Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ HỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
Lê thị vân liêm
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM
(CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ)
MÃ SỐ: 60.31.01
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS: TRỊNH THỊ HOA MAI
Hà nội - 2007
0
Phát triển các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Việt nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
6. Phương Hữu Việt (2002). “Phát triển các thành phần kinh tế ngoài kinh
tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay”. Luận án tiến sỹ Kinh tế
7. Viện thông tin khoa học- xã hội (2003) “Kinh tế tư nhân trong giai đoạn
toàn cầu hoá hiện nay”. Nhà xuất bản khoa học- xã hội.
8. “Việt Nam hướng tới 2010” (2001). (tập 1- 2). Tuyển tập báo cáo phối
hợp nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của các chuyên gia quốc tế
và Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
9. Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001- 2003 (2003). Nhà xuất bản thống kê
10. Niên giám thống kê năm 2004, 2005, 2006. Nhà xuất bản thống kê
11.Văn kiện Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng X. Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia
11. Tạp chí Kinh tế và phát triển các số năm 2004 đến năm 2007
12. Tạp chí Cộng sản các số năm 2004 đến năm 2007
13. Con số và sự kiện các số năm 2004 đến năm 2007
14. Tạp chí Lý luận Chính trị các số năm 2004 đến năm 2007
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh 9
(từ 1991-1999).
Bảng1.2: Lao động và thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp 10
thuộc khu vực kinh tế tư nhân.
Bảng1.3: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh 12
nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp.
Bảng 1.4: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 14
hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp
Bảng 2.1.Tổng quan về tình hình doanh nghiệp phân theo năm thành lập 28
91
Bảng 2.2. Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh 30
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng 2.3. Số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại 32
thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.
Bảng 2.4. Số doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phân theo ngành 34
Bảng 2.5. Nguồn vốn bình quân của một doanh nghiệp trong khu vực kinh 37
tế tư nhân.
Bảng 2.6. Quy mô về vốn của doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân. 38
Bảng 2.7: Thực trạng lãi, lỗ của các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế
tư nhân (2003 - 2005) 40
Bảng 2.8. Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 phân theo quy mô lao 42
động và phân theo loại hình doanh nghiệp.
Bảng 2.9. Phát triển của doanh nghiệp tư nhân tại Hà Nội qua các con số. 44
Bảng 2.10: Thuế và các khoản nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong 63
khu vực kinh tế tư nhân.
Bảng 2.11: Trình độ của đội ngũ chủ doanh nghiệp tư nhân 66
MỤC LỤC
1
LỜI MỞ ĐẦU
6
Chương 1: Một số vấn đề chung về các loại hình doanh nghiệp tƣ
nhân ở Việt Nam.
1.1Vị trí của các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường. 6
1.1.1. Khái niệm các loại hình doanh nghiệp tư nhân 6
1.1.2 Vai trò của các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị 7
trường.
1.2. Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc 17
gia và bài học cho Việt Nam
92
1.2.1 Phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc gia 17
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
1.2.2 Một số bài học cho Việt Nam 25
28
Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ
nhân ở Việt Nam
2.1. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam 28
2.1.1.Sự gia tăng về số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân 28
2.1.2. Cơ cấu, quy mô các loại hình doanh nghiệp tư nhân 34
2.1.3. Sự phân bố các loại hình doanh nghiệp tư nhân theo lãnh thổ 43
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình doanh 48
nghiệp tư nhân ở Việt Nam
2.2.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội 48
2.2.2. Môi trường pháp lý 53
2.2.3. Môi trường kinh tế 56
2.3. Đánh giá chung 59
2.3.1. Những mặt mạnh trong phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu 59
vực kinh tế tư nhân.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 61
2.3.3. Xu hướng phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh 68
tế tư nhân.
73 Chương 3: Định hƣớng và một số giải pháp phát triển các loại hình doanh
nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
3.1. Bối cảnh phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay. 73
3.1.1. Thuận lợi. 73
3.1.2. Khó khăn. 76
3.2. Định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư 77
nhân.
3.2.1. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau. 77
93
3.2.2. Phát triển loại hình Công ty cổ phần 78
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
3.2.3. Gia tăng số lượng gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 79
3.2.4. Tăng cường mối liên kết hợp tác giữa các loại hình doanh nghiệp. 79
3.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân 79
ở Việt Nam.
3.3.1. Phát triển loại hình Công ty cổ phần. 80
3.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp trong khu vực. 80
3.3.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp. 81
3.3.4. Giải pháp để nâng cao trình độ của người lao động. 83
3.3.5. Tạo điều kiện, đưa ra giải pháp phù hợp để các loại hình doanh nghiệp 84
trong khu vực kinh tế tư nhân phân bổ đồng đều.
KẾT LUẬN
86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
94
87
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài
Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được tiến hành từ Đại hội Đảng VI
(Tháng 12/1986) bằng việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
Nhà nước. Đây là sự chuyển biến có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, đáp ứng yêu cầu
của xã hội và thời đại. Từ đó vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Kinh tế tư nhân với các
loại hình doanh nghiệp khác nhau ngày càng trở thành bộ phận quan trọng
quyết định sự lớn mạnh của nền kinh tế
Hiện nay, hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu của thời đại. Việt
Nam đã và đang tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn
diện, cho đến nay Việt Nam đã gia nhập Tổ chức hiệp hội các quốc gia Đông
Nam á (ASEAN); Khu vực mậu dịch tự do AFTA của ASEAN; Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC); Đã ký hiệp định với EU; Hiệp
định thương mại với Hoa Kỳ, Tổ chức thương mại thế giới WTO.
Hội nhập mang lại cả những cơ hội và thách thức cho mọi nền kinh tế. Để
vận dụng các cơ hội do hội nhập mang lại thì bản thân quốc gia tham gia phải có
được một nền kinh tế phát triển năng động và bền vững. Các doanh nghiệp
chính là lực lượng chủ đạo làm ra của cải vật chất, quyết định sự tăng trưởng
nhanh và bền vững của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, ngoài các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài thì các loại hình doanh nghiệp tư nhân góp phần không nhỏ
vào sự tăng trưởng của đất nước.
1
Đại hội Đảng lần thứ VI là một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
triển kinh tế ở nước ta. Đại hội Đảng VI đã xác định nền kinh tế nhiều thành
phần, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, cải thiện cơ chế quản lý kinh tế và
những chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Việc phát triển khu vực kinh tế tư
nhân là tất yếu để thực hiện nhiệm vụ chiến lược là giải phóng mọi lực lượng
sản xuất nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo dân giàu, nước mạnh.
Thực tế đã chứng minh, sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam thời gian qua đã góp phần không nhỏ tới sự tăng trưởng kinh
tế của đất nước, giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định "trên cơ sở ba chế độ sở hữu
(toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và thành phần
kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định
hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành
phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế".
Tuy nhiên, các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam còn gặp nhiều
khó khăn và hạn chế, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Các loại
hình doanh nghiệp tư nhân thường là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về
vốn, trình độ công nghệ quản lý còn hạn chế, khả năng cạnh tranh của các loại
hình doanh nghiệp tư nhân còn ở mức thấp, nhiều doanh nghiệp tư nhân còn
kém hiểu biết về pháp luật, chính sách.
2
Nhận thấy tầm quan trọng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đối với
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả đã nghiên cứu đề tài:
"Phát triển các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt
Nam”. Mục tiêu của luận văn là khẳng định tầm quan trọng của các loại hình
doanh nghiệp tư nhân đối với nền kinh tế quốc dân, phân tích những điểm thành
công và chưa thành công của Việt Nam trong việc phát triển loại hình doanh
nghiệp này qua đó nêu ra một vài giải pháp cho thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân là một vấn đề hấp dẫn, đã có nhiều
tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trong đó có một số tác giả như:
- GS.TS Hồ Văn Vĩnh - Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với
kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội
năm 2003. Nội dung đề cập đến vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế nhiều thành phần; vấn đề quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân; thực
trạng kinh tế tư nhân ở nước ta; phương hướng, giải pháp và chiến lược phát
triển kinh tế tư nhân trong tình hình hiện nay.
- PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai - Kinh tế tư nhân trong tiến trình hội nhập,
Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội năm 2005. Tác giả đưa ra một cách nhìn khách
quan về kinh tế tư nhân với cả những ưu thế và hạn chế vốn có của nó; phân tích
đánh giá vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
- Lê Khắc Triết - Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam. Thực
trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Lao động - Hà Nội 2005. Nội dung đưa ra thực
trạng của kinh tế tư nhân Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam, để từ đó có đánh giá so sánh và chỉ ra xu hướng
phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập
3
ngày nay thì chưa có nghiên cứu cụ thể nào.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: góp phần làm rõ cơ sở lý luận chung và thực tiễn đối với sự
phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và phát triển các loại hình
doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hoá lý luận về sự phát triển các loại hình doanh nghiệp
tư nhân.
+ Phân tích thực trạng phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam.
+ Đưa ra giải pháp, chiến lược phát triển các loại hình doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và
Doanh nghiệp tư nhân.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng phát triển của các loại hình doanh
nghiệp tư nhân ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, việc nghiên cứu áp dụng theo phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thông qua
thống kê, phân tích, đối chiếu và so sánh để tổng hợp và dự báo từ đó rút ra
những giải pháp tối ưu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ thực trạng hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất những khuyến nghị nhằm phát triển các loại hình doanh
4
nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam đã gia nhập WTO.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
7. Bố cục luận văn
Bố cục luận văn ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
gồm có 3 chương:
Chương1: Một số vấn đề chung về các loại hình doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân
ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển các loại hình
5
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH
DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM
1.1. Vị trí của các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân trong nền kinh tế thị
trƣờng
1.1.1. Khái niệm các loại hính doanh nghiệp tư nhân.
Hiện nay, ở nước ta đối với thuật ngữ “khu vực tư nhân” hay nền kinh tế tư
nhân còn có rất nhiều quan điểm khác nhau. Sự phân loại kinh tế tư nhân theo
các tiêu chí khác nhau, dưới nhiều góc độ khác nhau và theo nhiều cách tiếp
cận, cách nhìn nhận theo thành phần kinh tế, theo hình thức tổ chức doanh
nghiệp, theo khu vực kinh tế và đặc biệt là hình thức sở hữu. Mỗi cách nhìn đều
có mục đích của nó và đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, các loại hình doanh nghiệp tư
nhân bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, theo
quy định của Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, các loại hình
doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam bao gồm:
1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty được thành lập trên cơ
sở góp vốn của các thành viên và thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã cam kết
góp vào doanh nghiệp. Số lượng thành viên không quá 50 người, không được
quyền phát hành cổ phiếu.
2. Công ty cổ phần là loại hình công ty được thành lập trên cơ sở góp vốn
của các cổ đông và các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp. Vốn đựơc
huy động bằng cách phát hành chứng khoán.
6
3. Công ty hợp danh là loại hình công ty được thành lập trên cơ sở tham gia
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
ít nhất của hai thành viên hợp danh và có thể có các thành viên góp vốn ở đó.
Không được phép phát hành chứng khoán.
4. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2. Vai trò của các loại hính doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị
trường.
Hiện nay, các doanh nghiệp của Việt Nam được sắp xếp thành ba khu
vực chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân. Sau khi sắp xếp loại hình doanh
nghiệp nhà nước chỉ còn khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nắm giữ những
ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của đất nước, khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có khoảng 2.500 doanh nghiệp và đóng góp đáng kể vào tăng
trưởng kinh tế của đất nước nhưng sự phát triển của khu vực này sẽ bị giới hạn
vì nó phụ thuộc vào chiến lược của các nhà đầu tư trong nền kinh tế. Chỉ có các
loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có tiềm năng phát triển
mạnh nhất và trong tương lai sẽ có tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng trong tổng
GDP của nền kinh tế, quyết định sự phát triển nhanh, ổn định của nền kinh tế.
Như vậy, sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát
triển kinh tế- xã hội. Nguồn tiềm năng này là trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng
kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động của con người, tài nguyên,
thông tin và các nguồn lực kinh tế khác.
Không thể phủ nhận vai trò to lớn của khu vực kinh tế tư nhân trong nền
kinh tế thị trường, trong đó các loại hình doanh nghiệp tư nhân có đóng góp
không nhỏ. Từ khi Luật Doanh nghiệp được thi hành (1/1/2000), các loại hình
doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ, chỉ trong mấy năm gần
7
đây khu vực tư nhân nói chung, các loại hình doanh nghiệp tư nhân nói riêng
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
phát triển mạnh lên, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế- xã hội
của đất nước và dần khẳng định vai trò động lực của mình.
Có thể nhận thấy rõ sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân
qua các giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1986 - 1990: đây là giai đoạn khởi đầu công cuộc đổi mới, các quan
điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần dần được
cụ thể hoá thêm một bước, ví dụ về nông nghiệp, sau khi chỉ thị 100 về khoán
đến nhóm và người lao động (năm 1981), ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị Trung
ương Đảng khoá VI ra nghị quyết 10 về “đổi mới kinh tế nông nghiệp” hộ nông
dân được khẳng định là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, được giao quyền sử dụng
ruộng đất ổn định và lâu dài.
Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương (khoá
VI) ra Nghị quyết về chủ trương thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế
nhiều thành phần, giải phóng mọi nguồn lực sản xuất. Trên cơ sở những quan
điểm của Đảng, Nhà nước ta cũng bắt đầu soạn thảo và ban hành một số đạo
luật cho sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp tư nhân
phát triển. Tuy nhiên, trong giai đoạn này do hậu quả của những sai lầm cũ
chưa được khắc phục, chúng ta đã gặp phải những khó khăn mới do những
khuyết điểm mới nảy sinh trong những năm đầu đổi mới như: giá, tiền lương,
vỡ tín dụng, tranh chấp đất đai trong nông nghiệp… Mặt khác, tình hình quốc tế
lại có những biến động lớn, tác động trực tiếp đến công cuộc phát triển kinh tế,
bảo vệ đất nước xã hội chủ nghĩa của nước ta. Trong bối cảnh như vậy, sở hữu
tư nhân, kinh tế tư nhân nước ta trong giai đoạn này chỉ mới bắt đầu được tái
lập, còn phát triển chưa mạnh, chưa rõ nét, vì thế số lượng các loại hình doanh
nghiệp tư nhân chưa nhiều
* Từ năm 1991-1999: đây là khoảng thời gian 10 năm Luật Công ty và
8
Luật Doanh nghiệp tư nhân phát huy tác dụng, vì thế sở hữu tư nhân, kinh tế tư-
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nhân trong giai đoạn này phát triển khá mạnh, số lượng doanh nghiệp tăng
nhanh. Tính chung thời kỳ 1991-2000, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư
nhân đăng ký kinh doanh tăng bình quân hàng năm là 96,24% từ 132 doanh
nghiệp tư nhân năm 1991 đến hết năm 1996 có 30.897 doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh. Trong 9 năm 1991-1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng ký, sự gia
tăng về số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn 1991- 1999
thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 1.1: Số lƣợng các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký kinh
doanh (từ 1991-1999).
Đơn vị: Doanh nghiệp
Tổng số 132 Tăng so với năm trước (%) - Năm 1991
1992 4.241 3112,87
1993 7.813 84,22
1994 7.460 - 5,52
1995 5.729 - 23,21
1996 5.522 - 3,62
1997 3.760 - 31,91
1998 3.121 - 17
1999 4.615 47,86
Nguồn: Báo cáo tổng hợp tính hính và phương hướng, giải pháp phát
triển kinh tế tư nhân, Ban kinh tế Trung ương ngày 26/11/2001.
Qua bảng trên ta thấy, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng
ký tăng lên trong những năm đầu (1991-1994) sau khi Luật Công ty và Luật
Doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực, những năm sau lại giảm đi đến hết năm
1999. Điều đặc biệt chú ý là khi Luật Doanh nghiệp ra đời thay cho Luật Công
9
ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân thì số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
kinh doanh tăng mạnh, đây là dấu hiệu đáng mừng và các loại hình doanh
nghiệp tư nhân ngày càng thể hiện tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế.
Các loại hình doanh nghiệp tư nhân giải quyết công ăn việc làm cho một
lượng lớn lao động trong xã hội và tạo ra mức thu nhập cao, như vậy cũng là
nhân tố thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh hơn. Điều
này được minh họa qua số liệu bảng sau:
Bảng1.2: Lao động và thu nhập của ngƣời lao động trong doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân.
Năm Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Lao động bình quân Lao động bình quân Lao động bình quân Loại hình DN Lương bình quân (người/ tháng) Lương bình quân (người/ tháng) Lương bình quân (ngườ/ tháng)
346882 874 399739 934 454534 1033
Doanh nghiệp tư nhân
1031738 1077 1266724 1162 1471682 1307 Công ty TNHH
183317 1122 279115 1244 148635 1435 Công ty cổ phần
633 1189 395 1685 368 2107 Công ty hợp danh
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam thì loại hình Công ty hợp danh ở Việt Nam hoạt động rất ít, đến năm 2000
mới có 03 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh vì vậy sự đóng góp của nó không
đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nền kinh tế nước ta. Còn lại 3 loại
10
hình doanh nghiệp là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Doanh
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nghiệp tư nhân cũng có vai trò quan trọng trong đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam
và đóng góp nhiều đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Sự đóng góp của các loại hình doanh nghiệp này được nhìn nhận trên
nhiều phương diện:
* Tăng vốn đầu tư xã hội: đây là đóng góp đầu tiên phải kể đến khi phân
tích vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, mỗi
loại hình có vai trò đóng góp riêng. Vốn luôn đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là
trong hoạt động của doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Vốn như là
chiếc van điều tiết mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn mở rộng công ty hay
đổi mới trang thiết bị, mua nguyên liệu, thuê công nhân… đều cần đến vốn.
Trong những năm qua vốn đăng ký kinh doanh trong các loại hình doanh
nghiệp tư nhân ngày càng tăng không chỉ về vốn đầu tư kinh doanh, vốn đăng
ký mà còn tăng cả về vốn sử dụng của doanh nghiệp. Vốn đầu tư của các loại
hình doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đâu tư của khu
vực kinh tế tư nhân và làm cho khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể
trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội.
Từ năm 1991-1993 riêng các loại hình Doanh nghiệp tư nhân, Công ty
trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần đã đầu tư 4.835 tỷ đồng vốn đăng ký.
Đến năm 1996, các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã huy động được lượng
vốn là 20.665 tỷ đồng. Bình quân từ năm 1991-1996 mỗi năm tăng thêm 3.940
tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến hết năm 1999 tổng
vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân là 27.445 tỷ đồng, trong đó
Doanh nghiệp tư nhân đăng ký 6.715 tỷ đồng, chiếm 24,47%, Công ty trách
nhiệm hữu hạn đăng ký 15.422 tỷ đồng, chiếm 56,16%; Công ty cổ phần đăng
ký 5.315 tỷ đồng, chiếm 19,37%.
Lượng vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các loại hình doanh
11
nghiệp tư nhân còn được thể hiện cụ thể ở bảng sau:
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng1.3: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh
nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp.
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
2000 2001 2002 2003 2004 Loại
hình DN
DNTN 15.828 21.498 27.299 34.397 43.222
Công ty Hợp _ 5 84 1422 124
danh
44.491 65.308 99.728 139.444 204.534 Công ty
TNHH
Công ty Cổ 19.725 20.001 26.708 47.386 85.249
phần
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Qua bảng 1.3 ta thấy vốn sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng dần qua các năm. Đây là dấu hiệu
đáng mừng chứng tỏ một điều đóng góp vốn của các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân có vai trò đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo
đà cho nền kinh tế xã hội phát triển. Trong 4 loại hình doanh nghiệp tư nhân thì
lượng vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng cao nhất, kỷ lục đến
năm 2004 vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn là 204.534 tỷ đồng, tiếp theo là
Công ty cổ phần 85.249 tỷ đồng. Sự gia tăng không ngừng về lượng vốn sản
xuất kinh doanh trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này
ngày càng khẳng định vị thế và sự lớn mạnh của mình.
12
* Giải quyết việc làm cho người lao động
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Giải quyết việc làm ở mọi quốc gia là vấn đề quan trọng, đặc biệt đối với
Việt Nam một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo. Hiện nay ở nước ta có
khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động, ngoài ra số lao động nông nghiệp
có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không
nhỏ. Vì thế, yêu cầu mỗi năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là
một áp lực mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Việc
tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề xã hội, vấn đề
ổn định và phát triển kinh của nước ta hiện nay.
Thế nhưng, trên thực tế hệ thống các doanh nghiệp nước ta đang trong
quá trình cải cách không tạo được nhiều việc làm mới, khả năng thu hút lao
động từ nước ngoài đang có xu hướng chững lại. Nếu chỉ thông qua các doanh
nghiệp nhà nước thì không bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động
đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Chỉ có khu vực kinh tế tư nhân và đặc biệt các
loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân mới có khả năng thu hút
và sử dụng nhiều lao động.
Qua sự phân tích trên cho thấy vai trò rất to lớn của các loại hình doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đối với việc thu hút lao động và giải quyết
việc làm cho người lao động trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, cụ thể từng loại
hình sẽ cho thấy đóng góp của nó đối với vấn đề giải quyết việc làm này.
Trong giai đoạn 1991-1996 bình quân mỗi năm kinh tế tư nhân giải quyết
thêm khoảng 72.000 việc làm. Năm 1996 có khoảng 336.145 người trực tiếp
làm việc trong các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn và
Công ty cổ phần. Tương tự năm 1997 là 428.009 người, năm 1998 là 497.488
người (tăng 16,2% so với năm 1997) chiếm 1,3% lực lượng lao động xã hội.
Trong năm 1996-2000 lao động của khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm
778.681 người (tăng 20,4%), trong đó lao động trong các loại hình doanh
13
nghiệp tư nhân tăng thêm 487,459 người (tăng 137,57%).
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Từ khi thực hiện Luật Doanh nghiệp thì lao động trong khu vực kinh tế tư
nhân tăng là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường
xuyên của cả nước, trong đó lao động của hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ trọng
lớn, lao động của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đang tăng rất nhanh.
Nếu xét dưới góc độ lao động trong các loại hình doanh nghiệp thì đến hết năm
2002, lao động ở các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân là 1.257.147, chiếm
32,6% tổng số lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp.
Bảng 1.4: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12
hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.
Đơn vị : Người
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
Loại
hình DN
DNTN 236.253 277.562 339.638 378.087 431.912
Công ty Hợp 113 56 474 655 445
danh
Công ty TNHH 516.796 697.869 922.569 1.143.055 1.393.713
Công ty Cổ phần 43.588 87.509 139.913 206.266 307.497
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Qua bảng trên ta thấy vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế tư nhân đối với việc giải quyết việc làm và thu hút lao động là rất lớn, cụ
thể đến 31/12/2004 Doanh nghiệp tư nhân đã thu hút 431.912 lao động; Công
ty trách nhiệm hữu hạn 1.393.713 lao động; Công ty cổ phần 307.497 lao động;
kể cả Công ty hợp danh với số lượng rất ít cũng giải quyết được 445 lao động.
14
Như vậy, các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
không những tạo việc làm cho nhữmg người mới tham gia vào lực lượng lao
động mà còn giải quyết việc làm cho những người lao động dôi dư từ cải cách
doanh nghiệp nhà nước.
* Đóng góp vào Ngân sách Nhà nước.
Việc mở rộng khu vực kinh tế tư nhân đem lại một nguồn thu Ngân sách
đáng kể. Tuy đóng góp cho Ngân sách Nhà nước của các loại hình doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn là con số nhỏ bé, nhưng đang có xu
hướng tăng nhanh.
Xét về lượng tuyệt đối và lượng tương đối, số nộp Ngân sách trong các
loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không nhiều như doanh nghiệp
nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân không được bổ sung các nguồn lực để phát
triển nhiều như doanh nghiệp nhà nước vì vậy sự đóng góp của các loại hình
doanh nghiệp tư nhân là rất đáng khích lệ.
Theo số liệu của Bộ Tài chính năm 2001 các loại hình doanh nghiệp trong
khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách trên 11,075 tỷ đồng (bằng 14,8% tổng
thu Ngân sách quốc gia). Nhìn chung, đóng góp trực tiếp vào nguồn thu Ngân
sách Nhà nước của các loại hình doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp
trong mấy năm qua tuy liên tục tăng lên nhưng vẫn chưa tương xứng với tốc độ
phát triển của nó. Nhưng ngoài đóng góp trực tiếp vào Ngân sách Nhà nước
một phần không nhỏ các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn tích cực tham gia
và có đóng góp đáng kể vào xây dựng các công trình văn hoá, trường học,
đường giao thông nông thôn, các hoạt động xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp
nghĩa… Cụ thể những đóng góp của các loại hình doanh nghiệp tư nhân như
sau: từ khoảng 6,4% năm 2001 lên đến hơn 7% năm 2002 thu từ thuế công
thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch,
tăng 13% năm 2001.
15
* Tạo môi trường cạnh tranh
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Cạnh tranh là đặc tính nội tại trong nền kinh tế thị trường, đồng thời nó
cũng là yếu tố chi phối, trực tiếp điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Cạnh tranh vừa là động lực, vừa là nhân tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, các loại hình doanh
nghiệp tư nhân luôn chiếm một vị trí quan trọng trong số các loại hình doanh
nghiệp, nó tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác, đòi hỏi
mỗi thành phần kinh tế muốn tồn tại phải liên tục đổi mới cả về công nghệ, lĩnh
vực kinh doanh, năng lực quản lý.
Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch
hoá tập trung, thị trường rất đơn điệu và chỉ mang tính hình thức, yếu tố cạnh
tranh không phải là quan trọng do các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với
nhau để mua các yếu tố sản xuất và bán sản phẩm, mọi hoạt động đều do Nhà
nước chi phối. Quan hệ cung cầu, giá cả cũng mang tính mệnh lệnh chỉ huy, các
thị trường không được thừa nhận.
Từ khi thực hiện đổi mới, quan hệ hợp tác tiền tệ mới thực sự phát triển,
các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh với nhau trên thị trường nên các loại thị
trường dần dần được thừa nhận và mở rộng cạnh tranh thương mại với các nước
trong khu vực và thế giới.
Sau quá trình phân tích về vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu
vực kinh tế tư nhân, có thể thấy các loại hình doanh nghiệp này đóng góp lớn
trong sự phát triển kinh tế của đất nước:
- Tăng khả năng huy động vốn trong dân cư để phát triển kinh tế.
- Tạo công ăn việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo.
- Góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu
dùng.
- Huy động được nhiều nguồn lực.
16
- Tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý,
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
tạo ra sự phát triển đồng bộ giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các
thành phần kinh tế.
- Tạo môi trường cạnh tranh và tăng nguồn thu thuế cho Nhà nước.
- Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia.
- Tạo động lực cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
- Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
1.2. Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân ở một số
quốc gia và bài học cho Việt Nam.
1.2.1. Phát triển các loại hính doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc gia.
1.2.1.1. Trung quốc
Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và 10 năm phát triển kinh tế tư
nhân, ngày nay các loại hình doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc đã được đối xử
công bằng một cách thực sự như đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Hiến
pháp Trung Quốc sửa đổi năm 1999 đã “chính thức thừa nhận tầm quan trọng
như nhau của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, thừa nhận đầy đủ vai trò
của khu vực tư nhân không hạn chế quy mô, bình đẳng với các thành phần kinh
tế khác”.
Doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc bao gồm các đối tượng không thuộc
sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các hộ cá thể doanh nghiệp với 8 nhân công
hay còn gọi là hộ công thương cá thể. Theo các nhà kinh tế Trung Quốc, sự phát
triển của các hộ cá thể đầu những năm 80 đã đặt nền móng cho sự phát triển
vững chắc của các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của Trung Quốc. Nếu như
năm 1988 Trung Quốc có khoảng 500 doanh nghiệp mang biệt danh là các
doanh nghiệp “mũ đỏ” thực chất đó là các doanh nghiệp tư nhân núp bóng tập
thể để lách những chính sách từ phía Chính phủ cũng như phân biệt về hệ tư tư-
ởng, song đến năm 1992, sau khi ông Đặng Tiểu Bình quyết định thực hiện lại
17
chính sách mở cửa từ bước đi này đã làm cho các doanh nghiệp tư nhân Trung
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Quốc thực sự phát triển.
Theo số liệu thống kê của tổng cục hành chính thống kê Trung Quốc thì
đến tháng 9 năm 2001 Trung Quốc có tổng số 1.880.000 doanh nghiệp tư nhân,
với vốn đăng ký là 1.500 tỷ nhân dân tệ thu hút trên 20 triệu lao động và đóng
góp một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội nói chung và tổng giá
trị sản lượng công nghiệp nói riêng.
Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp Trung Quốc trong tổng giá trị sản
lượng công nghiệp làm giảm liên tục qua các năm, doanh nghiệp tập thể lúc đầu
tăng nhưng sau đó giảm dần còn ở doanh nghiệp tư nhân thì tỷ trọng lại tăng và
tăng lên nhanh chóng cụ thể từ 9,8 % năm 1990 lên 29,4% năm 1998, nguyên
nhân là do trong những năm của thập kỷ 90 Chính phủ Trung Quốc đã có những
chính sách phát triển hợp lý cho khu vực kinh tế tư nhân. Những năm sau đó tỷ
trọng của doanh nghiệp tư nhân vẫn không ngừng tăng lên, đến năm 2001 con
số đó đã đạt 40,1% cao vượt hơn hẳn so với doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp tập thể, điều này đã chứng tỏ tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân
trong nền kinh tế Trung Quốc.
Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc thừa nhận kinh tế tư nhân là động lực
tăng trưởng kinh tế mà lực lượng chính là các doanh nghiệp tư nhân. Đạt được
những thành tựu như vậy là do Chính phủ Trung Quốc đã có những thay đổi
trong tư duy, nhận thức trong hoạch định các chính sách.
Mới đây Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số định hướng,
chính sách cụ thể nh sau:
- Đề cao hơn nữa vai trò của doanh nghiệp tư nhân: đây được xem là
định hướng quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế tư nhân nói chung và
thúc đẩy sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Đảng và Chính
phủ Trung Quốc xác định: trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mang
18
màu sắc Trung Quốc, kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trọng yếu của nền
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
kinh tế quốc dân. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân cũng phải đảm bảo
trách nhiệm mang tính lịch sử là hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ của các doanh
nghiệp tư nhân chính là những công nhân, nông dân và thành phần tri thức được
phân hoá trong quá trình phát triển theo hướng kinh tế thị trường, do đó họ cũng
là lực lượng tích cực trong quá trình xây dựng đất nước và góp phần ổn định xã
hội, hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp tư nhân sẽ góp phần quan trọng trong
xây dựng nền kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất.
- Tăng cường hướng nghiệp khu vực kinh tế tư nhân:
+ Tăng cường các doanh nghiệp tư nhân phát triển trong những ngành
nghề lĩnh vực, có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Cần đưa kinh tế tư nhân vào quy
hoạch phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Căn cứ vào chính sách kinh
tế và chính sách ngành nghề của Nhà nước để hướng các doanh nghiệp tư nhân
đầu tư đúng hướng, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân thông qua các
chính sách như: cho thuê, bao thầu, liên doanh, liên kết, mua lại… để tham gia
vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời hướng các doanh
nghiệp tư nhân đầu tư vào các ngành nghề thích ứng với chiến lược điều chỉnh
kinh tế của Nhà nước. Đặc biệt khuyến khích họ đầu tư vào những lĩnh vực mà
kinh tế nhà nước sẽ rút ra trong thời gian tới. Khuyến khích các doanh nghiệp t-
ư nhân đầu tư vào miền Tây, vào nông nghiệp, nông thôn và xây dựng các thị
trấn nhỏ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia tích cực vào
cạnh tranh quốc tế và đầu tư ra nước ngoài.
+ Tăng cường bồi dưỡng về tư tưởng và chính trị cho các chủ doanh
nghiệp tư nhân cũng như những người làm trong các doanh nghiệp tư nhân để
họ trở thành lực lượng tích cực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc,
tăng cường các công tác xây dựng đảng trong các doanh nghiệp tư nhân
19
+ Tăng cường bồi dưỡng cho những người làm trong khu vực kinh tế t-
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
ư nhân về trình độ văn hoá, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông
qua phát triển kỹ thuật.
+ Phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với tiến trình đô thị hoá, coi phát
triển kinh tế tư nhân là động lực thúc đẩy tiến trình đô thị hoá và ngược lại
nhằm tạo lập thị trường cho các doanh nghiệp tư nhân, giải quyết lao động dôi
dư trong doanh nghiệp.
- Tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng
+ Thực hiện nguyên tắc đối xử công bằng với tất cả các thành phần kinh
tế, để tiến tới thống nhất chế độ chính sách hiện hành xoá bỏ những quy định
không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, cũng như những quy
định tạo ra những đối xử không phù hợp với khu vực kinh tế tư nhân.
+ Nhanh chóng giải quyết vấn đề thâm nhập thị trường của các doanh
nghiệp.
+ Kiện toàn hơn nữa về mặt pháp luật đối xử với quyền tài sản hợp pháp
của doanh nghiệp tư nhân.
+ Từng bước giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp tư nhân, kiên
quyết xoá bỏ các loại phí do các điạ phuơng, ban ngành tự ý đặt ra
- Hoàn thiện chức năng của Chính phủ:
+ Nhanh chóng giải quyết vấn đề nổi cộm và huy động vốn của các
doanh nghiệp tư nhân thông qua việc mở rộng hơn nữa các kênh huy động vốn,
cho phép các tổ chức tiền tệ được phân bổ vốn theo nguyên tắc lợi ích, nới lỏng
điều kiện bảo lãnh, thế chấp, từng bước nâng cao tỷ lệ tín dụng cho các doanh
nghiệp tư nhân, thực hiện tự do hoá lãi suất.
+ Giải quyết những khó khăn trong việc sử dụng đất cho phát triển của
các doanh nghiệp tư nhân. Xây dựng quy hoạch thành thị và nông thôn trong đó
20
tính đến nhà xưởng kinh doanh cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân nói chung
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
và các doanh nghiệp tư nhân nói riêng, áp dụng chính sách đất đai thống nhất
với tất cả các thành phần kinh tế.
- Tăng cường công tác bảo hiểm lao động, bảo vệ quyền lợi của công
nhân: thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân tăng cường công tác bảo hộ lao động,
xây dựng những quy định về an toàn sản xuất…
1.2.1.2. Hungari
Ở Hungari ngày nay người ta vẫn không ngừng phê phán chính sách
phản dân chủ và sự không nhất quán thực hiện mô hình thị trường. Về đại thể
đó là đúng, nhưng điều quan trọng hơn là ở chỗ khác. Trong suốt hơn 20 năm
(từ 1968 đến 1994) trong điều kiện của chế độ độc quyền, ở Hungari đã dần dần
hình thành những cơ sở của cơ chế thị trường, hình thành một giai cấp trung
thực. Điều đó đã tạo ra những điều kiện cần thiết để chuyển biến một cách
tương đối không đau đớn chế độ đã tồn tại.
Quyết định thực hiện cải cách cơ chế kinh tế ở Hungari được thông qua
năm 1966. Từ 1968 những nguyên tắc mới về quản lý kinh tế bắt đầu được thực
hiện trong cuộc sống. Cải cách ở Hungari không được tiến hành cùng một lúc
bằng “một đòn mạnh” mà được thực hiện trong thời gian tương đối dài, thực tế
không phải bao giờ nó cũng đi theo một con đường thẳng tắp, mà có lúc phát
triển, khi suy thoái, có lúc quá trình cải cách bị chậm lại thậm chí có lúc hầu
như bị đảo ngược.
Thời kỳ đầu của cải cách (mặc dù có mâu thuẫn rõ ràng có những nhân tố
riêng của nó) nói chung đã có một vai trò nhất định đặt nền cho những nguyên
tắc thay đổi cơ bản trong hệ thống hoàn thiện cơ chế kinh tế. Bãi bỏ mô hình
quản lý kinh tế theo kiểu truyền thống và chuyển sang việc quản lý mới (trung
gian) là thắng lợi của việc chọn lựa giải pháp đối nghịch nhau đối với cơ chế cũ.
Các chỉ số thống kê phát triển của nền kinh tế quốc dân đạt được đã chứng minh
21
tính đúng đắn của đường lối đã lựa chọn, tính tự chủ và sáng tạo của tập thể các
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
xí nghiệp được phát huy và được cải tiến trên công tác kế hoạch hoá làm từ d-
ưới lên.
Vào đầu những năm 70 quá trình cải cách bắt đầu mất tính năng động và
sau đó bị kìm hãm. Năm 1973 giá dầu mỏ đã tăng đột ngột tạo nên những điều
kiện hết sức bất lợi cho nền kinh tế Hungari vốn có mối liên hệ chặt chẽ với thị
trường thế giới.
Hungari là nước đầu tiên ở Đông Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính
trị, tiên phong trong số các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện công cuộc cải cách
sang nền kinh tế thị trường. Hungari đã thực hiện những bước đi đầu tiên trong
việc thực hiện tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ
chế kinh tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và
1968. Hungari cũng là một nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân
hoá trên cơ sở thị trường.
Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở
Hungari là: tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân
hoá ở Hungari là bán tài sản của Nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong
giai đoạn 1990-1991 chỉ có 10% tổng số tài sản Nhà nước được tư nhân hoá,
trong giai đoạn 1992-1994 là hơn 40%. Năm 1989 thị phần của khu vực tư nhân
tính theo GDP chỉ chiếm 18% nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng dần lên, đến cuối
năm 1993 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 50% GDP và đến cuối năm 1997 là
80%. Cuối những năm 90 quá trình tư nhân hoá coi như đã hoàn thành, tài sản
của Nhà nước chỉ còn chưa đến 20%, chủ yếu là trong ngành công nghiệp mang
tính chiến lược.
Chuyển đổi thể chế ở Hungari đã phải trả một giá khá đắt, nhưng đổi lại
cơ chế kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, 62% là dịch vụ, 28% là công
nghiệp, 5% là nông nghiệp và phần còn lại là công nghiệp xây dựng. Các ngành
22
mới hình thành như sản xuất ô tô, điện tử…, còn các ngành truyền thống như
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
chế biến thực phẩm thì tiếp tục phát triển.
Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong
chuyển đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời
tạo ra những sự thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở
hữu cá nhân). Nhờ có sự thống nhất giữa Nhà nước và dân chúng nên quá trình
tư nhân hoá ở Hungari diễn ra thuận lợi không có xung đột gay gắt và kéo theo
các chuyển đổi hoà bình trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungari là
nước thực hiện quá trình chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước
năm 1990 hầu hết các phương tiện sản xuất đều nằm trong tay Chính phủ: có
1.850 doanh nghiệp nhà nước với tổng giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25
tỷ USD. Năm 1989-1990 lĩnh vực kinh tế tư nhân của Hungari chỉ đóng góp
10%-15% GDP hiện nay lĩnh vực này đóng góp 70%-75% GDP. Tỷ lệ này t-
ương đương với các nước trong liên minh châu Âu.
Quá trình tư nhân hoá ở Hungari không diễn ra đều đặn đầu thập kỷ 90,
Hungari đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ, sau đó mới tiến
hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân
hoá những doanh nghiệp nhỏ đã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp
luôn suôn sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn được
thực hiện tốt do đã lựa chọn được đối tượng có đủ khả năng vật chất để tiếp tục
duy trì hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công việc tư nhân hoá các
doanh nghiệp nhà nước lớn được thực hiện từ năm 1993-1996.
Tư nhân hoá ở Hungari được thực hiện đại trà từ năm 1993 đến năm
1997. Năm 1994 do có bầu cử và một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình
tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995, 1/3 số
doanh nghiệp được tư nhân hoá trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược
như: điện, năng lượng…
23
Chính phủ Hungari đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc đầu tư hoá bằng
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
việc ban hành một số luật. Luật Công ty bảo đảm cơ sở cho các Công ty cổ phần
và các loại hình công ty khác hoạt động. Năm 1995, Hungari ban hành Luật Tư-
nhân hoá, luật tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần và
Công ty trách nhiệm hữu hạn, toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungari
được chuyển sang hoạt động theo luật công ty trước khi tư nhân hoá.
Từ năm 1992 đến năm 1995 các quy định của Nhà nước đã thay đổi
nhiều lần. Nội dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp nhà nước cần
duy trì mức sở hữu 50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đã định nghĩa chính
xác các doanh nghiệp không tư nhân bao gồm một số công ty dịch vụ công
cộng, chiến lược hoặc quốc phòng.
Các hình thức tư nhân hoá ở Hungari được quy định rõ ràng trong luật tư-
nhân hoá.
+ Đầu tư công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài
sản Nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai.
+ Thông báo bán công khai: các điều kiện bán được thông báo để người
mua quan tâm biết.
+ Bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
+ Bán nhà cho nhà đầu tư chiến lược: áp dụng đối với doanh nghiệp có
tầm quan trọng về quốc phòng hoặc chính trị đặc biệt hoặc có nguy cơ sẽ có đối
thủ cạnh tranh mua lại nhằm mục đích thôn tính, chiếm lĩnh thị trường.
Trong luật tư nhân hoá quy định các đối tượng không được phép tham
gia mua cổ phiếu, nhưng về cơ bản không hạn chế đối tượng mua cổ phần. Do
quá khứ thời kỳ xã hội chủ nghĩa trước đây nên không có tư sản tư nhân nội địa
để tham gia mua tài sản này.
Trong quá trình tư nhân hoá ở Hungari nổi lên một vấn đề quan trọng là
nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và nợ ngân hàng rất lớn. Nhờ quá
24
trình tư nhân hoá trên cơ sở thị trường công cuộc cải cách kinh tế ở Hungari đã
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
thành công và hiệu quả.
Trong số 1580 doanh nghiệp nhà nước trước đây thì 17% đã phá sản, 5%
đã giải thể, 78% tư nhân hoá. Do sự thay đổi cơ cấu kinh tế nên 25% doanh
nghiệp không có khả năng tồn tại, 64% tư nhân hoá cho các chủ sở hữu nước
ngoài bằng thu ngoaị tệ, 19% tư nhân hoá cho tư sản nội địa bằng tiền mặt và
5% bằng phiếu đền bù, còn lại là tín dụng ngân hàng.
+ Xét về tài sản thì tổng cộng có 46% tài sản đã tư nhân hoá, 43% tài
sản không có ý định tư nhân hoá, 9% diện tích đất đai trong sở hữu Nhà nước
hiện nay chưa thể tư nhân hoá, 2% thiết bị phương tiện chưa tư nhân hoá.
+ Xét theo ngành thì gần 100% doanh nghiệp nhà nước trong ngành
công nghiệp và thương mại, 80% trong ngành cung cấp năng lượng và 80%
trong ngành ngân hàng đã được tư nhân hoá.
+ Tư nhân hoá có tác động mạnh mẽ là nhiều nguồn đầu tư xuất hiện
sau tư nhân hoá cụ thể là có 26 tỷ USD đã đầu tư vào sản xuất trực tiếp, trong đó
405 đầu tư qua tư nhân hoá.
+ Thu nhập từ tư nhân hoá là 14 tỷ USD, trong đó 70% được đưa vào
Ngân sách Nhà nước góp phần giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách, 8-10%
đền bù chính trị, 8-10% để bù đắp chi phí cho quá trình tư nhân hoá.
1.2.2. Một số bài học cho Việt Nam
a, Nhận thức đúng về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển
kinh tế .
Từ kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc,
Hungari ta có thể thấy rằng các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể
phát triển năng động trong khu vực kinh tế tư nhân và trong môi trường kinh tế
thị trường, Chính phủ hoàn toàn có khả năng quản lý, giám sát, định hướng và
phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân.
25
Do vậy đối với Việt Nam chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng các loại
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
hình doanh nghiệp tư nhân trong khu vực kinh tế tư nhân là động lực tăng trư-
ởng kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu để giải quyết việc làm, phát huy mọi
tiềm lực của người dân.
b, Tạo điều kiện cho các loại hính doanh nghiệp tư nhân tham gia vào nền
kinh tế thị trường.
Mặc dù Việt Nam đã thừa nhận cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường nhưng do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ nên nhiều cơ quan Nhà nước
vẫn có thái độ phân biệt đối xử với các doanh nghiệp, ưu đãi đối với các doanh
nghiệp nhà nước, gây khó dễ đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy
theo ý kiến của các chuyên gia cho rằng cần phải mở cửa tất cả các lĩnh vực đặc
biệt là khu vực tài chính cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện
cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân được vay vốn một cách bình đẳng như
các doanh nghiệp khác ở các ngân hàng trong nước.
c, Sửa đổi bổ sung cơ chế, chình sách phù hợp
- Chính sách đất đai: cần đơn giản hoá các thủ tục đầu tư nhằm khuyến
khích tư nhân đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế
mở…và tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất.
- Chính sách tài chính tín dụng: thúc đẩy hoạt động của các quỹ hỗ trợ và
hệ thống ngân hàng theo hướng đa dạng hoá hình thức ưu đãi, đơn giản hoá thủ
tục xin vay tín dụng ưu đãi nhanh chóng xây dựng và triển khai các chương
trình trợ giúp doanh nghiệp về khởi sự kinh doanh, đào tạo nghề và đào tạo
doanh nhân.
d, Thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy khi chuyển đổi nền kinh tế thị trường,
một trong những nội dung quan trọng mà các nước chuyển đổi phải thực hiện là
xây dựng khu vực kinh tế tư nhân lớn mạnh, trong đó là sự lớn mạnh của các
26
loại hình doanh nghiệp tư nhân rất quan trọng và là nhu cầu của sự phát triển
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
kinh tế đất nước. Do đó vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước là mục tiêu
hàng đầu. Kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của các nước mới công
nghiệp hoá cho thấy phải xây dựng khu kinh tế tư nhân lớn mạnh trong đó là sự
lớn mạnh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, đối với các ngành
kinh tế kế hoạch hoá tập trung (nền kinh tế mà hầu hết các doanh nghiệp đều là
doanh nghiệp nhà nước) khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì việc cải cách
doanh nghiệp này là hết sức cần thiết.
Việc kết hợp cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp
tư nhân trước hết phụ thuộc vào định hướng chiến lược của quốc gia về mối
quan hệ giữa phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân.
Định hướng chiến lược hoặc sự điều chỉnh có tính chiến lược đối với hai
khu vực kinh tế của Trung Quốc được thực hiện theo hướng “Nắm lớn, thả
nhỏ”, kinh tế nhà nước phải chiếm giữ vị trí chi phối đối với những ngành quan
trọng trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, giảm tỷ trọng của
kinh tế nhà nước nhưng vẫn ảnh hưởng đến vai trò điều chỉnh của Nhà nước.
Định hướng này phù hợp với đường lối đổi mới của Việt Nam.
Để hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều quan trọng là phải tiến
hành đồng thời các chính sách phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân
ngay từ khi bắt đầu chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Các chính
sách phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân tập trung vào khuyến khích,
hỗ trợ đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước tiến hành “thả nhỏ” khuyến khích
nhiều lao động dôi dư.
Ngoài ra, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước tất yếu dẫn đến chuyển
dịch lao động giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp t-
ư nhân. Để hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến hỗ
trợ người lao động tìm việc làm mới ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, thiết
27
lập các trung tâm dịch vụ thuê lại lao động để cung cấp các dịch vụ về chuyển
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
chỗ làm việc, tư vấn đào tạo việc làm, tăng cường phát triển thị trường lao
28
động.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH
NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM
2.1 Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân
2.1.1 Sự gia tăng về số lượng các loại hính doanh nghiệp tư nhân
Trong thời gian qua, cùng với những chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà
nước khu vực kinh tế tư nhân có sự gia tăng lớn mạnh về số lượng, đặc biệt là
các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở khu vực này. Lượng doanh nghiệp tư nhân
tăng rất nhanh.
Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân so với các khu
vực kinh tế khác có thể thấy rõ qua các con số, mặc dù sự lớn mạnh của một
thực thể không chỉ là sự gia tăng về số lượng, nhưng chúng ta đều thấy rằng từ
một khu vực không được chấp nhận đến nay khu vực kinh tế tư nhân, mà điển
hình là các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân đã có mức gia tăng
lớn trong khi các khu vực kinh tế khác gia tăng không đáng kể (như khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài), thậm chí còn giảm (khu vực doanh nghiệp nhà nước).
Bảng 2.1: Tổng quan về tình hình doanh nghiệp phân theo năm thành lập
Năm DN tư nhân Công ty cổ phần Công ty TNHH Công ty hợp
Vốn
danh
( Tỷ
Số Vốn Số Số Vốn Số Vốn
đồng )
lượng ( Tỷ lượng lượng ( Tỷ lượng ( Tỷ
( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN )
2006 2,202 1,078 1,565 18,795 10,140 14,859 3 2
2005 1,770 1,096 1,102 10,378 8,189 12,996 3 2
2004 1,536 1,092 927 12,635 7,152 11,633 1 1
29
2003 1,660 925 575 10,658 5,718 11,230 1 2
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Năm DN tư nhân Công ty cổ phần Công ty TNHH Công ty hợp
Vốn
danh
( Tỷ
Số Vốn Số Số Vốn Số Vốn
đồng )
lượng ( Tỷ lượng lượng ( Tỷ lượng ( Tỷ
( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN )
2002 1,539 1,094 557 7,829 4,840 11,643 0 0
2001 1,513 1,225 464 7,142 4,215 11,065 0 1
2000 1,548 1,197 225 2,940 3,001 8,225 1 0
1999 1,938 1,718 6,260 622 838 62 0 0
1998 453 322 24 251 734 2,956 0 0
1997 452 217 12 222 580 3,511 0 0
1996 430 247 18 1,261 604 2,546 0 0
1995 484 319 7 111 576 2,478 0 0
1994 559 285 9 110 464 2,661 0 0
1993 172 203 20 5,368 503 3,735 0 0
1992 60 184 27 5,789 311 3,075 0 0
1991 0 0 0 0 2 1 0 0
1977 0 0 0 0 0 0 0 0
1955 0 0 0 0 0 0 0 0
1904 1 0 0 0 0 0 0 0
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Qua bảng trên ta thấy, số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư
nhân tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây. Theo số liệu thống kê đến hết
tháng 04/2007, trong năm 2007 đã có 430 Doanh nghiệp tư nhân thành lập với
30
số vốn 269 tỷ đồng, 430 Công ty Cổ phần với số vốn 11,089 tỷ đồng, có 2,150
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn 3,071 tỷ đồng và trong năm 2007 đến
hết tháng 4/2007 chưa có thêm Công ty hợp danh nào đăng ký mới.
Bảng 2.2: Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký kinh doanh
Đơn vị: Doanh nghiệp
Năm DNTN Công ty Công ty cổ Công ty Hợp
TNHH phần danh
1991 76 49 7 -
1992 3.034 1.144 63 -
1993 5.516 2.256 41 -
1994 5.493 1.943 24 -
1995 3.731 1.864 34 -
1996 3.697 1.801 42 -
1997 2.617 1.117 26 -
1998 1.998 1.044 79 -
1999 2.038 2.361 216 -
2000 20.548 10.458 452 3
2001 22.777 16.291 1125 5
2002 24.794 23.485 2272 24
2003 25.653 30.164 3872 18
2004 29.980 40.918 6926 21
2005 35.001 52.549 1059 37
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân: Công ty trách nhiệm hữu hạn,
Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh, mỗi loại hình có
sự tăng, giảm và chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng số các loại hình doanh 31 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, Công ty hợp danh chiếm tỷ trọng nhỏ
nhất, trong số các loại hình doanh nghiệp tư nhân từ 1991 - 1999 không có
Công ty hợp danh nào đăng ký thành lập, mãi đến năm 2000 mới có 03 Công ty
hợp danh thành lập, chiếm 0,02%, Công ty cổ phần những năm đầu chiếm tỷ
trọng thấp, những năm gần đây có xu hướng tăng lên, còn hai loại hình doanh
nghiệp là Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn, tỷ trọng
Doanh nghiệp tư nhân có xu hướng giảm xuống, còn Công ty trách nhiệm hữu
hạn có xu hướng tăng lên. Tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân
không như nhau là vì mỗi loại hình có hình thức hoạt động khác nhau, trong
từng thời điểm thì mỗi loại hình có sự phù hợp riêng, loại hình nào thuận lợi thì
phát triển mạnh hơn. Xu hướng Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển nhanh
hơn Doanh nghiệp tư nhân là do Công ty trách nhiệm hữu hạn có những ưu
điểm vợt trội so với Doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn trước
pháp luật chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp.
Từ năm 2000 đến nay, đây là giai đoạn Luật Doanh nghiệp ra đời và có
hiệu lực thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, đồng thời
Ban chấp hành Trung ương (Khoá IX) ban hành Nghị quyết TW 5 “Tiếp tục đổi
mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân”. Như vậy, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh
hơn nhiều so với giai đoạn 1991-1999.
Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ 01/01/2000 đến tháng
09/2003, cả nước có khoảng 72.601 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân thành lập thêm, đưa số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân lên đến
120.000 cơ sở và gấp 3 lần số doanh nghiệp có đến cuối năm 1999. Số doanh
nghiệp đăng ký trung bình hàng năm của giai đoạn này bằng 3,75 lần so với
trung bình hàng năm giai đoạn 1991-1999. Số lượng các loại hình doanh
32
nghiệp tư nhân tiếp tục tăng đều qua các năm. Năm 2005, có khoảng 38.000
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
doanh nghiệp tư nhân mới đăng ký hoạt động tăng 37,18% so với năm 2003 và
8,58% so với năm 2004. Chỉ tính riêng Quý I năm 2006 đã có khoảng 7.775
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp. Như vậy, bình quân
giai đoạn 2001-2005 mỗi năm có khoảng 28.655 doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh theo Luật Doanh nghiệp, tăng gần gấp 6 lần so với giai đoạn 1991-1999,
đưa tổng số các loại hình doanh nghiệp tư nhân đến cuối năm 2005 lên gần
200.000 doanh nghiệp.
Bảng 2.3: Số doanh nghiệp tƣ nhân đang hoạt động sản xuất kinh doanh
tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.
Đơn vị: Doanh nghiệp
Năm Tổng số Tăng so DNTN Công ty Công ty Công ty
doanh với năm TNHH Cổ phần hợp
nghiệp trước(%) danh
2000 31.461 - 20.548 10.458 452 3
2001 40.198 27,77 22.777 16.291 1125 5
2002 50.575 25,81 24.794 23.485 2272 24
2003 59.707 18,06 25.653 30.164 3872 18
2004 77.845 30,38 29.980 40.918 6926 21
2005 88.646 13,88 35.001 52.549 1059 37
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Trên đây là số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt
động kinh doanh nhưng thực tế số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân
hoạt động không phải là con số đó và các loại hình doanh nghiệp tư nhân thực
33
tế hoạt động phân bổ không đều, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Chí Minh, các tỉnh và thành phố khác có số lượng rất ít.
Nhưng hiện nay, số doanh nghiệp hoạt động so với số doanh nghiệp đăng
ký có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương cho thấy, số doanh nghiệp hoạt động đang chiếm từ
80% đến 85% số doanh nghiệp đăng ký. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, đến
hết tháng 7/2003 trên cả nước có khoảng 1.650 doanh nghiệp đã đăng ký nhưng
không còn hiện diện tại nơi đăng ký (chiếm khoảng 2.3% trong tổng số doanh
nghiệp đã đăng ký). Từ năm 2002 đến nay, số doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh xấp xỉ băng số doanh nghiệp đăng ký mã số thuế. Như vậy, từ khi có
Luật Doanh nghiệp thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân,
các loại hình doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển và
mở rộng sản xuất kinh doanh, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân tăng
nhanh, đó là dấu hiệu mừng cho khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung.
Sự tăng trưởng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đạt được như vậy
là do Chính phủ Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách và những biện
pháp phù hợp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đặc biệt là với các
loại hình doanh nghiệp, khẳng định rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không ngừng hoàn thiện
môi trường kinh doanh theo định hướng ngày càng thông thoáng hơn, cơ chế,
chính sách có chuyển biến rõ rệt, không phân biệt đối xử giữa các loại hình
doanh nghiệp.
Cụ thể từ năm 2000 đến nay số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế
tư nhân tăng mạnh, từ 31.461 doanh nghiệp (năm 2000) lên 88.646 doanh
nghiệp (năm 2005), đây là một dấu hiệu đáng mừng nhưng con số doanh nghiệp
hoạt động thực tế thì chưa được như vậy vì thế yêu cầu Nhà nước cần có chính
34
sách quản lý tốt hơn nữa để số lượng doanh nghiệp “ma” ít hơn.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Phân tích một số chỉ tiêu tài chính bình quân của kinh tế tư nhân theo loại
hình doanh nghiệp cũng cho thấy loại hình Doanh nghiệp tư nhân có tổng giá trị
tài sản nhỏ nhất, cao hơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn và cao nhất là Công ty
cổ phần vì đây là loại hình có ưu thế trong huy động vốn
2.1.2.Cơ cấu, quy mô các loại hính doanh nghiệp tư nhân:
a/ Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tư nhân.
* Theo ngành nghề kinh doanh:
Có thể nói, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã gia tăng khá
nhanh trong suốt thập kỷ 90 đến nay. Nhưng các loại hình doanh nghiệp tư
nhân đăng ký hoạt động chỉ tập trung ở một số ngành nghề chủ yếu như thương
mại, dịch vụ, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng.
Bảng 2.4: Số doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tƣ nhân phân theo
ngành:
Đơn vị: Doanh nghiệp
Loại hình DN tư nhân Cty TNHH Cty cổ phần Cty hợp
doanh nghiệp danh
*Nông nghiệp
và lâm nghiệp
Năm 2003 109 122 27 2
Năm 2004 137 159 40 1
Năm 2005 140 203 66 1
*Thuỷ sản
Năm 2003 1250 74 26 -
Năm 2004 1400 102 38 -
35
Năm 2005 1151 98 43 -
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Loại hình DN tư nhân Cty TNHH Cty cổ phần Cty hợp
danh doanh nghiệp
*Nông nghiệp
và lâm nghiệp
*Công nghiệp
5581 6703 702 4 Năm 2003
6222 9017 1171 4 Năm 2004
7078 11067 1676 3 Năm 2005
* Xây dựng
2548 4896 917 3 Năm 2003
2894 6445 1615 1 Năm 2004
3387 8109 2437 1 Năm 2005
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Nhìn vào số liệu trong bảng ta thấy số lượng doanh nghiệp trong các
ngành thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn và tăng lên qua các năm, nguyên
nhân của sự tập trung chủ yếu trên là do:
- Các doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn đầu tư lớn cho các dự án kinh
doanh về công nghiệp nặng, tâm lý muốn thu hồi vốn đầu tư nhanh thông qua
ngành thương mại - dịch vụ, công nghiệp nhẹ hoặc công nghiệp chế biến quy mô
nhỏ.
- Sự hạn chế về công nghệ và khả năng kỹ thuật của các loại hình doanh
nghiệp tư nhân.
- Hành lang pháp lý và các chính sách cụ thể còn phức tạp hoặc chưa tạo
đủ sức thu hút các doanh nhân bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nặng
công nghệ cao, lĩnh vực hạ tầng và dịch vụ công cộng do đó chưa hình thành cơ 36 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
cấu đầu tư tư nhân có hiệu quả cho nền kinh tế.
* Theo loại hình doanh nghiệp:
Từ năm 1990 tới nay do sự tác động của hàng loạt các đạo luật và chính
sách: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp thì cơ cấu
các loại hình doanh nghiệp tư nhân cũng có sự thay đổi đáng kể, trong các loại
hình doanh nghiệp tư nhân thì Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng tăng
dần qua các giai đoạn và đến giai đoạn 2000 - 2002 (sau khi thực hiện Luật
Doanh nghiệp) thì loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng cao
nhất 62,37%, Công ty cổ phần cũng tăng nhưng rất chậm, đến giai đoạn
2000-2002 mới chiếm 6,42%. Còn loại hình Doanh nghiệp tư nhân từ chỗ chiếm
tỷ trọng cao nhất 71,36% giai đoạn 1991-1996 thì đến giai đoạn 2000-2002 chỉ
còn chiếm 31,21% đứng sau Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Như vậy, trước năm 2000 loại hình Doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng
cao nhất nhưng sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời tác động tích cực đến sự
chuyển dịch cơ cấu loại hình doanh nghiệp, tỷ trọng Doanh nghiệp tư nhân trong
tổng số doanh nghiệp đăng ký tham gia giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999
xuống còn 34% năm 2003 và khoảng 30% năm 2004, trong khi đó, tỷ trọng
Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66% năm 2003
và khoảng 67,3% năm 2004. Loại hình Công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên 10%
năm 2003 và khoảng 13,6% năm 2004. Sự thay đổi này cho thấy các nhà đầu tư
trong nước có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp tư nhân hiện đại, tạo cơ
sở để doanh nghiệp có thể phát triển không hạn chế về quy mô.
b/ Quy mô của các loại hình doanh nghiệp tư nhân
Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hiện nay vẫn hoạt động với quy mô
kinh doanh nhỏ bé, có đến 90% số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân thuộc
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.
37
* Quy mô về vốn:
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Quy mô về vốn đối với doanh nghiệp hết sức quan trọng, nó quyết định
tới quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là các loại
38
hình doanh nghiệp tư nhân và nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng 2.5: Nguồn vốn bình quân của một doanh nghiệp trong khu vực kinh
tế tƣ nhân.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2003 2004 2005
Loại
hình DN
DN tư nhân 1,5 1,6 2,2
Cty TNHH 5,4 5,9 6,0
Cty cổ phần 15,0 15,0 16,1
Cty hợp danh 102,9 6,3 1,3
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Theo số liệu bảng 2.5 cho thấy nguồn vồn bình quân của Doanh nghiệp
tư nhân là thấp nhất (năm 2005 vốn bình quân của Doanh nghiệp tư nhân là 2,2
tỷ đồng); cao hơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn (6,0 tỷ đồng); sau đó là Công
ty cổ phần (16,1 tỷ); riêng Công ty hợp danh có sự thay đổi theo xu hướng
ngược lại, từ 102,9 tỷ đồng năm 2003 xuống còn 1,3 tỷ đồng năm 2005. Nguồn
vốn bình quân của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân
nhìn chung là thấp so với các khu vực khác và hiện nay vốn bình quân của loại
39
hình Công ty cổ phần là cao nhất.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng 2.6: Quy mô về vốn của doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tƣ nhân.
Loại hình Dưới Từ Từ Từ Từ Từ Từ Trên
0,5 0,5 - 1 1 - 5 5 - 10 10-50 50-200 200-50 500 doanh
tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ đồng nghiệp 0 tỷ
đồng đồng đồng đồng đồng tỷ đồng đồng
DN tư nhân
-Năm 2003 11119 5889 7455 785 370 31 2 2
-Năm 2004 12194 6811 9323 1068 530 51 2 1
-Năm 2005 12693 8311 11764 1418 736 66 7 6
Cty TNHH
-Năm 2003 5522 5856 13631 2791 2483 416 55 10
-Năm 2004 7624 7608 17711 3846 3429 598 82 20
-Năm 2005 9555 9782 22897 4989 4923 776 98 29
Cty cổ phần
-Năm 2003 503 486 1724 479 532 123 11 14
-Năm 2004 852 910 3162 858 907 190 25 16
-Năm 2005 1376 1408 4761 1256 1348 319 59 24
Cty hợp
danh
-Năm 2003 5 - 7 2 2 1 - 1
-Năm 2004 9 2 5 1 3 1 - -
-Năm 2005 15 8 13 - 1 - - -
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
40
thống kê, Hà Nội.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Qua số liệu trên ta thấy, quy mô về vốn của các loại hình doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô vốn lớn
chiếm tỷ lệ không cao, cụ thể đến thời điểm 31/12/2004 thì Doanh nghiệp tư
nhân có 52,59% doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng, 42,07% doanh
nghiệp có quy mô vốn từ 0,5 tỷ đến 1 tỷ, có 28,48% doanh nghiệp có quy mô
vốn từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ và 14,62% doanh nghiệp từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng, với
Công ty hợp danh thì những số liệu tương ứng là: 0,04; 0,01; 0,02, Công ty trách
nhiệm hữu hạn số liệu tương ứng là: 32,88; 46,99; 54,10 và 52,66, còn Công ty
cổ phần là: 3,67; 5,62; 9,66 và 11,75. Số lượng vốn đăng ký trong 4 năm (từ năm
2000 đến 7 tháng đầu năm 2003) gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung đạt
hơn 145,000 tỷ đồng (tương đương khoảng 9,5 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư
nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ). Trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm
2001 là 2,5 tỷ USD, năm 2002 là khoảng 2,8 tỷ USD, 7 tháng đầu năm 2003
khoảng 2,8 tỷ USD.
Trong năm 2004, số lượng vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp t-
ư nhân tăng khá nhanh, đạt 71,788 tỷ VNĐ, tăng 32,42% so với năm 2003. Bên
cạnh đó có gần 6.200 doanh nghiệp đăng ký bổ sung với tổng số vốn khoảng
23.200 tỷ VNĐ, tăng 31,1% so với năm 2003. Theo số liệu thống kê, tổng số
vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân năm 2005 đạt khoảng
103.500 tỷ VNĐ, tăng 44,17% so với năm 2004 và quý I năm 2006 đạt 29.063
tỷ VNĐ tăng 25% so với cùng kỳ năm 2005. Như vậy, giai đoạn 2001-2005, số
vốn đăng ký bình quân hàng năm khoảng 63.270 tỷ VNĐ và bình quân trên một
doanh nghiệp đạt khoảng 2,2 tỷ đồng tăng 3,87 lần so với giai đoạn 1991-1999.
Đến cuối năm 2005, theo số liệu thống kê cho thấy quy mô về vốn của
các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn rất nhỏ, dưới 0,5
tỷ đồng chiếm tỷ lệ nhiều nhất: Doanh nghiệp tư nhân là 12.693 doanh nghiệp;
41
Công ty trách nhiệm hữu hạn 9.555 doanh nghiệp; Công ty Cổ phần 1.376
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
doanh nghiệp và Công ty hợp danh 15 doanh nghiệp.
Mặc dù có sự gia tăng đáng kể như vậy nhưng nếu so sánh về mức vốn
đăng ký bình quân của 1 doanh nghiệp so với doanh nghiệp nhà nước là rất thấp
vì bình quân vốn của một doanh nghiệp nhà nước khoảng 18-20 tỷ đồng.
Về mặt kinh tế có thể thấy khá rõ sự khác biệt về hiệu quả kinh doanh
giữa các loại hình doanh nghiệp, trong đó Công ty cổ phần có hiệu quả sử dụng
vốn thấp hơn hai loại hình Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu
hạn, nguyên nhân của vấn đề này có lẽ xuất phát từ động lực của các loại hình
doanh nghiệp mang tính “tư nhân” cao hơn các doanh nghiệp mang tính “tập
thể” ở Việt Nam hiện nay. Động lực đó chi phối các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
Bảng 2.7: Thực trạng lãi, lỗ của các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh
tế tƣ nhân (2003 - 2005)
Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ
Loại hình Số DN Tổng mức Lãi bình Số DN Tổng Lỗ bình
doanh nghiệp lãi quân 1DN mức lỗ quân 1DN
(Tỷ đồng) (triệu (Tỷ (triệu đồng)
đồng) đồng)
DNTN
- Năm 2003 20656 1332 65 4005 -264 -66
- Năm 2004 24446 1816 74 4079 -474 -116
- Năm 2005 26885 2081 77 5973 -658 -116
C.ty hợp danh
- Năm 2003 14 10 687 4 -5 -1151
- Năm 2004 9 0 25 10 -5 -506
42
- Năm 2005 16 1 37 17 -1 -82
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ
Loại hình Số DN Tổng mức Lãi bình Số DN Tổng Lỗ bình
doanh nghiệp lãi quân 1DN mức lỗ quân 1DN
(Tỷ đồng) (triệu (Tỷ (triệu đồng)
đồng) đồng)
Cty TNHH
- Năm 2003 18607 3777 203 9092 -1265 -139
- Năm 2004 23719 5346 225 13684 -3131 -229
- Năm 2005 27875 5327 191 18380 -3560 -194
Cty Cổ Phần
- Năm 2003 2050 1308 638 1114 -269 -241
- Năm 2004 3372 2280 676 2241 -989 -441
- Năm 2005 5093 3506 688 3583 -849 -237
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Qua số liệu bảng 2.7 ta thấy hiệu quả kinh doanh giữa các loại hình
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là rất khác nhau. Chỉ tính riêng
trong 3 năm từ năm 2003 đến 2005, tổng số doanh nghiệp hoạt động có lãi
nhiều nhất là loại hình Doanh nghiệp tư nhân (từ 20.656 năm 2003 và tiếp tục
tăng cao, đến năm 2005 là có 26885 Doanh nghiệp tư nhân hoạt động có lãi);
tiếp theo đó là loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn (năm 2003 là có 18607
doanh nghiệp ); sau đó mới đến loại hình Công ty cổ phần (năm 2005 mới có
5093 doanh nghiệp ). Một điều đáng lưu ý là năm 2003 tổng số doanh nghiệp
hoạt động có lãi ở Doanh nghiệp tư nhân lớn hơn ở Công ty trách nhiệm hữu
hạn nhưng đến năm 2005 đã có sự thay đổi, tính đến hết năm 2005 thì tổng số
doanh nghiệp hoạt động có lãi ở Công ty trách nhiệm hữu hạn lại lớn hơn ở 43 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp hoạt động thua lỗ tính đến hết năm
2005 thì Công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều doanh nghiệp hoạt động thua lỗ
nhất (18380 doanh nghiệp); tiếp đó là Doanh nghiệp tư nhân (5937 doanh
nghiệp); sau đó là Công ty cổ phần (3583 doanh nghiệp); cuối cùng là Công ty
hợp danh (17 doanh nghiệp).
* Quy mô về lao động
Lao động của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong xã hội, tạo được nhiều việc làm trong xã hội, hàng năm tạo được
khoảng một triệu việc làm.
Đối với các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh
vực đầu tư chủ yếu là dịch vụ, quy mô nhỏ và rất nhỏ. Do đó sức hút lao động
yếu. Theo số liệu điều tra đến 01/07/2002 thì số lao động làm việc cho khu vực
kinh tế tư nhân là 1.256.750 người, trong đó có 304.785 người làm việc cho
Doanh nghiệp tư nhân, chiếm 24,25% tổng lao động làm việc cho khu vực kinh
tế tư nhân, 722.187 người làm việc cho Công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm
57,46%, 229.778 người làm việc cho Công ty cổ phần, chiếm 18,29%. Như
vậy, số lao động làm việc cho Công ty trách nhiệm hữu hạn là lớn nhất.
Tỷ lệ này có sự thay đổi trong năm 2005, thể hiện ở bảng dưới đây:
Bảng 2.8: Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 phân theo quy
Dưới 5
5 - 9
10 – 49
50 - 199
200-299
300-499
500-999
Loại hình DN
người
người
người
người
người
người
Người
DNTN
12846
10963
9754
1254
74
63
32
CTy TNHH
8394
17769
20511
4673
511
366
11
Cty Cổ phần
1308
3152
4315
1386
141
121
86
11
21
3
2
-
-
227
Công ty hợp danh Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
44
mô lao động và phân theo loại hình doanh nghiệp.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
thống kê, Hà Nội.
Nhìn vào số liệu trên bảng 2.8 ta thấy quy mô lao động của các loại hình
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế là nhỏ, số doanh nghiệp sử dụng lao động
dưới 50 người chiếm tỷ trọng cao, số doanh nghiệp sử dụng lao động ở mức
trên 200 lao động là rất thấp. Tại thời điểm 01/01/2004, khu vực kinh tế tư nhân
bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 31 lao động và 4 tỷ đồng tiền vốn, bằng 7,4%
về lao động và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp nhà nước và bằng 13% về lao
động và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Một điều đáng lưu ý là, hiện nay trong tổng số doanh nghiệp đăng ký
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì có tới 96% là doanh nghiệp vừa và nhỏ
và hàng năm các doanh nghiệp này thu hút được khoảng 450.000 lao động với
thu nhập bình quân 1,5 triệu đồng một tháng. Đây là dấu hiệu đáng mừng trong
việc khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân.
2.1.3. Sự phân bổ các loại hính doanh nghiệp tư nhân theo lãnh thổ.
Trong quá trình phân tích sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp
tư nhân, để làm rõ nội dung, tác giả đã lấy số liệu thực tế phát triển các loại hình
doanh nghiệp tư nhân ở hai thành phố lớn (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh)
phân tích.
2.1.3.1. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên địa bàn Hà Nội.
Tại Hà Nội tính chất và cơ chế hoạt động giữa các doanh nghiệp nhà n-
ước và doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh
nghiệp đầu tư ra nước ngoài hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gần
nhau hơn. Các doanh nghiệp ở Hà Nội ngày càng chuyển hướng mạnh sang
kinh doanh dịch vụ, sản xuất máy móc và hàng tiêu dùng chất lượng cao. Một
số doanh nghiệp tư nhân đầu đàn sẽ tăng cường liên kết và mở rộng sản xuất
45
trong lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
điện tử thông tin.
Kinh tế tư nhân ở Hà Nội bắt đầu được phục hồi và phát triển từ năm
1979, năm 1992 toàn thành phố có 464 doanh nghiệp nhưng đến 30/05/2003
trên địa bàn Hà Nội đã có 16.874 doanh nghiệp bao gồm các loại hình: Doanh
nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Công ty hợp
danh. Điều đó chứng tỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn này, số lượng
các loại hình doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh, theo số liệu của sở Kế hoạch
và Đầu tư Hà Nội, tổng số vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân
đến tháng 5/2003 là khoảng 23.000 tỷ đồng.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, các chủ doanh nghiệp của kinh tế
tư nhân có thể lựa chọn một trong bốn loại hình doanh nghiệp để hoạt động
kinh doanh: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ
Phần và Công ty hợp danh. Trong đó loại hình Công ty hợp danh thấy rất ít xuất
hiện trên thực tế, trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 1992 - 2003, loại hình
Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 74%, Công ty cổ phần chiếm 15%, Doanh
nghiệp tư nhân chiếm 11% tổng số doanh nghiệp được cấp phép đăng ký kinh
doanh.
Theo số liệu thống kê các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã được cấp mã
số thuế của Cục thuế Thành phố Hà Nội, đến năm 2002, loại hình Doanh
nghiệp tư nhân chiếm 7,86%, Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 80,4% và
Công ty cổ phần chiếm 12,1%.
Bảng 2.9: Phát triển của doanh nghiệp tƣ nhân tại Hà Nội qua các con số
Đơn vị: Doanh nghiệp
Năm 2000 2001 2002 2003 2004
46
Loại hình DN Tổng số doanh nghiệp Công ty TNHH 2210 1790 3381 2541 4262 3022 5907 3796 20209 14662
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Công ty cổ phần DN t nhân Công ty thành viên 130 290 - 519 300 22 978 231 31 1813 264 34 3583 1877 87
Nguồn: Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội
Qua phân tích cơ cấu kinh tế tư nhân theo loại hình doanh nghiệp trên địa
bàn Hà Nội, có thể rút ra vai trò của từng loại hình doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn đang giữ vị trí phổ biến và có vai
trò quan trọng nhất trong khối kinh tế tư nhân. Nếu so sánh lượng thuế đã nộp
với doanh thu của các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn năm 2002 sẽ có kết
quả sau: Doanh nghiệp tư nhân chiếm 0,74% doanh thu, Công ty trách nhiệm
hữu hạn chiếm 0,33% doanh thu, Công ty cổ phần chiếm 1,53% doanh thu. Đến
năm 2003, theo số liệu điều tra 161 doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân
trên địa bàn Hà Nội do Đại học Kinh tế quốc dân tiến hành thì tỷ lệ thuế tính
trên tổng doanh thu của các loại hình doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp tư
nhân: 4,51%, Công ty trách nhiệm hữu hạn: 8,18%, Công ty cổ phần: 5,73%.
Qua phân tích trên có thể rút ra kết luận rằng các loại hình doanh nghiệp
tư nhân hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội với tỷ lệ tương đối cao, tạo đà
cho sự phát triển cho kinh tế thủ đô thuận lợi hơn trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế.
2.1.3.2. Các loại hình doanh nghiệp tư nhận hoạt động trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh
Ở thành phố Hồ Chí Minh, quá trình chuyển dịch cơ cấu sở hữu các loại
hình doanh nghiệp đã trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng với đường lối đổi
mới nền kinh tế hiện nay đã và đang xuất hiện các nhân tố tích cực để khẳng
định xu hướng phát triển của nó.
Từ năm 1988 đến nay, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật
Công ty được ban hành (1990), kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân thành
phố Hồ Chí Minh phát triển với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng 47 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân các năm tăng lên, đặc biệt năm 1993
GDP của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tăng chung.
Vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng những năm qua ở mức độ cao. Tốc
độ tăng bình quân vốn đầu tư ở khu vực này từ 25% - 50%/năm, tốc độ tăng của
năm sau cao hơn năm trước. So với tổng thu trên địa bàn, thì phần thu từ khu
vực ngoài quốc doanh chỉ chiếm 29,6% tổng thu của Ngân sách địa phương.
Phân tích kỹ ta sẽ thấy rằng tuy có tăng về số tuyệt đối qua các năm, năm 1994
tăng so với năm 1991 là 20,4%, thuế doanh thu tăng từ 19% (1991) lên 24%
(1993) ngược lại thuế lợi tức lại giảm một cách đáng kể từ 42% (1991) còn 27%
(1993). Điều này thể hiện một mặt kinh tế tư nhân phát triển về quy mô nhưng
lại hạn chế về hiệu quả hoặc cố tình khai lợi tức thấp để chịu thuế ít hơn.
Các hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân thành phố Hồ Chí
Minh bao gồm hình thức kinh tế cá thể gồm hộ cá thể và tiểu thủ công, hộ kinh
doanh cá thể, hình thức kinh tế tập thể gồm hợp tác xã, tổ sản xuất, nhóm kinh
doanh, hình thức kinh tế tư doanh gồm xí nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm
hữu hạn, Công ty cổ phần. Đây là hình thức phổ biến, hoạt động hiệu quả trong
khu vực kinh tế tư nhân thành phố Hồ Chí Minh, cuối cùng là hình thức xí
nghiệp liên doanh.
Trong tất cả các hình thức đó, loại hình doanh nghiệp, Công ty tư nhân,
đặc biệt là Công ty trách nhiệm hữu hạn tăng khá nhanh trong vài năm qua, sau
khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty (1990), đến cuối năm 1991 có
khoảng 300 đơn vị Doanh nghiệp tư nhân, Công ty tư nhân (Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần), đến năm 1996 con số này lên đến 8.115 đơn
vị, năm 1999 là 13.082 đơn vị và đến tháng 6/2001 đã lên tới 21.912 đơn vị so
với số vốn đăng ký là 17.534 tỷ đồng, cứ mỗi năm ra đời từ trên 1.000 đến trên
2.000 đơn vị. Đặc biệt là sau khi áp dụng Luật Doanh nghiệp, năm 2000 có
48
5.499 đơn vị đăng ký thành lập mới và 6 tháng đầu năm 2001 đã có 3.331 đơn
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
vị đăng ký thành lập mới.
Tính đến tháng 6/2001, số Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm đa số có
12.964 đơn vị với 17.902 tỷ đồng vốn đăng ký, chiếm 59,16% về số lượng đơn
vị và 67,88% về số vốn đăng ký. Kế tiếp là Doanh nghiệp tư nhân có 8.299 đơn
vị và 12,72% về số vốn đăng ký. Số Công ty cổ phần có 649 đơn vị với số vốn
đăng ký là 3.402 tỷ đồng, chiếm 2,97% số lượng đơn vị và 19,4% về số vốn
đăng ký.
Nếu phân theo ngành sản xuất kinh doanh thì có tới 10.930 doanh
nghiệp, Công ty tư nhân hoạt động trong ngành thương mại, chiếm 49,88% số
lượng đơn vị thành lập, với 7.026 tỷ vốn đăng ký chiếm 40,07% tổng số vốn
đăng ký. Ngành chế biến công nghiệp có tới 3.107 doanh nghiệp, chiếm
14,18% số lượng đơn vị thành lập với 4.440 tỷ vốn đăng ký, chiếm 25,32%
tổng số vốn đăng ký. Ngành xây dựng có 1.775 đơn vị, chiếm 8,1% tổng số đơn
vị thuộc khu vực kinh tế tư nhân, với số vốn đăng ký là 3.072 tỷ đồng, chiếm
17,52% tổng số vốn đăng ký. Các ngành còn lại như nông, lâm nghiệp, vận tải
có 483 và 407 đơn vị hoạt động, chiếm 2,2% và 1,86%. Riêng ngành dịch vụ
khác trong đó có ngân hàng có 22 đơn vị, còn lại là dịch vụ khách sạn nhà hàng,
du lịch, vận tải, bất động sản… có tới 5.210 đơn vị chiếm 23,78% tổng các đơn
vị doanh nghiệp tư nhân và 10,07% tổng số vốn đăng ký. Tuy ngành ngân hàng
chỉ có 22 đơn vị, song nó chiếm 30% số đơn vị của ngành tài chính ngân hàng
hoạt động trên địa bàn.
Diễn biến của khối các doanh nghiệp tư nhân là tương đối tích cực được
biểu hiện thứ nhất là quy mô vốn bình quân tăng dần. Thứ hai là loại hình Công
ty trách nhiệm hữu hạn tăng cao hơn loại hình Doanh nghiệp tư nhân và Công
ty cổ phần đã tăng lên đáng kể trong vài năm gần đây đã có tỷ trọng vốn cao
hơn các Doanh nghiệp tư nhân do quy mô vốn gấp hơn nhiều lần. Tuy nhiên
49
hạn chế của khối doanh nghiệp tư nhân là tỷ lệ số đơn vị hoạt động trong ngành
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
sản xuất công nghiệp còn chiếm tỷ lệ thấp (chỉ chiếm 14,8% số lượng đơn vị và
25,32% tổng số vốn đăng ký)
Trên cơ sở phân tích những số liệu như trên cho thấy vai trò của các loại
hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế
thành phố như sau:
Như trên đã trình bày, sau khi có Luật Doanh nghiệp, tính đến tháng 06/2001,
đã có gần 9.000 đơn vị doanh nghiệp, Công ty tư nhân đăng ký thành lập mới
theo Luật Doanh nghiệp, tuy nhiên việc tăng số lượng đơn vị doanh nghiệp tư
nhân đã có ít tác động đến tăng trưởng kinh tế ở khu vực kinh tế tư nhân. Tốc độ
tăng GDP bình quân của thành phố năm 2001 khoảng 9,5% trong đó GDP khu
vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng cao nhất, đạt 10,7%; khu vực ngoài quốc
doanh tăng 7,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,1%. GDP của khu
vực kinh tế tư nhân năm 2001 giảm so với năm 2000 (8%) và thấp hơn mức
bình quân. Kết quả này khác với một nhận định chung là “Luật Doanh nghiệp
đã tạo động lực mới cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thể hiện bởi
số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng lên đột biến và kể từ khi kinh tế tư nhân
bắt đầu có hiệu lực”. Hiện tượng trên có thể giải thích là, mặc dù số lượng
doanh nghiệp đăng ký tăng lên nhưng vì mới thành lập nên một tỷ lệ lớn số
lượng doanh nghiệp vẫn đang trong giai đoạn xây dựng, đầu tư và chưa thực sự
đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nên chưa thể đóng góp nhiều vào tổng sản
phẩm nội địa của thành phố.
2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam
2.2.1. Định hướng phát triển kinh tế- xã hội
Đại hội Đảng VI (Tháng 12/1986) đã chỉ rõ xây dựng và phát triển đất
nước toàn diện trên mọi lĩnh vực trong đó lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm
50
với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
trước hết là đổi mới tư duy với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật. Đảng đã thừa nhận “sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế”,
thừa nhận các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải
tạo tốt trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nuớc ta còn tồn tại trong một thời gian
tương đối dài, với những nhận định và đánh giá đó, Đảng ta khẳng định nền
kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài.
Trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế Đảng và nhân dân ta quyết
tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường
đi lên của đất nước là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất lượng của xã hội trên tất cả các lĩnh
vực.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính
sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế kinh
doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị tr-
ường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh. Chính định hướng này là yếu tố ảnh hưởng tích cực tạo điều
kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển.
Thực hiện định hướng phát triển chung, Nhà nước đã từng bước hoàn
thiện các thể chế kinh tế để các doanh nghiệp đi vào hoạt động dễ dàng hơn, nó
bao gồm các hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động, hợp đồng mua bán hàng
hoá, hợp đồng thuê đất.
Việc đổi mới tư duy về thành phần kinh tế là không dễ dàng, quan niệm
về ý nghĩa, vai trò và vị trí cũng hoàn toàn khác vì nó trái với ý thức hệ và tư
51
duy truyền thống
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Quá trình chuyển biến nhận thức về sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài chủ trương, đường lối quá trình đổi mới
trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ra, còn có thêm
yếu tố tâm lý xã hội đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc
khu vực kinh tế tư nhân
Đổi mới trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới
trong chính sách và cách nhìn nhận về vai trò của các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân, thế nhưng chính những ảnh hưởng của chính
sách đó và sự kỳ thị của xã hội đối với kinh tế tư nhân làm cho các loại hình
doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó. Vì thế trong
thời kỳ mới, chúng ta cần đổi mới tư duy, nhìn nhận vai trò to lớn của kinh tế t-
ư nhân đối với sự phát triển của kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước thống nhất
các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân và giữ vững định hướng xã hôị
chủ nghĩa trong việc tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát
triển.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc
dân và các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có vai trò to
lớn trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế Việt Nam. Phát triển kinh tế t-
ư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ
trung tâm là phát triển kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực
của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, mà các loại hình doanh nghiệp
52
trong khu vực kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng duy trì và khẳng định vị thế
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Vì thế cần cải thiện môi trường
kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp trong khu
vực kinh tế tư nhân phát triển.
Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật,
bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, khuyến khích hỗ trợ tạo
điều kiện thuận lợi và định hướng quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo
pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã
hội để các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành
nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô,
nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, khuyến khích chuyển
thành Công ty cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kêt với
nhau và kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước.
Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cả của người lao động và người sử
dụng lao động. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và
người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái.
Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước,
lòng tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính
trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng
như trong từng doanh nghiệp, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh
nghiệp, kinh doanh theo đúng pháp luật, có hiệu quả, tích cực đóng góp hợp lý
vào các hoạt động xã hội.
Cải thiện môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Môi trường tâm lý phụ thuộc vào cả hai yếu tố: xã hội và bản thân cơ sở
53
kinh doanh. Về phía xã hội nếu giải quyết được những vấn đề nhận thức về
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
thành phần kinh tế và giai cấp, về trách nhiệm của môi trường trong phát triển
kinh tế tư nhân thì tâm lý xã hội sẽ được giải tỏa, niềm tin của doanh nhân sẽ
được nâng cao và đầu tư phát triển cũng như hậu quả của nó đối với xã hội sẽ
có những thay đổi đột biến.
Về phía các doanh nhân và cơ sở sản xuất cũng cần phát huy nội lực của
mình. Song trong phạm vi về vấn đề tâm lý cần thấy rõ bản thân doanh nghiệp
và vấn đề tâm lý xã hội đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân nói chung và
tâm lý người lao động đối với doanh nhân và doanh nghiệp nói riêng cùng với
yếu tố tự giác của doanh nghiệp và doanh nhân cần có sự can thiệp của bên
ngoài. Nhà nước cần can thiệp buộc các thành viên của khu vực này phải
nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ đối với người lao động dựa trên các đạo
luật cụ thể.
Cải thiện được môi trường tâm lý, xã hội một cách có hiệu quả, cần thiết
phải có sự nhận thức mới về doanh nhân và đổi mới quan điểm về kinh doanh
trong điều kiện hiện nay. Trong cơ chế thị trường, đội ngũ doanh nhân dần lớn
mạnh và giữ vai trò chủ động trên thị trường. Do vậy các doanh nhân cần được
quý trọng và tôn vinh bởi không có doanh nhân giỏi thì không có thị trường
lành mạnh và nền kinh tế phát triển. Mặt khác họ là những người đi đầu trong
việc khai phá thị trường, dám chấp nhận rủi ro và dũng cảm trong kinh doanh.
Vì thế cần có những quan điểm đúng đắn về vị trí vai trò của doanh nhân. Việc
biểu dương những doanh nhân vi phạm pháp luật, thiếu đạo đức kinh doanh đặc
biệt xây dựng hình tượng doanh nhân Việt Nam đúng như diện mạo chung của
họ hẳn sẽ góp phần tạo cho xã hội một cách nhìn nhận đúng đắn và thiện cảm
hơn.
Về phía các doanh nhân phải làm ăn có kế hoạch, chiến lược phát triển cụ
thể và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước,
54
không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng, đảm bảo uy tín trong kinh
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
doanh, xây dựng triết lý kinh doanh kết hợp với hành động thực tế… để cải
thiện hình ảnh của mình và củng cố lòng tin của các tổ chức tín dụng, các cơ
quan Nhà nước và công chúng. Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng văn hoá
doanh nghiệp tức là chuẩn mực về hành vi ứng xử thích hợp của các thành viên
trong doanh nghiệp, các chiến lược mục tiêu, triết lý kinh doanh, niềm tin, đạo
đức kinh doanh.
Cần nhận thức đúng đắn về việc kinh doanh làm giàu của doanh nghiệp.
Lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp thu được không chỉ gồm phần thu về theo tài
sản và vốn mà người chủ bỏ ra kinh doanh mà còn bao gồm cả phần thù lao cho
lao động quản lý là lao động phức tạp đòi hỏi sự tích luỹ chất xám và cường độ
tư duy cao bởi hàng hoá sản xuất ra phải có đủ sức cạnh tranh. Mặt khác, hoạt
động của doanh nghiệp còn phải đối mặt với nhiều rủi ro cần phải bù đắp. Vì
vậy, việc kinh doanh làm giàu của doanh nghiệp hoàn toàn chính đáng và
doanh nhân phải được trả công thoả đáng trong hoạt động kinh doanh đó.
Vì tất cả những lý do trên nên việc cải thiện môi trường tâm lý xã hội cho
khu vực tư nhân nên bắt đầu từ cải thiện trong quan điểm và nhận thức.
2.2.2: Môi truờng pháp lý
Để tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển nói
riêng và các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung,
Nhà nước đã xây dựng luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Đây chính là
môi trường pháp lý thuận lợi ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình
doanh nghiệp.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng xây
dựng khung khổ pháp lý, hoàn chỉnh dần, tạo điều kiện thụân lợi khuyến khích
khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đồng nghĩa các loại hình trong khu
vực kinh tế này cũng có điều kiện phát triển và có hiệu quả hơn theo những quy
55
định của pháp luật: bảo đảm sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
lâu dài giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử, bảo hộ quyền lợi
pháp luật của doanh nghiệp, thực hiện tốt nghĩa vụ trong kinh doanh, phát huy
nội lực và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài để đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh.
Cụ thể hoá một bước quan trọng tư tưởng cơ bản này, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khoá 9 đã khẳng định: chính sách phát triển
nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ
sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thể hiện tinh thần dân chủ về
kinh tế. Theo tinh thần này tư nhân được phép kinh doanh không hạn chế về quy
mô địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Luật Doanh nghiệp năm 2000 thay cho Luật Doanh nghiệp tư nhân và
Luật Công ty đã đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và các
doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp cùng với các luật, bộ luật khác như:
bộ luật dân sự, luật phá sản doanh nghiệp, luật thương mại, luật hải quan, bộ
luật lao động …và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã tạo nên một khung
pháp lý thông thoáng, thuận lợi hơn, tiếp tục tạo môi trường sản xuất kinh
doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp.
Sau 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hình thành rõ
chủ trương về phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân với tư tưởng chủ
đạo là:
- Cùng với việc thừa nhận vai trò, sự bình đẳng của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ cho kinh tế tư
nhân phát triển. Việc tạo môi trường và điều kiện thuận lợi trên tất cả các
phương diện thể chế, cơ chế tâm lý xã hội và các chính sách (đất đai, tài chính-
tín dụng, lao động và tiền lương). Hỗ trợ về đào tạo khoa học công nghệ, thông
tin xúc tiến thuơng mại. Nghị quyết TW 9 khoá IX yêu cầu “tiếp tục tháo gỡ
56
những vướng mắc và có chính sách hỗ trợ về mặt bằng sản xuất kinh doanh,
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
tiếp cận nguồn vốn tín dụng, chuyển giao công nghệ mới, tiếp cận và mở rộng
thị trường, đào tạo nguồn nhân lực. để phát triển mạnh và có hiệu quả hơn nữa
kinh tế tư nhân, kể cả doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, chú trọng giúp đỡ
doanh nghiệp nhỏ và vừa”
- Tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ, nhưng không bao cấp, không theo cơ chế
“xin - cho” tránh lợi dụng việc này để làm thất thoát vốn của Nhà nước, gây rối
loạn cơ chế quản lý, tiếp tay cho tiêu cực.
- Phát triển đi đôi với quản lý.
- Theo đà phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước bổ
sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hỗ trợ và quản lý loại hình kinh
tế này, ví dụ hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần xây dựng bộ luật
doanh nghiệp chung cho cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Điều này cho thấy các loại hình doanh nghiệp tư nhân được bình đẳng
phát triển cùng với các loại hình doanh nghiệp khác trong môi trường pháp lý
thuận lợi.
Từ những năm 90 trở lại đây, hệ thống luật pháp của Việt Nam đã được
hoàn thiện, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước ban hành rất nhiều các đạo
luật và chính sách khác nhau để tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp
trong các khu vực kinh tế phát triển. Đó là yếu tố thuận lợi, nhờ đó các loại hình
doanh nghiệp tư nhân cũng phát triển rất nhiều.
Nhưng mặt trái của vấn đền này thì lại khác, sự gia tăng về số lượng
doanh nghiệp và chất lượng doanh nghiệp nó không tương đồng với nhau,
chính vì cơ chế thoáng, chính sách thuận lợi khiến cho số doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh tăng vọt, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân vì yêu cầu trong thủ
tục đăng ký kinh doanh cho các loại hình hiện nay không còn rườm rà như
57
trước mà thủ tục lại rất gọn nhẹ. Chính điều này khiến cho sự quản lý của các cơ
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
quan chức năng rất khó khăn và số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh cứ
tăng lên theo các năm, trong khi thực tế số doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh không phải là con số đó. Hay nói cách khác số doanh nghiệp tư
nhân “ma” tăng lên rất nhiều, đặc biệt trong những năm gần đây.
Sự hoàn thiện luật đầu tư cũng là yếu tố quan trọng tác động đến sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, kể từ Đại hội Đảng VI
(T12/1986)- từ khi nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường, quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển, từ đó Luật Đầu tư của Việt
Nam ta ngày một hoàn thiện hơn tạo điều kiện phát triển và mở rộng thị trường,
các tổ chức, doanh nghiệp có môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Từ đó các loại
hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng
lẫn quy mô vốn, lao động, đặc biệt là trình độ công nghệ và trình độ quản lý.
2.2.3. Môi trường kinh tế .
2.2.3.1 Cơ sở hạ tầng kinh tế
Bao gồm điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, đây là yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của tất cả các loại hình doanh nghiệp,
trong đó có doanh nghiệp tư nhân, nếu cơ sở hạ tầng thấp không xứng với nhu
cầu phát trển của các doanh nghiệp thì sẽ kìm hãm nó phát triển, còn cơ sở hạ
tầng mà phát triển không những sẽ tạo điều kiện thuận lợi mà còn thúc đẩy cho
doanh nghiệp phát triển. Điện, nước là yếu tố để cung cấp cho hoạt động sản
xuất của các doanh nghiệp, giao thông vận tải là nơi vận chuyển hàng hóa hiệu
quả nhất giúp lưu thông hàng hoá thuận tiện hơn. Và điều không thể thiếu trong
thời đại kinh tế thị trường đó là thông tin liên lạc nó sẽ giúp các chủ doanh
nghiệp tư nhân nắm bắt tìm hiểu thị trường và đối tác một cách nhanh nhất để
đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp nhất.
2.2.3.2. Thị trường các yếu tố sản xuất
58
Thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm vốn, lao động, đất đai, công
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nghệ. Đây là các yếu tố quan trọng nhất quyết định trực tiếp tới quá trình sản
xuất kinh doanh cũng như sự tồn tại của các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các
loại hình doanh nghiệp tư nhân thì các yếu tố này là hết sức quan trọng, khi mới
thành lập và bước vào sản xuất kinh doanh đều cần phải có các yếu tố này.
Trong các yếu tố trên thì vốn là quan trọng nhất, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp, có vốn đồng nghĩa với việc có tất cả các yếu tố
khác từ việc thuê lao động đến việc mua trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản
xuất kinh doanh, tiếp cận công nghệ… Một yếu tố quan trọng không thể thiếu
nữa đó là lao động, bởi lẽ chủ doanh nghiệp có giỏi đến đâu hay nhiều vốn đi
chăng nữa mà không có đội ngũ lao động phù hợp thì không thể thành công
được. Ngoài ra còn kể đến các yếu tố như đất đai, công nghệ …nó sẽ giúp
doanh nghiệp có được mặt bằng sản xuất kinh doanh ổn định, phù hợp và với
công nghệ được ứng dụng trong sản xuất sẽ đa dạng các loại hình sản xuất,
chuyên môn hoá trong sản xuất.
Đồng thời, hiện nay ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thị trường chứng khoán đang hình thành và phát triển, tuy thị
trường này vẫn còn sơ khai nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là
loại hình công ty cổ phần. Đây là một xu thế thuận lợi và hợp lý trong định
hướng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ta.
2.2.3.3. Thị truờng tiêu thụ sản phẩm
Các mặt hàng loại hình sản phẩm được doanh nghiệp tư nhân sản xuất là
tương đối đa dạng. Song nếu chỉ tập trung làm sao có được các yếu tố sản xuất
phù hợp tạo được khối lượng sản phẩm lớn mà không chú ý đến thị trường tiêu
thụ sản phẩm, sản phẩm tồn đọng thì mọi việc làm trên đều vô nghĩa vì thế thị
trường tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các
59
loại hình doanh nghiệp tư nhân.Thị trường tiêu thụ sản phẩm do quy mô dân số,
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
sở thích người tiêu dùng... quy định. Nếu dân số đông, sức tiêu dùng lớn thì sản
phẩm doanh nghiệp sản xuất ra sẽ được tiêu thụ mạnh hơn so với dân số ít,
ngoài ra còn phải kể đến sở thích của người tiêu dùng nữa nếu sở thích của
người tiêu dùng có xu hướng thích một số mặt hàng nào đó thì mặt hàng đó sẽ
bán chạy hơn và ngược lại chính điều này cũng ảnh hưởng đến việc sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vì mục tiêu của họ là sản xuất để bán
hàng và thu lợi nhuận.
2.2.3.4. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.
Ngoài các yếu tố chủ quan trên thì yếu tố khách quan không thể tránh
khỏi là sự tồn tại cùng phát triển của các loại hình doanh nghiệp khác cũng như
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính sự phát
triển song song của nhiều loại hình doanh nghiệp, đã một mặt tạo ra những tác
động tích cực như chính sự phát triển song song của các loại hình doanh nghiệp
này khiến các doanh nghiệp tư nhân muốn tồn tại thì phải có sự cạnh tranh, phải
luôn cố gắng biến đổi mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm; nhưng cũng
có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân. Chẳng hạn, các doanh nghiệp tư nhân sẽ khó khăn hơn
trong sản xuất kinh doanh buôn bán những mặt hàng mà các doanh nghiệp khác
cùng kinh doanh do các doanh nghiệp khác có quy mô lớn hơn và có nhiều điều
kiện thuận lợi hơn.
2.2.3.5. Một số yếu tố khác:
* Truyền thống sản xuất kinh doanh
Đây có thể nói là yếu tố tích cực ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại
hình doanh nghiệp tư nhân. ở Việt Nam truyền thống sản xuất kinh doanh đã có
từ lâu đời và được kế thừa như truyền thống sản xuất nông nghiệp, có nhiều
kinh nghiệm về làm nông nghiệp đạt năng suất cao, có nhiều làng nghề truyền
60
thống hiện nay vẫn tồn tại và phát triển với quy mô phù hợp tình hình kinh tế
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
hiện nay. Ngoài ra một truyền thống quý báu của Việt Nam là sự cần cù, chịu
khó biết vượt qua khó khăn- chính yếu tố này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tư
nhân có thể thu hút được đội ngũ lao động phù hợp với doanh nghiệp.
* Đặc điểm của môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp
tư nhân, nếu đất nước mà có điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên
phong phú sẽ giúp cho các doanh nghiệp phát triển thuận lợi hơn nhiều so với ở
đất nước có khí hậu khắc nghiệt và nguồn tài nguyên không nhiều. Việt Nam là
một trong những nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi và tài nguyên thiên nhiên
phong phú nên có thể phát triển nhiều loại hình sản phẩm, đáp ứng yêu cầu
trong và ngoài nước.
* Quá trình đô thị hoá
Hiện nay, quy mô và mức độ đô thị hoá càng lớn và không thể tiếp tục
dựa vào đầu tư của Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Điều này là cơ hội
thúc đẩy đổi mới kinh tế định hướng thị trường với quy mô và cường độ lớn
hơn. Trong đó có sự thức đẩy và tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân
chính thức, hiện đại.
Nhờ có quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ khiến cho số lượng các
doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, đặc biệt ở các thành
phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh…
* Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam ta trong thời gian qua diễn ra
rõ rệt, một số ngành nghề, một số lĩnh vực được ưu tiên phát triển và một số
ngành nghề, lĩnh vực không được ưu tiên; quá trình này cũng là một nhân tố
ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu
vực kinh tế tư nhân. Lĩnh vực thu hút các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế t-
61
ư nhân nhiều nhất là thương mại, công nghiệp và dịch vụ. Những ngành nghề
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
này các doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động ít sẽ thuận lợi trong kinh
doanh để có thể thu hút vốn nhanh nhất và lợi thuận vẫn cao. Những ngành
nghề mà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển lại là những
ngành nghề phù hợp với sự lựa chọn cho phát triển kinh tế thị trường định h-
ướng xã hội chủ nghĩa vì thế đây là nhân tố tích cực cho doanh nghiệp trong
khu vực kinh tế tư nhân phát triển.
2.3. Đánh gía chung
2.3.1. Những mặt mạnh trong phát triển các loại hính doanh nghiệp thuộc khu
vực kinh tế tư nhân.
Qua phân tích vai trò, quy mô cơ cấu của các loại hình doanh nghiệp tư
nhân ở Việt Nam cho ta thấy trong quá trình phát triển các loại hình doanh
nghiệp này có những mặt tích cực của nó.
* Cơ cấu loại hình doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú thích ứng
với trình độ quản lý và năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Đây là mặt mạnh tích cực của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế tư nhân vì với đặc tính về quy mô vốn, lao động …. các loại hình doanh
nghiệp này phát triển rất đa dạng thuận lợi do cơ chế hiện nay vì thế trình độ
quản lý của chủ doanh nghiệp cũng không cần đòi hỏi quá cao theo quy chuẩn
nào đôi khi chủ doanh nghiệp không qua đào tạo hoặc đào tạo không chính quy.
Đồng thời năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng thể hiện điều này, một
doanh nghiệp thành lập mới trong khu vực kinh tế tư nhân yêu cầu số lượng vốn
ban đầu không quá cao, lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh đơn giản, gọn nhẹ,
thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao. Những lý do trên cho thấy mặt mạnh của
các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là rất phong phú và đa
dạng.
62
* Tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực, kinh tế tư nhân đều
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trên tất cả các mặt.
Đây có thể nói là một đóng góp to lớn của các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân không thể phủ nhận đặc biệt từ những năm 90 trở
lại đây vai trò đó ngày càng thể hiện rõ. Các loại hình doanh nghiệp trong khu
vực kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, trên nhiều mặt, mọi lĩnh vực và
ở nhiều nơi vì thế nó có vai trò to lớn và đóng góp trên nhiều mặt: nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nói chung, tạo công ăn
việc làm, huy động nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, thúc đẩy
quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao
năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường... Từ những
mặt mạnh đó mà các loại hình doanh nghiệp tư nhân có được lại là điều kiện
thuận lợi tác động trở lại cho nó có được động lực mới để phát triển trong điều
kiện hội nhập.
* Hiện nay các doanh nghiệp thuộc những loại hình có nhiều ưu thế ngày
càng tăng.
Đây là xu hướng phát triển tích cực và cũng do định hướng phát triển
kinh tế của đất nước theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện
tại tuy Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm phần lớn và tăng nhanh những năm
qua nhưng xu thế tương lai gần các loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu thế như
Công ty cổ phần có xu hướng gia tăng. Công ty cổ phần là loại hình doanh
nghiệp có ưu thế hơn hẳn các loại hình doanh nghiệp còn lại trong khu vực về
khả năng huy động vốn và phân tán rủi ro... hiện nay chủ trương của Chính phủ
thực hiện quá trình cổ phần hoá để tạo điều kiện cho loại hình này ngày càng
phát triển hơn, chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực.
* Sự hợp tác liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp trong khu vực tuy
63
chưa mạnh nhưng đang hình thành.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Trong vấn đề này từ trước với mọi người đều tiềm thức rằng giữa các loại
hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân thường không có sự liên kết
với nhau, mạnh ai nấy thắng, các chủ doanh nghiệp mục đích cuối cùng cũng
chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng hiện nay, vấn đề này lại khác nó đi theo xu
hướng ngược lại, tuy sự liên kết giữa các doanh nghiệp chưa rõ ràng, mối liên
kết chưa sâu, chưa diễn ra mạnh mẽ nhưng sự liên kết đang hình thành và ngày
một sâu sắc. Sau khi sự liên kết hình thành sẽ dẫn đến một loạt những vấn đề
tích cực là yếu tố thúc đẩy cho các loại hình doanh nghiệp cùng phát triển, liên
kết bền chặt, từ đó các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau lành mạnh hơn
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
* Tuy các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân này đã tăng
nhanh trong thời gian qua nhưng chỉ tập trung vào loại hình là Doanh nghiệp tư
nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn, đặc biệt là Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Nguyên nhân là do Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty rễ thành
lập, hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi, đồng thời yêu cầu về năng lực
quản lý và vốn của chủ doanh nghiệp phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta
hiện nay. Nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn lại là loại hình ý thức chấp hành
pháp luật chưa cao, mức đóng thuế chưa tương xứng với năng lực của doanh
nghiệp
Qua xem xét cơ cấu của kinh tế tư nhân theo loại hình doanh nghiệp,
thông qua phân tích tỷ trọng về số lượng doanh nghiệp trong từng loại hình,
phân tích tỷ trọng trong doanh thu tại gia của từng loại hình đã cho thấy vai trò
quan trọng của Công ty trách nhiệm hữu hạn xét riêng trong khu vực kinh tế tư
nhân. Nhìn về xu thế tương lai gần, vai trò đó vẫn sẽ còn gia tăng. Tuy nhiên,
khi phân tích xâu chuỗi vai trò của loại hình doanh nghiệp trong đó việc tạo ra
64
doanh thu với mức thuế của chúng đã đóng góp, lại cho thấy loại hình Công ty
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
trách nhiệm hữu hạn chưa đóng thuế tương ứng với năng lực của nó. Trong
cùng loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường có ý thức
chấp hành pháp luật về thuế cao hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Điều
này một lần nữa minh chứng cho chủ trương lâu dài nên khuyến khích các loại
hình Công ty cổ phần phát triển, do ưu thế và quy mô của chúng sẽ kéo theo
một loạt các ưu thế khác so với các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm
65
hữu hạn và Công ty hợp danh.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng 2.10: Thuế và các khoản nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong
khu vực kinh tế tƣ nhân.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Năm Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và
các các các các các khoản các
khoản khoản đã khoản khoản đã phát sinh khoản đã
phát sinh nộp phát sinh nộp phải nộp nộp
phải nộp trong phải nộp trong trong năm trong
Loại hình DN trong năm năm trong năm
năm năm
DN tư nhân 2349,2 2133,6 2519,3 2845,9 3399,1 3415,1
Cty TNHH 10326,4 10064,6 13426,8 13792,7 15735,0 15701,3
Cty cổ phần 2191,9 1609,7 2821,8 2835,8 6181,1 5598,6
Cty hợp danh 36,9 64,2 2,9 4,5 1,7 2,0
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
thống kê, Hà Nội.
Phân tích một số chỉ tiêu tài chính bình quân của kinh tế tư nhân theo loại
hình doanh nghiệp cũng cho thấy loại hình Doanh nghiệp tư nhân có tổng giá trị
tài sản nhỏ nhất, cao hơn là loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn, và cao nhất
là Công ty cổ phần. Đó cũng là lý do phần nào lý giải cần phải ưu tiên phát triển
Công ty cổ phần trong chính sách của Đảng và Nhà nước.
Loại hình có nhiều ưu thế như Công ty cổ phần phát triển chậm và chưa
phát huy hiệu quả do quá trình cổ phần hoá còn chậm, quy mô lớn.
Như đã phân tích ở trên, do tâm lý xã hội, thành kiến đối với các loại hình
doanh nghiệp tư nhân, đồng thời do công chúng vẫn còn e ngại với các loại hình 66 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
doanh nghiệp mang tính tập thể nên hiện nay trong khu vực kinh tế tư nhân thì
loại hình Công ty cổ phần chưa phát triển đúng tầm quan trọng khi nó có nhiều
ưu thế hơn hẳn so với Công ty trách nhiệm hữu hạn và Doanh nghiệp tư nhân.
Vì thế trong giai đoạn tới để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng
chủ nghĩa xã hội cần tạo điều kiện, định hướng cho Công ty cổ phần phát triển.
* Năng lực của người lao động trong hầu hết các loại hình doanh nghiệp trong
khu vực kinh tế tư nhân còn thấp do quy mô nhỏ, manh mún, mang nặng tính t-
ư nhân.
Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì trình
độ của người lao động cũng như chủ doanh nghiệp chưa đồng đều giữa các loại
hình, ở Công ty cổ phần hay ở những doanh nghiệp có quy mô lớn thì trình độ
tương đối đáp ứng yêu cầu nhưng ở các loại hình có quy mô nhỏ như Công ty
trách nhiệm hữu hạn và Doanh nghiệp tư nhân thì trình độ của lao động rất yếu
cả năng lực chuyên môn lẫn ý thức chấp hành pháp luật
Mặc dù lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội và gia tăng nhanh chóng trong
những năm gần đây, nhưng chất lượng của nguồn nhân lực còn thấp và chưa
được cải thiện đáng kể. Nhìn chung các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn
thiếu những lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu đội ngũ công nhân lành
nghề.
Theo kết quả điều tra, trình độ học vấn của lao động trong các doanh
nghiệp tư nhân rất thấp, phần lớn lao động đang làm việc trong các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và lao động phổ thông. Những lao động
này hầu như chưa qua đào tạo, trình độ kỹ năng lao động còn thiếu. Trong
1.475.716 lao động thì có 1.097.598 (chiếm 74,4%) là lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật. Số lao động có chuyên môn là 369.118, chiếm 25,3%,
67
trong đó chỉ có 92.042 lao động có trình độ Cao đẳng, Đại học chiếm 6,18%
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
tổng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân.
Bản thân các chủ doanh nghiệp cũng thiếu trình độ, kiến thức. Về cơ bản
đội ngũ này mới được hình thành trong những năm 90.Vì vậy họ còn thiếu kinh
nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị
trường. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học trở lên chiếm tỷ lệ thấp, ở Công
ty trách nhiệm hữu hạn là 8,6%, Công ty cổ phần là 1,3%, Doanh nghiệp tư
nhân là 1,9%, trong khi đó chủ doanh nghiệp không có bằng cấp là 84,6% ở
Doanh nghiệp tư nhân, ở Công ty cổ phần là 93,6%, Công ty trách nhiệm hữu
hạn là 78%, quy mô của các doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ nên nguồn vốn đầu
tư đào tạo chuyên môn đầu tư cho người lao động còn thấp. Hầu hết các loại
hình doanh nghiệp tư nhân không đủ kinh phí để đầu tư nâng cao trình độ
chuyên môn cho người lao động .
Hơn nữa, đầu tư cho nhân lực là đầu tư dài hạn không mang lại lợi ích một
cách trực tiếp cho doanh nghiệp trong ngắn hạn. Điều này càng không khuyến
68
khích các loại hình doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Bảng 2.11: Trình độ của đội ngũ chủ doanh nghiệp tƣ nhân
Đơn vị: (%)
Các tiêu chí DNTN Công ty Công ty Doanh Loại
Cổ phần TNHH nghiệp hình
liên doanh khác
Chia theo trình độ
chuyên môn
Chứng chỉ đào tạo 1,64 0,00 0,75 1,28 24,32
2,86 Sơ cấp 4,49 3,98 0,00 18,92
21,35 Trung cấp 3,21 35,23 30,56 71,43
6,06 Cao đẳng 12,17 2,76 0,00 5,71
63,55 Kỹ sư 58,26 51,72 58,23 17,14
1,45 Thạc sỹ 2,61 0,00 9,27 0,00
0,45 Tiến sỹ 1,74 0,00 2,78 0,00
Chia theo trình độ
ngoại ngữ
Trình độ ngoại ngữ A 94,51 91,30 94,48 98,57
Trình độ ngoại ngữ B 9,92 15,65 13,10 1,43
Trình độ ngoại ngữ C 6, 24 20, 00 7,59 0,00
Trình độ ngoại ngữ D 1,62 11,30 0,00 0,00
87,83 Chia theo trình độ tin 80,17 86,90 29,17 91,43
học
Biết sử dụng thành thạo 19,83 13,10 12,17 70,83 8,57
Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản
69
thống kê, Hà Nội.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, chính sách lao động ở nước ta đã có
bước chuyển biến cơ bản, từ chế độ lao động theo biên chế Nhà nước sang hợp
đồng lao động dựa trên cung- cầu của thị trường. Nhà nước tạo lập khuôn khổ
pháp lý cho việc sử dụng lao động nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao
động, quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động.
Mặc dù vậy, chính sách đào tạo nguồn nhân lực đối với khu vực tư nhân
còn có những hạn chế:
- Chưa có biện pháp cụ thể và thiết thực hỗ trợ cho các trong việc đào tạo
chủ doanh nghiệp và đào tạo tay nghề, phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào
tạo.
- Việc tiếp cận các dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp
có nhiều hạn chế, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hầu như
không được hưởng các chính sách đào tạo từ nguồn Ngân sách. Nhà nước chưa
có những chính sách và biện pháp phù hợp để khuyến khích và hỗ trợ các doanh
nghiệp tự đào tạo như miễn giảm đối với các chi phí đào tạo của các doanh
nghiệp, hỗ trợ thành lập các trung tâm đào tạo nghề.
Trên thực tế, năm 2005 lực lượng lao động chiếm khoảng 59% dân số, chỉ
dưới 20% lực lượng lao động được đào tạo, khoảng 56% công nhân không có
kỹ thuật hoặc kỹ thuật thấp, tình trạng ở nông thôn: 70% lao động làm việc ở
các vùng nông thôn nhưng chỉ 10% trong số họ được đào tạo.
Nền giáo dục của Việt Nam chưa hướng vào nhu cầu của kinh doanh
thương mại, đào tạo kỹ thuật của Việt Nam chủ yếu thuộc trách nhiệm của các
trường quốc lập và các trường cao đẳng, trung cấp kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu
đào tạo của các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đang giảm dần sự hỗ trợ cho
một số lượng lớn các trung tâm đào tạo chuyên ngành trên toàn đất nước, song
thiết bị đào tạo của các trung tâm thì lại lạc hậu và cũ kỹ.
70
Mặt khác, chương trình đào tạo hiện nay đại đa số các trường dạy nghề,
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
các trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật không thể đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp bởi vì nó quá tập trung vào lý thuyết mà yếu thực hành. Nội dung
đào tạo cũ kỹ không theo kịp những yêu cầu của thực tiễn. Đó là hạn chế các
loại hình doanh nghiệp tư nhân về trình độ và năng lực của người lao động. Đây
là vấn đề lớn quan trọng yêu cầu cần có giải pháp kịp thời giúp cho các doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển vững mạnh hơn .
* Phân bổ không đồng đều, hầu hết các doanh nghiệp trong khu vực kinh
tế tư nhân sản xuất tập trung ở các thành phố lớn nơi có cơ sở hạ tầng, vật chất
và giao thông thuận tiện xét về phương diện địa lý lãnh thổ, các loại hình doanh
nghiệp tư nhân thường tập trung ở các lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng
Nam, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh… ở những nơi này có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và đồng thời đó là nơi có thị trư-
ờng tiêu thụ rất lớn. Chính điều này gây nên sự phát triển không đồng đều giữa
các vùng miền, mà điều này đến lượt nó lại có thể gây ra sự phân hoá xã hội.
* Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tính
hợp tác, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp yếu
2.3.3. Xu hướng phát triển của các loại hính doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế tư nhân.
Xu hướng phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân có sự chuyển
đổi lớn, trước năm 2000, loại hình Doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng rất
cao. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp hoạt động tích cực đến xu hướng phát
triển trong doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân.
Tỷ trọng loại hình Doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký
giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% năm 2003 và khoảng
30% năm 2004; trong khi đó tỷ trọng Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty
cổ phần tăng từ 36% lên 66% năm 2003 và khoảng 67,3% năm 2004. Loại hình
71
Công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên 10% năm 2003 và khoảng 13,6% năm 2004.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Sự thay đổi này cho thấy các nhà đầu tư trong nước có xu hướng lựa chọn loại
hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể phát triển không
hạn chế về quy mô.
Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn sẽ tiếp tục
mở rộng quy mô, thị trường trong tất cả các lĩnh vực mà luật pháp không cấm
và sẽ vươn lên làm cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành một khu vực kinh tế
có tỷ trọng lớn nhất trong GDP của nền kinh tế quốc dân, trở thành đầu tầu
trong sự tăng trưởng.
Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có mặt ở mọi
miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn và ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh
doanh từ nông- lâm ngư nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng, giao
thông vận tải đến dịch vụ thương mại. Tuy nhiên trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, kinh tế tư nhân trong các ngành nghề phi nông
nghiệp sẽ có tốc độ phát triển nhanh hơn và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ
cấu kinh tế tư nhân của nước ta và kinh doanh thương mại, dịch vụ vẫn là lĩnh
vực có nhiều doanh nghiệp tham gia.
Doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân sẽ có vai trò, vị trí ngày càng
quan trọng trong cơ cấu doanh nghiệp ở Việt Nam trên tất cả các mặt: số lượng
đơn vị sản xuất kinh doanh, tỷ trọng vốn đầu tư, cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đua tranh và hội nhập, đặc biệt là tạo ra nhiều việc làm, cải
thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo. Dự
báo đến năm 2020, khu vực kinh tế tư nhân sẽ chiếm từ 60% - 70% GDP trong
nền kinh tế quốc dân.
Các loại hình doanh nghiệp tư nhân sẽ xuất hiện thêm nhiều ngành nghề,
sản phẩm mới. Trong đó có những ngành nghề, sản phẩm mới ra đời xuất phát
72
từ tiềm lực nội sinh của nó được khơi dậy và từ nhu cầu đời sống xã hội ngày
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
càng được nâng lên đòi hỏi sản xuất phải đáp ứng. Có những ngành nghề mới ra
đời đòi hỏi của thị trường thế giới thông qua việc mở rộng quan hệ đối ngoại,
chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của nước ta, hoặc do tiến bộ khoa
học - công nghệ đem lại. Có những ngành nghề vốn trước đây do Nhà nước sản
xuất kinh doanh nay khu vực doanh nghiệp nhà nước được tổ chức sắp xếp lại
chỉ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực then chốt, số còn lại Nhà nước sẽ
nhường chỗ cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm. Xu thế phát
triển này đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi phải nâng cao nhận thức, năng lực,
trình độ quản lý của cơ quan Nhà nước các cấp, nếu không sẽ trở thành lực cản
của sự phát triển kinh tế tư nhân như xảy ra ở một số địa phương thời kỳ vừa
qua.
Vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu, trước áp lực của cạnh tranh quyết liệt
và với chính sách mở rộng đối với khu vực kinh tế tư nhân thì Doanh nghiệp tư
nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần sẽ diễn ra 2 quá trình:
Quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, chuyển phần lớn lợi nhuận thu được
hoặc bổ sung thêm vốn từ các nguồn khác để đầu tư mở rộng sản xuất kinh
doanh và năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển
trong môi trường cạnh tranh mới. Một số doanh nghiệp có khả năng sẽ mở rộng
ra các vùng, hình thành những chi nhánh hoặc công ty con (như kiểu Công ty
Kinh đô, Công ty Bitis ở thành phố Hồ Chí Minh và Công ty ống nhựa Tấn Phát
ở Đà Nẵng).
Trong điều kiện Nhà nước tăng cường quản lý vĩ mô, khó có khả năng
sớm hình thành những tổ chức độc quyền trên quy mô cả nước, nhưng có xu
hướng “tích tụ và tập trung sản xuất” vẫn phát huy tác dụng thể hiện trong sự
liên kết, sát nhập các doanh nghiệp để hình thành các công ty có quy mô lớn, có
công nghệ hiện đại, có năng lực cạnh tranh và ngày càng chiếm nhiều thị phần
73
hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Trong quá trình vận động và phát triển các doanh nghiệp trong khu vực
kinh tế tư nhân sẽ diễn ra sự đan xen, liên kết với nhau và với các doanh nghiệp
mọi các thành phần kinh tế khác hình thành các doanh nghiệp hỗn hợp: đây là
xu hướng xã hội hoá nền kinh tế nước ta trong tiến trình công nghiệp hoá -hiện
đại hoá đất nước, xu hướng này sẽ phát triển mạnh khi khu vực doanh nghiệp
nhà nước được sắp xếp, đổi mới, thể hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân; khi thể chế và chính sách kinh tế trong nước được xây dựng hoàn
thiện, đồng bộ; sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò của
các đoàn thể nhân dân được tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả các loại
hình doanh nghiệp đan xen, đan kết các hình thức sở hữu có thể ra đời theo
những hướng như các chủ thể sản xuất - kinh doanh cũng tồn tại và phát triển
trong sự liên kết, hợp tác với nhau để cùng sản xuất ra một loại sản phẩm - mô
hình kinh tế này đã xuất hiện ở nước ta trong những năm gần đây, đồng thời các
loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có thể làm vệ tinh cho
nhau- mô hình này sẽ nhanh chóng ra đời khi tiến trình công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đạt trình độ cao, sự phân công lao động xã hội phát triển theo chiều sâu,
đòi hỏi các doanh nghiệp vừa phát huy lợi thế so sánh của mình, vừa phải liên
kết hợp tác với các loại hình doanh nghiệp khác để cùng tạo ra một sản phẩm;
các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có thể liên doanh liên
kết với nhau hoặc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong kinh tế nhà
nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để hình thành các doanh
nghiệp hỗn hợp có nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau, đó là các Công ty liên
doanh, Công ty hợp danh, Công ty cổ phần. Sự liên kết liên doanh giữa kinh tế
tư nhân với kinh tế nhà nước sẽ hình thành các hình thức kinh tế tư bản nhà n-
ước với nhiều cấp độ khác nhau, mà chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lênin đó là
sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội là phòng chờ đi vào chủ
74
nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nghĩa xã hội thì không có một nấc thang nào ở giữa cả.
Các loại hình doanh nghiệp tư nhân dần dần sẽ vươn ra đầu tư vốn hoạt
động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp của liên
doanh hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài. Đây cũng là xu hướng có nhiều
khả năng phát triển khi Việt Nam tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới và khu
vực. Xu hướng này trên thực tế cũng đã bắt đầu xuất hiện trong một vài năm
gần đây như Công ty Bitis (ở TP Hồ Chí Minh) đầu tư sang Trung Quốc, Hoa
Kỳ, Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phát đầu tư 560.000 USD sang úc,
Công ty trách nhiệm hữu hạn Thu Vân (Đà Nẵng) liên doanh với Bộ Quốc
phòng Lào xây dựng cơ sở hạ tầng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Quốc Hưng
(Đà Nẵng) sản xuất hàng mây tre đan xuất khẩu có cơ sở liên doanh ở Lào…
Theo lôgíc phân tích ở trên cho thấy xu hướng phát triển trong các loại
hình doanh nghiệp tư nhân ở nước ta là sẽ phát triển loại hình Công ty cổ phần
trong tương lai. Mỗi loại hình doanh nghiệp có vai trò ưu thế và hạn chế riêng,
theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, các chuyên gia kinh tế cho
rằng trong các loại doanh nghiệp, Công ty ổ phần có nhiều ưu điểm hơn và
cùng với mô hình công ty mẹ- con; đó là 2 loại hình công ty ngày càng phổ
biến trong nền kinh tế hiện đại. Ưu điểm nổi bật của loại hình trên là khả năng
phân tán rủi ro cho nhiều cổ đông cùng chịu cũng nh khả năng huy động vốn từ
nhiều nguồn khác nhau, từ đó để tập trung nguồn lực tài chính cho đầu tư.
Theo xu hướng chung trong nền kinh tế hiện đại, loại hình công ty cổ
phần có những ưu điểm về khả năng huy động vốn và phân tán rủi ro. Tuy nhiên
trong điều kiện của Việt Nam, một nước mới chuyển từ kế hoạch hoá tập trung
sang nền kinh tế thị trường, công chúng vẫn còn e ngại với các loại hình doanh
nghiệp mang tính tập thể.Tâm lí xã hội đó chi phối không chỉ với công chúng
mà còn đối với chính giới chủ doanh nghiệp. Do vậy hiện tại loại hìmh doanh
75
nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn chiếm vị trí phổ biến, về lâu
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
dài theo đà phát triển của nền kinh tế xã hội loại hình công ty cổ phần sẽ được
phát triển.
CHƢƠNG 3
ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC
LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG
ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP
3.1. Bối cảnh phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam
hiện nay
3.1.1. Thuận lợi
Cho đến nay, có thể nói rằng các doanh nghiệp tư nhân nói riêng và khu
vực kinh tế tư nhân nói chung đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
và mở rộng sản xuất kinh doanh. Những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các
loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là yếu tố trong
nước mà nó còn bao gồm cả yếu tố quốc tế.
Trong nước:
Nhà nước ta có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, thừa nhận vai trò
của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là vai trò của các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân và khuyến khích khu vực này phát triển. Kể từ
khi chuyển sang cơ chế thị trường nền kinh tế nớc ta tăng trưởng liên tục với tốc
độ tương đối cao, để cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh hiện đang rất
yếu kém của nền kinh tế Việt Nam, Chính phủ chủ trương cải cách mạnh mẽ
các doanh nghiệp nhà nước bằng cách thực hiện cổ phần hoá, giảm biên chế
theo hướng nhà nước chỉ nắm những doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Đây là
76
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
các doanh nghiệp tư nhân nói riêng.
Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện: đây là yếu tố vô cùng
quan trọng đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Ngoài
việc ban hành các đạo luật, nghị định, nghị quyết, Nhà nước còn ban hành các
văn bản hớng dẫn thì hành, sửa đổi, bổ sung một số điều luật chưa hoàn chỉnh.
Để môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm tạo sự bình đẳng
cho các doanh nghiệp phát triển cả về môi trường pháp lý lẫn các thể chế kinh
tế.
Vị thế của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày nay được cải thiện.Vị
thế của kinh tế tư nhân không chỉ được cải thiện trong luật pháp, trong những
quy định, quyết định của nhà nước mà còn được cải thiện trong tâm lý người
dân. Chính sự lớn mạnh này của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các loại hình doanh
nghiệp tư nhân cho thấy nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta.
Trước kia tâm lý của người lao động không muốn làm việc ở các doanh
nghiệp tư nhân nhưng ngày nay suy nghĩ đó dần được nâng lên, bởi vì một số
doanh nghiệp tư nhân đã có các chính sách quan tâm đến lợi ích của người lao
động như chính sách tiền thưởng, chính sách bảo hiểm ..và các đối tác làm ăn ở
các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác cũng có xu hướng tìm đến các
đối tác là các doanh nghiệp tư nhân
Ngoài ra các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân rất
năng động một mặt là do vấn đề nhân sự và tổ chức của họ, do họ có toàn quyền
quyết định so với các doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác người chủ của các
doanh nghiệp tư nhân có thể ra các quyết định rất nhanh chóng vì xét cho cùng
họ tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Vì có được sự thuận lợi này, các
doanh nghiệp tư nhân tỏ ra rất năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
77
Sự năng động này còn thể hiện ở chỗ là chỉ sau một vài năm thực hiện chính
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
sách đổi mới của đất nước các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã có mặt ở hầu
hết các ngành khác nhau của nền kinh tế Việt Nam.
Lực lượng tham gia thành lập và quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực
tư nhân rất đa dạng, có nhiều mối quan hệ và vì thế rất năng động trong tìm
kiếm đối tác, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Có thể nói động lực cá nhân thôi
thúc mọi ngời mong muốn kinh doanh làm giàu là sức mạnh to lớn thúc đẩy khu
vực này phát triển.
Do đa số các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ nên dễ dàng thay đổi
công nghệ phù hợp với quy mô doanh nghiệp và trình độ quản lý.
Quốc tế
Ngoài những thuận lợi trong nước tạo điều kiện cho sự phát triền của các
loại hình doanh nghiệp tư nhân thì phải kể đến những thuận lợi từ phía quốc tế
nữa, đó là:
Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế tư nhân
Thực tế đã chứng minh, không một quốc gia nào có thể lớn mạnh được mà
không thông qua quan hệ kinh tế đối ngoại, chính nhờ sự phát triển của mối
quan hệ này các quốc gia mới có điều kiện mở rộng thị trường, tiếp cận được
khoa học công nghệ hiện đại, phát huy được lợi thế so sánh của mình, Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nhờ sự phát triển của kinh tế thị trường
theo hướng mở nhiều sản phẩm của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường thế
giới rất lớn và rất đa dạng, đây có thể coi là sự thuận lợi nếu có các doanh
nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của thị trường toàn cầu này.
Sự dịch chuyển của các dòng đầu tư, dòng vốn, công nghệ. Một thuận lợi
nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam là phải kể đến sự dịch chuyển của các
dòng vốn, dòng công nghệ vào Việt Nam hiện nay đang có xu hướng tăng lên.
Các dòng vốn, dòng công nghệ chảy vào Việt Nam thông qua các hình thức đầu
78
tư như : đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA...những hình thức đầu tư này
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
đem lại cho Việt Nam một lượng vốn lớn, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng
được nhiều khoa học công nghệ tiên tiến mà Việt Nam chưa có, các nguồn đầu
tư này giúp các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam phát triển nhanh
chóng hơn.
3.1.2. Khó khăn
Trong nước
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi tạo điều kiện cho các loại hình doanh
nghiệp tư nhân phát triển, còn một số những khó khăn gây cản trở tới sự phát
triển của các doanh nghiệp. Đó chính là những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế
đất nước.
Nền kinh tế nhỏ bé lạc hậu phát triển kinh tế hàng hoá chưa lâu: so với
các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới thì nền kinh tế hàng hoá của ta
còn kém phát triển.Vì vậy khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhỏ bé và non trẻ thể
hiện ở quy mô trình độ kinh nghiệm quản lý của các loại hình doanh nghiệp tư
nhân.
Sự hỗ trợ của Nhà nước không đáng kể:
So với doanh nghiệp nhà nước thì các loại hình doanh nghiệp tư nhân
hầu như không nhận được sự hỗ trợ nào từ phía Nhà nước, nếu có thì là con số
rất nhỏ bé. Nhà nước chỉ tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân
phát triển bằng cách ban hành các đạo luật, nghị định, nghị quyết và sửa đổi,
hoàn thiện các bộ luật giúp các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển dễ
dàng hơn còn về mặt tài chính tín dụng thì Nhà nước không hỗ trợ nhiều.
Môi trường kinh doanh chưa hoàn thiện: một số yếu tố nữa gây khó khăn
cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đó là môi trường kinh
doanh chưa hoàn thiện: luật cạnh tranh, luật phá sản.
Chính sách chưa đồng bộ và thủ tục hành chính còn rờm rà còn không ít
79
các quy định chưa đầy đủ và cụ thể, các thủ tục hành chính còn rườm rà, không
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
cần thiết….
Quốc tế:
Các yếu tố quốc tế gây khó khăn cho sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp tư nhân phải kể đến:
Cạnh tranh quỗc tế ngày càng gay gắt:
Toàn cầu hoá kinh tế đưa lại cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân những
cơ hội thuận lợi cho sự phát triển nhưng cũng có những thách thức, khó khăn
nghiêm trọng. Toàn cầu gây sức ép cạnh tranh gay gắt đối với mỗi doanh
nghiệp, quy mô của các doanh nghịêp Vịêt nam còn nhỏ, nguồn vốn huy động
ít… các chủ thể doanh nghiệp trình độ thấp khi tham gia hội nhập dễ dàng bị
các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng để chiếm lĩnh thị trường.
Khu vực kinh tế tư nhân của các nước trong khu vực và thế giới rất mạnh
về vốn, công nghệ, kỹ thuật, kỹ năng quản lý, thương hiệu…do khu vực này ở
các quốc gia khác phát triển trước nước ta rất nhiều và ở những nước tiên tiến,
khoa học kỹ thuật hiện đại. Vì thế khi tham gia vào thị trường thế giới các
doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn về mẫu mã và chất lượng sản
phẩm.
Sự giống nhau về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của một số nước trong khu
vực: có sự giống nhau về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu
vực sẽ là một khó khăn nữa cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân Việt Nam,
nước ta vẫn là nước kém phát triển, mặt hàng xuất khẩu chưa nhiều, chất lượng
chưa cao vì thế sẽ khó khăn trong cạnh tranh xuất khẩu với các nước trong khu
vực.
3.2. Định hƣớng phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực
kinh tế tƣ nhân .
80
3.2.1. Đa dạng hóa các loại hính doanh nghiệp khác nhau.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Trong khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm có 4 loại hình doanh nghiệp mà
luận văn đề cập đến đó là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công
ty hợp danh, và Doanh nghiệp tư nhân. Mỗi loại hình đều có đặc tính, vai trò,
những đóng góp và ưu, nhược điểm riêng, nhưng sự dung hoà, phát triển của
các loại hình đó tạo điều kiện thúc đẩy, đưa doanh nghiệp tư nhân trở thành khu
vực kinh tế vững mạnh trong nền kinh tế Vịêt nam. Và cho đến nay vị thế của
khu vực kinh tế tư nhân không ai có thể phủ nhận được, để cho khu vực kinh tế
tư nhân ngày càng khẳng định vị thế cao hơn của mình thì yêu cầu đối với mỗi
loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đều phải cùng vận động,
phát triển, sự phát triển của các loại hình này phải đa dạng. Không nên quá chú
trọng loại hình doanh nghiệp nào.
Hiện nay ở Việt Nam trong khu vực kinh tế tư nhân cần ưu tiên phát triển
tất cả các loại hình, nhưng thực tế phát triển cho thấy thì loại hình Công ty trách
nhiệm hữu hạn có xu hướng phát triển cao nhất, còn Công ty hợp danh gần như
không có hoặc nếu có con số là quá ít không đáng kể. Vì thế định hướng hiện
nay cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau để cho khu vực kinh
tế tư nhân phát triển mạnh hơn, phong phú hơn với nhiều loại hình doanh
nghiệp.
3.2.2. Phát triển loại hính Công ty cổ phần
Như đã phân tích ở chương một, trong số các loại hình doanh nghiệp
thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình có
xu hướng phát triển tăng cao, Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có
nhiểu ưu điểm hơn cả thì lại chưa phát triển nhiều lắm do nhiều yếu tố như: tâm
lý, quy mô vốn…
Vì vậy để khu vực kinh tế tư nhân hoạt động hữu hiệu nhất thì Đảng và
Nhà nước cần định hướng tạo điều kiện cho các loại hình Công ty cổ phần phát
81
triển và đứng đầu trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân vì khi đó hình thức
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
hoạt động, quy mô vốn… của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế
tư nhân sẽ tăng lên đóng góp trong GDP xã hội tăng….
Đặc biệt cần chú trọng phát triển loại hình Công ty cổ phần ở các thành
phố lớn, để tạo tiền đề cơ bản và lâu dài cho khu vực kinh tế tư nhân có thể từng
bước mở rộng quy mô kinh doanh một cách hợp lý, ở các thành phố lớn cần
phát triển loại hình Công ty cổ phần, đồng thời qua loại hình Công ty cổ phần
có thể huy động tốt lượng vốn phân tán trong dân cư, cũng như có thể phân tán
rủi ro trong kinh doanh. Loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn được coi là
loại hình doanh nghiệp chủ lực của kinh tế tư nhân, tuy về mặt chất lượng các
Công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ có sự biến đổi theo xu thế tích cực, các Công ty
trách nhiệm hữu hạn theo kiểu gia đình sẽ giảm dần.
3.2.3. Tăng số lượng doanh nghiệp phải gắn với nâng cao năng lực canh
tranh của từng doanh nghiệp.
Đây là yêu cầu không thể thiếu vì nếu như trong khu vực kinh tế tư nhân
các loại hình doanh nghiệp tư nhân chỉ phát triển về số lượng không phát triển
về chất lượng sẽ là điều rất đáng buồn. Số lượng doanh nghiệp nhiều, quy mô
vốn nhỏ, công nghệ thấp chất lượng sản phẩm, mẫu mã hàng hoá không cao
không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh
và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là vấn đề bất cập hiện nay của các loại
hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đang vấp phải.
Những mặt hàng chủ lực và nhiều ngành nghề kinh doanh tạo thu nhập
lớn thì doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng đảm nhiệm, yêu cầu định hướng
làm sao để trong quá trình phát triển, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư
nhân đã tăng cao nhưng cũng cần gắn với sự tăng về mặt chất, điều đó thể hiện
năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp.
82
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các loại hính doanh nghiệp.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Thực trạng hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam ta, giữa các doanh
nghiệp chưa có sự liên kết hợp tác với nhau kể cả trong khu vực kinh tế tư nhân
lẫn kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các loại hình doanh
nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động riêng lẻ, mạnh ai nấy thắng trong khi nếu nh-
ư có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau ở những ngành nghề, lĩnh vực
nhất định cũng chính là tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy các doanh nghiệp phát
triển, không phải bỏ ra một số loại chi phí không cần thiết khi không có sự liên
kết.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển các loại hình doanh
nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam.
Trên cơ sở phân tích định hớng cho phát triển các loại hình doanh nghiệp
tư nhân tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể cho phát triển các loại
hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.3.1. Phát triển loại hính Công ty cổ phần
Tuy hiện nay ở Việt Nam trong khu vực kinh tế tư nhân loại hình Công ty
cổ phần không phải là loại hình phát triển nhiều nhất nhưng qua phân tích ưu
thế của nó thì xu hướng trong tương lai loại hình Công ty cổ phần sẽ có xu
hướng phát triển cả về số lượng, chất lượng, quy mô sử dụng vốn và lao động vì
nó có thế hơn hẳn so với các loại hình khác trong khu vực và nó phù hợp với
quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới. Đồng thời yếu tố tâm lý và tư tưởng
về tính tập thể đã thay đổi trong quan niệm của dân chúng.
Hiện nay, trên thế giới và khu vực loại hình Công ty cổ phần đang có xu
hướng tăng lên và ngày càng thể hiện ưu thế của nó, với Việt Nam ta là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì loại hình Công ty cổ phần
cần được ưu tiên phát triển. Trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần chú
trọng hơn nữa để cho Công ty cổ phần phát triển tương xứng với đúng nghĩa
83
của nó, điều này thể hiện ở những điểm sau:
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
- Đảng và Nhà nước cần định hướng tạo điều kịên cho loại hình Công ty
cổ phần đứng đầu trong các doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân.
- Cần chú trọng phát triển loại hình Công ty cổ phần ở các thành phố lớn,
để tạo tiền đề cơ bản và lâu dài cho khu vực kinh tế tư nhân.
- Thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp một cách hợp lý.
3.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp trong khu vực.
Hiện nay, các loại hình doanh nghiệp tư nhân có số lượng tăng lên hàng
năm, nhưng năng lực cạnh tranh không lớn, so với các doanh nghiệp trong khu
vực khác thì doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là kém nhất từ mặt
bằng sản xuất cho đến chất lượng sản phẩm.
Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân do quy mô về
vốn, lao động thấp, đồng thời cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh đơn giản,
thời gian luân chuyển vốn ngắn khiến cho các loại hình doanh nghiệp này khả
năng cạnh tranh không cao. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong từng doanh
nghiệp trong khu vực trong thời gian tới Đảng và Nhà nước cần có những giải
pháp phù hợp:
- Tạo điều kiện và khuyến khích cho doanh nghiệp trong khu vực kinh tế
tư nhân có thể kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau trong nhiều ngành
nghề.
- Để nâng cao chất lượng sản phẩm thì Nhà nước cần hỗ trợ cho khu vực
doanh nghiệp này về đào tạo nguồn nhân lực, kinh nghiệm quản lý.
- Đa dạng hoá các loại hinh đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác
nhau để phù hợp với nhu cầu học tập của chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý của doanh nghiệp, từ đó xây dựng mới hệ thống đào tạo với nhiều trình độ và
thời gian khác nhau.
- Mở khoá đào tạo miễn phí hoặc giảm chi phí cho các loại hình doanh
84
nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ cho các chủ doanh nghiệp và người lao
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
động.
- Hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.
- Hỗ trợ về thông tin và khoa học - công nghệ.
- Phát triển công ty cho thuê tài chính để cho doanh nghiệp tư nhân dễ
dàng tiến hành sản xuất kinh doanh mà không cần vốn lớn và không cần thế
chấp tài sản để có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.
3.3.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp mọc lên, tồn tại và phát
triển mục đích cuối cùng là vì lợi nhuận cho chính doanh nghiệp của mình. Mỗi
doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh, phương pháp tổ chức quản lý… khác
nhau và lợi ích cũng riêng nhau nhưng để có được những thứ đó các doanh
nghiệp không thể tự một minh mà có, các doanh nghiệp phải có sự liên kết với
nhau ở những khâu nhất định. Đây là yêu cầu không thể thiếu được cho sự phát
triển của các loại hình doanh nghiệp
Muốn tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp thì phải
nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp và Nhà nước nên tạo
điều kiện cho các tổ chức đó hoạt động hiệu quả. Hiện nay, các tố chức xã hội
nghề nghiệp như Hiệp hội các doanh nghiệp có vai trò và vị trí đặc biệt quan
trọng, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, theo đúng nghĩa là nơi nhân dân tự tổ chức, tự hoàn
thiện, cùng hỗ trợ giúp nhau trong hoạt động sản xuất cũng như trong đời sống,
là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước là thực sự của
dân, do dân và vì dân.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân còn non kém về nhiều mặt thì việc phát
triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp lại càng có vai trò trợ giúp hết sức quan
trọng. Kể cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước cũng như trong
85
hoạt động đối ngoại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Vụ
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
kiện cá Basa Việt Nam là một ví dụ về vai trò quan trọng của tổ chức Hiệp hội
doanh nghiệp, sự ra đời của Hiệp hội đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ
và vừa nông thôn, doanh nhân, nghệ nhân và 2197 làng nghề truyền thống trong
cả nước cùng với những hoạt động hỗ trợ của hiệp hội đối với từng doanh
nghiệp cụ thể trên nhiều lĩnh vực như: hỗ trợ về thị trường, hỗ trợ về công nghệ
tư vấn xây dựng dự án, dịch vụ tìm các nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước
cho các dự án phát triển, đã thực sự trở thành chỗ dựa, người bạn đồng hành
cùng doanh nghiệp, là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với
các cơ quan Đảng và Nhà nước. Sự phát triển nhanh và bền vững của Hiệp hội
doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam đã chứng minh vai trò
quan trọng của các tổ chức Hiệp hội. Vì vậy Nhà Nước càng khuyến khích và tạo
điều kiện để các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh hình thành
và ra đời các tổ chức Hiệp hội và Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động
của những Hiệp hội đó.
- Để các loại hình Hiệp hội Việt Nam hoạt động có hiệu quả, vấn đề cần
quan tâm trước hết là Nhà nước tôn trọng tiếng nói của người đại diện cho cộng
đồng doanh nghiệp cùng hiệp hội tổ chức những cuộc đối thoại thẳng thắn về
những vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xuất
phát từ thực tế cuộc sống, tạo thuận lợi tới mức cao nhất cho doanh nghiệp phát
triển sản xuất kinh doanh, đồng thời vẫn phải đảm bảo sự quản lý cần thiết của
Nhà nước. Thậm chí Nhà nước cho phép các hiệp hội cùng với các cơ quan
quản lý của Nhà nước trong việc soạn thảo các văn bản pháp quy và lấy ý kiến
của cộng đồng doanh nghiệp trước khi ban hành. Làm được việc đó thì chủ
chương chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ đi vào đời sống và nhanh chóng
trở thành hiện thực.
- Nhà nước cũng nên từng bước chuyển giao một số chức năng và một số
86
dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước đang thừa hành cho các tổ chức Hiệp
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
hội, những việc mà các tổ chức Hiệp hội có thể làm được và làm tốt để các cơ
quan Nhà nước tập trung vào hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Việc Nhà nư-
ớc tập trung quá nhiều dịch vụ vào các cơ quan Nhà nước đã phát sinh những
tiêu cực, tham nhũng như vụ tham nhũng ở Bộ Thương Mại trong cấp hạn
ngạch hàng dệt may năm 2004 vừa qua ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh
nghiệp dệt may cũng như thông tin của dân với các cơ quan công quyền.
- Và cuối cùng Nhà nước cần hỗ trợ các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp
trong các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư. Sự hỗ trợ ở đây là tạo
ra khung pháp lý, một số cơ sở vật chất và ngân sách cần thiết để Hiệp hội có
thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình.
3.3.4. Giải pháp nâng cao trính độ của người lao động
Số lượng lao động của nước ta rất dồi dào nhưng chất lượng lao động còn
hạn chế không chỉ riêng ở các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân
mà nó là đặc điểm chung của lao động nước ta. Hơn nữa trong khu vực kinh tế
tư nhân, ở các doanh nghiệp thì trình độ lao động lại còn thấp hơn so với mặt
bằng chung của nền kinh tế không chỉ đối với riêng người lao động và cả chủ
doanh nghiệp, đặc biệt ở những loại hình doanh nghiệp quy mô nhỏ. Để nâng
cao trình độ của người lao động cho các loại hình doanh nghiệp trong khu vực
này, Nhà nước cần phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực và đưa ra
những giải pháp phù hợp trong giai đoạn tới:
- Trong quá trình hội nhập ta rất cần những nhà quản lý giỏi, do vậy Nhà
nước cần phải tổ chức đào tạo, đào tạo lại những nhà quản lý cho các loại hình
doanh nghiệp khu vực này có thể phát huy hết tiềm năng của mình
- Phát triển hệ thống các trường trung học, dạy nghề, cao đẳng, đại học,
sau đại học để nâng cao trình độ người lao động. Đặc biệt cần chú ý đến chương
trình đào tạo của các trường sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn
87
- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
nhau để phù hợp với nhu cầu học tập của chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản
lý của doanh nghiệp, từ đó xây dựng mới hệ thống đào tạo với nhiều trình độ,
thời gian khác nhau
- Cần mở những khoá đào tạo miễn phí hoặc giảm chi phí cho các loại
hình doanh nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ cho chủ doanh nghiệp và
người lao động
- Trong quá trình đào tạo tại các trường cần chú ý giáo dục ý thức xã hội,
tạo điều kiện cho những người học hiểu được sự bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế để họ có sự lựa chọn cho phù hợp tránh tình trạng chỉ coi trọng làm việc
trong khu vực doanh nghiệp nhà nước
3.3.5. Tạo điều kiện, đưa ra giải pháp phù hợp để các loại hính doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phân bổ đồng đều hơn
Hiện nay các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển ngày càng tăng
trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ và ngày càng giảm trong lĩnh vực sản xuất
công nghiệp. Đồng thời xét về phương diện địa lý lãnh thổ, các loại hình doanh
nghiệp tư nhân thường tập trung ở những thành phố lớn - những nơi có điều
kiện thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và đồng thời đó là nơi có thị
trường tiêu thụ rất lớn. Hệ quả là dẫn đến việc mất cân đối nền kinh tế và gây ra
sự phân hoá xã hội.
Để khắc phục tình trạng phân bổ không đồng đều của các loại hình doanh
nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Đảng
và Nhà nước cần có những giải pháp phù hợp để các loại hình doanh nghiệp
trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển đồng đều hơn trong thời gian tới:
- Khuyến khích các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân
phát triển sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp
- Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nếu đầu tư vào
88
những ngành sản xuất, chế biến, nuôi trồng..mà phải sử dụng vốn lớn và thu hồi
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
vốn chậm, lợi nhuận ít.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và tạo lập môi trường kinh doanh
thuận lợi trên tất cả các vùng miền, tỉnh thành trong cả nước
- Phát triển giao thông vận tảI thuận lợi giữa các tỉnh thành, giữa các
vùng miền, đặc biệt là những nơi có điều kiện địa lý thuận lợi, tài nguyên phong
phú mà giao thông chưa phát triển
- Các cơ quan chính quyền địa phương cần có những chích sách thu hút
đầu tư hợp lý, tạo môi trường đầu tư thông thoáng.
KẾT LUẬN
Xuất phát từ lý luận về kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ,
Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát
triển của kinh tế tư nhân, các loại hình doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận cấu
thành của khu vực kinh tế tư nhân. Những quan điểm đổi mới kinh tế đã thúc
đẩy và khơi dậy mọi tiềm năng sẵn có trong dân, các chích sách, cơ chế quản lý
đã từng bước được hoàn thiện và đồng bộ.
Chính những cố gắng của Đảng và Nhà nước là động lực chính để
khuyến khích sự lớn mạnh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân như ngày
nay. Song để hoàn thành chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam hội nhập thành công kinh tế quốc tế
thì đóng góp của các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn đáp ứng được sự mong
89
đợi đó.
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam
Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ
Như vậy, muốn nâng cao vai trò, vị thế của các loại hình doanh nghiệp
tư nhân đòi hỏi Đảng, Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp phải cùng nỗ lực
phấn đấu. Trước mắt chúng ta nên phát huy những mặt tích cực đã đạt được
trong lịch sử và vận dụng “các giải pháp cấp bách để giải quyết những khó
khăn”, từng bước mở đờng cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân đóng góp
sức mình vào công cuộc ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đưa Việt
Nam thành quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Ngọc Bút (2002) “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
2. GS.TS KH. Lương Xuân Quỳ (2002) “Xây dựng quan hệ sản xuất định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
3. PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005) “Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến
trình hội nhập”. Nhà xuất bản Thế giới
4. PGS Mai Tết - Nguyễn Văn Tuất và Th.s Đặng Danh Lợi (2006) “Sự vận
động, phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
5. GS.TS Hồ Văn Vĩnh (2003) “Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối
90
với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t nh©n ë ViÖt Nam