.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
HUỲNH CHÂU NGỌC TUYẾT MỐI QUAN HỆ PHI TUYẾN LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014
.
.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
HUỲNH CHÂU NGỌC TUYẾT MỐI QUAN HỆ PHI TUYẾN LẠM PHÁT VÀ TĂNG TRƯỞNG Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Chuyên ngành : Tài chính ngân hàng Mã số : 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ VIỆT QUẢNG
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2014
.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả luận
văn là trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
Huỳnh Châu Ngọc Tuyết
Mục Lục
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
TÓM TẮT .................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU ..................................................................................... 2
CHƯƠNG 2 - TỔNG QUAN LÝ THUYẾT ........................................................... 5
2.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế ....................................... 5 2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới .................................................. 10
CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU / DỮ LIỆU ............................. 21
3.1. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 21 3.1.1. Mô hình ngưỡng của Hansen (1999)........................................................ 21 3.1.2. Mô hình mở rộng của mô hình Hansen (1999) ........................................ 26 3.1.3. Mô hình áp dụng: ..................................................................................... 28 3.2. Dữ liệu: ........................................................................................................ 29
CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 38
4.1. Kết quả nghiên cứu ..................................................................................... 38 4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu ..................................................................... 43
CHƯƠNG 5 - LIÊN HỆ VIỆT NAM .................................................................... 47
5.1. Áp dụng mô hình ngưỡng lạm phát tại Việt Nam ....................................... 47
5.2. Tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh ở Việt Nam giai đoạn 1993-2013 và dự báo năm 2014 -2015: ....................................................................................... 53 5.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu ngưỡng ở Việt Nam .................................... 56
CHƯƠNG 6 - KẾT LUẬN ..................................................................................... 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC A
PHỤ LỤC B
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp quan điểm của một số lý thuyết kinh tế về mối quan hệ lạm phát- tăng trưởng ............................................................................................. 10
Bảng 2.2: Bảng tóm tắt quan hệ lạm phát và tăng trưởng theo các nghiên cứu thực nghiệm gần đây trên thế giới ......................................................................... 19
Bảng 3.1: Danh sách các biến được bao gồm trong mô hình áp dụng ............... 30
Bảng 3.2: Thống kê của dữ liệu của 74 nước đang phát triển trong giai đoạn 1993-2012 ................................................................................................................. 37
Bảng 4.1: Kết quả nghiên cứu ................................................................................ 38
Bảng 5.1: Thống kê dữ liệu lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1993-2013 ........................................................................................................ 53
Bảng 5.2: Kết quả kiểm định ngưỡng ở Việt Nam ............................................... 48
DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Đồ thị 3.1: Phân phối tăng trưởng GDP của 74 nước đang phát triển giai đoạn
1993-2012 ................................................................................................................. 32
Đồ thị 3.2: Phân phối lạm phát trước khi được chuyển đổi theo hàm semi-log của
74 nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012 .......................................................... 32
Đồ thị 3.3: Phân phối lạm phát sau khi được chuyển đổi theo hàm semi-log của 74
nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012 ............................................................... 33
Đồ thị 3.4: Phân phối tổng mức đầu tư (%GDP) của 74 nước đang phát triển giai
đoạn 1993-2012 ......................................................................................................... 33
Đồ thị 3.5: Phân phối tăng trưởng dân số của 74 nước đang phát triển giai đoạn
1993-2012 ................................................................................................................. 34
Đồ thị 3.6: Phân phối thu nhập ban đầu trên đầu người của 74 nước đang phát
triển giai đoạn 1993-2012 ......................................................................................... 34
Đồ thị 3.7: Phân phối tỷ lệ tăng trưởng của tỷ lệ mậu dịch của 74 nước đang phát
triển giai đoạn 1993-2012 ......................................................................................... 35
Đồ thị 3.8: Phân phối độ lệch chuẩn của tỷ lệ mậu dịch của 74 nước đang phát
triển giai đoạn 1993-2012 ......................................................................................... 35
Đồ thị 3.9: Phân phối dộ mở cửa thương mại của 74 nước đang phát triển giai
đoạn 1993-2012 ......................................................................................................... 36
Đồ thị 3.10: Phân phối độ lệch chuẩn của độ mở cửa thương mại của 74 nước
đang phát triển giai đoạn 1993-2012 ......................................................................... 36
Đồ thị 4.1: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (1) ........................................... 40
Đồ thị 4.2: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (2) ........................................... 41
Đồ thị 5.1: Chỉ số lạm phát và tăng trưởng giai đoạn 1993-2013 ............................ 53
Đồ thị 5.2: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (3) ............................................ 50
Đồ thị 5.3: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (4) ............................................ 51
1
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng ở các
nước đang phát triển thông qua mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999). Sử
dụng dữ liệu của 74 nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012, bài viết xác định
tính phi tuyến trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng tại các nước đang
phát triển. Áp dụng mô hình tương tự cho dữ liệu ở Việt Nam giai đoạn 1993 –
2012, bài viết tìm thấy ngưỡng lạm phát tại Việt Nam. Kết quả này đóng góp quan
trọng trong việc hoạch định chính sách kiểm soát lạm phát tại từng thời kỳ.
2
CHƯƠNG 1 - GIỚI THIỆU
Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai trong những mục tiêu chính của
chính sách kinh tế vĩ mô.Theo đó, các quốc gia thường có xu hướng kiềm chế lạm
phát ở mức thấp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và ổn định nền kinh tế. Tuy nhiên, câu
hỏi đặt ra là liệu việc kiềm chế lạm phát ở mức thấp có luôn tạo ra tác động tích
cực đến tăng trưởng đối với tất cả các nền kinh tế tại bất kỳ thời điểm nào hay
không. Hay là tồn tại một số điều kiện nhất định để việc áp dụng chính sách kiềm
chế lạm phát ở mức thấp là phù hợp.
Theo các nghiên cứu thực nghiệm gần đây, lạm phát và tăng trưởng kinh tế
có mối quan hệ phi tuyến. Theo đó, bắt đầu từ Fischer (1993), hàng loạt các nghiên
cứu về mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng ra đời. Các nhà kinh tế
học áp dụng các mô hình khác nhau đối với mẫu dữ liệu đa quốc gia để tìm ra mức
ngưỡng lạm phát phù hợp, chia mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng thành
hai ‘chế độ’ – ‘chế độ’ lạm phát tác động tăng trưởng kinh tế khi ở dưới ngưỡng và
‘chế độ’ lạm phát tác động tăng trưởng khi ở trên mức ngưỡng. Kết quả các bài
nghiên cứu cho thấy lạm phát ở dưới mức ngưỡng có tác động thúc đẩy tăng
trưởng trong khi lạm phát trên mức ngưỡng lại có tác động kìm hãm tăng trưởng.
Drukker (2005) và Bick (2010) áp dụng mô hình ngưỡng của Hansen để tìm mức
ngưỡng phù hợp đối với các nước đang phát triển. Mức ngưỡng được tìm thấy lần
lượt tại hai bài nghiên cứu là 19,2% và 12%.
Tại Việt Nam, có nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế. Các bài nghiên cứu này đã xác định sự tồn tại của mối quan hệ
tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng. Tuy nhiên, hầu hết các bài nghiên cứu
này chưa xem xét tính phi tuyến trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
và chưa đo lường mức ngưỡng lạm phát tại Việt Nam bằng phương pháp định
lượng. Do đó, bài viết đặt ra câu hỏi về sự tồn tại ngưỡng lạm phát ở Việt Nam nói
riêng và tại các nước đang phát triển nói chung. Từ đó, xem xét sự phù hợp của
3
chính sách kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất trong việc điều tiết kinh tế vĩ mô ở
các nước đang phát triển.
Để nghiên cứu về vấn đề này, bài viết áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng
của Hansen (1999) của tác giả Alexander Bick tại bài nghiên cứu “Threshold
effects of inflation on economic growth in developing countries” (2010). Sử dụng
dữ liệu của 74 nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012, bài viết xác định ngưỡng
lạm phát tại các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Tiếp theo đó, sau khi
xác định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát tại các quốc gia đang phát triển, bài viết
kiểm định mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt
Nam bằng việc áp dụng phương pháp nghiên cứu tương tự. Từ đó, bài viết tìm giá
trị ngưỡng lạm phát tại Việt Nam và ý nghĩa của ngưỡng lạm phát trong việc hoạch
định chính sách kinh tế vĩ mô.
Chương 2 của bài viết sẽ nêu lại các lý thuyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
và lạm phát theo các trường phái khác nhau. Tiếp theo đó, bài viết sơ lược qua các
kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát và tăng
trưởng trong thời gian gần đây.
Chương 3 của bài viết nêu ra các phương pháp áp nghiên cứu áp dụng trong
bài viết: các mô hình áp dụng, cách thức ước lượng mô hình; và, dữ liệu được sử
dụng trong mô hình (phạm vi của dữ liệu, các biến cụ thể trong mô hình và bảng
thống kê dữ liệu).
Chương 4 đưa ra kết quả nghiên cứu đạt được và thảo luận các kết quả
nghiên cứu đối với các quốc gia đang phát triển.
Chương 5 xem xét tình hình tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại Việt Nam
những năm gần đây. Áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999) lên dữ
liệu Việt Nam giai đoạn 1993-2012 để kiểm định việc tồn tại ngưỡng lạm phát ở
Việt Nam.
4
Và cuối cùng, bài viết tổng kết các kết quả nghiên cứu đạt được và nêu lên
các hạn chế còn tồn tại trong quá trình nghiên cứu.
5
CHƯƠNG 2 - TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Chương 2 của bài viết sẽ sơ lược lại các lý thuyết và các nghiên cứu về mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng trên thế giới và xem xét lại các bài nghiên
cứu thực nghiệm tại trường hợp Việt Nam đã được thực hiện gần đây. Cuối cùng là
phần câu hỏi nghiên cứu đặt ra sau khi tìm hiểu các bài nghiên cứu về quan hệ lạm
phát và tăng trưởng.
2.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
Các lý thuyết cổ điển, tân cổ điển, Keynes, tân Keynes và lý thuyêt trọng tiền
đều có đề cập đến mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng.
Theo lý thuyết cổ điển, trong ngắn hạn, tăng trưởng kinh tế và lạm phát
không có tồn tại mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Cụ thể, theo phương trình
của Fischer: P=M*V/T và phương trình Pigou: M=P*k*Y (trong đó M là khối
lượng tiền tệ trong lưu thông, V là tốc độ lưu thông tiền tệ, T là tổng khối lượng
các hàng hóa và dịch vụ được đem ra giao dịch, P là mặt bằng giá chung, Y là thu
nhập quốc gia tính theo giá cố định và k là tham số quan hệ), tăng trưởng kinh tế
được xác định từ các nhân tố thực (đã loại trừ yếu tố giá) trong khi giá cả được xác
định từ khối lượng tiền trong lưu thông. Do đó, trong ngắn hạn, không tồn tại mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Tuy nhiên, các phương trình cổ điển nêu
trên vẫn chỉ ra một quan hệ ngược chiều giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát ở
tầm dài hạn, tức là khi các nhân tố sản xuất sẽ thay đổi theo đà phát triển của lực
lượng lao động và tiến bộ công nghệ. Các phương trình cổ điển trên thể hiện quan
điểm của lý thuyết cổ điển cho rằng về dài hạn, nếu cung tiền và tốc độ lưu thông
tiền tệ ổn định, một sự tăng lên của sản xuất do các nhân tố ngoại sinh sẽ làm giảm
mặt bằng giá, và ngược lại.
Theo lý thuyết tân cổ điển, các nhà kinh tế khẳng định tính trung lập của tiền
tệ đối với tăng trưởng kinh tế và nguyên tắc phân tích tách rời khu vực thực khỏi
6
khu vực tiền tệ của lý thuyết cổ điển. Các giả thuyết chính của mô hình tăng
trưởng tân cổ điển gắn với lạm phát gồm : (i) Tiền tệ do Chính phủ chủ động phát
hành; do đó cung tiền tệ là biến ngoại sinh ; (ii) Cầu tiền tệ chỉ để đảm bảo quá
trình lưu thông hàng hóa và dịch vụ diễn ra thuận lợi. Cân bằng giữa cung và cầu
tiền tệ được thực hiện thông qua điều chỉnh mặt bằng giá. Theo đó, các nhà kinh tế
học đã phát triển phương trình thể hiện giá cả như sau : M = k * Y * P hay P = M
/ (k*Y). Theo phương trình này, tương ứng với một thu nhập đã biết và một thói
quen thanh toán đã có, mặt bằng giá chung sẽ tỷ lệ thuận với khối lượng tiền tệ
trong lưu thông. Như vậy, cách xác định giá ở đây cũng tương tự như trong lý
thuyết cổ điển; tức là ở tầm ngắn hạn, giá cả hoàn toàn phụ thuộc vào khối lượng
tiền tệ, đồng thời không tồn tại quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh tế và lạm
phát. Tuy nhiên, phương trình trên cũng cho thấy ở tầm dài hạn, giá cả có quan hệ
âm với tăng trưởng kinh tế. Một sự tăng lên của sản xuất sẽ kéo theo hiện tượng
giảm giá nếu tổng cung tiền tệ không đổi; và ngược lại khi sản xuất giảm sút thì
giá cả tăng lên. Lý thuyết tân cổ điển cho rằng chiều nhân quả đi từ tổng cầu tới
giá; tức là giá được điều chỉnh liên tục cho đến khi đạt được cân đối cung cầu trên
thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Theo lý thuyết Keynes, lạm phát và tăng trưởng không có quan hệ với nhau
trong ngắn hạn và có quan hệ tương quan dương trong dài hạn. Theo đó, Keynes
sử dụng phân tích cận biên của lý thuyết tân cổ điển, song bổ sung thêm hai biến
ngoại sinh là tiền lương danh nghĩa và khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Trong đó,
tiền lương danh nghĩa thường cố định và bị công đoàn gây áp lực phải đảm bảo
căn cứ vào nhu cầu thực tế của người lao động và mức độ căng thẳng trên thị
trường lao động và khối lượng tiền tệ trong lưu thông do các nhà lãnh đạo tiền tệ
quyết định. Từ các giả thuyết ban đầu, Keynes xây dựng ba hàm quan hệ kinh tế vĩ
mô, gồm hàm tiêu dùng, hàm đầu tư và hàm cân bằng tiền tệ; sau đó xây dựng
thành một hệ mô hình để xác định đồng thời khối lượng sản xuất (tăng trưởng kinh
tế) và mặt bằng giá chung (lạm phát). Tất cả các mô hình kinh tế vĩ mô của lý
7
thuyết Keynes truyền thống đều xem tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư và đầu tư là
nhân tố quyết định quá trình sản xuất dài hạn.
Ở tầm ngắn hạn, cấu trúc của hệ thống sản xuất và kỹ thuật sản xuất có thể
được giả định là không đổi; nên sản xuất là hàm của số lượng việc làm, trong khi
số lượng việc làm là biến ngoại sinh. Điều này có nghĩa là số lượng việc làm càng
tăng thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao. Mặt khác, lý thuyết Keynes cho rằng
không phải tiền lương danh nghĩa mà chính là nhu cầu đặt hàng mà các doanh
nghiệp mong chờ, hy vọng mới là nhân tố chính xác định số lượng việc làm. Trên
thực tế, chính vì nhu cầu đặt hàng không đủ như các doanh nghiệp mong chờ nên
mới có hiện tượng thất nghiệp. Vì vậy, việc hạ thấp tiền lương cũng không phải là
phương thuốc giải quyết khó khăn này vì nó sẽ làm cho tổng cầu giảm đi; hậu quả
là các doanh nghiệp sẽ dự báo nhu cầu đặt hàng tiếp tục giảm hơn, qua đó sẽ phải
tiếp tục áp dụng biện pháp giảm tiếp số việc làm. Tình trạng thất nghiệp sẽ lại gia
tăng. Theo Keynes, chủ doanh nghiệp luôn luôn tìm cách trả lương (W) theo năng
suất lao động (dY/dN) vì điều đó cho phép họ cực đại hóa lợi nhuận của mình. Do
vậy, phương trình xác định tiền lương danh nghĩa trong lý thuyết Keynes như sau:
P=W/((dY/dN)). Từ đây chúng ta thấy ở tầm ngắn hạn, mặt bằng giá được xác
định từ tiền lương danh nghĩa; trong khi tiền lương danh nghĩa đã được xác định
từ trước, bên ngoài hệ thống cân bằng kinh tế vĩ mô. Vì Y=Y(N), nên chúng ta có
P=P(N), tức là tương ứng với mỗi trình độ việc làm và một mức tiền lương danh
nghĩa đã cho, mặt bằng giá đều đã được xác định. Do vậy, mặt bằng giá ở tầm ngắn
hạn là một đại lượng đã xác định được trước, không phải sinh ra từ các cân bằng
kinh tế vĩ mô.Vì ở tầm ngắn hạn, giá và tiền lương danh nghĩa được xem là các
nhân tố đã biết (tức là trở thành các tham số) nên trong các mô hình xây dựng theo
lý thuyết Keynes, quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát có chiều từ lạm
phát đến tăng trưởng. Nếu chính phủ chủ động thực hiện các biện pháp làm hạ thấp
mặt bằng giá, tiền lương thực tế sẽ tăng lên, kéo theo việc các doanh nghiệp giảm
bớt lao động; hậu quả là tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại hoặc giảm sút.
8
Ở tầm dài hạn, vì năng suất lao động dY/dN có xu hướng giảm dần khi số
lượng việc làm tăng lên nên người ta đã cho rằng mặt bằng giá chung sẽ có xu
hướng tăng lên để đảm bảo tiền lương danh nghĩa không đổi. Điều này có nghĩa là
khi số lượng việc làm tăng lên làm cho sản xuất tăng lên thì cũng kèm theo tăng
giá. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát trong lý thuyết Keynes truyền
thống có thể hiểu là dương, tức là tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ đi kèm hiện tượng
lạm phát.
Theo lý thuyết tân Keynes, lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ tương
quan dương trong cả ngắn hạn và dài hạn. Các nhà kinh tế học hậu Keynes tập
trung nghiên cứu quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn với mục tiêu chính là duy trì
được sự năng động của các nền kinh tế trong điều kiện liên tục có các điểm phi cân
bằng vĩ mô. Khi phân tích mô hình Keynes truyền thống, các nhà kinh tế hậu
Keynes nhận thấy Keynes đã giả định thị trường tiền tệ độc lập với các thị trường
khác; do đó sẽ tạo ra nhiều khó khăn khi giải thích hiện tượng tăng trưởng kinh tế
và lạm phát. Vì vậy, trường phái hậu Keynes đã bổ sung thị trường lao động vào
các phương trình phân tích tiền tệ và lạm phát. Trong lý thuyết Keynes, quan hệ C
+ I < C + S có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó cho phép giải thích hiện tượng thất
nghiệp có nguồn gốc từ tỷ lệ đầu tư thấp hơn tỷ lệ tiết kiệm. Tuy nhiên, trường
phái hậu Keynes đã biến đổi quan hệ này thành quan hệ C + I > C + S. Quan hệ
mới này đã mở ra một mối quan hệ trực tiếp giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát,
theo đó các điểm phi cân bằng kinh tế vĩ mô chỉ có thể xuất hiện trong trường hợp
các nhà sản xuất đầu tư nhiều hơn khả năng tiết kiệm của dân cư. Đầu tư cao dẫn
tới tăng trưởng kinh tế nhanh, song cũng làm cho tỷ lệ lạm phát tăng lên. Khi rơi
vào trường hợp này, cần phải khuyến khích tiết kiệm, kìm hãm đầu tư và hạ dần
tốc độ tăng trưởng kinh tế để giảm dần tỷ lệ lạm phát. Đây là quan điểm chủ đạo
của lý thuyết phi cân bằng lạm phát (inflationnist gap), một nhánh của trường phái
hậu Keynes có xu hướng giải thích lạm phát do cầu kéo.
9
Theo Thuyết trọng tiền, lạm phát và tăng trưởng không có mối quan hệ trong
dài hạn và có thể có mối quan hệ cùng chiều trong ngắn hạn. Lý thuyết này có 3
nguyên lý gồm: (i) Lạm phát là một hiện tượng hoàn toàn tiền tệ; một sự thay đổi
10% khối lượng tiền tệ chắc chắn sẽ kéo theo một sự thay đổi 10% của mặt bằng
giá chung mặc dù việc thay đổi mặt bằng giá chung có thể không diễn ra ngay lập
tức; (ii) Ở tầm ngắn hạn, thay đổi tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ, nhất là khi không được
dự báo, sẽ làm thay đổi mức sản xuất, đồng thời giá cả cũng tự động được điều
chỉnh; và chính sự không ổn định tiền tệ này là nhân tố cơ bản tạo ra các chu kỳ
tăng trưởng ngắn hạn gồm tăng trưởng, bùng nổ, khủng hoảng, suy thoái, tăng
trưởng trở lại... (iii) Ở tầm dài hạn, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoàn toàn độc lập
với tốc độ tăng trưởng tiền tệ. M. Friedman khẳng định: “Theo quan điểm dài hạn,
không tồn tại quan hệ giữa tỷ lệ lạm phát và tốc độ tăng trưởng kinh tế hay tỷ lệ
thất nghiệp. Toàn dụng lao động có thể xảy ra trong khi tỷ lệ lạm phát bằng không;
và cũng có thể xảy ra với tỷ lệ lạm phát 10% mỗi năm và kéo dài". Như vậy, tăng
trưởng kinh tế và lạm phát là hai hiện tượng kinh tế độc lập với nhau xét trên góc
độ dài hạn. Các nhà kinh tế trọng tiền cũng công nhận ở tầm ngắn hạn, có thể vẫn
tồn tại quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp và lạm phát, nhất là quan hệ
ngược chiều giữa những biến động của tiền lương danh nghĩa và tỷ lệ thất nghiệp.
Theo họ, chính sách tiền tệ có thể tác động lên việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp và
nâng đỡ tăng trưởng kinh tế trong thời gian ngắn song không thể kéo dài. Quan
điểm này được rút ra từ kinh nghiệm thực tiễn là mở rộng tiền tệ có thể kích thích
đầu tư; đầu tư tăng thêm sẽ tạo ra việc làm mới và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, người ta còn nhận thấy khi tỷ lệ lạm phát thực tế cao hơn tỷ lệ lạm phát
dự đoán của người lao động thì người lao động cho rằng tiền lương thực tế mà họ
nhận được cao hơn mức dự kiến; do đó họ sẽ làm việc có trách nhiệm hơn, làm cho
quá trình tăng trưởng kinh tế nói chung tăng lên. Như vậy, về thực chất, lạm phát
đã tạo ra ảo tưởng tiền lương đối với người lao động trong thời kỳ ngắn hạn để
kích thích kinh tế... Ngoài những lập luận trên, các nhà kinh tế trọng tiền còn sử
dụng nhiều mô hình thực nghiệm để chứng minh quan điểm của mình. Tuy nhiên,
10
các nhà kinh tế trọng tiền luôn luôn nhấn mạnh tác động tích cực trên chỉ có tính
chất tạm thời.
Tóm tại, tùy từng quan điểm kinh tế tại từng giai đoạn khác nhau mà có
những lý thuyết khác nhau về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế.
Những lý thuyết này vừa đối nghịch nhau, vừa bổ sung cho nhau. Theo đó, bài viết
tóm tắt sơ bộ quan điểm của các lý thuyết tại Bảng 2.1.
Bảng 2.1: Tổng hợp quan điểm của một số lý thuyết kinh tế về mối quan hệ lạm
phát- tăng trưởng
Quan hệ ngắn hạn Quan hệ dài hạn
Không Âm Lý thuyết cổ điển
Không Âm Lý thuyết tân cổ điển
Dương Không hoặc dương yếu Lý thuyết Keynes
Dương Dương Lý thuyết tân Keynes
Không Không hoặc dương yếu Lý thuyết trọng tiền
2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới
Từ đầu những năm 80 đến nay, đã có rất nhiều bài nghiên cứu về mối quan
hệ của lạm phát và tăng trưởng. Hầu hết các nghiên cứu này đều xoay quanh 3 vấn
đề chính: Thứ nhất, sự tồn tại của mối quan hệ của lạm phát và tăng trưởng và tính
chất của mối quan hệ này. Thứ hai, mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng là
mối quan hệ tuyến tính hay phi tuyến. Nếu lạm phát và tăng trưởng có mối quan hệ
phi tuyến, giá trị ngưỡng của lạm phát là bao nhiêu. Liệu giá trị này có khác nhau
đối với những quốc gia khác nhau.
Theo đó, đã có rất nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu và chứng minh được
mối quan hệ tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng. Kết quả các nghiên cứu cho
11
thấy rằng giữa lạm phát và tăng trưởng tồn tại mối quan hệ nhân quả, tác động lẫn
nhau và mối quan hệ này không đơn thuần là tuyến tính.
Tại bài nghiên cứu của mình, dựa trên kết quả hồi quy 101 nước trong giai
đoạn 1960-1989, Fischer (1993) đã xác định mối quan hệ phi tuyến giữa lạm phát
và tăng trưởng. Theo bài nghiên cứu của ông, khi lạm phát ở mức thấp, mối quan
hệ giữa lạm phát và tăng trưởng không tồn tại hoặc thậm chí lạm phát thúc đẩy
tăng trưởng. Trong khi lạm phát ở mức cao có tác động tiêu cực đến tăng trưởng
thông qua tác động giảm đầu tư và tỷ lệ tăng trưởng năng suất.
Sarel (1996) sử dụng dữ liệu hàng năm cho 87 quốc gia trong giai đoạn
1970-1990, đã kết luận rằng, ở mức lạm phát dưới 8%, lạm phát và tăng trưởng có
tương quan thuận nhưng khi lạm phát trên mức đó, lạm phát và tăng trưởng có
tương quan âm.
Song song đó, sử dụng mảng dữ liệu của 145 nước thành viên của Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF) trong khoảng thời gian 1960-1996, kết quả nghiên cứu của Ghosh
và Philips (1998) cho thấy rằng mặc dù lạm phát và tăng trưởng tương quan thuận
tại một tỷ lệ lạm phát rất thấp (khoảng 2-3% một năm), mối quan hệ sẽ đảo ngược
ở mức tỷ lệ cao hơn. Hơn nữa, mối quan hệ là lồi, do đó, sự suy giảm trong tăng
trưởng liên quan đến sự gia tăng lạm phát từ 10% đến 20% là lớn hơn nhiều so với
sự gia tăng từ 40-50%.
Tiếp theo đó, Khan và Senhadji (2001) sử dụng các kỹ thuật phân tích hiện
đại để kiểm định mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng thông qua số liệu của
140 nước - trong đó có cả các nước phát triển và các nước công nghiệp hóa trong
giai đoạn 1960-1998. Kết quả là các tác giả đã tìm ra mức ngưỡng lạm phát ở các
nước đang phát triển là 11-12%/năm và ở các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Và
tác giả cũng nêu rõ là kết quả này phụ thuộc nhiều vào phương pháp ước tính-
12
chẳng hạn như việc có loại trừ đi những số liệu quan sát lạm phát cao hoặc lặp đi
lặp lại nhiều lần.
Li (2006) kiểm nghiệm mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế
bằng cách sử dụng phương trình tăng trưởng chi tiêu Y=C+I+G+NX và phương
trình tăng trưởng kế toán, trên dữ liệu của 90 nước đang phát triển và 25 nước phát
triển từ năm 1961 đến năm 2004. Kết quả là, bài nghiên cứu tìm thấy mối quan hệ
phi tuyến giữa lạm phát và tăng trưởng, nhưng hình thức mối quan hệ phi tuyến
này thì khác nhau đối với các nhóm quốc gia khác nhau. Theo đó, các nước đang
phát triển có 2 mức ngưỡng lạm phát: 14% và 38%. Cơ chế phi tuyến mà 2 mức
ngưỡng này hoạt động được miêu tả như sau: Khi tỷ lệ lạm phát ở dưới mức
ngưỡng đầu tiên (14%), tác động của lạm phát đến tăng trưởng không đáng kể và
thậm chí là tích cực. Khi tỷ lệ lạm phát nằm giữa hai mức ngưỡng, lạm phát sẽ tác
động mạnh mẽ và tiêu cực đến tăng trưởng. Khi lạm phát quá cao- vượt qua mức
ngưỡng thứ 2, tác động biên của lạm phát lên tăng trưởng giảm dần nhưng vẫn
mang ý nghĩa tiêu cực. Đối với các nước đang phát triển, chỉ có một ngưỡng lạm
phát được phát hiện, ước tính khoảng 24%.
Drukker (2005) áp dụng mô hình hồi quy ngưỡng nội sinh mới của Hansen
(1999) trên dữ liệu của 138 nước trong giai đoạn 1950-2000 để ước lượng ngưỡng
lạm phát. Kết quả cho thấy tồn tại hai ngưỡng lạm phát tại các nước phát triển là
2,6% và 12,6% và duy nhất một ngưỡng tại các nước đang phát triển là 19,2%. Đối
với các nước phát triển, lạm phát dưới ngưỡng thúc đẩy tăng trưởng trong khi lạm
phát trên ngưỡng kìm hãm tăng trưởng. Đối với các nước đang phát triển, lạm phát
trên ngưỡng kìm hãm tăng trưởng trong khi lạm phát dưới ngưỡng không có mối
quan hệ với tăng trưởng kinh tế.
Bằng cách áp dụng mô hình chuyển tiếp trơn LSTR lên bảng số liệu của
165 nước trong giai đoạn 1960-2007, Prasad và cộng sự (2010) ước tính rằng đối
với các nền kinh tế thị trường mới nổi, lạm phát trên ngưỡng khoảng 10% , nhanh
13
chóng trở nên có hại cho tăng trưởng, điều này cho thấy sự cần thiết của một chính
sách đối phó lạm phát tại hoặc ở trên ngưỡng đó kịp thời. Đối với các nền kinh tế
phát triển, ngưỡng thấp hơn rất nhiều. Đối với các nước xuất khẩu dầu mỏ, ước
tính ngưỡng khoảng 10%. Ảnh hưởng của lạm phát cao cho các nước xuất khẩu
dầu cũng mạnh hơn cho các nước còn lại.
Trong bài nghiên cứu của Villavicencio và Mignon (2011), các mô hình
PSTR của González et al. (2005) và Fok et al. (2005) được áp dụng cho mẫu dữ
lệu bao gồm 44 quốc gia trong giai đoạn 1961-2004. Phát hiện của bài viết cung
cấp bằng chứng rõ ràng rằng lạm phát tác động phi tuyến đến tăng trưởng kinh tế.
Cụ thể hơn, có tồn tại một ngưỡng mà khi lạm phát trên ngưỡng này, nó tác động
tiêu cực đến tăng trưởng. Giá trị ngưỡng lạm phát này đối với các nước tiên tiến rất
khác so với các nước đang phát triển, ước tính là 2,7% đối với các nền kinh tế công
nghiệp hóa và 17,5% cho nền kinh tế mới nổi. Hơn nữa, đối với tỷ lệ đối với các
nền kinh tế phát triển, trong khi ở mức lạm phát dưới 17,5%, liên kết giữa chúng là
không đáng kể đối với các nước đang phát triển. Sự khác biệt trong các giá trị
ngưỡng giữa những nhóm quốc gia thu được từ phương pháp PSTR minh họa một
mức chịu đựng lạm phát cao hơn đối với các nước mới nổi, có thể được giải thích
bởi các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như tác động Balassa-Samuelson, việc sử
dụng các hệ thống chỉ số, chính sách tỷ giá hối đoái và mức lạm phát cao của các
nước đó. Những kết quả này là mạnh mẽ đối với phương pháp chặn do kết quả
tương tự đã thu được bằng cách sử dụng các ước tính GMM trên phương trình tăng
trưởng bao gồm các hệ số tương tác bậc hai. Căn cứ vào việc tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ
thay đổi của cung tiền tương quan chặt chẽ với nhau, thực tế rằng lạm phát ảnh
hưởng phi tuyến đến tăng trưởng kinh tế có thể có ý nghĩa quan trọng về chính
sách tiền tệ. Thật vậy, tốc độ tăng trưởng cung tiền là công cụ chính của ngân hàng
trung ương cho chính sách tiền tệ, sự tồn tại của một mối quan hệ phi tuyến giữa
lạm phát và tăng trưởng sản lượng cho thấy rằng chính sách tiền tệ có thể có hiệu
14
ứng khác nhau đối với GDP phụ thuộc vào mức lạm phát. Kết quả là, điều này gợi
lên nghi vấn về tính trung lập lâu dài của tiền tệ.
Trong bài nghiên cứu của Bick (2010), tác giả mở rộng mô hình ngưỡng của
Hansen (1999) thông qua các hệ số chặn (regime intercepts) và áp dụng mô hình
này trên mảng số liệu của 40 nước đang phát triển giai đoạn 1960-2004 và sử dụng
số liệu trung bình 5 năm. Kết quả cho thấy giả thuyết giá trị ngưỡng không tồn tại
bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%. Việc tính các hệ số chặn chế độ làm giảm ước tính
ngưỡng từ 19% xuống 12% và giới hạn dưới từ 11,8% đến 5,3%, với khoảng tin
cậy 95%. Điểm nổi bật nhất là nếu không có hệ số chặn chế độ, tỷ lệ lạm phát dưới
ngưỡng 19% có tác động tích cực đáng kể (0,407) lên tăng trưởng với mức ý nghĩa
10%, trong khi các tác động tiêu cực (-0,232) cho tỷ lệ lạm phát trên 19% không
có ý nghĩa thống kê. Ngược lại, nếu có hệ số chặn chế độ, độ lớn các tác động
tăng gấp đôi (0,785 -0,531) và thiết lập tại mức ý nghĩa ít nhất 5 %. Chính các hệ
số chặn chế độ δ1 có ý nghĩa tại mức 5%. Như vậy, việc lựa chọn các mô hình
chính xác, tức là kiểm soát chênh lệch hệ số chặn chế độ, có những ngụ ý quan
trọng. Đầu tiên, ước tính điểm và giới hạn dưới của khoảng tin cậy mà lạm phát
gây hại đến tăng trưởng đều thấp hơn đáng kể. Thứ hai, độ lớn của tác động bất lợi
của tỷ lệ lạm phát trên ngưỡng tăng gấp đôi. Thứ ba, giữ lạm phát dưới ngưỡng rõ
ràng là có lợi hơn.
Tại Việt Nam, cũng có rất nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát
và tăng trưởng. Cụ thể, Nguyễn Trung Chính (2009) nghiên cứu mối quan hệ giữa
tăng trưởng và lạm phát giai đoạn 1995- 2008 dựa trên phương pháp hồi quy đồng
liên kết, mô hình sai số hiệu chỉnh (ECM) và mô hình VAR. Kết quả cho thấy tăng
trưởng và lạm phát có mối quan hệ đồng liên kết với ước lượng hệ số đồng liên kết
là 0.5883 có ý nghĩa ở mức 1%. Hệ số phù hợp R2 cho thấy lạm phát có ảnh hưởng
khá lớn đến tăng trưởng. Kiểm định đồng liên kết Johansen cũng cho kết quả
tương tự với số véc tơ đồng liên kết là 2. Đồng thời, kết quả thu được khi sử dụng
mô hình ECM cho thấy trong ngắn hạn, lạm phát tăng thì tăng trưởng cũng tăng.
15
Trong dài hạn, khi lạm phát và tăng trưởng chệch khỏi điểm cân bằng thì xuất hiện
sự điều chỉnh khiến tăng trưởng thay đổi theo xu hướng đưa các yếu tố của nền
kinh tế về vị trí cân bằng. Song song đó, lạm phát và tăng trưởng thời kỳ trước đều
có ảnh hưởng đến sự thay đổi của tăng trưởng tại thời điểm hiện tại. Kết quả mô
hình VAR cho thấy sự thay đổi lạm phát ảnh hưởng đến tăng trưởng nhiều hơn sự
ảnh hưởng trở lại của tăng trưởng đến lạm phát. Như vậy, từ kết quả phân tích,
tăng trưởng và lạm phát có mối quan hệ dương (đồng biến) trong cả dài hạn và
ngắn hạn và sự thay đổi của tăng trưởng nhanh hơn sự thay đổi của lạm phát trong
cả hai trường hợp. Từ đó, tác giả kết luận trong giai đoạn phân tích, lạm phát có tác
động tích cực đến tăng trưởng và chưa vượt quá ngưỡng kiểm soát.
Theo nghiên cứu của Phùng Duy Quang và cộng sự (2013), giữa lạm phát
và tăng trưởng có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Bằng việc áp dụng mô hình đồng
liên kết, mô hình ECM, mô hình VAR trên dữ liệu Việt Nam giai đoạn 2008-2012,
nhóm tác giả khẳng định sự tồn tại của mối quan hệ tương quan giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế. Theo kết quả mô hình đồng liên kết, mối quan hệ giữa tăng
trưởng và lạm phát dài hạn là quan hệ đồng biến, tức là lạm phát tăng 1 đơn vị thì
tăng trưởng khoảng 0,586278 đơn vị. Hệ số xác định R2 ước lượng được là
86,546% cho thấy rằng lạm phát có ảnh hưởng khá lớn đến tăng trưởng. Đồng thời,
kết quả kiểm định đồng kiên kết bằng phương pháp kiểm định Johansen cho thấy
lạm phát và tăng trưởng kinh tế có quan hệ đồng liên kết với nhau với số véc tơ
đồng liên kết r=2. Tiếp theo đó, nhóm tác giả dùng mô hình sai số hiệu chỉnh
(ECM) để nghiên cứu sự biến động trong ngắn hạn của tăng trưởng và lạm phát.
Theo đó, kết quả cho thấy trong ngắn hạn lạm phát và tăng trưởng kinh tế có quan
hệ đồng biến. Trong dài hạn khi lạm phát và tăng trưởng lệch khỏi vị trí cân bằng
thì sẽ có sự điều chỉnh đưa các yếu tố kinh tế trở về điểm cân bằng. Song song đó,
lạm phát và tăng trưởng thời kỳ trước có tác động đến tăng trưởng thời kỳ hiện tại.
Kết quả mô hình VAR cho thấy 92,568% sự biến động của tăng trưởng được giải
thích bởi biến động của lạm phát và tăng trưởng trong quá khứ và 90,5683% biến
16
động của lạm phát được giải thích bởi biến động của lạm phát và tăng trưởng trong
quá khứ. Chi tiết hơn, kết quả phân tích phương sai trong 12 thời kỳ cho thấy lạm
phát và tăng trưởng không những tác động qua lại lẫn nhau mà còn chịu tác dộng
của bản thân nó trong quá khứ. Trong ngắn hạn, sự thay đỏi của lạm phát ảnh
hưởng đến tăng trưởng nhiều hơn sự ảnh hưởng trở lại của tăng trưởng đến lạm
phát.
Trương Minh Tuấn (2013) áp dụng phương pháp phân tích phương sai dựa
trên mô hình VAR và mô hình sai số hiệu chỉnh ECM để kiểm định mối quan hệ
giữa lạm phát và tăng trưởng trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Theo đó, tác giả sử dụng
mô hình hồi quy đa biến để đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát
dựa trên việc phân tích chuỗi thời gian và tìm hiểu tác động của các cú sốc vào
trong chỉ số giá. Trong mô hình, chỉ số giá của một thời kỳ chịu tác động của cú
sốc cầu, cú sốc cung, cú sốc tiền tệ, cú sốc tỷ giá hối đoái được đại diện lần lượt
bởi các biến như giá dầu thế giới, tỷ lệ tăng trưởng thực, mưc cung tiền và tỷ giá
hối đoái danh nghĩa đa phương. Kết quả phân tích cho thấy giữa tăng trưởng kinh
tế và lạm phát có mối quan hệ nghịch biến trong cả dài hạn và ngắn hạn. Trong dài
hạn, sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế chậm hơn sự thay đổi trong lạm phát. Tuy
nhiên, trong ngắn hạn, sự thay đổi của lạm phát lại ảnh hưởng đến sự thay đổi của
tăng trưởng và mức thay đổi trong lạm phát cao hơn mức thay đổi trong tăng
trưởng kinh tế. Trong dài hạn, dựa vào kết quả ước lượng mô hình ECM và kết quả
kiểm định Engle-Granger (EG) hay Augmented Engle-Granger (AEG), lạm phát và
tăng trưởng kinh tế đồng liên kết với nhau theo quan hệ nghịch biến. Cụ thể, khi
tăng trưởng tăng 1% thì lạm phát giảm 0,037% và ngược lại. Trong ngắn hạn, dựa
vào kết quả ước lượng mô hình VAR và kiểm định mối quan hệ nhân quả Granger
giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế, tác động của tăng trưởng kinh tế đến lạm
phát không có ý nghĩa thống kê trong khi tăng trưởng kinh tế lại chịu tác động của
lạm phát theo quan hệ nghịch biến.
17
Tại bài nghiên cứu của Trần Hoàng Ngân và cộng sự (2013), nhóm tác giả
phân tích hệ số tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế trên dữ liệu thời
gian 1987-2012. Kết quả cho thấy, hệ số tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng
là âm (r=-0,382). Điều này ngụ ý là lạm phát tăng 1% sẽ làm giảm tăng trưởng
0,382%. Tuy nhiên, quan sát dãy số liệu của Việt Nam, nhóm tác giả nhận thấy có
2 năm Việt Nam rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Do đó, nhóm tác giả loại trừ các
số liệu tại hai năm này và xem xét lại hệ số tương quan giữa lạm phát và tăng
trưởng. Kết quả cho thấy, sau khi loại trừ các cú sốc lạm phát, hệ số tương quan
giữa tăng trưởng vẫn âm (r=-0,357). Từ đó, nhóm tác giả kết luận rằng xét trong
một giai đoạn dài, cho dù có xảy ra cú sốc lạm phát hay không thì lạm phát vẫn tác
động tiêu cực ở mức trung bình tới tăng trưởng kinh tế. Lạm phát tăng cao sẽ đẩy
tăng trưởng kinh tế chậm lại. Kết quả này giống kết quả nghiên cứu giai đoạn sau
khủng hoảng dầu hỏa 1973 - 1974 của Fischer (1993), Bruno và Easterly (1995) và
Barro (1998) khi tìm thấy quan hệ âm giữa lạm phát và tăng trưởng. Tiếp theo đó,
nhóm tác giả tách dãy dữ liệu ra hai thời kỳ 1989-2000 và 2001-2012 để xem xét
quan hệ giữa tăng trưởng và lạm phát trong ngắn hạn. Kết quả cho thấy, trong giai
đoạn 1989-2000, lạm phát tác động ngược chiều đến tăng trưởng kinh tế (r=-0,46).
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2001-2012, lạm phát có tác động tiêu cực yếu đến tăng
trưởng kinh tế (r=-0,124). Theo đó, tác giả kết luận rằng trong cả hai giai đoạn
ngắn, lạm phát hoặc tác động tiêu cực thấp tới tăng trưởng kinh tế hoặc không thể
kết luận được mối quan hệ giữa hai biến. Quan sát bảng dữ liệu, nhóm tác giả cho
rằng ngưỡng lạm phát ở Việt Nam khoảng 5 – 7%. Khi lạm phát dưới mức 5%,
lạm phát ảnh hưởng tích cực mạnh đến tăng trưởng (r=0,809). Khi lạm phát trên
7%/năm sẽ có mối quan hệ ngược chiều ở mức cao tới tăng trưởng (r=-0,596).
Theo đó, nếu chọn ngưỡng lạm phát Việt Nam là 5-7% thì phù hoewjp với khảo sát
của nhóm nghiên cứu khi có đến 65,4% người được hỏi cho rằng mức lạm phát
6,6% năm 2006 là mức bình thường. Cũng như vậy, năm 2009, với mức lạm phát
6,52%/năm thì có đến 59,6% cho rằng đây là mức lạm phát trung bình. Từ đó,
nhóm tác giả kết luận rằng xét ở thời kỳ dài 24 – 26 năm, lạm phát ảnh hưởng tiêu
18
cực yếu đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, ảnh hưởng của lạm phát tới tăng
trưởng là tích cực hay tiêu cực còn phụ thuộc vào mức lạm phát sử dụng để xác
định mối tương quan này. Nếu khảo sát trong khoảng thời gian từ năm 1989 -
2012, lạm phát đóng góp 14.6% vào sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế. Còn trong
khoảng thời gian 20 năm từ 1990 – 2009, lạm phát chỉ đóng góp 12.8% vào sự
thay đổi của tốc độ tăng trưởng kinh tế đo bằng tốc độ tăng GDP. Như vậy, nếu chỉ
sử dụng hệ số tương quan giữa CPI và tốc độ tăng GDP ở trên để đưa ra các con số
dự báo về tỷ lệ lạm phát khi muốn đạt tốc độ tăng trưởng nhất định hoặc ngược lại,
đưa ra con số dự báo về tốc độ tăng trưởng kinh tế nhằm mục tiêu kiểm soát lạm
phát ở một mức nhất định là không chính xác. Bởi lạm phát chỉ là một yếu tố, dù
quan trọng, trong vô vàn các yếu tố khác tác động tới tăng trưởng kinh tế. Đồng
thời, ngưỡng lạm phát ở Việt Nam là 5% – 7%. Ở mức này thì lạm phát lại ảnh
hưởng tích cực mạnh đến tăng trưởng kinh tế. Ở khoảng này, lạm phát có thể giải
thích được xấp xỉ 65% sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế.
Các câu hỏi nghiên cứu
Các bài nghiên cứu trên tập trung chủ yếu tìm hiểu về mối quan hệ lạm phát-
tăng trưởng, sự tồn tại của 1 ngưỡng lạm phát và giá trị của nó đối với toàn thế giới
hoặc những nhóm quốc gia riêng biệt. Theo đó, nhiều mô hình kinh tế đã khẳng
định sự tồn tại của mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Tiếp theo đó, bắt đầu
từ Fischer (1993), hàng loạt các nghiên cứu về mối quan hệ phi tuyến giữa lạm
phát và tăng trưởng ra đời. Các nhà kinh tế học áp dụng các mô hình khác nhau đối
với mẫu dữ liệu đa quốc gia đẻ tìm ra mức ngưỡng lạm phát phù hợp, chia mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng thành hai ‘chế độ’ – ‘chế độ’ lạm phát thúc
đẩy tăng trưởng khi ở dưới ngưỡng và ‘chế độ’ lạm phát kìm hãm tăng trưởng khi
ở trên mức ngưỡng. Mức ngưỡng lạm phát ứng với các nhóm quốc gia quóc gia
khác nhau thì khác nhau. Đối với mẫu dữ liệu các nước phát triển, mức ngưỡng
lạm phát tìm được tương đối thấp – từ 1-3%. Theo đó, lạm phát ở dưới mức
ngưỡng này có tác động thúc đẩy tăng trưởng trong khi lạm phát trên mức ngưỡng
19
này lại có tác động kìm hãm tăng trưởng. Đối với các nước đang phát triển, kết quả
từ các bài nghiên cứu cho thấy tồn tại mức ngưỡng tương đối cao. Lạm phát ở dưới
mức ngưỡng thì thúc đẩy hoặc không có tác động đến tăng trưởng kinh tế trong khi
lạm phát trên ngưỡng có tác động kìm hãm tăng trưởng. Các kết quả này được
trình bày tóm tắt trong Bảng 2.2.
Bảng 2.2: Bảng tóm tắt quan hệ lạm phát và tăng trưởng theo các nghiên cứu thực
nghiệm gần đây trên thế giới
Tương quan với tăng trưởng Tỷ lệ lạm phát kinh tế
Đối với các nước công nghiệp
Khi tỷ lệ lạm phát thấp, tức là dưới 1-3%/năm Dương
Khi tỷ lệ lạm phát ôn hoà (trên 1-3%) Âm
Đối với các nước đang phát triển
Tỷ lệ lạm phát thấp Dương hoặc Không
Tỷ lệ lạm phát cao Âm
Tại Việt Nam, có nhiều bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng kinh tế. Các bài nghiên cứu này đã xác định sự tồn tại của mối quan hệ
tương quan giữa lạm phát và tăng trưởng. Tuy nhiên, hầu hết các bài nghiên cứu
này chưa xem xét tính phi tuyến trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng
và chưa đo lường mức ngưỡng lạm phát tại Việt Nam bằng phương pháp định
lượng. Từ đó, bài viết đặt ra câu hỏi về sự tồn tại ngưỡng lạm phát ở Việt Nam và
sự phù hợp của chính sách kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất trong việc điều tiết
kinh tế vĩ mô của các cơ quan chức năng trong thời gian qua. Theo đó, để nghiên
cứu về vấn đề này, bài viết áp dụng phương pháp nghiên cứu của Bick (2010) để
tìm giá trị ngưỡng đối với các quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam) và
đối với Việt Nam giai đoạn 1993-2012 . Từ đó, bài viết tìm hiểu ý nghĩa về giá trị
20
của ngưỡng này đối với việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô tại các nước
đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng.
21
CHƯƠNG 3 - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU / DỮ LIỆU
Trong chương này, bài viết nêu ra cụ thể phương pháp nghiên cứu và miêu tả
dữ liệu được áp dụng trong bài nghiên cứu. Cụ thể, bài viết giới thiệu mô hình
ngưỡng của Hansen (1999), cách thức đo lường mô hình mà Hansen (1999) đã áp
dụng và phương pháp kiểm định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát mà mô hình ước
tính. Tiếp theo đó, bài viết đưa ra mô hình ngưỡng mở rộng của mô hình Hansen
(1999) mà Bick (2010) đã giới thiệu trong bài nghiên cứu của mình. Từ đó, bài viết
xác định mô hình áp dụng trong bài nghiên cứu. Đối với mẫu dữ liệu áp dụng trong
bài nghiên cứu, bài viết giới thiệu tổng quan về giai đoạn thời gian nghiên cứu và
danh sách các quốc gia trong mảng dữ liệu. Bài viết cũng giới thiệu nguồn dữ liệu,
miêu tả các biến hồi quy và thống kê sơ bộ dữ liệu.
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu mối quan hệ của lạm phát và tăng trưởng tại các nước đang
phát triển, bài viết sử dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999) bằng cách
đưa thêm hệ số chặn tương tự nghiên cứu của Bick (2010).
Đầu tiên, ta xem xét cách thức mô hình ngưỡng của Hasen (1999) hoạt động
và cách ước tính hệ số hồi quy của mô hình:
3.1.1. Mô hình ngưỡng của Hansen (1999)
3.1.1.1. Mô hình:
Sử dụng dữ liệu bảng cân đối (balanced panel) bao gồm các quan sát
. Với biến phụ thuôc và biến ngưỡng vô {
hướng, và nhân tố hồi quy là một vec-tơ k hướng. Công thức cấu trúc được xác
định như sau:
22
Với I (.) là hàm đặc trưng. Có thể biểu diễn công thức (1) dưới dạng sau:
Hoặc Công thức (1) được thể hiện dưới dạng:
Và , do đó công thức (1) tương đương:
(2)
Các biến quan sát được chia thành hai ‘chế độ’ tùy thuộc vào biến ngưỡng
lớn hơn hay nhỏ hơn ngưỡng γ. Các chế độ được phân biệt bởi hệ số dốc hồi
quy, và . Để xác định và , đòi hỏi không là nhân tố bất biến theo thời
gian. Biến ngưỡng cũng không là nhân tố bất biến theo thời gian. Sai số
phân phối độc lập và được phân phối (iid) với giá trị trung bình 0 và phương sai
hữu hạn . Giả thuyết iid loại trừ các biến phụ thuộc trễ khỏi .
3.1.1.2. Đo lường:
- Sử dụng phương pháp bình phương nhỏ nhất:
Một trong các phương pháp truyền thống để kiểm soát bỏ tác động riêng lẻ
μi là loại bỏ các giá trị trung bình riêng lẻ xác định. Việc xử lý này ở các mô hình
tuyến tính thì khá dễ dàng trong khi ở các mô hình phi tuyến đòi hỏi xử lý cẩn thận
hơn nhiều. Trung bình của công thức (1) theo thời gian là:
(3)
Với , , và
23
Lấy hiệu hai phương trình (2) và (3) ta có :
Với
,
,
Và
.
Đặt
, ,
cho dữ liệu chéo và sai số của một nhân tố, với một khoảng thời gian bị loại
bỏ. Sau đó, đặt Y*, X* và e* cho dữ liệu chéo của tất cả các nhân tố, ví dụ:
Theo đó, phương trình (4) được chuyển thành :
24
(5)
Với một ngưỡng cho trước, hệ số có thể được ước tính bằng phương
pháp bình phương nhỏ nhất OLS. Tức là :
(6)
Vec-tơ của phần dư là
(7)
Và tổng phương sai là
=
Theo đó, ước lượng bình phương nhỏ nhất của ngưỡng là
(8)
Ngưỡng được chọn với rất ít quan sát trong một hay một vài chế độ thì
không được mong đợi. Hiện tượng này có thể được loại bỏ bằng cách đặt ra giới
hạn việc ước tính trong phương trình (8) với tỷ lệ quan sát ít nhất trong mỗi chế
độ (ví dụ 1% hay 5%).
Với ngưỡng được xác định, ước tính hệ số dốc = . Vec-tơ phần dư
và phương sai phần dư:
25
3.1.1.3. Kiểm định sự tồn tại của ngưỡng:
Việc xác định tác động của ngưỡng có ý nghĩa thống kê là rất quan trọng.
Giả thiết không tồn tại ngưỡng trong công thức (1) có thể được thể hiện bằng ràng
buộc tuyến tính sau
H0
không xác định, do đó các kiểm định cổ điển có Dưới giả thiết H0 ngưỡng
phân phối không chuẩn. Vấn đề này được gọi là ‘Davies’ Problem’ và đã được
nghiên cứu bởi Andrews và Ploberger (1994) và Hansen (1996). Công thức hiệu
ứng cố định (4) được Hansen (1996) đề xuất sử dụng phương pháp bootstrap để tái
tạo phân phối tiệm cận của kiểm định chỉ số likelihood.
Dưới giả thiết vô hiệu của việc không tồn tại ngưỡng, mô hình là
(10)
Sau khi chuyển đổi hiệu ứng cố định, chúng ta có
( 11)
Hệ số hồi quy được ước tính bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất
OLS, thông qua ước tính , phần dư . và tổng sai số bình phương S0=
)/ Kiểm định likelihood của giả thiết H0 căn cứ F1= (S0 -
. Phân phối tiệm cận của F1 thì không chuẩn, và chia phối phân phối
Không may, sự xuất hiện của nó thông thường phụ thuộc vào các moment của mẫu
và do đó giá trị giới hạn không được lập bảng. Hansen (1996) chỉ ra rằng quy trình
bootstrap đạt được phân phối tiệm cận bậc một, do đó p-value được xây dựng từ
bootstrap có hiệu lực một cách tiệm cận. Với tính chất mảng của dữ liệu, tác giả
khuyến khích thực hiện bootstrap theo phương thức sau. Xử lý nhân tố hồi quy
26
và biến ngưỡng như cũ, giữ giá trị của chúng cố định trong vòng lặp bootstrap.
Tính giá trị phần dư hồi quy , và xếp chung lại thành nhóm theo đặc điểm:
. Xử lý mẫu như phân phối thực nghiệm được
dùng để bootstrap. Rút (với thay thế) một mẫu size n từ phân phối thực nghiệm và
sử dụng các sai số này để tạo mẫu bootstrap dưới giả thiết . (Lưu ý là thống kê
kiểm định F1 không phụ thuộc chỉ số dưới giả thiết , do đó bất cứ giá trị
nào của cũng có thể được sử dụng). Sử dụng mẫu bootstrap, ước tính mô hình
dưới giả thiết vô hiệu (11) và công thức (4) và tính giá trị bootstrap của thống kê tỉ
số likelihood F1 (12). Lặp lại quy trình này nhiều lần và tính tỷ lệ các điểm thống
kê mô phỏng vượt quá thực tế. Đây là ước lượng bootstrap cho giá trị p-value tiệm
cận dưới giả thiết H0. Giả thiết vô hiệu của việc không có ngưỡng tác động bị bác
bỏ nếu p-value nhỏ hơn giá trị giới hạn.
3.1.2. Mô hình mở rộng của mô hình Hansen (1999)
3.1.2.1. Mô hình
Mô hình này áp dụng các hệ số chặn chế độ thường được sử dụng trong các
mô hình ngưỡng cho các mẫu dữ liệu chéo hoặc chuỗi thời gian. Ngay cả khi xuất
hiện các hiệu ứng cố định, mô hình này có thể kiểm soát sự khác biệt của những hệ
số chặn chế độ bằng cách bao gồm tất cả trong một chế độ như mô hình mở rộng
sau đây:
Tầm quan trọng của hệ số chặn : Đối với bất kỳ ngưỡng γ nhất định, các hệ
số độ dốc β1 và β2 có thể ước tính bởi phương pháp bình phương bé nhất thông
thường (OLS) bằng cách sử dụng các dữ liệu sau khi chuyển đổi hiệu ứng cố định.
Trong trường hợp có hệ số chặn chế độ, như mô hình (2), độ dốc ước tính cho mỗi
chế độ đồng nhất đối với các ước tính hồi quy sử dụng những quan sát tương ứng
27
các chế độ phản ánh tính trực giao của nhân tố hồi qui (xi ≤ xm)và (xi>xm). Sự
bỏ sót bất kỳ biến tương quan với ít nhất một nhân tố hồi qui và biến phụ thuộc sẽ
gây ra ước tính sai lệch, nhưng các hệ số chặn chế độ là một trường hợp đặc biệt.
Đầu tiên, sai lệch có thể được giải thích rõ ràng. Ước tính mô hình ngưỡng của
Hansen (1999) với hệ số chặn chế độ trong dữ liệu tạo ra kết quả sai lệch tương
ứng với δ1 vì tính trực giao của nhân tố hồi qui không được duy trì nữa. Thứ hai,
xem hệ số chặn chế độ là một nhân tố hồi qui không phải là một vấn đề vì chúng
dễ dàng được xây dựng như các nhân tố hồi qui ngoại sinh tùy thuộc vào chế độ
cho một ngưỡng cho trước.
Phương thức ước tính ngưỡng được thực hiện như phương thức ước tính các
hệ số hồi quy của mô hình Hansen (1999) đã nêu ở trên. Theo đó, ước tính ngưỡng
được thực hiện bằng phương pháp bình phương nhỏ nhất:
(3)
Với S1(y) là tổng của phần dư bình phương từ phương trình (2) cho một γ
ngưỡng cho trước.
3.1.2.2. Đo lường
Không mất tính tổng quát, giả định T=1; vô hướng
và ngưỡng , phương trình
và ngưỡng mở rộng được rút gọn lại thành:
Ước tính hệ số cho công thức trên như sau
28
Về hệ số chặn trong mô hình ngưỡng:
Thiết lập trong mô hình Hansen (1999) được mở rộng cho phép hệ số chặn
như trong mô hình trên. Đầu tiên, giả thiết vô hiệu để kiểm định sự tồn tại của
ngưỡng được thực hiện với . Thứ hai, đạo hàm phân phối tiệm cận của
ngưỡng ước tính dựa trên giả định kỹ thuật bổ sung là N Điều này
ngụ ý sự khác biệt giữa các hệ số chặn của các hệ số chặn thì ‘nhỏ’ tùy thuộc kích
cỡ mẫu hoàn toàn tương tự với giả thiết về các hệ số dốc, (
N .
3.1.3. Mô hình áp dụng:
Là mô hình ngưỡng duy nhất đã bao gồm hệ số chặn.
- Biến phụ thuộc (dgdp) là tỷ lệ tăng trưởng GDP trên đầu người.
- Các biến lạm phát có vai trò như nhân tố hồi qui phụ thuộc vào chế độ
it =
it-l, nếu
it<1 và
it= ln
it, nếu
it ≥ 1. Sử dụng mức độ lạm phát trong hồi quy tăng
và biến ngưỡng và là một biến đổi bán-logarit của lạm phát với
trưởng ngụ ý rằng tác động biên của lạm phát lên tăng trưởng kinh tế độc lập với
29
mức trung bình của lạm phát, nhưng trái lại, mô hình logarit hợp lý hơn khi ngụ ý
rằng tác dụng của những cú sốc gây ra bởi bội số lạm phát thì giống hệt nhau.
- wit bao hàm các biến kiểm soát có quan hệ tương quan đến tăng trưởng
kinh tế. Dựa vào các nghiên cứu trước đây, bài viết xác định các biến kiểm soát
bao gồm:
(i) Thu nhập ban đầu tính bằng hàm logarit GDP trên đầu người thời kỳ
trước, được sử dụng để kiểm soát độ hội tụ có điều kiện. Ký hiệu : initial.
(ii) Tổng đầu tư trong nước (tỷ lệ phần trăm với GDP). Ký hiệu: igdp.
(iii) Tăng trưởng dân số hàng năm. Ký hiệu: pop
(iv) Thay đỏi tỷ lệ mậu dịch (term of trade) hàng năm và độ lệch chuẩn của
tỷ lệ mậu dịch. Ký hiệu : dtot (term of trade) và sdtot (độ lệch chuẩn của tỷ lệ mậu
dịch)
(v) Mở cửa thương mại (openess) - tính theo tổng kim ngạch xuất khẩu và
nhập khẩu theo tỷ lệ phần trăm GDP và độ lệch chuẩn của nó. Ký hiệu: open
(openess) và sdopen (độ lệch chuẩn của mở cửa thương mại)
Tuy nhiên, theo bài nghiên cứu của tác giả Bick (2010), độ mở cửa thương
mại và độ lệch chuẩn của nó không được bao gồm trong mô hình kiểm định mối
quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Do đó, bài viết thực hiện kiểm định mối
quan hệ lạm phát và tăng trưởng qua hai mô hình, mô hình thứ nhất không bao
gồm biến độ mở cửa thương mại (open) và độ lệch chuẩn độ mở cửa thương mại
(sdopen) và mô hình thứ hai bao gồm hai biến này.
3.2. Dữ liệu:
- Mẫu dữ liệu: gồm 296 quan sát của 74 nước đang phát triển trong giai
đoạn 1993-2012, bao gồm: Algeria, Angola, Antigua and Barbuda, Bahamas,
30
Bahrain, Bangladesh, Barbados, Bhutan, Bolivia, Botswana, Brunei Darussalam,
Burkina Faso, Burundi, Cameroon,Central African Republic, Chad, Chile, China,
Colombia, Costa Rica, Dominica, Dominican Republic, Ecuador, Egypt, El
Salvador, Equatorial Guinea, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Grenada,
Guatemala, Guinea-Bissau, Guyana, Honduras, India, Indonesia, Jordan, Kenya,
Lesotho, Malawi, Malaysia, Mali, Mauritania, Mauritius, Mexico, Mongolia,
Morocco, Mozambique, Namibia, Nepal, Nicaragua, Niger, Nigeria, Pakistan,
Panama, Paraguay, Peru, Philippines, Rwanda, Senegal, South Africa, Lucia,
Vincent, Swaziland, Tajikistan, Thailand, Tonga, Tunisia, Uganda, Uruguay,
Venezue, Vietnam, Zambia.
- Dữ liệu được lấy trung bình 5 năm để giảm biến động của các chu kỳ kinh
doanh.
- Nguồn dữ liệu: World Development Indicator (WDI)
- Mô tả biến: ký hiệu và mô tả các biến cũng như việc xử lý dữ liệu được
thể hiện trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1: Danh sách các biến được bao gồm trong mô hình áp dụng
Biến Mô tả biến
gdp Tỷ lệ tăng trưởng GDP trên đầu người (trung bình 5 năm)
Tỷ lệ lạm phát (trung bình 5 năm)
Hàm semi-log của lạm phát
it-l, nếu
it<1;
it= ln
it, nếu
it ≥ 1)
( it =
igdp Tổng chi đầu tư (%GDP) (trung bình 5 năm)
pop Tăng trưởng dân số (trung bình 5 năm)
initial Thu nhập ban đầu trên đầu người – tính bằng hàm logarit thu
31
nhập trên đầu người thời kỳ trước (trung bình 5 năm)
Biến Mô tả biến
tot Tỷ lệ mậu dịch(term of trade) – chỉ số xuất khẩu chia chỉ số
nhập khẩu (2000-1000)
dtot Thay đổi của tỷ lệ mậu dịch(trung bình 5 năm)
sdtot Độ lệch chuẩn của tỷ lệ mậu dịch.
open Độ mở thương mại - Phần trăm xuất khẩu và nhập khẩu trong
GDP theo ngang gia sức mua năm 2005, lấy log
sdopen Độ lệch chuẩn của độ mở thương mại
- Thống kê mô tả của dữ liệu:
Dựa trên dữ liệu thu thập được và xử lý theo phần mô tả biến nêu trên, bài
viết sử dụng phần mềm Eview để phân tích dữ liệu. Theo đó, đồ thị biểu diễn phân
phối của các dữ liệu thu thập được như sau:
32
Đồ thị 3.1: Phân phối tăng trưởng GDP của 74 nước đang phát triển giai đoạn
1993-2012
Đồ thị 3.2: Phân phối lạm phát trước khi được chuyển đổi theo hàm semi-log của
74 nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012
33
Đồ thị 3.3: Phân phối lạm phát sau khi được chuyển đổi theo hàm semi-log của 74
nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012
Đồ thị 3.4: Phân phối tổng mức đầu tư (%GDP) của 74 nước đang phát triển giai
đoạn 1993-2012
34
Đồ thị 3.5: Phân phối tăng trưởng dân số của 74 nước đang phát triển giai đoạn
1993-2012
Đồ thị 3.6: Phân phối thu nhập ban đầu trên đầu người của 74 nước đang phát triển
giai đoạn 1993-2012
35
Đồ thị 3.7: Phân phối tỷ lệ tăng trưởng của tỷ lệ mậu dịch của 74 nước đang phát
triển giai đoạn 1993-2012
Đồ thị 3.8: Phân phối độ lệch chuẩn của tỷ lệ mậu dịch của 74 nước đang phát
triển giai đoạn 1993-2012
36
Đồ thị 3.9: Phân phối dộ mở cửa thương mại của 74 nước đang phát triển giai
đoạn 1993-2012
Đồ thị 3.10: Phân phối độ lệch chuẩn của độ mở cửa thương mại của 74 nước
đang phát triển giai đoạn 1993-2012
37
Phân tích Đồ thị 2 và Đồ thị 3 biểu diễn phân phối dữ liệu lạm phát trước và
sau khi được chuyển đổi theo hàm semi-log nêu trên, ta thấy dữ liệu sau khi
chuyển đổi có tính đối xứng hơn so với dữ liệu lạm phát khi chưa được chuyển đổi.
Bảng 3.2: Thống kê của dữ liệu của 74 nước đang phát triển trong giai đoạn 1993-
2012
Biến Mean Maximum Minimum Std. Dev. Observations
Gdp 2.441 47.433 -14.26 4.106 296
1.728 7.535 -1.812 1.136 296
dpop 1.914 6.861 -0.272 1.008 296
dtot 0.029 1.557 -0.252 0.161 296
initial 7.277 10.208 4.813 1.233 296
igdp 24.292 144.460 4.543 13.427 296
sdtot 0.137 1.400 0.007 0.154 296
open 4.303 5.899 3.045 0.500 288
Sdopen 80.164 370.145 18.014 46.100 288
38
CHƯƠNG 4 - KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chương 4 đưa ra các kết quả nghiên cứu mà bài nghiên cứu đạt được sau
khi áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999) được giới thiệu trong bài
nghiên cứu của Bick (2010) cho mẫu dữ liệu của 74 quốc gia trong giai đoạn 1993-
2012. Chương này xác định giá trị ngưỡng lạm phát và hệ số hồi quy của các nhân
tố tác động tăng trưởng kinh tế. Từ đó, bài viết lập luận ý nghĩa của các giá trị này
và sự phù hợp của chúng so với các bài nghiên cứu trước đây. Cuối cùng, bài viết
nếu lên ý nghĩa của việc xác định ngưỡng lạm phát.
4.1. Kết quả nghiên cứu
Bảng 4.1 thể hiện kết quả hai mô hình:
(i) Mô hình (1): biến kiểm soát (wit) không bao gồm biến độ mở cửa
thương mại (open) và độ lệch chuẩn độ mở cửa thương mại (sdopen)
(ii) Mô hình (2): biến kiểm soát (wit) bao gồm biến độ mở cửa thương mại
(open) và độ lệch chuẩn độ mở cửa thương mại (sdopen)
Bảng 4.1: Kết quả nghiên cứu
(1) (2)
Test for the number of thresholds : p-value
0.020 0.005 H0: No threshold (K=0)
Threshold estimates and confidence interval
95% confidence interval 11.98% [9.34%, 30.07%] 11.98% [9.34%, 30.07%]
Cofficient estimates:
Regime-dependent regressors
-0.2980*** (0.348) 0.431 (0.352)
39
-8.782*** (2.167) -10.138*** (2.165)
-2.992*** (0.639) -2.943*** (0.633)
Regime-independent regressors
initial -4.560*** (1.129) -4.939*** (1.276)
igdp 0.155*** (0.036) 0.121*** (0.041)
dpop -0.479 (0.395) -0.319 (0.402)
dtot 4.195*** (1.517) 4.122*** (1.54)
sdtot -2.812 (1.862) -1.949 (1.908)
open
2.373 (2.784)
sdopen 0.008 (0.030)
Ghi chú: Sai số chuẩn (Standard error) được ghi chú trong dấu ngoặc đơn, */**/*** chỉ
mức ý nghĩa 10%/5%/1%. Mô hình được tính toán dựa trên phần mềm hỗ trợ Matlab. Kết
quả chi tiết của mô hình (1) và mô hình (2) lần lượt được trình bày trong phần Phụ lục
A.1 và Phụ lục A.2.
222 74 216 72 Observations N
Theo đó, kết quả hai mô hình (1) và (2) như sau:
Về kiểm định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát:
Bằng việc áp dụng phương pháp bootstrap như đã nêu ở phần trên để kiểm
định giả thiết tồn tại ngưỡng lạm phát, kết quả của hai mô hình đều cho thấy giả
thuyết không tồn tại ngưỡng bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%.
40
Giá trị ngưỡng lạm phát ước tính ở hai mô hình là 11.97% với khoảng tin
cậy là [9.34%, 30.09%]. Theo đó, cấu trúc khoảng tin cậy của ngưỡng lạm phát
xác định trong mô hình (1) được thể hiện như trong đồ thị 4.1 và cấu trúc khoảng
tin cậy của ngưỡng lạm phát xác định trong mô hình (2) được thể hiện như trong
đồ thị 4.2.
Đồ thị 4.1: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (1)
41
Đồ thị 4.2: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (2)
Quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng:
Theo kết quả tại mô hình (1), lạm phát dưới ngưỡng hay trên ngưỡng
11.98% đều có tác động tiêu cực đến tăng trưởng do ước lượng hệ số và
đều cho ra kết quả âm và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Tuy nhiên, độ lớn của hệ
số hồi quy lớn hơn rất nhiều lần so với ( = -0.2980; = -2.992) . Điều
này ngụ ý rằng, khi lạm phát dưới ngưỡng, nó vẫn có quan hệ ngược chiều với
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tác động kìm hãm tăng trưởng kinh tế của nó nhỏ
hơn rất nhiều lần so với mức lạm phát vượt ngưỡng. Kết quả nghiên cứu này tương
đối khác với các kết quả nghiên cứu trước đây cho rằng lạm phát dưới ngưỡng có
42
quan hệ ngược chiều hoặc không xác định quan hệ tương quan với tăng trưởng.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu vẫn có ý nghĩa khi xác định quan hệ lạm phát và
tăng trưởng không đơn thuần là quan hệ tuyến tính và tác động của lạm phát đối
với tăng trưởng ở từng chế độ thì khác nhau. Theo đó, lạm phát cao ở mức vượt
ngưỡng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế hơn là lạm phát dưới ngưỡng.
Trong khi đó, kết quả ước lượng tại mô hình (2) lại chỉ ra rằng: lạm phát
vượt ngưỡng 11.98% có tác động tiêu cực ( = -2.943) đến tăng trưởng tại mức
ý nghĩa 1% trong khi tác động thúc đẩy tăng trưởng ( = 0.431) của lạm phát
dưới ngưỡng lại không có ý nghĩa thống kê. Kết quả này tương đối phù hợp với
các nghiên cứu trước đây. Theo đó, việc xác định mức ngưỡng lạm phát có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng đối với việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tại một nước.
Các giá trị ước tính của các hệ số hồi quy của các nhân tố còn lại đều phù
hợp với các lý thuyêt kinh tế nền và hầu hết đều có ý nghĩa thống kê. Theo đó:
(i) Hệ số hồi quy của biến thu nhập ban đầu (initial) là âm, hàm ý giả thuyết
hội tụ có điều kiện được chứng minh.
(ii) Hệ số hồi quy của biến đầu tư (igdp)có dấu dương phản ánh mối quan
hệ cùng chiều của vốn tích lũy và tăng trưởng.
(iii) Tương tự, hệ số hồi quy của biến tăng trưởng dân số (pop) là âm.
(iv) Hệ số hồi quy của biến thay đổi tỷ lệ mậu dịch (dtot, sdtot) phản ánh
mối quan hệ cùng chiều với tăng trưởng.
(v) Sau cùng, hệ số hồi quy của biến độ mở cửa thương mại (open, sdopen)
là dương cho thấy mở cửa thương mại ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng.Điều
này phù hợp với cả hai phương pháp tiếp cận: tân cổ điển và lý thuyết tăng trưởng
nội sinh. Thật vậy, theo những nghiên cứu trước đây, tác động tích cực của thương
mại lên tăng trưởng được giải thích bởi lợi thế so sánh, có thể là trong các nguồn
43
cấp vốn hoặc sự khác biệt trong công nghệ. Quay trở về lý thuyết tăng trưởng nội
sinh, nó khẳng định rằng mở cửa thương mại ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng
thông qua việc khuếch tán quy mô của nền kinh tế và công nghệ giữa các nước.
4.2. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Mức ngưỡng được tìm thấy bằng mô hình mở rộng của Hansen(1999) trong
bài viết này hoàn toàn phù hợp với các kết quả nghiên cứu trước đây cho các nước
đang phát triển – mức ngưỡng lạm phát được xác định trong khoảng 10-20%. Cụ
thể, theo nghiên cứu của Khan và Senhadji (2001), mức ngưỡng lạm phát ở các
nước đang phát triển là từ 11-12%/năm. Theo nghiên cứu của Li (2006), mức
ngưỡng lạm phát ở các nước đang phát triển là 14% và 38%. Theo nghiên cứu của
Drukker(2005) mức ngưỡng là 19,2%. Theo nghiên cứu của Alexander Bick
(2010), mức ngưỡng của các nước đang phát triển là 12,03%.
Ngoài ra, mức ngưỡng tại các nước đang phát triển cao hơn rất nhiều so với
các nước phát triển, 2- 6%. Sự khác biệt của mức chịu đựng lạm phát giữa các
nhóm quốc gia này có thể được giải thích bởi những yếu tố sau đây:
(i) Hệ thống chỉ số hoá được mở rộng:
Điều này có nghĩa ở các nước đang triển, do trải qua nhiều thời kỳ lạm phát
kéo dài nên việc điều chính giá dần dần (không đáng kể) làm tăng lạm phát nhưng
không ảnh hưởng đến tăng trưởng.
(ii) Hiệu ứng Balassa-Samuelson:
Khả năng chịu đựng lạm phát gia tăng nếu mức lạm phát cao có liên quan
đến sự hội tụ theo quy trình và hiệu ứng Balassa-Samuelson. Theo đó, khoảng cách
giữa Tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người được lấp đầy vào năm nào thì
khoảng cách giữa mức giá cũng được lấp đầy vào chính năm đó. Như vậy, với tỷ lệ
44
lạm phát có liên quan hiệu ứng Balassa-Samuelson, lạm phát cao có xu hướng ít
gây hại đến tăng trưởng hơn.
(iii) Chính sách tỷ giá hối đoái:
Chính sách tỷ giá hối đoái như phá giá đồng tiền có thể được sử dụng để cải
thiện khả năng cạnh tranh của đất nước và do đó thúc đẩy tăng trưởng. Theo đó,
lạm phát cao có tác động tích cực đến tăng trưởng hơn.
(iv) Tỷ lệ lạm phát ở các nước đang phát triển thường cao hơn so với những
nước phát triển.
Ước lượng hệ số tương quan giữa tăng trưởng và lạm phát tại hai mô hình
cho thấy khi lạm phát vượt ngưỡng, nó nhanh chóng có tác động tiêu cực lên tăng
trưởng kinh tế. Trong khi đó, khi lạm phát ở dưới mức ngưỡng đã xác định, quan
hệ của lạm phát và tăng trưởng kinh tế là không thể xác định hoặc là có quan hệ
tương quan âm ở mức độ nhẹ. Kết quả này tương đối phù hợp với các nghiên cứu
trước đây của Drukker(2005), Prasad và cộng sự (2010), Villavicencio và Mignon
(2011).
Ngoài ra, các ước lượng hệ số tương quan giữa các biến kiểm soát và tăng
trưởng kinh tế tại 02 mô hình đều cho kết quả tương đối như nhau và phù hợp với
các kết quả nghiên cứu trước đây.
Cụ thể, hệ số tương quan giữa thu nhập ban đầu và tăng trưởng kinh tế là
âm phù hợp với giả thuyết hội tụ được đưa ra trong các mô hình kinh tế trước đây.
Theo đó, tồn tại một trạng thái cân bằng động duy nhất và cho dù các nền kinh tế
bắt đầu với sản lượng bình quân đầu người bao nhiêu thì cũng sẽ hội tụ về điểm
cân bằng đó. Như vậy, các nước có sản lượng bình quân đầu người thấp hơn có xu
hướng tăng trưởng nhanh hơn cho đến khi đạt được trạng thái cân bằng động.
45
Song song đó, hệ số tương quan giữa đầu tư và tăng trưởng mang dấu
dương thể hiện mối quan hệ cùng chiều của vốn và tăng trưởng. Kết quả này hoàn
toàn phù hợp với các mô hình tăng trưởng đã đề cập trong lý thuyết chung về tăng
trưởng ở phía trên cũng như tại các nghiên cứu thực nghiệm. Theo đó, đầu tư
chiếm một vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên,
theo các nghiên cứu thực nghiệm gần đây, vai trò đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
của yếu tố đầu tư tư nhân và đầu tư tư nhân thì khác nhau. Đầu tư công vào hạ tầng
làm tăng lợi nhuận biên của vốn tư nhân và đóng góp vào sự phát triển của nền
kinh tế. Theo nghiên cứu của Khan và Kumar (1997), tác động của đầu tư công và
đầu tư tư nhân đến tăng trưởng kinh tế khác nhau rõ rệt, trong đó, đầu tư tư nhân
hiệu quả hơn đầu tư công. Mặt khác, Knight et al (1993) và Nelson và Singh
(1994) nghiên cứu dữ liệu các quốc gia trong giai đoạn 1980-1990 kết luận rằng
đầu tư công vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng tác động mạnh mẽ vào tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Easterly và Rebelo (1993) cho thấy rằng đầu tư công vào giao
thông và thông tin thì có quan hệ tương quan dướng với tăng trưởng trong khi đầu
tư vào các doanh nghiệp quốc doanh lại có tác động âm đến tăng trưởng.
Cuối cùng, hệ số thương mại và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ tương
quan dương cũng phù hợp với các lý thuyết nền. Theo Barro (1996), sự biến động
của hệ số thương mại có ảnh hưởng quan trọng đối với các nước đang phát triển do
các nước này chỉ thường xuất khẩu một số lượng nhỏ các sản phẩm sơ cấp. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, tăng trưởng được thúc đẩy bởi sự gia tăng trong hệ số
thương mại.
Tổng hợp các kết quả ước lượng trên cho thấy một chính sách kinh tế vĩ mô
gắn liền với lạm phát mục tiêu thì phù hợp hơn với chính sách tập trung kiềm chế
lạm phát ở mức thấp. Theo đó, khi lạm phát ở mức thấp hơn ngưỡng ước tính,
Chính phủ có thể chuyển mục tiêu tập trung kiềm chế lạm phát sang các mục tiêu
khác mà không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể như mở rộng chính
46
sách tiền tệ để khuyến khích đầu tư tư nhân, tăng đầu tư chính phủ trong các lĩnh
vực cơ sở hạ tầng... nhằm thúc đẩy tăng trưởng, giảm thất nghiệp cho người dân.
47
CHƯƠNG 5 - LIÊN HỆ VIỆT NAM
Chương này mở đầu bằng việc áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng của
Hansen (1999) lên mẫu dữ liệu Việt Nam giai đoạn 1993-2012. Tiếp theo đó, bài
viết sơ lược tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1993-
2013 và dự báo năm 2014-2015. Từ đó, bài viết thảo luận các kết quả nghiên cứu
đạt được.
5.1. Áp dụng mô hình ngưỡng lạm phát tại Việt Nam
Áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999) được giới thiệu trong
bài nghiên cứu của Bick (2010) cho mẫu dữ liệu của Việt Nam trong giai đoạn
1993-2012 với mô hình áp dụng là:
Trong đó, các biến trong mô hình được xác định như sau:
- Biến phụ thuộc (dgdp) là tỷ lệ tăng trưởng GDP trên đầu người.
- Các biến lạm phát có vai trò như nhân tố hồi qui phụ thuộc vào chế độ
it =
it-l, nếu
it<1 và
it= ln
it, nếu
it ≥ 1.
và biến ngưỡng và là một biến đổi bán-logarit của lạm phát với
- wit bao hàm các biến kiểm soát :(i) Thu nhập ban đầu (initial); (ii) Tổng
đầu tư trong nước ( igdp); (iii) Tăng trưởng dân số hàng năm ( pop); (iv) Thay đổi
tỷ lệ mậu dịch (dtot); (v) Mở cửa thương mại (open).
Tương tự như phần trên, sử dụng hai mô hình:
(i) Mô hình (3): biến kiểm soát (wit) không bao gồm biến độ mở cửa
thương mại (open) và độ lệch chuẩn độ mở cửa thương mại (sdopen)
48
(ii) Mô hình (4): biến kiểm soát (wit) bao gồm biến độ mở cửa thương mại
(open) và độ lệch chuẩn độ mở cửa thương mại (sdopen)
Bảng 5.2: Kết quả kiểm định ngưỡng ở Việt Nam
(3) (4)
Test for the number of thresholds : p-value
0.000 0.000 H0: No threshold (K=0)
Threshold estimates and confidence interval
7.76% [0.23%, 14.40%] 5.2% [4.12%, 5.68%] 95% confidence interval
Cofficient estimates:
Regime-dependent regressors
-0.253 (0.231) -0.011 (0.019)
-3.438 (2.169) -0.236** (0.100)
-1.229*** (0.392) -0.033 (0.042)
Regime-independent regressors
initial 3.415*** (1.308) -1.129*** (0.173)
igdp -0.047 (0.108) -0.0499 (0.0295)
dpop 0.227 (1.935) 0.285* (0.160)
dtot -2.768 (1.919) -0.126 (0.117)
open 0.002 (0.008)
19 1 19 1 Observations N
Ghi chú: Sai số chuẩn (Standard error) được ghi chú trong dấu ngoặc đơn,
*/**/*** chỉ mức ý nghĩa 10%/5%/1%. Mô hình được tính toán dựa trên phần mềm hỗ
trợ Matlab. Kết quả chi tiết của mô hình (3) và mô hình (4) lần lượt được trình bày trong
phần Phụ lục B.1 và Phụ lục B.2.
49
Kết quả thu được được thể hiện trong Bảng 5.2.
Theo đó, kết quả hai mô hình (3) và (4) như sau:
- Về kiểm định sự tồn tại của ngưỡng lạm phát:
Kết quả thu được của hai mô hình đều cho thấy giả thuyết không tồn tại
ngưỡng bị bác bỏ ở mức ý nghĩa 5%.
Tuy nhiên, giá trị ngưỡng lạm phát ước tính ở hai mô hình có sự khác biệt
lớn. Cụ thể, mô hình (3) ước tính giá trị ngưỡng là 7.76% với khoảng tin cậy là
[0.23%, 14.40%]. Theo đó, cấu trúc khoảng tin cậy của ngưỡng lạm phát xác định
trong mô hình (3) được thể hiện như trong đồ thị 5.2 như sau:
50
Đồ thị 5.2: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (3)
Trong khi đó, mô hình (4) ước tính giá trị ngưỡng là 5.2% với khoảng tin
cậy là [4.12%, 5.68%]. Theo đó, cấu trúc khoảng tin cậy của ngưỡng lạm phát xác
định trong mô hình (4) được thể hiện như trong đồ thị 5.3 như sau:
51
Đồ thị 5.3: Cấu trúc khoảng tin cậy trong mô hình (4)
- Quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng:
Theo kết quả tại mô hình (3), lạm phát vượt ngưỡng 7.76% có tác động tiêu
cực ( = -1.229) đến tăng trưởng tại mức ý nghĩa 1% trong khi tác động của
lạm phát dưới ngưỡng là không xác định được. Kết quả hồi quy này tương đối phù
hợp với kết quả thu được khi áp dụng mô hình ngưỡng đối với mẫu các quốc gia
đang triển như trên.
52
Trong khi đó, kết quả hồi quy hệ số dốc tại mô hình (4) không có ý nghĩa
thống kê. Do đó, không xác định được mối quan hệ của lạm phát và tăng trưởng
khi lạm phát dưới ngưỡng và trên ngưỡng.
- Ước tính giá trị các của các hệ số hồi quy của các nhân tố còn lại như sau:
+ Hệ số hồi quy của biến thu nhập ban đầu (initial) ở mô hình (4) là âm và
có ý nghĩa thống kê trong khi hệ số hồi quy của biến thu nhập ban đầu (initial) ở
mô hình (3) là dương có ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Như vậy lý thuyết hội tụ bị
vi phạm trong mô hình (3).
+ Hệ số hồi quy của biến tăng trưởng dân số (pop) là dương và có ý nghĩa ở
mức 10%, có khác biệt so với kết quả trong bài nghiên cứu của Bick (2010).
+ Các hệ số hồi quy của các biến kiểm soát khác không có ý nghĩa thống kê.
53
5.2. Tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh ở Việt Nam giai đoạn
1993-2013 và dự báo năm 2014 -2015:
5.2.1. Tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh ở Việt Nam
giai đoạn 1993-2013:
25
20
15
10
5
0
-5
94
96
98
00
02
04
06
08
10
12
CPI
GDP
Đồ thị 5.1: Chỉ số lạm phát và tăng trưởng giai đoạn 1993-2013
Bảng 5.1: Thống kê dữ liệu lạm phát và tăng trưởng kinh
tế Việt Nam giai đoạn 1993-2013
CPI 7.743010 GDP 5.500614 Mean
Median 7.266198 5.364694
Maximum 23.11632 7.758815
Minimum -1.710337 3.213679
Std. Dev. 5.775029 1.189430
Observations 21 21
54
Lạm phát Việt Nam trong giai đoạn đầu những năm 90 giảm tương đối
mạnh so với thời kì trước đó - chỉ còn ở khoảng 14.4% (1995). Đây là kết quả của
chính sách thắt chặt tiền trệ của Ngân hàng Nhà nước.
Năm 1997, dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, tăng
trưởng kinh tế Việt Nam suy giảm song hành với hiện tượng giảm phát trong
những năm 2000-2001 (2000 - GDP: 5.36%, CPI : -1.71%; 2001: GDP: 4.85%,
CPI: -0,43%). Song song đó, dưới tác động của chế độ tỷ giá cố định, đồng nội tệ
bị đánh giá quá cao đã dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại trầm trọng và cũng
làm mất đi cơ hội thu hút dòng FDI. Cho đến năm 1997, khi chế độ tỷ giá được
điều chỉnh, thâm hụt thương mại đã giảm mạnh liên tục trong 4 năm và chỉ còn 1%
vào năm 2000.
Trước tình hình suy giảm kinh tế kéo dài, Chính phủ áp dụng các biện pháp
kích thích kinh tế thông qua nới lỏng tín dụng và tăng cường chi tiêu và đầu tư
công được thực hiện. Kết quả là, tăng trưởng GDP liên tục tăng trong các năm, từ
mức 3.21% (1999) đến mức 5.97% (2007). Tuy nhiên việc duy trì chính sách kích
thích nền kinh tế liên tục này đồng thời cũng tích tụ những mầm mống gây ra lạm
phát cao.
Năm 2008, mức lạm phát ở Việt Nam đột ngột tăng cao lên đến 23,12%.
Nguyên nhân được xem là do một lượng lớn tiền mặt được bơm vào nền kinh tế để
trung hòa lượng vốn ngoại tệ từ nước ngoài nhằm ổn định tỷ giá hối đoái cộng
hưởng với các cú sốc cung từ dịch cúm gà. Và với tác động của cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới, trong hai năm 2008-2009, kinh tế Việt Nam đi vào thời kì suy
thoái mới.
Sau khủng hoảng 2008-2009, nền kinh tế có những dấu hiệu hồi phục với tỷ
lệ tăng trưởng kinh tế đạt mức 5.31% năm 2010 và 5.14% năm 2011 . Tuy nhiên,
tỷ lệ lạm phát vẫn ở mức khá cao (2010: 8.86% - 2011: 18.68%). Lý do cơ bản của
55
hiện tượng này vẫn là tình trạng kém hiệu quả trong đầu tư của cả doanh nghiệp
nhà nước lẫn doanh nghiệp tư nhân/nước ngoài khiến cung tiền tăng liên tục
(lượng cung tiền M2 2010 tăng xấp 3 lần so với 2006 và 10 lần so với 2001).
Trong hai năm gần đây, lạm phát giảm dần và ổn định ở mức thấp (2012: 9.09% và
2013: 6.59%).
5.2.2. Dự báo lạm phát và tăng trưởng năm 2014 - 2015
Theo các tổ chức quốc tế (Ngân hàng Phát triển châu Á – ADB; Quỹ Tiền tệ
quốc tế - IMF; Ngân hàng HSBC), tăng trưởng kinh tế Việt Nam dự báo năm 2014
-2015 ở trong khoảng 5.4%-5.6%. Trong khi đó, lạm phát Nam dự báo năm 2014 -
2015 ở trong khoảng 6.5% -7.9%.
Áp dụng mô hình SARIMA cho 60 quan sát là các giá trị của GDP theo quý
được tính theo giá so sánh năm 2010, từ quý I năm 1999 đến quý IV năm 2013, Hà
Quỳnh Hoa (2014) ước lượng GDP năm 2014 lần lượt là 2.688.941 tỷ đồng và
2.686.428 tỷ đồng, tăng so với năm 2013 tương ứng là 5,71% và 5,62% hay tính
trung bình sẽ xấp xỉ khoảng 5,7%. Tương tự, kết quả dự báo tốc độ tăng trưởng
GDP cho năm 2015 dao động trong khoảng từ 5,48% đến 5,63% và tính trung bình
sẽ đạt mức 5,6%.
Cũng trong nghiên cứu này, áp dụng mô hình SARIMA cho 170 quan sát, là
giá trị của CPI theo tháng với năm cơ sở là năm 2009, từ tháng 1/2000 đến tháng
2/2014, kết quả thu được là tỷ lệ lạm phát của năm 2014 được dự báo sẽ dao động
trong mức 6,65% đến 7,14%, hay tỷ lệ lạm phát trung bình năm 2014 khoảng 6,9%
và của năm 2015 tương ứng là 7,43% đến 8,09%, hay tỷ lệ lạm phát trung bình
năm 2015 khoảng 7,8%.
56
5.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu ngưỡng ở Việt Nam
Áp dụng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen (1999) vào dữ liệu Việt
Nam giai đoạn 1993-2012, kết quả cho thấy giả thiết không tồn tại ngưỡng bị bác
bỏ ở mức ý nghĩa 5%. Mức ngưỡng tìm thấy lần lượt là 7.76% và 5.2%. Kết quả
này phù hợp với ước tính ngưỡng lạm phát tại Việt Nam trong bài nghiên cứu của
Trần Hoàng Ngân, Hoàng Hải Yến, Vũ Thị Lệ Giang (2013). Theo đó, tại bài
nghiên cứu của nhóm tác giả này, ngưỡng lạm phát của Việt Nam được lập luận ở
mức 5-7%.
Theo đó, khi lạm phát trên mức ngưỡng có tác động tiêu cực đến tăng
trưởng tại mức trong khi tác động của lạm phát dưới ngưỡng là không xác định
được. Kết quả nghiên cứu đạt được cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu đối với
mẫu các quốc gia đang phát triển đã nêu ở phân trên đồng thời phù hợp với kết quả
nghiên cứu tại các bài nghiên cứu trước đây của Drukker (2005), Prasad và cộng
sự (2010), Lopez-Villavicencio và Mignon (2011) về quan hệ giữa lạm phát và
tăng trưởng tại các nước đang phát triển.
Đồng thời, bài viết tìm thấy mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và tăng
trưởng tại các thời kỳ lạm phát vượt mức ngưỡng. Kết quả này tương đối phù hợp
với các nghiên cứu tại Việt Nam của Trương Minh Tuấn (2013). Tuy nhiên, kết quả
lại có sự khác biệt với nghiên cứu của Nguyễn Trung Chính (2009) khi tác giả này
lại tìm ra mối quan hệ đồng biến giữa lạm phát trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Điều
này có thể giải thích bởi mẫu dữ liệu của tác giả khác với mẫu dữ liệu tại bài viết
này. Trong mẫu dữ liệu của bài viết này bao gồm các dữ liệu lạm phát và tăng
trưởng tư năm 2008 -2012 với mức lạm phát ở các năm này khá cao.
Các giá trị ước tính của các hệ số hồi quy của các nhân tố còn lại của mô
hình (3) và mô hình (4) tương đối khác với kết quả thu được khi áp dụng mô hình
ở mẫu các quốc gia đang phát triển nêu trên, trong đó:
57
+ Hệ số hồi quy của biến thu nhập ban đầu (initial) ở mô hình (4) là âm và
có ý nghĩa thống kê, hàm ý giả thuyết hội tụ có điều kiện được chứng minh. Trong
khi đó, hệ số hồi quy của biến thu nhập ban đầu (initial) ở mô hình (3) là dương có
ý nghĩa thống kê ở mức 1%. Như vậy lý thuyết hội tụ bị vi phạm trong trường hợp
này. Tuy nhiên, điều này cũng có thể giải thích bới việc thu nhập nước ta tương đối
thấp, do vậy tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư không cao. Vì vậy, giả thuyết hội tụ có khả
năng không xảy ra ở Việt Nam.
+ Hệ số hồi quy của biến tăng trưởng dân số (pop) là dương và có ý nghĩa ở
mức 10% . Điều này có thể giải thích bởi thị trường lao động dồi dào được coi là
một trong các nhân tố đóng góp nhiều vào tăng trưởng nước ta.
Kết quả nghiên cứu về ngưỡng lạm phát này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô tại Việt Nam. Theo đó, việc Việt
Nam thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong những năm lạm phát
thấp hơn mức ngưỡng để thúc đẩy tăng trưởng (giai đoạn từ năm 2000 đến trước
năm 2007) và thắt chặt tín dụng trong để kiềm chế lạm phát phát trong những năm
lạm phát tăng cao (2008, 2011) là phù hợp.
Theo kết quả nghiên cứu, một khi lạm phát vượt ngưỡng, nó nhanh chóng
tác động tiêu cực đến tăng trưởng. Khi đó, một chính sách kiềm chế lạm phát kịp
thời là rất cần thiết. Do đó, để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực không mong muốn
khi lạm phát vượt ngưỡng và duy trì nền kinh tế ổn định, phát triển bền vững, một
cơ chế định hướng cho lạm phát như cơ chế lạm phát mục tiêu là một điều đáng để
cân nhắc. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, khi Việt Nam chưa đạt được những
tiêu chí cơ bản nhất của cơ chế lạm phát mục tiêu, thì việc xây dựng lộ trình cụ thể
để chuyển sang cơ chế mới, cùng các biện pháp chính sách hợp lý, với bước đi
thận trọng, vững chắc là điều đáng để các nhà hoạch định chính sách xem xét trong
thời gian tới.
58
Song song đó, chính sách kiềm chế lạm phát khi lạm phát đã ở dưới mức
ngưỡng là không có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Do khi lạm phát dưới mức
ngưỡng, tác động của nó đến tăng trưởng là không xác định được. Do đó, Chính
phủ có thể chuyển mục tiêu tập trung kiềm chế lạm phát sang các mục tiêu khác.
Quay trở về với tình hình hiện nay, khi mà lạm phát đã được ổn định dưới
mức ngưỡng (2013: 6.59%, 2014: 6.9%; 2015: 7.8%), trong khi tăng trưởng kinh
tế thấp và thất nghiệp gia tăng thì việc duy trì một tỷ lệ lạm phát thích hợp trong
dài hạn và thực hiện các mục tiêu chính sách kinh tế tế vĩ mô khác nhằm phát triển
kinh tế và ổn định môi trường kinh doanh là một trong những ưu tiên hàng đầu
hiện nay.
59
CHƯƠNG 6 - KẾT LUẬN
Áp mô hình mở rộng của mô hình ngưỡng của Hansen (1999) cho mảng dữ
liệu 74 quốc gia đang phát triển giai đoạn 1993-2012, bài viết xác định tính phi
tuyến trong mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng. Kết quả ước lượng ngưỡng
cho thấy ngưỡng lạm phát là 11.98% với khoảng tin cậy là [9.34%, 30.09%]. Theo
đó, khi lạm phát ở mức cao vượt qua giá trị ngưỡng tìm thấy này, lạm phát kìm
hãm tăng trưởng. Tuy nhiên, khi lạm phát ở dưới mức ngưỡng này, lạm phát có xu
hướng ít gây hại đến tăng trưởng hơn.Theo đó, các nhà hoạch định chính sách nên
xem xét ảnh hưởng của lạm phát đến tăng trưởng kinh tế dựa trên các mức độ khác
nhau của lạm phát. Việc thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát nên được thực hiện
một cách linh hoạt tùy vào tình hình lạm phát và ngưỡng lạm phát xác định ở từng
quốc gia. Mỗi quốc gia cần xác định mức ngưỡng lạm phát phù hợp với tình hình
kinh tế cụ thể ở quốc gia đó để có thể xác định mục tiêu lạm phát cần duy trì và
chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô – cụ thể là chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ tương ứng.
Thông qua kết quả nghiên cứu dựa trên số liệu Việt Nam giai đoạn 1993-
2012, bài viết xác định việc tồn tại ngưỡng lạm phát tại Việt Nam. Mức ngưỡng
xác định được lần lượt là 7.76% và 5.2%. Theo đó, lạm phát trên mức ngưỡng có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng trong khi tác động của lạm phát dưới ngưỡng là
không xác định được. Khi lạm phát ở mức cao, lạm phát ảnh hưởng tiêu cực đến
tăng trưởng. Do đó, để hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực không mong muốn khi lạm
phát vượt ngưỡng và duy trì nền kinh tế ổn định, phát triển bền vững, một cơ chế
định hướng cho lạm phát như cơ chế lạm phát mục tiêu là một điều đáng để cân
nhắc. Tuy nhiên, với điều kiện hiện nay, khi Việt Nam chưa đạt được những tiêu
chí cơ bản nhất của cơ chế lạm phát mục tiêu, thì việc xây dựng lộ trình cụ thể để
chuyển sang cơ chế mới, cùng các biện pháp chính sách hợp lý, với bước đi thận
60
trọng, vững chắc là điều đáng để các nhà hoạch định chính sách xem xét trong thời
gian tới.
Tuy mô hình ngưỡng của Hansen (1999) là một trong những mô hình rất
phổ biến để nghiên cứu mối quan hệ phi tuyến của các biến và đã được kiểm
nghiệm qua nhiều bài nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, việc áp dụng mô hình này
lên mẫu số liệu của 74 nước đang phát triển cũng như mẫu số liệu riêng lẻ tại Việt
Nam trong giai đoạn 1993-2012 có nhiều hạn chế nhất định:
(i) Thứ nhất, mẫu dữ liệu áp dụng tương đối nhỏ và có nhiều biến động.
(ii) Thứ hai, mô hình không phản ánh được tính hai chiều trong quan hệ
giữa tăng trưởng và lạm phát.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt:
1. Hà Quỳnh Hoa, 2014. Dự báo tăng trưởng và lạm phát năm 2014 – 2015. Tạp
chí Kinh tế và Dự báo, 568.
2. Lê Việt Đức và Trần Thị Thu Hằng, 2008. Quan hệ giữa lạm phát và tăng
trưởng: Kinh nghiệm các quốc gia đang phát triển Châu Á. Tạp chí Nghiên
cứu Kinh tế, 359: 13-34.
3. Nguyễn Trung Chính, 2009. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát
qua kết quả phân tích tại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, 88.
4. Nguyễn Thị Thu Hằng, Nguyễn Đức Thành, 2010. Nguồn gốc lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn 2000-2010: phát hiện mới từ những bằng chứng mới. Trung
tâm nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Việt Nam (VEPR) và UNDP Việt Nam.
5. Phùng Duy Quang, Lâm Văn Sơn, Lê Văn Tuấn, 2013. Phân tích mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát của Việt Nam thông qua mô hình kinh tế
lượn. Tạp chí Kinh Tế Đối Ngoại, 58: 78-86.
6. Trần Hoàng Ngân, Vũ Thị Lệ Giang, Hoàng Hải, 2013. Mối quan hệ giữa lạm
phát và tăng trưởng kinh tế tại Việt thời gian qua. Tạp chí Phát triển kinh tế,
278: 2-10.
7. Trương Minh Tuấn, 2013. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế:
Nghiên cứu thực nghiệm ở Việt Nam. Tạp chí Phát triển kinh tế, 278: 2-12.
Tài liệu tiếng Anh:
1. Barro, R. J., 1996. Inflation and growth. Federal Reserve Bank of St. Louis
Review, 78: 153–169.
2. Bick, A., 2010, Threshold effects of inflation on economic growth in
developing countries. Economics Letters, 108: 126–129.
3. Bruno, M., & Easterly, W., 1998. Inflation crises and long-run growth.
Journal of Monetary Economics, 41: 3–26
4. Drukker, D. và các cộng sự, 2005. Threshold effects in the relationship
between inflation and growth: A new panel-data approach. MPRA working
paper, No. 38225.
5. Fischer, S., 1993. The role of macroeconomic factors in growth. Journal of
Monetary Economics, 32: 485–512.
6. Friedman, M., 1956. Studies in the quantity theory of money. Chicago:
University of Chicago Press, 3–21.
7. Ghosh, A., & Phillips, S., 1998, Warning: Inflation may be harmful to your
growth, IMF Staff Papers , 45: 672–710.
8. Hansen, B. E., 1999. Threshold effects in non-dynamic panels: Estimation,
testing, and inference. Journal of Econometrics, 93: 345–68.
9. Khan, M. S., & Senhadji, A. S., 2001. Threshold effects in the relationship
between inflation and growth. IMF Staff Papers, 48: 1–21.
10. Li, M., 2006. Inflation and Economic Growth: Threshold Effects and
Transmission Mechanisms. Department of Economics, University of Alberta.
11. López-Villavicencio, A., & Mignon, A. V., 2011. On the impact of inflation
on output growth: Does the level of inflation matter?. Journal of
Macroeconomics 33: 455–464.
12. Mankiw, G., 2010. Macroecnomics. London: Worth Publishers Milton
Friedman, Wincott Memorial Lecture.
13. Marshall, A., 1890. Principles of Economics . London: Macmillan.
14. Prasad , A. và các cộng sự , 2010. Estimating The Inflation–Growth Nexus—
A Smooth Transition Model. IMF Working Paper, 76.
15. Sarel, M., 1996. Nonlinear effects of inflation on economic growth. IMF
Staff Papers. 43, 199–215.
16. Smith, A., 1977. An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations. Chicago: University of Chicago Press.
17. Tobin, J., 1965, Money and economic growth, Econometrica 33, 671–684.
Phụ lục A Bảng kết quả ước lượng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen
(1999) trên mẫu dữ liệu 74 nước đang phát triển giai đoạn 1993-2012
Number of Countries: 74 Number of Years used: 4 Total Observations: 222 Number of Quantiles: 400 Confidence Level: 0.950000 ********************************************* Zero Threshold Model Sum of Squared Errors: 1342.532287 ********************************************* Single Threshold Model Threshold Estimate: 2.483133 Confidence Region: 2.233836 3.403493 Sum of Squared Errors: 1201.556358 Trimming Percentage: 0.050000 Thresholds2.483133 Regime-independent Coefficients standard errors het standard errors -4.559523 1.129408 2.075294 0.155359 0.036037 0.043417 -0.478399 0.395244 0.378249 4.195014 1.517432 1.269856 -2.812210 1.861987 2.621938 Regime- dependent Coefficients standard errors het standard errors -0.298013 0.347878 0.235039 -8.781831 2.166923 1.883384 -2.992117 0.639252 0.560120 LR Test for threshold effect: 26.046765 Number of Bootstrap replications:1000.000000 Bootstrap p-value : 0.020000 Critical Values: 17.303618 Critical Values: 20.960732 Critical Values: 29.156914
A.1 Kết quả mô hình (1) được phân tích bởi phần mềm hỗ trợ Matlab
Number of Countries: 72 Number of Years used: 4 Total Observations: 216 Number of Quantiles: 400 Confidence Level: 0.950000 ********************************************* Zero Threshold Model Sum of Squared Errors: 1350.732741 ********************************************* Single Threshold Model Threshold Estimate: 2.483133 Confidence Region: 2.233836 3.403493 Sum of Squared Errors: 1152.620904 Trimming Percentage: 0.050000 Thresholds2.483133 Regime-independent Coefficients standard errors het standard errors -4.938513 1.275633 2.217764 0.120575 0.041443 0.049019 -0.319091 0.402230 0.401882 4.122592 1.540637 1.367336 -1.948567 1.908492 2.125960 2.372612 2.784357 2.158258 0.007709 0.030378 0.022256 Regime- dependent Coefficients standard errors het standard errors 0.430941 0.351684 0.484767 -10.138199 2.165437 2.033727 -2.942959 0.633357 0.544394 LR Test for threshold effect: 37.125959 Number of Bootstrap replications:1000.000000 Bootstrap p-value : 0.005000 Critical Values: 18.732813 Critical Values: 22.086309 Critical Values: 30.500099
A.2. Kết quả mô hình (2) được phân tích bởi phần mềm hỗ trợ Matlab
Phụ lục B Bảng kết quả ước lượng mô hình ngưỡng mở rộng của Hansen
(1999) trên mẫu dữ liệu Việt Nam giai đoạn 1993-2012
Number of Countries: 1 Number of Years used: 20 Total Observations: 19 Number of Quantiles: 400 Confidence Level: 0.950000 ********************************************* Zero Threshold Model Sum of Squared Errors: 12.690006 ********************************************* Single Threshold Model Threshold Estimate: 2.048870 Confidence Region: -1.431545 2.667228 Sum of Squared Errors: 8.138025 Trimming Percentage: 0.050000 Thresholds2.048870 Regime-independent Coefficients standard errors het standard errors 3.415256 1.307913 0.979470 -0.047339 0.107855 0.055349 0.226635 1.934647 1.194145 -2.768229 1.918679 1.241545 Regime- dependent Coefficients standard errors het standard errors -0.252524 0.230769 0.193647 -3.437737 2.169598 1.026522 -1.228531 0.392138 0.376292 LR Test for threshold effect: 10.627595 Number of Bootstrap replications:1000.000000 Bootstrap p-value : 0.000000 Critical Values: 10.436285 Critical Values: 10.436285 Critical Values: 10.436285
B.1. Kết quả mô hình (3) được phân tích bởi phần mềm hỗ trợ Matlab
Number of Countries: 1 Number of Years used: 20 Total Observations: 19 Number of Quantiles: 400 Confidence Level: 0.950000 ********************************************* Zero Threshold Model Sum of Squared Errors: 0.088535 ********************************************* Single Threshold Model Threshold Estimate: 1.648659 Confidence Region: 1.415150 1.736071 Sum of Squared Errors: 0.037101 Trimming Percentage: 0.050000 Thresholds1.648659 Regime-independent Coefficients standard errors het standard errors -1.129472 0.173250 0.103993 -0.049961 0.029547 0.010833 0.284719 0.160125 0.095417 -0.125940 0.116643 0.076472 0.001746 0.008344 0.004587 Regime- dependent Coefficients standard errors het standard errors -0.010966 0.018821 0.007957 -0.236041 0.100397 0.063324 -0.033065 0.041662 0.028743
LR Test for threshold effect: 26.339606
Number of Bootstrap replications:1000.000000 Bootstrap p-value : 0.000000 Critical Values: 26.339606 Critical Values: 26.339606 Critical Values: 26.339606
B.2. Kết quả mô hình (4) được phân tích bởi phần mềm hỗ trợ Matlab