Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ HỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

Lê thị vân liêm

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM

(CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ)

MÃ SỐ: 60.31.01

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS: TRỊNH THỊ HOA MAI

Hà nội - 2007

0

Phát triển các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Việt nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

6. Phương Hữu Việt (2002). “Phát triển các thành phần kinh tế ngoài kinh

tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt

Nam hiện nay”. Luận án tiến sỹ Kinh tế

7. Viện thông tin khoa học- xã hội (2003) “Kinh tế tư nhân trong giai đoạn

toàn cầu hoá hiện nay”. Nhà xuất bản khoa học- xã hội.

8. “Việt Nam hướng tới 2010” (2001). (tập 1- 2). Tuyển tập báo cáo phối

hợp nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của các chuyên gia quốc tế

và Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

9. Kinh tế xã hội Việt Nam 3 năm 2001- 2003 (2003). Nhà xuất bản thống kê

10. Niên giám thống kê năm 2004, 2005, 2006. Nhà xuất bản thống kê

11.Văn kiện Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng X. Nhà xuất bản Chính trị

quốc gia

11. Tạp chí Kinh tế và phát triển các số năm 2004 đến năm 2007

12. Tạp chí Cộng sản các số năm 2004 đến năm 2007

13. Con số và sự kiện các số năm 2004 đến năm 2007

14. Tạp chí Lý luận Chính trị các số năm 2004 đến năm 2007

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: Số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh 9

(từ 1991-1999).

Bảng1.2: Lao động và thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp 10

thuộc khu vực kinh tế tư nhân.

Bảng1.3: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh 12

nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp.

Bảng 1.4: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 14

hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp

Bảng 2.1.Tổng quan về tình hình doanh nghiệp phân theo năm thành lập 28

91

Bảng 2.2. Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký kinh doanh 30

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng 2.3. Số doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại 32

thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.

Bảng 2.4. Số doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phân theo ngành 34

Bảng 2.5. Nguồn vốn bình quân của một doanh nghiệp trong khu vực kinh 37

tế tư nhân.

Bảng 2.6. Quy mô về vốn của doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân. 38

Bảng 2.7: Thực trạng lãi, lỗ của các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế

tư nhân (2003 - 2005) 40

Bảng 2.8. Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 phân theo quy mô lao 42

động và phân theo loại hình doanh nghiệp.

Bảng 2.9. Phát triển của doanh nghiệp tư nhân tại Hà Nội qua các con số. 44

Bảng 2.10: Thuế và các khoản nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong 63

khu vực kinh tế tư nhân.

Bảng 2.11: Trình độ của đội ngũ chủ doanh nghiệp tư nhân 66

MỤC LỤC

1

LỜI MỞ ĐẦU

6

Chương 1: Một số vấn đề chung về các loại hình doanh nghiệp tƣ

nhân ở Việt Nam.

1.1Vị trí của các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường. 6

1.1.1. Khái niệm các loại hình doanh nghiệp tư nhân 6

1.1.2 Vai trò của các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị 7

trường.

1.2. Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc 17

gia và bài học cho Việt Nam

92

1.2.1 Phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc gia 17

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

1.2.2 Một số bài học cho Việt Nam 25

28

Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ

nhân ở Việt Nam

2.1. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam 28

2.1.1.Sự gia tăng về số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân 28

2.1.2. Cơ cấu, quy mô các loại hình doanh nghiệp tư nhân 34

2.1.3. Sự phân bố các loại hình doanh nghiệp tư nhân theo lãnh thổ 43

2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình doanh 48

nghiệp tư nhân ở Việt Nam

2.2.1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội 48

2.2.2. Môi trường pháp lý 53

2.2.3. Môi trường kinh tế 56

2.3. Đánh giá chung 59

2.3.1. Những mặt mạnh trong phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu 59

vực kinh tế tư nhân.

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 61

2.3.3. Xu hướng phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh 68

tế tư nhân.

73 Chương 3: Định hƣớng và một số giải pháp phát triển các loại hình doanh

nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.

3.1. Bối cảnh phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam hiện nay. 73

3.1.1. Thuận lợi. 73

3.1.2. Khó khăn. 76

3.2. Định hướng phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư 77

nhân.

3.2.1. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau. 77

93

3.2.2. Phát triển loại hình Công ty cổ phần 78

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

3.2.3. Gia tăng số lượng gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 79

3.2.4. Tăng cường mối liên kết hợp tác giữa các loại hình doanh nghiệp. 79

3.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân 79

ở Việt Nam.

3.3.1. Phát triển loại hình Công ty cổ phần. 80

3.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp trong khu vực. 80

3.3.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp. 81

3.3.4. Giải pháp để nâng cao trình độ của người lao động. 83

3.3.5. Tạo điều kiện, đưa ra giải pháp phù hợp để các loại hình doanh nghiệp 84

trong khu vực kinh tế tư nhân phân bổ đồng đều.

KẾT LUẬN

86

TÀI LIỆU THAM KHẢO

94

87

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

LỜI MỞ ĐẦU

1. Sự cần thiết nghiên cứu của đề tài

Công cuộc đổi mới ở Việt Nam được tiến hành từ Đại hội Đảng VI

(Tháng 12/1986) bằng việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung

sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của

Nhà nước. Đây là sự chuyển biến có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát

triển của đất nước, phù hợp với quy luật phát triển khách quan, đáp ứng yêu cầu

của xã hội và thời đại. Từ đó vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần

được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với Việt Nam. Kinh tế tư nhân với các

loại hình doanh nghiệp khác nhau ngày càng trở thành bộ phận quan trọng

quyết định sự lớn mạnh của nền kinh tế

Hiện nay, hội nhập kinh tế thế giới là xu thế tất yếu của thời đại. Việt

Nam đã và đang tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu sắc và toàn

diện, cho đến nay Việt Nam đã gia nhập Tổ chức hiệp hội các quốc gia Đông

Nam á (ASEAN); Khu vực mậu dịch tự do AFTA của ASEAN; Diễn đàn hợp

tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương (APEC); Đã ký hiệp định với EU; Hiệp

định thương mại với Hoa Kỳ, Tổ chức thương mại thế giới WTO.

Hội nhập mang lại cả những cơ hội và thách thức cho mọi nền kinh tế. Để

vận dụng các cơ hội do hội nhập mang lại thì bản thân quốc gia tham gia phải có

được một nền kinh tế phát triển năng động và bền vững. Các doanh nghiệp

chính là lực lượng chủ đạo làm ra của cải vật chất, quyết định sự tăng trưởng

nhanh và bền vững của nền kinh tế.

Ở Việt Nam, ngoài các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài thì các loại hình doanh nghiệp tư nhân góp phần không nhỏ

vào sự tăng trưởng của đất nước.

1

Đại hội Đảng lần thứ VI là một bước ngoặt lịch sử trong quá trình phát

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

triển kinh tế ở nước ta. Đại hội Đảng VI đã xác định nền kinh tế nhiều thành

phần, giải phóng mọi lực lượng sản xuất, cải thiện cơ chế quản lý kinh tế và

những chiến lược phát triển kinh tế lâu dài. Việc phát triển khu vực kinh tế tư

nhân là tất yếu để thực hiện nhiệm vụ chiến lược là giải phóng mọi lực lượng

sản xuất nhằm phát triển sản xuất kinh doanh, đảm bảo dân giàu, nước mạnh.

Thực tế đã chứng minh, sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư

nhân ở Việt Nam thời gian qua đã góp phần không nhỏ tới sự tăng trưởng kinh

tế của đất nước, giải quyết việc làm, tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.

Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã xác định "trên cơ sở ba chế độ sở hữu

(toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và thành phần

kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư

bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các

thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan

trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước

pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà

nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định

hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành

phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày

càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có

vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế".

Tuy nhiên, các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam còn gặp nhiều

khó khăn và hạn chế, chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Các loại

hình doanh nghiệp tư nhân thường là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về

vốn, trình độ công nghệ quản lý còn hạn chế, khả năng cạnh tranh của các loại

hình doanh nghiệp tư nhân còn ở mức thấp, nhiều doanh nghiệp tư nhân còn

kém hiểu biết về pháp luật, chính sách.

2

Nhận thấy tầm quan trọng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đối với

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả đã nghiên cứu đề tài:

"Phát triển các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tƣ nhân ở Việt

Nam”. Mục tiêu của luận văn là khẳng định tầm quan trọng của các loại hình

doanh nghiệp tư nhân đối với nền kinh tế quốc dân, phân tích những điểm thành

công và chưa thành công của Việt Nam trong việc phát triển loại hình doanh

nghiệp này qua đó nêu ra một vài giải pháp cho thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu khu vực kinh tế tư nhân là một vấn đề hấp dẫn, đã có nhiều

tác giả trong và ngoài nước quan tâm. Trong đó có một số tác giả như:

- GS.TS Hồ Văn Vĩnh - Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối với

kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội

năm 2003. Nội dung đề cập đến vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh

tế nhiều thành phần; vấn đề quản lý Nhà nước đối với kinh tế tư nhân; thực

trạng kinh tế tư nhân ở nước ta; phương hướng, giải pháp và chiến lược phát

triển kinh tế tư nhân trong tình hình hiện nay.

- PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai - Kinh tế tư nhân trong tiến trình hội nhập,

Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội năm 2005. Tác giả đưa ra một cách nhìn khách

quan về kinh tế tư nhân với cả những ưu thế và hạn chế vốn có của nó; phân tích

đánh giá vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

- Lê Khắc Triết - Đổi mới và phát triển kinh tế tư nhân Việt Nam. Thực

trạng và giải pháp. Nhà xuất bản Lao động - Hà Nội 2005. Nội dung đưa ra thực

trạng của kinh tế tư nhân Việt Nam từ năm 1986 đến nay.

Tuy nhiên, việc đi sâu nghiên cứu sự phát triển của các loại hình doanh

nghiệp tư nhân ở Việt Nam, để từ đó có đánh giá so sánh và chỉ ra xu hướng

phát triển của mọi loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập

3

ngày nay thì chưa có nghiên cứu cụ thể nào.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: góp phần làm rõ cơ sở lý luận chung và thực tiễn đối với sự

phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và phát triển các loại hình

doanh nghiệp tư nhân nói riêng.

- Nhiệm vụ:

+ Hệ thống hoá lý luận về sự phát triển các loại hình doanh nghiệp

tư nhân.

+ Phân tích thực trạng phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư

nhân ở Việt Nam.

+ Đưa ra giải pháp, chiến lược phát triển các loại hình doanh

nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng: các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân

Việt Nam: Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và

Doanh nghiệp tư nhân.

- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng phát triển của các loại hình doanh

nghiệp tư nhân ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, việc nghiên cứu áp dụng theo phương pháp duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, thông qua

thống kê, phân tích, đối chiếu và so sánh để tổng hợp và dự báo từ đó rút ra

những giải pháp tối ưu.

6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn

- Làm rõ thực trạng hoạt động của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu

vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

- Đề xuất những khuyến nghị nhằm phát triển các loại hình doanh

4

nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong giai đoạn Việt Nam đã gia nhập WTO.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

7. Bố cục luận văn

Bố cục luận văn ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,

gồm có 3 chương:

Chương1: Một số vấn đề chung về các loại hình doanh nghiệp tư

nhân ở Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân

ở Việt Nam.

Chương 3: Định hướng và một số giải pháp phát triển các loại hình

5

doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC LOẠI HÌNH

DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM

1.1. Vị trí của các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân trong nền kinh tế thị

trƣờng

1.1.1. Khái niệm các loại hính doanh nghiệp tư nhân.

Hiện nay, ở nước ta đối với thuật ngữ “khu vực tư nhân” hay nền kinh tế tư

nhân còn có rất nhiều quan điểm khác nhau. Sự phân loại kinh tế tư nhân theo

các tiêu chí khác nhau, dưới nhiều góc độ khác nhau và theo nhiều cách tiếp

cận, cách nhìn nhận theo thành phần kinh tế, theo hình thức tổ chức doanh

nghiệp, theo khu vực kinh tế và đặc biệt là hình thức sở hữu. Mỗi cách nhìn đều

có mục đích của nó và đều có những ưu điểm, hạn chế nhất định.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, các loại hình doanh nghiệp tư

nhân bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, theo

quy định của Luật Doanh nghiệp có hiệu lực từ ngày 1/1/2000, các loại hình

doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam bao gồm:

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty được thành lập trên cơ

sở góp vốn của các thành viên và thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ

và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã cam kết

góp vào doanh nghiệp. Số lượng thành viên không quá 50 người, không được

quyền phát hành cổ phiếu.

2. Công ty cổ phần là loại hình công ty được thành lập trên cơ sở góp vốn

của các cổ đông và các cổ đông chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản

khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn đã góp vào doanh nghiệp. Vốn đựơc

huy động bằng cách phát hành chứng khoán.

6

3. Công ty hợp danh là loại hình công ty được thành lập trên cơ sở tham gia

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

ít nhất của hai thành viên hợp danh và có thể có các thành viên góp vốn ở đó.

Không được phép phát hành chứng khoán.

4. Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu

trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.

1.1.2. Vai trò của các loại hính doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị

trường.

Hiện nay, các doanh nghiệp của Việt Nam được sắp xếp thành ba khu

vực chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

và doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân. Sau khi sắp xếp loại hình doanh

nghiệp nhà nước chỉ còn khoảng gần 6.000 doanh nghiệp nắm giữ những

ngành, lĩnh vực kinh tế trọng yếu của đất nước, khu vực doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài có khoảng 2.500 doanh nghiệp và đóng góp đáng kể vào tăng

trưởng kinh tế của đất nước nhưng sự phát triển của khu vực này sẽ bị giới hạn

vì nó phụ thuộc vào chiến lược của các nhà đầu tư trong nền kinh tế. Chỉ có các

loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có tiềm năng phát triển

mạnh nhất và trong tương lai sẽ có tỷ trọng đóng góp ngày càng tăng trong tổng

GDP của nền kinh tế, quyết định sự phát triển nhanh, ổn định của nền kinh tế.

Như vậy, sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu

vực kinh tế tư nhân đã khơi dậy một bộ phận tiềm năng của đất nước cho phát

triển kinh tế- xã hội. Nguồn tiềm năng này là trí tuệ, kinh nghiệm, khả năng

kinh doanh, quan hệ xã hội, tiền vốn, sức lao động của con người, tài nguyên,

thông tin và các nguồn lực kinh tế khác.

Không thể phủ nhận vai trò to lớn của khu vực kinh tế tư nhân trong nền

kinh tế thị trường, trong đó các loại hình doanh nghiệp tư nhân có đóng góp

không nhỏ. Từ khi Luật Doanh nghiệp được thi hành (1/1/2000), các loại hình

doanh nghiệp tư nhân ở nước ta đã phát triển mạnh mẽ, chỉ trong mấy năm gần

7

đây khu vực tư nhân nói chung, các loại hình doanh nghiệp tư nhân nói riêng

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

phát triển mạnh lên, đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế- xã hội

của đất nước và dần khẳng định vai trò động lực của mình.

Có thể nhận thấy rõ sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân

qua các giai đoạn sau:

* Giai đoạn 1986 - 1990: đây là giai đoạn khởi đầu công cuộc đổi mới, các quan

điểm đổi mới kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra dần dần được

cụ thể hoá thêm một bước, ví dụ về nông nghiệp, sau khi chỉ thị 100 về khoán

đến nhóm và người lao động (năm 1981), ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị Trung

ương Đảng khoá VI ra nghị quyết 10 về “đổi mới kinh tế nông nghiệp” hộ nông

dân được khẳng định là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ, được giao quyền sử dụng

ruộng đất ổn định và lâu dài.

Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương (khoá

VI) ra Nghị quyết về chủ trương thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế

nhiều thành phần, giải phóng mọi nguồn lực sản xuất. Trên cơ sở những quan

điểm của Đảng, Nhà nước ta cũng bắt đầu soạn thảo và ban hành một số đạo

luật cho sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân và các loại hình doanh nghiệp tư nhân

phát triển. Tuy nhiên, trong giai đoạn này do hậu quả của những sai lầm cũ

chưa được khắc phục, chúng ta đã gặp phải những khó khăn mới do những

khuyết điểm mới nảy sinh trong những năm đầu đổi mới như: giá, tiền lương,

vỡ tín dụng, tranh chấp đất đai trong nông nghiệp… Mặt khác, tình hình quốc tế

lại có những biến động lớn, tác động trực tiếp đến công cuộc phát triển kinh tế,

bảo vệ đất nước xã hội chủ nghĩa của nước ta. Trong bối cảnh như vậy, sở hữu

tư nhân, kinh tế tư nhân nước ta trong giai đoạn này chỉ mới bắt đầu được tái

lập, còn phát triển chưa mạnh, chưa rõ nét, vì thế số lượng các loại hình doanh

nghiệp tư nhân chưa nhiều

* Từ năm 1991-1999: đây là khoảng thời gian 10 năm Luật Công ty và

8

Luật Doanh nghiệp tư nhân phát huy tác dụng, vì thế sở hữu tư nhân, kinh tế tư-

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nhân trong giai đoạn này phát triển khá mạnh, số lượng doanh nghiệp tăng

nhanh. Tính chung thời kỳ 1991-2000, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư

nhân đăng ký kinh doanh tăng bình quân hàng năm là 96,24% từ 132 doanh

nghiệp tư nhân năm 1991 đến hết năm 1996 có 30.897 doanh nghiệp đăng ký

kinh doanh. Trong 9 năm 1991-1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng ký, sự gia

tăng về số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn 1991- 1999

thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 1.1: Số lƣợng các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký kinh

doanh (từ 1991-1999).

Đơn vị: Doanh nghiệp

Tổng số 132 Tăng so với năm trước (%) - Năm 1991

1992 4.241 3112,87

1993 7.813 84,22

1994 7.460 - 5,52

1995 5.729 - 23,21

1996 5.522 - 3,62

1997 3.760 - 31,91

1998 3.121 - 17

1999 4.615 47,86

Nguồn: Báo cáo tổng hợp tính hính và phương hướng, giải pháp phát

triển kinh tế tư nhân, Ban kinh tế Trung ương ngày 26/11/2001.

Qua bảng trên ta thấy, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng

ký tăng lên trong những năm đầu (1991-1994) sau khi Luật Công ty và Luật

Doanh nghiệp tư nhân có hiệu lực, những năm sau lại giảm đi đến hết năm

1999. Điều đặc biệt chú ý là khi Luật Doanh nghiệp ra đời thay cho Luật Công

9

ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân thì số lượng doanh nghiệp tư nhân đăng ký

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

kinh doanh tăng mạnh, đây là dấu hiệu đáng mừng và các loại hình doanh

nghiệp tư nhân ngày càng thể hiện tầm quan trọng của nó trong nền kinh tế.

Các loại hình doanh nghiệp tư nhân giải quyết công ăn việc làm cho một

lượng lớn lao động trong xã hội và tạo ra mức thu nhập cao, như vậy cũng là

nhân tố thúc đẩy các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh hơn. Điều

này được minh họa qua số liệu bảng sau:

Bảng1.2: Lao động và thu nhập của ngƣời lao động trong doanh

nghiệp thuộc khu vực kinh tế tƣ nhân.

Năm Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005

Lao động bình quân Lao động bình quân Lao động bình quân Loại hình DN Lương bình quân (người/ tháng) Lương bình quân (người/ tháng) Lương bình quân (ngườ/ tháng)

346882 874 399739 934 454534 1033

Doanh nghiệp tư nhân

1031738 1077 1266724 1162 1471682 1307 Công ty TNHH

183317 1122 279115 1244 148635 1435 Công ty cổ phần

633 1189 395 1685 368 2107 Công ty hợp danh

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở Việt

Nam thì loại hình Công ty hợp danh ở Việt Nam hoạt động rất ít, đến năm 2000

mới có 03 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh vì vậy sự đóng góp của nó không

đáng kể cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nền kinh tế nước ta. Còn lại 3 loại

10

hình doanh nghiệp là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Doanh

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nghiệp tư nhân cũng có vai trò quan trọng trong đội ngũ doanh nghiệp Việt Nam

và đóng góp nhiều đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Sự đóng góp của các loại hình doanh nghiệp này được nhìn nhận trên

nhiều phương diện:

* Tăng vốn đầu tư xã hội: đây là đóng góp đầu tiên phải kể đến khi phân

tích vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, mỗi

loại hình có vai trò đóng góp riêng. Vốn luôn đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là

trong hoạt động của doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Vốn như là

chiếc van điều tiết mọi hoạt động của doanh nghiệp. Muốn mở rộng công ty hay

đổi mới trang thiết bị, mua nguyên liệu, thuê công nhân… đều cần đến vốn.

Trong những năm qua vốn đăng ký kinh doanh trong các loại hình doanh

nghiệp tư nhân ngày càng tăng không chỉ về vốn đầu tư kinh doanh, vốn đăng

ký mà còn tăng cả về vốn sử dụng của doanh nghiệp. Vốn đầu tư của các loại

hình doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đâu tư của khu

vực kinh tế tư nhân và làm cho khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể

trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội.

Từ năm 1991-1993 riêng các loại hình Doanh nghiệp tư nhân, Công ty

trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần đã đầu tư 4.835 tỷ đồng vốn đăng ký.

Đến năm 1996, các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã huy động được lượng

vốn là 20.665 tỷ đồng. Bình quân từ năm 1991-1996 mỗi năm tăng thêm 3.940

tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Đến hết năm 1999 tổng

vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân là 27.445 tỷ đồng, trong đó

Doanh nghiệp tư nhân đăng ký 6.715 tỷ đồng, chiếm 24,47%, Công ty trách

nhiệm hữu hạn đăng ký 15.422 tỷ đồng, chiếm 56,16%; Công ty cổ phần đăng

ký 5.315 tỷ đồng, chiếm 19,37%.

Lượng vốn sản xuất kinh doanh bình quân của các loại hình doanh

11

nghiệp tư nhân còn được thể hiện cụ thể ở bảng sau:

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng1.3: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hàng năm của các doanh

nghiệp phân theo loại hình doanh nghiệp.

Đơn vị: tỷ đồng

Năm

2000 2001 2002 2003 2004 Loại

hình DN

DNTN 15.828 21.498 27.299 34.397 43.222

Công ty Hợp _ 5 84 1422 124

danh

44.491 65.308 99.728 139.444 204.534 Công ty

TNHH

Công ty Cổ 19.725 20.001 26.708 47.386 85.249

phần

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Qua bảng 1.3 ta thấy vốn sản xuất kinh doanh của các loại hình doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng dần qua các năm. Đây là dấu hiệu

đáng mừng chứng tỏ một điều đóng góp vốn của các loại hình doanh nghiệp

trong khu vực kinh tế tư nhân có vai trò đối với tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tạo

đà cho nền kinh tế xã hội phát triển. Trong 4 loại hình doanh nghiệp tư nhân thì

lượng vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng cao nhất, kỷ lục đến

năm 2004 vốn của Công ty trách nhiệm hữu hạn là 204.534 tỷ đồng, tiếp theo là

Công ty cổ phần 85.249 tỷ đồng. Sự gia tăng không ngừng về lượng vốn sản

xuất kinh doanh trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế này

ngày càng khẳng định vị thế và sự lớn mạnh của mình.

12

* Giải quyết việc làm cho người lao động

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Giải quyết việc làm ở mọi quốc gia là vấn đề quan trọng, đặc biệt đối với

Việt Nam một quốc gia có lực lượng lao động đông đảo. Hiện nay ở nước ta có

khoảng 1,2-1,4 triệu người đến tuổi lao động, ngoài ra số lao động nông nghiệp

có nhu cầu chuyển sang làm việc trong các ngành phi nông nghiệp cũng không

nhỏ. Vì thế, yêu cầu mỗi năm phải tạo thêm được hàng triệu việc làm đang là

một áp lực mạnh đối với Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương. Việc

tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới không chỉ giải quyết vấn đề xã hội, vấn đề

ổn định và phát triển kinh của nước ta hiện nay.

Thế nhưng, trên thực tế hệ thống các doanh nghiệp nước ta đang trong

quá trình cải cách không tạo được nhiều việc làm mới, khả năng thu hút lao

động từ nước ngoài đang có xu hướng chững lại. Nếu chỉ thông qua các doanh

nghiệp nhà nước thì không bao giờ tạo đủ công ăn việc làm cho người lao động

đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Chỉ có khu vực kinh tế tư nhân và đặc biệt các

loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân mới có khả năng thu hút

và sử dụng nhiều lao động.

Qua sự phân tích trên cho thấy vai trò rất to lớn của các loại hình doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đối với việc thu hút lao động và giải quyết

việc làm cho người lao động trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, cụ thể từng loại

hình sẽ cho thấy đóng góp của nó đối với vấn đề giải quyết việc làm này.

Trong giai đoạn 1991-1996 bình quân mỗi năm kinh tế tư nhân giải quyết

thêm khoảng 72.000 việc làm. Năm 1996 có khoảng 336.145 người trực tiếp

làm việc trong các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn và

Công ty cổ phần. Tương tự năm 1997 là 428.009 người, năm 1998 là 497.488

người (tăng 16,2% so với năm 1997) chiếm 1,3% lực lượng lao động xã hội.

Trong năm 1996-2000 lao động của khu vực kinh tế tư nhân tăng thêm

778.681 người (tăng 20,4%), trong đó lao động trong các loại hình doanh

13

nghiệp tư nhân tăng thêm 487,459 người (tăng 137,57%).

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Từ khi thực hiện Luật Doanh nghiệp thì lao động trong khu vực kinh tế tư

nhân tăng là 21.017.326 người chiếm 56,3% lao động có việc làm thường

xuyên của cả nước, trong đó lao động của hộ kinh doanh cá thể chiếm tỷ trọng

lớn, lao động của doanh nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng đang tăng rất nhanh.

Nếu xét dưới góc độ lao động trong các loại hình doanh nghiệp thì đến hết năm

2002, lao động ở các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân là 1.257.147, chiếm

32,6% tổng số lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp.

Bảng 1.4: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12

hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.

Đơn vị : Người

Năm 2000 2001 2002 2003 2004

Loại

hình DN

DNTN 236.253 277.562 339.638 378.087 431.912

Công ty Hợp 113 56 474 655 445

danh

Công ty TNHH 516.796 697.869 922.569 1.143.055 1.393.713

Công ty Cổ phần 43.588 87.509 139.913 206.266 307.497

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Qua bảng trên ta thấy vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực

kinh tế tư nhân đối với việc giải quyết việc làm và thu hút lao động là rất lớn, cụ

thể đến 31/12/2004 Doanh nghiệp tư nhân đã thu hút 431.912 lao động; Công

ty trách nhiệm hữu hạn 1.393.713 lao động; Công ty cổ phần 307.497 lao động;

kể cả Công ty hợp danh với số lượng rất ít cũng giải quyết được 445 lao động.

14

Như vậy, các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

không những tạo việc làm cho nhữmg người mới tham gia vào lực lượng lao

động mà còn giải quyết việc làm cho những người lao động dôi dư từ cải cách

doanh nghiệp nhà nước.

* Đóng góp vào Ngân sách Nhà nước.

Việc mở rộng khu vực kinh tế tư nhân đem lại một nguồn thu Ngân sách

đáng kể. Tuy đóng góp cho Ngân sách Nhà nước của các loại hình doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn là con số nhỏ bé, nhưng đang có xu

hướng tăng nhanh.

Xét về lượng tuyệt đối và lượng tương đối, số nộp Ngân sách trong các

loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân không nhiều như doanh nghiệp

nhà nước, doanh nghiệp của tư nhân không được bổ sung các nguồn lực để phát

triển nhiều như doanh nghiệp nhà nước vì vậy sự đóng góp của các loại hình

doanh nghiệp tư nhân là rất đáng khích lệ.

Theo số liệu của Bộ Tài chính năm 2001 các loại hình doanh nghiệp trong

khu vực kinh tế tư nhân nộp Ngân sách trên 11,075 tỷ đồng (bằng 14,8% tổng

thu Ngân sách quốc gia). Nhìn chung, đóng góp trực tiếp vào nguồn thu Ngân

sách Nhà nước của các loại hình doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp

trong mấy năm qua tuy liên tục tăng lên nhưng vẫn chưa tương xứng với tốc độ

phát triển của nó. Nhưng ngoài đóng góp trực tiếp vào Ngân sách Nhà nước

một phần không nhỏ các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn tích cực tham gia

và có đóng góp đáng kể vào xây dựng các công trình văn hoá, trường học,

đường giao thông nông thôn, các hoạt động xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp

nghĩa… Cụ thể những đóng góp của các loại hình doanh nghiệp tư nhân như

sau: từ khoảng 6,4% năm 2001 lên đến hơn 7% năm 2002 thu từ thuế công

thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh năm 2002 đạt 103,6% kế hoạch,

tăng 13% năm 2001.

15

* Tạo môi trường cạnh tranh

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Cạnh tranh là đặc tính nội tại trong nền kinh tế thị trường, đồng thời nó

cũng là yếu tố chi phối, trực tiếp điều khiển hoạt động sản xuất kinh doanh của

doanh nghiệp. Cạnh tranh vừa là động lực, vừa là nhân tố quyết định sự tồn tại

và phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, các loại hình doanh

nghiệp tư nhân luôn chiếm một vị trí quan trọng trong số các loại hình doanh

nghiệp, nó tạo môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế khác, đòi hỏi

mỗi thành phần kinh tế muốn tồn tại phải liên tục đổi mới cả về công nghệ, lĩnh

vực kinh doanh, năng lực quản lý.

Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch

hoá tập trung, thị trường rất đơn điệu và chỉ mang tính hình thức, yếu tố cạnh

tranh không phải là quan trọng do các doanh nghiệp không phải cạnh tranh với

nhau để mua các yếu tố sản xuất và bán sản phẩm, mọi hoạt động đều do Nhà

nước chi phối. Quan hệ cung cầu, giá cả cũng mang tính mệnh lệnh chỉ huy, các

thị trường không được thừa nhận.

Từ khi thực hiện đổi mới, quan hệ hợp tác tiền tệ mới thực sự phát triển,

các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh với nhau trên thị trường nên các loại thị

trường dần dần được thừa nhận và mở rộng cạnh tranh thương mại với các nước

trong khu vực và thế giới.

Sau quá trình phân tích về vai trò của các loại hình doanh nghiệp trong khu

vực kinh tế tư nhân, có thể thấy các loại hình doanh nghiệp này đóng góp lớn

trong sự phát triển kinh tế của đất nước:

- Tăng khả năng huy động vốn trong dân cư để phát triển kinh tế.

- Tạo công ăn việc làm và góp phần xoá đói giảm nghèo.

- Góp phần đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu

dùng.

- Huy động được nhiều nguồn lực.

16

- Tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý,

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

tạo ra sự phát triển đồng bộ giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các

thành phần kinh tế.

- Tạo môi trường cạnh tranh và tăng nguồn thu thuế cho Nhà nước.

- Góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

- Tạo động lực cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới.

- Nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.

1.2. Thực trạng phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân ở một số

quốc gia và bài học cho Việt Nam.

1.2.1. Phát triển các loại hính doanh nghiệp tư nhân ở một số quốc gia.

1.2.1.1. Trung quốc

Sau 20 năm thực hiện chính sách đổi mới và 10 năm phát triển kinh tế tư

nhân, ngày nay các loại hình doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc đã được đối xử

công bằng một cách thực sự như đối với các doanh nghiệp quốc doanh. Hiến

pháp Trung Quốc sửa đổi năm 1999 đã “chính thức thừa nhận tầm quan trọng

như nhau của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, thừa nhận đầy đủ vai trò

của khu vực tư nhân không hạn chế quy mô, bình đẳng với các thành phần kinh

tế khác”.

Doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc bao gồm các đối tượng không thuộc

sở hữu Nhà nước nhưng loại trừ các hộ cá thể doanh nghiệp với 8 nhân công

hay còn gọi là hộ công thương cá thể. Theo các nhà kinh tế Trung Quốc, sự phát

triển của các hộ cá thể đầu những năm 80 đã đặt nền móng cho sự phát triển

vững chắc của các doanh nghiệp tư nhân đầu tiên của Trung Quốc. Nếu như

năm 1988 Trung Quốc có khoảng 500 doanh nghiệp mang biệt danh là các

doanh nghiệp “mũ đỏ” thực chất đó là các doanh nghiệp tư nhân núp bóng tập

thể để lách những chính sách từ phía Chính phủ cũng như phân biệt về hệ tư tư-

ởng, song đến năm 1992, sau khi ông Đặng Tiểu Bình quyết định thực hiện lại

17

chính sách mở cửa từ bước đi này đã làm cho các doanh nghiệp tư nhân Trung

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Quốc thực sự phát triển.

Theo số liệu thống kê của tổng cục hành chính thống kê Trung Quốc thì

đến tháng 9 năm 2001 Trung Quốc có tổng số 1.880.000 doanh nghiệp tư nhân,

với vốn đăng ký là 1.500 tỷ nhân dân tệ thu hút trên 20 triệu lao động và đóng

góp một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội nói chung và tổng giá

trị sản lượng công nghiệp nói riêng.

Tỷ trọng đóng góp của doanh nghiệp Trung Quốc trong tổng giá trị sản

lượng công nghiệp làm giảm liên tục qua các năm, doanh nghiệp tập thể lúc đầu

tăng nhưng sau đó giảm dần còn ở doanh nghiệp tư nhân thì tỷ trọng lại tăng và

tăng lên nhanh chóng cụ thể từ 9,8 % năm 1990 lên 29,4% năm 1998, nguyên

nhân là do trong những năm của thập kỷ 90 Chính phủ Trung Quốc đã có những

chính sách phát triển hợp lý cho khu vực kinh tế tư nhân. Những năm sau đó tỷ

trọng của doanh nghiệp tư nhân vẫn không ngừng tăng lên, đến năm 2001 con

số đó đã đạt 40,1% cao vượt hơn hẳn so với doanh nghiệp nhà nước và doanh

nghiệp tập thể, điều này đã chứng tỏ tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân

trong nền kinh tế Trung Quốc.

Hiện nay, Chính phủ Trung Quốc thừa nhận kinh tế tư nhân là động lực

tăng trưởng kinh tế mà lực lượng chính là các doanh nghiệp tư nhân. Đạt được

những thành tựu như vậy là do Chính phủ Trung Quốc đã có những thay đổi

trong tư duy, nhận thức trong hoạch định các chính sách.

Mới đây Đảng và Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một số định hướng,

chính sách cụ thể nh sau:

- Đề cao hơn nữa vai trò của doanh nghiệp tư nhân: đây được xem là

định hướng quan trọng hàng đầu trong phát triển kinh tế tư nhân nói chung và

thúc đẩy sự lớn mạnh của các doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Đảng và Chính

phủ Trung Quốc xác định: trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mang

18

màu sắc Trung Quốc, kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trọng yếu của nền

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

kinh tế quốc dân. Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tư nhân cũng phải đảm bảo

trách nhiệm mang tính lịch sử là hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện

đại hoá trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ của các doanh

nghiệp tư nhân chính là những công nhân, nông dân và thành phần tri thức được

phân hoá trong quá trình phát triển theo hướng kinh tế thị trường, do đó họ cũng

là lực lượng tích cực trong quá trình xây dựng đất nước và góp phần ổn định xã

hội, hỗ trợ và phát triển các doanh nghiệp tư nhân sẽ góp phần quan trọng trong

xây dựng nền kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất.

- Tăng cường hướng nghiệp khu vực kinh tế tư nhân:

+ Tăng cường các doanh nghiệp tư nhân phát triển trong những ngành

nghề lĩnh vực, có lợi cho nền kinh tế quốc dân. Cần đưa kinh tế tư nhân vào quy

hoạch phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Căn cứ vào chính sách kinh

tế và chính sách ngành nghề của Nhà nước để hướng các doanh nghiệp tư nhân

đầu tư đúng hướng, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân thông qua các

chính sách như: cho thuê, bao thầu, liên doanh, liên kết, mua lại… để tham gia

vào quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời hướng các doanh

nghiệp tư nhân đầu tư vào các ngành nghề thích ứng với chiến lược điều chỉnh

kinh tế của Nhà nước. Đặc biệt khuyến khích họ đầu tư vào những lĩnh vực mà

kinh tế nhà nước sẽ rút ra trong thời gian tới. Khuyến khích các doanh nghiệp t-

ư nhân đầu tư vào miền Tây, vào nông nghiệp, nông thôn và xây dựng các thị

trấn nhỏ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp tư nhân có thể tham gia tích cực vào

cạnh tranh quốc tế và đầu tư ra nước ngoài.

+ Tăng cường bồi dưỡng về tư tưởng và chính trị cho các chủ doanh

nghiệp tư nhân cũng như những người làm trong các doanh nghiệp tư nhân để

họ trở thành lực lượng tích cực trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc,

tăng cường các công tác xây dựng đảng trong các doanh nghiệp tư nhân

19

+ Tăng cường bồi dưỡng cho những người làm trong khu vực kinh tế t-

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

ư nhân về trình độ văn hoá, trình độ khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông

qua phát triển kỹ thuật.

+ Phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với tiến trình đô thị hoá, coi phát

triển kinh tế tư nhân là động lực thúc đẩy tiến trình đô thị hoá và ngược lại

nhằm tạo lập thị trường cho các doanh nghiệp tư nhân, giải quyết lao động dôi

dư trong doanh nghiệp.

- Tạo lập môi trường cạnh tranh công bằng

+ Thực hiện nguyên tắc đối xử công bằng với tất cả các thành phần kinh

tế, để tiến tới thống nhất chế độ chính sách hiện hành xoá bỏ những quy định

không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường, cũng như những quy

định tạo ra những đối xử không phù hợp với khu vực kinh tế tư nhân.

+ Nhanh chóng giải quyết vấn đề thâm nhập thị trường của các doanh

nghiệp.

+ Kiện toàn hơn nữa về mặt pháp luật đối xử với quyền tài sản hợp pháp

của doanh nghiệp tư nhân.

+ Từng bước giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp tư nhân, kiên

quyết xoá bỏ các loại phí do các điạ phuơng, ban ngành tự ý đặt ra

- Hoàn thiện chức năng của Chính phủ:

+ Nhanh chóng giải quyết vấn đề nổi cộm và huy động vốn của các

doanh nghiệp tư nhân thông qua việc mở rộng hơn nữa các kênh huy động vốn,

cho phép các tổ chức tiền tệ được phân bổ vốn theo nguyên tắc lợi ích, nới lỏng

điều kiện bảo lãnh, thế chấp, từng bước nâng cao tỷ lệ tín dụng cho các doanh

nghiệp tư nhân, thực hiện tự do hoá lãi suất.

+ Giải quyết những khó khăn trong việc sử dụng đất cho phát triển của

các doanh nghiệp tư nhân. Xây dựng quy hoạch thành thị và nông thôn trong đó

20

tính đến nhà xưởng kinh doanh cần thiết của khu vực kinh tế tư nhân nói chung

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

và các doanh nghiệp tư nhân nói riêng, áp dụng chính sách đất đai thống nhất

với tất cả các thành phần kinh tế.

- Tăng cường công tác bảo hiểm lao động, bảo vệ quyền lợi của công

nhân: thúc đẩy các doanh nghiệp tư nhân tăng cường công tác bảo hộ lao động,

xây dựng những quy định về an toàn sản xuất…

1.2.1.2. Hungari

Ở Hungari ngày nay người ta vẫn không ngừng phê phán chính sách

phản dân chủ và sự không nhất quán thực hiện mô hình thị trường. Về đại thể

đó là đúng, nhưng điều quan trọng hơn là ở chỗ khác. Trong suốt hơn 20 năm

(từ 1968 đến 1994) trong điều kiện của chế độ độc quyền, ở Hungari đã dần dần

hình thành những cơ sở của cơ chế thị trường, hình thành một giai cấp trung

thực. Điều đó đã tạo ra những điều kiện cần thiết để chuyển biến một cách

tương đối không đau đớn chế độ đã tồn tại.

Quyết định thực hiện cải cách cơ chế kinh tế ở Hungari được thông qua

năm 1966. Từ 1968 những nguyên tắc mới về quản lý kinh tế bắt đầu được thực

hiện trong cuộc sống. Cải cách ở Hungari không được tiến hành cùng một lúc

bằng “một đòn mạnh” mà được thực hiện trong thời gian tương đối dài, thực tế

không phải bao giờ nó cũng đi theo một con đường thẳng tắp, mà có lúc phát

triển, khi suy thoái, có lúc quá trình cải cách bị chậm lại thậm chí có lúc hầu

như bị đảo ngược.

Thời kỳ đầu của cải cách (mặc dù có mâu thuẫn rõ ràng có những nhân tố

riêng của nó) nói chung đã có một vai trò nhất định đặt nền cho những nguyên

tắc thay đổi cơ bản trong hệ thống hoàn thiện cơ chế kinh tế. Bãi bỏ mô hình

quản lý kinh tế theo kiểu truyền thống và chuyển sang việc quản lý mới (trung

gian) là thắng lợi của việc chọn lựa giải pháp đối nghịch nhau đối với cơ chế cũ.

Các chỉ số thống kê phát triển của nền kinh tế quốc dân đạt được đã chứng minh

21

tính đúng đắn của đường lối đã lựa chọn, tính tự chủ và sáng tạo của tập thể các

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

xí nghiệp được phát huy và được cải tiến trên công tác kế hoạch hoá làm từ d-

ưới lên.

Vào đầu những năm 70 quá trình cải cách bắt đầu mất tính năng động và

sau đó bị kìm hãm. Năm 1973 giá dầu mỏ đã tăng đột ngột tạo nên những điều

kiện hết sức bất lợi cho nền kinh tế Hungari vốn có mối liên hệ chặt chẽ với thị

trường thế giới.

Hungari là nước đầu tiên ở Đông Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính

trị, tiên phong trong số các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện công cuộc cải cách

sang nền kinh tế thị trường. Hungari đã thực hiện những bước đi đầu tiên trong

việc thực hiện tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ

chế kinh tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và

1968. Hungari cũng là một nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân

hoá trên cơ sở thị trường.

Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở

Hungari là: tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân

hoá ở Hungari là bán tài sản của Nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong

giai đoạn 1990-1991 chỉ có 10% tổng số tài sản Nhà nước được tư nhân hoá,

trong giai đoạn 1992-1994 là hơn 40%. Năm 1989 thị phần của khu vực tư nhân

tính theo GDP chỉ chiếm 18% nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng dần lên, đến cuối

năm 1993 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 50% GDP và đến cuối năm 1997 là

80%. Cuối những năm 90 quá trình tư nhân hoá coi như đã hoàn thành, tài sản

của Nhà nước chỉ còn chưa đến 20%, chủ yếu là trong ngành công nghiệp mang

tính chiến lược.

Chuyển đổi thể chế ở Hungari đã phải trả một giá khá đắt, nhưng đổi lại

cơ chế kinh tế đã có sự chuyển dịch quan trọng, 62% là dịch vụ, 28% là công

nghiệp, 5% là nông nghiệp và phần còn lại là công nghiệp xây dựng. Các ngành

22

mới hình thành như sản xuất ô tô, điện tử…, còn các ngành truyền thống như

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

chế biến thực phẩm thì tiếp tục phát triển.

Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong

chuyển đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời

tạo ra những sự thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển từ sở hữu nhà nước sang sở

hữu cá nhân). Nhờ có sự thống nhất giữa Nhà nước và dân chúng nên quá trình

tư nhân hoá ở Hungari diễn ra thuận lợi không có xung đột gay gắt và kéo theo

các chuyển đổi hoà bình trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungari là

nước thực hiện quá trình chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước

năm 1990 hầu hết các phương tiện sản xuất đều nằm trong tay Chính phủ: có

1.850 doanh nghiệp nhà nước với tổng giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25

tỷ USD. Năm 1989-1990 lĩnh vực kinh tế tư nhân của Hungari chỉ đóng góp

10%-15% GDP hiện nay lĩnh vực này đóng góp 70%-75% GDP. Tỷ lệ này t-

ương đương với các nước trong liên minh châu Âu.

Quá trình tư nhân hoá ở Hungari không diễn ra đều đặn đầu thập kỷ 90,

Hungari đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ, sau đó mới tiến

hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân

hoá những doanh nghiệp nhỏ đã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp

luôn suôn sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn được

thực hiện tốt do đã lựa chọn được đối tượng có đủ khả năng vật chất để tiếp tục

duy trì hoạt động có hiệu quả trên cơ sở đổi mới công việc tư nhân hoá các

doanh nghiệp nhà nước lớn được thực hiện từ năm 1993-1996.

Tư nhân hoá ở Hungari được thực hiện đại trà từ năm 1993 đến năm

1997. Năm 1994 do có bầu cử và một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình

tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995, 1/3 số

doanh nghiệp được tư nhân hoá trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược

như: điện, năng lượng…

23

Chính phủ Hungari đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc đầu tư hoá bằng

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

việc ban hành một số luật. Luật Công ty bảo đảm cơ sở cho các Công ty cổ phần

và các loại hình công ty khác hoạt động. Năm 1995, Hungari ban hành Luật Tư-

nhân hoá, luật tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần và

Công ty trách nhiệm hữu hạn, toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungari

được chuyển sang hoạt động theo luật công ty trước khi tư nhân hoá.

Từ năm 1992 đến năm 1995 các quy định của Nhà nước đã thay đổi

nhiều lần. Nội dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp nhà nước cần

duy trì mức sở hữu 50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đã định nghĩa chính

xác các doanh nghiệp không tư nhân bao gồm một số công ty dịch vụ công

cộng, chiến lược hoặc quốc phòng.

Các hình thức tư nhân hoá ở Hungari được quy định rõ ràng trong luật tư-

nhân hoá.

+ Đầu tư công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài

sản Nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai.

+ Thông báo bán công khai: các điều kiện bán được thông báo để người

mua quan tâm biết.

+ Bán cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.

+ Bán nhà cho nhà đầu tư chiến lược: áp dụng đối với doanh nghiệp có

tầm quan trọng về quốc phòng hoặc chính trị đặc biệt hoặc có nguy cơ sẽ có đối

thủ cạnh tranh mua lại nhằm mục đích thôn tính, chiếm lĩnh thị trường.

Trong luật tư nhân hoá quy định các đối tượng không được phép tham

gia mua cổ phiếu, nhưng về cơ bản không hạn chế đối tượng mua cổ phần. Do

quá khứ thời kỳ xã hội chủ nghĩa trước đây nên không có tư sản tư nhân nội địa

để tham gia mua tài sản này.

Trong quá trình tư nhân hoá ở Hungari nổi lên một vấn đề quan trọng là

nợ lẫn nhau giữa các doanh nghiệp nhà nước và nợ ngân hàng rất lớn. Nhờ quá

24

trình tư nhân hoá trên cơ sở thị trường công cuộc cải cách kinh tế ở Hungari đã

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

thành công và hiệu quả.

Trong số 1580 doanh nghiệp nhà nước trước đây thì 17% đã phá sản, 5%

đã giải thể, 78% tư nhân hoá. Do sự thay đổi cơ cấu kinh tế nên 25% doanh

nghiệp không có khả năng tồn tại, 64% tư nhân hoá cho các chủ sở hữu nước

ngoài bằng thu ngoaị tệ, 19% tư nhân hoá cho tư sản nội địa bằng tiền mặt và

5% bằng phiếu đền bù, còn lại là tín dụng ngân hàng.

+ Xét về tài sản thì tổng cộng có 46% tài sản đã tư nhân hoá, 43% tài

sản không có ý định tư nhân hoá, 9% diện tích đất đai trong sở hữu Nhà nước

hiện nay chưa thể tư nhân hoá, 2% thiết bị phương tiện chưa tư nhân hoá.

+ Xét theo ngành thì gần 100% doanh nghiệp nhà nước trong ngành

công nghiệp và thương mại, 80% trong ngành cung cấp năng lượng và 80%

trong ngành ngân hàng đã được tư nhân hoá.

+ Tư nhân hoá có tác động mạnh mẽ là nhiều nguồn đầu tư xuất hiện

sau tư nhân hoá cụ thể là có 26 tỷ USD đã đầu tư vào sản xuất trực tiếp, trong đó

405 đầu tư qua tư nhân hoá.

+ Thu nhập từ tư nhân hoá là 14 tỷ USD, trong đó 70% được đưa vào

Ngân sách Nhà nước góp phần giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách, 8-10%

đền bù chính trị, 8-10% để bù đắp chi phí cho quá trình tư nhân hoá.

1.2.2. Một số bài học cho Việt Nam

a, Nhận thức đúng về vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong phát triển

kinh tế .

Từ kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp tư nhân của Trung Quốc,

Hungari ta có thể thấy rằng các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể

phát triển năng động trong khu vực kinh tế tư nhân và trong môi trường kinh tế

thị trường, Chính phủ hoàn toàn có khả năng quản lý, giám sát, định hướng và

phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân.

25

Do vậy đối với Việt Nam chúng ta cần thống nhất nhận thức rằng các loại

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

hình doanh nghiệp tư nhân trong khu vực kinh tế tư nhân là động lực tăng trư-

ởng kinh tế quan trọng, là khu vực chủ yếu để giải quyết việc làm, phát huy mọi

tiềm lực của người dân.

b, Tạo điều kiện cho các loại hính doanh nghiệp tư nhân tham gia vào nền

kinh tế thị trường.

Mặc dù Việt Nam đã thừa nhận cơ chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị

trường nhưng do ảnh hưởng của cơ chế kinh tế cũ nên nhiều cơ quan Nhà nước

vẫn có thái độ phân biệt đối xử với các doanh nghiệp, ưu đãi đối với các doanh

nghiệp nhà nước, gây khó dễ đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy

theo ý kiến của các chuyên gia cho rằng cần phải mở cửa tất cả các lĩnh vực đặc

biệt là khu vực tài chính cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân, tạo điều kiện

cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân được vay vốn một cách bình đẳng như

các doanh nghiệp khác ở các ngân hàng trong nước.

c, Sửa đổi bổ sung cơ chế, chình sách phù hợp

- Chính sách đất đai: cần đơn giản hoá các thủ tục đầu tư nhằm khuyến

khích tư nhân đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế

mở…và tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất.

- Chính sách tài chính tín dụng: thúc đẩy hoạt động của các quỹ hỗ trợ và

hệ thống ngân hàng theo hướng đa dạng hoá hình thức ưu đãi, đơn giản hoá thủ

tục xin vay tín dụng ưu đãi nhanh chóng xây dựng và triển khai các chương

trình trợ giúp doanh nghiệp về khởi sự kinh doanh, đào tạo nghề và đào tạo

doanh nhân.

d, Thực hiện cải cách doanh nghiệp nhà nước.

Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy khi chuyển đổi nền kinh tế thị trường,

một trong những nội dung quan trọng mà các nước chuyển đổi phải thực hiện là

xây dựng khu vực kinh tế tư nhân lớn mạnh, trong đó là sự lớn mạnh của các

26

loại hình doanh nghiệp tư nhân rất quan trọng và là nhu cầu của sự phát triển

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

kinh tế đất nước. Do đó vấn đề cải cách doanh nghiệp nhà nước là mục tiêu

hàng đầu. Kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường của các nước mới công

nghiệp hoá cho thấy phải xây dựng khu kinh tế tư nhân lớn mạnh trong đó là sự

lớn mạnh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, đối với các ngành

kinh tế kế hoạch hoá tập trung (nền kinh tế mà hầu hết các doanh nghiệp đều là

doanh nghiệp nhà nước) khi chuyển sang nền kinh tế thị trường thì việc cải cách

doanh nghiệp này là hết sức cần thiết.

Việc kết hợp cải cách doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp

tư nhân trước hết phụ thuộc vào định hướng chiến lược của quốc gia về mối

quan hệ giữa phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân.

Định hướng chiến lược hoặc sự điều chỉnh có tính chiến lược đối với hai

khu vực kinh tế của Trung Quốc được thực hiện theo hướng “Nắm lớn, thả

nhỏ”, kinh tế nhà nước phải chiếm giữ vị trí chi phối đối với những ngành quan

trọng trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, giảm tỷ trọng của

kinh tế nhà nước nhưng vẫn ảnh hưởng đến vai trò điều chỉnh của Nhà nước.

Định hướng này phù hợp với đường lối đổi mới của Việt Nam.

Để hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước, điều quan trọng là phải tiến

hành đồng thời các chính sách phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân

ngay từ khi bắt đầu chương trình cải cách doanh nghiệp nhà nước. Các chính

sách phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân tập trung vào khuyến khích,

hỗ trợ đối với các doanh nghiệp mà Nhà nước tiến hành “thả nhỏ” khuyến khích

nhiều lao động dôi dư.

Ngoài ra, việc cải cách doanh nghiệp nhà nước tất yếu dẫn đến chuyển

dịch lao động giữa khu vực doanh nghiệp nhà nước và khu vực doanh nghiệp t-

ư nhân. Để hỗ trợ cải cách doanh nghiệp nhà nước cần đặc biệt quan tâm đến hỗ

trợ người lao động tìm việc làm mới ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, thiết

27

lập các trung tâm dịch vụ thuê lại lao động để cung cấp các dịch vụ về chuyển

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

chỗ làm việc, tư vấn đào tạo việc làm, tăng cường phát triển thị trường lao

28

động.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI HÌNH DOANH

NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM

2.1 Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân

2.1.1 Sự gia tăng về số lượng các loại hính doanh nghiệp tư nhân

Trong thời gian qua, cùng với những chính sách hỗ trợ của Đảng và Nhà

nước khu vực kinh tế tư nhân có sự gia tăng lớn mạnh về số lượng, đặc biệt là

các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở khu vực này. Lượng doanh nghiệp tư nhân

tăng rất nhanh.

Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân so với các khu

vực kinh tế khác có thể thấy rõ qua các con số, mặc dù sự lớn mạnh của một

thực thể không chỉ là sự gia tăng về số lượng, nhưng chúng ta đều thấy rằng từ

một khu vực không được chấp nhận đến nay khu vực kinh tế tư nhân, mà điển

hình là các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân đã có mức gia tăng

lớn trong khi các khu vực kinh tế khác gia tăng không đáng kể (như khu vực có

vốn đầu tư nước ngoài), thậm chí còn giảm (khu vực doanh nghiệp nhà nước).

Bảng 2.1: Tổng quan về tình hình doanh nghiệp phân theo năm thành lập

Năm DN tư nhân Công ty cổ phần Công ty TNHH Công ty hợp

Vốn

danh

( Tỷ

Số Vốn Số Số Vốn Số Vốn

đồng )

lượng ( Tỷ lượng lượng ( Tỷ lượng ( Tỷ

( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN )

2006 2,202 1,078 1,565 18,795 10,140 14,859 3 2

2005 1,770 1,096 1,102 10,378 8,189 12,996 3 2

2004 1,536 1,092 927 12,635 7,152 11,633 1 1

29

2003 1,660 925 575 10,658 5,718 11,230 1 2

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Năm DN tư nhân Công ty cổ phần Công ty TNHH Công ty hợp

Vốn

danh

( Tỷ

Số Vốn Số Số Vốn Số Vốn

đồng )

lượng ( Tỷ lượng lượng ( Tỷ lượng ( Tỷ

( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN ) đồng ) ( DN )

2002 1,539 1,094 557 7,829 4,840 11,643 0 0

2001 1,513 1,225 464 7,142 4,215 11,065 0 1

2000 1,548 1,197 225 2,940 3,001 8,225 1 0

1999 1,938 1,718 6,260 622 838 62 0 0

1998 453 322 24 251 734 2,956 0 0

1997 452 217 12 222 580 3,511 0 0

1996 430 247 18 1,261 604 2,546 0 0

1995 484 319 7 111 576 2,478 0 0

1994 559 285 9 110 464 2,661 0 0

1993 172 203 20 5,368 503 3,735 0 0

1992 60 184 27 5,789 311 3,075 0 0

1991 0 0 0 0 2 1 0 0

1977 0 0 0 0 0 0 0 0

1955 0 0 0 0 0 0 0 0

1904 1 0 0 0 0 0 0 0

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Qua bảng trên ta thấy, số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư

nhân tăng nhanh, đặc biệt từ năm 2000 trở lại đây. Theo số liệu thống kê đến hết

tháng 04/2007, trong năm 2007 đã có 430 Doanh nghiệp tư nhân thành lập với

30

số vốn 269 tỷ đồng, 430 Công ty Cổ phần với số vốn 11,089 tỷ đồng, có 2,150

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Công ty trách nhiệm hữu hạn với số vốn 3,071 tỷ đồng và trong năm 2007 đến

hết tháng 4/2007 chưa có thêm Công ty hợp danh nào đăng ký mới.

Bảng 2.2: Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân đăng ký kinh doanh

Đơn vị: Doanh nghiệp

Năm DNTN Công ty Công ty cổ Công ty Hợp

TNHH phần danh

1991 76 49 7 -

1992 3.034 1.144 63 -

1993 5.516 2.256 41 -

1994 5.493 1.943 24 -

1995 3.731 1.864 34 -

1996 3.697 1.801 42 -

1997 2.617 1.117 26 -

1998 1.998 1.044 79 -

1999 2.038 2.361 216 -

2000 20.548 10.458 452 3

2001 22.777 16.291 1125 5

2002 24.794 23.485 2272 24

2003 25.653 30.164 3872 18

2004 29.980 40.918 6926 21

2005 35.001 52.549 1059 37

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân: Công ty trách nhiệm hữu hạn,

Công ty cổ phần, Doanh nghiệp tư nhân và Công ty hợp danh, mỗi loại hình có

sự tăng, giảm và chiếm tỷ trọng khác nhau trong tổng số các loại hình doanh 31 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, Công ty hợp danh chiếm tỷ trọng nhỏ

nhất, trong số các loại hình doanh nghiệp tư nhân từ 1991 - 1999 không có

Công ty hợp danh nào đăng ký thành lập, mãi đến năm 2000 mới có 03 Công ty

hợp danh thành lập, chiếm 0,02%, Công ty cổ phần những năm đầu chiếm tỷ

trọng thấp, những năm gần đây có xu hướng tăng lên, còn hai loại hình doanh

nghiệp là Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn, tỷ trọng

Doanh nghiệp tư nhân có xu hướng giảm xuống, còn Công ty trách nhiệm hữu

hạn có xu hướng tăng lên. Tốc độ tăng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân

không như nhau là vì mỗi loại hình có hình thức hoạt động khác nhau, trong

từng thời điểm thì mỗi loại hình có sự phù hợp riêng, loại hình nào thuận lợi thì

phát triển mạnh hơn. Xu hướng Công ty trách nhiệm hữu hạn phát triển nhanh

hơn Doanh nghiệp tư nhân là do Công ty trách nhiệm hữu hạn có những ưu

điểm vợt trội so với Doanh nghiệp tư nhân. Công ty trách nhiệm hữu hạn trước

pháp luật chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi số vốn góp.

Từ năm 2000 đến nay, đây là giai đoạn Luật Doanh nghiệp ra đời và có

hiệu lực thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân, đồng thời

Ban chấp hành Trung ương (Khoá IX) ban hành Nghị quyết TW 5 “Tiếp tục đổi

mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư

nhân”. Như vậy, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh

hơn nhiều so với giai đoạn 1991-1999.

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ 01/01/2000 đến tháng

09/2003, cả nước có khoảng 72.601 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư

nhân thành lập thêm, đưa số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân lên đến

120.000 cơ sở và gấp 3 lần số doanh nghiệp có đến cuối năm 1999. Số doanh

nghiệp đăng ký trung bình hàng năm của giai đoạn này bằng 3,75 lần so với

trung bình hàng năm giai đoạn 1991-1999. Số lượng các loại hình doanh

32

nghiệp tư nhân tiếp tục tăng đều qua các năm. Năm 2005, có khoảng 38.000

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

doanh nghiệp tư nhân mới đăng ký hoạt động tăng 37,18% so với năm 2003 và

8,58% so với năm 2004. Chỉ tính riêng Quý I năm 2006 đã có khoảng 7.775

doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp. Như vậy, bình quân

giai đoạn 2001-2005 mỗi năm có khoảng 28.655 doanh nghiệp đăng ký kinh

doanh theo Luật Doanh nghiệp, tăng gần gấp 6 lần so với giai đoạn 1991-1999,

đưa tổng số các loại hình doanh nghiệp tư nhân đến cuối năm 2005 lên gần

200.000 doanh nghiệp.

Bảng 2.3: Số doanh nghiệp tƣ nhân đang hoạt động sản xuất kinh doanh

tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình doanh nghiệp.

Đơn vị: Doanh nghiệp

Năm Tổng số Tăng so DNTN Công ty Công ty Công ty

doanh với năm TNHH Cổ phần hợp

nghiệp trước(%) danh

2000 31.461 - 20.548 10.458 452 3

2001 40.198 27,77 22.777 16.291 1125 5

2002 50.575 25,81 24.794 23.485 2272 24

2003 59.707 18,06 25.653 30.164 3872 18

2004 77.845 30,38 29.980 40.918 6926 21

2005 88.646 13,88 35.001 52.549 1059 37

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Trên đây là số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt

động kinh doanh nhưng thực tế số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân

hoạt động không phải là con số đó và các loại hình doanh nghiệp tư nhân thực

33

tế hoạt động phân bổ không đều, tập trung chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Chí Minh, các tỉnh và thành phố khác có số lượng rất ít.

Nhưng hiện nay, số doanh nghiệp hoạt động so với số doanh nghiệp đăng

ký có xu hướng tăng lên. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố

trực thuộc Trung ương cho thấy, số doanh nghiệp hoạt động đang chiếm từ

80% đến 85% số doanh nghiệp đăng ký. Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, đến

hết tháng 7/2003 trên cả nước có khoảng 1.650 doanh nghiệp đã đăng ký nhưng

không còn hiện diện tại nơi đăng ký (chiếm khoảng 2.3% trong tổng số doanh

nghiệp đã đăng ký). Từ năm 2002 đến nay, số doanh nghiệp đăng ký kinh

doanh xấp xỉ băng số doanh nghiệp đăng ký mã số thuế. Như vậy, từ khi có

Luật Doanh nghiệp thay thế cho Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân,

các loại hình doanh nghiệp tư nhân có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển và

mở rộng sản xuất kinh doanh, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân tăng

nhanh, đó là dấu hiệu mừng cho khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và cho nền

kinh tế Việt Nam nói chung.

Sự tăng trưởng của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đạt được như vậy

là do Chính phủ Việt Nam đã có những chủ trương, chính sách và những biện

pháp phù hợp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển đặc biệt là với các

loại hình doanh nghiệp, khẳng định rõ vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không ngừng hoàn thiện

môi trường kinh doanh theo định hướng ngày càng thông thoáng hơn, cơ chế,

chính sách có chuyển biến rõ rệt, không phân biệt đối xử giữa các loại hình

doanh nghiệp.

Cụ thể từ năm 2000 đến nay số lượng doanh nghiệp trong khu vực kinh tế

tư nhân tăng mạnh, từ 31.461 doanh nghiệp (năm 2000) lên 88.646 doanh

nghiệp (năm 2005), đây là một dấu hiệu đáng mừng nhưng con số doanh nghiệp

hoạt động thực tế thì chưa được như vậy vì thế yêu cầu Nhà nước cần có chính

34

sách quản lý tốt hơn nữa để số lượng doanh nghiệp “ma” ít hơn.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Phân tích một số chỉ tiêu tài chính bình quân của kinh tế tư nhân theo loại

hình doanh nghiệp cũng cho thấy loại hình Doanh nghiệp tư nhân có tổng giá trị

tài sản nhỏ nhất, cao hơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn và cao nhất là Công ty

cổ phần vì đây là loại hình có ưu thế trong huy động vốn

2.1.2.Cơ cấu, quy mô các loại hính doanh nghiệp tư nhân:

a/ Cơ cấu các loại hình doanh nghiệp tư nhân.

* Theo ngành nghề kinh doanh:

Có thể nói, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã gia tăng khá

nhanh trong suốt thập kỷ 90 đến nay. Nhưng các loại hình doanh nghiệp tư

nhân đăng ký hoạt động chỉ tập trung ở một số ngành nghề chủ yếu như thương

mại, dịch vụ, giao thông vận tải, công nghiệp, xây dựng.

Bảng 2.4: Số doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tƣ nhân phân theo

ngành:

Đơn vị: Doanh nghiệp

Loại hình DN tư nhân Cty TNHH Cty cổ phần Cty hợp

doanh nghiệp danh

*Nông nghiệp

và lâm nghiệp

Năm 2003 109 122 27 2

Năm 2004 137 159 40 1

Năm 2005 140 203 66 1

*Thuỷ sản

Năm 2003 1250 74 26 -

Năm 2004 1400 102 38 -

35

Năm 2005 1151 98 43 -

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Loại hình DN tư nhân Cty TNHH Cty cổ phần Cty hợp

danh doanh nghiệp

*Nông nghiệp

và lâm nghiệp

*Công nghiệp

5581 6703 702 4 Năm 2003

6222 9017 1171 4 Năm 2004

7078 11067 1676 3 Năm 2005

* Xây dựng

2548 4896 917 3 Năm 2003

2894 6445 1615 1 Năm 2004

3387 8109 2437 1 Năm 2005

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Nhìn vào số liệu trong bảng ta thấy số lượng doanh nghiệp trong các

ngành thương mại - dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn và tăng lên qua các năm, nguyên

nhân của sự tập trung chủ yếu trên là do:

- Các doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn đầu tư lớn cho các dự án kinh

doanh về công nghiệp nặng, tâm lý muốn thu hồi vốn đầu tư nhanh thông qua

ngành thương mại - dịch vụ, công nghiệp nhẹ hoặc công nghiệp chế biến quy mô

nhỏ.

- Sự hạn chế về công nghệ và khả năng kỹ thuật của các loại hình doanh

nghiệp tư nhân.

- Hành lang pháp lý và các chính sách cụ thể còn phức tạp hoặc chưa tạo

đủ sức thu hút các doanh nhân bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp nặng

công nghệ cao, lĩnh vực hạ tầng và dịch vụ công cộng do đó chưa hình thành cơ 36 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

cấu đầu tư tư nhân có hiệu quả cho nền kinh tế.

* Theo loại hình doanh nghiệp:

Từ năm 1990 tới nay do sự tác động của hàng loạt các đạo luật và chính

sách: Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp thì cơ cấu

các loại hình doanh nghiệp tư nhân cũng có sự thay đổi đáng kể, trong các loại

hình doanh nghiệp tư nhân thì Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng tăng

dần qua các giai đoạn và đến giai đoạn 2000 - 2002 (sau khi thực hiện Luật

Doanh nghiệp) thì loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm tỷ trọng cao

nhất 62,37%, Công ty cổ phần cũng tăng nhưng rất chậm, đến giai đoạn

2000-2002 mới chiếm 6,42%. Còn loại hình Doanh nghiệp tư nhân từ chỗ chiếm

tỷ trọng cao nhất 71,36% giai đoạn 1991-1996 thì đến giai đoạn 2000-2002 chỉ

còn chiếm 31,21% đứng sau Công ty trách nhiệm hữu hạn.

Như vậy, trước năm 2000 loại hình Doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng

cao nhất nhưng sau khi Luật Doanh nghiệp ra đời tác động tích cực đến sự

chuyển dịch cơ cấu loại hình doanh nghiệp, tỷ trọng Doanh nghiệp tư nhân trong

tổng số doanh nghiệp đăng ký tham gia giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999

xuống còn 34% năm 2003 và khoảng 30% năm 2004, trong khi đó, tỷ trọng

Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần tăng từ 36% lên 66% năm 2003

và khoảng 67,3% năm 2004. Loại hình Công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên 10%

năm 2003 và khoảng 13,6% năm 2004. Sự thay đổi này cho thấy các nhà đầu tư

trong nước có xu hướng lựa chọn loại hình doanh nghiệp tư nhân hiện đại, tạo cơ

sở để doanh nghiệp có thể phát triển không hạn chế về quy mô.

b/ Quy mô của các loại hình doanh nghiệp tư nhân

Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hiện nay vẫn hoạt động với quy mô

kinh doanh nhỏ bé, có đến 90% số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân thuộc

loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ.

37

* Quy mô về vốn:

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Quy mô về vốn đối với doanh nghiệp hết sức quan trọng, nó quyết định

tới quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đặc biệt là các loại

38

hình doanh nghiệp tư nhân và nguồn vốn chủ yếu là vốn tự có.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng 2.5: Nguồn vốn bình quân của một doanh nghiệp trong khu vực kinh

tế tƣ nhân.

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm 2003 2004 2005

Loại

hình DN

DN tư nhân 1,5 1,6 2,2

Cty TNHH 5,4 5,9 6,0

Cty cổ phần 15,0 15,0 16,1

Cty hợp danh 102,9 6,3 1,3

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Theo số liệu bảng 2.5 cho thấy nguồn vồn bình quân của Doanh nghiệp

tư nhân là thấp nhất (năm 2005 vốn bình quân của Doanh nghiệp tư nhân là 2,2

tỷ đồng); cao hơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn (6,0 tỷ đồng); sau đó là Công

ty cổ phần (16,1 tỷ); riêng Công ty hợp danh có sự thay đổi theo xu hướng

ngược lại, từ 102,9 tỷ đồng năm 2003 xuống còn 1,3 tỷ đồng năm 2005. Nguồn

vốn bình quân của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân

nhìn chung là thấp so với các khu vực khác và hiện nay vốn bình quân của loại

39

hình Công ty cổ phần là cao nhất.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng 2.6: Quy mô về vốn của doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tƣ nhân.

Loại hình Dưới Từ Từ Từ Từ Từ Từ Trên

0,5 0,5 - 1 1 - 5 5 - 10 10-50 50-200 200-50 500 doanh

tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ tỷ đồng nghiệp 0 tỷ

đồng đồng đồng đồng đồng tỷ đồng đồng

DN tư nhân

-Năm 2003 11119 5889 7455 785 370 31 2 2

-Năm 2004 12194 6811 9323 1068 530 51 2 1

-Năm 2005 12693 8311 11764 1418 736 66 7 6

Cty TNHH

-Năm 2003 5522 5856 13631 2791 2483 416 55 10

-Năm 2004 7624 7608 17711 3846 3429 598 82 20

-Năm 2005 9555 9782 22897 4989 4923 776 98 29

Cty cổ phần

-Năm 2003 503 486 1724 479 532 123 11 14

-Năm 2004 852 910 3162 858 907 190 25 16

-Năm 2005 1376 1408 4761 1256 1348 319 59 24

Cty hợp

danh

-Năm 2003 5 - 7 2 2 1 - 1

-Năm 2004 9 2 5 1 3 1 - -

-Năm 2005 15 8 13 - 1 - - -

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

40

thống kê, Hà Nội.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Qua số liệu trên ta thấy, quy mô về vốn của các loại hình doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế tư nhân còn nhỏ, số doanh nghiệp có quy mô vốn lớn

chiếm tỷ lệ không cao, cụ thể đến thời điểm 31/12/2004 thì Doanh nghiệp tư

nhân có 52,59% doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng, 42,07% doanh

nghiệp có quy mô vốn từ 0,5 tỷ đến 1 tỷ, có 28,48% doanh nghiệp có quy mô

vốn từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ và 14,62% doanh nghiệp từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng, với

Công ty hợp danh thì những số liệu tương ứng là: 0,04; 0,01; 0,02, Công ty trách

nhiệm hữu hạn số liệu tương ứng là: 32,88; 46,99; 54,10 và 52,66, còn Công ty

cổ phần là: 3,67; 5,62; 9,66 và 11,75. Số lượng vốn đăng ký trong 4 năm (từ năm

2000 đến 7 tháng đầu năm 2003) gồm cả đăng ký mới và đăng ký bổ sung đạt

hơn 145,000 tỷ đồng (tương đương khoảng 9,5 tỷ USD, cao hơn số vốn đầu tư

nước ngoài đăng ký trong cùng thời kỳ). Trong đó năm 2000 là 1,3 tỷ USD, năm

2001 là 2,5 tỷ USD, năm 2002 là khoảng 2,8 tỷ USD, 7 tháng đầu năm 2003

khoảng 2,8 tỷ USD.

Trong năm 2004, số lượng vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp t-

ư nhân tăng khá nhanh, đạt 71,788 tỷ VNĐ, tăng 32,42% so với năm 2003. Bên

cạnh đó có gần 6.200 doanh nghiệp đăng ký bổ sung với tổng số vốn khoảng

23.200 tỷ VNĐ, tăng 31,1% so với năm 2003. Theo số liệu thống kê, tổng số

vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân năm 2005 đạt khoảng

103.500 tỷ VNĐ, tăng 44,17% so với năm 2004 và quý I năm 2006 đạt 29.063

tỷ VNĐ tăng 25% so với cùng kỳ năm 2005. Như vậy, giai đoạn 2001-2005, số

vốn đăng ký bình quân hàng năm khoảng 63.270 tỷ VNĐ và bình quân trên một

doanh nghiệp đạt khoảng 2,2 tỷ đồng tăng 3,87 lần so với giai đoạn 1991-1999.

Đến cuối năm 2005, theo số liệu thống kê cho thấy quy mô về vốn của

các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn rất nhỏ, dưới 0,5

tỷ đồng chiếm tỷ lệ nhiều nhất: Doanh nghiệp tư nhân là 12.693 doanh nghiệp;

41

Công ty trách nhiệm hữu hạn 9.555 doanh nghiệp; Công ty Cổ phần 1.376

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

doanh nghiệp và Công ty hợp danh 15 doanh nghiệp.

Mặc dù có sự gia tăng đáng kể như vậy nhưng nếu so sánh về mức vốn

đăng ký bình quân của 1 doanh nghiệp so với doanh nghiệp nhà nước là rất thấp

vì bình quân vốn của một doanh nghiệp nhà nước khoảng 18-20 tỷ đồng.

Về mặt kinh tế có thể thấy khá rõ sự khác biệt về hiệu quả kinh doanh

giữa các loại hình doanh nghiệp, trong đó Công ty cổ phần có hiệu quả sử dụng

vốn thấp hơn hai loại hình Doanh nghiệp tư nhân và Công ty trách nhiệm hữu

hạn, nguyên nhân của vấn đề này có lẽ xuất phát từ động lực của các loại hình

doanh nghiệp mang tính “tư nhân” cao hơn các doanh nghiệp mang tính “tập

thể” ở Việt Nam hiện nay. Động lực đó chi phối các hoạt động kinh doanh của

doanh nghiệp.

Bảng 2.7: Thực trạng lãi, lỗ của các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh

tế tƣ nhân (2003 - 2005)

Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ

Loại hình Số DN Tổng mức Lãi bình Số DN Tổng Lỗ bình

doanh nghiệp lãi quân 1DN mức lỗ quân 1DN

(Tỷ đồng) (triệu (Tỷ (triệu đồng)

đồng) đồng)

DNTN

- Năm 2003 20656 1332 65 4005 -264 -66

- Năm 2004 24446 1816 74 4079 -474 -116

- Năm 2005 26885 2081 77 5973 -658 -116

C.ty hợp danh

- Năm 2003 14 10 687 4 -5 -1151

- Năm 2004 9 0 25 10 -5 -506

42

- Năm 2005 16 1 37 17 -1 -82

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Doanh nghiệp có lãi Doanh nghiệp lỗ

Loại hình Số DN Tổng mức Lãi bình Số DN Tổng Lỗ bình

doanh nghiệp lãi quân 1DN mức lỗ quân 1DN

(Tỷ đồng) (triệu (Tỷ (triệu đồng)

đồng) đồng)

Cty TNHH

- Năm 2003 18607 3777 203 9092 -1265 -139

- Năm 2004 23719 5346 225 13684 -3131 -229

- Năm 2005 27875 5327 191 18380 -3560 -194

Cty Cổ Phần

- Năm 2003 2050 1308 638 1114 -269 -241

- Năm 2004 3372 2280 676 2241 -989 -441

- Năm 2005 5093 3506 688 3583 -849 -237

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Qua số liệu bảng 2.7 ta thấy hiệu quả kinh doanh giữa các loại hình

doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là rất khác nhau. Chỉ tính riêng

trong 3 năm từ năm 2003 đến 2005, tổng số doanh nghiệp hoạt động có lãi

nhiều nhất là loại hình Doanh nghiệp tư nhân (từ 20.656 năm 2003 và tiếp tục

tăng cao, đến năm 2005 là có 26885 Doanh nghiệp tư nhân hoạt động có lãi);

tiếp theo đó là loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn (năm 2003 là có 18607

doanh nghiệp ); sau đó mới đến loại hình Công ty cổ phần (năm 2005 mới có

5093 doanh nghiệp ). Một điều đáng lưu ý là năm 2003 tổng số doanh nghiệp

hoạt động có lãi ở Doanh nghiệp tư nhân lớn hơn ở Công ty trách nhiệm hữu

hạn nhưng đến năm 2005 đã có sự thay đổi, tính đến hết năm 2005 thì tổng số

doanh nghiệp hoạt động có lãi ở Công ty trách nhiệm hữu hạn lại lớn hơn ở 43 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Doanh nghiệp tư nhân. Số doanh nghiệp hoạt động thua lỗ tính đến hết năm

2005 thì Công ty trách nhiệm hữu hạn có nhiều doanh nghiệp hoạt động thua lỗ

nhất (18380 doanh nghiệp); tiếp đó là Doanh nghiệp tư nhân (5937 doanh

nghiệp); sau đó là Công ty cổ phần (3583 doanh nghiệp); cuối cùng là Công ty

hợp danh (17 doanh nghiệp).

* Quy mô về lao động

Lao động của khu vực kinh tế tư nhân tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn

nhất trong xã hội, tạo được nhiều việc làm trong xã hội, hàng năm tạo được

khoảng một triệu việc làm.

Đối với các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, lĩnh

vực đầu tư chủ yếu là dịch vụ, quy mô nhỏ và rất nhỏ. Do đó sức hút lao động

yếu. Theo số liệu điều tra đến 01/07/2002 thì số lao động làm việc cho khu vực

kinh tế tư nhân là 1.256.750 người, trong đó có 304.785 người làm việc cho

Doanh nghiệp tư nhân, chiếm 24,25% tổng lao động làm việc cho khu vực kinh

tế tư nhân, 722.187 người làm việc cho Công ty trách nhiệm hữu hạn, chiếm

57,46%, 229.778 người làm việc cho Công ty cổ phần, chiếm 18,29%. Như

vậy, số lao động làm việc cho Công ty trách nhiệm hữu hạn là lớn nhất.

Tỷ lệ này có sự thay đổi trong năm 2005, thể hiện ở bảng dưới đây:

Bảng 2.8: Số doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 phân theo quy

Dưới 5

5 - 9

10 – 49

50 - 199

200-299

300-499

500-999

Loại hình DN

người

người

người

người

người

người

Người

DNTN

12846

10963

9754

1254

74

63

32

CTy TNHH

8394

17769

20511

4673

511

366

11

Cty Cổ phần

1308

3152

4315

1386

141

121

86

11

21

3

2

-

-

227

Công ty hợp danh Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

44

mô lao động và phân theo loại hình doanh nghiệp.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

thống kê, Hà Nội.

Nhìn vào số liệu trên bảng 2.8 ta thấy quy mô lao động của các loại hình

doanh nghiệp trong khu vực kinh tế là nhỏ, số doanh nghiệp sử dụng lao động

dưới 50 người chiếm tỷ trọng cao, số doanh nghiệp sử dụng lao động ở mức

trên 200 lao động là rất thấp. Tại thời điểm 01/01/2004, khu vực kinh tế tư nhân

bình quân 1 doanh nghiệp chỉ có 31 lao động và 4 tỷ đồng tiền vốn, bằng 7,4%

về lao động và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp nhà nước và bằng 13% về lao

động và 2,4% về vốn so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Một điều đáng lưu ý là, hiện nay trong tổng số doanh nghiệp đăng ký

hoạt động theo Luật Doanh nghiệp thì có tới 96% là doanh nghiệp vừa và nhỏ

và hàng năm các doanh nghiệp này thu hút được khoảng 450.000 lao động với

thu nhập bình quân 1,5 triệu đồng một tháng. Đây là dấu hiệu đáng mừng trong

việc khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân.

2.1.3. Sự phân bổ các loại hính doanh nghiệp tư nhân theo lãnh thổ.

Trong quá trình phân tích sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp

tư nhân, để làm rõ nội dung, tác giả đã lấy số liệu thực tế phát triển các loại hình

doanh nghiệp tư nhân ở hai thành phố lớn (Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh)

phân tích.

2.1.3.1. Các loại hình doanh nghiệp tư nhân hoạt động trên địa bàn Hà Nội.

Tại Hà Nội tính chất và cơ chế hoạt động giữa các doanh nghiệp nhà n-

ước và doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp đầu tư nước ngoài và doanh

nghiệp đầu tư ra nước ngoài hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ gần

nhau hơn. Các doanh nghiệp ở Hà Nội ngày càng chuyển hướng mạnh sang

kinh doanh dịch vụ, sản xuất máy móc và hàng tiêu dùng chất lượng cao. Một

số doanh nghiệp tư nhân đầu đàn sẽ tăng cường liên kết và mở rộng sản xuất

45

trong lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

điện tử thông tin.

Kinh tế tư nhân ở Hà Nội bắt đầu được phục hồi và phát triển từ năm

1979, năm 1992 toàn thành phố có 464 doanh nghiệp nhưng đến 30/05/2003

trên địa bàn Hà Nội đã có 16.874 doanh nghiệp bao gồm các loại hình: Doanh

nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Công ty hợp

danh. Điều đó chứng tỏ trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn này, số lượng

các loại hình doanh nghiệp tư nhân tăng rất nhanh, theo số liệu của sở Kế hoạch

và Đầu tư Hà Nội, tổng số vốn đăng ký của các loại hình doanh nghiệp tư nhân

đến tháng 5/2003 là khoảng 23.000 tỷ đồng.

Theo Luật Doanh nghiệp năm 1999, các chủ doanh nghiệp của kinh tế

tư nhân có thể lựa chọn một trong bốn loại hình doanh nghiệp để hoạt động

kinh doanh: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ

Phần và Công ty hợp danh. Trong đó loại hình Công ty hợp danh thấy rất ít xuất

hiện trên thực tế, trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn 1992 - 2003, loại hình

Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 74%, Công ty cổ phần chiếm 15%, Doanh

nghiệp tư nhân chiếm 11% tổng số doanh nghiệp được cấp phép đăng ký kinh

doanh.

Theo số liệu thống kê các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã được cấp mã

số thuế của Cục thuế Thành phố Hà Nội, đến năm 2002, loại hình Doanh

nghiệp tư nhân chiếm 7,86%, Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 80,4% và

Công ty cổ phần chiếm 12,1%.

Bảng 2.9: Phát triển của doanh nghiệp tƣ nhân tại Hà Nội qua các con số

Đơn vị: Doanh nghiệp

Năm 2000 2001 2002 2003 2004

46

Loại hình DN Tổng số doanh nghiệp Công ty TNHH 2210 1790 3381 2541 4262 3022 5907 3796 20209 14662

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Công ty cổ phần DN t nhân Công ty thành viên 130 290 - 519 300 22 978 231 31 1813 264 34 3583 1877 87

Nguồn: Hiệp hội Công thương Thành phố Hà Nội

Qua phân tích cơ cấu kinh tế tư nhân theo loại hình doanh nghiệp trên địa

bàn Hà Nội, có thể rút ra vai trò của từng loại hình doanh nghiệp trong khu vực

kinh tế tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn đang giữ vị trí phổ biến và có vai

trò quan trọng nhất trong khối kinh tế tư nhân. Nếu so sánh lượng thuế đã nộp

với doanh thu của các loại hình doanh nghiệp trên địa bàn năm 2002 sẽ có kết

quả sau: Doanh nghiệp tư nhân chiếm 0,74% doanh thu, Công ty trách nhiệm

hữu hạn chiếm 0,33% doanh thu, Công ty cổ phần chiếm 1,53% doanh thu. Đến

năm 2003, theo số liệu điều tra 161 doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân

trên địa bàn Hà Nội do Đại học Kinh tế quốc dân tiến hành thì tỷ lệ thuế tính

trên tổng doanh thu của các loại hình doanh nghiệp như sau: Doanh nghiệp tư

nhân: 4,51%, Công ty trách nhiệm hữu hạn: 8,18%, Công ty cổ phần: 5,73%.

Qua phân tích trên có thể rút ra kết luận rằng các loại hình doanh nghiệp

tư nhân hoạt động trên địa bàn thành phố Hà Nội với tỷ lệ tương đối cao, tạo đà

cho sự phát triển cho kinh tế thủ đô thuận lợi hơn trong điều kiện hội nhập kinh

tế quốc tế.

2.1.3.2. Các loại hình doanh nghiệp tư nhận hoạt động trên địa bàn Thành phố

Hồ Chí Minh

Ở thành phố Hồ Chí Minh, quá trình chuyển dịch cơ cấu sở hữu các loại

hình doanh nghiệp đã trải qua nhiều bước thăng trầm, nhưng với đường lối đổi

mới nền kinh tế hiện nay đã và đang xuất hiện các nhân tố tích cực để khẳng

định xu hướng phát triển của nó.

Từ năm 1988 đến nay, nhất là sau khi Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật

Công ty được ban hành (1990), kinh tế ngoài quốc doanh, kinh tế tư nhân thành

phố Hồ Chí Minh phát triển với tốc độ năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng 47 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

trưởng GDP của khu vực kinh tế tư nhân các năm tăng lên, đặc biệt năm 1993

GDP của khu vực tư nhân tăng cao hơn mức tăng chung.

Vốn đầu tư của khu vực tư nhân tăng những năm qua ở mức độ cao. Tốc

độ tăng bình quân vốn đầu tư ở khu vực này từ 25% - 50%/năm, tốc độ tăng của

năm sau cao hơn năm trước. So với tổng thu trên địa bàn, thì phần thu từ khu

vực ngoài quốc doanh chỉ chiếm 29,6% tổng thu của Ngân sách địa phương.

Phân tích kỹ ta sẽ thấy rằng tuy có tăng về số tuyệt đối qua các năm, năm 1994

tăng so với năm 1991 là 20,4%, thuế doanh thu tăng từ 19% (1991) lên 24%

(1993) ngược lại thuế lợi tức lại giảm một cách đáng kể từ 42% (1991) còn 27%

(1993). Điều này thể hiện một mặt kinh tế tư nhân phát triển về quy mô nhưng

lại hạn chế về hiệu quả hoặc cố tình khai lợi tức thấp để chịu thuế ít hơn.

Các hình thức tổ chức kinh doanh của kinh tế tư nhân thành phố Hồ Chí

Minh bao gồm hình thức kinh tế cá thể gồm hộ cá thể và tiểu thủ công, hộ kinh

doanh cá thể, hình thức kinh tế tập thể gồm hợp tác xã, tổ sản xuất, nhóm kinh

doanh, hình thức kinh tế tư doanh gồm xí nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm

hữu hạn, Công ty cổ phần. Đây là hình thức phổ biến, hoạt động hiệu quả trong

khu vực kinh tế tư nhân thành phố Hồ Chí Minh, cuối cùng là hình thức xí

nghiệp liên doanh.

Trong tất cả các hình thức đó, loại hình doanh nghiệp, Công ty tư nhân,

đặc biệt là Công ty trách nhiệm hữu hạn tăng khá nhanh trong vài năm qua, sau

khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty (1990), đến cuối năm 1991 có

khoảng 300 đơn vị Doanh nghiệp tư nhân, Công ty tư nhân (Công ty trách

nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần), đến năm 1996 con số này lên đến 8.115 đơn

vị, năm 1999 là 13.082 đơn vị và đến tháng 6/2001 đã lên tới 21.912 đơn vị so

với số vốn đăng ký là 17.534 tỷ đồng, cứ mỗi năm ra đời từ trên 1.000 đến trên

2.000 đơn vị. Đặc biệt là sau khi áp dụng Luật Doanh nghiệp, năm 2000 có

48

5.499 đơn vị đăng ký thành lập mới và 6 tháng đầu năm 2001 đã có 3.331 đơn

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

vị đăng ký thành lập mới.

Tính đến tháng 6/2001, số Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm đa số có

12.964 đơn vị với 17.902 tỷ đồng vốn đăng ký, chiếm 59,16% về số lượng đơn

vị và 67,88% về số vốn đăng ký. Kế tiếp là Doanh nghiệp tư nhân có 8.299 đơn

vị và 12,72% về số vốn đăng ký. Số Công ty cổ phần có 649 đơn vị với số vốn

đăng ký là 3.402 tỷ đồng, chiếm 2,97% số lượng đơn vị và 19,4% về số vốn

đăng ký.

Nếu phân theo ngành sản xuất kinh doanh thì có tới 10.930 doanh

nghiệp, Công ty tư nhân hoạt động trong ngành thương mại, chiếm 49,88% số

lượng đơn vị thành lập, với 7.026 tỷ vốn đăng ký chiếm 40,07% tổng số vốn

đăng ký. Ngành chế biến công nghiệp có tới 3.107 doanh nghiệp, chiếm

14,18% số lượng đơn vị thành lập với 4.440 tỷ vốn đăng ký, chiếm 25,32%

tổng số vốn đăng ký. Ngành xây dựng có 1.775 đơn vị, chiếm 8,1% tổng số đơn

vị thuộc khu vực kinh tế tư nhân, với số vốn đăng ký là 3.072 tỷ đồng, chiếm

17,52% tổng số vốn đăng ký. Các ngành còn lại như nông, lâm nghiệp, vận tải

có 483 và 407 đơn vị hoạt động, chiếm 2,2% và 1,86%. Riêng ngành dịch vụ

khác trong đó có ngân hàng có 22 đơn vị, còn lại là dịch vụ khách sạn nhà hàng,

du lịch, vận tải, bất động sản… có tới 5.210 đơn vị chiếm 23,78% tổng các đơn

vị doanh nghiệp tư nhân và 10,07% tổng số vốn đăng ký. Tuy ngành ngân hàng

chỉ có 22 đơn vị, song nó chiếm 30% số đơn vị của ngành tài chính ngân hàng

hoạt động trên địa bàn.

Diễn biến của khối các doanh nghiệp tư nhân là tương đối tích cực được

biểu hiện thứ nhất là quy mô vốn bình quân tăng dần. Thứ hai là loại hình Công

ty trách nhiệm hữu hạn tăng cao hơn loại hình Doanh nghiệp tư nhân và Công

ty cổ phần đã tăng lên đáng kể trong vài năm gần đây đã có tỷ trọng vốn cao

hơn các Doanh nghiệp tư nhân do quy mô vốn gấp hơn nhiều lần. Tuy nhiên

49

hạn chế của khối doanh nghiệp tư nhân là tỷ lệ số đơn vị hoạt động trong ngành

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

sản xuất công nghiệp còn chiếm tỷ lệ thấp (chỉ chiếm 14,8% số lượng đơn vị và

25,32% tổng số vốn đăng ký)

Trên cơ sở phân tích những số liệu như trên cho thấy vai trò của các loại

hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đối với sự phát triển kinh tế

thành phố như sau:

Như trên đã trình bày, sau khi có Luật Doanh nghiệp, tính đến tháng 06/2001,

đã có gần 9.000 đơn vị doanh nghiệp, Công ty tư nhân đăng ký thành lập mới

theo Luật Doanh nghiệp, tuy nhiên việc tăng số lượng đơn vị doanh nghiệp tư

nhân đã có ít tác động đến tăng trưởng kinh tế ở khu vực kinh tế tư nhân. Tốc độ

tăng GDP bình quân của thành phố năm 2001 khoảng 9,5% trong đó GDP khu

vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng cao nhất, đạt 10,7%; khu vực ngoài quốc

doanh tăng 7,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 9,1%. GDP của khu

vực kinh tế tư nhân năm 2001 giảm so với năm 2000 (8%) và thấp hơn mức

bình quân. Kết quả này khác với một nhận định chung là “Luật Doanh nghiệp

đã tạo động lực mới cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân thể hiện bởi

số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng lên đột biến và kể từ khi kinh tế tư nhân

bắt đầu có hiệu lực”. Hiện tượng trên có thể giải thích là, mặc dù số lượng

doanh nghiệp đăng ký tăng lên nhưng vì mới thành lập nên một tỷ lệ lớn số

lượng doanh nghiệp vẫn đang trong giai đoạn xây dựng, đầu tư và chưa thực sự

đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh nên chưa thể đóng góp nhiều vào tổng sản

phẩm nội địa của thành phố.

2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến sự phát triển của các loại hình doanh

nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam

2.2.1. Định hướng phát triển kinh tế- xã hội

Đại hội Đảng VI (Tháng 12/1986) đã chỉ rõ xây dựng và phát triển đất

nước toàn diện trên mọi lĩnh vực trong đó lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm

50

với đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

trước hết là đổi mới tư duy với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng

sự thật, nói rõ sự thật. Đảng đã thừa nhận “sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế”,

thừa nhận các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải

tạo tốt trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa

nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nuớc ta còn tồn tại trong một thời gian

tương đối dài, với những nhận định và đánh giá đó, Đảng ta khẳng định nền

kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài.

Trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế Đảng và nhân dân ta quyết

tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa, con đường

đi lên của đất nước là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ

tư bản chủ nghĩa, tạo sự biến đổi về chất lượng của xã hội trên tất cả các lĩnh

vực.

Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính

sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế kinh

doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị tr-

ường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh

tranh lành mạnh. Chính định hướng này là yếu tố ảnh hưởng tích cực tạo điều

kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển.

Thực hiện định hướng phát triển chung, Nhà nước đã từng bước hoàn

thiện các thể chế kinh tế để các doanh nghiệp đi vào hoạt động dễ dàng hơn, nó

bao gồm các hợp đồng kinh tế, hợp đồng lao động, hợp đồng mua bán hàng

hoá, hợp đồng thuê đất.

Việc đổi mới tư duy về thành phần kinh tế là không dễ dàng, quan niệm

về ý nghĩa, vai trò và vị trí cũng hoàn toàn khác vì nó trái với ý thức hệ và tư

51

duy truyền thống

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Quá trình chuyển biến nhận thức về sự phát triển của khu vực kinh tế tư

nhân có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Ngoài chủ trương, đường lối quá trình đổi mới

trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân của nền kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ra, còn có thêm

yếu tố tâm lý xã hội đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc

khu vực kinh tế tư nhân

Đổi mới trong nhận thức và thống nhất chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân

trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều đổi mới

trong chính sách và cách nhìn nhận về vai trò của các loại hình doanh nghiệp

trong khu vực kinh tế tư nhân, thế nhưng chính những ảnh hưởng của chính

sách đó và sự kỳ thị của xã hội đối với kinh tế tư nhân làm cho các loại hình

doanh nghiệp tư nhân chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó. Vì thế trong

thời kỳ mới, chúng ta cần đổi mới tư duy, nhìn nhận vai trò to lớn của kinh tế t-

ư nhân đối với sự phát triển của kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước thống nhất

các quan điểm chỉ đạo phát triển kinh tế tư nhân và giữ vững định hướng xã hôị

chủ nghĩa trong việc tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát

triển.

Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc

dân và các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có vai trò to

lớn trong hệ thống doanh nghiệp của nền kinh tế Việt Nam. Phát triển kinh tế t-

ư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển kinh tế nhiều thành phần

định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ

trung tâm là phát triển kinh tế công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao nội lực

của đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế, mà các loại hình doanh nghiệp

52

trong khu vực kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng duy trì và khẳng định vị thế

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Vì thế cần cải thiện môi trường

kinh doanh tạo điều kiện thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp trong khu

vực kinh tế tư nhân phát triển.

Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật,

bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, khuyến khích hỗ trợ tạo

điều kiện thuận lợi và định hướng quản lý sự phát triển của kinh tế tư nhân theo

pháp luật, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.

Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý và tâm lý xã

hội để các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển rộng rãi trong những ngành

nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm, không hạn chế về quy mô,

nhất là trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, khuyến khích chuyển

thành Công ty cổ phần, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh, liên kêt với

nhau và kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước.

Bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng cả của người lao động và người sử

dụng lao động. Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người sử dụng lao động và

người lao động trên cơ sở pháp luật và tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái.

Chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh nghiệp nâng cao lòng yêu nước,

lòng tự hào dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các tổ chức chính

trị - xã hội và các hiệp hội doanh nghiệp đối với kinh tế tư nhân nói chung cũng

như trong từng doanh nghiệp, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục các chủ doanh

nghiệp, kinh doanh theo đúng pháp luật, có hiệu quả, tích cực đóng góp hợp lý

vào các hoạt động xã hội.

Cải thiện môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực kinh tế tư nhân.

Môi trường tâm lý phụ thuộc vào cả hai yếu tố: xã hội và bản thân cơ sở

53

kinh doanh. Về phía xã hội nếu giải quyết được những vấn đề nhận thức về

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

thành phần kinh tế và giai cấp, về trách nhiệm của môi trường trong phát triển

kinh tế tư nhân thì tâm lý xã hội sẽ được giải tỏa, niềm tin của doanh nhân sẽ

được nâng cao và đầu tư phát triển cũng như hậu quả của nó đối với xã hội sẽ

có những thay đổi đột biến.

Về phía các doanh nhân và cơ sở sản xuất cũng cần phát huy nội lực của

mình. Song trong phạm vi về vấn đề tâm lý cần thấy rõ bản thân doanh nghiệp

và vấn đề tâm lý xã hội đối với các loại hình doanh nghiệp tư nhân nói chung và

tâm lý người lao động đối với doanh nhân và doanh nghiệp nói riêng cùng với

yếu tố tự giác của doanh nghiệp và doanh nhân cần có sự can thiệp của bên

ngoài. Nhà nước cần can thiệp buộc các thành viên của khu vực này phải

nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ đối với người lao động dựa trên các đạo

luật cụ thể.

Cải thiện được môi trường tâm lý, xã hội một cách có hiệu quả, cần thiết

phải có sự nhận thức mới về doanh nhân và đổi mới quan điểm về kinh doanh

trong điều kiện hiện nay. Trong cơ chế thị trường, đội ngũ doanh nhân dần lớn

mạnh và giữ vai trò chủ động trên thị trường. Do vậy các doanh nhân cần được

quý trọng và tôn vinh bởi không có doanh nhân giỏi thì không có thị trường

lành mạnh và nền kinh tế phát triển. Mặt khác họ là những người đi đầu trong

việc khai phá thị trường, dám chấp nhận rủi ro và dũng cảm trong kinh doanh.

Vì thế cần có những quan điểm đúng đắn về vị trí vai trò của doanh nhân. Việc

biểu dương những doanh nhân vi phạm pháp luật, thiếu đạo đức kinh doanh đặc

biệt xây dựng hình tượng doanh nhân Việt Nam đúng như diện mạo chung của

họ hẳn sẽ góp phần tạo cho xã hội một cách nhìn nhận đúng đắn và thiện cảm

hơn.

Về phía các doanh nhân phải làm ăn có kế hoạch, chiến lược phát triển cụ

thể và phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước,

54

không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng, đảm bảo uy tín trong kinh

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

doanh, xây dựng triết lý kinh doanh kết hợp với hành động thực tế… để cải

thiện hình ảnh của mình và củng cố lòng tin của các tổ chức tín dụng, các cơ

quan Nhà nước và công chúng. Đầu tư thích đáng cho việc xây dựng văn hoá

doanh nghiệp tức là chuẩn mực về hành vi ứng xử thích hợp của các thành viên

trong doanh nghiệp, các chiến lược mục tiêu, triết lý kinh doanh, niềm tin, đạo

đức kinh doanh.

Cần nhận thức đúng đắn về việc kinh doanh làm giàu của doanh nghiệp.

Lợi nhuận mà chủ doanh nghiệp thu được không chỉ gồm phần thu về theo tài

sản và vốn mà người chủ bỏ ra kinh doanh mà còn bao gồm cả phần thù lao cho

lao động quản lý là lao động phức tạp đòi hỏi sự tích luỹ chất xám và cường độ

tư duy cao bởi hàng hoá sản xuất ra phải có đủ sức cạnh tranh. Mặt khác, hoạt

động của doanh nghiệp còn phải đối mặt với nhiều rủi ro cần phải bù đắp. Vì

vậy, việc kinh doanh làm giàu của doanh nghiệp hoàn toàn chính đáng và

doanh nhân phải được trả công thoả đáng trong hoạt động kinh doanh đó.

Vì tất cả những lý do trên nên việc cải thiện môi trường tâm lý xã hội cho

khu vực tư nhân nên bắt đầu từ cải thiện trong quan điểm và nhận thức.

2.2.2: Môi truờng pháp lý

Để tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển nói

riêng và các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nói chung,

Nhà nước đã xây dựng luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Đây chính là

môi trường pháp lý thuận lợi ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại hình

doanh nghiệp.

Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã chú trọng xây

dựng khung khổ pháp lý, hoàn chỉnh dần, tạo điều kiện thụân lợi khuyến khích

khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, đồng nghĩa các loại hình trong khu

vực kinh tế này cũng có điều kiện phát triển và có hiệu quả hơn theo những quy

55

định của pháp luật: bảo đảm sự hợp tác và cạnh tranh bình đẳng, cùng phát triển

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

lâu dài giữa các thành phần kinh tế, không phân biệt đối xử, bảo hộ quyền lợi

pháp luật của doanh nghiệp, thực hiện tốt nghĩa vụ trong kinh doanh, phát huy

nội lực và thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài để đầu tư phát triển sản xuất

kinh doanh.

Cụ thể hoá một bước quan trọng tư tưởng cơ bản này, Nghị quyết Hội

nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khoá 9 đã khẳng định: chính sách phát triển

nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ

sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và thể hiện tinh thần dân chủ về

kinh tế. Theo tinh thần này tư nhân được phép kinh doanh không hạn chế về quy

mô địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.

Luật Doanh nghiệp năm 2000 thay cho Luật Doanh nghiệp tư nhân và

Luật Công ty đã đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân và các

doanh nghiệp tư nhân. Luật Doanh nghiệp cùng với các luật, bộ luật khác như:

bộ luật dân sự, luật phá sản doanh nghiệp, luật thương mại, luật hải quan, bộ

luật lao động …và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đã tạo nên một khung

pháp lý thông thoáng, thuận lợi hơn, tiếp tục tạo môi trường sản xuất kinh

doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp.

Sau 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hình thành rõ

chủ trương về phát triển các loại hình doanh nghiệp tư nhân với tư tưởng chủ

đạo là:

- Cùng với việc thừa nhận vai trò, sự bình đẳng của kinh tế tư nhân trong

nền kinh tế nhiều thành phần, Nhà nước tạo điều kiện và hỗ trợ cho kinh tế tư

nhân phát triển. Việc tạo môi trường và điều kiện thuận lợi trên tất cả các

phương diện thể chế, cơ chế tâm lý xã hội và các chính sách (đất đai, tài chính-

tín dụng, lao động và tiền lương). Hỗ trợ về đào tạo khoa học công nghệ, thông

tin xúc tiến thuơng mại. Nghị quyết TW 9 khoá IX yêu cầu “tiếp tục tháo gỡ

56

những vướng mắc và có chính sách hỗ trợ về mặt bằng sản xuất kinh doanh,

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

tiếp cận nguồn vốn tín dụng, chuyển giao công nghệ mới, tiếp cận và mở rộng

thị trường, đào tạo nguồn nhân lực. để phát triển mạnh và có hiệu quả hơn nữa

kinh tế tư nhân, kể cả doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn, chú trọng giúp đỡ

doanh nghiệp nhỏ và vừa”

- Tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ, nhưng không bao cấp, không theo cơ chế

“xin - cho” tránh lợi dụng việc này để làm thất thoát vốn của Nhà nước, gây rối

loạn cơ chế quản lý, tiếp tay cho tiêu cực.

- Phát triển đi đôi với quản lý.

- Theo đà phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, Nhà nước bổ

sung hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hỗ trợ và quản lý loại hình kinh

tế này, ví dụ hiện nay có nhiều ý kiến cho rằng đã đến lúc cần xây dựng bộ luật

doanh nghiệp chung cho cả doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Điều này cho thấy các loại hình doanh nghiệp tư nhân được bình đẳng

phát triển cùng với các loại hình doanh nghiệp khác trong môi trường pháp lý

thuận lợi.

Từ những năm 90 trở lại đây, hệ thống luật pháp của Việt Nam đã được

hoàn thiện, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước ban hành rất nhiều các đạo

luật và chính sách khác nhau để tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp

trong các khu vực kinh tế phát triển. Đó là yếu tố thuận lợi, nhờ đó các loại hình

doanh nghiệp tư nhân cũng phát triển rất nhiều.

Nhưng mặt trái của vấn đền này thì lại khác, sự gia tăng về số lượng

doanh nghiệp và chất lượng doanh nghiệp nó không tương đồng với nhau,

chính vì cơ chế thoáng, chính sách thuận lợi khiến cho số doanh nghiệp đăng ký

kinh doanh tăng vọt, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân vì yêu cầu trong thủ

tục đăng ký kinh doanh cho các loại hình hiện nay không còn rườm rà như

57

trước mà thủ tục lại rất gọn nhẹ. Chính điều này khiến cho sự quản lý của các cơ

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

quan chức năng rất khó khăn và số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh cứ

tăng lên theo các năm, trong khi thực tế số doanh nghiệp hoạt động sản xuất

kinh doanh không phải là con số đó. Hay nói cách khác số doanh nghiệp tư

nhân “ma” tăng lên rất nhiều, đặc biệt trong những năm gần đây.

Sự hoàn thiện luật đầu tư cũng là yếu tố quan trọng tác động đến sự phát

triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân, kể từ Đại hội Đảng VI

(T12/1986)- từ khi nền kinh tế chuyển từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh

tế thị trường, quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển, từ đó Luật Đầu tư của Việt

Nam ta ngày một hoàn thiện hơn tạo điều kiện phát triển và mở rộng thị trường,

các tổ chức, doanh nghiệp có môi trường đầu tư thuận lợi hơn. Từ đó các loại

hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng

lẫn quy mô vốn, lao động, đặc biệt là trình độ công nghệ và trình độ quản lý.

2.2.3. Môi trường kinh tế .

2.2.3.1 Cơ sở hạ tầng kinh tế

Bao gồm điện, nước, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, đây là yếu tố

quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của tất cả các loại hình doanh nghiệp,

trong đó có doanh nghiệp tư nhân, nếu cơ sở hạ tầng thấp không xứng với nhu

cầu phát trển của các doanh nghiệp thì sẽ kìm hãm nó phát triển, còn cơ sở hạ

tầng mà phát triển không những sẽ tạo điều kiện thuận lợi mà còn thúc đẩy cho

doanh nghiệp phát triển. Điện, nước là yếu tố để cung cấp cho hoạt động sản

xuất của các doanh nghiệp, giao thông vận tải là nơi vận chuyển hàng hóa hiệu

quả nhất giúp lưu thông hàng hoá thuận tiện hơn. Và điều không thể thiếu trong

thời đại kinh tế thị trường đó là thông tin liên lạc nó sẽ giúp các chủ doanh

nghiệp tư nhân nắm bắt tìm hiểu thị trường và đối tác một cách nhanh nhất để

đưa ra các quyết định sản xuất kinh doanh phù hợp nhất.

2.2.3.2. Thị trường các yếu tố sản xuất

58

Thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm vốn, lao động, đất đai, công

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nghệ. Đây là các yếu tố quan trọng nhất quyết định trực tiếp tới quá trình sản

xuất kinh doanh cũng như sự tồn tại của các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các

loại hình doanh nghiệp tư nhân thì các yếu tố này là hết sức quan trọng, khi mới

thành lập và bước vào sản xuất kinh doanh đều cần phải có các yếu tố này.

Trong các yếu tố trên thì vốn là quan trọng nhất, nó quyết định sự tồn tại

và phát triển của doanh nghiệp, có vốn đồng nghĩa với việc có tất cả các yếu tố

khác từ việc thuê lao động đến việc mua trang thiết bị máy móc phục vụ cho sản

xuất kinh doanh, tiếp cận công nghệ… Một yếu tố quan trọng không thể thiếu

nữa đó là lao động, bởi lẽ chủ doanh nghiệp có giỏi đến đâu hay nhiều vốn đi

chăng nữa mà không có đội ngũ lao động phù hợp thì không thể thành công

được. Ngoài ra còn kể đến các yếu tố như đất đai, công nghệ …nó sẽ giúp

doanh nghiệp có được mặt bằng sản xuất kinh doanh ổn định, phù hợp và với

công nghệ được ứng dụng trong sản xuất sẽ đa dạng các loại hình sản xuất,

chuyên môn hoá trong sản xuất.

Đồng thời, hiện nay ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa thị trường chứng khoán đang hình thành và phát triển, tuy thị

trường này vẫn còn sơ khai nhưng cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát

triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là

loại hình công ty cổ phần. Đây là một xu thế thuận lợi và hợp lý trong định

hướng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam ta.

2.2.3.3. Thị truờng tiêu thụ sản phẩm

Các mặt hàng loại hình sản phẩm được doanh nghiệp tư nhân sản xuất là

tương đối đa dạng. Song nếu chỉ tập trung làm sao có được các yếu tố sản xuất

phù hợp tạo được khối lượng sản phẩm lớn mà không chú ý đến thị trường tiêu

thụ sản phẩm, sản phẩm tồn đọng thì mọi việc làm trên đều vô nghĩa vì thế thị

trường tiêu thụ sản phẩm cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các

59

loại hình doanh nghiệp tư nhân.Thị trường tiêu thụ sản phẩm do quy mô dân số,

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

sở thích người tiêu dùng... quy định. Nếu dân số đông, sức tiêu dùng lớn thì sản

phẩm doanh nghiệp sản xuất ra sẽ được tiêu thụ mạnh hơn so với dân số ít,

ngoài ra còn phải kể đến sở thích của người tiêu dùng nữa nếu sở thích của

người tiêu dùng có xu hướng thích một số mặt hàng nào đó thì mặt hàng đó sẽ

bán chạy hơn và ngược lại chính điều này cũng ảnh hưởng đến việc sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân vì mục tiêu của họ là sản xuất để bán

hàng và thu lợi nhuận.

2.2.3.4. Sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

Ngoài các yếu tố chủ quan trên thì yếu tố khách quan không thể tránh

khỏi là sự tồn tại cùng phát triển của các loại hình doanh nghiệp khác cũng như

doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chính sự phát

triển song song của nhiều loại hình doanh nghiệp, đã một mặt tạo ra những tác

động tích cực như chính sự phát triển song song của các loại hình doanh nghiệp

này khiến các doanh nghiệp tư nhân muốn tồn tại thì phải có sự cạnh tranh, phải

luôn cố gắng biến đổi mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm; nhưng cũng

có những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc khu

vực kinh tế tư nhân. Chẳng hạn, các doanh nghiệp tư nhân sẽ khó khăn hơn

trong sản xuất kinh doanh buôn bán những mặt hàng mà các doanh nghiệp khác

cùng kinh doanh do các doanh nghiệp khác có quy mô lớn hơn và có nhiều điều

kiện thuận lợi hơn.

2.2.3.5. Một số yếu tố khác:

* Truyền thống sản xuất kinh doanh

Đây có thể nói là yếu tố tích cực ảnh hưởng đến sự phát triển của các loại

hình doanh nghiệp tư nhân. ở Việt Nam truyền thống sản xuất kinh doanh đã có

từ lâu đời và được kế thừa như truyền thống sản xuất nông nghiệp, có nhiều

kinh nghiệm về làm nông nghiệp đạt năng suất cao, có nhiều làng nghề truyền

60

thống hiện nay vẫn tồn tại và phát triển với quy mô phù hợp tình hình kinh tế

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

hiện nay. Ngoài ra một truyền thống quý báu của Việt Nam là sự cần cù, chịu

khó biết vượt qua khó khăn- chính yếu tố này sẽ giúp cho các doanh nghiệp tư

nhân có thể thu hút được đội ngũ lao động phù hợp với doanh nghiệp.

* Đặc điểm của môi trường tự nhiên

Môi trường tự nhiên cũng ảnh hưởng đến sự phát triển của doanh nghiệp

tư nhân, nếu đất nước mà có điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên

phong phú sẽ giúp cho các doanh nghiệp phát triển thuận lợi hơn nhiều so với ở

đất nước có khí hậu khắc nghiệt và nguồn tài nguyên không nhiều. Việt Nam là

một trong những nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi và tài nguyên thiên nhiên

phong phú nên có thể phát triển nhiều loại hình sản phẩm, đáp ứng yêu cầu

trong và ngoài nước.

* Quá trình đô thị hoá

Hiện nay, quy mô và mức độ đô thị hoá càng lớn và không thể tiếp tục

dựa vào đầu tư của Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước. Điều này là cơ hội

thúc đẩy đổi mới kinh tế định hướng thị trường với quy mô và cường độ lớn

hơn. Trong đó có sự thức đẩy và tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân

chính thức, hiện đại.

Nhờ có quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ khiến cho số lượng các

doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân tăng mạnh, đặc biệt ở các thành

phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh…

* Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam ta trong thời gian qua diễn ra

rõ rệt, một số ngành nghề, một số lĩnh vực được ưu tiên phát triển và một số

ngành nghề, lĩnh vực không được ưu tiên; quá trình này cũng là một nhân tố

ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp trong khu

vực kinh tế tư nhân. Lĩnh vực thu hút các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế t-

61

ư nhân nhiều nhất là thương mại, công nghiệp và dịch vụ. Những ngành nghề

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

này các doanh nghiệp có quy mô vốn và lao động ít sẽ thuận lợi trong kinh

doanh để có thể thu hút vốn nhanh nhất và lợi thuận vẫn cao. Những ngành

nghề mà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển lại là những

ngành nghề phù hợp với sự lựa chọn cho phát triển kinh tế thị trường định h-

ướng xã hội chủ nghĩa vì thế đây là nhân tố tích cực cho doanh nghiệp trong

khu vực kinh tế tư nhân phát triển.

2.3. Đánh gía chung

2.3.1. Những mặt mạnh trong phát triển các loại hính doanh nghiệp thuộc khu

vực kinh tế tư nhân.

Qua phân tích vai trò, quy mô cơ cấu của các loại hình doanh nghiệp tư

nhân ở Việt Nam cho ta thấy trong quá trình phát triển các loại hình doanh

nghiệp này có những mặt tích cực của nó.

* Cơ cấu loại hình doanh nghiệp ngày càng đa dạng, phong phú thích ứng

với trình độ quản lý và năng lực tài chính của doanh nghiệp.

Đây là mặt mạnh tích cực của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực

kinh tế tư nhân vì với đặc tính về quy mô vốn, lao động …. các loại hình doanh

nghiệp này phát triển rất đa dạng thuận lợi do cơ chế hiện nay vì thế trình độ

quản lý của chủ doanh nghiệp cũng không cần đòi hỏi quá cao theo quy chuẩn

nào đôi khi chủ doanh nghiệp không qua đào tạo hoặc đào tạo không chính quy.

Đồng thời năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng thể hiện điều này, một

doanh nghiệp thành lập mới trong khu vực kinh tế tư nhân yêu cầu số lượng vốn

ban đầu không quá cao, lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh đơn giản, gọn nhẹ,

thu hồi vốn nhanh và lợi nhuận cao. Những lý do trên cho thấy mặt mạnh của

các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là rất phong phú và đa

dạng.

62

* Tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực, kinh tế tư nhân đều

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trên tất cả các mặt.

Đây có thể nói là một đóng góp to lớn của các loại hình doanh nghiệp

trong khu vực kinh tế tư nhân không thể phủ nhận đặc biệt từ những năm 90 trở

lại đây vai trò đó ngày càng thể hiện rõ. Các loại hình doanh nghiệp trong khu

vực kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ nhanh, trên nhiều mặt, mọi lĩnh vực và

ở nhiều nơi vì thế nó có vai trò to lớn và đóng góp trên nhiều mặt: nâng cao hiệu

quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp nói chung, tạo công ăn

việc làm, huy động nguồn lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, thúc đẩy

quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao

năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường... Từ những

mặt mạnh đó mà các loại hình doanh nghiệp tư nhân có được lại là điều kiện

thuận lợi tác động trở lại cho nó có được động lực mới để phát triển trong điều

kiện hội nhập.

* Hiện nay các doanh nghiệp thuộc những loại hình có nhiều ưu thế ngày

càng tăng.

Đây là xu hướng phát triển tích cực và cũng do định hướng phát triển

kinh tế của đất nước theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện

tại tuy Công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm phần lớn và tăng nhanh những năm

qua nhưng xu thế tương lai gần các loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu thế như

Công ty cổ phần có xu hướng gia tăng. Công ty cổ phần là loại hình doanh

nghiệp có ưu thế hơn hẳn các loại hình doanh nghiệp còn lại trong khu vực về

khả năng huy động vốn và phân tán rủi ro... hiện nay chủ trương của Chính phủ

thực hiện quá trình cổ phần hoá để tạo điều kiện cho loại hình này ngày càng

phát triển hơn, chiếm tỷ lệ cao hơn trong khu vực.

* Sự hợp tác liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp trong khu vực tuy

63

chưa mạnh nhưng đang hình thành.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Trong vấn đề này từ trước với mọi người đều tiềm thức rằng giữa các loại

hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân thường không có sự liên kết

với nhau, mạnh ai nấy thắng, các chủ doanh nghiệp mục đích cuối cùng cũng

chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Nhưng hiện nay, vấn đề này lại khác nó đi theo xu

hướng ngược lại, tuy sự liên kết giữa các doanh nghiệp chưa rõ ràng, mối liên

kết chưa sâu, chưa diễn ra mạnh mẽ nhưng sự liên kết đang hình thành và ngày

một sâu sắc. Sau khi sự liên kết hình thành sẽ dẫn đến một loạt những vấn đề

tích cực là yếu tố thúc đẩy cho các loại hình doanh nghiệp cùng phát triển, liên

kết bền chặt, từ đó các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau lành mạnh hơn

2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân.

* Tuy các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân này đã tăng

nhanh trong thời gian qua nhưng chỉ tập trung vào loại hình là Doanh nghiệp tư

nhân và Công ty trách nhiệm hữu hạn, đặc biệt là Công ty trách nhiệm hữu hạn.

Nguyên nhân là do Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình công ty rễ thành

lập, hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi, đồng thời yêu cầu về năng lực

quản lý và vốn của chủ doanh nghiệp phù hợp với điều kiện nền kinh tế nước ta

hiện nay. Nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn lại là loại hình ý thức chấp hành

pháp luật chưa cao, mức đóng thuế chưa tương xứng với năng lực của doanh

nghiệp

Qua xem xét cơ cấu của kinh tế tư nhân theo loại hình doanh nghiệp,

thông qua phân tích tỷ trọng về số lượng doanh nghiệp trong từng loại hình,

phân tích tỷ trọng trong doanh thu tại gia của từng loại hình đã cho thấy vai trò

quan trọng của Công ty trách nhiệm hữu hạn xét riêng trong khu vực kinh tế tư

nhân. Nhìn về xu thế tương lai gần, vai trò đó vẫn sẽ còn gia tăng. Tuy nhiên,

khi phân tích xâu chuỗi vai trò của loại hình doanh nghiệp trong đó việc tạo ra

64

doanh thu với mức thuế của chúng đã đóng góp, lại cho thấy loại hình Công ty

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

trách nhiệm hữu hạn chưa đóng thuế tương ứng với năng lực của nó. Trong

cùng loại hình doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường có ý thức

chấp hành pháp luật về thuế cao hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Điều

này một lần nữa minh chứng cho chủ trương lâu dài nên khuyến khích các loại

hình Công ty cổ phần phát triển, do ưu thế và quy mô của chúng sẽ kéo theo

một loạt các ưu thế khác so với các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm

65

hữu hạn và Công ty hợp danh.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng 2.10: Thuế và các khoản nộp ngân sách của các doanh nghiệp trong

khu vực kinh tế tƣ nhân.

Đơn vị: Tỷ đồng

Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005

Năm Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và Thuế và

các các các các các khoản các

khoản khoản đã khoản khoản đã phát sinh khoản đã

phát sinh nộp phát sinh nộp phải nộp nộp

phải nộp trong phải nộp trong trong năm trong

Loại hình DN trong năm năm trong năm

năm năm

DN tư nhân 2349,2 2133,6 2519,3 2845,9 3399,1 3415,1

Cty TNHH 10326,4 10064,6 13426,8 13792,7 15735,0 15701,3

Cty cổ phần 2191,9 1609,7 2821,8 2835,8 6181,1 5598,6

Cty hợp danh 36,9 64,2 2,9 4,5 1,7 2,0

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

thống kê, Hà Nội.

Phân tích một số chỉ tiêu tài chính bình quân của kinh tế tư nhân theo loại

hình doanh nghiệp cũng cho thấy loại hình Doanh nghiệp tư nhân có tổng giá trị

tài sản nhỏ nhất, cao hơn là loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn, và cao nhất

là Công ty cổ phần. Đó cũng là lý do phần nào lý giải cần phải ưu tiên phát triển

Công ty cổ phần trong chính sách của Đảng và Nhà nước.

Loại hình có nhiều ưu thế như Công ty cổ phần phát triển chậm và chưa

phát huy hiệu quả do quá trình cổ phần hoá còn chậm, quy mô lớn.

Như đã phân tích ở trên, do tâm lý xã hội, thành kiến đối với các loại hình

doanh nghiệp tư nhân, đồng thời do công chúng vẫn còn e ngại với các loại hình 66 Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

doanh nghiệp mang tính tập thể nên hiện nay trong khu vực kinh tế tư nhân thì

loại hình Công ty cổ phần chưa phát triển đúng tầm quan trọng khi nó có nhiều

ưu thế hơn hẳn so với Công ty trách nhiệm hữu hạn và Doanh nghiệp tư nhân.

Vì thế trong giai đoạn tới để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá, xây dựng

chủ nghĩa xã hội cần tạo điều kiện, định hướng cho Công ty cổ phần phát triển.

* Năng lực của người lao động trong hầu hết các loại hình doanh nghiệp trong

khu vực kinh tế tư nhân còn thấp do quy mô nhỏ, manh mún, mang nặng tính t-

ư nhân.

Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì trình

độ của người lao động cũng như chủ doanh nghiệp chưa đồng đều giữa các loại

hình, ở Công ty cổ phần hay ở những doanh nghiệp có quy mô lớn thì trình độ

tương đối đáp ứng yêu cầu nhưng ở các loại hình có quy mô nhỏ như Công ty

trách nhiệm hữu hạn và Doanh nghiệp tư nhân thì trình độ của lao động rất yếu

cả năng lực chuyên môn lẫn ý thức chấp hành pháp luật

Mặc dù lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân

chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lao động xã hội và gia tăng nhanh chóng trong

những năm gần đây, nhưng chất lượng của nguồn nhân lực còn thấp và chưa

được cải thiện đáng kể. Nhìn chung các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn

thiếu những lao động có trình độ chuyên môn cao, thiếu đội ngũ công nhân lành

nghề.

Theo kết quả điều tra, trình độ học vấn của lao động trong các doanh

nghiệp tư nhân rất thấp, phần lớn lao động đang làm việc trong các doanh

nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân và lao động phổ thông. Những lao động

này hầu như chưa qua đào tạo, trình độ kỹ năng lao động còn thiếu. Trong

1.475.716 lao động thì có 1.097.598 (chiếm 74,4%) là lao động có trình độ

chuyên môn kỹ thuật. Số lao động có chuyên môn là 369.118, chiếm 25,3%,

67

trong đó chỉ có 92.042 lao động có trình độ Cao đẳng, Đại học chiếm 6,18%

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

tổng lao động trong khu vực kinh tế tư nhân.

Bản thân các chủ doanh nghiệp cũng thiếu trình độ, kiến thức. Về cơ bản

đội ngũ này mới được hình thành trong những năm 90.Vì vậy họ còn thiếu kinh

nghiệm về nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị

trường. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học trở lên chiếm tỷ lệ thấp, ở Công

ty trách nhiệm hữu hạn là 8,6%, Công ty cổ phần là 1,3%, Doanh nghiệp tư

nhân là 1,9%, trong khi đó chủ doanh nghiệp không có bằng cấp là 84,6% ở

Doanh nghiệp tư nhân, ở Công ty cổ phần là 93,6%, Công ty trách nhiệm hữu

hạn là 78%, quy mô của các doanh nghiệp tư nhân còn nhỏ nên nguồn vốn đầu

tư đào tạo chuyên môn đầu tư cho người lao động còn thấp. Hầu hết các loại

hình doanh nghiệp tư nhân không đủ kinh phí để đầu tư nâng cao trình độ

chuyên môn cho người lao động .

Hơn nữa, đầu tư cho nhân lực là đầu tư dài hạn không mang lại lợi ích một

cách trực tiếp cho doanh nghiệp trong ngắn hạn. Điều này càng không khuyến

68

khích các loại hình doanh nghiệp tư nhân đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Bảng 2.11: Trình độ của đội ngũ chủ doanh nghiệp tƣ nhân

Đơn vị: (%)

Các tiêu chí DNTN Công ty Công ty Doanh Loại

Cổ phần TNHH nghiệp hình

liên doanh khác

Chia theo trình độ

chuyên môn

Chứng chỉ đào tạo 1,64 0,00 0,75 1,28 24,32

2,86 Sơ cấp 4,49 3,98 0,00 18,92

21,35 Trung cấp 3,21 35,23 30,56 71,43

6,06 Cao đẳng 12,17 2,76 0,00 5,71

63,55 Kỹ sư 58,26 51,72 58,23 17,14

1,45 Thạc sỹ 2,61 0,00 9,27 0,00

0,45 Tiến sỹ 1,74 0,00 2,78 0,00

Chia theo trình độ

ngoại ngữ

Trình độ ngoại ngữ A 94,51 91,30 94,48 98,57

Trình độ ngoại ngữ B 9,92 15,65 13,10 1,43

Trình độ ngoại ngữ C 6, 24 20, 00 7,59 0,00

Trình độ ngoại ngữ D 1,62 11,30 0,00 0,00

87,83 Chia theo trình độ tin 80,17 86,90 29,17 91,43

học

Biết sử dụng thành thạo 19,83 13,10 12,17 70,83 8,57

Nguồn: Tổng cục thống kê (2006). Niên giám thống kê (2005). Nhà xuất bản

69

thống kê, Hà Nội.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, chính sách lao động ở nước ta đã có

bước chuyển biến cơ bản, từ chế độ lao động theo biên chế Nhà nước sang hợp

đồng lao động dựa trên cung- cầu của thị trường. Nhà nước tạo lập khuôn khổ

pháp lý cho việc sử dụng lao động nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao

động, quy định trách nhiệm và nghĩa vụ của người lao động.

Mặc dù vậy, chính sách đào tạo nguồn nhân lực đối với khu vực tư nhân

còn có những hạn chế:

- Chưa có biện pháp cụ thể và thiết thực hỗ trợ cho các trong việc đào tạo

chủ doanh nghiệp và đào tạo tay nghề, phần lớn các doanh nghiệp phải tự đào

tạo.

- Việc tiếp cận các dịch vụ đào tạo nguồn nhân lực do Nhà nước cung cấp

có nhiều hạn chế, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hầu như

không được hưởng các chính sách đào tạo từ nguồn Ngân sách. Nhà nước chưa

có những chính sách và biện pháp phù hợp để khuyến khích và hỗ trợ các doanh

nghiệp tự đào tạo như miễn giảm đối với các chi phí đào tạo của các doanh

nghiệp, hỗ trợ thành lập các trung tâm đào tạo nghề.

Trên thực tế, năm 2005 lực lượng lao động chiếm khoảng 59% dân số, chỉ

dưới 20% lực lượng lao động được đào tạo, khoảng 56% công nhân không có

kỹ thuật hoặc kỹ thuật thấp, tình trạng ở nông thôn: 70% lao động làm việc ở

các vùng nông thôn nhưng chỉ 10% trong số họ được đào tạo.

Nền giáo dục của Việt Nam chưa hướng vào nhu cầu của kinh doanh

thương mại, đào tạo kỹ thuật của Việt Nam chủ yếu thuộc trách nhiệm của các

trường quốc lập và các trường cao đẳng, trung cấp kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu

đào tạo của các doanh nghiệp nhà nước. Chính phủ đang giảm dần sự hỗ trợ cho

một số lượng lớn các trung tâm đào tạo chuyên ngành trên toàn đất nước, song

thiết bị đào tạo của các trung tâm thì lại lạc hậu và cũ kỹ.

70

Mặt khác, chương trình đào tạo hiện nay đại đa số các trường dạy nghề,

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

các trung tâm đào tạo công nhân kỹ thuật không thể đáp ứng nhu cầu của các

doanh nghiệp bởi vì nó quá tập trung vào lý thuyết mà yếu thực hành. Nội dung

đào tạo cũ kỹ không theo kịp những yêu cầu của thực tiễn. Đó là hạn chế các

loại hình doanh nghiệp tư nhân về trình độ và năng lực của người lao động. Đây

là vấn đề lớn quan trọng yêu cầu cần có giải pháp kịp thời giúp cho các doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân ngày càng phát triển vững mạnh hơn .

* Phân bổ không đồng đều, hầu hết các doanh nghiệp trong khu vực kinh

tế tư nhân sản xuất tập trung ở các thành phố lớn nơi có cơ sở hạ tầng, vật chất

và giao thông thuận tiện xét về phương diện địa lý lãnh thổ, các loại hình doanh

nghiệp tư nhân thường tập trung ở các lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng

Nam, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh… ở những nơi này có nhiều điều kiện

thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và đồng thời đó là nơi có thị trư-

ờng tiêu thụ rất lớn. Chính điều này gây nên sự phát triển không đồng đều giữa

các vùng miền, mà điều này đến lượt nó lại có thể gây ra sự phân hoá xã hội.

* Trong các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân tính

hợp tác, liên kết giữa các loại hình doanh nghiệp yếu

2.3.3. Xu hướng phát triển của các loại hính doanh nghiệp trong khu vực

kinh tế tư nhân.

Xu hướng phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân có sự chuyển

đổi lớn, trước năm 2000, loại hình Doanh nghiệp tư nhân chiếm tỷ trọng rất

cao. Sự ra đời của Luật Doanh nghiệp hoạt động tích cực đến xu hướng phát

triển trong doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân.

Tỷ trọng loại hình Doanh nghiệp tư nhân trong tổng số doanh nghiệp đăng ký

giảm từ 64% trong giai đoạn 1991-1999 xuống còn 34% năm 2003 và khoảng

30% năm 2004; trong khi đó tỷ trọng Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty

cổ phần tăng từ 36% lên 66% năm 2003 và khoảng 67,3% năm 2004. Loại hình

71

Công ty cổ phần tăng từ 1,1% lên 10% năm 2003 và khoảng 13,6% năm 2004.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Sự thay đổi này cho thấy các nhà đầu tư trong nước có xu hướng lựa chọn loại

hình doanh nghiệp hiện đại, tạo cơ sở để doanh nghiệp có thể phát triển không

hạn chế về quy mô.

Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân vẫn sẽ tiếp tục

mở rộng quy mô, thị trường trong tất cả các lĩnh vực mà luật pháp không cấm

và sẽ vươn lên làm cho khu vực kinh tế tư nhân trở thành một khu vực kinh tế

có tỷ trọng lớn nhất trong GDP của nền kinh tế quốc dân, trở thành đầu tầu

trong sự tăng trưởng.

Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có mặt ở mọi

miền của đất nước, từ thành thị đến nông thôn và ở mọi lĩnh vực sản xuất kinh

doanh từ nông- lâm ngư nghiệp, công nghiệp, thủ công nghiệp, xây dựng, giao

thông vận tải đến dịch vụ thương mại. Tuy nhiên trong thời kỳ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá đất nước, kinh tế tư nhân trong các ngành nghề phi nông

nghiệp sẽ có tốc độ phát triển nhanh hơn và chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ

cấu kinh tế tư nhân của nước ta và kinh doanh thương mại, dịch vụ vẫn là lĩnh

vực có nhiều doanh nghiệp tham gia.

Doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân sẽ có vai trò, vị trí ngày càng

quan trọng trong cơ cấu doanh nghiệp ở Việt Nam trên tất cả các mặt: số lượng

đơn vị sản xuất kinh doanh, tỷ trọng vốn đầu tư, cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội

(GDP), kim ngạch xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao khả năng

cạnh tranh trong đua tranh và hội nhập, đặc biệt là tạo ra nhiều việc làm, cải

thiện điều kiện lao động, nâng cao đời sống nhân dân, xoá đói giảm nghèo. Dự

báo đến năm 2020, khu vực kinh tế tư nhân sẽ chiếm từ 60% - 70% GDP trong

nền kinh tế quốc dân.

Các loại hình doanh nghiệp tư nhân sẽ xuất hiện thêm nhiều ngành nghề,

sản phẩm mới. Trong đó có những ngành nghề, sản phẩm mới ra đời xuất phát

72

từ tiềm lực nội sinh của nó được khơi dậy và từ nhu cầu đời sống xã hội ngày

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

càng được nâng lên đòi hỏi sản xuất phải đáp ứng. Có những ngành nghề mới ra

đời đòi hỏi của thị trường thế giới thông qua việc mở rộng quan hệ đối ngoại,

chủ động hội nhập kinh tế thế giới và khu vực của nước ta, hoặc do tiến bộ khoa

học - công nghệ đem lại. Có những ngành nghề vốn trước đây do Nhà nước sản

xuất kinh doanh nay khu vực doanh nghiệp nhà nước được tổ chức sắp xếp lại

chỉ tập trung vào những ngành nghề, lĩnh vực then chốt, số còn lại Nhà nước sẽ

nhường chỗ cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân đảm nhiệm. Xu thế phát

triển này đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi phải nâng cao nhận thức, năng lực,

trình độ quản lý của cơ quan Nhà nước các cấp, nếu không sẽ trở thành lực cản

của sự phát triển kinh tế tư nhân như xảy ra ở một số địa phương thời kỳ vừa

qua.

Vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu, trước áp lực của cạnh tranh quyết liệt

và với chính sách mở rộng đối với khu vực kinh tế tư nhân thì Doanh nghiệp tư

nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần sẽ diễn ra 2 quá trình:

Quá trình tư bản hoá giá trị thặng dư, chuyển phần lớn lợi nhuận thu được

hoặc bổ sung thêm vốn từ các nguồn khác để đầu tư mở rộng sản xuất kinh

doanh và năng lực cạnh tranh giúp doanh nghiệp có thể đứng vững và phát triển

trong môi trường cạnh tranh mới. Một số doanh nghiệp có khả năng sẽ mở rộng

ra các vùng, hình thành những chi nhánh hoặc công ty con (như kiểu Công ty

Kinh đô, Công ty Bitis ở thành phố Hồ Chí Minh và Công ty ống nhựa Tấn Phát

ở Đà Nẵng).

Trong điều kiện Nhà nước tăng cường quản lý vĩ mô, khó có khả năng

sớm hình thành những tổ chức độc quyền trên quy mô cả nước, nhưng có xu

hướng “tích tụ và tập trung sản xuất” vẫn phát huy tác dụng thể hiện trong sự

liên kết, sát nhập các doanh nghiệp để hình thành các công ty có quy mô lớn, có

công nghệ hiện đại, có năng lực cạnh tranh và ngày càng chiếm nhiều thị phần

73

hơn so với các doanh nghiệp khác cùng ngành nghề.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Trong quá trình vận động và phát triển các doanh nghiệp trong khu vực

kinh tế tư nhân sẽ diễn ra sự đan xen, liên kết với nhau và với các doanh nghiệp

mọi các thành phần kinh tế khác hình thành các doanh nghiệp hỗn hợp: đây là

xu hướng xã hội hoá nền kinh tế nước ta trong tiến trình công nghiệp hoá -hiện

đại hoá đất nước, xu hướng này sẽ phát triển mạnh khi khu vực doanh nghiệp

nhà nước được sắp xếp, đổi mới, thể hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế

quốc dân; khi thể chế và chính sách kinh tế trong nước được xây dựng hoàn

thiện, đồng bộ; sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò của

các đoàn thể nhân dân được tăng cường và nâng cao hiệu lực, hiệu quả các loại

hình doanh nghiệp đan xen, đan kết các hình thức sở hữu có thể ra đời theo

những hướng như các chủ thể sản xuất - kinh doanh cũng tồn tại và phát triển

trong sự liên kết, hợp tác với nhau để cùng sản xuất ra một loại sản phẩm - mô

hình kinh tế này đã xuất hiện ở nước ta trong những năm gần đây, đồng thời các

loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có thể làm vệ tinh cho

nhau- mô hình này sẽ nhanh chóng ra đời khi tiến trình công nghiệp hoá- hiện

đại hoá đạt trình độ cao, sự phân công lao động xã hội phát triển theo chiều sâu,

đòi hỏi các doanh nghiệp vừa phát huy lợi thế so sánh của mình, vừa phải liên

kết hợp tác với các loại hình doanh nghiệp khác để cùng tạo ra một sản phẩm;

các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân có thể liên doanh liên

kết với nhau hoặc liên doanh liên kết với các doanh nghiệp trong kinh tế nhà

nước và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để hình thành các doanh

nghiệp hỗn hợp có nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau, đó là các Công ty liên

doanh, Công ty hợp danh, Công ty cổ phần. Sự liên kết liên doanh giữa kinh tế

tư nhân với kinh tế nhà nước sẽ hình thành các hình thức kinh tế tư bản nhà n-

ước với nhiều cấp độ khác nhau, mà chủ nghĩa tư bản nhà nước theo Lênin đó là

sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã hội là phòng chờ đi vào chủ

74

nghĩa xã hội, là nấc thang lịch sử mà giữa nó với nấc thang được gọi là chủ

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nghĩa xã hội thì không có một nấc thang nào ở giữa cả.

Các loại hình doanh nghiệp tư nhân dần dần sẽ vươn ra đầu tư vốn hoạt

động sản xuất kinh doanh ở nước ngoài dưới hình thức đầu tư trực tiếp của liên

doanh hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài. Đây cũng là xu hướng có nhiều

khả năng phát triển khi Việt Nam tham gia hội nhập vào kinh tế thế giới và khu

vực. Xu hướng này trên thực tế cũng đã bắt đầu xuất hiện trong một vài năm

gần đây như Công ty Bitis (ở TP Hồ Chí Minh) đầu tư sang Trung Quốc, Hoa

Kỳ, Công ty trách nhiệm hữu hạn Vĩnh Phát đầu tư 560.000 USD sang úc,

Công ty trách nhiệm hữu hạn Thu Vân (Đà Nẵng) liên doanh với Bộ Quốc

phòng Lào xây dựng cơ sở hạ tầng; Công ty trách nhiệm hữu hạn Quốc Hưng

(Đà Nẵng) sản xuất hàng mây tre đan xuất khẩu có cơ sở liên doanh ở Lào…

Theo lôgíc phân tích ở trên cho thấy xu hướng phát triển trong các loại

hình doanh nghiệp tư nhân ở nước ta là sẽ phát triển loại hình Công ty cổ phần

trong tương lai. Mỗi loại hình doanh nghiệp có vai trò ưu thế và hạn chế riêng,

theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, các chuyên gia kinh tế cho

rằng trong các loại doanh nghiệp, Công ty ổ phần có nhiều ưu điểm hơn và

cùng với mô hình công ty mẹ- con; đó là 2 loại hình công ty ngày càng phổ

biến trong nền kinh tế hiện đại. Ưu điểm nổi bật của loại hình trên là khả năng

phân tán rủi ro cho nhiều cổ đông cùng chịu cũng nh khả năng huy động vốn từ

nhiều nguồn khác nhau, từ đó để tập trung nguồn lực tài chính cho đầu tư.

Theo xu hướng chung trong nền kinh tế hiện đại, loại hình công ty cổ

phần có những ưu điểm về khả năng huy động vốn và phân tán rủi ro. Tuy nhiên

trong điều kiện của Việt Nam, một nước mới chuyển từ kế hoạch hoá tập trung

sang nền kinh tế thị trường, công chúng vẫn còn e ngại với các loại hình doanh

nghiệp mang tính tập thể.Tâm lí xã hội đó chi phối không chỉ với công chúng

mà còn đối với chính giới chủ doanh nghiệp. Do vậy hiện tại loại hìmh doanh

75

nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn chiếm vị trí phổ biến, về lâu

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

dài theo đà phát triển của nền kinh tế xã hội loại hình công ty cổ phần sẽ được

phát triển.

CHƢƠNG 3

ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC

LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP TƢ NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG

ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

3.1. Bối cảnh phát triển các loại hình doanh nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam

hiện nay

3.1.1. Thuận lợi

Cho đến nay, có thể nói rằng các doanh nghiệp tư nhân nói riêng và khu

vực kinh tế tư nhân nói chung đã có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển

và mở rộng sản xuất kinh doanh. Những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho các

loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân không chỉ là yếu tố trong

nước mà nó còn bao gồm cả yếu tố quốc tế.

Trong nước:

Nhà nước ta có đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, thừa nhận vai trò

của khu vực kinh tế tư nhân đặc biệt là vai trò của các loại hình doanh nghiệp

trong khu vực kinh tế tư nhân và khuyến khích khu vực này phát triển. Kể từ

khi chuyển sang cơ chế thị trường nền kinh tế nớc ta tăng trưởng liên tục với tốc

độ tương đối cao, để cải thiện và nâng cao năng lực cạnh tranh hiện đang rất

yếu kém của nền kinh tế Việt Nam, Chính phủ chủ trương cải cách mạnh mẽ

các doanh nghiệp nhà nước bằng cách thực hiện cổ phần hoá, giảm biên chế

theo hướng nhà nước chỉ nắm những doanh nghiệp giữ vai trò chủ đạo. Đây là

76

điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân nói chung và

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

các doanh nghiệp tư nhân nói riêng.

Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện: đây là yếu tố vô cùng

quan trọng đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân. Ngoài

việc ban hành các đạo luật, nghị định, nghị quyết, Nhà nước còn ban hành các

văn bản hớng dẫn thì hành, sửa đổi, bổ sung một số điều luật chưa hoàn chỉnh.

Để môi trường kinh doanh ngày càng hoàn thiện hơn, nhằm tạo sự bình đẳng

cho các doanh nghiệp phát triển cả về môi trường pháp lý lẫn các thể chế kinh

tế.

Vị thế của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày nay được cải thiện.Vị

thế của kinh tế tư nhân không chỉ được cải thiện trong luật pháp, trong những

quy định, quyết định của nhà nước mà còn được cải thiện trong tâm lý người

dân. Chính sự lớn mạnh này của kinh tế tư nhân, đặc biệt là các loại hình doanh

nghiệp tư nhân cho thấy nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở

nước ta.

Trước kia tâm lý của người lao động không muốn làm việc ở các doanh

nghiệp tư nhân nhưng ngày nay suy nghĩ đó dần được nâng lên, bởi vì một số

doanh nghiệp tư nhân đã có các chính sách quan tâm đến lợi ích của người lao

động như chính sách tiền thưởng, chính sách bảo hiểm ..và các đối tác làm ăn ở

các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác cũng có xu hướng tìm đến các

đối tác là các doanh nghiệp tư nhân

Ngoài ra các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân rất

năng động một mặt là do vấn đề nhân sự và tổ chức của họ, do họ có toàn quyền

quyết định so với các doanh nghiệp nhà nước. Mặt khác người chủ của các

doanh nghiệp tư nhân có thể ra các quyết định rất nhanh chóng vì xét cho cùng

họ tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Vì có được sự thuận lợi này, các

doanh nghiệp tư nhân tỏ ra rất năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.

77

Sự năng động này còn thể hiện ở chỗ là chỉ sau một vài năm thực hiện chính

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

sách đổi mới của đất nước các loại hình doanh nghiệp tư nhân đã có mặt ở hầu

hết các ngành khác nhau của nền kinh tế Việt Nam.

Lực lượng tham gia thành lập và quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực

tư nhân rất đa dạng, có nhiều mối quan hệ và vì thế rất năng động trong tìm

kiếm đối tác, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Có thể nói động lực cá nhân thôi

thúc mọi ngời mong muốn kinh doanh làm giàu là sức mạnh to lớn thúc đẩy khu

vực này phát triển.

Do đa số các doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ nên dễ dàng thay đổi

công nghệ phù hợp với quy mô doanh nghiệp và trình độ quản lý.

Quốc tế

Ngoài những thuận lợi trong nước tạo điều kiện cho sự phát triền của các

loại hình doanh nghiệp tư nhân thì phải kể đến những thuận lợi từ phía quốc tế

nữa, đó là:

Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế tư nhân

Thực tế đã chứng minh, không một quốc gia nào có thể lớn mạnh được mà

không thông qua quan hệ kinh tế đối ngoại, chính nhờ sự phát triển của mối

quan hệ này các quốc gia mới có điều kiện mở rộng thị trường, tiếp cận được

khoa học công nghệ hiện đại, phát huy được lợi thế so sánh của mình, Việt Nam

cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nhờ sự phát triển của kinh tế thị trường

theo hướng mở nhiều sản phẩm của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường thế

giới rất lớn và rất đa dạng, đây có thể coi là sự thuận lợi nếu có các doanh

nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của thị trường toàn cầu này.

Sự dịch chuyển của các dòng đầu tư, dòng vốn, công nghệ. Một thuận lợi

nữa cho các doanh nghiệp Việt Nam là phải kể đến sự dịch chuyển của các

dòng vốn, dòng công nghệ vào Việt Nam hiện nay đang có xu hướng tăng lên.

Các dòng vốn, dòng công nghệ chảy vào Việt Nam thông qua các hình thức đầu

78

tư như : đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), ODA...những hình thức đầu tư này

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

đem lại cho Việt Nam một lượng vốn lớn, các doanh nghiệp Việt Nam tận dụng

được nhiều khoa học công nghệ tiên tiến mà Việt Nam chưa có, các nguồn đầu

tư này giúp các loại hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam phát triển nhanh

chóng hơn.

3.1.2. Khó khăn

Trong nước

Bên cạnh những điều kiện thuận lợi tạo điều kiện cho các loại hình doanh

nghiệp tư nhân phát triển, còn một số những khó khăn gây cản trở tới sự phát

triển của các doanh nghiệp. Đó chính là những yếu kém, tồn tại của nền kinh tế

đất nước.

Nền kinh tế nhỏ bé lạc hậu phát triển kinh tế hàng hoá chưa lâu: so với

các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới thì nền kinh tế hàng hoá của ta

còn kém phát triển.Vì vậy khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhỏ bé và non trẻ thể

hiện ở quy mô trình độ kinh nghiệm quản lý của các loại hình doanh nghiệp tư

nhân.

Sự hỗ trợ của Nhà nước không đáng kể:

So với doanh nghiệp nhà nước thì các loại hình doanh nghiệp tư nhân

hầu như không nhận được sự hỗ trợ nào từ phía Nhà nước, nếu có thì là con số

rất nhỏ bé. Nhà nước chỉ tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân

phát triển bằng cách ban hành các đạo luật, nghị định, nghị quyết và sửa đổi,

hoàn thiện các bộ luật giúp các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển dễ

dàng hơn còn về mặt tài chính tín dụng thì Nhà nước không hỗ trợ nhiều.

Môi trường kinh doanh chưa hoàn thiện: một số yếu tố nữa gây khó khăn

cho sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp tư nhân đó là môi trường kinh

doanh chưa hoàn thiện: luật cạnh tranh, luật phá sản.

Chính sách chưa đồng bộ và thủ tục hành chính còn rờm rà còn không ít

79

các quy định chưa đầy đủ và cụ thể, các thủ tục hành chính còn rườm rà, không

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

cần thiết….

Quốc tế:

Các yếu tố quốc tế gây khó khăn cho sự phát triển của các loại hình doanh

nghiệp tư nhân phải kể đến:

Cạnh tranh quỗc tế ngày càng gay gắt:

Toàn cầu hoá kinh tế đưa lại cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân những

cơ hội thuận lợi cho sự phát triển nhưng cũng có những thách thức, khó khăn

nghiêm trọng. Toàn cầu gây sức ép cạnh tranh gay gắt đối với mỗi doanh

nghiệp, quy mô của các doanh nghịêp Vịêt nam còn nhỏ, nguồn vốn huy động

ít… các chủ thể doanh nghiệp trình độ thấp khi tham gia hội nhập dễ dàng bị

các doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng để chiếm lĩnh thị trường.

Khu vực kinh tế tư nhân của các nước trong khu vực và thế giới rất mạnh

về vốn, công nghệ, kỹ thuật, kỹ năng quản lý, thương hiệu…do khu vực này ở

các quốc gia khác phát triển trước nước ta rất nhiều và ở những nước tiên tiến,

khoa học kỹ thuật hiện đại. Vì thế khi tham gia vào thị trường thế giới các

doanh nghiệp tư nhân Việt Nam sẽ bị yếu thế hơn về mẫu mã và chất lượng sản

phẩm.

Sự giống nhau về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của một số nước trong khu

vực: có sự giống nhau về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các nước trong khu

vực sẽ là một khó khăn nữa cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân Việt Nam,

nước ta vẫn là nước kém phát triển, mặt hàng xuất khẩu chưa nhiều, chất lượng

chưa cao vì thế sẽ khó khăn trong cạnh tranh xuất khẩu với các nước trong khu

vực.

3.2. Định hƣớng phát triển các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực

kinh tế tƣ nhân .

80

3.2.1. Đa dạng hóa các loại hính doanh nghiệp khác nhau.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Trong khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm có 4 loại hình doanh nghiệp mà

luận văn đề cập đến đó là Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, Công

ty hợp danh, và Doanh nghiệp tư nhân. Mỗi loại hình đều có đặc tính, vai trò,

những đóng góp và ưu, nhược điểm riêng, nhưng sự dung hoà, phát triển của

các loại hình đó tạo điều kiện thúc đẩy, đưa doanh nghiệp tư nhân trở thành khu

vực kinh tế vững mạnh trong nền kinh tế Vịêt nam. Và cho đến nay vị thế của

khu vực kinh tế tư nhân không ai có thể phủ nhận được, để cho khu vực kinh tế

tư nhân ngày càng khẳng định vị thế cao hơn của mình thì yêu cầu đối với mỗi

loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đều phải cùng vận động,

phát triển, sự phát triển của các loại hình này phải đa dạng. Không nên quá chú

trọng loại hình doanh nghiệp nào.

Hiện nay ở Việt Nam trong khu vực kinh tế tư nhân cần ưu tiên phát triển

tất cả các loại hình, nhưng thực tế phát triển cho thấy thì loại hình Công ty trách

nhiệm hữu hạn có xu hướng phát triển cao nhất, còn Công ty hợp danh gần như

không có hoặc nếu có con số là quá ít không đáng kể. Vì thế định hướng hiện

nay cần đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp khác nhau để cho khu vực kinh

tế tư nhân phát triển mạnh hơn, phong phú hơn với nhiều loại hình doanh

nghiệp.

3.2.2. Phát triển loại hính Công ty cổ phần

Như đã phân tích ở chương một, trong số các loại hình doanh nghiệp

thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì Công ty trách nhiệm hữu hạn là loại hình có

xu hướng phát triển tăng cao, Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có

nhiểu ưu điểm hơn cả thì lại chưa phát triển nhiều lắm do nhiều yếu tố như: tâm

lý, quy mô vốn…

Vì vậy để khu vực kinh tế tư nhân hoạt động hữu hiệu nhất thì Đảng và

Nhà nước cần định hướng tạo điều kiện cho các loại hình Công ty cổ phần phát

81

triển và đứng đầu trong các loại hình doanh nghiệp tư nhân vì khi đó hình thức

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

hoạt động, quy mô vốn… của các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế

tư nhân sẽ tăng lên đóng góp trong GDP xã hội tăng….

Đặc biệt cần chú trọng phát triển loại hình Công ty cổ phần ở các thành

phố lớn, để tạo tiền đề cơ bản và lâu dài cho khu vực kinh tế tư nhân có thể từng

bước mở rộng quy mô kinh doanh một cách hợp lý, ở các thành phố lớn cần

phát triển loại hình Công ty cổ phần, đồng thời qua loại hình Công ty cổ phần

có thể huy động tốt lượng vốn phân tán trong dân cư, cũng như có thể phân tán

rủi ro trong kinh doanh. Loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn vẫn được coi là

loại hình doanh nghiệp chủ lực của kinh tế tư nhân, tuy về mặt chất lượng các

Công ty trách nhiệm hữu hạn sẽ có sự biến đổi theo xu thế tích cực, các Công ty

trách nhiệm hữu hạn theo kiểu gia đình sẽ giảm dần.

3.2.3. Tăng số lượng doanh nghiệp phải gắn với nâng cao năng lực canh

tranh của từng doanh nghiệp.

Đây là yêu cầu không thể thiếu vì nếu như trong khu vực kinh tế tư nhân

các loại hình doanh nghiệp tư nhân chỉ phát triển về số lượng không phát triển

về chất lượng sẽ là điều rất đáng buồn. Số lượng doanh nghiệp nhiều, quy mô

vốn nhỏ, công nghệ thấp chất lượng sản phẩm, mẫu mã hàng hoá không cao

không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khu vực quốc doanh

và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là vấn đề bất cập hiện nay của các loại

hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân đang vấp phải.

Những mặt hàng chủ lực và nhiều ngành nghề kinh doanh tạo thu nhập

lớn thì doanh nghiệp tư nhân chưa có khả năng đảm nhiệm, yêu cầu định hướng

làm sao để trong quá trình phát triển, số lượng các loại hình doanh nghiệp tư

nhân đã tăng cao nhưng cũng cần gắn với sự tăng về mặt chất, điều đó thể hiện

năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp.

82

3.2.4. Tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các loại hính doanh nghiệp.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Thực trạng hiện nay của doanh nghiệp Việt Nam ta, giữa các doanh

nghiệp chưa có sự liên kết hợp tác với nhau kể cả trong khu vực kinh tế tư nhân

lẫn kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các loại hình doanh

nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động riêng lẻ, mạnh ai nấy thắng trong khi nếu nh-

ư có sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau ở những ngành nghề, lĩnh vực

nhất định cũng chính là tạo điều kiện thuận lợi, thúc đẩy các doanh nghiệp phát

triển, không phải bỏ ra một số loại chi phí không cần thiết khi không có sự liên

kết.

3.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển các loại hình doanh

nghiệp tƣ nhân ở Việt Nam.

Trên cơ sở phân tích định hớng cho phát triển các loại hình doanh nghiệp

tư nhân tác giả mạnh dạn đưa ra một số giải pháp cụ thể cho phát triển các loại

hình doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam trong thời gian tới.

3.3.1. Phát triển loại hính Công ty cổ phần

Tuy hiện nay ở Việt Nam trong khu vực kinh tế tư nhân loại hình Công ty

cổ phần không phải là loại hình phát triển nhiều nhất nhưng qua phân tích ưu

thế của nó thì xu hướng trong tương lai loại hình Công ty cổ phần sẽ có xu

hướng phát triển cả về số lượng, chất lượng, quy mô sử dụng vốn và lao động vì

nó có thế hơn hẳn so với các loại hình khác trong khu vực và nó phù hợp với

quy luật phát triển của nền kinh tế thế giới. Đồng thời yếu tố tâm lý và tư tưởng

về tính tập thể đã thay đổi trong quan niệm của dân chúng.

Hiện nay, trên thế giới và khu vực loại hình Công ty cổ phần đang có xu

hướng tăng lên và ngày càng thể hiện ưu thế của nó, với Việt Nam ta là nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì loại hình Công ty cổ phần

cần được ưu tiên phát triển. Trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần chú

trọng hơn nữa để cho Công ty cổ phần phát triển tương xứng với đúng nghĩa

83

của nó, điều này thể hiện ở những điểm sau:

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

- Đảng và Nhà nước cần định hướng tạo điều kịên cho loại hình Công ty

cổ phần đứng đầu trong các doanh nghiệp ở khu vực kinh tế tư nhân.

- Cần chú trọng phát triển loại hình Công ty cổ phần ở các thành phố lớn,

để tạo tiền đề cơ bản và lâu dài cho khu vực kinh tế tư nhân.

- Thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp một cách hợp lý.

3.3.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp trong khu vực.

Hiện nay, các loại hình doanh nghiệp tư nhân có số lượng tăng lên hàng

năm, nhưng năng lực cạnh tranh không lớn, so với các doanh nghiệp trong khu

vực khác thì doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân là kém nhất từ mặt

bằng sản xuất cho đến chất lượng sản phẩm.

Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân do quy mô về

vốn, lao động thấp, đồng thời cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh đơn giản,

thời gian luân chuyển vốn ngắn khiến cho các loại hình doanh nghiệp này khả

năng cạnh tranh không cao. Để nâng cao năng lực cạnh tranh trong từng doanh

nghiệp trong khu vực trong thời gian tới Đảng và Nhà nước cần có những giải

pháp phù hợp:

- Tạo điều kiện và khuyến khích cho doanh nghiệp trong khu vực kinh tế

tư nhân có thể kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau trong nhiều ngành

nghề.

- Để nâng cao chất lượng sản phẩm thì Nhà nước cần hỗ trợ cho khu vực

doanh nghiệp này về đào tạo nguồn nhân lực, kinh nghiệm quản lý.

- Đa dạng hoá các loại hinh đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác

nhau để phù hợp với nhu cầu học tập của chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản

lý của doanh nghiệp, từ đó xây dựng mới hệ thống đào tạo với nhiều trình độ và

thời gian khác nhau.

- Mở khoá đào tạo miễn phí hoặc giảm chi phí cho các loại hình doanh

84

nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ cho các chủ doanh nghiệp và người lao

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

động.

- Hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp.

- Hỗ trợ về thông tin và khoa học - công nghệ.

- Phát triển công ty cho thuê tài chính để cho doanh nghiệp tư nhân dễ

dàng tiến hành sản xuất kinh doanh mà không cần vốn lớn và không cần thế

chấp tài sản để có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm.

3.3.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp mọc lên, tồn tại và phát

triển mục đích cuối cùng là vì lợi nhuận cho chính doanh nghiệp của mình. Mỗi

doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh, phương pháp tổ chức quản lý… khác

nhau và lợi ích cũng riêng nhau nhưng để có được những thứ đó các doanh

nghiệp không thể tự một minh mà có, các doanh nghiệp phải có sự liên kết với

nhau ở những khâu nhất định. Đây là yêu cầu không thể thiếu được cho sự phát

triển của các loại hình doanh nghiệp

Muốn tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp thì phải

nâng cao vai trò của các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp và Nhà nước nên tạo

điều kiện cho các tổ chức đó hoạt động hiệu quả. Hiện nay, các tố chức xã hội

nghề nghiệp như Hiệp hội các doanh nghiệp có vai trò và vị trí đặc biệt quan

trọng, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự

quản lý của Nhà nước, theo đúng nghĩa là nơi nhân dân tự tổ chức, tự hoàn

thiện, cùng hỗ trợ giúp nhau trong hoạt động sản xuất cũng như trong đời sống,

là cầu nối giữa nhân dân và Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước là thực sự của

dân, do dân và vì dân.

Đối với khu vực kinh tế tư nhân còn non kém về nhiều mặt thì việc phát

triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp lại càng có vai trò trợ giúp hết sức quan

trọng. Kể cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước cũng như trong

85

hoạt động đối ngoại để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên. Vụ

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

kiện cá Basa Việt Nam là một ví dụ về vai trò quan trọng của tổ chức Hiệp hội

doanh nghiệp, sự ra đời của Hiệp hội đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp nhỏ

và vừa nông thôn, doanh nhân, nghệ nhân và 2197 làng nghề truyền thống trong

cả nước cùng với những hoạt động hỗ trợ của hiệp hội đối với từng doanh

nghiệp cụ thể trên nhiều lĩnh vực như: hỗ trợ về thị trường, hỗ trợ về công nghệ

tư vấn xây dựng dự án, dịch vụ tìm các nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước

cho các dự án phát triển, đã thực sự trở thành chỗ dựa, người bạn đồng hành

cùng doanh nghiệp, là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa với

các cơ quan Đảng và Nhà nước. Sự phát triển nhanh và bền vững của Hiệp hội

doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam đã chứng minh vai trò

quan trọng của các tổ chức Hiệp hội. Vì vậy Nhà Nước càng khuyến khích và tạo

điều kiện để các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh hình thành

và ra đời các tổ chức Hiệp hội và Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động

của những Hiệp hội đó.

- Để các loại hình Hiệp hội Việt Nam hoạt động có hiệu quả, vấn đề cần

quan tâm trước hết là Nhà nước tôn trọng tiếng nói của người đại diện cho cộng

đồng doanh nghiệp cùng hiệp hội tổ chức những cuộc đối thoại thẳng thắn về

những vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xuất

phát từ thực tế cuộc sống, tạo thuận lợi tới mức cao nhất cho doanh nghiệp phát

triển sản xuất kinh doanh, đồng thời vẫn phải đảm bảo sự quản lý cần thiết của

Nhà nước. Thậm chí Nhà nước cho phép các hiệp hội cùng với các cơ quan

quản lý của Nhà nước trong việc soạn thảo các văn bản pháp quy và lấy ý kiến

của cộng đồng doanh nghiệp trước khi ban hành. Làm được việc đó thì chủ

chương chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ đi vào đời sống và nhanh chóng

trở thành hiện thực.

- Nhà nước cũng nên từng bước chuyển giao một số chức năng và một số

86

dịch vụ công của các cơ quan Nhà nước đang thừa hành cho các tổ chức Hiệp

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

hội, những việc mà các tổ chức Hiệp hội có thể làm được và làm tốt để các cơ

quan Nhà nước tập trung vào hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Việc Nhà nư-

ớc tập trung quá nhiều dịch vụ vào các cơ quan Nhà nước đã phát sinh những

tiêu cực, tham nhũng như vụ tham nhũng ở Bộ Thương Mại trong cấp hạn

ngạch hàng dệt may năm 2004 vừa qua ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh

nghiệp dệt may cũng như thông tin của dân với các cơ quan công quyền.

- Và cuối cùng Nhà nước cần hỗ trợ các tổ chức Hiệp hội doanh nghiệp

trong các hoạt động xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư. Sự hỗ trợ ở đây là tạo

ra khung pháp lý, một số cơ sở vật chất và ngân sách cần thiết để Hiệp hội có

thể hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của mình.

3.3.4. Giải pháp nâng cao trính độ của người lao động

Số lượng lao động của nước ta rất dồi dào nhưng chất lượng lao động còn

hạn chế không chỉ riêng ở các loại hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân

mà nó là đặc điểm chung của lao động nước ta. Hơn nữa trong khu vực kinh tế

tư nhân, ở các doanh nghiệp thì trình độ lao động lại còn thấp hơn so với mặt

bằng chung của nền kinh tế không chỉ đối với riêng người lao động và cả chủ

doanh nghiệp, đặc biệt ở những loại hình doanh nghiệp quy mô nhỏ. Để nâng

cao trình độ của người lao động cho các loại hình doanh nghiệp trong khu vực

này, Nhà nước cần phải quan tâm đến việc đào tạo nguồn nhân lực và đưa ra

những giải pháp phù hợp trong giai đoạn tới:

- Trong quá trình hội nhập ta rất cần những nhà quản lý giỏi, do vậy Nhà

nước cần phải tổ chức đào tạo, đào tạo lại những nhà quản lý cho các loại hình

doanh nghiệp khu vực này có thể phát huy hết tiềm năng của mình

- Phát triển hệ thống các trường trung học, dạy nghề, cao đẳng, đại học,

sau đại học để nâng cao trình độ người lao động. Đặc biệt cần chú ý đến chương

trình đào tạo của các trường sao cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn

87

- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng theo nhiều hình thức khác

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

nhau để phù hợp với nhu cầu học tập của chủ doanh nghiệp và các cán bộ quản

lý của doanh nghiệp, từ đó xây dựng mới hệ thống đào tạo với nhiều trình độ,

thời gian khác nhau

- Cần mở những khoá đào tạo miễn phí hoặc giảm chi phí cho các loại

hình doanh nghiệp tư nhân nhằm nâng cao trình độ cho chủ doanh nghiệp và

người lao động

- Trong quá trình đào tạo tại các trường cần chú ý giáo dục ý thức xã hội,

tạo điều kiện cho những người học hiểu được sự bình đẳng giữa các thành phần

kinh tế để họ có sự lựa chọn cho phù hợp tránh tình trạng chỉ coi trọng làm việc

trong khu vực doanh nghiệp nhà nước

3.3.5. Tạo điều kiện, đưa ra giải pháp phù hợp để các loại hính doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân phân bổ đồng đều hơn

Hiện nay các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển ngày càng tăng

trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ và ngày càng giảm trong lĩnh vực sản xuất

công nghiệp. Đồng thời xét về phương diện địa lý lãnh thổ, các loại hình doanh

nghiệp tư nhân thường tập trung ở những thành phố lớn - những nơi có điều

kiện thuận lợi hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và đồng thời đó là nơi có thị

trường tiêu thụ rất lớn. Hệ quả là dẫn đến việc mất cân đối nền kinh tế và gây ra

sự phân hoá xã hội.

Để khắc phục tình trạng phân bổ không đồng đều của các loại hình doanh

nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân, để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, Đảng

và Nhà nước cần có những giải pháp phù hợp để các loại hình doanh nghiệp

trong khu vực kinh tế tư nhân phát triển đồng đều hơn trong thời gian tới:

- Khuyến khích các loại hình doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân

phát triển sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp

- Hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nếu đầu tư vào

88

những ngành sản xuất, chế biến, nuôi trồng..mà phải sử dụng vốn lớn và thu hồi

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

vốn chậm, lợi nhuận ít.

- Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và tạo lập môi trường kinh doanh

thuận lợi trên tất cả các vùng miền, tỉnh thành trong cả nước

- Phát triển giao thông vận tảI thuận lợi giữa các tỉnh thành, giữa các

vùng miền, đặc biệt là những nơi có điều kiện địa lý thuận lợi, tài nguyên phong

phú mà giao thông chưa phát triển

- Các cơ quan chính quyền địa phương cần có những chích sách thu hút

đầu tư hợp lý, tạo môi trường đầu tư thông thoáng.

KẾT LUẬN

Xuất phát từ lý luận về kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ,

Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986) đã mở ra một giai đoạn mới cho sự phát

triển của kinh tế tư nhân, các loại hình doanh nghiệp tư nhân là một bộ phận cấu

thành của khu vực kinh tế tư nhân. Những quan điểm đổi mới kinh tế đã thúc

đẩy và khơi dậy mọi tiềm năng sẵn có trong dân, các chích sách, cơ chế quản lý

đã từng bước được hoàn thiện và đồng bộ.

Chính những cố gắng của Đảng và Nhà nước là động lực chính để

khuyến khích sự lớn mạnh của các loại hình doanh nghiệp tư nhân như ngày

nay. Song để hoàn thành chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng

thành công chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam hội nhập thành công kinh tế quốc tế

thì đóng góp của các loại hình doanh nghiệp tư nhân còn đáp ứng được sự mong

89

đợi đó.

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam

Lê Thị Vân Liêm Luận văn thạc sỹ

Như vậy, muốn nâng cao vai trò, vị thế của các loại hình doanh nghiệp

tư nhân đòi hỏi Đảng, Nhà nước và bản thân các doanh nghiệp phải cùng nỗ lực

phấn đấu. Trước mắt chúng ta nên phát huy những mặt tích cực đã đạt được

trong lịch sử và vận dụng “các giải pháp cấp bách để giải quyết những khó

khăn”, từng bước mở đờng cho các loại hình doanh nghiệp tư nhân đóng góp

sức mình vào công cuộc ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế xã hội đưa Việt

Nam thành quốc gia phát triển trong khu vực và trên thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Trần Ngọc Bút (2002) “Phát triển kinh tế tư nhân định hướng xã hội

chủ nghĩa”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

2. GS.TS KH. Lương Xuân Quỳ (2002) “Xây dựng quan hệ sản xuất định

hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam”.

Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

3. PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005) “Kinh tế tư nhân Việt Nam trong tiến

trình hội nhập”. Nhà xuất bản Thế giới

4. PGS Mai Tết - Nguyễn Văn Tuất và Th.s Đặng Danh Lợi (2006) “Sự vận

động, phát triển của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa ở nước ta”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

5. GS.TS Hồ Văn Vĩnh (2003) “Kinh tế tư nhân và quản lý Nhà nước đối

90

với kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay”. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia

Ph¸t triÓn c¸c lo¹i h×nh doanh nghiÖp khu vùc kinh tÕ t­ nh©n ë ViÖt Nam