giới vẫn tiềm ẩn các biến động lên xuống khó lường, yêu
cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là phải cải tổ việc quản lý vàng và phát triển thị trường vàng.
Theo đó, vàng với hàm lượng vàng cao nên được quản lý với tính chất của một công cụ tiền
tệ. Nhà nước cần phải nắm quyền và có các công cụ hữu hiệu để điều chỉnh cung - cầu vàng,
chủ động quản lý có hiệu quả phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Bên cạnh việc quản lý
vàng với tính chất của một công cụ tiền tệ, cần có lộ trình cụ thể cho việc phát triển thị trường
vàng theo thông lệ quốc tế, đa dạng hoá các kênh đầu tư, liên thông thị trường trong nước và
quốc tế.
66
Thứ nhất, đảm bảo sự phát triển lành mạnh thị trường vàng trong nền kinh tế
Là một loại hàng hoá và là một công cụ tiền tệ trong n ền kinh tế, nên việc tồn tại thị trường vàng là vấn đề khách quan. Đây cũng là thực tế trên thế giới. Không chỉ tồn tại, các thị trường vàng trên thế giới đã có những bước phát triển mạnh trong thời gian gần đây. Đối
với nước ta, hoạt động mua – bán vàng còn là tập quán, có tính lịch sử, văn hoá lâu đời. Vấn
đề là làm thế nào để phát triển lành mạnh thị trường vàng, đảm bảo sự thông suốt trong phạm vi nền kinh tế và liên thông với thị trường quốc tế, hạn chế các tác động tiêu cực và
tăng cường đóng góp của thị trường vàng vào sự phát triển của đất nước. Kinh nghiệm cho thấy, để một thị trường phát triển lành mạnh không có nghĩa để thị trường phát triển tự do,
nhưng cũng không thể chỉ bằng các giải pháp hành chính, nhất là trong bối cảnh hội nhập.
Những biến động mạnh của giá vàng và sự đi trước của giá vàng trong nước so với giá vàng
thế giới vừa qua một phần là hệ quả của việc bỏ ngỏ thị trường (không có công cụ pháp lý
điều tiết) và việc áp dụng một vài giải pháp điều hành mang tính chất hàn h chính. Do vậy,
nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường vàng, điều tiết các chủ thể bằng
các công cụ và hàn g rào kỹ thuật trên thị trường. Liên quan tới các công cụ, các loại hình
hoạt động trên thị trường, cần có lộ trình phát triển từng bước, phù hợp với điều kiện và
trình độ quản lý cụ thể của đất nước. Khung pháp lý nên định hướng nguyên tắc thị trường có quản lý của Nhà nước vì các biện pháp hành chính chỉ có tác động tức thì, nhưng tiềm ẩn
các hành vi lách luật, hoạt động ‘chui”, trong khi chi phí theo dõi, giám sát là rất lớn. Và để quản lý được cung - cầu trên thị trường vàng, thì khung pháp lý phải đảm bảo rằng NHNN
thực hiện được vai trò quản lý cuối cùng trên thị trường vàng, tức là phải thực hiện quản lý tập trung các đầu mối hoạt động kinh doanh vàng. Ngoài ra, các Bộ, Ngành có liên quan như
Bộ Tài chính, Bộ Công thương cần phối hợp với NHNN để đưa ra các hướng quản lý thị
trường vàng một cách đồng bộ và cùng nghiên cứu để xây dựng được mô hình quản lý hiệu
quả nhất.
Thứ hai, kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) vàng, kiểm soát tình hình
cung - cầu vàng thông qua thuế suất
67
Liên quan tới thuế XNK vàng cũng không nhất thiết phải áp thuế nhập khẩu với mục
đích hạn chế nhập vàng, giảm áp lực lên cầu ngoại tệ, vì khả năng tái tạo ngoại tệ của vàng rất cao. Thực tế, quí I/2009, Việt Nam đã có xuất siêu nhờ xuất siêu vàng. Thuế xuất khẩu
vàng cũng nên đượ c cân nhắc ở mức phù hợp, khuyến khích việc khơi thông đầu r a, qua đó
phát triển công nghiệp khai thác vàng và công nghiệp chế tác vàng trong nước, tạ o công ăn
việc làm cho xã hội. Đồng thời, tạo cho thị trường vàng khả năng tự điều tiết nguồn cung
đáp ứng khi nhu cầu quá cao, tránh tình trạng vàng tăng giá quá cao so với giá vàng thế giới
do thiếu hụt nguồn cung. Công khai các nguồn cung, số lượng trên thị trường vàng để tạo
tâm lý an tâm cho nhà đầu tư, hạn chế tình trạng đầu cơ.
Thứ ba, kiểm soát tỷ giá giữa Đô la Mỹ và Việt Nam đồng giúp kiểm soát được giá
vàng
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, tỷ giá ngoại tệ USD so với đồng Việt Nam (VND) được điều chỉnh linh hoạt theo cung cầu ngoại tệ của thị trường và tình hình kinh tế vĩ mô .
Sự điều chỉnh tỷ giá USD/VND xuất phát từ nhiều yếu tố kinh tế cơ bản khác nhau, chủ yếu là do (i) cán cân thương mại mất cân đối, (ii) giải pháp kỹ thuật hạn chế nhập siêu, và (iii)
chính sách khuyến khích xuất khẩu. Khi giá vàng trong nước được định giá dựa trên giá
vàng thế giới, đơn vị tính là Đô la Mỹ thì việc kiểm soát tỷ giá chặt chẽ và ổn định sẽ góp
phần giúp kiểm soát thị trường vàng. Cần có biện pháp kiểm tra giám sát chặt chẽ hơn nữa
những cá nhân, tổ chức vi phạm Nghị định 95 về quản lý kinh doanh ngoại tệ như kiểm tra
đột xuất, tuyên truyền rộng rãi quy định đến mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích các cá nhân,
tổ chức kinh doanh sử dụng ngoại tệ khác thay thế đồng Đô la Mỹ hoặc sử dụng ngoại tệ thứ
ba trong các giao dịch nhằm giảm vai trò chủ đạo của đồng Đô la Mỹ trong nền kinh tế,
tránh hiện tượng khan hiếm Đô la Mỹ trong thanh toán làm cho tỷ giá tăng cao, gây áp lực
lên giá vàng.
Thứ tư, khắc phục các tác nhân gây ra sự bất ổn về tâm lý đám đông, gây sự rối
loạn trên thị trường vàng
Vàng là một đối tượng đầu tư mà bất kỳ người dân Việt Nam nào có trong tay ít tiền
đều nghĩ ngay tới, ai cũng muốn trữ vàng phòng khi có chuyện rủi ro bất ngờ. Vàng trở nên
68
quan trọng trong suy nghĩ, tư duy của người dân, suy nghĩ đó đã ăn sâu bám chặt bao thế hệ
người Việt đến mức vàng xuất hiện khắp nơi dưới nhiều hình thức như mua bán đất đai, nhà
cửa, vay mượn, cưới xin,…Chính vì vậy khi giá vàng thay đổi ảnh hưởng mạnh đến suy
nghĩ, từ đó dẫn đến hành vi của đại đa số người dân. Để có thể thay đổi hành vi của nhà đầu
tư, trước tiên cần nâng cao năng lực của nhà đầu tư. Sự thiếu hiểu biết hay kém cỏi về năng
lực cũng như kiến thức liên quan đến việc đầu tư là một trở ngại đối với việc hạn chế tâm lý
đám đông trên thị trường (ở đây bao gồm cả thị trường vàng và thị trường chứng khoán).
Một nhà đầu tư hợp lý sẽ đưa ra quyết định đầu tư dựa trên sự cân nhắc rủi ro và tỷ suất sinh
lời từ những thông tin được công bố trên thị trường. Ở Việt Nam, số nhà đầu tư cá nhân làm
được điều này còn quá ít ỏi. Có nhiều lý do để giải thích điều này: chưa có một sân chơi thực
sự dành cho các nhà đầu tư vàng tham gia học hỏi kinh nghiệm; đầu tư vàng không có một
tổ chức nào đứng ra đào tạo và cấp chứng chỉ; vàng đối với đại đa số nhà đầu tư nghĩ đơn
giản như là một hình thức tiết kiệm không hơn; nhà đầu tư vào thị trường vàng đủ mọi tầng
lớp xã hội, nên trình độ tư duy, khả năng thu thập, phân tích và hiểu được thông tin là rất
chênh lệch giữa các nhà đầu tư với nhau. Cần có sự tuyên truyền rộng rãi những nguyên tắc
cơ bản về thị trường vàng, nhất là khi trên thị trường đang có “sốt” giá vàng; dẫn chứng một
cách dễ hiểu các ví dụ cụ thể cũng như hậu quả từ việc đầu tư dựa trên cơ sở thiếu hiểu biết;
thông tin đưa ra thị trường cần được bảo đảm tính chính xác, hạn chế việc tung tin đồn thất
thiệt, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư. Đề nghị các tổ chức kinh doanh vàng dán các thông
báo đưa thông tin chính xác giải thích cụ thể về tình hình biến động giá vàng, giúp trấn an
tâm lý người mua vàng, đồng thời khuyến cáo về hậu quả khi mua vàng lúc thị trường đang
bất ổn.
Xây dựng một sân chơi thực sự với các quy định quản lý chặt chẽ như chứng khoán
dành cho các nhà đầu tư vàng. Vừa giúp các nhà đầu tư có chỗ đầu tư thực sự, không cần
tham gia đầu tư “chui” như tình trạng sàn vàng “chui”, đồng thời giúp Nhà nước quản lý
được các hoạt động đầu tư vàng, kiểm soát được lượng vàng trên thị trường, bảo vệ những
người dân mua vàng nhỏ lẻ khỏi các hành vi “làm giá” trên thị trường.
69
Nghiêm cấm và xử phạt thật nặng các hành vi tung tin sai sự thật, “làm giá” nhằm
phục vụ ý đồ riêng của một số nhà đầu tư. Nhanh chóng dập tắt tin đồn bằng nhiều phương
tiện truyền thông như báo, đài, băng rôn, thông báo tại các điểm giao dịch vàng, truyền
miệng…Cách truyền đạt phải hết sức gần gũi, đơn giản, dễ hiểu nhằm giúp nhà đầu tư (nhất
là những người lớn tuổi, những người ít kiến thức về thị trường, những người không hiểu về
kinh tế) dễ dàng phân biệt được thông tin đúng và tình hình thực tế của thị trường vàng. Hạn
chế việc truyền bá thông tin không chính xác trong nhân dân góp phần ổn định thị trường bởi
trong đám đông mọi tình cảm, hành động đều có tính hay lây, nhờ có đám đông, hùa theo
đám đông mới khiến cá nhân cảm thấy được mình có quyết định đúng.
Mặc dù tâm lý đám đông là một dạng tâm lý của con người nên không thể triệt tiêu
hoàn toàn, nhưng với những giải pháp phù hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội, hành vi đám
đông không hợp lý sẽ được hạn chế, từ đó góp phần giảm bớt tình trạng bong bóng và những
đổ vỡ mang tính hệ thống của thị trường, giúp thị trường phát triển ổn định và chuyên
nghiệp hơn, giảm rủi ro cho nhà đầu tư .
Những hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo
Những thách thức đối với tính bền vững của các kết quả ước lượng của luận văn có
thể đến từ các nhân tố: nhân tố tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng với số liệu được sử dụng để kiểm định trong mô hình là tỷ giá bình quân liên ngân hàng do NHNN công bố.
Trên thực tế, tỷ giá này không được sử dụng để thanh toán trên thị trường, tỷ giá được sử dụng là tỷ giá sau khi đã điều chỉnh +/ - biên độ dao động theo quy định của NHNN. Do đó
sự thay đổi một đơn vị của đồng Đô la Mỹ ảnh hưởng đến mức thay đổi của giá vàng là chưa sát với thực tế. Ngoài ra, tôi chưa tìm được mô hình có thể đưa cả yếu tố tâm lý đám đông
vào khảo sát cùng với các nhân tố khác, nhất là trong điều kiện thị trường vàng Việt Nam rất bị ảnh hưởng bởi yếu tố này. Vậy nên, khi sử dụng mô hình trên để dự báo giá vàng cần phải
tự tìm hiểu và kết hợp với yếu tố tâm lý đám đông để đưa ra kết quả chính xác.
Trong điều kiện thu thập số liệu không cho phép, luận văn của tôi chưa thực hiện
kiểm định đối với các nhân tố khác ảnh hưởng đến sự thay đổi của giá vàng như mô hình của
các tác giả Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri – Khoa Toán, Đại học Công nghệ Malaysia như
70
chỉ số biến động các hàng hóa, cung tiền…hay yếu tố cung - cầu vàng (là kết quả nghiên cứu
của các tác giả khác). Trong tương lai việc mở rộng luận văn sẽ hướng tới việc đưa những biến vừa nêu vào mô hình để đánh giá tính bền vững và độ dự đoán của mô hình hồi quy
tuyến tính bội của giá vàng. Đồng thời, tôi sẽ nghiên cứu và tìm kiếm mô hình phù hợp hơn
cho thị trường vàng trong nước , nhằm có thể khảo sát yếu tố tâm lý đám đông cùng với
những nhân tố khác để đưa ra kết luận chính xác nhất về mối quan hệ và mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố này lên sự thay đổi của g iá vàng.
71
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mục Hệ thống văn bản. Website của Bộ Tài chính Việt Nam www.mof.gov.vn Mục Tỷ giá hối đoái, Phần biểu đồ. Website của Ngân Hàng TMCP Á Châu
www.acb.com.vn
Nghị định 95/2011/NĐ-CP ngày 20/10/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 202/2004/NĐ-CP ngày 10/12/2004 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân
hàng.
Ramu Ramanathan. Giáo trình Giảng dạy Kinh tế Fullbright (niên khóa 2011
– 2013), Chương 3 và 4 - Nhập môn kinh tế lượng với các ứng dụng. Dịch từ
tiếng Anh. Người biên dịch Thục Đoan, hiệu đích Cao Hào Thi.
Sigmund Freud, 2001. Tâm lý đám đông và phân tích cái tôi. Dịch từ tiếng
Anh. Người dịch Phạm Mịnh Ngọc, Ebook.
Thông tư số 22/2010/TT-NHNN ngày 29/10/2010 của NHNN quy định về huy
động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức tín dụng.
Thông tư số 182/2010/TT-BTC ngày 12/11/2010 của Bộ Tài Chính sửa đổi mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi mặt hàng vàng trong Biểu thuế nhập khẩu
ưu đãi.
Thông tư số 11/2011/TT-NHNN 29/04/2011 của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của tổ chức
tín dụng.
Thông tư số 32/2011/TT-NHNN ngày 6/10/2011 của NHNN về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 11/2011/ TT-QLNH ngày 29/4/2011 của
NHNN Việt Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng
của tổ chức tín dụng.
72
Thông tư số 12/2012/TT-NHNN ngày 27/04/2012 của NHNN về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 11 /2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 của
NHNN Việt Nam quy định về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng
của tổ chức tín dụng.
Trần Ngọc Thơ. Giáo trình: Tài chính doanh nghiệp hiện đại. NXB Thống kê
2007.
Trần Ngọc Thơ – Hồ Quốc Tuấn. Ứng dụng tài chính hành vi vào phân tích
thực tiễn. Tạp chí Phát triển kinh tế số 201 tháng 07/2007.
Website của Ngân Hàng Công Thương Việt Nam www.vietinbank.vn Website của Sở Giao dịch Chứng khoán TP. HCM www.hsx.vn
Tiếng Anh
Collin, 2003. Why is gold different from other assets? An empirical
investigation. Report by World Gold Council.
David, 2007. The future of gold: Price forecast. Credit Suisee Securities
Report.
David and Jeff, 2009. Forecasting Gold ascommodity. Goldman Sachs Global
Economics. Commodities and Research, Paper No.183.
Dipak et al., 2000. Gold as an Inflation Hedge. Department of Economics,
University of Stirling, Scotland.
Eric & Robert, June 2006. Short-run and Long-run: Determinants of the price
of gold. Research study No.32, World Gold Council.
Greg, 2007. Gold prices and inflation. Bank of Canada, Working paper No.35.
Ismail et al., 2009. Forecasting Gold Prices Using Multiple Linear Regression
Method. Department of Mathematics, Faculty of Science, University
Technology Malaysia, Malaysia. American Journal of Applied Sciences,
Volume 6, Issue 8, page 1509 – 1514.
Joelle and Martin, 2006. What’s the frenzy surrounding gold price?. Economic
viewpoint, Desjardins economic studies.
73
Jonathan, 2004. Gold and Silver: The changing role of precious metal.
Washington University.
Paul, 2007. Gold is Money and Nothingelse. Redburn Research Paper.
Rhona, 2007. Exciting Advances in the Local Gold Market. World Gold
Council.
Ronal, 2008. Special Report on Gold: Shiny Outlook. Report by Erst Bank.
Stephen, 1998. Gold as a store of Value. World Gold Council. Research study
No.22.
The Oxford Economics, July 2011. The impact of inflationand deflation on the
case for gold. Word Gold Council.
Website của Cơ quan Năng lượng Mỹ www.eia.gov Website của Hội Đồng Vàng Thế Giới www.gold.org Website của Ngân hàng Châu Á www.adb.org/Statistics Website USAgold, http://www.usagold.com/gold-price.html
Các trang web khác : www.kitco.com
www.vneconomy.vn
www.livecharts.co.uk
74
PHỤ LỤC
Trong mô hình nghiên cứu của các nhà kinh tế học Z. Ismail, A. Yahya và A. Shabri
– Khoa Toán, Đại học Công nghệ Malaysia này thuộc Khoa Toán - Trường Đại học Công
Nghệ Malaysia không đưa vào nghiên cứu biến lãi suất, tuy nhiên, trong các nghiên cứu
khác trên thế giới có cho thấy sự ảnh hưởng của lãi suất đến sự thay đổi của giá vàng thế
giới. Vậy có hay không sự ảnh hưởng của lãi suất đến sự thay đổi của giá vàng trong nước?
Để tìm hiểu và trả lời cho vấn đề này, tôi tiếp tục đưa vào mô hình hồi quy của giá vàng
trong nước biến lãi suất cơ bản (được công bố trên trang web của Ngân hàng Nhà nước) để
nghiên cứu.
Mô hình giá vàng trong nước lúc này có dạng như sau:
GiaVangi = a1 + a2*GiaVangTGi + a3*TyGiai + a4*LamPhati
+ a5*LaiSuat + a6**CungTieni + ui
Tiến hành khảo sát khi đưa biến lãi suất cơ bản vào mô hình
Model Summaryf
Change Statistics
Adjusted R
Std. Error of
Durbin-
Model
R
R Square
Square
the Estimate
R Square Change F Change df1
df2 Sig. F Change
Watson
.981a
.963
.963
1.90151E6
.963
4.779E4
1 1824
.000
1
.988b
.977
.977
1.50022E6
.014
1107.313
1 1823
.000
2
.989c
.977
.977
1.49779E6
.000
6.908
1 1822
.009
3
.989d
.978
.978
1.46130E6
.001
93.142
1 1821
.000
4
.990e
.980
.000
.980
1.40885E6
.002
139.107
1 1820
.421
5
a. Predictors: (Constant), gia vang the
gioi
b. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia
c. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung
tien
d. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung tien, lai suat co ban
e. Predictors: (Constant), gia vang the gioi, ty gia, cung tien, lai suat co ban, lam phat
f. Dependent Variable: gia vang
75
Quan sát mô hình khi thêm biến lãi suất thì R square là 0.98 và R square change tăng lên, cho thấy sự góp mặt của biến lãi suất làm tăng khả năng giải thích sự thay đổi của giá vàng và mô hình có thể giải thích được đến 98% sự thay đổi của giá vàng trong nước.
Kiểm tra thủ tục chọn biến sau khi có thêm biến lãi suất
Coefficientsa
Unstandardized
Standardized
95% Confidence Interval
Collinearity
Coefficients
Coefficients
for B
Correlations
Statistics
Lower
Upper
Zero-
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Bound
Bound
order Partial Part Tolerance
VIF
1 (Constant)
-7.819E6 154108.749
-50.738 .000
-8.121E6
-7.517E6
gia vang the gioi
30164.453
137.980
.981 218.615 .000
29893.838
30435.068
.981
.981 .981
1.000
1.000
2 (Constant)
-3.208E7 739241.450
-43.400 .000
-3.353E7
-3.063E7
gia vang the gioi
20540.635
309.019
.668 66.471 .000
19934.567
21146.703
.981
.841 .235
.124
8.058
ty gia
1918.793
57.662
.335 33.276 .000
1805.702
2031.885
.960
.615 .118
.124
8.058
3 (Constant)
-3.273E7 777761.184
-42.080 .000
-3.425E7
-3.120E7
gia vang the gioi
20462.322
309.955
.666 66.017 .000
19854.418
21070.226
.981
.840 .233
.123
8.133
ty gia
1940.139
58.139
.338 33.371 .000
1826.113
2054.166
.960
.616 .118
.122
8.218
cung tien
11072.803
4212.953
.009
2.628 .009
2810.078
19335.528 -.105
.061 .009
.971
1.030
4 (Constant)
-3.527E7 803198.356
-43.911 .000
-3.684E7
-3.369E7
gia vang the gioi
19913.922
307.695
.648 64.720 .000
19310.450
20517.394
.981
.835 .223
.119
8.420
ty gia
2048.284
57.819
.357 35.426 .000
1934.886
2161.682
.960
.639 .122
.117
8.539
cung tien
-21885.396
5343.860
-.019
-4.095 .000 -32366.136 -11404.656 -.105 -.096 -.014
.574
1.741
Lai suat co ban
251182.151
26026.551
.045
9.651 .000 200137.121 302227.181 -.054
.221 .033
.557
1.797
5 (Constant)
-3.731E7 793497.683
-47.022 .000
-3.887E7
-3.576E7
gia vang the gioi
18281.758
327.341
.595 55.849 .000
17639.754
18923.763
.981
.795 .186
.098 10.253
ty gia
2273.039
58.911
.396 38.584 .000
2157.499
2388.579
.960
.671 .128
.105
9.537
cung tien
-23665.022
5154.270
-.020
-4.591 .000 -33773.928 -13556.116 -.105 -.107 -.015
.574
1.743
Lai suat co ban
25079.109
31577.442
.004
.794 .427 -36852.726
87010.945 -.054
.019 .003
.351
2.845
lam phat
129122.445
10947.809
.062 11.794 .000 107650.854 150594.035
.220
.266 .039
.397
2.522
a. Dependent Variable: gia vang
76
Mô hình 4 trong bảng trên cho thấy khi thêm biến lãi suất vào chỉ số t vẫn thỏa mãn t > 2 và sig. < 0.05 (sig rất nhỏ, gần bằng 0). Chứng tỏ mô hình 4 gồm các biến giá vàng thế giới, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, cung tiền và lãi suất là phù hợp và các biến có ảnh hưởng đến giá vàng trong nước. Nhớ lại mô hình 4 trong bảng 4.4 gồm các biến giá vàng thế giới, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, cung tiền và lạm phát, mô hình này vẫn có các chỉ số t thỏa mãn t > 2 và sig. < 0.05.
Tuy nhiên, khi mô hình 5 trong bảng trên khi thêm biến lạm phát làm cho xuất hiện giá trị sig. = 0.427 lúc này lớn hơn mức ý nghĩa α = 0.05. Qua đó, cho thấy có sự liên hệ giữa hai biến lãi suất và lạm phát, nếu mô hình tồn tại một trong hai biến thì phù hợp nhưng có đồng thời hai biến này thì mô hình không đảm bảo. Điều này phù hợp với thực tế khi lạm phát luôn đi kèm với sự biến động của lãi suất và lãi suất chính là sự phản ánh rõ nét của tình hình lạm phát trên thị trường. Do đó, mô hình phù hợp cho giá vàng trong nước khi thêm biến lãi suất là mô hình 4 trong bảng Coefficients trên.
Kiểm tra mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến hay không
Coefficientsa
Unstandardized
Standardized
Collinearity
Coefficients
Coefficients
95% Confidence Interval for B
Statistics
Model
B
Std. Error
Beta
t
Sig.
Lower Bound
Upper Bound
Tolerance
VIF
1
(Constant)
-2217.897
32.250
-68.772 .000
-2281.147
-2154.646
ty gia
.176
.002
.945 115.620 .000
.179
.976
1.024
.173
Lai suat co ban
15.621
1.948
.085
8.021 .000
19.440
.576
1.735
11.801
cung tien
-.788
.406
-.021
-1.938 .053
.010
.576
1.737
-1.585
a. Dependent Variable: gia vang the gioi
Theo kết quả trên, độ chấp nhận (Tolerance), thường dùng để đo lường hiện tượng đa
cộng tuyến, khá cao và hệ số phóng đại (Variance inflation factor – VIF) nhỏ của biến tỷ giá,
biến cung tiền và biến lạm phát đã khẳng định không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các
biến độc lập.
Xem xét mô hình có tự tương quan không
Giả thiết: Tự tương quan: H0: trong mô hình không có tự tương quan
77
Quan sát cột Durbin-Watson trong bảng Model sumary trong bảng dưới ta thấy
d=0,086 (0 < d < 1), chứng tỏ mô hình có tự tương quan dương.
Model Summaryb
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
Durbin-Watson
1
.939a
.881
.881
111.26137
.086
a. Predictors: (Constant), cung tien, ty gia, lai suat co ban
b. Dependent Variable: gia vang the gioi
Ta có thể khắc phục tự tương quan dựa trên giá trị của d của durbin-watson:
ρ = 1- d/2 = 1- 0,086/2 = 0,957
Biến đổi biến phụ thuộc và biến độc lập theo dạng:
’ = Yt – ρ*Yt-1
Yt
’ = Xt – ρ*Xt-1
Xt
Sau khi biến đổi các biến mới sẽ được thể hiện như sau :
GoldPrice = GiaVang – 0,957*GiaVang-1
GoldPriceW = GiaVangTG – 0,957*GiaVangTG-1
RateExchange = TyGia – 0,957*TyGia-1
MoneySupply = CungTien – 0,957*CungTien-1
InterestRateNew = LaiSuat – 0,957*LaiSuat-1
Kiểm định biến phụ thuộc mới (GoldPrice) và các biến độc lập mới (GoldPriceW,
OilPrice, RateExchange, InterestRateNew) cho kết quả như sau:
Model Summaryb
Adjusted R
Std. Error of the
Model
R
R Square
Square
Estimate
Durbin-Watson
.753a
.566
.565
3.22570E8
1.651
1
a. Predictors: (Constant), cung tien moi, gia vàng the gioi moi, lai suat co ban moi, ty gia
moi
b. Dependent Variable: gia vang moi
78
Kết quả trên cho thấy d = 1,651 (gần bằng 2) nên không còn tự tương quan đối với
phương trình sai phân tổng quát.
Như vậy hàm hồi quy của giá vàng là:
GiaVang = -0,0003527 + 19.913,922*GiaVangTG + 2.048,284*TyGia
- 21.885,396*CungTien + 251.182,151*LaiSuat
Kết quả nghiên cứu :
Qua nghiên cứu cho thấy, có tồn tại các nhân tố ảnh hưởng lên giá vàng trong nước là
giá vàng thế giới, tỷ giá giữa đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng, cung tiền và lãi suất cơ bản. Sự
thay đổi của các nhân tố giá vàng thế giới, tỷ giá và lãi suất cơ bản có mối quan hệ tỷ lệ thuận
đối với sự thay đổi của giá vàng trong nước, riêng sự thay đổi của nhân tố cung tiền thì tỷ lệ
nghịch với sự thay đổi của giá vàng trong nước. Cụ thể mức độ ảnh hưởng là :
+ Khi giá vàng thế giới tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ
tăng, giá vàng thế giới tăng 1 USD/1 ounce thì giá vàng Việt Nam sẽ tăng trung bình khoảng
19.913,922 đồng/lượng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi tỷ giá tăng thì giá vàng trong nước cũng tăng theo, tỷ giá tăng 1 đồng thì giá
vàng trong nước sẽ tăng 2.048,284 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi cung tiền tăng thì giá vàng trong nước giảm, cung tiền tăng 1% thì giá vàng
trong nước sẽ giảm 21.885,396 đồng (khi các yếu tố khác không đổi).
+ Khi lãi suất cơ bản tăng và các yếu tố khác không đổi thì giá vàng trong nước sẽ
tăng, lãi suất cơ bản tăng 1% thì giá vàng trong nước tăng 251.182,151 đồng.
Theo kết quả từ hàm hồi quy giá vàng vừa thu thập đ ược ở trên, ta có thể kết luận rằng sự thay đổi của giá vàng thế giới, tỷ giá đồng Đô la Mỹ - Việt Nam đồng và lãi suất cơ bản có
ảnh hưởng cùng chiều tới sự thay đổi giá vàng trong nước, sự thay đổi của cung tiền ảnh hưởng ngược chiều tới sự thay đổi của giá vàng trong nước, điều này cũng phù hợp với dự đoán ban đầu khi chưa kiểm định và tương đồng với các kết quả nghiên cứu khác trên thế giới.
Qua đó cũng cho thấy sự ảnh hưởng của lãi suất cơ bản lên sự thay đổi của giá vàng
trong nước. Thực tế cũng cho thấy, khi lãi suất cơ bản giảm, lượng tiền gửi tiết kiệm cũng
giảm, đồng nghĩa tiền rút bớt sang kênh đầu tư khác như đô la Mỹ, mua bất động sản…nhưng
79
mua vàng vẫn là sự lựa chọn của đại đa số các nhà đầu tư (từ nhà đầu tư lớn đến những cá
nhân nhỏ lẻ). Điều này đã góp phần làm cho giá vàng trong nước thay đổi tùy theo biến động
thực tế của lãi suất cơ bản.