ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

THIỀU THỊ MINH HUYỀN

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI THAI S¶N Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN T¹I TØNH Hµ GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

THIỀU THỊ MINH HUYỀN

PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI THAI S¶N Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN T¹I TØNH Hµ GIANG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

Tôi xin chân thành cảm ơn!

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Thiều Thị Minh Huyền

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

Danh mục các từ viết tắt

Danh mục các bảng, sơ đồ

MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ

HỘI THAI SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

THAI SẢN ..................................................................................... 9

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản ......................... 9

1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội thai sản.............................................. 9

1.1.2. Vai trò và ý nghĩa bảo hiểm xã hội thai sản..................................... 11

1.2. Một số vấn đền lý luận về pháp luật BHXH thai sản ................... 15

1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật BHXH thai sản ................... 15

1.2.2. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ................................... 21

Kết luận chương 1................................................................................... 32

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC

HIỆN TẠI TỈNH HÀ GIANG...................................................... 33

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội

thai sản ........................................................................................ 33

2.1.1. Đối tượng áp dụng và điều kiện hưởng BHXH thai sản ................... 33

2.1.2. Thời gian hưởng bảo hiểm xã hội thai sản....................................... 37

2.1.3. Mức trợ cấp bảo hiểm thai sản........................................................ 42

2.1.4. Thủ tục giải quyết hồ sơ bảo hiểm xã hội thai sản ........................... 47

2.2. Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang...... 49

2.2.1. Khái quát về tỉnh Hà Giang và cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh

Hà Giang ...................................................................................... 49

2.2.2. Những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại trong thực

tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang ... 56

Kết luận Chương 2.................................................................................. 72

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU

QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN Ở

TỈNH HÀ GIANG ....................................................................... 74

3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội thai sản ....................... 74

3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS ........................ 74

3.1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................ 76

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang ............................ 79

3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

thai sản ......................................................................................... 79

3.2.2. Tăng cường sát sao trong công tác thu hồi các khoản nợ BHXH ...... 81

3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm ............... 82

3.2.4. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan................. 84

3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở vật chất

ở hầu hết cơ quan BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...................... 87

3.2.5. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực quản lý............... 88

Kết luận chương 3................................................................................... 90

KẾT LUẬN ............................................................................................. 91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 93

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTS: Bảo hiểm thai sản

BHXH: Bảo hiểm xã hội

NLĐ: Người lao động

NSDLĐ: Người sử dụng lao động

DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ

Số hiệu Tên bảng, sơ đồ Trang

Bảng 1.1 Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi

sinh ở một số nước trên thế giới 23

Bảng 1.2

Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản ở một số nước trên thế giới 29

Bảng 2.1 Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn

Bảng 2.2 Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại

tỉnh (giai đoạn 2001-2010) 51

BHXH tỉnh Hà Giang giai đoạn 2015 – 2017 58

Bảng 2.3

Tình hình tham gia BHXH của NLĐ theo khối đơn vị tại tỉnh Hà Giang, năm 2015 – 2017 60

Bảng 2.4 Bảng tổng hợp công tác thu BHXH ở tỉnh Hà Giang

giai đoạn 2015 – 2017 62

Bảng 2.5 Bảng tổng hợp công tác chi BHXH thai sản ở tỉnh Hà

Giang giai đoạn 2015 – 2017 64

Sơ đồ 2.1 Cơ cấu, tổ chức bộ máy, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang 55

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động tại Việt Nam thuộc hàng cao

nhất trên thế giới chiếm đến 48,1% trên tổng số lực lượng lao động (theo số

liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2015). Hầu như trên tất các lĩnh

vực từ đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật… đều có sự

tham gia của lực lượng lao động nữ,với tỷ trọng chiếm khá lớn trong lực

lượng lao động vì vậy mà việc họ đóng góp tham gia vào quá trình sản xuất,

ngược lại những quyền lợi của họ phải được hưởng tương ứng theo quy định

tạo ra các sản phẩm về vật chất, tinh thần phục vụ cho lợi ích của xã hội, thì

của pháp luật

Hiện nay trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, tầm quan trọng của các

lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự tỷ mỉ, khéo léo và

linh hoạt trong lao động. Nhóm các ngành nghề như may mặc, giày da hay lắp

ráp linh kiện điện tử thì gần như toàn bộ là lao động nữ.

Ngoài đóng góp lớn vào cho xã hội, người phụ nữ với thiên chức làm

vợ, làm mẹ cũng đồng thời gánh vác phần lớn công việc gia đình. Chính bởi

lý do đó, các chính sách bảo đảm ưu tiên lao động nữ, trong đó quan trọng

nhất là quyền lợi Bảo hiểm xã hội, đặc biệt là BHXH thai sản cho phụ nữ khi

luật an sinh xã hội tại Việt Nam.

Chế độ bảo hiểm thai sản có vị trí quan trọng trọng hệ thống chính sách

bảo hiểm xã hội, không chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn góp

phần tái sản xuất sức lao động xã hội. Hằng năm, trợ cấp thai sản đã góp phần

bảo vệ quyền lợi cho hàng trăm ngàn phụ nữ và góp phần đảm bảo cuộc sống

có thai, sinh con và nuôi con luôn được chú trọng khi xây dựng hệ thống pháp

1

cũng như phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.

Trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ bảo hiểm thai sản ngoài ý

nghĩa bảo đảm thu nhập cho người phụ nữ còn có ý nghĩa xã hội và tính

nhân văn rất lớn, đóng góp để tái sản xuất dân số và duy trì nòi giống. Với

việc tham gia BHXH, đặc biệt là BHXH thai sản đảm bảo được thu nhập và

ổn định cuộc sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hay nuôi

con trong thời gian ngắn. Nó có một vị trí quan trọng đối với lao động nữ,

nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh đẻ

và nuôi con sơ sinh. Cùng với các chế độ bảo hiểm khác, chế độ bảo hiểm

thai sản ở Việt Nam đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao

nên chính sách bảo hiểm thai sản ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp

động từ khi giành chính quyền đến nay. Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung

hơn với thực tế đời sống, đáp ứng được mục tiêu về bảo vệ sức khỏe cho lao

động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Tuy nhiên, vẫn còn khá

nhiều quy định bất cập, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho

phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam nói chung và Tỉnh Hà Giang nói

riêng. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của hệ

thống an sinh trên thế giới, một số vấn đề đối với lao động nữ chưa được

đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ.

Lao động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Giang chiếm hơn 50% dân số, trong

đó phần lớn là lao động người dân tộc thiểu số và lao động chưa qua đào tạo.

hết sức khó khăn về nguồn nước, thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Kết cấu hạ

tầng còn yếu, nhất là hệ thống giao thông. Kinh tế tăng trưởng chủ yếu còn

theo bề rộng, chưa có chiều sâu, thiếu tính bền vững, hàm lượng kế hoạch

công nghệ trong giá trị gia tăng còn thấp, khả năng cạnh tranh của các sản

phẩm cũng như nền kinh tế Hà Giang không cao. Thu hút nguồn lực đầu tư,

Hơn nữa, Hà giang địa hình chủ yếu là núi đá, diện tích canh tác rất hạn chế,

2

phát triển kinh tế biên mậu và kinh tế cửa khẩu còn nhiều mặt hạn chế. Các

liên kết, hợp tác phát triển kinh tế - xã hội vùng và trên các lĩnh vực, ngành,

sản phẩm chưa được phát huy. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây

dựng nông thôn mới còn chưa có đột phá chiến lược. Trên địa bàn tỉnh có rất

ít khu công nghiệp để phát triển kinh tế cũng như tạo công ăn việc làm cho

người lao động. Phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng đã đang và sẽ tham gia

trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh việc làm

công tác xã hội, người phụ nữ còn phải đảm đương công việc của gia đình với

chiên chức làm vợ, làm mẹ. Vì vậy, bảo hiểm xã hội thai sản cần được quan

tâm để đảm bảo cuộc sống cho người lao động nói chung và người được

Hơn nữa sự ưu việt của chế độ bảo hiểm thai sản có tầm quan trọng đặc

hưởng bảo hiểm thai sản nói riêng.

biệt đối với lao động nữ nói chung tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt

chức năng làm mẹ vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã

hội nên em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội thai

sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang” nhằm góp phần hoàn thiện quy

định pháp luật BHXH thai sản đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật BHXH thai sản tại tỉnh Hà Giang.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài và tính mới của đề tài

BHXH thai sản là vấn đề quan trọng nên cũng có nhiều công trình

nghiên cứu về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về

tham khảo một số công trình nghiên cứu khoa học của người đi trước như:

Đặng Thị Thơm (năm 2007), “Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam”,

Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Làm sáng tỏ các quy

định và hệ thống chế độ Bảo hiểm thai sản ở Việt Nam về phương diện pháp lý

và thực tiễn thực hiện, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về

Bảo hiểm xã hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang” tác giả có

3

bảo hiểm thai sản và chất lượng thực hiện pháp luật bảo hiểm thai sản.

Lê Thị Quế (năm 2003), đề tài khoa học về “Thực trạng và giải pháp

hoàn thiện chính sách, BHXH thai sản ở Việt Nam”, Bảo hiểm xã hội Việt

Nam, Hà Nội. Đi sâu vào nghiên cứu thực trạng về chính sách, chế độ, quy

định thủ tục và quy trình giải quyết BHXH thai sản từ năm 1995 đến năm

2003. Đánh giá những mặt đạt được và hạn chế về chính sách, chế độ và việc

tổ chức quản lý thực hiện BHXH thai sản ở Việt Nam. Đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện chính sách, BHXH thai sản cho phù hợp với điều kiện

kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam.

Nguyễn Hiền Phương (năm 2014), Bảo vệ quyền làm mẹ trong pháp

tích, đánh giá thực trạng việc bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ Việt Nam

luật lao động và bảo hiểm xã hội, Tạp chí Luật học (số 06), tr. 48 - 59. Phân

theo quy định trong Bộ Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội: phân tích và

làm rõ các quy định đảm bảo điều kiện, môi trường làm việc cho lao động nữ

gắn với quyền làm mẹ thông qua việc xác định chính sách của Nhà nước,

trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và các quyền của lao động

nữ khi mang thai, sinh con. Về chế độ bảo hiểm thai sản, phân tích cụ thể các

quy định về đối tượng và điều kiện hưởng, thời gian nghỉ hưởng chế độ bảo

hiểm thai sản, mức bảo hiểm thai sản theo Luật BHXH, đồng thời chỉ ra một

số hạn chế như việc chi trả mức trợ cấp không đúng với ý nghĩa của Luật hay

nợ lương của NSDLĐ đang rất phổ biến. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị

nhằm bảo vệ quyền làm mẹ: thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về

BHXH ốm đau và thai sản; thứ hai, nâng cao một số biện pháp nhằm thực thi

hiệu quả quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền làm mẹ của lao động nữ:

tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, tăng cường công tác thanh tra,

kiểm tra, xử phạt trong việc thực hiện pháp luật về BHXH, xử lí nghiêm khắc

nhằm hoàn thiện Bộ Luật lao động và hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội

4

đối với các doanh nghiệp nợ đọng BHXH.

Nguyễn Thị Lan Hương (năm 2012), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối

với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại

học Quốc gia Hà Nội. Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực

tiễn của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Đề tài

phân tích rõ các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam đối với lao động nữ: chế độ

chăm sóc con ốm, BHXH thai sản và chế độ hưu trí, thực trạng pháp luật về

bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Qua đó, đưa ra những phương hướng,

giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và các

mặt công tác khác như tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp luật về chế

tra, xử phạt vi phạm... để nâng cao hiệu quả của chế độ bảo hiểm xã hội đối

độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm

với lao động nữ cũng như vấn đề bảo vệ lao động nữ trong xã hội.

Trần Thuý Lâm (năm 2004), “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ -

Thực trạng pháp luật và phương hướng hoàn hiện”, Số Đặc san phụ nữ 3, tr.

50 - 54. Bài viết đề cập những quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội đối

với lao động nữ: chế độ trợ cấp thai sản, chế độ nghỉ chăm sóc con ốm, chế độ

hưu trí. Về cơ bản quyền lợi của lao động nữ trong lĩnh vực BHXH đã được

sự quan tâm ưu đãi của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số điểm còn bất

cấp của pháp luật trong từng chế độ được tác giả chỉ ra và phân tích, cần được

nghiên cứu và hoàn thiện nhằm hơn nữa quyền lợi của lao động nữ.

Chu Hà My (năm 2015), “Những điểm mới của Luật bảo hiểm xã hội

sửa đổi năm 2014”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường Đại học Luật Hà Nội:

Luận văn tổng hợp một cách có hệ thống các vấn đề chung về bảo hiểm xã

hội; so sánh, nghiên cứu, phân tích và chỉ ra những điểm mới Luật Bảo hiểm

xã hội năm 2014 so với Luật bảo hiểm xã hội năm 2006; Luận văn nêu ra

Về luận văn thạc sĩ có thể kể đến các luận văn sau:

chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.

5

những yêu cầu cơ bản và những kiến nghị cụ thể để nâng cao hiệu quả điều

Chu Linh Trang (năm 2017), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường

Đại học Luật Hà Nội.

Hoàng Thúy Hà (năm 2017), “Chế độ thai sản và thực tiễn thực hiện

tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường

Đại học Luật Hà Nội.

Lường Thanh Huyền, (năm 2016), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La”, Luận văn Thạc sĩ Luật học

trường Đại học Luật Hà Nội…

hội thai sản ở các góc độ khác nhau song chưa có công trình nghiên cứu nào

Các công trình nghiên cứu nói trên tuy có nghiên cứu về Bảo hiểm xã

về pháp luật Bảo hiểm xã hội thai sản từ thực tiễn thực hiện tại Hà Giang. Bởi

vậy, luận văn này chính là công trình nghiên cứu khá mới mẻ về đề tài Bảo

hiểm xã hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang và sau này có

thể là một trong những tài liệu tham nâng cao công tác thực hiện BHXH thai

sản tại tỉnh Hà Giang.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về

BHXHTS, đánh giá một cách toàn diện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản

hiện hành cũng như thực tiễn thực tiễn tại tỉnh Hà Giang đồng thời đưa ra

trên địa bàn tỉnh Hà Giang.

Trên cơ sở mục tiêu đó luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau đây:

- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHXHTS

- Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS

- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật BHXHTS ở địa bàn tỉnh

những giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXHTS

6

Hà Giang.

- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật BHXHTS và

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại tỉnh Hà Giang.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Về Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là

những quy đinh của pháp luật về BHXHTS mà cụ thể là Luật BHXH năm

2014 và các văn bản hướng dẫn về chế độ thai sản. Bên cạnh đó luận văn

cũng nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang

những năm gần đây. Trong luận văn này, tác giả sử dụng các số liệu liên

quan đến bảo hiểm thai sản trong giai đoạn 2015 - 2017 mà bảo hiểm xã

Về phạm vi nghiên cứu: BHXHTS là một vấn đề có thể được nghiên

hội tỉnh Hà Giang cung cấp.

cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên

cứu BHXHTS dưới góc độ luật học với tư cách là một chế độ BHXH bắt buộc

ở các nội dung như đối tượng và điều kiện hưởng, chế độ hưởng, thủ tục

hưởng BHXH thai sản. Các nội dung khác như xử lý vi phạm, giải quyết tranh

chấp về BHXHTS... không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu

của Triết học Mác – Lê Nin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương

pháp lịch sử và logic, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn; phương pháp

giả sử dụng các phương pháp này cho phù hợp.

phân tích tổng hợp thống kê, so sánh. Tùy theo nội dung của vấn đề mà tác

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

* Ý nghĩa lý luận: Luận văn phân tích những vấn đề lý luận cũng như

quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS tạo cơ sở cho việc hoàn thiện

các quy định của pháp luật về BHXHTS cũng như đưa ra các giải pháp nhằm

7

nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật pháp luật BHXHTS.

* Ý nghĩa thực tiễn

- Đối với bản thân tác giả: học viên có cơ hội tìm hiểu sâu về chế độ

bảo hiểm thai sản, qua đó nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học của bản

thân và tăng cường hiểu biết thực tế.

- Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong

công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan

tâm đến pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về BHTS nói riêng.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản và pháp

của luận văn có kết cấu ba chương:

luật về bảo hiểm xã hội thai sản.

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã

hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hà Giang.

Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao

8

hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN

VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN

1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản

1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội thai sản

Theo Bách khoa toàn thư thì:

BHXH là biện pháp bảo đảm, thay đổi hoặc bù đắp một phần thu

nhập của người lao động do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc

được tập trung từ sự đóng góp của người lao động và gia đình họ,

mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ

đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội hội là

trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước.

Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO:

Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu

nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc

mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử

dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo

hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người

lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã

nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo

hiểm xã hội [34].

Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp

những chế định thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là

một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng và phạm vi; về

hội, mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề

9

nghĩa vụ và quyền lợi, về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp

BHXH cụ thể. Chế độ BHXH được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản pháp

luật. Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề

mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng đắn và tính nhất

quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH Theo khuyến nghị của Tổ

chức Lao động quốc tế ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952

tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau đây:

1 Chăm sóc y tế; 2 Trợ cấp ốm đau; 3 Trợ cấp thất nghiệp; 4 Trợ cấp

tuổi già; 5 Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 6 Trợ cấp gia

đình; 7 Trợ cấp sinh đẻ; 8 Trợ cấp khi tàn phế; 9 Trợ cấp tiền tuất trợ

chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước

cấp mất người nuôi dưỡng. Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống

tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ

khác nhau, nhưng ít nhất là phải thực hiện được 3 chế độ [31].

Vì vậy có thể đưa ra định nghĩa về bảo hiểm xã hội thai sản như sau:

“BHXH thai sản là chế độ BHXH nhằm đảm bảo hoặc bù đắp một phần thu

nhập cho người lao động khi bị giảm hoặc mất thu nhập liên quan đến thai

sản trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH, do Nhà nước tổ chức thực hiện.”

Người lao động được hưởng BHXHTS ở đây không có nghĩa chỉ là

lao động nữ mà có thể còn là lao động nam. Sự kiện thai sản ở đây bao gồm

mang thai, sinh con hoặc có các sự kiện thai sản khác như thực hiện các biện

thể mà lao động nữ hoặc lao động nam sẽ được hưởng chế độ thai sản theo

quy định [11, tr.26]

So với các chế độ khác, đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu

là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai

hoặc thai chết lưu, sinh con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp

pháp kế hoạch hóa gia đình. Tùy thuộc vào từng điều kiện, trường hợp cụ

10

tránh thai; còn lao động nam đang đóng bảo hiểm mà có vợ sinh con cũng

được hưởng trợ cấp này. Thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên,

mục đích trợ giúp, giữ cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn về mặt

vật chất, bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ và người lao động. Hiện nay, chế

độ thai sản được quy định trong pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới

nhưng tuỳ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà chế độ này

quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức trợ cấp, điều kiện hưởng,…

1.1.2. Vai trò và ý nghĩa bảo hiểm xã hội thai sản

Trong hệ thống các chế độ BHXH, bảo hiểm xã hội thai sản là chế độ

bảo hiểm được áp dụng chủ yếu là đối với lao động nữ.

đồng xã hội đối với thế hệ tương lai, đồng thời cũng thể hiện sự bình đẳng xã

Chính sách thai sản thể hiện trách nhiệm của Nhà nước và của cộng

hội ngày càng nâng cao. Chính vì thế mà Nhà nước cần phải đề ra những

chính sách đối với đối tượng quan trọng này với mục đích thay thế hoặc bù

đắp một phần thu nhập khi người lao động nữ phải nghỉ việc trong thời gian

sinh con nhằm đảm bảo cho họ có một cuộc sống bình thường để chăm con và

hồi phục sức khoẻ.

Bảo hiểm xã hội thai sản là sự đảm bảo thu nhập và ổn định cuộc

sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hoặc nuôi con trong

một thời gian ngắn. Nó có vị trí quan trọng đối với người lao động nữ,

nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh

Người phụ nữ ngày nay đã tự lao động để đảm bảo cuộc sống và cống

hiến cho xã hội qua đó họ ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của

bản thân trong xã hội, họ đã có mặt trong hầu hết các ngành nghề và đã thể

hiện một cách xuất sắc năng lực của mình. Khác với nam giới họ còn có

nhiệm vụ quan trọng là tái sản xuất con người, do đó khi mang thai và sinh

đẻ và nuôi con sơ sinh.

11

con là giai đoạn khó khăn nhất của họ nên họ cần được sự quan tâm ngược lại

từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp phù hợp với công sức mà họ đã

đóng góp trong suốt quá trình lao động.

Như vậy, BHXH thai sản là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, nó

được thực hiện thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ

khác. Nói cách khác, nó diễn ra một cách liên tục vì sự sống luôn phát triển vì

vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người

trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc

giữa người với người.

Bảo hiểm xã hội thai sản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ

lao động trong xã hội và đến tương lai của một đất nước. Một đất nước muốn

thống BHXH của mỗi quốc gia vì chế độ này ảnh hưởng đến một bộ phận lớn

tồn tại và phát triển phải chăm lo chu đáo đến thế hệ tương lai. Bảo hiểm xã

hội thai sản là một chế độ ngắn hạn trong hệ thống các chế độ BHXH nhưng

đó là một trong năm chế độ được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển

của BHXH ở nước ta. Cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ trợ cấp thai

sản đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của hàng triệu người lao

động và gia đình họ, khuyến khích người lao động hăng hái, yên tâm lao động

sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong mỗi

giai đoạn lịch sử.

BHXH đã được thực hiện hàng trăm năm nay và chế độ trợ cấp thai sản

một quốc gia được coi là có hệ thống BHXH chỉ khi có ít nhất 1 trong 3 chế

độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được thiết lập.

Theo thống kê, trong tổng số 173 nước tính đến năm 2002 có hệ thống BHXH

thì có 112 nước thực hiện BHXH thai sản (chiếm 64%) [34].

Bảo hiểm xã hội thai sản là chế độ có vai trò to lớn trong hệ thống

là một trong những chế độ được thực hiện sớm nhất. Theo quy định của ILO,

12

BHXH của mỗi quốc gia, bởi lẽ đó là chế độ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc

đời của những người tham gia BHXH. Trong điều kiện nền kinh tế thị

trường, khi nguồn thu nhập chính của người lao động là thu nhập từ các

hoạt động tu nghiệp. Khi nghỉ thai sản, nguồn thu nhập chủ yếu của họ lại

là khoản trợ cấp BHXH.

Trong hệ thống chính sách xã hội có những loại chính sách xã hội phổ

biến, có ảnh hưởng, có tác động đến đại bộ phận các tầng lớp dân cư trong xã

hội. Đồng thời, có những loại chính sách xã hội có tính đặc thù, chỉ có những

ảnh hưởng, những tác động đến một bộ phận, một giai tầng xã hội nào đó mà

thôi. Nói cách khác, mỗi một loại chính sách xã hội có một loại đối tượng tác

sách xã hội, chính sách thai sản đối với người lao động giữ một vai trò rất to

động nhất định nhằm đạt một mục tiêu nhất định. Là một bộ phận của chính

lớn. Thứ nhất, đối tượng của chính sách là những người lao động nữ, chiếm

một tỷ lệ đáng kể trong dân cư và trong lực lượng lao động của xã hội. Những

người này đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước.

Thứ hai, mục tiêu của chính sách đối với người nghỉ thai sản là nhằm góp

phần đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần cho họ trong thời gian nghỉ sinh

con không có nguồn thu nhập nào khác.

- Đối với người lao động

Chế độ thai sản có vai trò bù đắp một phần thiếu hụt về thu nhập của

người lao động. Trong thời kỳ thai sản, người lao động phải nghỉ việc, không

động một mặt bù đắp được thu nhập bị giảm, mặt khác hỗ trợ được các khoản

chi phí tăng thêm như: mua sắm dụng cụ, tã lót, sữa, … cho em bé, tăng

cường dinh dưỡng cho mẹ. Đồng thời, giúp thực hiện tốt chức năng và bảo vệ

quyền làm mẹ, làm vợ của người phụ nữ. Bên cạnh đó, giúp cho tâm lý của

người lao động ổn định, đặc biệt là người lao động khi họ có nhu cầu có con,

có lương, vì thế thu nhập sẽ bị giảm. Chế độ thai sản trợ cấp cho người lao

13

xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái, bảo vệ sức khoẻ của cả

mẹ và con, không lo lắng về chi phí sinh con khi không tham gia lao động.

Đối với lao động nam đang đóng bảo hiểm có vợ sinh con, trợ cấp thai sản

đóng góp một phần khá lớn để cuộc sống gia đình được ổn định, hơn nữa lao

động nam có thể bên cạnh chăm sóc vợ, con mình sau sinh. Đặc biệt trong

thời kỳ thai sản, người lao động bị giảm thu nhập do không có thời gian tập

trung nhiều cho công việc mà phải dành thời gian trong thời kỳ khám thai,

chăm sóc con sơ sinh… nên nhờ có chế độ thai sản đã hỗ trợ một phần lớn chi

phí của lao động trong thời kỳ thai sản.

- Đối với người sử dụng lao động: Thực hiện tốt chế độ thai sản sẽ góp

sử dụng lao động thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao

phần thu hút lao động vào các doanh nghiệp. Thông qua chính sách này người

động và đối với toàn xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được

một lực lượng lớn lao động, đặc biệt là lao động nữ đã và đang ngày càng

tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.

- Đối với Nhà nước

Thực hiện tốt chế độ thai sản góp phần ổn định cuộc sống cho xã hội,

đảm bảo thực hiện chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Chế độ thai sản còn

mang ý nghĩa góp phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong

tương lai, góp phần dung hoà mối quan hệ người sử dụng lao động và người

lao động giúp cho việc sản xuất diễn ra liên tục giúp tăng trưởng kinh tế.

nên về lâu dài nó góp phần nâng cao năng suất lao động vì cuộc sống của

người lao động được đảm bảo ổn định, do đó họ quan tâm hơn trong lao động

sản xuất và cảm thấy phấn khởi, từ đó thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.

Đồng thời đảm bảo an toàn xã hội và văn minh xã hội.

Ngoài ra, nguồn quỹ của bảo hiểm xã hội còn nhàn rỗi thường rất lớn,

Bảo hiểm xã hội đã góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động,

14

trong khi đó nó luôn được bổ sung liên tục, vì vậy phần quỹ nhàn rỗi chưa sử

dụng được đầu tư để tăng trưởng, nên đã tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc

dân phát triển, giảm bớt khó khăn về vốn đầu tư cho Nhà nước.

Vì vậy bảo hiểm xã hội có vai trò là gắn với lợi ích của người lao động,

người sử dụng lao động và Nhà nước với nhau, tạo thành một mối quan hệ

chặt chẽ, thúc đẩy xã hội phát triển.

1.2. Một số vấn đền lý luận về pháp luật BHXH thai sản

1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật BHXH thai sản

Pháp luật bảo hiểm thai sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà

nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp khác nhau. Pháp luật

tham gia bảo hiểm thai sản; điều kiện hưởng, thời gian hưởng và mức hưởng

về bảo hiểm thai sản điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến đối tượng

bảo hiểm thai sản; nguồn quỹ để thực hiện bảo hiểm thai sản và việc xử phạt

vi phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thai sản, cũng như các

vấn đề có liên quan khác.

Pháp luật bảo hiểm thai sản là cơ sở pháp lý để người lao động được

thụ hưởng trợ cấp khi sự kiện thai sản xảy ra. Dựa trên những quy định của

pháp luật, người lao động và cơ quan bảo hiểm mới có căn cứ để thực hiện

đúng và thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình. Pháp luật bảo hiểm thai

sản còn góp phần thực hiện chính sách xã hội của quốc gia (đặc biệt là chính

sách về dân số). Bởi lẽ, pháp luật là công cụ mà Nhà nước sử dụng đề điều

của quốc gia, nhằm mục đích bảo vệ và chăm lo đời sống cho người dân. Các

chính sách về bảo hiểm thai sản đã góp phần đảm bảo sự ổn định cuộc sống

của người dân, góp phần tái tạo lực lượng lao động trong tương lai.

Theo từ điển tiếng việt, nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản

nhất phải tuân the. Với cách hiểu như vậy trong bất kỳ một ngành khoa học

chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, thông qua đó để thực hiện các chính sách

15

hay lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đều cần phải có những nguyên tắc chung

thống nhất, xuyên suốt toàn bộ hoạt động, là “xương sống” đảm bảo đúng

mục đích đề ra ngay khi bắt đầu hoạt động [39].

Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội thai

sản nói riêng, trong khoa học pháp lý được xác định là những tư tưởng chủ

đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động bảo hiểm xã hội, xuất phát từ

bản chất của các chế độ bảo hiểm xã hội, thực tiễn hoạt động cũng như chính

nguyên tắc bảo hiểm xã hội và được coi là cơ sở nền tảng cho việc tổ chức

quản lý và thực thi chính sách BHXH thai sản.

Nguyên tắc 1: Mức hưởng của bảo hiểm xã hội thai sản được tính

trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa

những người tham gia BHXH thai sản [42].

Cơ sở hình thành nguyên tắc: BHXH thai sản, là loại bảo hiểm vừa mang

tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Tính kinh tế của BHXH thai sản thể hiện ở

chức năng phân phối thu nhập, đảm bảo đời sống cá nhân cũng như của gia

đình người lao động. Để thực hiện việc phân phối đó một cách có hiệu quả,

BHXH thai sản trong quá trình triển khai phải có sự kết hợp hài hòa giữa cống

hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa mức đóng và mức hưởng.

Đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng thụ. Cần căn cứ vào

sự cống hiến của người lao động như mức hưởng thụ. Cần căn cứ vào sự cống

hiến của người lao động như mức đóng góp, thời gian đóng góp cho các quỹ

hưởng sao cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động.

Mức trợ cấp được hưởng phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng

góp và sự kiện pháp lý kèm theo (tỷ lệ suy giảm hay mất khả năng lao động,

thai sản) tỷ lệ đóng góp bảo hiểm xã hội và mức trợ cấp của người lao động

có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập của người được bảo hiểm. Nguyên tắc

bảo hiểm xã hội… để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian

16

bảo hiểm xã hội trên cơ sở phân phối theo lao động luôn đảm bảo yếu tố công

bằng hợp lý. Người lao động phải tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội thai sản

mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thai sản. Nguyên tắc này thể hiện

hai nội dung cơ bản.

Một là, mức hưởng bảo hiểm xã hội thai sản được tính trên cơ sở mức

đóng góp và thời gian đóng góp. Mức đóng góp và thời gian đóng góp được

sử dụng làm căn cứ để đối tượng đóng bảo hiểm được hưởng bảo hiểm xã hội

thai sản, tức đóng góp đến đâu thì mức thụ hưởng tới đó. Bảo hiểm xã hội thai

sản là một hình thức phân phối phổ biến tổng thu nhập quốc dân bảo hiểm xã

hội phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ (nguyên

như nhau thì được hưởng bảo hiểm như nhau. Nghĩa là phải đảm bảo hợp lý

tắc phân phối theo lao động). Những người lao động có thời gian và phí đóng

giữa đóng góp và hưởng thụ, tức là căn cứ vào mức đóng góp của người lao

động cho xã hội thể hiện thông qua mức đóng, thời gian đóng góp vào quỹ xã

hội… để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù

hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động. Vì vậy rất khó chấp nhận

về mặt kinh tế khi một người lao động vừa tham gia bảo hiểm xã hội thai

sản trong thời gian ngắn lại được hưởng ngay mức bảo hiểm xã hội thai sản

suốt thời gian nghỉ thai sản [43].

Hai là, ở một khía cạnh khác nguyên tắc này thể hiện sự chia sẻ giữa

những người tham gia bảo hiểm xã hội, điều này có nghĩa là không phải bất

hiểm xã hội thai sản. Người lao động cùng với người sử dụng lao động và nhà

nước cùng tạo lập hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội độc lập và tập trung

trong đó đa số những người đóng góp bảo hiểm xã hội sẽ hỗ trợ cho số những

người có đủ điều kiện để hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thai sản theo nguyên

tắc “lấy số đông bù số ít”. Nghĩa là chỉ những người đang trong thời gian nghỉ

kỳ người lao động nào tham gia đóng bảo hiểm xã hội đều được hưởng bảo

17

sau sinh, không có khả năng lao động, không có nguồn thu nhập khi nghỉ thai

sản, những khó khăn lớn vượt xa so với khả năng kinh tế của người lao động,

trên cơ sở chia sẻ của những người cùng tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì

khoản phí của những người tham gia bảo hiểm xã hội mà không gặp phải

hoàn cảnh như vậy sẽ được bù đắp cho những người khó khăn hơn về mặt tài

chính khi không thể duy trì công việc hằng ngày [43].

Thu nhập từ BHXH thực tế là phần thu nhập của NLĐ tham gia bảo

hiểm mà nếu có biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao

động thì tổ chức BHXH phải chi trả trợ cấp để thay thế hoặc bù đắp. Theo đó,

tại nước ta, mức đóng BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức thu nhập của họ

Như vậy, mới có thể đảm bảo NLĐ khi xảy ra sự kiện thai sản, được

nhưng không thấp hơn mức tối thiểu chung.

cung cấp một nguồn tài chính ổn định, bằng với mức sống tối thiểu.

Nguyên tắc 2: Nhà nước thống nhất quản lý chính sách quỹ BHXH

nói chung và quỹ BHXH thai sản nói riêng, theo nguyên tắc dân chủ, công

khai, minh bạch [42]

Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành.

Trong đó, bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ bao trùm toàn bộ

những người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và NLĐ thuộc khu vực

kinh tế quan trọng của đất nước. Ở nước ta do những điều kiện kinh tế - xã

hội Nhà nước. Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính

cục bộ, những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để bộ phận

cấu thành có thể năng động trong hoạt động để có thể bù đắp,bổ sung những

ưu điểm cho nhau.

Bên cạnh đó, qũy BHXH là hạt nhân của chính sách BHXH nói chung

và BHXH thai sản nói riêng, vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất

cao và là điều kiện, vừa là cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn hệ

thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tùy tiện, tính

18

thống BHXH tồn tại phát triển.

Do đó, quỹ BHXH được quản lý thống nhất và hạch toán theo các quỹ

thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích nhằm

đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ cho công tác

hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để điều chỉnh chính sách cho phù

hợp, đảm bảo cân bằng thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ thành phần

mất cân đối, không ảnh hưởng đến người quyền lợi người tham gia BHXH.

Có như vậy,mới đảm bảo cuộc sống của NLĐ và gia đình họ khi gặp biến cố,

rủi ro hoặc sự kiện thai sản làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động.

Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời

lý. Để đảm bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu

sống xã hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp

mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước hết là trách

nhiệm của Nhà nước. Bởi nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và

quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội thông qua việc ban hành các quy

định pháp luật về bảo hiểm xã hội và kiểm tra thực hiện các quy định đó. Mặt

khác, quỹ bảo hiểm xã hội với ý nghĩa là một quỹ tích lũy hình thành trên cơ

sở đóng góp của ba bên (Nhà nước – người sử dụng lao động – người lao

động), nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho người lao động khi họ gặp rủi ro,

khó khăn không chỉ khi đang tham gia quan hệ lao động. Do đó bên cạnh

nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động thì

thiết Nhà nước có các biện pháp để bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn

về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội.

Để hạn chế được thất thoát cho quỹ và nâng cao tính hiệu quả trong

quản lý quỹ bảo hiểm xã hội thì cần phải thực hiện được đầy đủ nguyên tắc

này. Trong quản lý nhà nước về tài chính bảo hiểm xã hội cần quy định và

Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội và trong trường hợp cần

19

hướng dẫn cụ thể về các hạng mục thu, chi; quy chế quản lý đầu tư quỹ bảo

hiểm xã hội cũng cần phải rõ ràng, minh bạch…; đồng thời phải có cơ chế

kiểm tra, giám sát, chế độ báo cáo, kiểm toán… Bên cạnh đó, bảo hiểm xã

hội là cơ quan quản lý quỹ cần có chiến lược về tuyển dụng, đào tạo, bồi

dưỡng để hình thành được một đội ngũ cán bộ có đầy đủ chuyên môn nghiệp

vụ, kỹ năng về quản lý tài chính nhằm đáo ứng tốt nhiệm vụ được giao.

Nguyên tắc mang ý nghĩa đảm bảo tính hiệu quả của an sinh xã hội;

tính thống nhất, công khai và minh bạch nhằm tránh sự chồng chéo trong hệ

thống bảo hiểm xã hội, tạo diều kiện thuận lợi cho các đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội.

Nguyên tắc 3: Việc thực hiện BHXH thai sản phải đơn giản, dễ dàng,

thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia

BHXH [42]

Với nguyên tắc này việc thực hiện BHXH thai sản đối với NLĐ phải

được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết

sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ, người sử dụng lao

động khi tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.

Nguyên tắc 4: Các quy định về BHXH thai sản phải đảm bảo quyền

lợi về vật chất và tinh thần của NLĐ cũng như trẻ sơ sinh [42]

Đặc điểm của kỳ thai sản là một khoảng thời gian kéo dài và liên tục từ

lúc mang thai, quá trình nghỉ sinh con, chăm sóc trẻ sơ sinh đến khi ổn định

hiện các sự cố, quá trình nghỉ sinh con, nuôi con sơ sinh…phải có chính sách

phù hợp cụ thể và nhất quán nhằm đảm bảo người phụ nữ phải được chăm sóc

chu đáo, liên tục. Các chính sách chế định BHXH thai sản cũng phải đảm bảo

đủ thời gian để người mẹ ổn định và phục hồi sức khỏe sau khi sinh con và

chăm sóc con trong thời gian ban đầu cũng như tạo điều kiện cho trẻ sơ sinh

lại sức khỏe trở lại lao động bình thường, nên việc khám thai đều đặn để phát

20

thích nghi và phát triển trong moi trường mới.

1.2.2. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản

1.2.2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội thai sản

- Về đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản

Đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu là lao động nữ trong

độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu,

sinh con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai, bên

cạnh đó có những đối tượng khác như lao động nam và người lao động

nhận nuôi con nuôi…

Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,

Trường hợp bảo vệ bao gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu

năm 1952 chỉ rõ:

quả tiếp theo, và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh như pháp luật

của quốc gia quy định. Đồng thời Công ước cũng quy đinh những

người được hưởng chế độ thai sản phải bao gồm: Mọi phụ nữ

thuộc làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm

50% toàn bộ người làm công ăn lương, hoặc mọi phụ nữ được

quy định trong dân số hoạt động kinh tế, và tổng số ít nhất chiếm

20% toàn bộ người thường trú; hoặc bao gồm mọi phụ nữ thuộc

những loại làm công ăn lương được quy định, và tổng số ít nhất

chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương làm việc trong các

trường hợp trợ cấp y tế về thai sản thì bao gồm cả vợ của những

người thuộc các loại này [31].

Theo Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952

quy định thì chế độ thai sản “áp dụng cho những phụ nữ làm việc trong các cơ

sở công nghiệp và trong các công việc phi công nghiệp và nông nghiệp, kể cả

doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên; trong

21

những phụ nữ làm công ăn lương, làm việc tại nhà”. Và từ “phụ nữ” ở đây là

chỉ nữ giới, ở bất kỳ độ tuổi, quốc tịch, chủng tộc, hoặc tín ngưỡng tôn giáo

nào, có kết hôn hay không, và từ “con” là chỉ mọi đứa con sinh ra trong hoặc

ngoài giá thú. Với mục đích của Công ước là nhằm đảm bảo cho mọi lao động

nữ, trẻ sơ sinh đều được chăm sóc cần thiết và được bảo vệ mức sống đủ cho

mẹ con trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc mà không hề có sự

phân biệt đối xử nào về tôn giáo, chủng tộc, nghề nghiệp, độ tuổi… [32]

Và trong Công ước số 156 - Công ước về bình đẳng cơ may và đối xử

với lao động nam và lao động nữ: những người có trách nhiệm gia đình, năm

1981 thì đối tượng được bảo vệ không chỉ là lao động nữ mà cả lao động nam

bộ nhất của Công ước này, nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới [55].

và nữ, những người có trách nhiệm trong gia đình, đây được xem là điểm tiến

- Về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản

Điều kiện hưởng chế độ thai sản yêu cầu hai điều kiện cơ bản đó là:

những người đang mang thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH và phải có thời

gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh. Thời gian này được quy định theo điều

kiện của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, thông thường các nước yêu cầu thời

gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12 tháng.

Cụ thể, ở Argentina, điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước

khi sinh là 10 tháng liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng

trước khi sinh trong đó có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh. Hay ở

liên tục 4 đến 10 tháng trước khi sinh. Tại Pháp là 200 giờ làm việc trong 3

tháng cuối cùng tước khi sinh. Với mục đích là tránh việc người chủ sử

dụng lao động chấm dứt HĐLĐ khi người lao động sinh con và tránh thâm

hụt quỹ tài chính BHXH [14].

Sở dĩ, cần quy định cụ thể về điều kiện hưởng chế độ thai sản là

Đức, thời gian này là 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc

22

NLĐ tham gia BHXH và có thời gian đóng góp tối thiểu trước sinh nhằm

đảm bảo về mặt tài chính cho quỹ BHXH khi chi trả các chế độ bảo hiểm

thai sản và mặt khác, nhằm ngăn chặn những tình trạng lạm dụng, trục lợi

quỹ bảo hiểm xã hội.

Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong điều kiện nhận trợ cấp thai sản

họ đều yêu cầu hai điều kiện chủ yếu đó là:

+ Những người đang mang thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH.

+ Phải có thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh, thông thường các

nước yêu cầu thời gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12

tháng cuối cùng trước khi sinh.

Bảng 1.1: Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh ở một

số nước trên thế giới

Stt

Tên nước

Thời gian yêu cầu

1 Áchentina

10 tháng đóng góp liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng đóng góp trong 12 tháng trước khi sinh trong đó

có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh.

2 Trung Quốc

Không quy định thời gian tham gia tối thiểu

3 Pháp

Có 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng trước khi sinh

4 Đức

Có 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc liên tục từ 4 đến 10 tháng trước khi sinh

5 Nhật Bản

Tất cả những người có việc làm trong diện tham gia bảo hiểm

6 Mêhicô

Có 30 tuần đóng góp trong 12 tháng cuối cùng trước khi sinh

7 Balan

Những người hiện tại đang làm việc ở những nơi thuộc phạm vi tham gia bảo hiểm xã hội

8 Nga

Không quy định thời gian đóng góp tổi thiểu

9 Nam Phi

Có 13 tuần đóng góp trong 52 tuần trước khi sinh

10 Thái Lan

7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh (chỉ giới

hạn trong 2 lần sinh)

(Nguồn: Bảo đảm xã hội của các nước trên thế giới - Xuất bản năm 1999)

23

1.2.2.2. Thời gian hưởng và mức hưởng bảo hiểm xã hội thai sản

Thời gian hưởng bảo hiểm thai sản

Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản bao gồm thời gian khi thai

nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo sau sinh.

“Độ dài thời gian nghỉ thai sản ít nhất là 12 tuần, trong đó một phần

thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ” theo Khoản 2 Điều 3, Công ước

số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952 quy định [32].

Độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau sinh đẻ sẽ do pháp luật hoặc

pháp quy quốc gia quy định, nhưng bất kỳ trường hợp nào cũng

quy quốc gia quy định, nhưng có thể nghỉ vào trước thời điểm dự

không được dưới 6 tuần; phần còn lại, tùy theo pháp luật hoặc pháp

tính sinh đẻ, hoặc sau thời điểm đã hết thời gian nghỉ bắt buộc, hoặc

là chia ra một phần nghỉ trước thời điểm thứ nhất và một phần nghỉ

sau thời điểm thứ hai nói trên, Khoản 3, Điều 3 Công ước 103 về

bảo vệ thai sản năm 1952 quy định [33].

Thông thường, các nước sẽ quy định cả thời gian nghỉ cả trước khi sinh

và sau khi sinh để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và trẻ sơ sinh được ổn định.

Hay theo Công ước số 183 - Công ước Công ước về sửa đổi Công ước

Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Để bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ

sinh, thời gian nghỉ thai sản bao gồm 6 tuần nghỉ bắt buộc sau sinh” và “Thời

ngày sinh thức tế mà không bị giảm thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh” [33].

Và theo Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo

vệ thai sản năm 1952:

Các Nước thành viên cần cố gắng tăng thời gian nghỉ thai sản theo

Điều 3 của Công ước 103 lên ít nhất là 18 tuần. Cần có quy định

gian nghỉ mang thai được nới rộng bằng thời gian giữa ngày sinh dự kiến và

24

kéo dài thời gian nghỉ thai sản trong trường hợp đa sinh. Cần có các

biện pháp đảm bảo rằng người phụ nữ có quyền tự do chọn lựa thời

gian nghỉ thai sản trước hoặc sau khi sinh nở [12].

Ngoài ra, nếu sinh đẻ sau thời điểm đã dự tính, thì trong mọi trường

hợp, thời gian đã nghỉ trước đó sẽ được kéo dài cho tới thời điểm sinh đẻ thực

tế và độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ sẽ không được vì thế

mà giảm bớt, đảm bảo đủ thời gian đủ thời gian nghỉ sau sinh bắt buộc ít nhất

là 6 tuần. Sở dĩ, các Công ước đều quy định thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh ít

nhất là 6 tuần, vì đây là thời gian tối thiểu đảm bảo khả năng phục hồi sức

khỏe cho mẹ và cả trẻ sơ sinh.

sản năm 1952 cũng quy định thêm về trường hợp hưởng chế độ của người

Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai

cha như sau:

Trong trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời gian nghỉ

sau sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ với thời

gian tương đương với thời gian mà người mẹ chưa nghỉ hết; trong

trường hợp người mẹ ốm đau hoặc nằm viện sau khi sinh và trước

khi hết thời gian nghỉ sau khi sinh mà người mẹ không thể chăm

sóc được trẻ thì người cha phải được quyền nghỉ một thời gian

tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết

để chăm sóc trẻ theo luật định và thông lệ ở nước đó; người mẹ hay

gian nghỉ thai sản [12].

Thực tế, các quốc gia trên thế giới đã có những quy định khác nhau và

linh hoạt về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của người cha. Cụ thể,

Iceland - một trong những quốc gia có chế độ ưu đãi tuyệt vời nhất dành cho

các bà mẹ. Chế độ nghỉ thai sản đã có ở quốc gia này đã có từ những năm

người cha của trẻ phải có quyền nghỉ chăm sóc con sau khi hết thời

25

1970, và năm 2012 một chính sách mới mang tên 5-2-5 đã được ra đời. Chính

sách này cho phép các bà mẹ và ông bố mỗi người được nghỉ 5 tháng khi có

con. Thêm 2 tháng nghỉ nữa hai người có thể tự thỏa thuận phân chia với

nhau. Ngoài ra, các vị phụ huynh cũng có đến 2 năm để sử dụng thời gian

nghỉ này và được hưởng 80% thu nhập trong thời gian đó. Hay ở Đan Mạch,

mỗi cặp vợ chồng ở đây khi sinh con sẽ được nghỉ tổng cộng 1 năm, trong đó,

thời gian nghỉ của các bà mẹ là 18 tuần, các ông bố là 2 tuần, và 32 tuần còn

lại sẽ được chia cho cả bố và mẹ. Ở Singapore, từ năm 2013 người chồng có

thể nghỉ một tuần có lương để giúp đỡ người vợ mới sinh. Trường hợp người

vợ sẵn sàng chia sẻ một tuần trong 4 tháng nghỉ thai sản của mình cho chồng

nghỉ phép này của người chồng sẽ do Chính phủ chi trả. Số tiền cao nhất mỗi

thì người chồng có thể hưởng thêm một tuần nghỉ nữa. Lương trong 2 tuần

tuần là khoảng 38 triệu VND [14].

Ngoài ra trong thời gian nuôi con nhỏ, phụ nữ có quyền nghỉ một hoặc

một số lần hay giảm thời gian làm việc để cho con bú. Thời gian nghỉ, số lần

nghỉ hoặc giảm giờ làm việc được quy định cụ thể tùy theo mỗi quốc gia.

Nhưng thời gian này tính vào thời gian làm việc và do đó, người lao động nữ

vẫn được tính lương đầy đủ. Khuyến nghị số 191 còn quy định các hình thức

nghỉ liên quan như sau: trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời gian

nghỉ sau khi sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ một thời

gian tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết để

chăm sóc trẻ sau khi sinh của quy luật hiện hành [12].

Mức hưởng bảo hiểm thai sản

Trợ cấp chế độ thai sản có hai phương thức thực hiện là trợ cấp bằng

tiền và chăm sóc y tế:

+ Đối với chăm sóc y tế:

Đối với trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả của sự kiện này

26

(nếu có), người lao động nữ sẽ được hưởng trợ cấp y tế về thai sản, trợ giúp

về y tế bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một

người đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc phụ trách và cả việc nằm viện

nếu cần thiết, các dịch vụ hỗ trợ y, dược, khám thử, chăm sóc răng, kể cả giải

phẫu và nằm viện khi cần thiết.

Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội

đã quy định rõ:

Chăm sóc y tế phải nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức

khỏe của người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng làm việc, khả

năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ. Các cơ quan chính phủ

những người phụ nữ được bảo vệ, bằng mọi cách được coi là thích

hoặc thể chế quản lý trợ cấp y tế về thai sản phải khuyến khích

đáng, để họ sử dụng các dịch vụ y tế chung của cơ quan hoặc của

cơ quan được thừa nhận, dành cho họ [31]

Ngoài ra Công ước số 103 – Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại

năm 1952 quy định cụ thể về các trường hợp được chăm sóc y tế tại

Khoản 3 Điều 4 là:

Trợ giúp về y tế bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và

sau khi đẻ, do một người đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc

phụ trách và cả việc nằm viện nếu cần thiết [32].

Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai

Khám tại phòng khám, tại nhà hoặc tại bệnh viện hoặc cơ quan y tế

khác do chuyên gia hoặc chuyên viên đa khoa; chăm sóc thai sản do

một bác sỹ sản khoa đủ trình độ hoặc các dịch vụ chăm sóc thai sản

tại nhà, bệnh viện hay các cơ quan y tế khác; duy trì chế độ thai sản

tại bệnh viện và các sở y tế; bất kỳ dịch vụ hỗ trợ y, dược, khám,

sản năm 1952 quy định cụ thể hơn về chế độ y tế nên bao gồm:

răng và giải phẫu [12]

27

thử do bác sỹ hoặc chuyên gia y tế có trình độ kê đơn; chăm sóc

Ngoài ra, Công ước số 103 – Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm

1952 cũng quy định “quyền tự do lựa chọn thầy thuốc và tự do lựa chọn bệnh

viện công hay tư sẽ được tôn trọng”. Tuy nhiên, các quốc gia đều khuyến

khích lao động nữ sử dụng các dịch vụ y tế chung của cơ quan và dịch vụ y tế

công cộng. Đặc biệt ở một số nước có thực hiện cả trợ cấp chi phí đi lại, dịch

vụ chăm sóc tại nhà [32].

- Đối với trợ cấp thai sản bằng tiền:

Trong trường hợp gián đoạn thu nhập do thai nghén, sinh đẻ và những

hậu quả tiếp theo, lao động nữ sẽ được trợ cấp bằng tiền theo định kỳ. Mức

khỏe đảm bảo và mức sống phù hợp.

trợ cấp phải đảm bảo nuôi sống chính mình và con mình trong điều kiện sức

Công ước số 103 về bảo vệ thai sản (xét lại) năm 1952 quy định, mức

trợ cấp bằng tiền sẽ do pháp luật hoặc pháp quy quốc gia ấn định, sao cho có

thể bảo đảm đầy đủ việc nuôi dưỡng cả người mẹ và đứa con trong những

điều kiện vệ sinh tốt và ở một mức sống thỏa đáng.

Theo Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã

hội, tỷ lệ trợ cấp thai sản tối thiểu là 45%, nhưng Công ước 183 mở rộng quy

định mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 thu nhập trước đó của người lao

động nữ. Bổ sung cho Công ước 183, Khuyến nghị 191 yêu cầu nâng mức trợ

cấp lên bằng mức lương trước đó của họ. Mức chi trả định kỳ có thể thay đổi

Mức hưởng trợ cấp thai sản của các nước rất khác nhau, thông thường

mức trợ cấp thai sản là 100% lương và thời gian trợ cấp thường là 6 tuần

trước khi sinh và 6 – 8 tuần sau khi sinh. Ngoài trợ cấp kể trên thì mỗi lần

sinh con người mẹ còn được cấp nuôi con với mức từ 20 đến 25% mức trợ

cấp thai sản trong thời gian từ 6 tháng trở lên. Cũng có một số nước thực hiện

trong thời gian hưởng trợ cấp [31, 32, 12].

28

hỗ trợ tiền sắm tả lót và trợ cấp thai sản một lần.

Những khoản trợ cấp bằng tiền và trợ giúp về y tế sẽ được cấp trong

khuôn khổ một hệ thống bảo hiểm bắt buộc, hoặc được lấy từ các quỹ công;

và trong cả hai trường hợp, bất kỳ người phụ nữ nào có đủ điều kiện đã quy

định đều đương nhiên có quyền được hưởng. Những người phụ nữ nào không

có đủ điều kiện hưởng quyền trợ cấp, trợ giúp nói trên, thì sẽ được nhận

những khoản trợ cấp thích đáng lấy từ các quỹ trợ giúp xã hội, nếu thỏa mãn

các điều kiện về phương tiện sinh sống để hưởng trợ cấp đó.

Bảng 1.2: Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản ở một số

nước trên thế giới

Stt

Tên nước

Thời gian và mức trợ cấp

1 Áchentina

Thời gian nhận trợ cấp cho một lần sinh là 90 ngày với mức

100% thu nhập của tháng trước khi sinh (người lao động có

thể tự lựa chọn thời gian nghỉ thích hợp: 30 ngày trước khi

sinh và 60 ngày sau khi sinh hoặc 45 ngày trước khi sinh và

45 ngày sau khi sinh).

2 Trung Quốc Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian 90 ngày (chi

phí này do chủ sử dụng lao động chịu trách nhiệm). Những

trường hợp nạo, phá thai được nhận trợ cấp trong vòng 42

ngày với mức trợ cấp bằng 100% thu nhập.

3 Pháp

Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ

cấp là 6 tuần trước khi sinh và 10 tuần sau khi sinh đối với

đứa con thứ nhất và thứ hai. Đối với đứa con thứ ba được nghỉ

8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh. Trường hợp

song thai, người mẹ được nghỉ 12 tuần trước khi sinh và 22

tuần sau khi sinh. Nếu thai ba, người mẹ được nghỉ 24 tuần

trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh.

29

Stt

Tên nước

Thời gian và mức trợ cấp

4 Đức

100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước

khi sinh và 8 tuần sau khi sinh.

Đối với những người không đủ điều kiện nhận trợ cấp như

trên thì nhân trợ cấp một lần bằng 150 DM cho một lần sinh.

5 Nhật Bản

Mức trợ cấp bằng 60% mức lương bình quân ngày trong 42

ngày trước khi sinh (98 ngày trong những trường hợp đa thai)

và 56 ngày sau khi sinh.

6 Mêhicô

Mức trợ cấp bằng 100% mức lương bình quân. Thời gian

nhận trợ cấp là 42 ngày trước khi sinh và 42 ngày sau khi sinh

(nếu sau khi sinh 42 ngày mà người mẹ không thể trở lại làm

việc bình thường được thì họ sẽ được nhận trợ cấp ốm đau).

7 Balan

Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập. Thời gian nhận trợ cấp thai

sản là 16 tuần đối với lần sinh thứ nhất, 18 tuần đối với lần

sinh thứ hai trở đi và 26 tuần đối với những trường hợp sinh

đôi, sinh ba trở lên.

8 Nga

Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian từ 10 – 12

tuần trước khi sinh và 10 – 16 tuần sau khi sinh. Những người

nghỉ việc để trông con dưới 18 tháng tuổi được nhận mức trợ

cấp hàng tháng bằng 200% mức lương tối thiểu.

9 Nam Phi

Mức trợ cấp bằng 45% thu nhập tuần trong thời gian 18 tuần

trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh.

10 Thái Lan

Mức trợ cấp bằng 50% lương trước khi nghỉ trong vòng 90

ngày cho một lần sinh. Chỉ thực hiện trợ cấp cho những người

lao động nữ có tham gia bảo hiểm.

Thực hiện trợ cấp một lần là 4 000 bạt cho một lần sinh.

(Nguồn: Bảo đảm xã hội của các nước trên thế giới - Xuất bản năm 1999)

30

1.2.2.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội thai sản

Phụ nữ thuộc đối tượng được nghỉ thai sản, phải xuất trình một giấy

chứng nhận y tế dự tính thời điểm sinh đẻ của mình. Khi lập giấy chứng nhận

y tế hoặc các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật pháp và thực

tiễn, phải nêu rõ ngày sinh dự kiến.

Điều 3, Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm

1952 quy đinh: “Phụ nữ thuộc đối tượng được áp dụng Công ước này đều có

quyền được nghỉ thai sản, khi xuất trình một giấy chứng nhận y tế dự tính thời

điểm sinh đẻ của mình” [32].

ước Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Khi lập giấy chứng nhận y tế hoặc

Tại Điều 4, Công ước số 183 - Công ước Công ước về sửa đổi Công

các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật pháp và thực tiễn, nêu rõ

ngày sinh dự kiến, người phụ nữ thuộc phạm quy áp dụng của Công ước này

31

sẽ được hưởng một thời gian nghỉ thai sản không dưới 14 tuần” [33].

Kết luận chương 1

Bảo hiểm xã hội thai sản là một trong những điều mà người lao động rất

quan tâm. Rất nhiều điều người lao động chưa biết có thể tìm đến dịch vụ bảo

hiểm xã hội để có thể đảm bảo có được thông tin chính xác nhất cho mình.

Ở nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển thì chế độ thai sản

có nhiều ưu đãi hơn rất nhiều. Chế độ thai sản ở nước ngoài sẽ có sự ưu tiên

hỗ trợ rất nhiều cho người lao động khi họ sinh con. Với các nước phát triển

như Đức, Singapore, Canada, Thụy Điển, Pháp thì việc lao động nữ sinh con

sẽ có được rất nhiều ưu đãi. Thậm chí là Đức có chế độ thai sản cho người lao

động có thể nghỉ chăm con đến khi con 03 tuổi mà người sử dụng lao động

không được phép sa thải người lao động khi nghỉ thai sản để chăm con.Hay

như Canada có chế độ thai sản vô cùng ưu đãi khi Chính phủ nước này sẽ hỗ

trợ thai sản cho đến khi con của người lao động tròn 18 tuổi.

Tuy nhiên thì không phải chế độ thai sản ở nước ngoài của nước nào

cũng giống nhau. Có một số nước thì thời gian nghỉ thai sản chỉ khoảng 3-4

tháng. Và mức lượng hưởng thai sản cũng không phải là 100% so với lương

trước khi sinh mà khoảng 60% -80%. Thậm chí chế độ thai sản ở Mỹ còn có

nhiều hà khắc hơn khi người lao động không chỉ là chỉ được nghỉ thai sản có

3 tháng mà trong thời gian nghỉ thai sản thì họ cũng không được hưởng bất cứ

này cho thấy là đối với các nước đang phát triển thì còn tùy vào chế độ an

sinh xã hội của mỗi nước như thế nào để có thể có được sự hỗ trợ tốt nhất cho

người lao động.

32

một sự hỗ trợ về lương nào từ người sử dụng lao động hay Chính phủ. Điều

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM

XÃ HỘI THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN

TẠI TỈNH HÀ GIANG

2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội

thai sản

2.1.1. Đối tượng áp dụng và điều kiện hưởng BHXH thai sản

Đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản được quy định tại khoản 1 Điều

30 Luật BHXH 2014, là người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt

buộc, bao gồm các trường hợp sau: [22]

Một là, người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời

hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ

hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12

tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với

người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp

luật về lao động;

Hai là, người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01

tháng đến dưới 03 tháng;

Ba là, Cán bộ, công chức, viên chức;

khác trong tổ chức cơ yếu;

Năm là, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan,

hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân

dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

Sáu là, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác

Bốn là, Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác

xã có hưởng tiền lương;

33

So với Luật BHXH 2006, Luật BHXH 2014 đã mở rộng phạm vi áp

dụng BHTS cho đối tượng là người làm việc theo hợp đồng lao động có thời

hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng (có hiệu lực từ 01/01/2018) và người

quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền

lương. Sáu nhóm đối tượng nêu trên đa phần đều là những người lao động có

thu nhập tương đối ổn định từ tiền lương. Sự ổn định nhất định về thu nhập

khiến cho nhu cầu được đảm bảo về quyền lợi và chế độ của người lao động

trong quá trình thai sản cũng trở nên cần thiết hơn. Bên cạnh đó, sáu nhóm

đối tượng này cũng chiếm phần lớn trong tổng số những người lao động tham

gia đóng BHXH bắt buộc, sẽ là sự đóng góp tương đối ổn định vào quỹ bảo

để thụ hưởng chế độ bảo hiểm.Việc mở rộng đối tượng áp dụng BHXH nói

hiểm cũng như thể hiện sự chung tay sẻ chia với những người lao động khác

chung, BHTS nói riêng trong Luật BHXH 2014 cũng đã thể hiện sự nhất quán

trong chủ trương của Nhà nước Việt Nam trong việc phát triển BHXH – trụ

cột chính của hệ thống an sinh xã hội; tiếp tục tăng cường sự quan tâm của xã

hội đối với người lao động.

Hơn nữa theo nghị định 143/2018/NĐ-CP đã quy định chi tiết và cụ thể

về quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động là công dân nước ngoài. Theo

đó, từ ngày 01/12/2018, NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam

thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi: Có giấy phép lao động hoặc

chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền

hạn từ đủ 01 năm trở lên với NSDLĐ tại Việt Nam.

Nhận thấy, Luật BHXH 2014 đã có những thay đổi ghi nhận trọng việc

mở rộng đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản, thông qua đó để đảm bảo

quyền lợi cho đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản. Tuy nhiên chế độ ngắn

hạn này, cũng chỉ áp dụng cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,

của Việt Nam cấp và có HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời

34

trong khi đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chưa được áp dụng. Chính vì

vậy, pháp luật BHXH cần được xem xét và tiếp tục mở rộng phạm vi áp dụng

để mang lại những quyền lợi chính đáng cho người lao động.

- Điều kiện hưởng BHXH thai sản

- Theo Khoản 1 Điều 31 Luật BHXH năm 2014, quy định về điều

kiện hưởng BHXH thai sản khi người lao động thuộc một trong các trường

hợp sau đây: [21]

+ Lao động nữ mang thai;

+ Lao động nữ sinh con;

+ Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

+ Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp

+ Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

triệt sản;

+ Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

- Người lao động: lao động nữ sinh con; lao động nữ mang thai hộ và

người mẹ nhờ mang thai hộ; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06

tháng tuổi phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12

tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

- Người lao động nữ sinh con đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng

trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03

- Người lao động đủ điều kiện hưởng mà chấm dứt hợp đồng lao

động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận

con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng BHXH thai sản theo quy

định của pháp luật

Có thể nói, Luật BHXH 2014 đã mở rộng điều kiện để lao động nữ

tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

35

được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản, không chỉ bó hẹp trong các trường hợp

thai nghén, sinh và nuôi con thông thường mà còn có người lao động nữ mang

thai hộ, nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi sơ sinh dưới 06 tháng tuổi.

Việc tạo điều kiện cho người lao động nữ mang thai hộ hoặc nhờ mang thai

hộ hoặc người mẹ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi được hưởng chế độ

bảo hiểm thai sản là một quy định đáp ứng yêu cầu thực tiễn đời sống xã hội,

góp phần đảm bảo chăm sóc toàn diện hơn người lao động nữ và trẻ em.

Luật BHXH 2014 quy định điều kiện để lao động nữ sinh con, mang

thai hộ, nhận mang thai hộ hoặc nuôi con nuôi sơ sinh dưới 06 tháng hưởng

chế độ bảo hiểm thai sản bao gồm phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng

Số lần sinh con được hưởng trợ cấp thai sản không giới hạn [21]

trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

Thời gian 12 tháng trước khi sinh con, nuôi con nuôi được xác định

như sau:

+ Trường hợp sinh con hoặc nuôi con nuôi trước ngày 15 của tháng thì

tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi không được tính vào 12 tháng trước

khi sinh con hoặc nuôi con nuôi.

+ Trường hợp sinh con hoặc nuôi con nuôi từ ngày 15 trở đi của tháng

và tháng đó có đóng bảo hiểm xã hội thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con

nuôi được tính vào 12 tháng trước khi sinh con hoặc nuôi con nuôi. Trường

hợp tháng đó không đóng bảo hiểm xã hội thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi

Luật BHXH năm 2006 quy định điều kiện hưởng BHXH thai sản khi

sinh con là “NLĐ phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời

gian 12 tháng trước khi sinh con”. Quy định cũ theo luật BHXH khắc phục

được sự lạm dụng BHXH thai sản, song lại không hợp lý với các trường hợp

NLĐ đã có quá trình đóng BHXH dài, song vì lý do khó mang thai, thai bệnh

con nuôi không được tính vào 12 tháng trước khi sinh con hoặc nuôi con nuôi.

36

lý, thai không bình thường nên phải nghỉ việc ngay khi mang thai do vậy

không đủ điều kiện đóng BHXH đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi

sinh để được hưởng BHXH thai sản. Trong trường hợp này là không công

bằng và không đảm bảo quyền lợi của NLĐ vì họ đã có quá trình đóng BHXH

dài nhưng lại không được hưởng BHXH thai sản. Chính vì vậy, để khắc phục

được hạn chế này, Luật BHXH năm 2014 quy định đối với NLĐ đã đóng

BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai cơ sở y tế yêu cầu phải nghỉ

việc thì điều kiện hưởng BHXH thai sản chỉ cần đóng BHXH từ đủ 3 tháng

trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

Bên cạnh đó, tồn tại một số ý kiến rằng việc giới hạn mức thời gian

Việt Nam sẽ ảnh hưởng bất lợi quyền lợi của người lao động nữ, đặc biệt là

đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng trợ cấp thai sản như pháp luật

với những trường hợp người lao động nữ làm các công việc thời vụ, tính chất

tạm thời và người sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội

cho người lao động. Tuy nhiên, khi so sánh với quy định pháp luật của các

quốc gia khác trên thế giới nhận thấy điều kiện hưởng BHXH thai sản của

pháp luật Việt Nam là khá hợp lý, phù hợp với điều kiện kiện phát triển kinh

tế - xã hội của nước ta cũng như các thông lệ quốc tế.

Có thể nói, quy định về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản như

pháp luật hiện hành hoàn toàn phù hợp với các quy định của ILO và pháp luật

của hầu hết các nước trên thế giới, thể hiện sự tiến bộ cũng như quan tâm của

nhà nước, chính phủ đối với lực lượng lao động nữ.

2.1.2. Thời gian hưởng bảo hiểm xã hội thai sản

2.1.2.1. Thời gian nghỉ khám thai

Nhằm đảm bảo cho tình trạng sức khỏe của thai phụ, WHO khuyến cáo

người mẹ nên đi khám thai ít nhất 05 lần trong thai kỳ để theo dõi quá trình

phát triển của thai nhi. Khuyến cáo này dựa trên những nghiên cứu khoa học

nhi nhằm đảm bảo sức khỏe của mẹ và bé được chăm sóc đẩy đủ kịp thời.

37

về cơ sở đặc điểm thời gian mang thai cũng như giai đoạn phát triển của thai

Theo Luật BHXH 2014, trong thời gian mang thai, lao động nữ được

nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày. Riêng những trường

hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình

thường thì được nghỉ hai ngày cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ khám

thai tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ

hằng tuần [22]

Với những quy định như trên, Luật BHXH 2014 đã thể hiện tinh thần

quan tâm đến sức khoẻ của lao động nữ và thai nhi trong suốt thai kỳ, đảm

bảo các quyền lợi về bảo hiểm thai sản của lao động nữ một cách tốt nhất.

Sảy thai, nạo, hút hoặc thai chết lưu gây ảnh hưởng rất lớn đến thể chất

2.1.2.2. Thời gian nghỉ khi bị sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:

cũng như tinh thần của người phụ nữ. Do đó, pháp luật hiện hành quy định

thời gian nghỉ phụ thuộc vào tuổi thai, thai nhi càng lớn thì việc ảnh hưởng

đến người mẹ càng nhiều và vì thế thời gian phục hồi sức khỏe lâu hơn.

Thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản được quy định dựa vào chỉ

định của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền, tuy nhiên không được quá

thời gian tối đa được quy định căn cứ vào tuần tuổi thai nhi.

Có thể thấy, so với Luật BHXH năm 2006 về chế độ này thì Luật

BHXH năm 2014 đã nâng mức tuổi thai và quy định theo tuần tuổi chứ không

quy định theo tháng như trước kia. Quy định này đảm bảo sự chăm sóc trong

2.1.2.3. Thời gian nghỉ sinh con

Ở nước ta, độ dài thời gian nghỉ thai sản cũng luôn có sự thay đổi ở mỗi

thời kỳ, nhìn chung là phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời đạt được mục

đích bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Có thể thấy rõ Việt Nam là

một trong những quốc gia có thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ dài nhất

điều kiện tốt nhất cho NLĐ nữ trong các trường hợp nêu trên.

38

trên thế giới và cũng hơn hẳn các quốc gia trong khu vực.

Mặc dù quy định thời gian nghỉ việc hưởng BHXH thai sản khi lao

động nữ sinh con là 06 tháng nhưng pháp luật bảo hiểm xã hội hiện hành cũng

có quy định lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh. Theo

đó, quy định mới về đi làm trước hạn theo Luật BHXH năm 2014 tại Điều 40,

nâng thời gian sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên tăng lên ít nhất 4 tháng.

Luật mới quy định người nghỉ thai sản phải báo trước và được NSDLĐ đồng

ý. Trường hợp này ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi

làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng BHXH thai sản cho

đến khi hết thời hạn 06 tháng theo quy định [22].

trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ được

Bên cạnh thời gian nghỉ khi sinh con, Luật BHXH 2014 cũng quy định

nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị

chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian

nghỉ việc hưởng CĐTS không vượt quá thời gian quy định trên; thời gian này

không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định pháp luật về lao động.

Như vậy, Luật mới đã kéo dài thời gian nghỉ việc cho lao động nữ trong

trường hợp này so với quy định trước đây.

Việc bổ sung thêm quy định trong thời gian người vợ sinh con thì

người cha cũng được nghỉ với một thời gian nhất định để có phần trách nhiệm

trong việc sinh con của người vợ như trong Luật BHXH năm 2014 là một quy

trong lĩnh vực này. Đây là nhu cầu không chỉ riêng của lao động nữ sinh con

mà của cả lao động nam có nguyện vọng được chia sẻ trách nhiệm được có

thời gian nghỉ việc chăm sóc con, đảm bảo tốt hơn sức khỏe của người mẹ và

trẻ sơ sinh trong điều kiện quỹ còn có thể cân đối. Kinh nghiệm thực hiện của

một số nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước triển khai BHXH thai sản cho

định rất tiến bộ. Đó là sự chia sẻ và cũng thể hiện rõ vấn đề bình đẳng giới

Thụy Điển, Phillipine, Tây Ban Nha, Anh, Ý,…

39

nam giới, quy định người chồng được nghỉ việc để chăm sóc vợ, con như:

Đây là lần đầu tiên Luật BHXH nước ta có quy định cho phép lao động

nam nghỉ hưởng BHXH thai sản. So với những nước phát triển, quy định cho

nam giới được nghỉ thai sản ở nước ta được thực hiện chậm hơn bởi từ xưa,

quan niệm của người Việt là việc sinh con gắn liền với trách nhiệm, bổn phận

của người phụ nữ. Người đàn ông giữ vai trò, nhiệm vụ chăm lo đời sống vật

chất của gia đình, kiếm tiền là chính. Xuất phát từ quan niệm đó mà vai trò

của nam giới liên quan đến BHXH thai sản vẫn chưa từng được đề cập trong

các văn bản luật trước đây.

Có thể nói đây là một quy định có tính nhân văn, các Tổ chức Lao động

quốc tế cũng đánh giá rất cao những quy định về BHXH thai sản cho nam

giới. Theo đó, quy định lao động nam được nghỉ thai sản sẽ giúp những người

chồng có thêm thời gian ở bên cạnh chăm sóc vợ trong thời gian vượt cạn.

Qua đó, tình cảm gia đình sẽ được gắn kết, người chồng sẽ hiểu thêm những

vất vả, đau đớn mà người vợ phải chịu khi sinh con. Từ đó, có thể họ sẽ dành

sự quan tâm cho vợ con của mình nhiều hơn.

2.1.2.4. Thời gian nghỉ của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ

mang thai hộ

Đây là lần đầu tiên Luật BHXH năm 2014 quy định mang tính nguyên

tắc về quyền hưởng BHXH thai sản đối với người mang thai hộ và người mẹ

định thêm BHXH thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để phù hợp với Luật hôn nhân và gia đình

từ ngày 01/01/2015 cho phép lao động nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Đây là nội dung mang tính chất nhân đạo, điều này giúp đảm bảo cho 2 người

phụ nữ phục hồi sức khỏe, tinh thần khi cùng gánh vác nhiệm vụ mang thai và

nhờ mang thai hộ mà trước kia chưa quy định. Luật BHXH năm 2014 quy

40

nuôi dạy trẻ sơ sinh.

Quy định này được cụ thể tại Điều 35 Luật BHXH năm 2014:

Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy

thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi

sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang

thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều

34 của Luật này. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm

giao đứa trẻ mà thời gian hưởng BHXH thai sản chưa đủ 60 ngày

thì người mang thai hộ vẫn được hưởng BHXH thai sản cho đến khi

đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.

điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng BHXH thai sản từ thời

Như vậy, kể cả trường hợp lao động nữ là người mang thai hộ hay là

người mẹ nhờ mang thai hộ, thì vẫn có đầy đủ quyền được hưởng bảo hiểm

thai sản như những trường hợp mang thai và sinh con thông thường khác.

Tuy nhiên, do có sự chuyển giao việc nuôi dưỡng con sơ sinh được sinh

ra nên thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản của lao động nữ mang thai

hộ sẽ được tính đến thời điểm giao đứa trẻ cho người nhờ mang thai hộ. Khi

đó, sức khỏe của cả lao động nữ mang thai hộ cũng như đứa trẻ được đảm bảo

một cách tốt nhất, tuy nhiên không vượt quá mức quy định là 06 tháng.

Còn đối với người mẹ nhờ mang thai hộ, họ có quyền được nghỉ hưởng

tuổi nhằm đảm bảo quỹ thời gian hợp lý chăm sóc con trong giai đoạn sơ sinh

một cách tốt nhất.

2.1.2.5. Thời gian nghỉ trong một số trường hợp khác

Bên cạnh các trường hợp cho phép NLĐ nữ được nghỉ việc hưởng

bảo hiểm thai sản khi mang thai, sinh con và nuôi con, Luật BHXH 2014

chế độ bảo hiểm thai sản kể từ thời điểm nhận con đến khi con đủ 06 tháng

biện pháp tránh thai cũng được quyền nghỉ việc hưởng bảo hiểm thai sản.

41

cũng đưa ra trừng hợp NLĐ nữ trong quá trình làm việc mà thực hiện các

Thời gian nghỉ được căn cứ theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

có thẩm quyền.

Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định 07 ngày đối với lao động

nữ đặt vòng tránh thai hoặc 15 ngày đối với NLĐ thực hiện biện pháp triệt

sản. Thời gian nghỉ khi thực hiện các biện pháp tránh thai tính cả ngày nghỉ

lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.Thêm vào đó, Luật BHXH 2014 còn cho

phép lao động nữ có một khoảng thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức

khỏe sau thai sản.

Cụ thể hơn, lao động nữ ngay sau thời gian hưởng CĐTS trình bày tại

khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày

các Mục 0 và 0 nêu trên, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức

đến 10 ngày.Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày

nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng

sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì

thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.

Điều đặc biệt của quy định này so với các chế định khác về thời gian

nghỉ của lao động nữ là số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe do

NSDLĐ và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử

dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do NSDLĐ quyết định.

Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau:

+ Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;

+ Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.

+Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;

2.1.3. Mức trợ cấp bảo hiểm thai sản

2.1.3.1. Trợ cấp thay lương

Trợ cấp thay lương là khoản tiền do cơ quan BHXH trả cho NLĐ trong

nhanh chóng phục hồi sức khỏe sau khi sinh.

42

thời gian nghỉ thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập, giúp người phụ nữ

Tại Việt Nam, ngay từ Luật BHXH 2006 đã quy định mức hưởng

CĐTS bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH

của sáu tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Nếu đóng BHXH chưa đủ sáu tháng

thì mức hưởng khi khám thai, sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu, thực

hiện kế hoạch hóa dân số là mức bình quân tiền lương, tiền công của các

tháng đã đóng BHXH. Thời gian nghỉ việc hưởng CĐTS được tính là thời

gian đóng BHXH, thời gian này NLĐ và NSDLĐ không phải đóng BHXH.

Kế thừa quy định này, Luật BHXH 2014 bổ sung quy định đối với

trường hợp nghỉ 01 ngày đối với trường hợp đi khám thai và lao động nam

chia cho 24 ngày thay vì chia cho 26 ngày như Luật BHXH 2006. Mức hưởng

hưởng CĐTS khi vợ sinh con được tính bằng mức hưởng CĐTS theo tháng

chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ cấp

tháng quy định trên, trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp hưởng CĐTS khi

sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hay phá thai bệnh lý và thực hiện các biện

pháp tránh thai thì mức hưởng 01 ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng

chia cho 30 ngày.

Cụ thể, công thức tính trợ cấp thai sản (trợ cấp thay lương) trong các

trường hợp theo quy định của Luật BHXH 2014 như sau:

- Mức hưởng lương khi nghỉ việc khi nghỉ việc đi khám thai, sẩy thai,

nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai được tính

=

như sau:

x 100% x

Mức hưởng khi nghỉ việc đi khám thai,sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai

số ngày nghỉ việc theo chế độ bảo hiểm thai sản

Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc 30 ngày

43

- Mức hưởng CĐTS khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh

được tính theo công thức:

= x 100% x Mức hưởng khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh Mức hưởng khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh Số tháng nghỉ sinh con hoặc nghỉ nuôi con nuôi sơ sinh

- Mức hưởng CĐTS khi nghỉ việc đi khám thai, sinh con

Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc x 100% x =

24 ngày Mức hưởng khi nghỉ việc đi khám thai, sinh con số ngày nghỉ việc theo chế độ bảo hiểm thai sản

2.1.3.2. Trợ cấp một lần

Trợ cấp một lần là khoản trợ cấp mà quỹ BHXH trả cho NLĐ khi sinh

con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi cùng với khoản trợ cấp thay

lương. Khi sinh con hay nhận nuôi con nuôi sơ sinh, NLĐ cần sắm sửa những

vật dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ như bỉm, sữa, tã, quần áo sơ sinh...

Do đó, khoản trợ cấp này nhằm giúp NLĐ đủ điều kiện vật chất để nuôi con.

cha tham gia BHXH thì cha chỉ được hưởng trợ cấp một lần trong trường hợp

mẹ chết khi sinh con, điều này không đảm bảo công bằng đối với các trường

hợp chỉ có người cha tham gia BHXH. Khoản trợ cấp một lần khi sinh con là

khoản khoản trợ cấp được chi trả nhằm mục đích hỗ trợ mua các vật dụng cần

thiết cho con khi mới sinh, vì vậy khoản trợ cấp này nên được chi trả đối với

tất cả các trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia BHXH hoặc chỉ có mẹ hoặc

Theo quy định của Luật BHXH năm 2006 thì trong trường hợp chỉ có

44

chỉ có cha tham gia BHXH.

Luật BHXH năm 2014 tại Điều 38 bổ sung trường hợp sinh con nhưng

chỉ có cha tham gia BHXH thì cha được trợ cấp một lần bằng 2 lần mức

lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.

Ngoài khoản trợ cấp tính được bằng tiền, lao động nữ trong thời gian

nghỉ việc hưởng BHXH thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được

tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, không phải đóng bảo hiểm xã hội. Bên

cạnh đó, trường hợp lao động nữ ngay sau thời gian hưởng BHXH thai sản,

trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khoẻ chưa phục hồi thì

được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày như trình

dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi thai sản bằng 25% mức lương tối thiểu

bày ở trên. Quy định trước đây của luật BHXH 2006 chia mức hưởng khi nghỉ

chung nếu nghỉ tại nhà; hoặc 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại cơ

sở tập trung. Tuy nhiên, Luật BHXH 2014 đã bỏ cách chia này và chỉ xác

định mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày

bằng 30% mức lương cơ sở.

Cụ thể:

Trợ cấp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe = Mức lương cơ sở x 30%

x số ngày nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe

Theo nội dung quy định tại Nghị quyết 38/2019/NĐ-CP quy định về

mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vụ trang,

mức tiền lương cơ sở này sẽ làm căn cứ điều chỉnh mức trợ cấp bảo hiểm đối

với NLĐ và các chế độ khác. Như vậy, tiền lương tháng đóng BHXH bắt

buộc của nhiều đối tượng cũng như tiền trợ cấp thai sản cũng sẽ được điều

chỉnh tăng theo quy định này. Đây là quy định tiến bộ, đảm bảo quyền lợi cho

bà mẹ, trẻ em tốt hơn, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa lao động nam và

từ ngày 1/7/2019 tiền lương cơ sở sẽ tăng lên thành 1.490.000 đồng/tháng,

45

nữ khi nhận nuôi con nuôi.

2.1.3.3. Trợ cấp y tế

Chăm sóc y tế tại Công ước 102 phải đảm bảo bảo toàn, phục hồi

hoặc cải thiện sức khỏe của người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng

làm việc, khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ

Làm rõ thêm nội dung này, Công ước 103 nhấn mạnh Trợ giúp về y tế

bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một người

đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc phụ trách và cả việc nằm viện nếu cần

thiết; quyền tự do lựa chọn thầy thuốc và tự do lựa chọn bệnh viện công hay

tư sẽ được tôn trọng. Những khoản trợ cấp bằng tiền và trợ giúp về y tế sẽ

các quỹ công; và trong cả hai trường hợp, bất kỳ người phụ nữ nào có đủ điều

được cấp trong khuôn khổ một hệ thống bảo hiểm bắt buộc, hoặc được lấy từ

kiện đã quy định đều đương nhiên có quyền được hưởng.

Hầu hết các nước trên thế giới có những chính sách trợ cấp đối với lao

động nữ trong thời gian mang thai và sinh con sử dụng dịch vụ y tế trước và

sau khi sinh. Dịch vụ chăm sốc y tế thường bao gồm: chăm sóc ban đầu, một

số dịch vụ và thuốc men thiết yếu, những dịch vụ đặc biệt, phẫu thuật, chăm

sóc thai sản, đặc biệt ở một số quốc gia có cả trợ cấp đi lại, chăm sóc y tế tại

nhà. Việc chi trả chi phí chăm sóc y tế có thể được chi trả trực tiếp cho người

cung cấp dịch vụ trong các cơ sở y tế của nhà nước, hoàn trả chi phí cho bệnh

39 nhân hoặc chi trả theo các điều khoản trực tiếp về chăm sóc y tế. Tại một

vụ chăm sóc tại nhà.

Tại Việt Nam hiện nay, Luật BHXH 2014 chưa có quy định cụ thể về

vấn đề trợ cấp chăm sóc y tế mà được áp dụng chung theo quy định của Luật

BHYT. Theo đó, Điều 22 Luật BHYT(đã được sửa đổi bổ sung) quy định chi

phí khám thai định kỳ và sinh con của NLĐ nữ tham gia BHYT sẽ được quỹ

số quốc gia như như Canada hay Nhật Bản còn có trợ cấp chi phí đi lại, dịch

46

BHYT chi trả trong phạm vi hưởng với mức hưởng thông thường là 80% chi

phí khám bệnh, chữa bênh. Riêng với các trường hợp NLĐ nữ xét nghiệm,

chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị hoặc sử dụng kỹ thuật hỗ trợ

sinh sản, dịch vụ, kế hoạch hóa gia đình, nạo hút thai, phá thai, trừ trường hợp

phải đình chỉ thai nghén do nguyên nhân bệnh lý của thai nhi hay của sản phụ

thì không được hưởng BHYT.

Mặt khác, một số nội dung về trợ cấp y tế trong Luật BHYT lại mâu

thuẫn với Luật BHXH 2014. Cụ thể, Luật BHXH 2014 đã cho phép trường

hợp lao động nữ nạo hút thai thuộc trường hợp được hưởng chế độ trợ cấp

thai sản. Tuy nhiên, theo quy định của Luật BHYT, lao động nữ khi nạo hút

lợi về chăm sóc y tế.

thai chỉ được nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản mà không được đảm bảo quyền

Có thể nói việc thiếu những quy định chế độ trợ cấp chăm sóc y tế cho

lao động nữ trong thời kỳ thai sản trong Luật BHXH 2014 là một điểm hạn

chế của hệ thống pháp luật hiện hành về BHXH thai sản.

2.1.4. Thủ tục giải quyết hồ sơ bảo hiểm xã hội thai sản

Quy trình, thủ tục giải quyết hưởng CĐTS đối với lao động nữ được

quy định tại Luật BHXH 2014, Nghị định 115/2015/NĐ-CP, Thông tư số

59/2015/TT-BLĐTBXH, Quyết định 636/QĐ-BHXH/2016 và hướng dẫn tại

Công văn số 1075/BHXH-CSXH của BHXH Việt Nam.

Nguyên tắc chung áp dụng đối với việc tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ trợ

và thu BHXH đối với đơn vị sử dụng lao động thì cơ quan BHXH cấp đó chịu

trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xét duyệt, chi trả và thanh toán, quyết toán CĐTS

của đơn vị sử dụng lao động đó.

Trách nhiệm của NLĐ: NLĐ nộp hồ sơ cần thiết theo quy định cho

NSDLĐ trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc.

cấp thai sản là cơ quan BHXH phụ trách (huyện hoặc tỉnh) trực tiếp quản lý

47

Trường hợp NLĐ nữ thôi việc trước thời điểm sinh con, nhận nuôi con

nuôi thì nộp hồ sơ và xuất trình sổ BHXH cho cơ quan BHXH nơi cư trú mà

không thông qua NSDLĐ.

Trách nhiệm của NSDLĐ: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ

hồ sơ từ NLĐ, NSDLĐ có trách nhiệm lập hồ sơ theo mẫu quy định và nộp

kèm với các hồ sơ tiếp nhận từ NLĐ đến cơ quan BHXH đang quản lý đơn vị.

Trường hợp hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản

thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày NLĐ đủ điều kiện hưởng trợ cấp dưỡng

sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản, NSDLĐ lập danh sách và nộp

cho cơ quan BHXH.

nhận đủ hồ sơ theo quy định từ NSDLĐ, cơ quan BHXH phải giải quyết và tổ

Trách nhiệm của cơ quan BHXH: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày

chức chi trả cho NLĐ; Đối với trường hợp NLĐ thôi việc trước thời điểm

sinh con, nhận nuôi con nuôi và nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản trực tiếp

cho cơ quan BHXH thì thời hạn để giải quyết và tổ chức chi trả cho NLĐ là

05 ngày kể từ ngày cơ quan BHXH tiếp nhận đủ hồ sơ theo quy định. Khi có

lý do để không giải quyết hồ sơ hưởng BHXH thai sản cơ quan BHXH phải

trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Về thời hạn quy định để NLĐ nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản, tại

Điều Luật BHXH 2006 quy định trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày

nhận đủ giấy tờ hợp lệ có liên quan từ NLĐ quy định, NSDLĐ có trách nhiệm

phải nộp hồ sơ của những NLĐ đã được giải quyết chế độ ốm đau, thai sản,

trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho tổ chức BHXH để cơ quan BHXH

quyết toán trong vòng 15 ngày. Rõ ràng, với việc Luật BHXH 2014 tăng thời

hạn để NSDLĐ lập hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản cũng như rút ngắn thời

gian thanh toán chi trả của cơ quan BHXH giúp việc giải quyết hồ sơ liên

giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho NLĐ, đồng thời, hằng quý, NSDLĐ

48

quan được đơn giản hóa hơn. Thời gian thanh toán chi trả trợ cấp ngắn cũng

tạo điều kiện cho NLĐ và gia đình được hỗ trợ kịp thời về mặt tài chính trong

giai đoạn thai sản khó khăn.

Việc NSDLĐ có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ từ NLĐ góp phần

làm giảm trách nhiệm và thủ tục không cần thiết của NLĐ. Quy định này

cũng giúp đơn vị sử dụng lao động và cơ quan BHXH dễ dàng hơn trong công

tác quản lý, chi trả chế độ bảo hiểm thai.

2.2. Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang

2.2.1. Khái quát về tỉnh Hà Giang và cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh

Hà Giang

Hà Giang là một tỉnh miền núi nằm ở cực Bắc Tổ quốc Việt Nam. Nơi

2.2.1.1. Vài nét về tỉnh Hà Giang

đây cộng đồng gồm 22 dân tộc anh em đang cùng sinh sống, với truyền thống

yêu nước nồng nàn và tinh thần đoàn kết, chung sức chung lòng xây dựng và

bảo vệ vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Đơn vị hành chính bao gồm 10

huyện, thành phố: Thành phố Hà Giang; huyện Bắc Mê; huyện Bắc Quang;

huyện Quản Bạ; huyện Vị Xuyên; huyện Yên Minh; huyện Hoàng Su Phì;

huyện Đồng Văn; huyện Xín Mần; huyện Mào Vạc.

Kinh tế Hà Giang chủ yếu là nông – lâm nghiệp, thị trường tiêu thụ nhỏ

hẹp, thương nghiệp chủ yếu là bán lẻ, sản xuất hàng hóa chưa phát triển mạnh.

Kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp, toàn tỉnh chưa có khu công nghiệp, khu

7.753 tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm 2013. Tổng diện tích gieo trồng cây

hàng năm là 177.474,8 ha, tăng 4,89% bằng 8.276 ha so với năm 2013… [53].

Tính đến 15/11/2014 có 233 lượt doanh nghiệp đăng ký kinh doanh,

thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Toàn tỉnh hiện có 1.471 doanh nghiệp,

chi nhánh và văn phòng đại diện đang hoạt động, với tổng số vốn theo đăng

chế xuất. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp - thuỷ sản theo giá thực tế ước đạt

49

ký kinh doanh là 20.692,5 tỷ đồng. Tiếp tục củng cố các HTX, tổ hợp tác;

hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 745 HTX với 8.900 xã viên và 6.360 Tổ hợp

tác. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn

nhiều khó khăn, đến nay có 02 doanh nghiệp giải thể tự nguyện và 35 doanh

nghiệp ngừng hoạt động. Các dự án thu hút đầu tư đã có sự lựa chọn và thực

hiện theo quy hoạch; từ đầu năm đến nay, đã cấp mới, điều chỉnh Giấy chứng

nhận đầu tư cho 29 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư 2.785,9 tỷ đồng.

Hà Giang là địa phương có nguồn lao động dồi dào, Tuy nhiên, do còn

hạn chế về trình độ, năng lực nên nguồn lao động ở đây chưa đáp ứng được

yêu cầu của quá trình phát triển.

đang làm việc trong các ngành kinh tế. Tốc độ tăng lao động bình quân giai

Năm 2010 tỉnh Hà Giang có 354.772 lao động trong độ tuổi từ 15 - 60

đoạn 2006 - 2010 là 2,6%/năm, tương đương quy mô tăng trung bình khoảng

9 nghìn người/năm. So với với tốc độ tăng bình quân chung của cả nước cùng

thời kỳ, tốc độ tăng lực lượng lao động của tỉnh cao hơn khoảng 0,42% [54].

Cơ cấu lao động nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản có 266.940 người

chiếm 75,2%; nhóm ngành công nghiệp - xây dựng: 34.087 người chiếm

9,6% và nhóm ngành dịch vụ 53.745 người chiếm 15,2%.

Ngoài cơ cấu của nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản chiếm phần

lớn trong tổng cơ cấu lao động của tỉnh (75,2%), thì một số phân ngành chiếm

nghiệp chế biến: 29,08%; buôn bán sửa chữa và bán lẻ: 23,06%; hoạt động

đảng, quản lý nhà nước: 16,93%; giáo dục đào tạo: 34,73%.

Tốc độ tăng trưởng dân số trung bình giai đoạn 2001 - 2005 là 1,8%/

năm, năm 2005 dân số là 673.409 người; giai đoạn 2006 -2010 tốc độ tăng

trưởng dân số trung bình 1,49%/ năm, năm 2010 dân số tỉnh Hà Giang là

737.768 người, trong đó lực lao động trong độ tuổi là 354.772 người chiếm

48,09% tổng dân số trong toàn tỉnh.

50

tỷ lệ cơ cấu cao trong tổng cơ cấu lao động của nhóm ngành như: Công

Trong tổng số lực lượng lao động đến năm 2010 là 354.772 người, tỷ lệ

lực lượng lao động nam có chiều hướng tăng từ 49,4% năm 2001 lên 51,1%

năm 2010, tăng trung bình 0,83%/ năm giai đoạn 2001-2005 và 2,67%/năm

giai đoạn 2006 - 2010; tỷ lệ nữ giảm từ 50,6% năm 2001 xuống còn 48,9%

năm 2010; giảm trung bình 1,55%/ năm giai đoạn 2001-2005 và 1,28%/năm

giai đoạn 2006-2010.

Lực lượng lao động có chiều hướng tăng ở thành thị và giảm lao động

ở nông thôn. Năm 2001 tỷ lệ lao động ở thành thị là 10,72%, tăng lên 11,01%

năm 2005 và 14,26% năm 2010, tăng trung bình 1,86%/ năm giai đoạn 2001 -

2005 và 5,67%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Trong khi đó lao động ở khu vực

nông thôn giảm từ 89,28% năm 2001 xuống còn 88,89% năm 2005 và

85,74% năm 2010, giảm trung bình 1,12%/ năm giai đoạn 2001 - 2005 và

1,44%/năm giai đoạn 2006 - 2010

Bảng 2.1: Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh

(giai đoạn 2001-2010)

Đơn vị tính: Người

Tăng trưởng trung bình (%/năm)

Tiêu chí

2001

2005

2010

T T

2001- 2005

2006- 2010

626.68

673.40

737.76

1. Dân số trung bình

1,80

1,49

9

8

0

Chia theo giới tính

310.26

330.07

369.14

Nam

0

4

1,55

1,68

5

316.41

343.33

368.62

Nữ

9

4

2,04

1,30

5

51

Tăng trưởng trung bình (%/năm)

Tiêu chí

2001

2005

2010

T T

2001- 2005

2006- 2010

Chia theo khu vực

105.18

Thành thị

67.180 74.129

6

2,46

6,76

559.50

599.28

632.58

Nông thôn

0

2

1,72

0,74

0

Dân số trong độ tuổi lao

329.57

377.17

451.88

2.

động

6

3

3,37

2,57

1

Tỷ lệ so với dân số (%)

52,59

56,01

61,25

-

-

294.51

308.99

354.77

1

2

1,20

1,97

3. Lực lượng lao động

0

Chia theo giới tính

145.48

150.41

181.29

3

9

0,83

2,67

Nam

8

149.02

158.57

173.47

8

3

1,55

1,28

Nữ

2

Chia theo khu vực

Thành thị

31.571 34.014 50.581

1,86

5,67

262.93

274.97

304.19

Nông thôn

1,12

1,44

9

7

1

Tỷ lệ so với dân số (%)

47,00

45,88

48,09

-

-

(Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Hà Giang năm 2000; năm 2001 - 2005;năm 2009; năm 2010 và Điều tra mẫu Biến động dân số và KHHGĐ giai đoạn 2000 -2010).

52

Vì vậy việc đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trên địa bàn tỉnh

luôn được các ngành các cấp quan tâm và đề ra chủ trương vận động người

dân tham gia BHXH để nâng cao chất lượng cuộc sống.

2.2.1.2. Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang

Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là cơ quan sự nghiệp nhà nước trực

thuộc BHXH Việt Nam (là cơ quan sự nghiệp trực thuộc Chính phủ), đặt tại

tỉnh Hà Giang nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam.

Đến nay, cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH tỉnh Hà Giang gồm 11

phòng nghiệp vụ (Phòng chế độ Bảo hiểm xã hội; phòng Giám định Bảo hiểm

y tế; phòng Quản lý Thu; phòng Kế hoạch - Tài chính; phòng Khai thác và

phòng Tiếp nhận - Trả kết quả thủ tục hành chính; phòng Tổ chức cán bộ,

Thu nợ, phòng Kiểm tra; phòng Công nghệ thông tin; phòng Cấp sổ, thẻ;

Văn phòng) và 11 Bảo hiểm xã hội huyện, thành phố (BHXH thành phố Hà

Giang; Đồng Văn; Mèo Vạc; Yên Minh; Quản Bạ; Vị Xuyên; Bắc Mê; Hoàng

Su Phì; Xín Mần; Bắc Quang; Quang Bình) [49].

Trong quá trình hoạt động, xây dựng và phát triển, BHXH tỉnh Hà

Giang luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh

Hà Giang, sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ của BHXH Việt

Nam, cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ của các cấp, các ngành, sự tham gia nhiệt

tình của các đơn vị SDLĐ, người tham gia BHXH, BHYT và tinh thần trách

nhiệm cùng với sự phấn đấu nỗ lực của tập thể cán bộ, công chức, viên chức

các nhiệm vụ chính trị được giao: Thực hiện tốt các chế độ chính sách BHXH,

BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên địa bàn tỉnh. Số đối tượng tham

gia không ngừng được mở rộng, số thu BHXH, BHTN, BHYT năm sau đều

cao hơn năm trước và đều hoàn thành vượt mức kế hoạch giao. Chi trả các

chế độ BHXH, BHYT hàng tháng cho các đối tượng đầy đủ, kịp thời, đảm

BHXH từ huyện đến tỉnh, hàng năm BHXH tỉnh Hà Giang đều hoàn thành tốt

53

bảo an toàn. Công tác hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết chế độ BHXH, BHTN,

BHYT kịp thời, đảm bảo chế độ. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin và

cải cách hành chính thường xuyên được quan tâm và đẩy mạnh…. [49]

Với những đóng góp cho sự phát triển của Ngành, tập thể BHXH tỉnh

Hà Giang vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động Hạng Ba,

Cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, Cờ thi đua xuất sắc của Ủy ban nhân dân

tỉnh Hà Giang và BHXH Việt Nam, Bằng khen của các cấp, ngành và nhiều

cá nhân cán bộ, công chức viên chức được các cấp ngành từ Trung ương đến

địa phương tặng thưởng Bằng khen và các danh hiệu thi đua khác.

Về hệ thống tổ chức bộ máy, cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang có

54

tổ chức bộ máy như sau:

Sơ đồ 2.1: Cơ cấu, tổ chức bộ máy, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang

VĂN PHÒNG

BHXH Thành phố Hà Giang

PHÒNG TỔ CHỨC CÁN BỘ

BHXH huyện Đồng Văn

PHÒNG KHAI THÁC VÀ THU NỢ

C Ố Đ M Á I G Ó H P

BHXH huyện Mèo Vạc

PHÒNG QUẢN LÝ THU

BHXH huyện Yên Minh

PHÒNG CẤP SỐ, THẺ

BHXH huyện Quản Bạ

PHÒNG CHẾ ĐỘ BHXH

BHXH huyện Vị Xuyên

C Ố Đ M Á I G

PHÒNG GIÁM ĐỊNH BHYT

BHXH huyện Bắc Mê

PHÒNG TIẾP NHẬN VÀ TRẢ KẾT QUẢ TTHC

BHXH huyện Hoàng Su Phì

PHÒNG THANH TRA – KIỂM TRA

BHXH huyện Xín Mần

PHÒNG KẾ HOẠCH - TC

C Ố Đ M Á I G Ó H P

BHXH huyện Bắc Quang

PHÒNG CÔNG NGHỆ TT

BHXH huyện Quang Bình

55

2.2.2. Những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại trong thực

tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang

Bảo hiểm xã hội tỉnh đang quản lý 6.028 đơn vị sử dụng lao động với

45.259 người tham gia BHXH, Bảo hiểm y tế bắt buộc và 698 người tham gia

BHXH tự nguyện, 740.806 người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.

Do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, các số liệu mà cơ quan bảo

hiểm xã hội tỉnh Hà Giang có khả năng cung cấp trong thời gian tác giả thực

hiện luận văn này chưa hoàn toàn được đầy đủ và bao quát hết trong cả giai

đoạn 2015 - 2017. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ và tạo điều kiện hết sức từ phía cơ

đến được góc nhìn hoàn thiện, chân thực nhất về thực tiễn thực hiện pháp luật

quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang, tác giả mong muốn luận văn vẫn đem

bảo hiểm thai sản tại tỉnh Hà Giang trong giai đoạn áp dụng Luật giao thời

giữa hai Luật bảo hiểm xã hội.

2.2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật

bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang

Nhìn chung, cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang đã thực hiện tương

đối tốt công tác bảo hiểm thai sản tại địa bàn. Sự tuân thủ nghiêm chỉnh các

quy định của pháp luật cũng như sự cố gắng, linh hoạt của các cán bộ làm

công tác đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong công tác bảo hiểm thai sản.

Về đối tượng tham gia BHXH:

thành phố chú trọng quan tâm, tìm tòi các biện pháp để thực hiện. Các biện

pháp chủ yếu đã áp dụng để mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở Tỉnh Hà

Giang bao gồm:

Thứ nhất, đẩy mạnh việc tuyên truyền để phổ biến các quy định của

pháp luật về BHXH dưới các hình thức khác nhau. Đối với các cơ quan, đoàn

Trong thời gian qua, công tác phát triển đối tượng luôn được BHXH

56

thể, doanh nghiệp có thành lập tổ chức Công đoàn, thông qua chương trình

phối hợp liên ngành BHXH và Liên đoàn lao động thành phố để tổ chức tuyên

truyền. Thực hiện tuyên truyền qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình...

Thứ hai, phối kết hợp cơ quan có liên quan như Liên đoàn lao động,

các Chi cục thuế, nhất là UBND xã, phường, huyện để điều tra, thống kê nắm

bắt các đơn vị thuộc diện tham gia BHXH để hướng dẫn và đôn đốc kê khai

trích nộp BHXH cho người lao động.

Thứ ba, giao kế hoạch phát triển đối tượng mới phải phấn đấu thực hiện

hàng năm đến BHXH các quận, huyện để đề ra kế hoạch chương trình thực

hiện cho phù hợp với đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.

giảm bớt giấy tờ, mẫu biểu, công khai thủ tục. Giao trách nhiệm cho cán bộ

Thứ tư, thực hiện các biện pháp cải cách về thủ tục tham gia BHXH,

thu phải đi sát cơ sở để hướng dẫn, không để đối tượng đi lại nhiều lần. Đồng

thời có chế độ thưởng phạt rất rõ ràng, cụ thể như hàng năm cơ quan bảo

hiểm giao chỉ tiêu thu trong đó việc mở rộng đối tượng là một trong những

tiêu chí để đánh giá xét thi đua khen thưởng. Nếu tỷ lệ thu thấp là không hoàn

thành kế hoạch, nếu tỷ lệ thu cao thì được khen thưởng bằng vật chất.

Thứ năm, kết hợp với các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước về

BHXH hoặc các cơ quan pháp luật như Sở Lao động, Viện Kiểm sát, Công an

kinh tế... tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý để buộc các chủ sử

dụng lao động tham gia đóng BHXH cho người lao động.

tốt công tác khai thác phát triển đối tượng thông qua các hình thức khen

thưởng, hỗ trợ.

Với cách tổ chức sâu sát như vậy, kết quả đối tượng đóng BHXH

tăng liên tục, tại Tỉnh Hà Giang số đối tượng tham gia BHXH nói chung và

chế độ thai sản nói riêng có sự gia tăng, thể hiện qua việc đóng bảo hiểm

Thứ sáu, thực hiện một số khuyến khích vật chất cho các đơn vị làm

57

những năm gần đây. Quản lý số lao động tham gia BHXH có thể coi là vấn

đề hàng đầu trong quản lý thu và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thu. Cùng với

sự tăng lên của số lượng các đơn vị thì số lượng NLĐ tham gia BHXH bắt

buộc trong địa bàn tỉnh Hà Giang nhìn chung cũng tăng lên được thể hiện

dưới bảng số liệu sau:

Bảng 2.2: Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại BHXH tỉnh

Hà Giang giai đoạn 2015 – 2017

Số LĐ thuộc diện tham gia

Số LĐ đã tham gia

Tốc độ

Tỷ lệ

tăng,

Lượng tăng,

Lượng tăng,

Tốc độ tăng,

Năm

tham gia

giảm

giảm

giảm

giảm

(%)

định gốc

tuyệt đối

tuyệt đối

định gốc

Số

Số

người

định gốc

(%)

người

định gốc

(%)

2015 44501

-

-

31960

-

-

71,82

2016 47252

2751

6,18

36528

4568

14,29

77,30

2017 48084

3583

8,05

38001

6941

18,90

79,03

(Nguồn: BHXH Tỉnh Hà Giang)

Từ bảng trên cho ta thấy số lao động đã tham gia BHXH tăng tương đối

đều qua các năm, số người lao động đã tham gia đạt tỷ lệ khá cao. Cụ thể: Số

người lao động thuộc diện tham gia BHXHBB năm 2016 tăng so với năm

diện tham gia năm 2017 tăng so với năm 2015 là 3583 người, tương ứng với

tăng với tốc độ 8,05% [4].

Nguyên nhân:

- Do từ 1/2016 Luật BHXH số 58/2014/QH13 được áp dụng, luật này

đã mở rộng đối tượng tha gia thêm 3 đối tượng nữa là: (1): Người làm việc

2015 là 2751 người, tương ứng với tăng với tốc độ 6,18%; số người thuộc

58

theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;

(2):Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người

lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; (3): Người

hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Chính vì sự điều

chỉnh về chính sách pháp luật của nhà nước nên đối tượng thuộc diện tham

gia là tăng [4]

- Do kinh tế- xã hội đất nước phát triển, nhà nước có các chính sách

đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, các khối đơn vị sử dụng lao động tăng đồng

thời số người lao động tăng theo.

- Số lao động đã tham gia BHXH bắt buộc năm 2016 tăng so với năm

2015 là 4568 người, tương ứng với tăng với tốc độ 14,29%; số người thuộc

diện tham gia năm 2017 tăng so với năm 2015 là 6941 người tương ứng với

tăng với tốc độ 18,90%.

- Do số lao động thuộc diện tham gia tăng vì các nguyên nhân như đã

nói ở trên.

- Do trình độ nhận thức về vai trò về BHXH, cũng như trình độ dân trí

của NLĐ tăng lên. Họ đã hiểu được phần nào BHXH bản chất chính là an

sinh xã hội.

- Trách nhiệm xã hội được tăng cường, các hình thức tuyên truyền, phổ

biến đã được nâng cao.

liên quan tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra đơn vị sử dụng lao

động có đóng BHXH cho người lao động không.

- Tỷ lệ tham gia BHXH năm 2016 so với năm 2015 là tăng 5,48%; năm

2017 so với năm 2015 là tăng 7,21%. Như vậy thực trạng về người lao động

tham gia BHXH của tỉnh tăng đạt mức kế hoạch đề ra.

59

- Cơ quan BHXH tỉnh thường xuyên phối hợp với các ban ngành có

Cụ thể qua các khối thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.3: Tình hình tham gia BHXH của NLĐ theo khối đơn vị tại

tỉnh Hà Giang, năm 2015 – 2017

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Khối đơn vị

Số LĐ đã tham gia

Tỷ trọng (%)

Số LĐ đã tham gia

Tỷ trọng (%)

Số LĐ đã tham gia

Tỷ trọng (%)

Khối DNNN

2068

6,47

2356

6,49

2423

6,44

Khối DN ngoài quốc doanh

2404

7,52

2743

7,51

2878

7,57

Khối Đảng, Đoàn

23929

74,87

27380

74,96

28496 74,99

Khối ngoài công lập

22

0,07

22

0,06

22

0,06

Khối hợp tác xã

532

1,66

570

1,56

585

1,54

Khối Phường, xã, thị trấn

2700

8,45

3102

8,49

3227

8,49

Hộ SXKD cá thể, Tổ hợp tác

305

0,96

355

0,97

370

0,97

Tổng

31960

100

36528

100

38001

100

(Nguồn: BHXH tỉnh Hà Giang)

Từ bảng số liệu trên ta thấy số lượng người phải tham gia lao động và

số lượng người đã tham gia lao động tăng. Vì như ở trên ta đã nói ở phần

quản lý danh sách ĐVSDLĐ, các khối doanh nghiệp mở rộng đòi hỏi cần

Cụ thể: Khối doanh ngoài quốc doanh và khối doanh nghiệp nhà nước

có số lao động đã tham gia tăng khá mạnh Cụ thể khối doanh nghiệp quốc

doanh: Năm 2016 tăng so với 2015 là 339 người, tương ứng tốc độ tăng

14,10%; năm 2017 tăng với 2015 là 474 người, tương ứng tốc độ tăng

19,72%. Và cụ thể khối doanh nghiệp nhà nước: năm 2016 tăng so với 2015

là 288 người, tương ứng tốc độ tăng 13,93%; năm 2017 tăng với 2015 là 355

thêm nguồn lao động.

60

người, tương ứng tốc độ tăng 17,67%. Vì số NLĐ phải tham gia BHXH là

tăng do làn sóng thu hút đầu tư từ phía ủy ban nhân dân tỉnh, đường xá ổn

định tạo điều kiện giao thông thuận lợi nên lực lượng lao động ở các tỉnh lân

cận được thu hút về đây làm việc trong các doanh nghiệp, mặt khác do sự

chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ diễn ra

nhanh chóng, nên số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH trên địa bàn

tỉnh đã tăng mạnh [4]

Khối Đảng, Đoàn có tỷ trọng số lao động đã tham gia cao nhất và

cũng là khối có biến động tăng nhiều nhất, cụ thể: năm 2016 tăng so với

2015 là 3451 người, tương ứng tốc độ tăng 14,42%; năm 2017 tăng với

hút đối tượng tham gia BHXH của Đảng và Nhà nước ta. Khối này có tỷ lệ

2015 là 4567 người, tương ứng tốc độ tăng 19,09%. đó là do chính sách thu

tăng đều qua các năm.

Khối ngoài công lập có tỷ lệ số lao động đã tham gia đạt 100% vì số

lượng người phải tham gia rất ít nên quản lý đối tượng này đơn giản [4].

Khối phường, xã, thị trấn cũng có số lao động đã tham gia khá cao và

tăng khá nhiều, cụ thể: năm 2016 tăng so với 2015 là 402 người, tương ứng

tốc độ tăng 14,89%; năm 2017 tăng với 2015 là 527 người, tương ứng tốc độ

tăng 19,52%.Đó địa bàn tỉnh ổn định đường xá, nhều tuyến đường được hoàn

thành tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh tế phát triển [4].

Các khối còn lại là khối hợp tác xã và khối hộ sản xuất kinh doanh cá

tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu.

- Về công tác thu, chi của BHXH thai sản:

Công tác thu BHXH là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của

ngành nhằm đáp ứng các yêu cầu về sự tăng trưởng nguồn quỹ BHXH và các

yêu cầu về chi trả các chế độ BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động.

thể, Tổ hợp tác có số lao động đã tham gia BHXH bắt buộc thấp và chỉ chiếm

61

Về cơ bản, công tác thu BHXH ở Tỉnh Hà Giang hiện nay được tiến hành như

sau: Xác định mục tiêu cơ bản của ngành là không ngừng mở rộng và phục vụ

đối tượng tham gia, thụ hưởng các chế độ BHXH, bảo hiểm y tế. Trong đó có

công tác thu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đáp ứng các yêu

cầu về sự tăng trưởng quỹ và đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, bảo hiểm y

tế đối với người lao động. Vì vậy hàng năm, ngay từ đầu BHXH thành phố đã

tiến hành rà soát chặt chẽ lao động tiền lương, cân đối, giao chỉ tiêu thu cho

các đơn vị và phân công cán bộ chuyên quản phụ trách từng đơn vị, từng khu

vực, thường xuyên bám sát cơ sở, kiểm tra nắm chắc diễn biến tình hình hoạt

động sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Đồng thời thực hiện tốt công tác

BHXH, bảo hiểm y tế, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động.

đôn đốc thu gắn liền với việc cấp sổ BHXH, chi trả kịp thời các chế độ

Nhìn chung công tác thu đạt được kết quả tốt, tổng thu BHXH năm sau

cao hơn năm trước. Thực tế thu của BHXH tỉnh trong những năm qua như sau:

Bảng 2.4: Bảng tổng hợp công tác thu BHXH ở tỉnh Hà Giang

giai đoạn 2015 – 2017

Đơn vị tính: tỷ đồng

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Tổng

thu

Kế hoạch

Thực hiện

TH/KH (%)

Kế hoạch

Thực hiện

TH/KH (%)

Kế hoạch

Thực hiện

TH/KH (%)

Thu

1000

1122

101

1349,2 1244

92,2

1.285 1.323

103

(Nguồn BHXH tỉnh Hà Giang)

Năm 2015, BHXH tỉnh Hà Giang được giao chỉ tiêu thu hơn 1000 tỉ

đồng, tính đến hết tháng 12/2015, toàn tỉnh đã thu được hơn 1122 tỉ, đạt hơn

101% kế hoạch,tăng 3,2% so với năm 2014. Có được kết quả như trên ngay

từ đầu năm BHXH tỉnh Hà Giang đã tổ chức các phong trào thi đua ở các

huyện trên địa bàn tỉnh. Đồng thời ngành đã tăng cường sự phối hợp với các

62

ngành có liên quan, các tổ chức đoàn thể ở địa phương. Trong đó, chú trọng

phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực BHXH, BHYT ở địa

phương như Sở lao động thương binh & xã hội; Sở y tế. Mặt khác đẩy mạnh

tuyên truyền chính sách mới của Đảng và Nhà nước; đôn đốc thu nợ BHXH,

BHYT… và hạn chế phát sinh nợ mới; tăng cường thanh tra kiểm tra nhằm

phát hiện những vi phạm pháp luật về BHXH; vận động người lao động

tham gia BHXH [4].

Năm 2016, tính đến 31/12/2016 đạt hơn 1.244 tỉ đồng tăng 11% so với

cùng kỳ năm 2015, đạt 92,2% so với kế hoạch đề ra. Nợ BHYT, BHBB tính

đến 31/12/2016,ước tính ở mức thấp khoảng 18 tỉ đồng chiếm 1,5% số phải

kỳ năm 2015…với tổng số chi trả khoảng 705.000.000 đồng người hưởng bảo

thu. Tổng số chi ước thực hiện năm 2016 gần 1.200 tăng 24,3 % so với cùng

hiểm xã hội thai sản cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Giang tăng sấp sỉ

1,14% so vơi cùng kỳ năm 2015.

Năm 2017, tính đến 31/12/2017 đạt 1.323 tỷ đồng, tăng 142 tỷ đồng

(tăng 11,99%) so với cùng kỳ năm 2016; đạt 103% so với dự toán BHXH

Việt Nam giao (1.285 tỷ đồng); công tác rà soát và bàn giao sổ BHXH cho

người lao động, đạt tỷ lệ 92,74% so với tổng số sổ BHXH phải bàn

giao; đã hoàn thành 100% việc cấp mã số BHXH; [4]

Nguyên nhân là do số lượng người được nhận chế độ thai sản tăng,

mức sống của người lao động ngày càng được nâng cao để phù hợp với điều

BHXH cũng tăng và khi trợ cấp mức trợ cấp cũng sẽ tăng theo. Mặt khác,

dịch vụ y tế, thuốc men cũng tăng giá nhiều so với trước vì thế mà mức trợ

cấp cũng tăng để hỗ trợ đủ cho người lao động nghỉ thai sản nhanh chóng

phục hồi sức khoẻ để tiếp tục làm việc. Công tác chi trả các chế độ thai sản tại

Tỉnh Hà Giang được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm bảo ổn định đời sống

kiện thực tế mức lương tối thiểu của người lao động tăng dẫn đến số thu

63

cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản.

Thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của Ngành, BHXH toàn tỉnh đã chi

trả kịp thời, đầy đủ các chế độ liên quan đến BHXH, BHTN, BHYT cho các

đối tượng tham gia. Công tác chi trả chế độ thai sản được chỉ đạo chặt chẽ,

kịp thời đã đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động được hưởng chế độ

thai sản toàn Tỉnh Hà Giang nói riêng và người lao động được hưởng chế độ

này nói chung trên phạm vi cả nước.

Bảng 2.5: Bảng tổng hợp công tác chi BHXH thai sản ở tỉnh Hà Giang

giai đoạn 2015 – 2017

Đơn vị: Triệu đồng

Năm

2015

2016

2017

Trợ cấp

632.000.000

705.000.000

608.728.000

thai sản

(Nguồn BHXH tỉnh Hà Giang)

Về thủ tục giải quyết và công tác quản lý chế độ thai sản:

Công tác cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến tích cực,

hạn chế đến mức thấp nhất hồ sơ trễ hẹn.

Trong năm 2016, ngành BHXH thành phố tiếp nhận 213.185 lượt hồ

sơ, tăng 10,19% so với năm 2015 lượt hồ sơ theo phiếu hẹn. Thực hiện việc

tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ

chuyển phát bưu chính (không giao nhận tại cơ quan BHXH) toàn ngành đã

BHXH, BHYT, BHTN, cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT, có 1850 đơn vị sử

dụng lao động/tổng số 2000 đơn vị sử dụng lao động phát sinh giao dịch hồ sơ

điện tử, đạt tỷ lệ 92,5% [4].

Trong năm 2017, BHXH tỉnh Hà Giang ước tính giải quyết 4.303 hồ sơ

hưởng các chế độ BHXH; thực hiện quyết toán chế độ ốm đâu, thai sản,

tiếp nhận. Triển khai thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử trong lĩnh vực thu

64

dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 4.210 lượt người, trong đó trợ cấp ốm đau

là 1366 lượt, trợ cấp thai sản 2.566 lượt người, trợ cấp dưỡng sức phục hồi

sức khỏe 278 lượt [4].

Thông qua giao dịch hồ sơ điện tử và dịch vụ chuyển phát bưu điện đã

góp phần rút ngắn thời gian giao dịch về BHXH, BHYT đối với các đơn vị sử

dụng lao động, đồng thời với việc tiết kiệm chi phí đi lại của các đơn vị theo

đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.(đăng ký giao dịch điện tử

1850/2000 doanh nghiệp đăng ký tham gia)

Công tác quản lý về chế độ thai sản được tăng cường trong sự phối hợp

chặt chẽ, đồng bộ và trách nhiệm của các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể trong

Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về chế độ thai sản của

quá trình xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn Luật bảo hiểm xã hội.

người lao động đã có chuyển biến tích cực.

Công tác giải quyết chế độ chế độ thai sản cho người lao động từng

bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin, thực hiện cải cách

hành chính. Hiện nay, người lao động làm việc tại thành phố Tỉnh Hà Giang

khi đóng bảo hiểm đều có sổ bảo hiểm, các chế độ thai sản chi trả cho người

lao động đều được thực hiện rõ ràng, đúng theo quy định pháp luật. Các

trường hợp lao động chưa hiểu rõ về chế độ mình được hưởng, hay các thủ

tục thực hiện để hưởng chế độ đều được các cán bộ chuyên môn chỉ dẫn nhiệt

tình, cụ thể, không có việc gây khó khăn cho lao động. Điều này đã tạo niềm

tượng tham gia bảo hiểm xã hội nói chung, trong đó có chế độ thai sản.

Ngành BHXH thành phố chú trọng xây dựng đội ngũ CBCCVC vừa

"hồng" vừa "chuyên" theo 5 chuẩn mực đạo đức của ngành BHXH Việt Nam.

Trong những năm gần đây, BHXH Tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh công tác cải

cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nâng cao chất

tin cho người lao động vào chế độ hiểm thai sản và ngày càng có nhiều đối

65

lượng đội ngũ CBCCVC nhằm phục vụ tốt đối tượng tham gia và thụ hưởng

chính sách BHXH, BHYT. BHXH thành phố từng bước thực hiện phân cấp

quản lý cho BHXH các huyện nhằm tạo sự thuận lợi và giải quyết tốt nhất

BHXH cho các đối tượng.

2.2.2.2. Một số hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn thi hành pháp luật

BHXHTS ở tỉnh Hà Giang và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm

thai sản ở bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang thời gian qua vẫn còn tồn tại hạn

chế trong thực tiễn thi hành pháp luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang.

Một là, về đối tượng tham gia bảo hiểm thai sản.

còn hạn hẹp. Nhiều đối tượng thuộc diện tham gia BHXH nhưng lại không

Đối tượng tham gia BHXH nói chung và BHXH thai sản nói riêng vẫn

tham gia BHXH. Bên cạnh đó, việc quản lý đối tượng hưởng các chế độ

BHTS tại các huyện trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn còn gặp những khó khăn

như tình trạng thông tin đối tượng tham gia không khớp với hồ sơ, chứng

minh nhân dân và hộ khẩu.

Hai là, về chi trả bảo hiểm thai sản: Nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai

thông tin về lao động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt

buộc. Từ đó xuất hiện tình trạng rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của

pháp luật cũng như sự thiếu hiểu biết về BHXH thai sản của người dân trên

địa bàn đã thành lập các công ty ma, khai khống thông tin nhân viên có trong

mang bầu tới tháng thứ hai, sẽ có người đến hỏi thăm và gợi ý chỉ cần làm

theo hướng dẫn của họ, tới khi sinh sẽ được 2 triệu đồng. Khi em bé được 1

tuổi, sẽ được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng nữa. Mọi chi phí BHXH, BHYT, bảo

hiểm thất nghiệp thì công ty sẽ lo. Với thủ đoạn này, rất nhiều người dân tộc

trên địa bàn nhanh chóng nghe theo vì nghĩ bỗng nhiên trở thành người của

công ty, lừa lấy thông tin của các thai phụ với thủ đoạn: những thai phụ mới

66

công ty, chẳng phải đi làm ngày nào, khi sinh đẻ lại được tiền…

Ba là Về công tác thu BHXH: Công tác thu BHXH còn tồn tại một số

hạn chế: Có nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chưa

được tham gia BHXH có chủ sử dụng lao động trốn nộp.

Đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là lao động trong khu vực nhà

nước, chiếm 87%. Số người tham gia BHXH ngoài khu vực nhà nước chỉ

chiếm khoảng 13% tổng số người tham gia và chiếm khoảng 20% tổng lao

động ngoài khu vực nhà nước.

Tình trạng nợ đọng dù giảm nhiều những vẫn là một tồn tại lớn, theo số

liệu thống kê của BHXH tỉnh Hà Giang, hiện nay trên địa bàn có trên 1.400

Ví dụ như: Công ty Cổ phần Giao thông xây dựng số I - doanh nghiệp

đơn vị SDLĐ nợ đọng bảo hiểm 37 tỷ đồng.

đã có những bứt phá ngoạn mục, vươn lên mạnh mẽ sau cổ phần hóa, tham

gia thi công nhiều gói thầu lớn trong và ngoài tỉnh. Cùng với sự vươn lên,

khẳng định vị thế trên thương trường, doanh nghiệp này cũng nổi tiếng về nợ

đọng bảo hiểm với con số đội sổ, trên 3,372 tỷ đồng, cao nhất trong số những

con nợ khó đòi của BHXH tỉnh. Trong đó, số tiền nợ BHXH gần 2,5 tỷ đồng,

BHYT trên 264 triệu đồng, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên 127 triệu

đồng, tiền tính lãi trên 500 triệu đồng, đồng thời doanh nghiệp đã dừng tham

gia các loại bảo hiểm cho người lao động từ tháng 1.2013. Nhằm xử lý món

nợ khó đòi, cơ quan BHXH đã nhiều lần làm việc nhưng không mang lại kết

doanh gặp nhiều khó khăn, tỉnh còn nợ tiền xây dựng cơ bản chưa trả nên

không có tiền đóng bảo hiểm. Một cán bộ nghiệp vụ BHXH tỉnh cho biết

thêm, qua các đợt kiểm tra, trên bảng lương của người lao động đều thể hiện

khoản tiền bảo hiểm các loại, nhưng doanh nghiệp không nộp về cơ quan

BHXH tỉnh, đây thực sự là một biểu hiện lạm dụng tiền bảo hiểm.

quả, lãnh đạo doanh nghiệp viện nhiều lý do như hoạt động sản xuất kinh

67

Trong danh sách các doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm được liệt vào

dạng khó đòi, có sự góp mặt của Công ty Cổ phần Xi - măng Hà Giang với số

tiền trên 921 triệu đồng, gồm tiền BHXH gần 724 triệu đồng và gần 135 triệu

đồng tiền lãi; Công ty TNHH Đức Sơn nợ 17 tháng bảo hiểm của 13 lao động

với số tiền trên 334 triệu đồng; Công ty TNHH Ngọc Quế Lâm nợ 58 tháng

với số tiền gần 286 triệu đồng; Công ty Cổ phần Nông lâm nghiệp Bình Minh

3 nợ bảo hiểm 19 tháng của 9 lao động với số tiền trên 216 triệu đồng... Một

số đơn vị hành chính sự nghiệp như UBND xã Bằng Lang (Quang Bình) cũng

nợ trên 83 triệu đồng tiền bảo hiểm của 24 cán bộ, công chức.

Theo Phó Giám đốc BHXH tỉnh Mai Quang Hùng, hiện còn nhiều đơn

dụng số tiền phải đóng làm vốn kinh doanh [44; 45; 50]

vị SDLĐ chưa thực hiện tốt việc đóng, nộp tiền bảo hiểm hàng tháng, còn lạm

Bốn là, về điều kiện cơ sở vật chất của một số cơ quan bảo hiểm xã hội

trên địa bàn tỉnh, còn chưa được đầu tư, thiết bị như máy tính, máy in, máy

photo… phục vụ cho công tác xử lý hồ sơ còn thiếu và có dấu hiệu xuống

cấp. Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ,

thiếu kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thảo đáng cho những

đơn vị, các nhân thực hiện tốt công tác BHXH.

Năm là, Một số viên chức còn ngại khó, chưa thực sự có tinh thần trách

nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt với các công việc có yêu cầu đổi

mới, xuất hiện tình trạng bảo thủ không tiếp thu công nghệ mới nên tiến độ

không thống trong việc áp dụng pháp luật; Trình độ của cán bộ, công nhân

viên chức trong BHXH tỉnh Hà Giang vẫn còn bất cập. Đa số là các cán bộ

thuộc ngành khác chuyển sang, chưa nắm vững được công tác BHXH, BHXH

tỉnh còn thiếu cán bộ, một cán bộ phải đảm đương nhiều công việc dẫn đến

hiệu quả công việc chưa cao. Cá biệt còn có viên chức lợi dụng danh nghĩa

công việc còn chậm; còn tình trạng lúng túng khi áp dụng pháp luật cũng như

68

cán bộ BHXH để trục lợi, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, phải xử lý kỷ luật.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác

nhau. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây:

- Về phía các chủ thể tham gia BHXH

Nguyên nhân chủ yếu là dân cư trên địa bàn tỉnh Hà Giang hầu hết là

người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp nên còn thiếu hiểu biết về pháp

luật BHXH cũng như về quyền lợi mà mình được hưởng theo quy định. NLĐ

làm việc trong khu vực này chủ yếu là lao động phổ thông, phần lớn họ đều

chưa qua đào tạo nghề, tay nghề thấp, thường xuyên thay đổi nơi làm việc nên

dẫn đến việc nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng

tuyên truyện vận động họ tham gia BHXH gặp rất nhiều khó khăn. Điều này

lại không tham gia hoặc thỏa thận với NSDLĐ để nhận tiền mặt thay vì đóng

vào quỹ BHXH. Nhất là, nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai thông tin về lao

động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt buộc.

Thêm vào đó, hầu hết các giấy tờ tùy thân của người dân tộc thiểu số đã

cũ nát, người dân không có ý thức giữ gìn giấy tờ tùy thân của mình hoặc do

cán bộ xã làm giấy tờ còn sai lệch nhiều. Trong khi đó, số lượng đối tượng

hưởng chế độ BHTS lại đông, thuộc nhiều trường hợp khác nhau dẫn đến

không tránh khỏi sai sót, chậm trễ trong khâu giải quyết, chi trả chế độ.

- Về phía NSDLĐ

chưa có sự hiểu biết một cách thấu đáo pháp luật về BHXH nên nhiều

NSDLĐ đã chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi BHXH của NLĐ, chưa ý

thức được trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ. Nhiều doanh nghiệp ngoài

quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn hoặc có những hoạt động yếu kém

vì thế chưa bảo vệ được quyền lợi về BHXH cho NLĐ. Hơn nữa là

Do chưa nhận thức được hết vai trò ý nghĩa của BHXH cũng như

69

NSDLĐ thường đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên hàng đầu nên đã trốn

tránh trách nhiệm đóng BHXH theo đúng luật quy định, không quan tâm

đến quyền lợi của người lao động.

- Về phía cơ quan nhà nước

Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang tuy đã đạt được những kết quả nhất

định trong công tác quản lý quỹ BHXH (như đã phân tích ở trên).Tuy nhiên, ở

góc độ nào đó thì việc quản lý này chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng nợ đọng

BHXH vẫn còn tồn tại. Đây là món nợ khó đòi, nguyên nhân là do một số

doanh nghiệp không có khả năng đóng bảo hiểm do gặp khó khăn trong sản

xuất, kinh doanh, làm ăn thua lỗ. Bên cạnh những đơn vị khó khăn thực sự,

bảo hiểm, cố tình chống đối, không đóng nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN cho

rất nhiều đơn vị cố tình thoái thác trách nhiệm, có biểu hiện chiếm dụng tiền

người lao động với lý do Nhà nước còn nợ tiền các công trình nên chưa thực

hiện nghĩa vụ với người lao động. Các đơn vị nợ đọng tiền bảo hiểm, đồng

nghĩa với việc người lao động sẽ không được thanh toán chế độ khi ốm đau,

thai sản, tai nạn lao động. Chính sự gây nợ đọng đó đã gây khó khăn và thiệt

thòi cho người lao động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội.

Công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang cũng như

các phòng ban, ngành chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh

doanh, tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất

là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập. Có những doanh nghiệp

sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng kí, giả thể sau khi thành lập

và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động...Cũng

không cơ quan quản lý nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những

doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu

cầu người sử dụng lao động thực hiện chính sách BHXH cho người lao động

ngoài quốc doanh có đăng kí thành lập trên địa bàn huyện nhưng không có trụ

70

theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ đảm bảo.

Thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH cho NLĐ và

NSDLĐ còn chưa rộng rãi, chưa thường xuyên. Bên cạnh đó nội dung và

hình thức tuyên truyền còn khô cứng chưa thu hút được sự quan tâm của đại

đa số nhân dân.

- Về quy định của pháp luật

Về quy định của pháp luật gây khó khăn và thiệt thòi cho người lao

động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội thai sản. Đa số các quy

định về vấn đề đối tượng hưởng trợ cấp thai sản, điều kiện hưởng, thời gian

nghỉ và mức trợ cấp hưởng được đánh giá là có sự tiến bộ vượt bậc so với

đời sống vật chất tinh thần cho NLĐ nữ trong giai đoạn thai sản. Tuy nhiên,

pháp luật cũ, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo

bên cạnh đó một số các quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS vẫn

còn bất cập, thiếu tính khả thi dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn có những

khó khăn vướng mắc như hạn chế nhất định như quy định về thời hạn giải

quyết quyền lợi BHXHTS cho NLĐ quá ngắn khiến thực tế NSDLĐ không

thực hiện được nên có sự vi phạm; quy định lao động nam tham gia BHXH có

vợ sinh con được hưởng chế độ nhưng trong thông tư số 14/2016/TT-BYT

ngày 12/5/2016 quy định giấy chứng sinh không ghi tên cha nên khó xác định

việc tham gia BHXH của người vợ trong trường hợp lao động nam hưởng trợ

cấp một lần khi vợ sinh con. Hay các cá nhân lợi dụng kẻ hở của chính quyền

sinh hoặc Giấy chứng sinh bản sao và thực hiện lập hồ sơ giả mạo đề nghị cơ

quan BHXH thanh toán tiền trợ cấp thai sản; mức xử phạt vi phạm hành chính

đối với hành vi nợ đọng BHXH cũng không cao nên chưa đảm bảo tính răn đe

khiến các doanh nghiệp vẫn vi phạm.

71

địa phương trong việc chứng thực các văn bản giấy tờ để làm giả Giấy khai

Kết luận Chương 2

Như vậy, với các nội dung trình bày trên đây, có thể thấy Luật BHXH

2014 đã có những bước tiến để kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật

về CĐTS. Đánh giá khi so sánh với pháp luật quốc tế cũng như quy định của

ILO, hệ thống pháp luật về CĐTS tại Việt Nam có những ưu việt, cụ thể như:

Luật bổ sung quy định lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con

được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản 5 ngày làm việc đối với trường hợp

sinh thường và 7 ngày làm việc đối với trường hợp sinh con phải phẫu thuật,

sinh con dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày làm việc nếu sinh đôi và từ sinh ba trở lên

sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.

thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 3 ngày làm việc; 14 ngày làm việc nếu

Sửa đổi điều kiện hưởng BHXH thai sản trong trường hợp lao động nữ

có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng nhưng vì lý do thai không bình

thường phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa

bệnh có thẩm quyền thì chỉ cần bảo đảm điều kiện đóng BHXH từ đủ 3 tháng

trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

Đồng thời, sửa đổi thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi

sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi. Bổ sung trường hợp lao động

nam nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được hưởng BHXH giống như lao

động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi.

tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp

nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản đối với thời gian còn lại

của người mẹ.

Nếu mẹ đóng BHXH bắt buộc nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH

theo quy định mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc

Đối với trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều

72

hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con

hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không có đủ sức khỏe để chăm sóc con có xác

nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền thì người cha được

nghỉ việc hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.

Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH khi vợ sinh con thì cha được

trợ cấp một lần bằng 2 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con;

tăng thêm 1 tháng cho thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp

con dưới 2 tháng tuổi bị chết sau khi sinh.

Bổ sung quy định BHXH thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người

Nhìn chung, công tác bảo hiểm thai sản tại địa bàn đã được thực hiện

mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi).

một cách nghiêm chỉnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đối tượng tham

gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có xu hướng tăng qua các năm. Việc chi trả chế

độ thực hiện một cách đầy đủ, đúng đối tượng, đúng thời gian. Công tác thu

quỹ bảo hiểm, thu hồi nợ được triển khai một cách sát sao.

Tuy nhiên, việc thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm thai sản tại

địa bàn vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định. Các khó khăn này chủ yếu

xoay quanh vấn đề như việc doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm, chậm đóng

bảo hiểm; thủ tục hành chính còn chưa linh hoạt, thiếu chặt chẽ. Nguyên nhân

dẫn đến những hạn chế này một phần do quy định của pháp luật còn hạn chế,

việc nhận thức quyền và nghĩa vụ của mình.

73

một phần do chính ý thức của người lao động, người sử dụng lao động trong

Chương 3

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN Ở TỈNH HÀ GIANG

3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội thai sản

3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS

Chế độ bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao

động nữ nói chung, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng

làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Trong

được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù, nhằm đảm bảo thu nhập và sức khoẻ cho

các quy định riêng về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, bảo hiểm thai sản

lao động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nuôi sơ sinh. Với tầm quan

trọng như vậy, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản cần phải đáp ứng

các yêu cầu sau:

Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản cần phải khắc

phục ngay những bất cập của pháp luật về bảo hiểm thai sản.Trong quá

trình thực hiện trên thực tế, pháp luật bảo hiểm thai sản khó tránh khỏi

những hạn chế và vướng mắc, gây khó khăn cho các chủ thể áp dụng.

Chính vì thế, các quy định này cần phải được khắc phục một cách sớm nhất

và nhanh nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức có quyền và

quy định bất cập có thể gây ra.

Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản phải được đặt

trong mối tương quan với việc hoàn thiện quy định về các chế độ khác của

bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm thai sản là một chế độ của bảo hiểm xã hội bắt

buộc, do đó những thay đổi liên quan đến bảo hiểm thai sản cũng cần được

nghĩa vụ liên quan cũng như giảm thiểu tối đa những hệ quả không tốt mà

74

đặt trong mối tương quan với các chế độ khác của bảo hiểm xã hội. Nếu

những quy định về bảo hiểm thai sản thay đổi mà chỉ phù hợp với riêng chế

độ này mà gây ảnh hưởng tới các chế độ khác trong hệ thống bảo hiểm xã hội

hoặc là gây ảnh hưởng tới việc phân bổ nguồn quỹ và chi trả chế độ bảo hiểm

thì việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản không đáp ứng được mục đích

đề ra như ở trên. Việc hoàn thiện quy định bảo hiểm thai sản được đặt trong

mối tương quan với việc hoàn thiện các quy định về các chế độ khác của bảo

hiểm xã hội cũng góp phần hoàn thiện một cách tổng thể các quy định của

Luật BHXH, nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao tính phù hợp của

quy định đối với đời sống thực tế.

điều kiện kinh tế-xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Pháp luật có

Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản phải phù hợp với

vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà các quan hệ xã hội này lại chịu sự

tác động của điều kiện kinh tế-xã hội. Vì vậy, muốn điều tiết được các quan

hệ xã hội này, pháp luật cần phải thể hiện được mối tương quan phù hợp với

những điều kiện kinh tế-xã hội mà pháp luật sẽ điều chỉnh. Pháp luật bảo

hiểm thai sản thể hiện được sự phù hợp với các quy luật phát triển của kinh

tế-xã hội sẽ làm tăng tính khả thi và hiệu quả thực hiện, từ đó góp phần thúc

đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế-xã hội. Ngược lại, nếu

pháp luật không có sự phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội sẽ dẫn đến tính

bất khả thi của quy định trên thực tế, thậm chí có thể gây cản trở hay gây ra

hiểm thai sản phải thể hiện được sự phù hợp với đường lối, chính sách của

Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là, pháp luật bảo

hiểm thai sản phải thực hiện được đúng chức năng và vai trò của mình trong

việc hỗ trợ đời sống của người lao động, thể hiện được sự quan tâm của Nhà

nước đối với nhân dân của mình. Không chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế-

những thiệt hại nhất định cho sự phát triển chung của xã hội. Pháp luật bảo

75

xã hội, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản còn cần phù hợp với bối

cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện

nay, pháp luật quốc gia về bảo hiểm thai sản cần tuân thủ theo những công

ước, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia. Pháp luật bảo hiểm

thai sản cần được xây dựng và hoàn thiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản

của pháp luật quốc tế, cũng như cần học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm từ

các quốc gia khác trên thế giới. Có như vậy, pháp luật bảo hiểm thai sản mới

nâng cao được tính phù hợp với xu thế phát triển chung cũng như nâng cao

hiệu quả áp dụng vào thực tế.

3.1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật

càng nặng nề và cấp bách. Bất kỳ nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa

Khi nền kinh tế càng phát triển, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống BHXH

nhận rằng sự nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp,

tật nguyền bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân,

của gia đình họ mà còn là trách nhiệm của Nhà nước và của cộng đồng xã hội.

Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, hệ thống an sinh xã hội mà cốt lõi là

BHXH càng có ý nghĩa đặc biệt, sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống an

sinh xã hội, BHXH không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển và phù hợp với xu

hướng chung của thời đại, mà còn thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của

chế độ xã hội, chính trị.

Luật BHXH năm 2014 ra đời đánh dấu bước phát triển theo hướng

bật có thể nhận thấy là việc mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng nhằm bao

quát toàn bộ lực lượng lao động trong xã hội, nâng cao quyền lợi cho NLĐ

trong mối tương quan công bằng, hoàn thiện về quản lí và tổ chức BHXH

theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số bất

cập cần hoàn thiện. Thiết nghĩ, cần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện một số quy

hoàn thiện hơn về chính sách, chế độ BHXH ở Việt Nam. Những ưu điểm nổi

76

định sau đây về BHXHTS.

Thứ nhất, về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản: Nhà nước

Cần xem xét việc áp dụng chế độ thai sản đối với đối tượng tham gia bảo

hiểm xã hội tự nguyện. Hiện nay, bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ áp dụng

chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Tuy nhiên, với dân số hơn 854.679 người

mà tỷ lệ số dân nằm trong độ tuổi sinh nở chiếm phần lớn, trong tình hình

kinh tế tại địa bàn còn gặp những khó khăn nhất định, phần lớn dân cư làm

nông nghiệp, cuộc sống tự cung tự cấp, đặc biệt trong vấn đề việc làm, dẫn

đến đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp. Bảo hiểm xã hội tự

nguyện là một hình thức nhằm khuyến khích và tạo cơ hội cho những đối

không áp dụng chế độ thai sản đối với nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã

tượng này được hưởng những chính sách an sinh xã hội tốt. Tuy nhiên, việc

hội tự nguyện đang phần nào làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của Nhà nước

khi mục đích chính của chế độ bảo hiểm thai sản là bảo vệ sức khỏe của

người mẹ lẫn người con, để đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng trong

tương lai. Chưa kể đến việc, những người tham gia bảo hiểm xã hội tự

nguyện cũng có nhu cầu được tham gia và được thụ hưởng chế độ thai sản.

Bởi thế, các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét, đánh giá nhu cầu cũng như

nghiên cứu phương án áp dụng chế độ thai sản đối với nhóm đối tượng tham

gia BHXH tự nguyện nhằm đáp ứng được nhu cầu của người dân cũng như

hoàn thiện hơn ý nghĩa nhân văn và mục đích bao phủ chế độ an sinh xã hội

Thứ hai, chế độ BHXHTS theo quy định của pháp luật hiện nay chủ

yếu chỉ bao gồm chế độ trợ cấp nhằm bù đắp thu nhập cho NLĐ trong thời

gian họ bị giảm hoặc mất thu nhập do thai sản chứ chưa có quy định về chăm

sóc y tế cho NLĐ nữ trước và sau sinh cũng như khi xảy ra các sự kiện thai

sản. Tuy nhiên, chế độ trợ cấp chăm sóc y tế được đánh giá là một phần quan

đến tất cả mọi người, không phân biệt đối tượng.

77

trọng trong tập hợp những trợ cấp cần thiết cho NLĐ nữ khi họ mang thai,

sinh, nuôi con. Theo thông lệ quốc tế, vấn đề này cũng được pháp luật các

quốc gia quan tâm, chú trọng. Việc chỉ áp dụng chung quy định hưởng trợ cấp

chăm sóc y tế theo diện hưởng và phạm vi hưởng BHYT theo Luật BHYT

như ở Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý vì nhiều khi chưa bao quát được tất

cả các trường hợp liên quan đến thai sản và có sự không thống nhất với Luật

BHXH. Theo Luật BHXH, lao động nữ khi nạo hút thai được nghỉ việc hưởng

chế độ bảo hiểm thai sản nhưng theo Luật BHYT thì trong trường hợp này lao

động nữ lại không được hưởng BHYT (trừ trường hợp theo chỉ định của thầy

thuốc) khiến quyền lợi của NLĐ nữ trong suốt quá trình thai sản không được

chế độ bảo hiểm thai sản hoàn thiện làm cơ sở pháp lý vững chắc nhằm bảo

bảo đảm. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cần có một

vệ lao động nữ [14]

Thứ ba, quy định lao động nam tham gia BHXH có vợ sinh con được

hưởng chế độ nhưng trong thông tư số 14/2016/TT-BYT ngày 12/5/2016 quy

định giấy chứng sinh không ghi tên cha nên khó xác định việc tham gia BHXH

của người vợ trong trường hợp lao động nam hưởng trợ cấp một lần khi vợ sinh

con. Vì vậy, cần thay đổi quy định của pháp luật để phù hợp với thực tế, tạo

điều kiện thuận lợi trong quá trình giải quyết bảo hiểm xã hội cho NLĐ.

Thứ tư, cần điều chỉnh mức trợ cấp một lần cho phù hợp theo hướng

nâng cao mức trợ cấp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.

nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi... sẽ được hưởng trợ cấp 1 lần. Mức trợ

cấp cho mỗi con bằng 2 lần mức lương cơ sở. Mục đích của trợ cấp này là để

hỗ trợ cho NLĐ mua đồ cho con khi sinh (như sữa, quần áo, tã lót...). Tuy

nhiên, thực tế cho mấy mức trợ cấp này là quá thấp, không đủ để hỗ trợ cho

NLĐ trong việc mua bán các đồ dùng sinh hoạt cho con khi sinh khiến lao

Theo Điều 38 Luật BHXH năm 2014, đối với lao động nữ sinh con, NLĐ

78

động nữ gặp khó khăn trong việc chăm sóc, đảm bảo những điều kiện cơ bản

dành cho con sơ sinh. Đặc biệt là ở các thành phố lớn, điều kiện sinh hoạt hết

sức đắt đỏ, càng khiến lao động nữ gặp khó khăn nhất là trong các khu công

nghiệp. Bên cạnh đó, quỹ BHXHTS trên thực tế cũng chưa bao giờ chi hết

quỹ. Do đó thiết nghĩ, cần điều chỉnh mức trợ cấp 1 lần theo hướng nâng cao

mức trợ cấp nhằm tạo cho NLĐ có điều kiện chăm sóc trẻ tốt hơn.

Thứ năm, nghiên cứu và bổ sung thêm các quy định về trường hợp

mang thai hộ cho phù hợp với thực tiễn. Mang thai hộ là vấn đề mới được quy

định trong Luật BHXH năm 2014, phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình.

Quy định này mang tính nhân văn sâu sắc bởi đã mở ra niềm hy vọng cho các

lao động nữ sinh con khác, pháp luật BHXHTS không giới hạn số lần sinh

cặp vợ chồng không có khả năng sinh con. Cũng giống như những trường hợp

con của người mang thai hộ. Điều này cũng là phù hợp với mục đích của an

sinh xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế có thể có những tình trạng lạm dụng việc

này. Chẳng hạn như lao động nữ xem việc mang thai hộ như là một "nghề" thì

việc không giới hạn số lần hưởng BHXHTS khi sinh con đó sẽ không còn hợp

lý nữa. Vì vậy thiết nghĩ các nhà làm luật cần nghiên cứu thêm về các vấn đề

như có hay không giới hạn những lần mang thai, những lần sinh con của

người mang thai hộ.

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang

3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

thai sản

Hà Giang là một tỉnh nghèo, kết cấu dân số chủ yếu là người dân tộc

thiểu số, trình độ văn hóa thấp, kênh thông tin tiếp cận với BHXH thai sản

còn hạn chế. Vì vậy việc tuyên truyền về BHXH nói chung và BHXH thai sản

nói riêng là vô cùng quan trọng, vừa nâng cao ý thức tuân thu pháp luật của

sách an sinh của Nhà nước được hoàn thiện và phát triển.

79

người dân, giúp họ hiểu rõ về lợi ích của tham gia BHXH, đồng thời chính

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm thai sản được đánh giá là rất cần thiết và quan trọng. Để phấn đấu đạt

được mục tiêu 50% lực lượng lao động tham gia BHXH vào năm 2020 theo

Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 23/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê

duyệt chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm 2020

cũng như để đảm bảo quyền lợi cho lao động nữ một cách lớn nhất, công tác

tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần có những sự thay đổi cả từ cách tiếp cận

đến nội dung, đòi hỏi các cơ quan liên quan phải có sự đầu tư thích đáng. Để

thực hiện tốt công tác này, BHXH tỉnh Hà Giang cần:

hiểm xã hội, bảo hiểm thai sản dành cho người dân. Các chương trình này cần

Thứ nhất, chú trọng việc xây dựng các chương trình tìm hiểu về bảo

được xây dựng một cách đa dạng, phong phú, không gò bó mà phải có sự dễ

hiểu, dễ gần và thân thiện với người dân.

Thứ hai, tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông qua

các phương tiện thông tin đại chúng. Trong thời đại công nghệ số, con người

dễ dàng nắm bắt thông tin qua các hình thức công nghệ hiện đại. Chính vì

thế, cần nắm bắt tâm lý này để phổ biến các kiến thức cũng như quy định

pháp luật liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thai sản đến với người

dân. Tùy thuộc vào loại đối tượng, có thể sử dụng những phương thức

truyền thông truyền thống (sách, báo, đài) hay phương tiện truyền thông

tuyên truyền trực tiếp đến các đơn vị đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa

tham gia BHXH bắt buộc; cung cấp tờ rơi đến các đơn vị sử dụng lao động,

nơi công cộng. Cần đẩy mạnh những chính sách tuyên truyền, phổ biến các

kiến thức về bảo hiểm xã hội cũng như trách nhiệm thực thi bảo hiểm xã hội

đến mọi địa phương trên địa bàn huyện, như: dành 1 buổi /tuần tuyên truyền

hiện đại (trang tin điện tử, mạng xã hội, điện thoại..). Thực hiện công tác

80

phổ biến chính sách bảo hiểm xã hội trên loa đài phát thanh tại các phường,

tổ dân phố trên địa bàn quận thông qua các hình thức bản tin, mẩu chuyện

vui hoặc chuyên mục hỏi đáp, v.v…

Thứ ba, tuyên truyền và khuyến khích tổ chức công đoàn cơ sở phát

huy vai trò như một cầu nối giữa người sử dụng lao động và người lao động

trong việc tìm ra tiếng nói chung trong các vấn đề liên quan đến quyền lợi và

nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện trong quan hệ lao động. Đồng thời, công

đoàn có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật

bảo hiểm cho người lao động.

Thứ tư, người cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến cũng cần

thai sản. Có như vậy, người cán bộ mới có thể tuyên truyền, phổ biến một

nắm rõ những quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm

cách chính xác, đúng đắn tinh thần và quy định của pháp luật cũng như giải

đáp các thắc mắc của người dân.

Thứ năm, việc tuyên truyền, động viên phải gắn với kết quả thu nộp,

giải quyết chế độ chính sách ở cơ quan bảo hiểm xã hội nhằm tạo niềm tin

trong nhân dân để họ thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia

bảo hiểm xã hội.

Đa dạng hóa các cách tuyên truyền pháp luật để người dân dễ dàng tiếp

cận và tuân theo pháp luật. Có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả

như mong muốn, đưa chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mọi người lao

động trong xã hội.

3.2.2. Tăng cường sát sao trong công tác thu hồi các khoản nợ BHXH

Nhằm xử lý vấn đề nợ đọng, BHXH tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp

như hàng tháng gửi văn bản đôn đốc các đơn vị SDLĐ đang nợ tiền đóng nộp

bảo hiểm, thông báo số tiền phải đóng trong tháng, số còn nợ các tháng trước,

số tiền tính lãi phạt chậm. Sau 2 lần gửi văn bản đôn đốc, nếu đơn vị SDLĐ

81

vẫn không chấp hành đóng bảo hiểm, BHXH tỉnh cử cán bộ chuyên quản đến

lập biên bản đối chiếu thu, yêu cầu chuyển trả theo đúng quy định. Những

đơn vị cố tình chây ỳ, không đóng, đóng không đủ số người theo quy định, có

thời gian nợ đọng kéo dài, BHXH phối hợp cơ quan chức năng như Kho bạc

Nhà nước, Sở LĐ-TBXH, LĐLĐ tỉnh... thành lập các đoàn kiểm tra, thanh

tra, tổ công tác thu nợ, đôn đốc các đơn vị chấp hành.

Ngoài ra, BHXH tỉnh nên kết hợp với Kho bạc Nhà nước ký kết quy

chế phối hợp thực hiện trích tiền từ tài khoản của đơn vị SDLĐ để nộp tiền

BHXH, BHYT chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi phát sinh; ký hợp đồng đại

lý thu BHXH tự nguyện, BHYT của người tự đóng và phát triển người tham

công tác với cục Thuế, Hội LHPN, Hội Nông dân tỉnh... Qua đó, công tác đốc

gia BHXH tự nguyện, BHYT qua hệ thống Bưu điện; ký quy chế phối hợp

thu, thu hồi nợ đã có nhiều chuyển biến, một số doanh nghiệp nợ đọng đã

khắc phục nợ kịp thời.

3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm

Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2016 trong đó

tại Điểm d, Khoản 1, Điều 14 quy định quyền của tổ chức công đoàn trong

việc “Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động (NLĐ), tập thể

NLĐ, theo quy định tại khoản 8 Điều 10 của Luật Công đoàn”. Theo đó, tổ

chức công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện doanh nghiệp nợ, trốn đóng BHXH

Để đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động và gia đình người lao

động trong hiện tại cũng như sau này khi hết tuổi lao động, không để tình

trạng “nhờn luật” trong lĩnh vực thu BHXH rất cần có các chế tài đủ mạnh để

xử lý nghiêm các hành vi cố tình chây ỳ, trốn đóng, nợ dây dưa kéo dài

BHXH. Trong thời gian vừa qua, các chế tài xử lý hành vi trên nhìn chung

từ ngày 01/01/2016.

82

còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe; số vụ sai phạm, vi phạm Luật BHXH chưa được

đưa ra xử lý trước pháp luật. Để thực hiện nghiêm quyền khởi kiện ra tòa án

các đơn vị sử dụng lao động vi phạm Luật BHXH cần thiết phải khắc phục

những điểm bất hợp lý, chồng chéo giữa Bộ luật Lao động, Luật BHXH, Luật

Công đoàn và Bộ luật Tố tụng dân sự.

Theo đó cơ quan BHXH có quyền áp dụng biện pháp đó là lập hồ sơ,

chuyển LĐLĐ tiến hành các thủ tục khởi kiện đơn vị SDLĐ cố tình không

đóng nộp bảo hiểm cho người lao động.

Tính đến 15/7/2017, BHXH tỉnh đã hoàn tất hồ sơ và chuyển sang Liên

đoàn Lao động tỉnh Hà Giang 12 doanh nghiệp nợ đóng BHXH kéo dài nhiều

còn nhiều vướng mắc, khó khăn, chưa xử lý được doanh nghiệp cố tình vi

năm để khởi kiện ra tòa án. Tuy nhiên đến thời điểm này công tác khởi kiện

phạm Luật BHXH ra tòa theo quy định. Về trình tự, công đoàn cơ sở phải

đứng ra khởi kiện hoặc ủy quyền khởi kiện cho công đoàn cấp trên. Tuy

nhiên, một thực tế khó khăn hiện nay đó là muốn khởi kiện được doanh

nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về đóng BHXH ra Tòa án thì phải được

100% người lao động tại đơn vị đó nhất trí làm đơn yêu cầu, điều này rất khó

xảy ra vì NLĐ lo sợ mất việc làm, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của gia

đình hằng tháng…

Công tác thu BHXH là khâu đầu vào rất quan trọng, trước hết là mục

tiêu ổn định và duy trì các nguồn quỹ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

Doanh nghiệp cố tình nợ đóng BHXH dây dưa kéo dài vô hình chung họ tự

lấy mất đi chính quyền lợi mà đáng ra người lao động trong đơn vị được

hưởng. Hiện nay, toàn tỉnh Hà Giang có gần 1.400 đầu mối thu, trong đó

doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể là 429 đơn vị. 6 tháng đầu

năm 2017, số đơn vị nợ BHXH, BHYT, BHTN kéo dài từ 03 tháng trở lên là

chính đáng của người lao động khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.

83

182/429 đơn vị, chiếm tỷ lệ 42,4%. Để thao gỡ nút thắt quan trọng này ngoài

việc xây dựng các chế tài đủ mạnh thì rất cần sự vào cuộc mạnh tay hơn nữa,

quyết liệt hơn nữa từ các cấp, các ngành và chính quyền địa phượng trong

tỉnh, có như vậy về lâu dài mới đảm bảo An sinh xã hội trên địa bàn [51].

Cơ quan thanh tra kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm, để từ đó

có biện pháp xử lý phù hợp. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, cơ quan có

thẩm quyền đã góp phần loại bỏ được những hành vi đi ngược lại với mục

đích mà bảo hiểm thai sản, tạo điều kiện cho người lao động được hưởng

những quyền mà pháp luật dành cho họ, bảo vệ người lao động trong trường

hợp họ cần được bảo vệ khi người sử dụng lao động làm trái những quy định

Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm pháp luật về

của pháp luật.

chế độ bảo hiểm thai sản trong nhiệm vụ bảo vệ quyền làm mẹ của lao động

nữ. Cần ban hành quy chế kiểm tra, đánh giá trình độ của thanh tra viên lao

động và có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo trình độ chuyên môn cho họ. Xây

dựng các quy định cụ thể và thống nhất về trình tự thanh tra, ban hành quy

chế kiểm tra, đánh giá chất lượng thanh tra viên định kì và có chế tài xử lí

nghiêm khắc đối với những thanh tra viên vi phạm. Thường xuyên tiến hành

kiểm tra tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản đối với người lao động

tại các địa phương, tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp để kịp thời phát hiện

và chấn chỉnh các vi phạm.

- Đối với Tỉnh Ủy, UBND Hà Giang

Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Huyện, xã, các Sở, Ban, Ngành đoàn thể

và các cơ quan thông tin tuyên truyền địa phương phối hợp với BHXH Hà

Giang tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp

luật của Nhà Nước về chế độ chính sách BHXH, BHYT đi đôi với việc chỉ

3.2.4. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan

BHXH, BHYT trên địa bàn huyện.

84

đạo các ngành chức năng phối hợp kiểm tra thực hiện chế độ chính sách

- Đối với BHXH Hà Giang

Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch

của BHXH Việt Nam, BHXH Hà Giang đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với

công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán

bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán

bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán

bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt

chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận

Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn

thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT.

vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa

chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân.

- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tổ chức sơ kết, tổng kết và

định kỳ báo cáo kết quả thực hiện về Ủy ban nhân dân tỉnh theo quy định.

Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng

tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói

chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi

người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến

năm 2017 đã đề ra.

Bảo hiểm xã hội tỉnh xây dựng các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền tại

các huyện, thành phố.

- Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Hà Giang: Phối hợp với

- Đề nghị Ủy ban MTTQ tỉnh và các tổ chức đoàn thể:

+ Phối hợp tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, phát

động phong trào và vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tích

85

cực tham gia BHXH;

+ Phối hợp với các ngành chức năng giám sát việc tham gia BHXH và

đề xuất các cơ chế, chính sách, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

- Cục thuế, chi cục thuế huyện, thành phố và Sở kế hoạch đầu tư:

Phối hợp rà soát các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh và mã số thuế trên

địa bàn, có đang hoạt động trên thực tế không để nhanh chóng phát hiện kịp

thời các doanh nghiệp lợi dụng sự kiểm soát không chặt chẽ dẫn đến tình

trạng trục lợi quỹ BHXH. Công tác này cần sự quan tâm phối hợp trong hệ

thống cơ quan Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động nói chung và

lao động thuộc đối tượng hưởng BHXH thai sản nói riêng.

+ Chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp

- UBND các huyện, thành phố

luật về BHXH tới tất cả cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các

nhóm đối tượng để người dân hiểu được quyền lợi và trách nhiệm tham gia

BHXH. Đưa mục tiêu, kế hoạch, phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT

là một chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hàng năm;

+ Chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn, UBND các xã, phường,

thị trấn phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH huyện, thành phố trong tổ chức

thực hiện chính sách BHXH; chỉ đạo các ngành liên quan trong việc rà soát, kê

khai lập danh sách mua thẻ BHYT cho các đối tượng được hỗ trợ từ nguồn

ngân sách nhà nước đảm bảo chính xác, không trùng lặp, bỏ sót đối tượng;

cho Phòng Lao động - TBXH các huyện, thành phố để quản lý, theo dõi việc

phát triển đối tượng tham gia BHXH của các đơn vị, cá nhân trên địa bàn;

+ Tổ chức thanh kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo

về BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật;

+ Hàng năm tổ chức đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách BHXH

+ Bố trí biên chế trong tổng số biên chế đã được tỉnh giao hàng năm

tích tốt.

86

trên địa bàn; biểu dương khen thưởng kịp thời cho tập thể, cá nhân có thành

3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở vật

chất ở hầu hết cơ quan BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Công tác cải cách hành chính là một trong các nhiệm vụ quan trọng

đối với ngành bảo hiểm xã hội, do đó, BHXH tỉnh Hà Giang cần chú trọng

đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trong nội bộ ngành, thực hiện

việc niêm yết các thủ tục quy định về hồ sơ xét hưởng các chế độ BHXH từ

cấp huyện tới các xã. Đặc biệt là tổ chức thực hiện tốt quy trình tiếp nhận,

xét duyệt hồ sơ hưởng các chính sách bảo hiểm xã hội cho NLĐ theo quy

định, giảm bớt các giấy tờ thủ tục không cần thiết, tạo điều kiện giải quyết

chế một cửa liên thông; phân cấp quản lý một số nội dung, nhiệm vụ của

chế độ được thuận lợi, nhanh chóng. Qua đó, tiến tới việc thực hiện theo cơ

ngành cho BHXH huyện; phân công quy định rõ trách nhiệm của người

đứng đầu nhiệm vụ được giao.

Bảo hiểm xã hội tỉnh cần thực hiện tốt quy chế “một cửa” để tiếp nhận

hồ sơ và trả kết quả đã giải quyết thông qua giao dịch điện tử và dịch vụ bưu

chính. Quá trình tiếp nhận hồ sơ có ghi rõ bằng biên bản hoặc phiếu giao nhận

hồ sơ có ghi rõ thời hạn nhận kết quả giải quyết xong chế độ mà người lao

động được thụ hưởng. Trong quá trình giải quyết các chế độ trong thời hạn

ghi trên phiếu, tổ công tác có trách nhiệm phối hợp với các phòng chức năng

để tổ chức luân chuyển chứng từ theo đúng quy định giữa các phòng chức

các phòng chức năng thuộc bảo hiểm xã hội chuẩn bị các điều kiện cần thiết

để chi trả (hồ sơ, danh sách chi trả,…).

Bộ phận “một cửa” cần thực hiện tốt và phát huy hơn nữa các chức

năng và nhiệm vụ của mình, để “một cửa” không chỉ tiếp nhận hồ sơ và trả

kết quả giải quyết mà còn thực hiện việc tư vấn chế độ, chính sách và giải

năng để khi bộ phận tiếp nhận và giải quyết theo quy chế một cửa trả kết quả,

87

đáp cho người lao động những thắc mắc về thủ tục giấy tờ cần có để xét

duyệt chế độ. Có như vậy mới góp phần rút ngắn thời gian giải quyết chế độ

để tổ chức chi trả đúng quy định, kịp thời đến tận tay đối tượng thụ hưởng.

Từ đó, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả giải quyết công việc của cơ

quan bảo hiểm xã hội, rút ngắn quy trình và đề cao trách nhiệm vật chất ở

mỗi khâu công việc, tiết kiệm thời gian chờ đợi của người được hưởng chế

độ bảo hiểm xã hội.

Đồng thời, các đơn vị BHXH huyện trên địa bàn toàn tỉnh, lập bảng kế

hoạch chi tiết xin kinh phí gửi BHXH tỉnh, để hoàn thiện cơ sở vật chất từ đó

nâng cao năng suất giải quyết công việc của viên chức ngành BHXH

Để chính sách bảo hiểm xã hội nói chung hay chế độ thai sản nói riêng

3.2.6. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực quản lý

đi vào thực tế được nhanh gọn, khách quan, giúp bảo vệ quyền lợi cho người

lao động, đòi hỏi Nhà nước ta cần đổi mới hoạt động thông tin, tuyên truyền,

nâng cao nhận thức của cả người lao động và người sử dụng lao động như: tổ

chức các buổi chuyên đề, hội thảo để nâng cao năng lực quản lý của cán bộ

bảo hiểm, nhằm phân tích, tìm hiểu mặt ưu điểm, mặt hạn chế của chính sách

bảo hiểm xã hội hiện nay, nhằm đưa ra các giải pháp mang tính ưu việt hơn.

Đồng thời, giúp người dân hiểu và nắm vững pháp luật, để các cán bộ quản lý

có thể thực hiện công việc của mình một cách dễ dàng hơn. Cần hoàn thiện

mô hình quản lý theo chiều dọc, lực lượng quản lý cấp cao sẽ quản lý trực tiếp

tình hình hoạt động, rút ra kết quả, hạn chế và đề xuất giải pháp khắc phục

hạn chế đó. Phát triển mô hình quản lý trực tiếp, quản lý chặt chẽ vấn đề giúp

việc thực hiện quy định pháp luật được nhanh gọn, chính xác hơn.

Bên cạnh đó, Nhà nước cần có hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát

việc thực hiện các chế độ bảo hiểm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp

các bộ phận chuyên môn của mình. Theo định kỳ, các cấp đơn vị cần báo cáo

88

của người sử dụng lao động đối với người lao động. Một khi, cấp trên trực

tiếp giám sát hoạt động của cấp dưới, đòi hỏi cấp dưới cần quan tâm, chú

trọng đến công việc của mình hơn, tránh tình trạng bỏ bê công việc, kết quả

công việc không tốt. Qua những hạn chế gặp phải khi áp dụng pháp luật về

chế độ thai sản trên thực tế sẽ có những chính sách điều chỉnh phù hợp và

biện pháp xử phạt hợp lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật. Việc

giám sát này cần phải phối hợp chặt chẽ với hệ thống các cơ quan quản lý nhà

nước về các lĩnh vực khác: cơ quan thuế, cơ quan công an, bộ tài chính,… để

89

thực hiện thu, chi trả, giám sát được thuận lợi hơn.

Kết luận chương 3

Những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về bảo hiểm thai

sản đã nêu ở chương 1 và những tồn tại trong việc thực hiện các quy định

pháp luật về bảo hiểm thai sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã nêu ở chương 2,

đòi hỏi cấp thiết đặt ra chính là việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp

luật và đề ra các giải pháp thực tiễn áp dụng tại địa bàn. Có như vậy, các quy

định pháp luật bảo hiểm thai sản mới phát huy vai trò là một công cụ quản lý

của Nhà nước; tạo điều kiện giúp cho cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện một

cách có hiệu quả công tác chế độ an sinh xã hội.

Đối với việc hoàn thiện pháp luật, luận văn đã đưa ra kiến nghị sửa đổi

một số quy định của pháp luật, điển hình như: mở rộng đối tượng áp dụng bảo

hiểm thai sản; linh hoạt điều kiện hưởng chế độ; tham gia công ước ILO, v..

Đối với việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thai sản

trên địa bàn tỉnh Hà Giang, luận văn đề xuất một số giải pháp như: tuyên

truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao ý thức của người lao động, người sử

dụng lao động; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường

90

công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm thai sản, v.v…

KẾT LUẬN

Chế độ thai sản thuộc hệ thống các chế độ BHXH và là một trong

những chế độ được hình thành và phát triển sớm nhất ở nước ta cũng như các

nước khác trên thế giới. Các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ thai

sản khá đầy đủ với những quy định cơ bản về đối tượng được hưởng chế độ,

điều kiện hưởng, thời gian nghỉ hưởng và mức hưởng chế độ thai sản. Những

quy định này có ý nghĩa không chỉ đảm bảo thu nhập cho người lao động khi

trải qua quá trình thai sản, thực hiện chức năng xã hội mà nó còn có ý nghĩa

lai. Ngoài việc tìm hiểu quy định pháp luật hiện hành về chế độ thai sản, khoá

nhân văn rất lớn lao, góp phần để tái sản xuất sức lao động cho thế hệ tương

luận còn đi sâu phân tích những đổi mới của Luật BHXH năm 2014 liên quan

đến chế độ này. Đồng thời, nghiên cứu thực trạng áp dụng chế độ thai sản tại

Tỉnh Hà Giang qua việc tổng quan về tình hình sử dụng lao động nữ qua các

phân tích về cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, tình hình lao động nữ được

hưởng BHXH về thai sản, …

Trong quá trình thực hiện BHXH thai sản tại Tỉnh Hà Giang đã đạt

được một số kết quả quan trọng góp phần hỗ trợ cho rất nhiều người lao động

được đảm bảo quyền lợi của mình. BHXH thai sản đã thực sự trở thành công

người lao động. Điều đó chứng tỏ chế độ thai sản ngày càng đi vào cuộc sống,

khẳng định tính đúng đắn của Nhà nước trong việc điều chỉnh chính sách

pháp luật phù hợp hơn với xu thế phát triển của đất nước. Đối tượng tham gia

BHXH nói chung, bảo hiểm thai sản nói riêng ngày càng tăng; công tác chi trả

các chế độ thai sản tại Tỉnh Hà Giang được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm

bảo ổn định đời sống cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản; đồng

thời, công tác giải quyết BHXH thai sản cho người lao động từng bước được

91

cụ để thực hiện các hoạt động xã hội qua việc giải quyết chế độ bảo hiểm cho

đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin, thực hiện cải cách hành chính

nhằm thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm thai sản cho NLĐ.

Để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi chế độ bảo hiểm thai sản ở

Tỉnh Hà Giang, có thể tập trung một số giải pháp sau, đó là: hoàn thiện pháp

luật bảo hiểm thai sản về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng BHXH

thai sản, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn, hoàn thiện mô

hình quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, nâng cao hiệu quả công

tác thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm, tuyên truyền nâng cao ý thức tuân thủ

92

pháp luật về thai sản.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt

1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2014), Quyết định số 1018/QĐ-BHXH ngày

10/10/2014 sửa đổi một số nội dung tại các quyết định ban hành quy

định quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, Hà Nội.

2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2015), Quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày

09/9/2015 về việc ban hành quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo

hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo

3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 636/QĐ-BHXH ngày

hiểm y tế, Hà Nội.

22/4/2016 về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết

hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

4. BHXH tỉnh Hà Giang (2015-2017), Báo cảo tổng kết hoạt động ngành

BHXH tỉnh Hà Giang.

5. Bộ Lao động Thương binh và xã hội (2015), Thông tư số 59/2015/TT-

BLĐTBXH ngày 29/12/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội.

6. Bộ Y tế (2016), Thông tư số 14/2016/TT-BYT ngày 12/05/2016 quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội thuộc lĩnh vực y

7. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy

định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội

bắt buộc, Hà Nội.

8. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 quy

định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm

xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của cơ quan bảo hiểm xã

tế, Hà Nội.

93

hội, Hà Nội.

9. Đỗ Thị Dung (2006), “Chế độ Bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm

đảm bảo quyền lợi của lao động nữ”, Tạp chí luật học, (03), tr. 80 - 87.

10. Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội-

kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

11. Lương Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và

thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội.

12. Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai sản

13. Nguyễn Thúy Lâm (2004), “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ thực

năm 1952

trạng pháp luật và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí luật học, (03).

14. Tán Ngọc Lan (2018), Chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật bảo

hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Luật học,

Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam

15. Nguyễn Xuân Nga (2005), “Những ý kiến của Công đoàn về dự thảo

Luật Bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Lao động xã hội.

16. Phạm Trọng Nghĩa (2006),“Một số vấn đề cơ bản về an sinh xã hội” Tạp

chí Nghiên cứu luật pháp, (8).

17. Nguyễn Hiền Phương (2015), “Những điểm mới về chế độ bảo hiểm

18. Nguyễn Hiền Phương (2015), Bình luận khoa học một số quy định của

Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,

Trường Đại học Luật Hà Nội.

19. Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật an sinh xã hội – những vấn đề lý

luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 56 - 64.

ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.

94

20. Quốc hội (2006), Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước

21. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.

22. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.

23. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

24. Xìn Thanh Quyết (2018), Nghiên cứu giải pháp giải quyết việc làm cho lao

động người dân tộc thiểu số tại huyện Xín Mần, tỉnh hà Giang, Luận văn

Thạc sỹ phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.

25. Sở LĐTBXH tỉnh Hà Giang (2015-2017), Báo cáo nghiên cứu đánh giá

lực lượng lao động tỉnh Hà Giang.

26. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày

Nam đến năm 2020, Hà Nội.

23/7/2013 phê duyệt chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt

27. Nguyễn Thị Hoài Thu (2004), "Khắc phục những bất cập, đẩy nhanh tiến độ

soạn thảo, sớm ban hành Luật bảo hiểm xã hội", Tạp chí Bảo hiểm xã hội.

28. Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo

hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận

văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

29. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1919), Công ước số 3 - Công ước về sử

dụng lao động nữ trước và sau khi đẻ.

30. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1951), Công ước số 100 – Công ước về

trả công bình đẳng giới giữa lao động cho một công việc có giá trị

31. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 102 – Công ước về

quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội.

32. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 103 – Công ước về

bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952.

33. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 183 – Công ước về

ngang nhau.

95

sửa đổi công ước thai sản, (đã sửa đổi) năm 2000.

34. Trung tâm nghiên cứu lao động nữ giới, Viện khoa học xã hội - Bộ lao

động và bà FIONAHAWELL tổ chức ILO, văn phòng Bangkock và Hà

Nội (2003), Bình đẳng trong lao động và Bảo trợ xã hội cho phụ nữ và nữ

giới khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức, Nxb lao động và xã hội.

35. Trường Đại học Lao động-Xã hội (2011), Giáo trình Bảo hiểm xã hội,

Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Quyền của phụ nữ theo pháp luật

các nước ASEAN, Hội thảo khoa học.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật An sinh xã hội,

38. Phạm Thanh Vân (2002), “Thực thi chính sách pháp luật đối với lao

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

động nữ trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Tạp chí Nhà nước

và pháp luật, (4).

39. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

40. Lê Thanh Việt (2008), “Chi Bảo hiểm xã hội đúng- đủ- kịp thời”, Bảo

hiểm xã hội mười năm ngày thành lập.

41. Hoàng Thị Hải Yến (2010), “Chế độ thai sản theo Luật bảo hiểm xã hội

năm 2006 và vấn đề bình đẳng giới”, Tạp chí Luật học, (5), tr.58-64.

42. http://baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-nhung-nguyen-tac-cua-bhxh-

d6f83ea4.aspx.

43. https://luatduonggia.vn/nguyen-tac-co-ban-cua-bao-hiem-xa-hoi-viet-nam/.

44. .http://www.vccinews.vn/news/24203/bao-hiem-xa-hoi-tinh-ha-giang-

doi-moi-de-phuc-vu-tot-hon.html.

45. http://hagiangtv.vn/video-v17529/bao-hiem-ha-giang--ngay-

II. Tài liệu Website

96

2132018.html.

46. http://hagiang.bhxh.gov.vn/dang-bo-bhxh-tinh-ha-giang-tong-ket-cong-

tac-xay-dung-dang-nam-2017/.

47. http://www.dankinhte.vn/vai-tro-cua-bao-hiem-xa-hoi/.

48. http://hagiang.bhxh.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-cong-tac-thi-dua-khen-

thuong-nam-2017-trien-khai-nhiem-vu-nam-2018-cua-cum-thi-dua-so-ii-

bhxh-9-tinh-mien-nui-phia-bac/.

49. http://hagiang.bhxh.gov.vn/.

50. .http://hagiang.bhxh.gov.vn/tinh-hinh-thuc-hien-chinh-sach-bhxh-nhieu-

ket-qua-tich-cuc/.

ly-nhung-mon-no-keo-dai-691460/.

51. http://www.baohagiang.vn/xa-hoi/201612/bao-hiem-xa-hoi-tinh-kho-xu-

52. .http://congdoan.vn/tin-tuc/cong-tac-nu-cong-gioi-510/co-hoi-va-thach-

thuc-voi-lao-dong-nu-trong-thoi-ky-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-

333053.tld.

53. http://www.baohagiang.vn/.

54. http://laodongxahoi.net/xin-man-ha-giang-khuyen-khich-lao-dong-di-

lam-viec-ngoai-tinh-1313128.html.

55. https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/Press

97

releases/WCMS_243008/lang--vi/index.htm.