ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
THIỀU THỊ MINH HUYỀN
PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI THAI S¶N Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN T¹I TØNH Hµ GIANG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
THIỀU THỊ MINH HUYỀN
PH¸P LUËT VÒ B¶O HIÓM X· HéI THAI S¶N Vµ THùC TIÔN THùC HIÖN T¹I TØNH Hµ GIANG
Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8380101.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
Tôi xin chân thành cảm ơn!
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Thiều Thị Minh Huyền
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ
HỘI THAI SẢN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
THAI SẢN ..................................................................................... 9
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản ......................... 9
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội thai sản.............................................. 9
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa bảo hiểm xã hội thai sản..................................... 11
1.2. Một số vấn đền lý luận về pháp luật BHXH thai sản ................... 15
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật BHXH thai sản ................... 15
1.2.2. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ................................... 21
Kết luận chương 1................................................................................... 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN TẠI TỈNH HÀ GIANG...................................................... 33
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội
thai sản ........................................................................................ 33
2.1.1. Đối tượng áp dụng và điều kiện hưởng BHXH thai sản ................... 33
2.1.2. Thời gian hưởng bảo hiểm xã hội thai sản....................................... 37
2.1.3. Mức trợ cấp bảo hiểm thai sản........................................................ 42
2.1.4. Thủ tục giải quyết hồ sơ bảo hiểm xã hội thai sản ........................... 47
2.2. Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang...... 49
2.2.1. Khái quát về tỉnh Hà Giang và cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh
Hà Giang ...................................................................................... 49
2.2.2. Những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại trong thực
tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang ... 56
Kết luận Chương 2.................................................................................. 72
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN Ở
TỈNH HÀ GIANG ....................................................................... 74
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội thai sản ....................... 74
3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS ........................ 74
3.1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật ............................................ 76
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang ............................ 79
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thai sản ......................................................................................... 79
3.2.2. Tăng cường sát sao trong công tác thu hồi các khoản nợ BHXH ...... 81
3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm ............... 82
3.2.4. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan................. 84
3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở vật chất
ở hầu hết cơ quan BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Giang ...................... 87
3.2.5. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực quản lý............... 88
Kết luận chương 3................................................................................... 90
KẾT LUẬN ............................................................................................. 91
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 93
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHTS: Bảo hiểm thai sản
BHXH: Bảo hiểm xã hội
NLĐ: Người lao động
NSDLĐ: Người sử dụng lao động
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu Tên bảng, sơ đồ Trang
Bảng 1.1 Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi
sinh ở một số nước trên thế giới 23
Bảng 1.2
Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản ở một số nước trên thế giới 29
Bảng 2.1 Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn
Bảng 2.2 Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại
tỉnh (giai đoạn 2001-2010) 51
BHXH tỉnh Hà Giang giai đoạn 2015 – 2017 58
Bảng 2.3
Tình hình tham gia BHXH của NLĐ theo khối đơn vị tại tỉnh Hà Giang, năm 2015 – 2017 60
Bảng 2.4 Bảng tổng hợp công tác thu BHXH ở tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2015 – 2017 62
Bảng 2.5 Bảng tổng hợp công tác chi BHXH thai sản ở tỉnh Hà
Giang giai đoạn 2015 – 2017 64
Sơ đồ 2.1 Cơ cấu, tổ chức bộ máy, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang 55
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động tại Việt Nam thuộc hàng cao
nhất trên thế giới chiếm đến 48,1% trên tổng số lực lượng lao động (theo số
liệu thống kê của Tổng cục thống kê năm 2015). Hầu như trên tất các lĩnh
vực từ đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật… đều có sự
tham gia của lực lượng lao động nữ,với tỷ trọng chiếm khá lớn trong lực
lượng lao động vì vậy mà việc họ đóng góp tham gia vào quá trình sản xuất,
ngược lại những quyền lợi của họ phải được hưởng tương ứng theo quy định
tạo ra các sản phẩm về vật chất, tinh thần phục vụ cho lợi ích của xã hội, thì
của pháp luật
Hiện nay trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, tầm quan trọng của các
lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự tỷ mỉ, khéo léo và
linh hoạt trong lao động. Nhóm các ngành nghề như may mặc, giày da hay lắp
ráp linh kiện điện tử thì gần như toàn bộ là lao động nữ.
Ngoài đóng góp lớn vào cho xã hội, người phụ nữ với thiên chức làm
vợ, làm mẹ cũng đồng thời gánh vác phần lớn công việc gia đình. Chính bởi
lý do đó, các chính sách bảo đảm ưu tiên lao động nữ, trong đó quan trọng
nhất là quyền lợi Bảo hiểm xã hội, đặc biệt là BHXH thai sản cho phụ nữ khi
luật an sinh xã hội tại Việt Nam.
Chế độ bảo hiểm thai sản có vị trí quan trọng trọng hệ thống chính sách
bảo hiểm xã hội, không chỉ bởi tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc mà còn góp
phần tái sản xuất sức lao động xã hội. Hằng năm, trợ cấp thai sản đã góp phần
bảo vệ quyền lợi cho hàng trăm ngàn phụ nữ và góp phần đảm bảo cuộc sống
có thai, sinh con và nuôi con luôn được chú trọng khi xây dựng hệ thống pháp
1
cũng như phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
Trong hệ thống các chế độ BHXH, chế độ bảo hiểm thai sản ngoài ý
nghĩa bảo đảm thu nhập cho người phụ nữ còn có ý nghĩa xã hội và tính
nhân văn rất lớn, đóng góp để tái sản xuất dân số và duy trì nòi giống. Với
việc tham gia BHXH, đặc biệt là BHXH thai sản đảm bảo được thu nhập và
ổn định cuộc sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hay nuôi
con trong thời gian ngắn. Nó có một vị trí quan trọng đối với lao động nữ,
nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh đẻ
và nuôi con sơ sinh. Cùng với các chế độ bảo hiểm khác, chế độ bảo hiểm
thai sản ở Việt Nam đã được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật lao
nên chính sách bảo hiểm thai sản ngày càng đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp
động từ khi giành chính quyền đến nay. Đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung
hơn với thực tế đời sống, đáp ứng được mục tiêu về bảo vệ sức khỏe cho lao
động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ. Tuy nhiên, vẫn còn khá
nhiều quy định bất cập, cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với tình hình thực tiễn ở Việt Nam nói chung và Tỉnh Hà Giang nói
riêng. Dưới sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự phát triển của hệ
thống an sinh trên thế giới, một số vấn đề đối với lao động nữ chưa được
đảm bảo thực hiện một cách đầy đủ.
Lao động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Giang chiếm hơn 50% dân số, trong
đó phần lớn là lao động người dân tộc thiểu số và lao động chưa qua đào tạo.
hết sức khó khăn về nguồn nước, thời tiết khí hậu khắc nghiệt. Kết cấu hạ
tầng còn yếu, nhất là hệ thống giao thông. Kinh tế tăng trưởng chủ yếu còn
theo bề rộng, chưa có chiều sâu, thiếu tính bền vững, hàm lượng kế hoạch
công nghệ trong giá trị gia tăng còn thấp, khả năng cạnh tranh của các sản
phẩm cũng như nền kinh tế Hà Giang không cao. Thu hút nguồn lực đầu tư,
Hơn nữa, Hà giang địa hình chủ yếu là núi đá, diện tích canh tác rất hạn chế,
2
phát triển kinh tế biên mậu và kinh tế cửa khẩu còn nhiều mặt hạn chế. Các
liên kết, hợp tác phát triển kinh tế - xã hội vùng và trên các lĩnh vực, ngành,
sản phẩm chưa được phát huy. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây
dựng nông thôn mới còn chưa có đột phá chiến lược. Trên địa bàn tỉnh có rất
ít khu công nghiệp để phát triển kinh tế cũng như tạo công ăn việc làm cho
người lao động. Phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng đã đang và sẽ tham gia
trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Bên cạnh việc làm
công tác xã hội, người phụ nữ còn phải đảm đương công việc của gia đình với
chiên chức làm vợ, làm mẹ. Vì vậy, bảo hiểm xã hội thai sản cần được quan
tâm để đảm bảo cuộc sống cho người lao động nói chung và người được
Hơn nữa sự ưu việt của chế độ bảo hiểm thai sản có tầm quan trọng đặc
hưởng bảo hiểm thai sản nói riêng.
biệt đối với lao động nữ nói chung tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt
chức năng làm mẹ vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã
hội nên em đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội thai
sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang” nhằm góp phần hoàn thiện quy
định pháp luật BHXH thai sản đồng thời nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật BHXH thai sản tại tỉnh Hà Giang.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài và tính mới của đề tài
BHXH thai sản là vấn đề quan trọng nên cũng có nhiều công trình
nghiên cứu về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài: “Pháp luật về
tham khảo một số công trình nghiên cứu khoa học của người đi trước như:
Đặng Thị Thơm (năm 2007), “Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam”,
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Làm sáng tỏ các quy
định và hệ thống chế độ Bảo hiểm thai sản ở Việt Nam về phương diện pháp lý
và thực tiễn thực hiện, đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về
Bảo hiểm xã hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang” tác giả có
3
bảo hiểm thai sản và chất lượng thực hiện pháp luật bảo hiểm thai sản.
Lê Thị Quế (năm 2003), đề tài khoa học về “Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện chính sách, BHXH thai sản ở Việt Nam”, Bảo hiểm xã hội Việt
Nam, Hà Nội. Đi sâu vào nghiên cứu thực trạng về chính sách, chế độ, quy
định thủ tục và quy trình giải quyết BHXH thai sản từ năm 1995 đến năm
2003. Đánh giá những mặt đạt được và hạn chế về chính sách, chế độ và việc
tổ chức quản lý thực hiện BHXH thai sản ở Việt Nam. Đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện chính sách, BHXH thai sản cho phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam.
Nguyễn Hiền Phương (năm 2014), Bảo vệ quyền làm mẹ trong pháp
tích, đánh giá thực trạng việc bảo vệ quyền làm mẹ của lao động nữ Việt Nam
luật lao động và bảo hiểm xã hội, Tạp chí Luật học (số 06), tr. 48 - 59. Phân
theo quy định trong Bộ Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội: phân tích và
làm rõ các quy định đảm bảo điều kiện, môi trường làm việc cho lao động nữ
gắn với quyền làm mẹ thông qua việc xác định chính sách của Nhà nước,
trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng lao động và các quyền của lao động
nữ khi mang thai, sinh con. Về chế độ bảo hiểm thai sản, phân tích cụ thể các
quy định về đối tượng và điều kiện hưởng, thời gian nghỉ hưởng chế độ bảo
hiểm thai sản, mức bảo hiểm thai sản theo Luật BHXH, đồng thời chỉ ra một
số hạn chế như việc chi trả mức trợ cấp không đúng với ý nghĩa của Luật hay
nợ lương của NSDLĐ đang rất phổ biến. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị
nhằm bảo vệ quyền làm mẹ: thứ nhất, hoàn thiện quy định pháp luật về
BHXH ốm đau và thai sản; thứ hai, nâng cao một số biện pháp nhằm thực thi
hiệu quả quy định pháp luật nhằm bảo đảm quyền làm mẹ của lao động nữ:
tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, tăng cường công tác thanh tra,
kiểm tra, xử phạt trong việc thực hiện pháp luật về BHXH, xử lí nghiêm khắc
nhằm hoàn thiện Bộ Luật lao động và hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội
4
đối với các doanh nghiệp nợ đọng BHXH.
Nguyễn Thị Lan Hương (năm 2012), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội. Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực
tiễn của pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Đề tài
phân tích rõ các chế độ bảo hiểm xã hội Việt Nam đối với lao động nữ: chế độ
chăm sóc con ốm, BHXH thai sản và chế độ hưu trí, thực trạng pháp luật về
bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ. Qua đó, đưa ra những phương hướng,
giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và các
mặt công tác khác như tuyên truyền nhằm nâng cao ý thức pháp luật về chế
tra, xử phạt vi phạm... để nâng cao hiệu quả của chế độ bảo hiểm xã hội đối
độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm
với lao động nữ cũng như vấn đề bảo vệ lao động nữ trong xã hội.
Trần Thuý Lâm (năm 2004), “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ -
Thực trạng pháp luật và phương hướng hoàn hiện”, Số Đặc san phụ nữ 3, tr.
50 - 54. Bài viết đề cập những quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội đối
với lao động nữ: chế độ trợ cấp thai sản, chế độ nghỉ chăm sóc con ốm, chế độ
hưu trí. Về cơ bản quyền lợi của lao động nữ trong lĩnh vực BHXH đã được
sự quan tâm ưu đãi của Nhà nước, tuy nhiên, vẫn tồn tại một số điểm còn bất
cấp của pháp luật trong từng chế độ được tác giả chỉ ra và phân tích, cần được
nghiên cứu và hoàn thiện nhằm hơn nữa quyền lợi của lao động nữ.
Chu Hà My (năm 2015), “Những điểm mới của Luật bảo hiểm xã hội
sửa đổi năm 2014”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường Đại học Luật Hà Nội:
Luận văn tổng hợp một cách có hệ thống các vấn đề chung về bảo hiểm xã
hội; so sánh, nghiên cứu, phân tích và chỉ ra những điểm mới Luật Bảo hiểm
xã hội năm 2014 so với Luật bảo hiểm xã hội năm 2006; Luận văn nêu ra
Về luận văn thạc sĩ có thể kể đến các luận văn sau:
chỉnh của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
5
những yêu cầu cơ bản và những kiến nghị cụ thể để nâng cao hiệu quả điều
Chu Linh Trang (năm 2017), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường
Đại học Luật Hà Nội.
Hoàng Thúy Hà (năm 2017), “Chế độ thai sản và thực tiễn thực hiện
tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật học trường
Đại học Luật Hà Nội.
Lường Thanh Huyền, (năm 2016), “Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La”, Luận văn Thạc sĩ Luật học
trường Đại học Luật Hà Nội…
hội thai sản ở các góc độ khác nhau song chưa có công trình nghiên cứu nào
Các công trình nghiên cứu nói trên tuy có nghiên cứu về Bảo hiểm xã
về pháp luật Bảo hiểm xã hội thai sản từ thực tiễn thực hiện tại Hà Giang. Bởi
vậy, luận văn này chính là công trình nghiên cứu khá mới mẻ về đề tài Bảo
hiểm xã hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại Tỉnh Hà Giang và sau này có
thể là một trong những tài liệu tham nâng cao công tác thực hiện BHXH thai
sản tại tỉnh Hà Giang.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về
BHXHTS, đánh giá một cách toàn diện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản
hiện hành cũng như thực tiễn thực tiễn tại tỉnh Hà Giang đồng thời đưa ra
trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Trên cơ sở mục tiêu đó luận văn sẽ giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về BHXHTS
- Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS
- Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật BHXHTS ở địa bàn tỉnh
những giải pháp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật BHXHTS
6
Hà Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật BHXHTS và
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật tại tỉnh Hà Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của luận văn là
những quy đinh của pháp luật về BHXHTS mà cụ thể là Luật BHXH năm
2014 và các văn bản hướng dẫn về chế độ thai sản. Bên cạnh đó luận văn
cũng nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang
những năm gần đây. Trong luận văn này, tác giả sử dụng các số liệu liên
quan đến bảo hiểm thai sản trong giai đoạn 2015 - 2017 mà bảo hiểm xã
Về phạm vi nghiên cứu: BHXHTS là một vấn đề có thể được nghiên
hội tỉnh Hà Giang cung cấp.
cứu ở nhiều góc độ và phạm vi khác nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên
cứu BHXHTS dưới góc độ luật học với tư cách là một chế độ BHXH bắt buộc
ở các nội dung như đối tượng và điều kiện hưởng, chế độ hưởng, thủ tục
hưởng BHXH thai sản. Các nội dung khác như xử lý vi phạm, giải quyết tranh
chấp về BHXHTS... không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu
của Triết học Mác – Lê Nin về duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương
pháp lịch sử và logic, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn; phương pháp
giả sử dụng các phương pháp này cho phù hợp.
phân tích tổng hợp thống kê, so sánh. Tùy theo nội dung của vấn đề mà tác
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn phân tích những vấn đề lý luận cũng như
quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS tạo cơ sở cho việc hoàn thiện
các quy định của pháp luật về BHXHTS cũng như đưa ra các giải pháp nhằm
7
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật pháp luật BHXHTS.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Đối với bản thân tác giả: học viên có cơ hội tìm hiểu sâu về chế độ
bảo hiểm thai sản, qua đó nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học của bản
thân và tăng cường hiểu biết thực tế.
- Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong
công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan
tâm đến pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về BHTS nói riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản và pháp
của luận văn có kết cấu ba chương:
luật về bảo hiểm xã hội thai sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã
hội thai sản và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
8
hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI THAI SẢN
1.1. Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội thai sản
1.1.1. Khái niệm về bảo hiểm xã hội thai sản
Theo Bách khoa toàn thư thì:
BHXH là biện pháp bảo đảm, thay đổi hoặc bù đắp một phần thu
nhập của người lao động do gặp phải những biến cố làm giảm hoặc
được tập trung từ sự đóng góp của người lao động và gia đình họ,
mất khả năng lao động, mất việc làm thông qua một quỹ tiền tệ
đồng thời góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Bảo hiểm xã hội hội là
trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước.
Theo Tổ chức lao động quốc tế ILO:
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu
nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc
mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử
dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia bảo
hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người
lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo
hiểm xã hội [34].
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp
những chế định thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là
một hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng và phạm vi; về
hội, mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
9
nghĩa vụ và quyền lợi, về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp
BHXH cụ thể. Chế độ BHXH được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản pháp
luật. Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ thường phải nắm vững những vấn đề
mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng đắn và tính nhất
quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH Theo khuyến nghị của Tổ
chức Lao động quốc tế ILO đã nêu trong Công ước số 102 tháng 6 năm 1952
tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH bao gồm 9 chế độ sau đây:
1 Chăm sóc y tế; 2 Trợ cấp ốm đau; 3 Trợ cấp thất nghiệp; 4 Trợ cấp
tuổi già; 5 Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 6 Trợ cấp gia
đình; 7 Trợ cấp sinh đẻ; 8 Trợ cấp khi tàn phế; 9 Trợ cấp tiền tuất trợ
chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước
cấp mất người nuôi dưỡng. Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống
tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ
khác nhau, nhưng ít nhất là phải thực hiện được 3 chế độ [31].
Vì vậy có thể đưa ra định nghĩa về bảo hiểm xã hội thai sản như sau:
“BHXH thai sản là chế độ BHXH nhằm đảm bảo hoặc bù đắp một phần thu
nhập cho người lao động khi bị giảm hoặc mất thu nhập liên quan đến thai
sản trên cơ sở đóng góp vào quỹ BHXH, do Nhà nước tổ chức thực hiện.”
Người lao động được hưởng BHXHTS ở đây không có nghĩa chỉ là
lao động nữ mà có thể còn là lao động nam. Sự kiện thai sản ở đây bao gồm
mang thai, sinh con hoặc có các sự kiện thai sản khác như thực hiện các biện
thể mà lao động nữ hoặc lao động nam sẽ được hưởng chế độ thai sản theo
quy định [11, tr.26]
So với các chế độ khác, đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu
là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai
hoặc thai chết lưu, sinh con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp
pháp kế hoạch hóa gia đình. Tùy thuộc vào từng điều kiện, trường hợp cụ
10
tránh thai; còn lao động nam đang đóng bảo hiểm mà có vợ sinh con cũng
được hưởng trợ cấp này. Thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên,
mục đích trợ giúp, giữ cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn về mặt
vật chất, bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ và người lao động. Hiện nay, chế
độ thai sản được quy định trong pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới
nhưng tuỳ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước mà chế độ này
quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức trợ cấp, điều kiện hưởng,…
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa bảo hiểm xã hội thai sản
Trong hệ thống các chế độ BHXH, bảo hiểm xã hội thai sản là chế độ
bảo hiểm được áp dụng chủ yếu là đối với lao động nữ.
đồng xã hội đối với thế hệ tương lai, đồng thời cũng thể hiện sự bình đẳng xã
Chính sách thai sản thể hiện trách nhiệm của Nhà nước và của cộng
hội ngày càng nâng cao. Chính vì thế mà Nhà nước cần phải đề ra những
chính sách đối với đối tượng quan trọng này với mục đích thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập khi người lao động nữ phải nghỉ việc trong thời gian
sinh con nhằm đảm bảo cho họ có một cuộc sống bình thường để chăm con và
hồi phục sức khoẻ.
Bảo hiểm xã hội thai sản là sự đảm bảo thu nhập và ổn định cuộc
sống đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ hoặc nuôi con trong
một thời gian ngắn. Nó có vị trí quan trọng đối với người lao động nữ,
nhằm động viên, khuyến khích và hỗ trợ người mẹ khi họ mang thai, sinh
Người phụ nữ ngày nay đã tự lao động để đảm bảo cuộc sống và cống
hiến cho xã hội qua đó họ ngày càng khẳng định được vị trí quan trọng của
bản thân trong xã hội, họ đã có mặt trong hầu hết các ngành nghề và đã thể
hiện một cách xuất sắc năng lực của mình. Khác với nam giới họ còn có
nhiệm vụ quan trọng là tái sản xuất con người, do đó khi mang thai và sinh
đẻ và nuôi con sơ sinh.
11
con là giai đoạn khó khăn nhất của họ nên họ cần được sự quan tâm ngược lại
từ phía xã hội. Đó chính là khoản tiền trợ cấp phù hợp với công sức mà họ đã
đóng góp trong suốt quá trình lao động.
Như vậy, BHXH thai sản là một chế độ mang tính xã hội hoá cao, nó
được thực hiện thường xuyên và đều đặn, kế tiếp từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Nói cách khác, nó diễn ra một cách liên tục vì sự sống luôn phát triển vì
vậy, nó tạo ra sự ràng buộc và đoàn kết giữa các thế hệ, làm cho mọi người
trong xã hội quan tâm và gắn bó với nhau hơn, thể hiện mối quan tâm sâu sắc
giữa người với người.
Bảo hiểm xã hội thai sản có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ
lao động trong xã hội và đến tương lai của một đất nước. Một đất nước muốn
thống BHXH của mỗi quốc gia vì chế độ này ảnh hưởng đến một bộ phận lớn
tồn tại và phát triển phải chăm lo chu đáo đến thế hệ tương lai. Bảo hiểm xã
hội thai sản là một chế độ ngắn hạn trong hệ thống các chế độ BHXH nhưng
đó là một trong năm chế độ được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển
của BHXH ở nước ta. Cùng với các chế độ BHXH khác, chế độ trợ cấp thai
sản đã góp phần rất to lớn vào việc ổn định đời sống của hàng triệu người lao
động và gia đình họ, khuyến khích người lao động hăng hái, yên tâm lao động
sản xuất, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của đất nước trong mỗi
giai đoạn lịch sử.
BHXH đã được thực hiện hàng trăm năm nay và chế độ trợ cấp thai sản
một quốc gia được coi là có hệ thống BHXH chỉ khi có ít nhất 1 trong 3 chế
độ là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được thiết lập.
Theo thống kê, trong tổng số 173 nước tính đến năm 2002 có hệ thống BHXH
thì có 112 nước thực hiện BHXH thai sản (chiếm 64%) [34].
Bảo hiểm xã hội thai sản là chế độ có vai trò to lớn trong hệ thống
là một trong những chế độ được thực hiện sớm nhất. Theo quy định của ILO,
12
BHXH của mỗi quốc gia, bởi lẽ đó là chế độ có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
đời của những người tham gia BHXH. Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường, khi nguồn thu nhập chính của người lao động là thu nhập từ các
hoạt động tu nghiệp. Khi nghỉ thai sản, nguồn thu nhập chủ yếu của họ lại
là khoản trợ cấp BHXH.
Trong hệ thống chính sách xã hội có những loại chính sách xã hội phổ
biến, có ảnh hưởng, có tác động đến đại bộ phận các tầng lớp dân cư trong xã
hội. Đồng thời, có những loại chính sách xã hội có tính đặc thù, chỉ có những
ảnh hưởng, những tác động đến một bộ phận, một giai tầng xã hội nào đó mà
thôi. Nói cách khác, mỗi một loại chính sách xã hội có một loại đối tượng tác
sách xã hội, chính sách thai sản đối với người lao động giữ một vai trò rất to
động nhất định nhằm đạt một mục tiêu nhất định. Là một bộ phận của chính
lớn. Thứ nhất, đối tượng của chính sách là những người lao động nữ, chiếm
một tỷ lệ đáng kể trong dân cư và trong lực lượng lao động của xã hội. Những
người này đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Thứ hai, mục tiêu của chính sách đối với người nghỉ thai sản là nhằm góp
phần đảm bảo cuộc sống vật chất và tinh thần cho họ trong thời gian nghỉ sinh
con không có nguồn thu nhập nào khác.
- Đối với người lao động
Chế độ thai sản có vai trò bù đắp một phần thiếu hụt về thu nhập của
người lao động. Trong thời kỳ thai sản, người lao động phải nghỉ việc, không
động một mặt bù đắp được thu nhập bị giảm, mặt khác hỗ trợ được các khoản
chi phí tăng thêm như: mua sắm dụng cụ, tã lót, sữa, … cho em bé, tăng
cường dinh dưỡng cho mẹ. Đồng thời, giúp thực hiện tốt chức năng và bảo vệ
quyền làm mẹ, làm vợ của người phụ nữ. Bên cạnh đó, giúp cho tâm lý của
người lao động ổn định, đặc biệt là người lao động khi họ có nhu cầu có con,
có lương, vì thế thu nhập sẽ bị giảm. Chế độ thai sản trợ cấp cho người lao
13
xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái, bảo vệ sức khoẻ của cả
mẹ và con, không lo lắng về chi phí sinh con khi không tham gia lao động.
Đối với lao động nam đang đóng bảo hiểm có vợ sinh con, trợ cấp thai sản
đóng góp một phần khá lớn để cuộc sống gia đình được ổn định, hơn nữa lao
động nam có thể bên cạnh chăm sóc vợ, con mình sau sinh. Đặc biệt trong
thời kỳ thai sản, người lao động bị giảm thu nhập do không có thời gian tập
trung nhiều cho công việc mà phải dành thời gian trong thời kỳ khám thai,
chăm sóc con sơ sinh… nên nhờ có chế độ thai sản đã hỗ trợ một phần lớn chi
phí của lao động trong thời kỳ thai sản.
- Đối với người sử dụng lao động: Thực hiện tốt chế độ thai sản sẽ góp
sử dụng lao động thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao
phần thu hút lao động vào các doanh nghiệp. Thông qua chính sách này người
động và đối với toàn xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được
một lực lượng lớn lao động, đặc biệt là lao động nữ đã và đang ngày càng
tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
- Đối với Nhà nước
Thực hiện tốt chế độ thai sản góp phần ổn định cuộc sống cho xã hội,
đảm bảo thực hiện chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Chế độ thai sản còn
mang ý nghĩa góp phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong
tương lai, góp phần dung hoà mối quan hệ người sử dụng lao động và người
lao động giúp cho việc sản xuất diễn ra liên tục giúp tăng trưởng kinh tế.
nên về lâu dài nó góp phần nâng cao năng suất lao động vì cuộc sống của
người lao động được đảm bảo ổn định, do đó họ quan tâm hơn trong lao động
sản xuất và cảm thấy phấn khởi, từ đó thúc đẩy xã hội ngày càng phát triển.
Đồng thời đảm bảo an toàn xã hội và văn minh xã hội.
Ngoài ra, nguồn quỹ của bảo hiểm xã hội còn nhàn rỗi thường rất lớn,
Bảo hiểm xã hội đã góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động,
14
trong khi đó nó luôn được bổ sung liên tục, vì vậy phần quỹ nhàn rỗi chưa sử
dụng được đầu tư để tăng trưởng, nên đã tạo điều kiện cho nền kinh tế quốc
dân phát triển, giảm bớt khó khăn về vốn đầu tư cho Nhà nước.
Vì vậy bảo hiểm xã hội có vai trò là gắn với lợi ích của người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước với nhau, tạo thành một mối quan hệ
chặt chẽ, thúc đẩy xã hội phát triển.
1.2. Một số vấn đền lý luận về pháp luật BHXH thai sản
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc của pháp luật BHXH thai sản
Pháp luật bảo hiểm thai sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp khác nhau. Pháp luật
tham gia bảo hiểm thai sản; điều kiện hưởng, thời gian hưởng và mức hưởng
về bảo hiểm thai sản điều chỉnh các quan hệ pháp luật liên quan đến đối tượng
bảo hiểm thai sản; nguồn quỹ để thực hiện bảo hiểm thai sản và việc xử phạt
vi phạm pháp luật, giải quyết tranh chấp về bảo hiểm thai sản, cũng như các
vấn đề có liên quan khác.
Pháp luật bảo hiểm thai sản là cơ sở pháp lý để người lao động được
thụ hưởng trợ cấp khi sự kiện thai sản xảy ra. Dựa trên những quy định của
pháp luật, người lao động và cơ quan bảo hiểm mới có căn cứ để thực hiện
đúng và thụ hưởng đầy đủ các quyền lợi của mình. Pháp luật bảo hiểm thai
sản còn góp phần thực hiện chính sách xã hội của quốc gia (đặc biệt là chính
sách về dân số). Bởi lẽ, pháp luật là công cụ mà Nhà nước sử dụng đề điều
của quốc gia, nhằm mục đích bảo vệ và chăm lo đời sống cho người dân. Các
chính sách về bảo hiểm thai sản đã góp phần đảm bảo sự ổn định cuộc sống
của người dân, góp phần tái tạo lực lượng lao động trong tương lai.
Theo từ điển tiếng việt, nguyên tắc được hiểu là những điều cơ bản
nhất phải tuân the. Với cách hiểu như vậy trong bất kỳ một ngành khoa học
chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, thông qua đó để thực hiện các chính sách
15
hay lĩnh vực hoạt động cụ thể nào đều cần phải có những nguyên tắc chung
thống nhất, xuyên suốt toàn bộ hoạt động, là “xương sống” đảm bảo đúng
mục đích đề ra ngay khi bắt đầu hoạt động [39].
Các nguyên tắc của bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội thai
sản nói riêng, trong khoa học pháp lý được xác định là những tư tưởng chủ
đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động bảo hiểm xã hội, xuất phát từ
bản chất của các chế độ bảo hiểm xã hội, thực tiễn hoạt động cũng như chính
nguyên tắc bảo hiểm xã hội và được coi là cơ sở nền tảng cho việc tổ chức
quản lý và thực thi chính sách BHXH thai sản.
Nguyên tắc 1: Mức hưởng của bảo hiểm xã hội thai sản được tính
trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm xã hội và có chia sẻ giữa
những người tham gia BHXH thai sản [42].
Cơ sở hình thành nguyên tắc: BHXH thai sản, là loại bảo hiểm vừa mang
tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Tính kinh tế của BHXH thai sản thể hiện ở
chức năng phân phối thu nhập, đảm bảo đời sống cá nhân cũng như của gia
đình người lao động. Để thực hiện việc phân phối đó một cách có hiệu quả,
BHXH thai sản trong quá trình triển khai phải có sự kết hợp hài hòa giữa cống
hiến và hưởng thụ và sự tương xứng tương đối giữa mức đóng và mức hưởng.
Đảm bảo sự hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng thụ. Cần căn cứ vào
sự cống hiến của người lao động như mức hưởng thụ. Cần căn cứ vào sự cống
hiến của người lao động như mức đóng góp, thời gian đóng góp cho các quỹ
hưởng sao cho phù hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động.
Mức trợ cấp được hưởng phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng
góp và sự kiện pháp lý kèm theo (tỷ lệ suy giảm hay mất khả năng lao động,
thai sản) tỷ lệ đóng góp bảo hiểm xã hội và mức trợ cấp của người lao động
có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập của người được bảo hiểm. Nguyên tắc
bảo hiểm xã hội… để dựa vào đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian
16
bảo hiểm xã hội trên cơ sở phân phối theo lao động luôn đảm bảo yếu tố công
bằng hợp lý. Người lao động phải tham gia đóng góp bảo hiểm xã hội thai sản
mới được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thai sản. Nguyên tắc này thể hiện
hai nội dung cơ bản.
Một là, mức hưởng bảo hiểm xã hội thai sản được tính trên cơ sở mức
đóng góp và thời gian đóng góp. Mức đóng góp và thời gian đóng góp được
sử dụng làm căn cứ để đối tượng đóng bảo hiểm được hưởng bảo hiểm xã hội
thai sản, tức đóng góp đến đâu thì mức thụ hưởng tới đó. Bảo hiểm xã hội thai
sản là một hình thức phân phối phổ biến tổng thu nhập quốc dân bảo hiểm xã
hội phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ (nguyên
như nhau thì được hưởng bảo hiểm như nhau. Nghĩa là phải đảm bảo hợp lý
tắc phân phối theo lao động). Những người lao động có thời gian và phí đóng
giữa đóng góp và hưởng thụ, tức là căn cứ vào mức đóng góp của người lao
động cho xã hội thể hiện thông qua mức đóng, thời gian đóng góp vào quỹ xã
hội… để từ đó quy định mức trợ cấp và độ dài thời gian hưởng trợ cấp phù
hợp với sự đóng góp cho xã hội của người lao động. Vì vậy rất khó chấp nhận
về mặt kinh tế khi một người lao động vừa tham gia bảo hiểm xã hội thai
sản trong thời gian ngắn lại được hưởng ngay mức bảo hiểm xã hội thai sản
suốt thời gian nghỉ thai sản [43].
Hai là, ở một khía cạnh khác nguyên tắc này thể hiện sự chia sẻ giữa
những người tham gia bảo hiểm xã hội, điều này có nghĩa là không phải bất
hiểm xã hội thai sản. Người lao động cùng với người sử dụng lao động và nhà
nước cùng tạo lập hình thành một quỹ bảo hiểm xã hội độc lập và tập trung
trong đó đa số những người đóng góp bảo hiểm xã hội sẽ hỗ trợ cho số những
người có đủ điều kiện để hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thai sản theo nguyên
tắc “lấy số đông bù số ít”. Nghĩa là chỉ những người đang trong thời gian nghỉ
kỳ người lao động nào tham gia đóng bảo hiểm xã hội đều được hưởng bảo
17
sau sinh, không có khả năng lao động, không có nguồn thu nhập khi nghỉ thai
sản, những khó khăn lớn vượt xa so với khả năng kinh tế của người lao động,
trên cơ sở chia sẻ của những người cùng tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì
khoản phí của những người tham gia bảo hiểm xã hội mà không gặp phải
hoàn cảnh như vậy sẽ được bù đắp cho những người khó khăn hơn về mặt tài
chính khi không thể duy trì công việc hằng ngày [43].
Thu nhập từ BHXH thực tế là phần thu nhập của NLĐ tham gia bảo
hiểm mà nếu có biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động thì tổ chức BHXH phải chi trả trợ cấp để thay thế hoặc bù đắp. Theo đó,
tại nước ta, mức đóng BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức thu nhập của họ
Như vậy, mới có thể đảm bảo NLĐ khi xảy ra sự kiện thai sản, được
nhưng không thấp hơn mức tối thiểu chung.
cung cấp một nguồn tài chính ổn định, bằng với mức sống tối thiểu.
Nguyên tắc 2: Nhà nước thống nhất quản lý chính sách quỹ BHXH
nói chung và quỹ BHXH thai sản nói riêng, theo nguyên tắc dân chủ, công
khai, minh bạch [42]
Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành.
Trong đó, bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ bao trùm toàn bộ
những người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và NLĐ thuộc khu vực
kinh tế quan trọng của đất nước. Ở nước ta do những điều kiện kinh tế - xã
hội Nhà nước. Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính
cục bộ, những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để bộ phận
cấu thành có thể năng động trong hoạt động để có thể bù đắp,bổ sung những
ưu điểm cho nhau.
Bên cạnh đó, qũy BHXH là hạt nhân của chính sách BHXH nói chung
và BHXH thai sản nói riêng, vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất
cao và là điều kiện, vừa là cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn hệ
thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tùy tiện, tính
18
thống BHXH tồn tại phát triển.
Do đó, quỹ BHXH được quản lý thống nhất và hạch toán theo các quỹ
thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích nhằm
đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ cho công tác
hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để điều chỉnh chính sách cho phù
hợp, đảm bảo cân bằng thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ thành phần
mất cân đối, không ảnh hưởng đến người quyền lợi người tham gia BHXH.
Có như vậy,mới đảm bảo cuộc sống của NLĐ và gia đình họ khi gặp biến cố,
rủi ro hoặc sự kiện thai sản làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động.
Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
lý. Để đảm bảo thực hiện hài hòa các nội dung nói trên và đạt được mục tiêu
sống xã hội, chứa đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp
mà bảo hiểm xã hội đặt ra thì việc thực hiện bảo hiểm xã hội trước hết là trách
nhiệm của Nhà nước. Bởi nhà nước là người trực tiếp tổ chức, chỉ đạo và
quản lý toàn bộ sự nghiệp bảo hiểm xã hội thông qua việc ban hành các quy
định pháp luật về bảo hiểm xã hội và kiểm tra thực hiện các quy định đó. Mặt
khác, quỹ bảo hiểm xã hội với ý nghĩa là một quỹ tích lũy hình thành trên cơ
sở đóng góp của ba bên (Nhà nước – người sử dụng lao động – người lao
động), nhằm giúp đỡ về mặt vật chất cho người lao động khi họ gặp rủi ro,
khó khăn không chỉ khi đang tham gia quan hệ lao động. Do đó bên cạnh
nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm cho các chủ thể tham gia quan hệ lao động thì
thiết Nhà nước có các biện pháp để bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo sự an toàn
về tài chính cho quỹ bảo hiểm xã hội.
Để hạn chế được thất thoát cho quỹ và nâng cao tính hiệu quả trong
quản lý quỹ bảo hiểm xã hội thì cần phải thực hiện được đầy đủ nguyên tắc
này. Trong quản lý nhà nước về tài chính bảo hiểm xã hội cần quy định và
Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội và trong trường hợp cần
19
hướng dẫn cụ thể về các hạng mục thu, chi; quy chế quản lý đầu tư quỹ bảo
hiểm xã hội cũng cần phải rõ ràng, minh bạch…; đồng thời phải có cơ chế
kiểm tra, giám sát, chế độ báo cáo, kiểm toán… Bên cạnh đó, bảo hiểm xã
hội là cơ quan quản lý quỹ cần có chiến lược về tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng để hình thành được một đội ngũ cán bộ có đầy đủ chuyên môn nghiệp
vụ, kỹ năng về quản lý tài chính nhằm đáo ứng tốt nhiệm vụ được giao.
Nguyên tắc mang ý nghĩa đảm bảo tính hiệu quả của an sinh xã hội;
tính thống nhất, công khai và minh bạch nhằm tránh sự chồng chéo trong hệ
thống bảo hiểm xã hội, tạo diều kiện thuận lợi cho các đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội.
Nguyên tắc 3: Việc thực hiện BHXH thai sản phải đơn giản, dễ dàng,
thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia
BHXH [42]
Với nguyên tắc này việc thực hiện BHXH thai sản đối với NLĐ phải
được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết
sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho NLĐ, người sử dụng lao
động khi tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
Nguyên tắc 4: Các quy định về BHXH thai sản phải đảm bảo quyền
lợi về vật chất và tinh thần của NLĐ cũng như trẻ sơ sinh [42]
Đặc điểm của kỳ thai sản là một khoảng thời gian kéo dài và liên tục từ
lúc mang thai, quá trình nghỉ sinh con, chăm sóc trẻ sơ sinh đến khi ổn định
hiện các sự cố, quá trình nghỉ sinh con, nuôi con sơ sinh…phải có chính sách
phù hợp cụ thể và nhất quán nhằm đảm bảo người phụ nữ phải được chăm sóc
chu đáo, liên tục. Các chính sách chế định BHXH thai sản cũng phải đảm bảo
đủ thời gian để người mẹ ổn định và phục hồi sức khỏe sau khi sinh con và
chăm sóc con trong thời gian ban đầu cũng như tạo điều kiện cho trẻ sơ sinh
lại sức khỏe trở lại lao động bình thường, nên việc khám thai đều đặn để phát
20
thích nghi và phát triển trong moi trường mới.
1.2.2. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản
1.2.2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm xã hội thai sản
- Về đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Đối tượng của chế độ bảo hiểm thai sản chủ yếu là lao động nữ trong
độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu,
sinh con, nuôi con sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai, bên
cạnh đó có những đối tượng khác như lao động nam và người lao động
nhận nuôi con nuôi…
Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội,
Trường hợp bảo vệ bao gồm thai nghén, sinh đẻ và những hậu
năm 1952 chỉ rõ:
quả tiếp theo, và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh như pháp luật
của quốc gia quy định. Đồng thời Công ước cũng quy đinh những
người được hưởng chế độ thai sản phải bao gồm: Mọi phụ nữ
thuộc làm công ăn lương được quy định, tổng số ít nhất chiếm
50% toàn bộ người làm công ăn lương, hoặc mọi phụ nữ được
quy định trong dân số hoạt động kinh tế, và tổng số ít nhất chiếm
20% toàn bộ người thường trú; hoặc bao gồm mọi phụ nữ thuộc
những loại làm công ăn lương được quy định, và tổng số ít nhất
chiếm 50% toàn bộ người làm công ăn lương làm việc trong các
trường hợp trợ cấp y tế về thai sản thì bao gồm cả vợ của những
người thuộc các loại này [31].
Theo Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952
quy định thì chế độ thai sản “áp dụng cho những phụ nữ làm việc trong các cơ
sở công nghiệp và trong các công việc phi công nghiệp và nông nghiệp, kể cả
doanh nghiệp công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên; trong
21
những phụ nữ làm công ăn lương, làm việc tại nhà”. Và từ “phụ nữ” ở đây là
chỉ nữ giới, ở bất kỳ độ tuổi, quốc tịch, chủng tộc, hoặc tín ngưỡng tôn giáo
nào, có kết hôn hay không, và từ “con” là chỉ mọi đứa con sinh ra trong hoặc
ngoài giá thú. Với mục đích của Công ước là nhằm đảm bảo cho mọi lao động
nữ, trẻ sơ sinh đều được chăm sóc cần thiết và được bảo vệ mức sống đủ cho
mẹ con trong thời kỳ người mẹ sinh con phải nghỉ việc mà không hề có sự
phân biệt đối xử nào về tôn giáo, chủng tộc, nghề nghiệp, độ tuổi… [32]
Và trong Công ước số 156 - Công ước về bình đẳng cơ may và đối xử
với lao động nam và lao động nữ: những người có trách nhiệm gia đình, năm
1981 thì đối tượng được bảo vệ không chỉ là lao động nữ mà cả lao động nam
bộ nhất của Công ước này, nhằm nâng cao nhận thức về bình đẳng giới [55].
và nữ, những người có trách nhiệm trong gia đình, đây được xem là điểm tiến
- Về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
Điều kiện hưởng chế độ thai sản yêu cầu hai điều kiện cơ bản đó là:
những người đang mang thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH và phải có thời
gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh. Thời gian này được quy định theo điều
kiện của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ, thông thường các nước yêu cầu thời
gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12 tháng.
Cụ thể, ở Argentina, điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước
khi sinh là 10 tháng liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng
trước khi sinh trong đó có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh. Hay ở
liên tục 4 đến 10 tháng trước khi sinh. Tại Pháp là 200 giờ làm việc trong 3
tháng cuối cùng tước khi sinh. Với mục đích là tránh việc người chủ sử
dụng lao động chấm dứt HĐLĐ khi người lao động sinh con và tránh thâm
hụt quỹ tài chính BHXH [14].
Sở dĩ, cần quy định cụ thể về điều kiện hưởng chế độ thai sản là
Đức, thời gian này là 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc
22
NLĐ tham gia BHXH và có thời gian đóng góp tối thiểu trước sinh nhằm
đảm bảo về mặt tài chính cho quỹ BHXH khi chi trả các chế độ bảo hiểm
thai sản và mặt khác, nhằm ngăn chặn những tình trạng lạm dụng, trục lợi
quỹ bảo hiểm xã hội.
Ở hầu hết các nước trên thế giới, trong điều kiện nhận trợ cấp thai sản
họ đều yêu cầu hai điều kiện chủ yếu đó là:
+ Những người đang mang thai hoặc sinh đẻ có tham gia BHXH.
+ Phải có thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh, thông thường các
nước yêu cầu thời gian đóng góp tối thiểu trong khoảng từ 6 tháng đến 12
tháng cuối cùng trước khi sinh.
Bảng 1.1: Điều kiện về thời gian đóng góp tối thiểu trước khi sinh ở một
số nước trên thế giới
Stt
Tên nước
Thời gian yêu cầu
1 Áchentina
10 tháng đóng góp liên tục trước khi nghỉ thai sản hoặc đã có 6 tháng đóng góp trong 12 tháng trước khi sinh trong đó
có 1 tháng làm việc ngay trước khi sinh.
2 Trung Quốc
Không quy định thời gian tham gia tối thiểu
3 Pháp
Có 200 giờ làm việc trong 3 tháng cuối cùng trước khi sinh
4 Đức
Có 12 tuần tham gia bảo hiểm hoặc có thời gian làm việc liên tục từ 4 đến 10 tháng trước khi sinh
5 Nhật Bản
Tất cả những người có việc làm trong diện tham gia bảo hiểm
6 Mêhicô
Có 30 tuần đóng góp trong 12 tháng cuối cùng trước khi sinh
7 Balan
Những người hiện tại đang làm việc ở những nơi thuộc phạm vi tham gia bảo hiểm xã hội
8 Nga
Không quy định thời gian đóng góp tổi thiểu
9 Nam Phi
Có 13 tuần đóng góp trong 52 tuần trước khi sinh
10 Thái Lan
7 tháng đóng góp trong 15 tháng trước khi sinh (chỉ giới
hạn trong 2 lần sinh)
(Nguồn: Bảo đảm xã hội của các nước trên thế giới - Xuất bản năm 1999)
23
1.2.2.2. Thời gian hưởng và mức hưởng bảo hiểm xã hội thai sản
Thời gian hưởng bảo hiểm thai sản
Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản bao gồm thời gian khi thai
nghén, sinh đẻ và những hậu quả tiếp theo sau sinh.
“Độ dài thời gian nghỉ thai sản ít nhất là 12 tuần, trong đó một phần
thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ” theo Khoản 2 Điều 3, Công ước
số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952 quy định [32].
Độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau sinh đẻ sẽ do pháp luật hoặc
pháp quy quốc gia quy định, nhưng bất kỳ trường hợp nào cũng
quy quốc gia quy định, nhưng có thể nghỉ vào trước thời điểm dự
không được dưới 6 tuần; phần còn lại, tùy theo pháp luật hoặc pháp
tính sinh đẻ, hoặc sau thời điểm đã hết thời gian nghỉ bắt buộc, hoặc
là chia ra một phần nghỉ trước thời điểm thứ nhất và một phần nghỉ
sau thời điểm thứ hai nói trên, Khoản 3, Điều 3 Công ước 103 về
bảo vệ thai sản năm 1952 quy định [33].
Thông thường, các nước sẽ quy định cả thời gian nghỉ cả trước khi sinh
và sau khi sinh để đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và trẻ sơ sinh được ổn định.
Hay theo Công ước số 183 - Công ước Công ước về sửa đổi Công ước
Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Để bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ
sinh, thời gian nghỉ thai sản bao gồm 6 tuần nghỉ bắt buộc sau sinh” và “Thời
ngày sinh thức tế mà không bị giảm thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh” [33].
Và theo Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo
vệ thai sản năm 1952:
Các Nước thành viên cần cố gắng tăng thời gian nghỉ thai sản theo
Điều 3 của Công ước 103 lên ít nhất là 18 tuần. Cần có quy định
gian nghỉ mang thai được nới rộng bằng thời gian giữa ngày sinh dự kiến và
24
kéo dài thời gian nghỉ thai sản trong trường hợp đa sinh. Cần có các
biện pháp đảm bảo rằng người phụ nữ có quyền tự do chọn lựa thời
gian nghỉ thai sản trước hoặc sau khi sinh nở [12].
Ngoài ra, nếu sinh đẻ sau thời điểm đã dự tính, thì trong mọi trường
hợp, thời gian đã nghỉ trước đó sẽ được kéo dài cho tới thời điểm sinh đẻ thực
tế và độ dài thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ sẽ không được vì thế
mà giảm bớt, đảm bảo đủ thời gian đủ thời gian nghỉ sau sinh bắt buộc ít nhất
là 6 tuần. Sở dĩ, các Công ước đều quy định thời gian nghỉ bắt buộc sau sinh ít
nhất là 6 tuần, vì đây là thời gian tối thiểu đảm bảo khả năng phục hồi sức
khỏe cho mẹ và cả trẻ sơ sinh.
sản năm 1952 cũng quy định thêm về trường hợp hưởng chế độ của người
Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai
cha như sau:
Trong trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời gian nghỉ
sau sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ với thời
gian tương đương với thời gian mà người mẹ chưa nghỉ hết; trong
trường hợp người mẹ ốm đau hoặc nằm viện sau khi sinh và trước
khi hết thời gian nghỉ sau khi sinh mà người mẹ không thể chăm
sóc được trẻ thì người cha phải được quyền nghỉ một thời gian
tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết
để chăm sóc trẻ theo luật định và thông lệ ở nước đó; người mẹ hay
gian nghỉ thai sản [12].
Thực tế, các quốc gia trên thế giới đã có những quy định khác nhau và
linh hoạt về thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản của người cha. Cụ thể,
Iceland - một trong những quốc gia có chế độ ưu đãi tuyệt vời nhất dành cho
các bà mẹ. Chế độ nghỉ thai sản đã có ở quốc gia này đã có từ những năm
người cha của trẻ phải có quyền nghỉ chăm sóc con sau khi hết thời
25
1970, và năm 2012 một chính sách mới mang tên 5-2-5 đã được ra đời. Chính
sách này cho phép các bà mẹ và ông bố mỗi người được nghỉ 5 tháng khi có
con. Thêm 2 tháng nghỉ nữa hai người có thể tự thỏa thuận phân chia với
nhau. Ngoài ra, các vị phụ huynh cũng có đến 2 năm để sử dụng thời gian
nghỉ này và được hưởng 80% thu nhập trong thời gian đó. Hay ở Đan Mạch,
mỗi cặp vợ chồng ở đây khi sinh con sẽ được nghỉ tổng cộng 1 năm, trong đó,
thời gian nghỉ của các bà mẹ là 18 tuần, các ông bố là 2 tuần, và 32 tuần còn
lại sẽ được chia cho cả bố và mẹ. Ở Singapore, từ năm 2013 người chồng có
thể nghỉ một tuần có lương để giúp đỡ người vợ mới sinh. Trường hợp người
vợ sẵn sàng chia sẻ một tuần trong 4 tháng nghỉ thai sản của mình cho chồng
nghỉ phép này của người chồng sẽ do Chính phủ chi trả. Số tiền cao nhất mỗi
thì người chồng có thể hưởng thêm một tuần nghỉ nữa. Lương trong 2 tuần
tuần là khoảng 38 triệu VND [14].
Ngoài ra trong thời gian nuôi con nhỏ, phụ nữ có quyền nghỉ một hoặc
một số lần hay giảm thời gian làm việc để cho con bú. Thời gian nghỉ, số lần
nghỉ hoặc giảm giờ làm việc được quy định cụ thể tùy theo mỗi quốc gia.
Nhưng thời gian này tính vào thời gian làm việc và do đó, người lao động nữ
vẫn được tính lương đầy đủ. Khuyến nghị số 191 còn quy định các hình thức
nghỉ liên quan như sau: trường hợp người mẹ tử vong trước khi hết thời gian
nghỉ sau khi sinh thì người cha đang làm việc phải được quyền nghỉ một thời
gian tương đương với thời gian nghỉ sau sinh mà người mẹ chưa nghỉ hết để
chăm sóc trẻ sau khi sinh của quy luật hiện hành [12].
Mức hưởng bảo hiểm thai sản
Trợ cấp chế độ thai sản có hai phương thức thực hiện là trợ cấp bằng
tiền và chăm sóc y tế:
+ Đối với chăm sóc y tế:
Đối với trường hợp thai nghén, sinh đẻ và các hậu quả của sự kiện này
26
(nếu có), người lao động nữ sẽ được hưởng trợ cấp y tế về thai sản, trợ giúp
về y tế bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một
người đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc phụ trách và cả việc nằm viện
nếu cần thiết, các dịch vụ hỗ trợ y, dược, khám thử, chăm sóc răng, kể cả giải
phẫu và nằm viện khi cần thiết.
Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội
đã quy định rõ:
Chăm sóc y tế phải nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức
khỏe của người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng làm việc, khả
năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ. Các cơ quan chính phủ
những người phụ nữ được bảo vệ, bằng mọi cách được coi là thích
hoặc thể chế quản lý trợ cấp y tế về thai sản phải khuyến khích
đáng, để họ sử dụng các dịch vụ y tế chung của cơ quan hoặc của
cơ quan được thừa nhận, dành cho họ [31]
Ngoài ra Công ước số 103 – Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại
năm 1952 quy định cụ thể về các trường hợp được chăm sóc y tế tại
Khoản 3 Điều 4 là:
Trợ giúp về y tế bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và
sau khi đẻ, do một người đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc
phụ trách và cả việc nằm viện nếu cần thiết [32].
Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai
Khám tại phòng khám, tại nhà hoặc tại bệnh viện hoặc cơ quan y tế
khác do chuyên gia hoặc chuyên viên đa khoa; chăm sóc thai sản do
một bác sỹ sản khoa đủ trình độ hoặc các dịch vụ chăm sóc thai sản
tại nhà, bệnh viện hay các cơ quan y tế khác; duy trì chế độ thai sản
tại bệnh viện và các sở y tế; bất kỳ dịch vụ hỗ trợ y, dược, khám,
sản năm 1952 quy định cụ thể hơn về chế độ y tế nên bao gồm:
răng và giải phẫu [12]
27
thử do bác sỹ hoặc chuyên gia y tế có trình độ kê đơn; chăm sóc
Ngoài ra, Công ước số 103 – Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm
1952 cũng quy định “quyền tự do lựa chọn thầy thuốc và tự do lựa chọn bệnh
viện công hay tư sẽ được tôn trọng”. Tuy nhiên, các quốc gia đều khuyến
khích lao động nữ sử dụng các dịch vụ y tế chung của cơ quan và dịch vụ y tế
công cộng. Đặc biệt ở một số nước có thực hiện cả trợ cấp chi phí đi lại, dịch
vụ chăm sóc tại nhà [32].
- Đối với trợ cấp thai sản bằng tiền:
Trong trường hợp gián đoạn thu nhập do thai nghén, sinh đẻ và những
hậu quả tiếp theo, lao động nữ sẽ được trợ cấp bằng tiền theo định kỳ. Mức
khỏe đảm bảo và mức sống phù hợp.
trợ cấp phải đảm bảo nuôi sống chính mình và con mình trong điều kiện sức
Công ước số 103 về bảo vệ thai sản (xét lại) năm 1952 quy định, mức
trợ cấp bằng tiền sẽ do pháp luật hoặc pháp quy quốc gia ấn định, sao cho có
thể bảo đảm đầy đủ việc nuôi dưỡng cả người mẹ và đứa con trong những
điều kiện vệ sinh tốt và ở một mức sống thỏa đáng.
Theo Công ước số 102 - Công ước về quy phạm tối thiểu về an toàn xã
hội, tỷ lệ trợ cấp thai sản tối thiểu là 45%, nhưng Công ước 183 mở rộng quy
định mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 thu nhập trước đó của người lao
động nữ. Bổ sung cho Công ước 183, Khuyến nghị 191 yêu cầu nâng mức trợ
cấp lên bằng mức lương trước đó của họ. Mức chi trả định kỳ có thể thay đổi
Mức hưởng trợ cấp thai sản của các nước rất khác nhau, thông thường
mức trợ cấp thai sản là 100% lương và thời gian trợ cấp thường là 6 tuần
trước khi sinh và 6 – 8 tuần sau khi sinh. Ngoài trợ cấp kể trên thì mỗi lần
sinh con người mẹ còn được cấp nuôi con với mức từ 20 đến 25% mức trợ
cấp thai sản trong thời gian từ 6 tháng trở lên. Cũng có một số nước thực hiện
trong thời gian hưởng trợ cấp [31, 32, 12].
28
hỗ trợ tiền sắm tả lót và trợ cấp thai sản một lần.
Những khoản trợ cấp bằng tiền và trợ giúp về y tế sẽ được cấp trong
khuôn khổ một hệ thống bảo hiểm bắt buộc, hoặc được lấy từ các quỹ công;
và trong cả hai trường hợp, bất kỳ người phụ nữ nào có đủ điều kiện đã quy
định đều đương nhiên có quyền được hưởng. Những người phụ nữ nào không
có đủ điều kiện hưởng quyền trợ cấp, trợ giúp nói trên, thì sẽ được nhận
những khoản trợ cấp thích đáng lấy từ các quỹ trợ giúp xã hội, nếu thỏa mãn
các điều kiện về phương tiện sinh sống để hưởng trợ cấp đó.
Bảng 1.2: Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản ở một số
nước trên thế giới
Stt
Tên nước
Thời gian và mức trợ cấp
1 Áchentina
Thời gian nhận trợ cấp cho một lần sinh là 90 ngày với mức
100% thu nhập của tháng trước khi sinh (người lao động có
thể tự lựa chọn thời gian nghỉ thích hợp: 30 ngày trước khi
sinh và 60 ngày sau khi sinh hoặc 45 ngày trước khi sinh và
45 ngày sau khi sinh).
2 Trung Quốc Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian 90 ngày (chi
phí này do chủ sử dụng lao động chịu trách nhiệm). Những
trường hợp nạo, phá thai được nhận trợ cấp trong vòng 42
ngày với mức trợ cấp bằng 100% thu nhập.
3 Pháp
Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ
cấp là 6 tuần trước khi sinh và 10 tuần sau khi sinh đối với
đứa con thứ nhất và thứ hai. Đối với đứa con thứ ba được nghỉ
8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh. Trường hợp
song thai, người mẹ được nghỉ 12 tuần trước khi sinh và 22
tuần sau khi sinh. Nếu thai ba, người mẹ được nghỉ 24 tuần
trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh.
29
Stt
Tên nước
Thời gian và mức trợ cấp
4 Đức
100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước
khi sinh và 8 tuần sau khi sinh.
Đối với những người không đủ điều kiện nhận trợ cấp như
trên thì nhân trợ cấp một lần bằng 150 DM cho một lần sinh.
5 Nhật Bản
Mức trợ cấp bằng 60% mức lương bình quân ngày trong 42
ngày trước khi sinh (98 ngày trong những trường hợp đa thai)
và 56 ngày sau khi sinh.
6 Mêhicô
Mức trợ cấp bằng 100% mức lương bình quân. Thời gian
nhận trợ cấp là 42 ngày trước khi sinh và 42 ngày sau khi sinh
(nếu sau khi sinh 42 ngày mà người mẹ không thể trở lại làm
việc bình thường được thì họ sẽ được nhận trợ cấp ốm đau).
7 Balan
Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập. Thời gian nhận trợ cấp thai
sản là 16 tuần đối với lần sinh thứ nhất, 18 tuần đối với lần
sinh thứ hai trở đi và 26 tuần đối với những trường hợp sinh
đôi, sinh ba trở lên.
8 Nga
Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian từ 10 – 12
tuần trước khi sinh và 10 – 16 tuần sau khi sinh. Những người
nghỉ việc để trông con dưới 18 tháng tuổi được nhận mức trợ
cấp hàng tháng bằng 200% mức lương tối thiểu.
9 Nam Phi
Mức trợ cấp bằng 45% thu nhập tuần trong thời gian 18 tuần
trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh.
10 Thái Lan
Mức trợ cấp bằng 50% lương trước khi nghỉ trong vòng 90
ngày cho một lần sinh. Chỉ thực hiện trợ cấp cho những người
lao động nữ có tham gia bảo hiểm.
Thực hiện trợ cấp một lần là 4 000 bạt cho một lần sinh.
(Nguồn: Bảo đảm xã hội của các nước trên thế giới - Xuất bản năm 1999)
30
1.2.2.3. Thủ tục hưởng bảo hiểm xã hội thai sản
Phụ nữ thuộc đối tượng được nghỉ thai sản, phải xuất trình một giấy
chứng nhận y tế dự tính thời điểm sinh đẻ của mình. Khi lập giấy chứng nhận
y tế hoặc các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật pháp và thực
tiễn, phải nêu rõ ngày sinh dự kiến.
Điều 3, Công ước số 103 - Công ước về bảo vệ thai sản, xét lại năm
1952 quy đinh: “Phụ nữ thuộc đối tượng được áp dụng Công ước này đều có
quyền được nghỉ thai sản, khi xuất trình một giấy chứng nhận y tế dự tính thời
điểm sinh đẻ của mình” [32].
ước Bảo vệ thai sản (đã sửa đổi) quy định “Khi lập giấy chứng nhận y tế hoặc
Tại Điều 4, Công ước số 183 - Công ước Công ước về sửa đổi Công
các xác nhận thích hợp khác, theo quy định của luật pháp và thực tiễn, nêu rõ
ngày sinh dự kiến, người phụ nữ thuộc phạm quy áp dụng của Công ước này
31
sẽ được hưởng một thời gian nghỉ thai sản không dưới 14 tuần” [33].
Kết luận chương 1
Bảo hiểm xã hội thai sản là một trong những điều mà người lao động rất
quan tâm. Rất nhiều điều người lao động chưa biết có thể tìm đến dịch vụ bảo
hiểm xã hội để có thể đảm bảo có được thông tin chính xác nhất cho mình.
Ở nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển thì chế độ thai sản
có nhiều ưu đãi hơn rất nhiều. Chế độ thai sản ở nước ngoài sẽ có sự ưu tiên
hỗ trợ rất nhiều cho người lao động khi họ sinh con. Với các nước phát triển
như Đức, Singapore, Canada, Thụy Điển, Pháp thì việc lao động nữ sinh con
sẽ có được rất nhiều ưu đãi. Thậm chí là Đức có chế độ thai sản cho người lao
động có thể nghỉ chăm con đến khi con 03 tuổi mà người sử dụng lao động
không được phép sa thải người lao động khi nghỉ thai sản để chăm con.Hay
như Canada có chế độ thai sản vô cùng ưu đãi khi Chính phủ nước này sẽ hỗ
trợ thai sản cho đến khi con của người lao động tròn 18 tuổi.
Tuy nhiên thì không phải chế độ thai sản ở nước ngoài của nước nào
cũng giống nhau. Có một số nước thì thời gian nghỉ thai sản chỉ khoảng 3-4
tháng. Và mức lượng hưởng thai sản cũng không phải là 100% so với lương
trước khi sinh mà khoảng 60% -80%. Thậm chí chế độ thai sản ở Mỹ còn có
nhiều hà khắc hơn khi người lao động không chỉ là chỉ được nghỉ thai sản có
3 tháng mà trong thời gian nghỉ thai sản thì họ cũng không được hưởng bất cứ
này cho thấy là đối với các nước đang phát triển thì còn tùy vào chế độ an
sinh xã hội của mỗi nước như thế nào để có thể có được sự hỗ trợ tốt nhất cho
người lao động.
32
một sự hỗ trợ về lương nào từ người sử dụng lao động hay Chính phủ. Điều
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI THAI SẢN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
TẠI TỈNH HÀ GIANG
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội
thai sản
2.1.1. Đối tượng áp dụng và điều kiện hưởng BHXH thai sản
Đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản được quy định tại khoản 1 Điều
30 Luật BHXH 2014, là người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc, bao gồm các trường hợp sau: [22]
Một là, người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ
hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12
tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với
người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp
luật về lao động;
Hai là, người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01
tháng đến dưới 03 tháng;
Ba là, Cán bộ, công chức, viên chức;
khác trong tổ chức cơ yếu;
Năm là, sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan,
hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân
dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
Sáu là, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác
Bốn là, Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác
xã có hưởng tiền lương;
33
So với Luật BHXH 2006, Luật BHXH 2014 đã mở rộng phạm vi áp
dụng BHTS cho đối tượng là người làm việc theo hợp đồng lao động có thời
hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng (có hiệu lực từ 01/01/2018) và người
quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền
lương. Sáu nhóm đối tượng nêu trên đa phần đều là những người lao động có
thu nhập tương đối ổn định từ tiền lương. Sự ổn định nhất định về thu nhập
khiến cho nhu cầu được đảm bảo về quyền lợi và chế độ của người lao động
trong quá trình thai sản cũng trở nên cần thiết hơn. Bên cạnh đó, sáu nhóm
đối tượng này cũng chiếm phần lớn trong tổng số những người lao động tham
gia đóng BHXH bắt buộc, sẽ là sự đóng góp tương đối ổn định vào quỹ bảo
để thụ hưởng chế độ bảo hiểm.Việc mở rộng đối tượng áp dụng BHXH nói
hiểm cũng như thể hiện sự chung tay sẻ chia với những người lao động khác
chung, BHTS nói riêng trong Luật BHXH 2014 cũng đã thể hiện sự nhất quán
trong chủ trương của Nhà nước Việt Nam trong việc phát triển BHXH – trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội; tiếp tục tăng cường sự quan tâm của xã
hội đối với người lao động.
Hơn nữa theo nghị định 143/2018/NĐ-CP đã quy định chi tiết và cụ thể
về quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động là công dân nước ngoài. Theo
đó, từ ngày 01/12/2018, NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam
thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc khi: Có giấy phép lao động hoặc
chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có thẩm quyền
hạn từ đủ 01 năm trở lên với NSDLĐ tại Việt Nam.
Nhận thấy, Luật BHXH 2014 đã có những thay đổi ghi nhận trọng việc
mở rộng đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản, thông qua đó để đảm bảo
quyền lợi cho đối tượng áp dụng bảo hiểm thai sản. Tuy nhiên chế độ ngắn
hạn này, cũng chỉ áp dụng cho đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc,
của Việt Nam cấp và có HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ xác định thời
34
trong khi đối tượng tham gia BHXH tự nguyện chưa được áp dụng. Chính vì
vậy, pháp luật BHXH cần được xem xét và tiếp tục mở rộng phạm vi áp dụng
để mang lại những quyền lợi chính đáng cho người lao động.
- Điều kiện hưởng BHXH thai sản
- Theo Khoản 1 Điều 31 Luật BHXH năm 2014, quy định về điều
kiện hưởng BHXH thai sản khi người lao động thuộc một trong các trường
hợp sau đây: [21]
+ Lao động nữ mang thai;
+ Lao động nữ sinh con;
+ Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;
+ Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp
+ Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;
triệt sản;
+ Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
- Người lao động: lao động nữ sinh con; lao động nữ mang thai hộ và
người mẹ nhờ mang thai hộ; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06
tháng tuổi phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12
tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
- Người lao động nữ sinh con đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng
trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03
- Người lao động đủ điều kiện hưởng mà chấm dứt hợp đồng lao
động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận
con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng BHXH thai sản theo quy
định của pháp luật
Có thể nói, Luật BHXH 2014 đã mở rộng điều kiện để lao động nữ
tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
35
được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản, không chỉ bó hẹp trong các trường hợp
thai nghén, sinh và nuôi con thông thường mà còn có người lao động nữ mang
thai hộ, nhờ mang thai hộ hoặc nhận nuôi con nuôi sơ sinh dưới 06 tháng tuổi.
Việc tạo điều kiện cho người lao động nữ mang thai hộ hoặc nhờ mang thai
hộ hoặc người mẹ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi được hưởng chế độ
bảo hiểm thai sản là một quy định đáp ứng yêu cầu thực tiễn đời sống xã hội,
góp phần đảm bảo chăm sóc toàn diện hơn người lao động nữ và trẻ em.
Luật BHXH 2014 quy định điều kiện để lao động nữ sinh con, mang
thai hộ, nhận mang thai hộ hoặc nuôi con nuôi sơ sinh dưới 06 tháng hưởng
chế độ bảo hiểm thai sản bao gồm phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng
Số lần sinh con được hưởng trợ cấp thai sản không giới hạn [21]
trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.
Thời gian 12 tháng trước khi sinh con, nuôi con nuôi được xác định
như sau:
+ Trường hợp sinh con hoặc nuôi con nuôi trước ngày 15 của tháng thì
tháng sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi không được tính vào 12 tháng trước
khi sinh con hoặc nuôi con nuôi.
+ Trường hợp sinh con hoặc nuôi con nuôi từ ngày 15 trở đi của tháng
và tháng đó có đóng bảo hiểm xã hội thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi con
nuôi được tính vào 12 tháng trước khi sinh con hoặc nuôi con nuôi. Trường
hợp tháng đó không đóng bảo hiểm xã hội thì tháng sinh con hoặc nhận nuôi
Luật BHXH năm 2006 quy định điều kiện hưởng BHXH thai sản khi
sinh con là “NLĐ phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời
gian 12 tháng trước khi sinh con”. Quy định cũ theo luật BHXH khắc phục
được sự lạm dụng BHXH thai sản, song lại không hợp lý với các trường hợp
NLĐ đã có quá trình đóng BHXH dài, song vì lý do khó mang thai, thai bệnh
con nuôi không được tính vào 12 tháng trước khi sinh con hoặc nuôi con nuôi.
36
lý, thai không bình thường nên phải nghỉ việc ngay khi mang thai do vậy
không đủ điều kiện đóng BHXH đủ 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi
sinh để được hưởng BHXH thai sản. Trong trường hợp này là không công
bằng và không đảm bảo quyền lợi của NLĐ vì họ đã có quá trình đóng BHXH
dài nhưng lại không được hưởng BHXH thai sản. Chính vì vậy, để khắc phục
được hạn chế này, Luật BHXH năm 2014 quy định đối với NLĐ đã đóng
BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai cơ sở y tế yêu cầu phải nghỉ
việc thì điều kiện hưởng BHXH thai sản chỉ cần đóng BHXH từ đủ 3 tháng
trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Bên cạnh đó, tồn tại một số ý kiến rằng việc giới hạn mức thời gian
Việt Nam sẽ ảnh hưởng bất lợi quyền lợi của người lao động nữ, đặc biệt là
đóng bảo hiểm xã hội tối thiểu để được hưởng trợ cấp thai sản như pháp luật
với những trường hợp người lao động nữ làm các công việc thời vụ, tính chất
tạm thời và người sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội
cho người lao động. Tuy nhiên, khi so sánh với quy định pháp luật của các
quốc gia khác trên thế giới nhận thấy điều kiện hưởng BHXH thai sản của
pháp luật Việt Nam là khá hợp lý, phù hợp với điều kiện kiện phát triển kinh
tế - xã hội của nước ta cũng như các thông lệ quốc tế.
Có thể nói, quy định về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản như
pháp luật hiện hành hoàn toàn phù hợp với các quy định của ILO và pháp luật
của hầu hết các nước trên thế giới, thể hiện sự tiến bộ cũng như quan tâm của
nhà nước, chính phủ đối với lực lượng lao động nữ.
2.1.2. Thời gian hưởng bảo hiểm xã hội thai sản
2.1.2.1. Thời gian nghỉ khám thai
Nhằm đảm bảo cho tình trạng sức khỏe của thai phụ, WHO khuyến cáo
người mẹ nên đi khám thai ít nhất 05 lần trong thai kỳ để theo dõi quá trình
phát triển của thai nhi. Khuyến cáo này dựa trên những nghiên cứu khoa học
nhi nhằm đảm bảo sức khỏe của mẹ và bé được chăm sóc đẩy đủ kịp thời.
37
về cơ sở đặc điểm thời gian mang thai cũng như giai đoạn phát triển của thai
Theo Luật BHXH 2014, trong thời gian mang thai, lao động nữ được
nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày. Riêng những trường
hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình
thường thì được nghỉ hai ngày cho mỗi lần khám thai. Thời gian nghỉ khám
thai tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ
hằng tuần [22]
Với những quy định như trên, Luật BHXH 2014 đã thể hiện tinh thần
quan tâm đến sức khoẻ của lao động nữ và thai nhi trong suốt thai kỳ, đảm
bảo các quyền lợi về bảo hiểm thai sản của lao động nữ một cách tốt nhất.
Sảy thai, nạo, hút hoặc thai chết lưu gây ảnh hưởng rất lớn đến thể chất
2.1.2.2. Thời gian nghỉ khi bị sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu:
cũng như tinh thần của người phụ nữ. Do đó, pháp luật hiện hành quy định
thời gian nghỉ phụ thuộc vào tuổi thai, thai nhi càng lớn thì việc ảnh hưởng
đến người mẹ càng nhiều và vì thế thời gian phục hồi sức khỏe lâu hơn.
Thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản được quy định dựa vào chỉ
định của cơ sở khám, chữa bệnh có thẩm quyền, tuy nhiên không được quá
thời gian tối đa được quy định căn cứ vào tuần tuổi thai nhi.
Có thể thấy, so với Luật BHXH năm 2006 về chế độ này thì Luật
BHXH năm 2014 đã nâng mức tuổi thai và quy định theo tuần tuổi chứ không
quy định theo tháng như trước kia. Quy định này đảm bảo sự chăm sóc trong
2.1.2.3. Thời gian nghỉ sinh con
Ở nước ta, độ dài thời gian nghỉ thai sản cũng luôn có sự thay đổi ở mỗi
thời kỳ, nhìn chung là phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời đạt được mục
đích bảo vệ sức khỏe cho bà mẹ và trẻ sơ sinh. Có thể thấy rõ Việt Nam là
một trong những quốc gia có thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ dài nhất
điều kiện tốt nhất cho NLĐ nữ trong các trường hợp nêu trên.
38
trên thế giới và cũng hơn hẳn các quốc gia trong khu vực.
Mặc dù quy định thời gian nghỉ việc hưởng BHXH thai sản khi lao
động nữ sinh con là 06 tháng nhưng pháp luật bảo hiểm xã hội hiện hành cũng
có quy định lao động nữ có thể đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh. Theo
đó, quy định mới về đi làm trước hạn theo Luật BHXH năm 2014 tại Điều 40,
nâng thời gian sau khi sinh con từ đủ 60 ngày trở lên tăng lên ít nhất 4 tháng.
Luật mới quy định người nghỉ thai sản phải báo trước và được NSDLĐ đồng
ý. Trường hợp này ngoài tiền lương của những ngày làm việc, lao động nữ đi
làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con vẫn được hưởng BHXH thai sản cho
đến khi hết thời hạn 06 tháng theo quy định [22].
trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 02 tháng tuổi bị chết thì mẹ được
Bên cạnh thời gian nghỉ khi sinh con, Luật BHXH 2014 cũng quy định
nghỉ việc 04 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 02 tháng tuổi trở lên bị
chết thì mẹ được nghỉ việc 02 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian
nghỉ việc hưởng CĐTS không vượt quá thời gian quy định trên; thời gian này
không tính vào thời gian nghỉ việc riêng theo quy định pháp luật về lao động.
Như vậy, Luật mới đã kéo dài thời gian nghỉ việc cho lao động nữ trong
trường hợp này so với quy định trước đây.
Việc bổ sung thêm quy định trong thời gian người vợ sinh con thì
người cha cũng được nghỉ với một thời gian nhất định để có phần trách nhiệm
trong việc sinh con của người vợ như trong Luật BHXH năm 2014 là một quy
trong lĩnh vực này. Đây là nhu cầu không chỉ riêng của lao động nữ sinh con
mà của cả lao động nam có nguyện vọng được chia sẻ trách nhiệm được có
thời gian nghỉ việc chăm sóc con, đảm bảo tốt hơn sức khỏe của người mẹ và
trẻ sơ sinh trong điều kiện quỹ còn có thể cân đối. Kinh nghiệm thực hiện của
một số nước trên thế giới cho thấy, nhiều nước triển khai BHXH thai sản cho
định rất tiến bộ. Đó là sự chia sẻ và cũng thể hiện rõ vấn đề bình đẳng giới
Thụy Điển, Phillipine, Tây Ban Nha, Anh, Ý,…
39
nam giới, quy định người chồng được nghỉ việc để chăm sóc vợ, con như:
Đây là lần đầu tiên Luật BHXH nước ta có quy định cho phép lao động
nam nghỉ hưởng BHXH thai sản. So với những nước phát triển, quy định cho
nam giới được nghỉ thai sản ở nước ta được thực hiện chậm hơn bởi từ xưa,
quan niệm của người Việt là việc sinh con gắn liền với trách nhiệm, bổn phận
của người phụ nữ. Người đàn ông giữ vai trò, nhiệm vụ chăm lo đời sống vật
chất của gia đình, kiếm tiền là chính. Xuất phát từ quan niệm đó mà vai trò
của nam giới liên quan đến BHXH thai sản vẫn chưa từng được đề cập trong
các văn bản luật trước đây.
Có thể nói đây là một quy định có tính nhân văn, các Tổ chức Lao động
quốc tế cũng đánh giá rất cao những quy định về BHXH thai sản cho nam
giới. Theo đó, quy định lao động nam được nghỉ thai sản sẽ giúp những người
chồng có thêm thời gian ở bên cạnh chăm sóc vợ trong thời gian vượt cạn.
Qua đó, tình cảm gia đình sẽ được gắn kết, người chồng sẽ hiểu thêm những
vất vả, đau đớn mà người vợ phải chịu khi sinh con. Từ đó, có thể họ sẽ dành
sự quan tâm cho vợ con của mình nhiều hơn.
2.1.2.4. Thời gian nghỉ của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ
mang thai hộ
Đây là lần đầu tiên Luật BHXH năm 2014 quy định mang tính nguyên
tắc về quyền hưởng BHXH thai sản đối với người mang thai hộ và người mẹ
định thêm BHXH thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để phù hợp với Luật hôn nhân và gia đình
từ ngày 01/01/2015 cho phép lao động nữ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Đây là nội dung mang tính chất nhân đạo, điều này giúp đảm bảo cho 2 người
phụ nữ phục hồi sức khỏe, tinh thần khi cùng gánh vác nhiệm vụ mang thai và
nhờ mang thai hộ mà trước kia chưa quy định. Luật BHXH năm 2014 quy
40
nuôi dạy trẻ sơ sinh.
Quy định này được cụ thể tại Điều 35 Luật BHXH năm 2014:
Lao động nữ mang thai hộ được hưởng chế độ khi khám thai, sẩy
thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý và chế độ khi
sinh con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho người mẹ nhờ mang
thai hộ nhưng không vượt quá thời gian quy định tại khoản 1 Điều
34 của Luật này. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm
giao đứa trẻ mà thời gian hưởng BHXH thai sản chưa đủ 60 ngày
thì người mang thai hộ vẫn được hưởng BHXH thai sản cho đến khi
đủ 60 ngày tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.
điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng BHXH thai sản từ thời
Như vậy, kể cả trường hợp lao động nữ là người mang thai hộ hay là
người mẹ nhờ mang thai hộ, thì vẫn có đầy đủ quyền được hưởng bảo hiểm
thai sản như những trường hợp mang thai và sinh con thông thường khác.
Tuy nhiên, do có sự chuyển giao việc nuôi dưỡng con sơ sinh được sinh
ra nên thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thai sản của lao động nữ mang thai
hộ sẽ được tính đến thời điểm giao đứa trẻ cho người nhờ mang thai hộ. Khi
đó, sức khỏe của cả lao động nữ mang thai hộ cũng như đứa trẻ được đảm bảo
một cách tốt nhất, tuy nhiên không vượt quá mức quy định là 06 tháng.
Còn đối với người mẹ nhờ mang thai hộ, họ có quyền được nghỉ hưởng
tuổi nhằm đảm bảo quỹ thời gian hợp lý chăm sóc con trong giai đoạn sơ sinh
một cách tốt nhất.
2.1.2.5. Thời gian nghỉ trong một số trường hợp khác
Bên cạnh các trường hợp cho phép NLĐ nữ được nghỉ việc hưởng
bảo hiểm thai sản khi mang thai, sinh con và nuôi con, Luật BHXH 2014
chế độ bảo hiểm thai sản kể từ thời điểm nhận con đến khi con đủ 06 tháng
biện pháp tránh thai cũng được quyền nghỉ việc hưởng bảo hiểm thai sản.
41
cũng đưa ra trừng hợp NLĐ nữ trong quá trình làm việc mà thực hiện các
Thời gian nghỉ được căn cứ theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
có thẩm quyền.
Thời gian nghỉ việc tối đa được quy định 07 ngày đối với lao động
nữ đặt vòng tránh thai hoặc 15 ngày đối với NLĐ thực hiện biện pháp triệt
sản. Thời gian nghỉ khi thực hiện các biện pháp tránh thai tính cả ngày nghỉ
lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần.Thêm vào đó, Luật BHXH 2014 còn cho
phép lao động nữ có một khoảng thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức
khỏe sau thai sản.
Cụ thể hơn, lao động nữ ngay sau thời gian hưởng CĐTS trình bày tại
khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày
các Mục 0 và 0 nêu trên, trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức
đến 10 ngày.Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe bao gồm cả ngày
nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng
sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì
thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.
Điều đặc biệt của quy định này so với các chế định khác về thời gian
nghỉ của lao động nữ là số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe do
NSDLĐ và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định, trường hợp đơn vị sử
dụng lao động chưa thành lập công đoàn cơ sở thì do NSDLĐ quyết định.
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe được quy định như sau:
+ Tối đa 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;
+ Tối đa 05 ngày đối với các trường hợp khác.
+Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;
2.1.3. Mức trợ cấp bảo hiểm thai sản
2.1.3.1. Trợ cấp thay lương
Trợ cấp thay lương là khoản tiền do cơ quan BHXH trả cho NLĐ trong
nhanh chóng phục hồi sức khỏe sau khi sinh.
42
thời gian nghỉ thai sản nhằm giữ cân bằng về thu nhập, giúp người phụ nữ
Tại Việt Nam, ngay từ Luật BHXH 2006 đã quy định mức hưởng
CĐTS bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH
của sáu tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Nếu đóng BHXH chưa đủ sáu tháng
thì mức hưởng khi khám thai, sẩy thai, nạo hút thai hoặc thai chết lưu, thực
hiện kế hoạch hóa dân số là mức bình quân tiền lương, tiền công của các
tháng đã đóng BHXH. Thời gian nghỉ việc hưởng CĐTS được tính là thời
gian đóng BHXH, thời gian này NLĐ và NSDLĐ không phải đóng BHXH.
Kế thừa quy định này, Luật BHXH 2014 bổ sung quy định đối với
trường hợp nghỉ 01 ngày đối với trường hợp đi khám thai và lao động nam
chia cho 24 ngày thay vì chia cho 26 ngày như Luật BHXH 2006. Mức hưởng
hưởng CĐTS khi vợ sinh con được tính bằng mức hưởng CĐTS theo tháng
chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi được tính theo mức trợ cấp
tháng quy định trên, trường hợp có ngày lẻ hoặc trường hợp hưởng CĐTS khi
sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hay phá thai bệnh lý và thực hiện các biện
pháp tránh thai thì mức hưởng 01 ngày được tính bằng mức trợ cấp theo tháng
chia cho 30 ngày.
Cụ thể, công thức tính trợ cấp thai sản (trợ cấp thay lương) trong các
trường hợp theo quy định của Luật BHXH 2014 như sau:
- Mức hưởng lương khi nghỉ việc khi nghỉ việc đi khám thai, sẩy thai,
nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai được tính
=
như sau:
x 100% x
Mức hưởng khi nghỉ việc đi khám thai,sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, thực hiện các biện pháp tránh thai
số ngày nghỉ việc theo chế độ bảo hiểm thai sản
Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc 30 ngày
43
- Mức hưởng CĐTS khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh
được tính theo công thức:
= x 100% x Mức hưởng khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh Mức hưởng khi nghỉ việc sinh con hoặc nuôi con nuôi sơ sinh Số tháng nghỉ sinh con hoặc nghỉ nuôi con nuôi sơ sinh
- Mức hưởng CĐTS khi nghỉ việc đi khám thai, sinh con
Mức bình quân tiền lương, tiền công hàng tháng đóng BHXH của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc x 100% x =
24 ngày Mức hưởng khi nghỉ việc đi khám thai, sinh con số ngày nghỉ việc theo chế độ bảo hiểm thai sản
2.1.3.2. Trợ cấp một lần
Trợ cấp một lần là khoản trợ cấp mà quỹ BHXH trả cho NLĐ khi sinh
con hoặc nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi cùng với khoản trợ cấp thay
lương. Khi sinh con hay nhận nuôi con nuôi sơ sinh, NLĐ cần sắm sửa những
vật dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ như bỉm, sữa, tã, quần áo sơ sinh...
Do đó, khoản trợ cấp này nhằm giúp NLĐ đủ điều kiện vật chất để nuôi con.
cha tham gia BHXH thì cha chỉ được hưởng trợ cấp một lần trong trường hợp
mẹ chết khi sinh con, điều này không đảm bảo công bằng đối với các trường
hợp chỉ có người cha tham gia BHXH. Khoản trợ cấp một lần khi sinh con là
khoản khoản trợ cấp được chi trả nhằm mục đích hỗ trợ mua các vật dụng cần
thiết cho con khi mới sinh, vì vậy khoản trợ cấp này nên được chi trả đối với
tất cả các trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia BHXH hoặc chỉ có mẹ hoặc
Theo quy định của Luật BHXH năm 2006 thì trong trường hợp chỉ có
44
chỉ có cha tham gia BHXH.
Luật BHXH năm 2014 tại Điều 38 bổ sung trường hợp sinh con nhưng
chỉ có cha tham gia BHXH thì cha được trợ cấp một lần bằng 2 lần mức
lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.
Ngoài khoản trợ cấp tính được bằng tiền, lao động nữ trong thời gian
nghỉ việc hưởng BHXH thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng được
tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội, không phải đóng bảo hiểm xã hội. Bên
cạnh đó, trường hợp lao động nữ ngay sau thời gian hưởng BHXH thai sản,
trong khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc mà sức khoẻ chưa phục hồi thì
được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày như trình
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi thai sản bằng 25% mức lương tối thiểu
bày ở trên. Quy định trước đây của luật BHXH 2006 chia mức hưởng khi nghỉ
chung nếu nghỉ tại nhà; hoặc 40% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ tại cơ
sở tập trung. Tuy nhiên, Luật BHXH 2014 đã bỏ cách chia này và chỉ xác
định mức hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản một ngày
bằng 30% mức lương cơ sở.
Cụ thể:
Trợ cấp nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe = Mức lương cơ sở x 30%
x số ngày nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe
Theo nội dung quy định tại Nghị quyết 38/2019/NĐ-CP quy định về
mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vụ trang,
mức tiền lương cơ sở này sẽ làm căn cứ điều chỉnh mức trợ cấp bảo hiểm đối
với NLĐ và các chế độ khác. Như vậy, tiền lương tháng đóng BHXH bắt
buộc của nhiều đối tượng cũng như tiền trợ cấp thai sản cũng sẽ được điều
chỉnh tăng theo quy định này. Đây là quy định tiến bộ, đảm bảo quyền lợi cho
bà mẹ, trẻ em tốt hơn, đồng thời đảm bảo sự bình đẳng giữa lao động nam và
từ ngày 1/7/2019 tiền lương cơ sở sẽ tăng lên thành 1.490.000 đồng/tháng,
45
nữ khi nhận nuôi con nuôi.
2.1.3.3. Trợ cấp y tế
Chăm sóc y tế tại Công ước 102 phải đảm bảo bảo toàn, phục hồi
hoặc cải thiện sức khỏe của người phụ nữ được bảo vệ, và cả khả năng
làm việc, khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ
Làm rõ thêm nội dung này, Công ước 103 nhấn mạnh Trợ giúp về y tế
bao gồm sự chăm sóc trước khi đẻ, trong khi đẻ và sau khi đẻ, do một người
đỡ đẻ có bằng cấp hoặc một thầy thuốc phụ trách và cả việc nằm viện nếu cần
thiết; quyền tự do lựa chọn thầy thuốc và tự do lựa chọn bệnh viện công hay
tư sẽ được tôn trọng. Những khoản trợ cấp bằng tiền và trợ giúp về y tế sẽ
các quỹ công; và trong cả hai trường hợp, bất kỳ người phụ nữ nào có đủ điều
được cấp trong khuôn khổ một hệ thống bảo hiểm bắt buộc, hoặc được lấy từ
kiện đã quy định đều đương nhiên có quyền được hưởng.
Hầu hết các nước trên thế giới có những chính sách trợ cấp đối với lao
động nữ trong thời gian mang thai và sinh con sử dụng dịch vụ y tế trước và
sau khi sinh. Dịch vụ chăm sốc y tế thường bao gồm: chăm sóc ban đầu, một
số dịch vụ và thuốc men thiết yếu, những dịch vụ đặc biệt, phẫu thuật, chăm
sóc thai sản, đặc biệt ở một số quốc gia có cả trợ cấp đi lại, chăm sóc y tế tại
nhà. Việc chi trả chi phí chăm sóc y tế có thể được chi trả trực tiếp cho người
cung cấp dịch vụ trong các cơ sở y tế của nhà nước, hoàn trả chi phí cho bệnh
39 nhân hoặc chi trả theo các điều khoản trực tiếp về chăm sóc y tế. Tại một
vụ chăm sóc tại nhà.
Tại Việt Nam hiện nay, Luật BHXH 2014 chưa có quy định cụ thể về
vấn đề trợ cấp chăm sóc y tế mà được áp dụng chung theo quy định của Luật
BHYT. Theo đó, Điều 22 Luật BHYT(đã được sửa đổi bổ sung) quy định chi
phí khám thai định kỳ và sinh con của NLĐ nữ tham gia BHYT sẽ được quỹ
số quốc gia như như Canada hay Nhật Bản còn có trợ cấp chi phí đi lại, dịch
46
BHYT chi trả trong phạm vi hưởng với mức hưởng thông thường là 80% chi
phí khám bệnh, chữa bênh. Riêng với các trường hợp NLĐ nữ xét nghiệm,
chẩn đoán thai không nhằm mục đích điều trị hoặc sử dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, dịch vụ, kế hoạch hóa gia đình, nạo hút thai, phá thai, trừ trường hợp
phải đình chỉ thai nghén do nguyên nhân bệnh lý của thai nhi hay của sản phụ
thì không được hưởng BHYT.
Mặt khác, một số nội dung về trợ cấp y tế trong Luật BHYT lại mâu
thuẫn với Luật BHXH 2014. Cụ thể, Luật BHXH 2014 đã cho phép trường
hợp lao động nữ nạo hút thai thuộc trường hợp được hưởng chế độ trợ cấp
thai sản. Tuy nhiên, theo quy định của Luật BHYT, lao động nữ khi nạo hút
lợi về chăm sóc y tế.
thai chỉ được nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản mà không được đảm bảo quyền
Có thể nói việc thiếu những quy định chế độ trợ cấp chăm sóc y tế cho
lao động nữ trong thời kỳ thai sản trong Luật BHXH 2014 là một điểm hạn
chế của hệ thống pháp luật hiện hành về BHXH thai sản.
2.1.4. Thủ tục giải quyết hồ sơ bảo hiểm xã hội thai sản
Quy trình, thủ tục giải quyết hưởng CĐTS đối với lao động nữ được
quy định tại Luật BHXH 2014, Nghị định 115/2015/NĐ-CP, Thông tư số
59/2015/TT-BLĐTBXH, Quyết định 636/QĐ-BHXH/2016 và hướng dẫn tại
Công văn số 1075/BHXH-CSXH của BHXH Việt Nam.
Nguyên tắc chung áp dụng đối với việc tiếp nhận, xét duyệt hồ sơ trợ
và thu BHXH đối với đơn vị sử dụng lao động thì cơ quan BHXH cấp đó chịu
trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xét duyệt, chi trả và thanh toán, quyết toán CĐTS
của đơn vị sử dụng lao động đó.
Trách nhiệm của NLĐ: NLĐ nộp hồ sơ cần thiết theo quy định cho
NSDLĐ trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc.
cấp thai sản là cơ quan BHXH phụ trách (huyện hoặc tỉnh) trực tiếp quản lý
47
Trường hợp NLĐ nữ thôi việc trước thời điểm sinh con, nhận nuôi con
nuôi thì nộp hồ sơ và xuất trình sổ BHXH cho cơ quan BHXH nơi cư trú mà
không thông qua NSDLĐ.
Trách nhiệm của NSDLĐ: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ
hồ sơ từ NLĐ, NSDLĐ có trách nhiệm lập hồ sơ theo mẫu quy định và nộp
kèm với các hồ sơ tiếp nhận từ NLĐ đến cơ quan BHXH đang quản lý đơn vị.
Trường hợp hưởng chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
thì trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày NLĐ đủ điều kiện hưởng trợ cấp dưỡng
sức, phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai sản, NSDLĐ lập danh sách và nộp
cho cơ quan BHXH.
nhận đủ hồ sơ theo quy định từ NSDLĐ, cơ quan BHXH phải giải quyết và tổ
Trách nhiệm của cơ quan BHXH: Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày
chức chi trả cho NLĐ; Đối với trường hợp NLĐ thôi việc trước thời điểm
sinh con, nhận nuôi con nuôi và nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản trực tiếp
cho cơ quan BHXH thì thời hạn để giải quyết và tổ chức chi trả cho NLĐ là
05 ngày kể từ ngày cơ quan BHXH tiếp nhận đủ hồ sơ theo quy định. Khi có
lý do để không giải quyết hồ sơ hưởng BHXH thai sản cơ quan BHXH phải
trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Về thời hạn quy định để NLĐ nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản, tại
Điều Luật BHXH 2006 quy định trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận đủ giấy tờ hợp lệ có liên quan từ NLĐ quy định, NSDLĐ có trách nhiệm
phải nộp hồ sơ của những NLĐ đã được giải quyết chế độ ốm đau, thai sản,
trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho tổ chức BHXH để cơ quan BHXH
quyết toán trong vòng 15 ngày. Rõ ràng, với việc Luật BHXH 2014 tăng thời
hạn để NSDLĐ lập hồ sơ hưởng bảo hiểm thai sản cũng như rút ngắn thời
gian thanh toán chi trả của cơ quan BHXH giúp việc giải quyết hồ sơ liên
giải quyết chế độ ốm đau, thai sản cho NLĐ, đồng thời, hằng quý, NSDLĐ
48
quan được đơn giản hóa hơn. Thời gian thanh toán chi trả trợ cấp ngắn cũng
tạo điều kiện cho NLĐ và gia đình được hỗ trợ kịp thời về mặt tài chính trong
giai đoạn thai sản khó khăn.
Việc NSDLĐ có trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ từ NLĐ góp phần
làm giảm trách nhiệm và thủ tục không cần thiết của NLĐ. Quy định này
cũng giúp đơn vị sử dụng lao động và cơ quan BHXH dễ dàng hơn trong công
tác quản lý, chi trả chế độ bảo hiểm thai.
2.2. Thực tiễn thực hiện bảo hiểm xã hội thai sản tại tỉnh Hà Giang
2.2.1. Khái quát về tỉnh Hà Giang và cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh
Hà Giang
Hà Giang là một tỉnh miền núi nằm ở cực Bắc Tổ quốc Việt Nam. Nơi
2.2.1.1. Vài nét về tỉnh Hà Giang
đây cộng đồng gồm 22 dân tộc anh em đang cùng sinh sống, với truyền thống
yêu nước nồng nàn và tinh thần đoàn kết, chung sức chung lòng xây dựng và
bảo vệ vùng biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Đơn vị hành chính bao gồm 10
huyện, thành phố: Thành phố Hà Giang; huyện Bắc Mê; huyện Bắc Quang;
huyện Quản Bạ; huyện Vị Xuyên; huyện Yên Minh; huyện Hoàng Su Phì;
huyện Đồng Văn; huyện Xín Mần; huyện Mào Vạc.
Kinh tế Hà Giang chủ yếu là nông – lâm nghiệp, thị trường tiêu thụ nhỏ
hẹp, thương nghiệp chủ yếu là bán lẻ, sản xuất hàng hóa chưa phát triển mạnh.
Kinh tế còn mang tính tự cung tự cấp, toàn tỉnh chưa có khu công nghiệp, khu
7.753 tỷ đồng, tăng 10,2% so với năm 2013. Tổng diện tích gieo trồng cây
hàng năm là 177.474,8 ha, tăng 4,89% bằng 8.276 ha so với năm 2013… [53].
Tính đến 15/11/2014 có 233 lượt doanh nghiệp đăng ký kinh doanh,
thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Toàn tỉnh hiện có 1.471 doanh nghiệp,
chi nhánh và văn phòng đại diện đang hoạt động, với tổng số vốn theo đăng
chế xuất. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp - thuỷ sản theo giá thực tế ước đạt
49
ký kinh doanh là 20.692,5 tỷ đồng. Tiếp tục củng cố các HTX, tổ hợp tác;
hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 745 HTX với 8.900 xã viên và 6.360 Tổ hợp
tác. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn
nhiều khó khăn, đến nay có 02 doanh nghiệp giải thể tự nguyện và 35 doanh
nghiệp ngừng hoạt động. Các dự án thu hút đầu tư đã có sự lựa chọn và thực
hiện theo quy hoạch; từ đầu năm đến nay, đã cấp mới, điều chỉnh Giấy chứng
nhận đầu tư cho 29 dự án trong nước với tổng vốn đầu tư 2.785,9 tỷ đồng.
Hà Giang là địa phương có nguồn lao động dồi dào, Tuy nhiên, do còn
hạn chế về trình độ, năng lực nên nguồn lao động ở đây chưa đáp ứng được
yêu cầu của quá trình phát triển.
đang làm việc trong các ngành kinh tế. Tốc độ tăng lao động bình quân giai
Năm 2010 tỉnh Hà Giang có 354.772 lao động trong độ tuổi từ 15 - 60
đoạn 2006 - 2010 là 2,6%/năm, tương đương quy mô tăng trung bình khoảng
9 nghìn người/năm. So với với tốc độ tăng bình quân chung của cả nước cùng
thời kỳ, tốc độ tăng lực lượng lao động của tỉnh cao hơn khoảng 0,42% [54].
Cơ cấu lao động nhóm ngành nông - lâm - thuỷ sản có 266.940 người
chiếm 75,2%; nhóm ngành công nghiệp - xây dựng: 34.087 người chiếm
9,6% và nhóm ngành dịch vụ 53.745 người chiếm 15,2%.
Ngoài cơ cấu của nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thuỷ sản chiếm phần
lớn trong tổng cơ cấu lao động của tỉnh (75,2%), thì một số phân ngành chiếm
nghiệp chế biến: 29,08%; buôn bán sửa chữa và bán lẻ: 23,06%; hoạt động
đảng, quản lý nhà nước: 16,93%; giáo dục đào tạo: 34,73%.
Tốc độ tăng trưởng dân số trung bình giai đoạn 2001 - 2005 là 1,8%/
năm, năm 2005 dân số là 673.409 người; giai đoạn 2006 -2010 tốc độ tăng
trưởng dân số trung bình 1,49%/ năm, năm 2010 dân số tỉnh Hà Giang là
737.768 người, trong đó lực lao động trong độ tuổi là 354.772 người chiếm
48,09% tổng dân số trong toàn tỉnh.
50
tỷ lệ cơ cấu cao trong tổng cơ cấu lao động của nhóm ngành như: Công
Trong tổng số lực lượng lao động đến năm 2010 là 354.772 người, tỷ lệ
lực lượng lao động nam có chiều hướng tăng từ 49,4% năm 2001 lên 51,1%
năm 2010, tăng trung bình 0,83%/ năm giai đoạn 2001-2005 và 2,67%/năm
giai đoạn 2006 - 2010; tỷ lệ nữ giảm từ 50,6% năm 2001 xuống còn 48,9%
năm 2010; giảm trung bình 1,55%/ năm giai đoạn 2001-2005 và 1,28%/năm
giai đoạn 2006-2010.
Lực lượng lao động có chiều hướng tăng ở thành thị và giảm lao động
ở nông thôn. Năm 2001 tỷ lệ lao động ở thành thị là 10,72%, tăng lên 11,01%
năm 2005 và 14,26% năm 2010, tăng trung bình 1,86%/ năm giai đoạn 2001 -
2005 và 5,67%/năm giai đoạn 2006 - 2010. Trong khi đó lao động ở khu vực
nông thôn giảm từ 89,28% năm 2001 xuống còn 88,89% năm 2005 và
85,74% năm 2010, giảm trung bình 1,12%/ năm giai đoạn 2001 - 2005 và
1,44%/năm giai đoạn 2006 - 2010
Bảng 2.1: Quy mô dân số và lực lượng lao động trên địa bàn tỉnh
(giai đoạn 2001-2010)
Đơn vị tính: Người
Tăng trưởng trung bình (%/năm)
Tiêu chí
2001
2005
2010
T T
2001- 2005
2006- 2010
626.68
673.40
737.76
1. Dân số trung bình
1,80
1,49
9
8
0
Chia theo giới tính
310.26
330.07
369.14
Nam
0
4
1,55
1,68
5
316.41
343.33
368.62
Nữ
9
4
2,04
1,30
5
51
Tăng trưởng trung bình (%/năm)
Tiêu chí
2001
2005
2010
T T
2001- 2005
2006- 2010
Chia theo khu vực
105.18
Thành thị
67.180 74.129
6
2,46
6,76
559.50
599.28
632.58
Nông thôn
0
2
1,72
0,74
0
Dân số trong độ tuổi lao
329.57
377.17
451.88
2.
động
6
3
3,37
2,57
1
Tỷ lệ so với dân số (%)
52,59
56,01
61,25
-
-
294.51
308.99
354.77
1
2
1,20
1,97
3. Lực lượng lao động
0
Chia theo giới tính
145.48
150.41
181.29
3
9
0,83
2,67
Nam
8
149.02
158.57
173.47
8
3
1,55
1,28
Nữ
2
Chia theo khu vực
Thành thị
31.571 34.014 50.581
1,86
5,67
262.93
274.97
304.19
Nông thôn
1,12
1,44
9
7
1
Tỷ lệ so với dân số (%)
47,00
45,88
48,09
-
-
(Nguồn: Niên giám Thống kê tỉnh Hà Giang năm 2000; năm 2001 - 2005;năm 2009; năm 2010 và Điều tra mẫu Biến động dân số và KHHGĐ giai đoạn 2000 -2010).
52
Vì vậy việc đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trên địa bàn tỉnh
luôn được các ngành các cấp quan tâm và đề ra chủ trương vận động người
dân tham gia BHXH để nâng cao chất lượng cuộc sống.
2.2.1.2. Cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang
Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang là cơ quan sự nghiệp nhà nước trực
thuộc BHXH Việt Nam (là cơ quan sự nghiệp trực thuộc Chính phủ), đặt tại
tỉnh Hà Giang nằm trong hệ thống tổ chức của BHXH Việt Nam.
Đến nay, cơ cấu bộ máy tổ chức của BHXH tỉnh Hà Giang gồm 11
phòng nghiệp vụ (Phòng chế độ Bảo hiểm xã hội; phòng Giám định Bảo hiểm
y tế; phòng Quản lý Thu; phòng Kế hoạch - Tài chính; phòng Khai thác và
phòng Tiếp nhận - Trả kết quả thủ tục hành chính; phòng Tổ chức cán bộ,
Thu nợ, phòng Kiểm tra; phòng Công nghệ thông tin; phòng Cấp sổ, thẻ;
Văn phòng) và 11 Bảo hiểm xã hội huyện, thành phố (BHXH thành phố Hà
Giang; Đồng Văn; Mèo Vạc; Yên Minh; Quản Bạ; Vị Xuyên; Bắc Mê; Hoàng
Su Phì; Xín Mần; Bắc Quang; Quang Bình) [49].
Trong quá trình hoạt động, xây dựng và phát triển, BHXH tỉnh Hà
Giang luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh
Hà Giang, sự chỉ đạo trực tiếp về chuyên môn nghiệp vụ của BHXH Việt
Nam, cùng với sự ủng hộ, giúp đỡ của các cấp, các ngành, sự tham gia nhiệt
tình của các đơn vị SDLĐ, người tham gia BHXH, BHYT và tinh thần trách
nhiệm cùng với sự phấn đấu nỗ lực của tập thể cán bộ, công chức, viên chức
các nhiệm vụ chính trị được giao: Thực hiện tốt các chế độ chính sách BHXH,
BHYT, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên địa bàn tỉnh. Số đối tượng tham
gia không ngừng được mở rộng, số thu BHXH, BHTN, BHYT năm sau đều
cao hơn năm trước và đều hoàn thành vượt mức kế hoạch giao. Chi trả các
chế độ BHXH, BHYT hàng tháng cho các đối tượng đầy đủ, kịp thời, đảm
BHXH từ huyện đến tỉnh, hàng năm BHXH tỉnh Hà Giang đều hoàn thành tốt
53
bảo an toàn. Công tác hướng dẫn, tiếp nhận, giải quyết chế độ BHXH, BHTN,
BHYT kịp thời, đảm bảo chế độ. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin và
cải cách hành chính thường xuyên được quan tâm và đẩy mạnh…. [49]
Với những đóng góp cho sự phát triển của Ngành, tập thể BHXH tỉnh
Hà Giang vinh dự được Chủ tịch nước tặng Huân chương lao động Hạng Ba,
Cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ, Cờ thi đua xuất sắc của Ủy ban nhân dân
tỉnh Hà Giang và BHXH Việt Nam, Bằng khen của các cấp, ngành và nhiều
cá nhân cán bộ, công chức viên chức được các cấp ngành từ Trung ương đến
địa phương tặng thưởng Bằng khen và các danh hiệu thi đua khác.
Về hệ thống tổ chức bộ máy, cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang có
54
tổ chức bộ máy như sau:
Sơ đồ 2.1: Cơ cấu, tổ chức bộ máy, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang
VĂN PHÒNG
BHXH Thành phố Hà Giang
PHÒNG TỔ CHỨC CÁN BỘ
BHXH huyện Đồng Văn
PHÒNG KHAI THÁC VÀ THU NỢ
C Ố Đ M Á I G Ó H P
BHXH huyện Mèo Vạc
PHÒNG QUẢN LÝ THU
BHXH huyện Yên Minh
PHÒNG CẤP SỐ, THẺ
BHXH huyện Quản Bạ
PHÒNG CHẾ ĐỘ BHXH
BHXH huyện Vị Xuyên
C Ố Đ M Á I G
PHÒNG GIÁM ĐỊNH BHYT
BHXH huyện Bắc Mê
PHÒNG TIẾP NHẬN VÀ TRẢ KẾT QUẢ TTHC
BHXH huyện Hoàng Su Phì
PHÒNG THANH TRA – KIỂM TRA
BHXH huyện Xín Mần
PHÒNG KẾ HOẠCH - TC
C Ố Đ M Á I G Ó H P
BHXH huyện Bắc Quang
PHÒNG CÔNG NGHỆ TT
BHXH huyện Quang Bình
55
2.2.2. Những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại trong thực
tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang
Bảo hiểm xã hội tỉnh đang quản lý 6.028 đơn vị sử dụng lao động với
45.259 người tham gia BHXH, Bảo hiểm y tế bắt buộc và 698 người tham gia
BHXH tự nguyện, 740.806 người tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện.
Do nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan, các số liệu mà cơ quan bảo
hiểm xã hội tỉnh Hà Giang có khả năng cung cấp trong thời gian tác giả thực
hiện luận văn này chưa hoàn toàn được đầy đủ và bao quát hết trong cả giai
đoạn 2015 - 2017. Tuy nhiên, với sự hỗ trợ và tạo điều kiện hết sức từ phía cơ
đến được góc nhìn hoàn thiện, chân thực nhất về thực tiễn thực hiện pháp luật
quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang, tác giả mong muốn luận văn vẫn đem
bảo hiểm thai sản tại tỉnh Hà Giang trong giai đoạn áp dụng Luật giao thời
giữa hai Luật bảo hiểm xã hội.
2.2.2.1. Những kết quả đạt được trong thực tiễn thực hiện pháp luật
bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang
Nhìn chung, cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang đã thực hiện tương
đối tốt công tác bảo hiểm thai sản tại địa bàn. Sự tuân thủ nghiêm chỉnh các
quy định của pháp luật cũng như sự cố gắng, linh hoạt của các cán bộ làm
công tác đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong công tác bảo hiểm thai sản.
Về đối tượng tham gia BHXH:
thành phố chú trọng quan tâm, tìm tòi các biện pháp để thực hiện. Các biện
pháp chủ yếu đã áp dụng để mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở Tỉnh Hà
Giang bao gồm:
Thứ nhất, đẩy mạnh việc tuyên truyền để phổ biến các quy định của
pháp luật về BHXH dưới các hình thức khác nhau. Đối với các cơ quan, đoàn
Trong thời gian qua, công tác phát triển đối tượng luôn được BHXH
56
thể, doanh nghiệp có thành lập tổ chức Công đoàn, thông qua chương trình
phối hợp liên ngành BHXH và Liên đoàn lao động thành phố để tổ chức tuyên
truyền. Thực hiện tuyên truyền qua báo chí, đài phát thanh, truyền hình...
Thứ hai, phối kết hợp cơ quan có liên quan như Liên đoàn lao động,
các Chi cục thuế, nhất là UBND xã, phường, huyện để điều tra, thống kê nắm
bắt các đơn vị thuộc diện tham gia BHXH để hướng dẫn và đôn đốc kê khai
trích nộp BHXH cho người lao động.
Thứ ba, giao kế hoạch phát triển đối tượng mới phải phấn đấu thực hiện
hàng năm đến BHXH các quận, huyện để đề ra kế hoạch chương trình thực
hiện cho phù hợp với đặc điểm điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương.
giảm bớt giấy tờ, mẫu biểu, công khai thủ tục. Giao trách nhiệm cho cán bộ
Thứ tư, thực hiện các biện pháp cải cách về thủ tục tham gia BHXH,
thu phải đi sát cơ sở để hướng dẫn, không để đối tượng đi lại nhiều lần. Đồng
thời có chế độ thưởng phạt rất rõ ràng, cụ thể như hàng năm cơ quan bảo
hiểm giao chỉ tiêu thu trong đó việc mở rộng đối tượng là một trong những
tiêu chí để đánh giá xét thi đua khen thưởng. Nếu tỷ lệ thu thấp là không hoàn
thành kế hoạch, nếu tỷ lệ thu cao thì được khen thưởng bằng vật chất.
Thứ năm, kết hợp với các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước về
BHXH hoặc các cơ quan pháp luật như Sở Lao động, Viện Kiểm sát, Công an
kinh tế... tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý để buộc các chủ sử
dụng lao động tham gia đóng BHXH cho người lao động.
tốt công tác khai thác phát triển đối tượng thông qua các hình thức khen
thưởng, hỗ trợ.
Với cách tổ chức sâu sát như vậy, kết quả đối tượng đóng BHXH
tăng liên tục, tại Tỉnh Hà Giang số đối tượng tham gia BHXH nói chung và
chế độ thai sản nói riêng có sự gia tăng, thể hiện qua việc đóng bảo hiểm
Thứ sáu, thực hiện một số khuyến khích vật chất cho các đơn vị làm
57
những năm gần đây. Quản lý số lao động tham gia BHXH có thể coi là vấn
đề hàng đầu trong quản lý thu và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thu. Cùng với
sự tăng lên của số lượng các đơn vị thì số lượng NLĐ tham gia BHXH bắt
buộc trong địa bàn tỉnh Hà Giang nhìn chung cũng tăng lên được thể hiện
dưới bảng số liệu sau:
Bảng 2.2: Cơ cấu số lao động tham gia BHXH theo khối tại BHXH tỉnh
Hà Giang giai đoạn 2015 – 2017
Số LĐ thuộc diện tham gia
Số LĐ đã tham gia
Tốc độ
Tỷ lệ
tăng,
Lượng tăng,
Lượng tăng,
Tốc độ tăng,
Năm
tham gia
giảm
giảm
giảm
giảm
(%)
định gốc
tuyệt đối
tuyệt đối
định gốc
Số
Số
người
định gốc
(%)
người
định gốc
(%)
2015 44501
-
-
31960
-
-
71,82
2016 47252
2751
6,18
36528
4568
14,29
77,30
2017 48084
3583
8,05
38001
6941
18,90
79,03
(Nguồn: BHXH Tỉnh Hà Giang)
Từ bảng trên cho ta thấy số lao động đã tham gia BHXH tăng tương đối
đều qua các năm, số người lao động đã tham gia đạt tỷ lệ khá cao. Cụ thể: Số
người lao động thuộc diện tham gia BHXHBB năm 2016 tăng so với năm
diện tham gia năm 2017 tăng so với năm 2015 là 3583 người, tương ứng với
tăng với tốc độ 8,05% [4].
Nguyên nhân:
- Do từ 1/2016 Luật BHXH số 58/2014/QH13 được áp dụng, luật này
đã mở rộng đối tượng tha gia thêm 3 đối tượng nữa là: (1): Người làm việc
2015 là 2751 người, tương ứng với tăng với tốc độ 6,18%; số người thuộc
58
theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
(2):Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; (3): Người
hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn. Chính vì sự điều
chỉnh về chính sách pháp luật của nhà nước nên đối tượng thuộc diện tham
gia là tăng [4]
- Do kinh tế- xã hội đất nước phát triển, nhà nước có các chính sách
đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, các khối đơn vị sử dụng lao động tăng đồng
thời số người lao động tăng theo.
- Số lao động đã tham gia BHXH bắt buộc năm 2016 tăng so với năm
2015 là 4568 người, tương ứng với tăng với tốc độ 14,29%; số người thuộc
diện tham gia năm 2017 tăng so với năm 2015 là 6941 người tương ứng với
tăng với tốc độ 18,90%.
- Do số lao động thuộc diện tham gia tăng vì các nguyên nhân như đã
nói ở trên.
- Do trình độ nhận thức về vai trò về BHXH, cũng như trình độ dân trí
của NLĐ tăng lên. Họ đã hiểu được phần nào BHXH bản chất chính là an
sinh xã hội.
- Trách nhiệm xã hội được tăng cường, các hình thức tuyên truyền, phổ
biến đã được nâng cao.
liên quan tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra đơn vị sử dụng lao
động có đóng BHXH cho người lao động không.
- Tỷ lệ tham gia BHXH năm 2016 so với năm 2015 là tăng 5,48%; năm
2017 so với năm 2015 là tăng 7,21%. Như vậy thực trạng về người lao động
tham gia BHXH của tỉnh tăng đạt mức kế hoạch đề ra.
59
- Cơ quan BHXH tỉnh thường xuyên phối hợp với các ban ngành có
Cụ thể qua các khối thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.3: Tình hình tham gia BHXH của NLĐ theo khối đơn vị tại
tỉnh Hà Giang, năm 2015 – 2017
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Khối đơn vị
Số LĐ đã tham gia
Tỷ trọng (%)
Số LĐ đã tham gia
Tỷ trọng (%)
Số LĐ đã tham gia
Tỷ trọng (%)
Khối DNNN
2068
6,47
2356
6,49
2423
6,44
Khối DN ngoài quốc doanh
2404
7,52
2743
7,51
2878
7,57
Khối Đảng, Đoàn
23929
74,87
27380
74,96
28496 74,99
Khối ngoài công lập
22
0,07
22
0,06
22
0,06
Khối hợp tác xã
532
1,66
570
1,56
585
1,54
Khối Phường, xã, thị trấn
2700
8,45
3102
8,49
3227
8,49
Hộ SXKD cá thể, Tổ hợp tác
305
0,96
355
0,97
370
0,97
Tổng
31960
100
36528
100
38001
100
(Nguồn: BHXH tỉnh Hà Giang)
Từ bảng số liệu trên ta thấy số lượng người phải tham gia lao động và
số lượng người đã tham gia lao động tăng. Vì như ở trên ta đã nói ở phần
quản lý danh sách ĐVSDLĐ, các khối doanh nghiệp mở rộng đòi hỏi cần
Cụ thể: Khối doanh ngoài quốc doanh và khối doanh nghiệp nhà nước
có số lao động đã tham gia tăng khá mạnh Cụ thể khối doanh nghiệp quốc
doanh: Năm 2016 tăng so với 2015 là 339 người, tương ứng tốc độ tăng
14,10%; năm 2017 tăng với 2015 là 474 người, tương ứng tốc độ tăng
19,72%. Và cụ thể khối doanh nghiệp nhà nước: năm 2016 tăng so với 2015
là 288 người, tương ứng tốc độ tăng 13,93%; năm 2017 tăng với 2015 là 355
thêm nguồn lao động.
60
người, tương ứng tốc độ tăng 17,67%. Vì số NLĐ phải tham gia BHXH là
tăng do làn sóng thu hút đầu tư từ phía ủy ban nhân dân tỉnh, đường xá ổn
định tạo điều kiện giao thông thuận lợi nên lực lượng lao động ở các tỉnh lân
cận được thu hút về đây làm việc trong các doanh nghiệp, mặt khác do sự
chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ diễn ra
nhanh chóng, nên số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH trên địa bàn
tỉnh đã tăng mạnh [4]
Khối Đảng, Đoàn có tỷ trọng số lao động đã tham gia cao nhất và
cũng là khối có biến động tăng nhiều nhất, cụ thể: năm 2016 tăng so với
2015 là 3451 người, tương ứng tốc độ tăng 14,42%; năm 2017 tăng với
hút đối tượng tham gia BHXH của Đảng và Nhà nước ta. Khối này có tỷ lệ
2015 là 4567 người, tương ứng tốc độ tăng 19,09%. đó là do chính sách thu
tăng đều qua các năm.
Khối ngoài công lập có tỷ lệ số lao động đã tham gia đạt 100% vì số
lượng người phải tham gia rất ít nên quản lý đối tượng này đơn giản [4].
Khối phường, xã, thị trấn cũng có số lao động đã tham gia khá cao và
tăng khá nhiều, cụ thể: năm 2016 tăng so với 2015 là 402 người, tương ứng
tốc độ tăng 14,89%; năm 2017 tăng với 2015 là 527 người, tương ứng tốc độ
tăng 19,52%.Đó địa bàn tỉnh ổn định đường xá, nhều tuyến đường được hoàn
thành tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh tế phát triển [4].
Các khối còn lại là khối hợp tác xã và khối hộ sản xuất kinh doanh cá
tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu.
- Về công tác thu, chi của BHXH thai sản:
Công tác thu BHXH là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của
ngành nhằm đáp ứng các yêu cầu về sự tăng trưởng nguồn quỹ BHXH và các
yêu cầu về chi trả các chế độ BHXH, bảo hiểm y tế đối với người lao động.
thể, Tổ hợp tác có số lao động đã tham gia BHXH bắt buộc thấp và chỉ chiếm
61
Về cơ bản, công tác thu BHXH ở Tỉnh Hà Giang hiện nay được tiến hành như
sau: Xác định mục tiêu cơ bản của ngành là không ngừng mở rộng và phục vụ
đối tượng tham gia, thụ hưởng các chế độ BHXH, bảo hiểm y tế. Trong đó có
công tác thu là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đáp ứng các yêu
cầu về sự tăng trưởng quỹ và đảm bảo chi trả các chế độ BHXH, bảo hiểm y
tế đối với người lao động. Vì vậy hàng năm, ngay từ đầu BHXH thành phố đã
tiến hành rà soát chặt chẽ lao động tiền lương, cân đối, giao chỉ tiêu thu cho
các đơn vị và phân công cán bộ chuyên quản phụ trách từng đơn vị, từng khu
vực, thường xuyên bám sát cơ sở, kiểm tra nắm chắc diễn biến tình hình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Đồng thời thực hiện tốt công tác
BHXH, bảo hiểm y tế, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người lao động.
đôn đốc thu gắn liền với việc cấp sổ BHXH, chi trả kịp thời các chế độ
Nhìn chung công tác thu đạt được kết quả tốt, tổng thu BHXH năm sau
cao hơn năm trước. Thực tế thu của BHXH tỉnh trong những năm qua như sau:
Bảng 2.4: Bảng tổng hợp công tác thu BHXH ở tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2015 – 2017
Đơn vị tính: tỷ đồng
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Tổng
thu
Kế hoạch
Thực hiện
TH/KH (%)
Kế hoạch
Thực hiện
TH/KH (%)
Kế hoạch
Thực hiện
TH/KH (%)
Thu
1000
1122
101
1349,2 1244
92,2
1.285 1.323
103
(Nguồn BHXH tỉnh Hà Giang)
Năm 2015, BHXH tỉnh Hà Giang được giao chỉ tiêu thu hơn 1000 tỉ
đồng, tính đến hết tháng 12/2015, toàn tỉnh đã thu được hơn 1122 tỉ, đạt hơn
101% kế hoạch,tăng 3,2% so với năm 2014. Có được kết quả như trên ngay
từ đầu năm BHXH tỉnh Hà Giang đã tổ chức các phong trào thi đua ở các
huyện trên địa bàn tỉnh. Đồng thời ngành đã tăng cường sự phối hợp với các
62
ngành có liên quan, các tổ chức đoàn thể ở địa phương. Trong đó, chú trọng
phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực BHXH, BHYT ở địa
phương như Sở lao động thương binh & xã hội; Sở y tế. Mặt khác đẩy mạnh
tuyên truyền chính sách mới của Đảng và Nhà nước; đôn đốc thu nợ BHXH,
BHYT… và hạn chế phát sinh nợ mới; tăng cường thanh tra kiểm tra nhằm
phát hiện những vi phạm pháp luật về BHXH; vận động người lao động
tham gia BHXH [4].
Năm 2016, tính đến 31/12/2016 đạt hơn 1.244 tỉ đồng tăng 11% so với
cùng kỳ năm 2015, đạt 92,2% so với kế hoạch đề ra. Nợ BHYT, BHBB tính
đến 31/12/2016,ước tính ở mức thấp khoảng 18 tỉ đồng chiếm 1,5% số phải
kỳ năm 2015…với tổng số chi trả khoảng 705.000.000 đồng người hưởng bảo
thu. Tổng số chi ước thực hiện năm 2016 gần 1.200 tăng 24,3 % so với cùng
hiểm xã hội thai sản cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Hà Giang tăng sấp sỉ
1,14% so vơi cùng kỳ năm 2015.
Năm 2017, tính đến 31/12/2017 đạt 1.323 tỷ đồng, tăng 142 tỷ đồng
(tăng 11,99%) so với cùng kỳ năm 2016; đạt 103% so với dự toán BHXH
Việt Nam giao (1.285 tỷ đồng); công tác rà soát và bàn giao sổ BHXH cho
người lao động, đạt tỷ lệ 92,74% so với tổng số sổ BHXH phải bàn
giao; đã hoàn thành 100% việc cấp mã số BHXH; [4]
Nguyên nhân là do số lượng người được nhận chế độ thai sản tăng,
mức sống của người lao động ngày càng được nâng cao để phù hợp với điều
BHXH cũng tăng và khi trợ cấp mức trợ cấp cũng sẽ tăng theo. Mặt khác,
dịch vụ y tế, thuốc men cũng tăng giá nhiều so với trước vì thế mà mức trợ
cấp cũng tăng để hỗ trợ đủ cho người lao động nghỉ thai sản nhanh chóng
phục hồi sức khoẻ để tiếp tục làm việc. Công tác chi trả các chế độ thai sản tại
Tỉnh Hà Giang được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm bảo ổn định đời sống
kiện thực tế mức lương tối thiểu của người lao động tăng dẫn đến số thu
63
cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản.
Thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của Ngành, BHXH toàn tỉnh đã chi
trả kịp thời, đầy đủ các chế độ liên quan đến BHXH, BHTN, BHYT cho các
đối tượng tham gia. Công tác chi trả chế độ thai sản được chỉ đạo chặt chẽ,
kịp thời đã đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động được hưởng chế độ
thai sản toàn Tỉnh Hà Giang nói riêng và người lao động được hưởng chế độ
này nói chung trên phạm vi cả nước.
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp công tác chi BHXH thai sản ở tỉnh Hà Giang
giai đoạn 2015 – 2017
Đơn vị: Triệu đồng
Năm
2015
2016
2017
Trợ cấp
632.000.000
705.000.000
608.728.000
thai sản
(Nguồn BHXH tỉnh Hà Giang)
Về thủ tục giải quyết và công tác quản lý chế độ thai sản:
Công tác cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến tích cực,
hạn chế đến mức thấp nhất hồ sơ trễ hẹn.
Trong năm 2016, ngành BHXH thành phố tiếp nhận 213.185 lượt hồ
sơ, tăng 10,19% so với năm 2015 lượt hồ sơ theo phiếu hẹn. Thực hiện việc
tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết thủ tục hành chính qua dịch vụ
chuyển phát bưu chính (không giao nhận tại cơ quan BHXH) toàn ngành đã
BHXH, BHYT, BHTN, cấp sổ BHXH, cấp thẻ BHYT, có 1850 đơn vị sử
dụng lao động/tổng số 2000 đơn vị sử dụng lao động phát sinh giao dịch hồ sơ
điện tử, đạt tỷ lệ 92,5% [4].
Trong năm 2017, BHXH tỉnh Hà Giang ước tính giải quyết 4.303 hồ sơ
hưởng các chế độ BHXH; thực hiện quyết toán chế độ ốm đâu, thai sản,
tiếp nhận. Triển khai thực hiện giao dịch hồ sơ điện tử trong lĩnh vực thu
64
dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho 4.210 lượt người, trong đó trợ cấp ốm đau
là 1366 lượt, trợ cấp thai sản 2.566 lượt người, trợ cấp dưỡng sức phục hồi
sức khỏe 278 lượt [4].
Thông qua giao dịch hồ sơ điện tử và dịch vụ chuyển phát bưu điện đã
góp phần rút ngắn thời gian giao dịch về BHXH, BHYT đối với các đơn vị sử
dụng lao động, đồng thời với việc tiết kiệm chi phí đi lại của các đơn vị theo
đúng tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.(đăng ký giao dịch điện tử
1850/2000 doanh nghiệp đăng ký tham gia)
Công tác quản lý về chế độ thai sản được tăng cường trong sự phối hợp
chặt chẽ, đồng bộ và trách nhiệm của các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể trong
Nhận thức về trách nhiệm và tính tuân thủ pháp luật về chế độ thai sản của
quá trình xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn Luật bảo hiểm xã hội.
người lao động đã có chuyển biến tích cực.
Công tác giải quyết chế độ chế độ thai sản cho người lao động từng
bước được đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin, thực hiện cải cách
hành chính. Hiện nay, người lao động làm việc tại thành phố Tỉnh Hà Giang
khi đóng bảo hiểm đều có sổ bảo hiểm, các chế độ thai sản chi trả cho người
lao động đều được thực hiện rõ ràng, đúng theo quy định pháp luật. Các
trường hợp lao động chưa hiểu rõ về chế độ mình được hưởng, hay các thủ
tục thực hiện để hưởng chế độ đều được các cán bộ chuyên môn chỉ dẫn nhiệt
tình, cụ thể, không có việc gây khó khăn cho lao động. Điều này đã tạo niềm
tượng tham gia bảo hiểm xã hội nói chung, trong đó có chế độ thai sản.
Ngành BHXH thành phố chú trọng xây dựng đội ngũ CBCCVC vừa
"hồng" vừa "chuyên" theo 5 chuẩn mực đạo đức của ngành BHXH Việt Nam.
Trong những năm gần đây, BHXH Tỉnh Hà Giang đã đẩy mạnh công tác cải
cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, đào tạo nâng cao chất
tin cho người lao động vào chế độ hiểm thai sản và ngày càng có nhiều đối
65
lượng đội ngũ CBCCVC nhằm phục vụ tốt đối tượng tham gia và thụ hưởng
chính sách BHXH, BHYT. BHXH thành phố từng bước thực hiện phân cấp
quản lý cho BHXH các huyện nhằm tạo sự thuận lợi và giải quyết tốt nhất
BHXH cho các đối tượng.
2.2.2.2. Một số hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn thi hành pháp luật
BHXHTS ở tỉnh Hà Giang và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm
thai sản ở bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang thời gian qua vẫn còn tồn tại hạn
chế trong thực tiễn thi hành pháp luật BHXHTS ở tỉnh Hà Giang.
Một là, về đối tượng tham gia bảo hiểm thai sản.
còn hạn hẹp. Nhiều đối tượng thuộc diện tham gia BHXH nhưng lại không
Đối tượng tham gia BHXH nói chung và BHXH thai sản nói riêng vẫn
tham gia BHXH. Bên cạnh đó, việc quản lý đối tượng hưởng các chế độ
BHTS tại các huyện trên địa bàn tỉnh hiện nay vẫn còn gặp những khó khăn
như tình trạng thông tin đối tượng tham gia không khớp với hồ sơ, chứng
minh nhân dân và hộ khẩu.
Hai là, về chi trả bảo hiểm thai sản: Nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai
thông tin về lao động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt
buộc. Từ đó xuất hiện tình trạng rất nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của
pháp luật cũng như sự thiếu hiểu biết về BHXH thai sản của người dân trên
địa bàn đã thành lập các công ty ma, khai khống thông tin nhân viên có trong
mang bầu tới tháng thứ hai, sẽ có người đến hỏi thăm và gợi ý chỉ cần làm
theo hướng dẫn của họ, tới khi sinh sẽ được 2 triệu đồng. Khi em bé được 1
tuổi, sẽ được hỗ trợ thêm 1 triệu đồng nữa. Mọi chi phí BHXH, BHYT, bảo
hiểm thất nghiệp thì công ty sẽ lo. Với thủ đoạn này, rất nhiều người dân tộc
trên địa bàn nhanh chóng nghe theo vì nghĩ bỗng nhiên trở thành người của
công ty, lừa lấy thông tin của các thai phụ với thủ đoạn: những thai phụ mới
66
công ty, chẳng phải đi làm ngày nào, khi sinh đẻ lại được tiền…
Ba là Về công tác thu BHXH: Công tác thu BHXH còn tồn tại một số
hạn chế: Có nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc chưa
được tham gia BHXH có chủ sử dụng lao động trốn nộp.
Đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là lao động trong khu vực nhà
nước, chiếm 87%. Số người tham gia BHXH ngoài khu vực nhà nước chỉ
chiếm khoảng 13% tổng số người tham gia và chiếm khoảng 20% tổng lao
động ngoài khu vực nhà nước.
Tình trạng nợ đọng dù giảm nhiều những vẫn là một tồn tại lớn, theo số
liệu thống kê của BHXH tỉnh Hà Giang, hiện nay trên địa bàn có trên 1.400
Ví dụ như: Công ty Cổ phần Giao thông xây dựng số I - doanh nghiệp
đơn vị SDLĐ nợ đọng bảo hiểm 37 tỷ đồng.
đã có những bứt phá ngoạn mục, vươn lên mạnh mẽ sau cổ phần hóa, tham
gia thi công nhiều gói thầu lớn trong và ngoài tỉnh. Cùng với sự vươn lên,
khẳng định vị thế trên thương trường, doanh nghiệp này cũng nổi tiếng về nợ
đọng bảo hiểm với con số đội sổ, trên 3,372 tỷ đồng, cao nhất trong số những
con nợ khó đòi của BHXH tỉnh. Trong đó, số tiền nợ BHXH gần 2,5 tỷ đồng,
BHYT trên 264 triệu đồng, Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) trên 127 triệu
đồng, tiền tính lãi trên 500 triệu đồng, đồng thời doanh nghiệp đã dừng tham
gia các loại bảo hiểm cho người lao động từ tháng 1.2013. Nhằm xử lý món
nợ khó đòi, cơ quan BHXH đã nhiều lần làm việc nhưng không mang lại kết
doanh gặp nhiều khó khăn, tỉnh còn nợ tiền xây dựng cơ bản chưa trả nên
không có tiền đóng bảo hiểm. Một cán bộ nghiệp vụ BHXH tỉnh cho biết
thêm, qua các đợt kiểm tra, trên bảng lương của người lao động đều thể hiện
khoản tiền bảo hiểm các loại, nhưng doanh nghiệp không nộp về cơ quan
BHXH tỉnh, đây thực sự là một biểu hiện lạm dụng tiền bảo hiểm.
quả, lãnh đạo doanh nghiệp viện nhiều lý do như hoạt động sản xuất kinh
67
Trong danh sách các doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm được liệt vào
dạng khó đòi, có sự góp mặt của Công ty Cổ phần Xi - măng Hà Giang với số
tiền trên 921 triệu đồng, gồm tiền BHXH gần 724 triệu đồng và gần 135 triệu
đồng tiền lãi; Công ty TNHH Đức Sơn nợ 17 tháng bảo hiểm của 13 lao động
với số tiền trên 334 triệu đồng; Công ty TNHH Ngọc Quế Lâm nợ 58 tháng
với số tiền gần 286 triệu đồng; Công ty Cổ phần Nông lâm nghiệp Bình Minh
3 nợ bảo hiểm 19 tháng của 9 lao động với số tiền trên 216 triệu đồng... Một
số đơn vị hành chính sự nghiệp như UBND xã Bằng Lang (Quang Bình) cũng
nợ trên 83 triệu đồng tiền bảo hiểm của 24 cán bộ, công chức.
Theo Phó Giám đốc BHXH tỉnh Mai Quang Hùng, hiện còn nhiều đơn
dụng số tiền phải đóng làm vốn kinh doanh [44; 45; 50]
vị SDLĐ chưa thực hiện tốt việc đóng, nộp tiền bảo hiểm hàng tháng, còn lạm
Bốn là, về điều kiện cơ sở vật chất của một số cơ quan bảo hiểm xã hội
trên địa bàn tỉnh, còn chưa được đầu tư, thiết bị như máy tính, máy in, máy
photo… phục vụ cho công tác xử lý hồ sơ còn thiếu và có dấu hiệu xuống
cấp. Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ,
thiếu kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thảo đáng cho những
đơn vị, các nhân thực hiện tốt công tác BHXH.
Năm là, Một số viên chức còn ngại khó, chưa thực sự có tinh thần trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, đặc biệt với các công việc có yêu cầu đổi
mới, xuất hiện tình trạng bảo thủ không tiếp thu công nghệ mới nên tiến độ
không thống trong việc áp dụng pháp luật; Trình độ của cán bộ, công nhân
viên chức trong BHXH tỉnh Hà Giang vẫn còn bất cập. Đa số là các cán bộ
thuộc ngành khác chuyển sang, chưa nắm vững được công tác BHXH, BHXH
tỉnh còn thiếu cán bộ, một cán bộ phải đảm đương nhiều công việc dẫn đến
hiệu quả công việc chưa cao. Cá biệt còn có viên chức lợi dụng danh nghĩa
công việc còn chậm; còn tình trạng lúng túng khi áp dụng pháp luật cũng như
68
cán bộ BHXH để trục lợi, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, phải xử lý kỷ luật.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Những tồn tại, hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Về phía các chủ thể tham gia BHXH
Nguyên nhân chủ yếu là dân cư trên địa bàn tỉnh Hà Giang hầu hết là
người dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp nên còn thiếu hiểu biết về pháp
luật BHXH cũng như về quyền lợi mà mình được hưởng theo quy định. NLĐ
làm việc trong khu vực này chủ yếu là lao động phổ thông, phần lớn họ đều
chưa qua đào tạo nghề, tay nghề thấp, thường xuyên thay đổi nơi làm việc nên
dẫn đến việc nhiều lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng
tuyên truyện vận động họ tham gia BHXH gặp rất nhiều khó khăn. Điều này
lại không tham gia hoặc thỏa thận với NSDLĐ để nhận tiền mặt thay vì đóng
vào quỹ BHXH. Nhất là, nhiều NSDLĐ cố tình khai báo sai thông tin về lao
động tại đơn vị để thu hẹp số lượng lao động đóng BHXH bắt buộc.
Thêm vào đó, hầu hết các giấy tờ tùy thân của người dân tộc thiểu số đã
cũ nát, người dân không có ý thức giữ gìn giấy tờ tùy thân của mình hoặc do
cán bộ xã làm giấy tờ còn sai lệch nhiều. Trong khi đó, số lượng đối tượng
hưởng chế độ BHTS lại đông, thuộc nhiều trường hợp khác nhau dẫn đến
không tránh khỏi sai sót, chậm trễ trong khâu giải quyết, chi trả chế độ.
- Về phía NSDLĐ
chưa có sự hiểu biết một cách thấu đáo pháp luật về BHXH nên nhiều
NSDLĐ đã chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi BHXH của NLĐ, chưa ý
thức được trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ. Nhiều doanh nghiệp ngoài
quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn hoặc có những hoạt động yếu kém
vì thế chưa bảo vệ được quyền lợi về BHXH cho NLĐ. Hơn nữa là
Do chưa nhận thức được hết vai trò ý nghĩa của BHXH cũng như
69
NSDLĐ thường đặt mục tiêu kinh tế, lợi nhuận lên hàng đầu nên đã trốn
tránh trách nhiệm đóng BHXH theo đúng luật quy định, không quan tâm
đến quyền lợi của người lao động.
- Về phía cơ quan nhà nước
Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Giang tuy đã đạt được những kết quả nhất
định trong công tác quản lý quỹ BHXH (như đã phân tích ở trên).Tuy nhiên, ở
góc độ nào đó thì việc quản lý này chưa thực sự hiệu quả. Tình trạng nợ đọng
BHXH vẫn còn tồn tại. Đây là món nợ khó đòi, nguyên nhân là do một số
doanh nghiệp không có khả năng đóng bảo hiểm do gặp khó khăn trong sản
xuất, kinh doanh, làm ăn thua lỗ. Bên cạnh những đơn vị khó khăn thực sự,
bảo hiểm, cố tình chống đối, không đóng nộp tiền BHXH, BHYT, BHTN cho
rất nhiều đơn vị cố tình thoái thác trách nhiệm, có biểu hiện chiếm dụng tiền
người lao động với lý do Nhà nước còn nợ tiền các công trình nên chưa thực
hiện nghĩa vụ với người lao động. Các đơn vị nợ đọng tiền bảo hiểm, đồng
nghĩa với việc người lao động sẽ không được thanh toán chế độ khi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động. Chính sự gây nợ đọng đó đã gây khó khăn và thiệt
thòi cho người lao động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội.
Công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH tỉnh Hà Giang cũng như
các phòng ban, ngành chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh
doanh, tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất
là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập. Có những doanh nghiệp
sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng kí, giả thể sau khi thành lập
và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động...Cũng
không cơ quan quản lý nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những
doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu
cầu người sử dụng lao động thực hiện chính sách BHXH cho người lao động
ngoài quốc doanh có đăng kí thành lập trên địa bàn huyện nhưng không có trụ
70
theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ đảm bảo.
Thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật BHXH cho NLĐ và
NSDLĐ còn chưa rộng rãi, chưa thường xuyên. Bên cạnh đó nội dung và
hình thức tuyên truyền còn khô cứng chưa thu hút được sự quan tâm của đại
đa số nhân dân.
- Về quy định của pháp luật
Về quy định của pháp luật gây khó khăn và thiệt thòi cho người lao
động khi giải quyết hưởng chế độ Bảo hiểm xã hội thai sản. Đa số các quy
định về vấn đề đối tượng hưởng trợ cấp thai sản, điều kiện hưởng, thời gian
nghỉ và mức trợ cấp hưởng được đánh giá là có sự tiến bộ vượt bậc so với
đời sống vật chất tinh thần cho NLĐ nữ trong giai đoạn thai sản. Tuy nhiên,
pháp luật cũ, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước trong việc chăm lo
bên cạnh đó một số các quy định của pháp luật hiện hành về BHXHTS vẫn
còn bất cập, thiếu tính khả thi dẫn đến việc áp dụng pháp luật còn có những
khó khăn vướng mắc như hạn chế nhất định như quy định về thời hạn giải
quyết quyền lợi BHXHTS cho NLĐ quá ngắn khiến thực tế NSDLĐ không
thực hiện được nên có sự vi phạm; quy định lao động nam tham gia BHXH có
vợ sinh con được hưởng chế độ nhưng trong thông tư số 14/2016/TT-BYT
ngày 12/5/2016 quy định giấy chứng sinh không ghi tên cha nên khó xác định
việc tham gia BHXH của người vợ trong trường hợp lao động nam hưởng trợ
cấp một lần khi vợ sinh con. Hay các cá nhân lợi dụng kẻ hở của chính quyền
sinh hoặc Giấy chứng sinh bản sao và thực hiện lập hồ sơ giả mạo đề nghị cơ
quan BHXH thanh toán tiền trợ cấp thai sản; mức xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi nợ đọng BHXH cũng không cao nên chưa đảm bảo tính răn đe
khiến các doanh nghiệp vẫn vi phạm.
71
địa phương trong việc chứng thực các văn bản giấy tờ để làm giả Giấy khai
Kết luận Chương 2
Như vậy, với các nội dung trình bày trên đây, có thể thấy Luật BHXH
2014 đã có những bước tiến để kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật
về CĐTS. Đánh giá khi so sánh với pháp luật quốc tế cũng như quy định của
ILO, hệ thống pháp luật về CĐTS tại Việt Nam có những ưu việt, cụ thể như:
Luật bổ sung quy định lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con
được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản 5 ngày làm việc đối với trường hợp
sinh thường và 7 ngày làm việc đối với trường hợp sinh con phải phẫu thuật,
sinh con dưới 32 tuần tuổi; 10 ngày làm việc nếu sinh đôi và từ sinh ba trở lên
sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.
thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 3 ngày làm việc; 14 ngày làm việc nếu
Sửa đổi điều kiện hưởng BHXH thai sản trong trường hợp lao động nữ
có thời gian đóng BHXH từ đủ 12 tháng nhưng vì lý do thai không bình
thường phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh có thẩm quyền thì chỉ cần bảo đảm điều kiện đóng BHXH từ đủ 3 tháng
trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.
Đồng thời, sửa đổi thời gian lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ khi
sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi. Bổ sung trường hợp lao động
nam nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được hưởng BHXH giống như lao
động nữ nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi.
tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con thì cha hoặc người trực tiếp
nuôi dưỡng được nghỉ việc hưởng BHXH thai sản đối với thời gian còn lại
của người mẹ.
Nếu mẹ đóng BHXH bắt buộc nhưng chưa đủ thời gian đóng BHXH
theo quy định mà chết thì cha hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng được nghỉ việc
Đối với trường hợp chỉ có mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều
72
hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.
Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH mà mẹ chết sau khi sinh con
hoặc gặp rủi ro sau khi sinh mà không có đủ sức khỏe để chăm sóc con có xác
nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh theo thẩm quyền thì người cha được
nghỉ việc hưởng BHXH thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.
Trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH khi vợ sinh con thì cha được
trợ cấp một lần bằng 2 lần mức lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con;
tăng thêm 1 tháng cho thời gian lao động nữ nghỉ thai sản trong trường hợp
con dưới 2 tháng tuổi bị chết sau khi sinh.
Bổ sung quy định BHXH thai sản của lao động nữ mang thai hộ và người
Nhìn chung, công tác bảo hiểm thai sản tại địa bàn đã được thực hiện
mẹ nhờ mang thai hộ theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi).
một cách nghiêm chỉnh và đạt được nhiều kết quả tích cực. Đối tượng tham
gia bảo hiểm xã hội bắt buộc có xu hướng tăng qua các năm. Việc chi trả chế
độ thực hiện một cách đầy đủ, đúng đối tượng, đúng thời gian. Công tác thu
quỹ bảo hiểm, thu hồi nợ được triển khai một cách sát sao.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm thai sản tại
địa bàn vẫn gặp phải một số khó khăn nhất định. Các khó khăn này chủ yếu
xoay quanh vấn đề như việc doanh nghiệp trốn đóng bảo hiểm, chậm đóng
bảo hiểm; thủ tục hành chính còn chưa linh hoạt, thiếu chặt chẽ. Nguyên nhân
dẫn đến những hạn chế này một phần do quy định của pháp luật còn hạn chế,
việc nhận thức quyền và nghĩa vụ của mình.
73
một phần do chính ý thức của người lao động, người sử dụng lao động trong
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THAI SẢN Ở TỈNH HÀ GIANG
3.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội thai sản
3.1.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về BHXHTS
Chế độ bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao
động nữ nói chung, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng
làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Trong
được coi là chế độ bảo hiểm đặc thù, nhằm đảm bảo thu nhập và sức khoẻ cho
các quy định riêng về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, bảo hiểm thai sản
lao động nữ khi mang thai, sinh con và nuôi con nuôi sơ sinh. Với tầm quan
trọng như vậy, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản cần phải đáp ứng
các yêu cầu sau:
Thứ nhất, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản cần phải khắc
phục ngay những bất cập của pháp luật về bảo hiểm thai sản.Trong quá
trình thực hiện trên thực tế, pháp luật bảo hiểm thai sản khó tránh khỏi
những hạn chế và vướng mắc, gây khó khăn cho các chủ thể áp dụng.
Chính vì thế, các quy định này cần phải được khắc phục một cách sớm nhất
và nhanh nhất để tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức có quyền và
quy định bất cập có thể gây ra.
Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản phải được đặt
trong mối tương quan với việc hoàn thiện quy định về các chế độ khác của
bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm thai sản là một chế độ của bảo hiểm xã hội bắt
buộc, do đó những thay đổi liên quan đến bảo hiểm thai sản cũng cần được
nghĩa vụ liên quan cũng như giảm thiểu tối đa những hệ quả không tốt mà
74
đặt trong mối tương quan với các chế độ khác của bảo hiểm xã hội. Nếu
những quy định về bảo hiểm thai sản thay đổi mà chỉ phù hợp với riêng chế
độ này mà gây ảnh hưởng tới các chế độ khác trong hệ thống bảo hiểm xã hội
hoặc là gây ảnh hưởng tới việc phân bổ nguồn quỹ và chi trả chế độ bảo hiểm
thì việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản không đáp ứng được mục đích
đề ra như ở trên. Việc hoàn thiện quy định bảo hiểm thai sản được đặt trong
mối tương quan với việc hoàn thiện các quy định về các chế độ khác của bảo
hiểm xã hội cũng góp phần hoàn thiện một cách tổng thể các quy định của
Luật BHXH, nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao tính phù hợp của
quy định đối với đời sống thực tế.
điều kiện kinh tế-xã hội và bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Pháp luật có
Thứ ba, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản phải phù hợp với
vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội, mà các quan hệ xã hội này lại chịu sự
tác động của điều kiện kinh tế-xã hội. Vì vậy, muốn điều tiết được các quan
hệ xã hội này, pháp luật cần phải thể hiện được mối tương quan phù hợp với
những điều kiện kinh tế-xã hội mà pháp luật sẽ điều chỉnh. Pháp luật bảo
hiểm thai sản thể hiện được sự phù hợp với các quy luật phát triển của kinh
tế-xã hội sẽ làm tăng tính khả thi và hiệu quả thực hiện, từ đó góp phần thúc
đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển của kinh tế-xã hội. Ngược lại, nếu
pháp luật không có sự phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội sẽ dẫn đến tính
bất khả thi của quy định trên thực tế, thậm chí có thể gây cản trở hay gây ra
hiểm thai sản phải thể hiện được sự phù hợp với đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là, pháp luật bảo
hiểm thai sản phải thực hiện được đúng chức năng và vai trò của mình trong
việc hỗ trợ đời sống của người lao động, thể hiện được sự quan tâm của Nhà
nước đối với nhân dân của mình. Không chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế-
những thiệt hại nhất định cho sự phát triển chung của xã hội. Pháp luật bảo
75
xã hội, việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thai sản còn cần phù hợp với bối
cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Trong xu hướng hội nhập và hợp tác hiện
nay, pháp luật quốc gia về bảo hiểm thai sản cần tuân thủ theo những công
ước, điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết, tham gia. Pháp luật bảo hiểm
thai sản cần được xây dựng và hoàn thiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật quốc tế, cũng như cần học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm từ
các quốc gia khác trên thế giới. Có như vậy, pháp luật bảo hiểm thai sản mới
nâng cao được tính phù hợp với xu thế phát triển chung cũng như nâng cao
hiệu quả áp dụng vào thực tế.
3.1.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
càng nặng nề và cấp bách. Bất kỳ nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa
Khi nền kinh tế càng phát triển, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống BHXH
nhận rằng sự nghèo khổ của người dân do ốm đau, tai nạn rủi ro, thất nghiệp,
tật nguyền bẩm sinh... gây ra không chỉ là trách nhiệm của bản thân cá nhân,
của gia đình họ mà còn là trách nhiệm của Nhà nước và của cộng đồng xã hội.
Trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, hệ thống an sinh xã hội mà cốt lõi là
BHXH càng có ý nghĩa đặc biệt, sự hoạt động có hiệu quả của hệ thống an
sinh xã hội, BHXH không chỉ đáp ứng yêu cầu phát triển và phù hợp với xu
hướng chung của thời đại, mà còn thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội, chính trị.
Luật BHXH năm 2014 ra đời đánh dấu bước phát triển theo hướng
bật có thể nhận thấy là việc mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng nhằm bao
quát toàn bộ lực lượng lao động trong xã hội, nâng cao quyền lợi cho NLĐ
trong mối tương quan công bằng, hoàn thiện về quản lí và tổ chức BHXH
theo hướng hiện đại. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vẫn còn một số bất
cập cần hoàn thiện. Thiết nghĩ, cần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện một số quy
hoàn thiện hơn về chính sách, chế độ BHXH ở Việt Nam. Những ưu điểm nổi
76
định sau đây về BHXHTS.
Thứ nhất, về điều kiện hưởng chế độ bảo hiểm thai sản: Nhà nước
Cần xem xét việc áp dụng chế độ thai sản đối với đối tượng tham gia bảo
hiểm xã hội tự nguyện. Hiện nay, bảo hiểm xã hội tự nguyện chỉ áp dụng
chế độ hưu trí và chế độ tử tuất. Tuy nhiên, với dân số hơn 854.679 người
mà tỷ lệ số dân nằm trong độ tuổi sinh nở chiếm phần lớn, trong tình hình
kinh tế tại địa bàn còn gặp những khó khăn nhất định, phần lớn dân cư làm
nông nghiệp, cuộc sống tự cung tự cấp, đặc biệt trong vấn đề việc làm, dẫn
đến đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thấp. Bảo hiểm xã hội tự
nguyện là một hình thức nhằm khuyến khích và tạo cơ hội cho những đối
không áp dụng chế độ thai sản đối với nhóm đối tượng tham gia bảo hiểm xã
tượng này được hưởng những chính sách an sinh xã hội tốt. Tuy nhiên, việc
hội tự nguyện đang phần nào làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của Nhà nước
khi mục đích chính của chế độ bảo hiểm thai sản là bảo vệ sức khỏe của
người mẹ lẫn người con, để đầu tư cho nguồn nhân lực có chất lượng trong
tương lai. Chưa kể đến việc, những người tham gia bảo hiểm xã hội tự
nguyện cũng có nhu cầu được tham gia và được thụ hưởng chế độ thai sản.
Bởi thế, các cơ quan có thẩm quyền nên xem xét, đánh giá nhu cầu cũng như
nghiên cứu phương án áp dụng chế độ thai sản đối với nhóm đối tượng tham
gia BHXH tự nguyện nhằm đáp ứng được nhu cầu của người dân cũng như
hoàn thiện hơn ý nghĩa nhân văn và mục đích bao phủ chế độ an sinh xã hội
Thứ hai, chế độ BHXHTS theo quy định của pháp luật hiện nay chủ
yếu chỉ bao gồm chế độ trợ cấp nhằm bù đắp thu nhập cho NLĐ trong thời
gian họ bị giảm hoặc mất thu nhập do thai sản chứ chưa có quy định về chăm
sóc y tế cho NLĐ nữ trước và sau sinh cũng như khi xảy ra các sự kiện thai
sản. Tuy nhiên, chế độ trợ cấp chăm sóc y tế được đánh giá là một phần quan
đến tất cả mọi người, không phân biệt đối tượng.
77
trọng trong tập hợp những trợ cấp cần thiết cho NLĐ nữ khi họ mang thai,
sinh, nuôi con. Theo thông lệ quốc tế, vấn đề này cũng được pháp luật các
quốc gia quan tâm, chú trọng. Việc chỉ áp dụng chung quy định hưởng trợ cấp
chăm sóc y tế theo diện hưởng và phạm vi hưởng BHYT theo Luật BHYT
như ở Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý vì nhiều khi chưa bao quát được tất
cả các trường hợp liên quan đến thai sản và có sự không thống nhất với Luật
BHXH. Theo Luật BHXH, lao động nữ khi nạo hút thai được nghỉ việc hưởng
chế độ bảo hiểm thai sản nhưng theo Luật BHYT thì trong trường hợp này lao
động nữ lại không được hưởng BHYT (trừ trường hợp theo chỉ định của thầy
thuốc) khiến quyền lợi của NLĐ nữ trong suốt quá trình thai sản không được
chế độ bảo hiểm thai sản hoàn thiện làm cơ sở pháp lý vững chắc nhằm bảo
bảo đảm. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cần có một
vệ lao động nữ [14]
Thứ ba, quy định lao động nam tham gia BHXH có vợ sinh con được
hưởng chế độ nhưng trong thông tư số 14/2016/TT-BYT ngày 12/5/2016 quy
định giấy chứng sinh không ghi tên cha nên khó xác định việc tham gia BHXH
của người vợ trong trường hợp lao động nam hưởng trợ cấp một lần khi vợ sinh
con. Vì vậy, cần thay đổi quy định của pháp luật để phù hợp với thực tế, tạo
điều kiện thuận lợi trong quá trình giải quyết bảo hiểm xã hội cho NLĐ.
Thứ tư, cần điều chỉnh mức trợ cấp một lần cho phù hợp theo hướng
nâng cao mức trợ cấp nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi... sẽ được hưởng trợ cấp 1 lần. Mức trợ
cấp cho mỗi con bằng 2 lần mức lương cơ sở. Mục đích của trợ cấp này là để
hỗ trợ cho NLĐ mua đồ cho con khi sinh (như sữa, quần áo, tã lót...). Tuy
nhiên, thực tế cho mấy mức trợ cấp này là quá thấp, không đủ để hỗ trợ cho
NLĐ trong việc mua bán các đồ dùng sinh hoạt cho con khi sinh khiến lao
Theo Điều 38 Luật BHXH năm 2014, đối với lao động nữ sinh con, NLĐ
78
động nữ gặp khó khăn trong việc chăm sóc, đảm bảo những điều kiện cơ bản
dành cho con sơ sinh. Đặc biệt là ở các thành phố lớn, điều kiện sinh hoạt hết
sức đắt đỏ, càng khiến lao động nữ gặp khó khăn nhất là trong các khu công
nghiệp. Bên cạnh đó, quỹ BHXHTS trên thực tế cũng chưa bao giờ chi hết
quỹ. Do đó thiết nghĩ, cần điều chỉnh mức trợ cấp 1 lần theo hướng nâng cao
mức trợ cấp nhằm tạo cho NLĐ có điều kiện chăm sóc trẻ tốt hơn.
Thứ năm, nghiên cứu và bổ sung thêm các quy định về trường hợp
mang thai hộ cho phù hợp với thực tiễn. Mang thai hộ là vấn đề mới được quy
định trong Luật BHXH năm 2014, phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình.
Quy định này mang tính nhân văn sâu sắc bởi đã mở ra niềm hy vọng cho các
lao động nữ sinh con khác, pháp luật BHXHTS không giới hạn số lần sinh
cặp vợ chồng không có khả năng sinh con. Cũng giống như những trường hợp
con của người mang thai hộ. Điều này cũng là phù hợp với mục đích của an
sinh xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế có thể có những tình trạng lạm dụng việc
này. Chẳng hạn như lao động nữ xem việc mang thai hộ như là một "nghề" thì
việc không giới hạn số lần hưởng BHXHTS khi sinh con đó sẽ không còn hợp
lý nữa. Vì vậy thiết nghĩ các nhà làm luật cần nghiên cứu thêm về các vấn đề
như có hay không giới hạn những lần mang thai, những lần sinh con của
người mang thai hộ.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
bảo hiểm xã hội thai sản ở tỉnh Hà Giang
3.2.1. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thai sản
Hà Giang là một tỉnh nghèo, kết cấu dân số chủ yếu là người dân tộc
thiểu số, trình độ văn hóa thấp, kênh thông tin tiếp cận với BHXH thai sản
còn hạn chế. Vì vậy việc tuyên truyền về BHXH nói chung và BHXH thai sản
nói riêng là vô cùng quan trọng, vừa nâng cao ý thức tuân thu pháp luật của
sách an sinh của Nhà nước được hoàn thiện và phát triển.
79
người dân, giúp họ hiểu rõ về lợi ích của tham gia BHXH, đồng thời chính
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm thai sản được đánh giá là rất cần thiết và quan trọng. Để phấn đấu đạt
được mục tiêu 50% lực lượng lao động tham gia BHXH vào năm 2020 theo
Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày 23/7/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam đến năm 2020
cũng như để đảm bảo quyền lợi cho lao động nữ một cách lớn nhất, công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật cần có những sự thay đổi cả từ cách tiếp cận
đến nội dung, đòi hỏi các cơ quan liên quan phải có sự đầu tư thích đáng. Để
thực hiện tốt công tác này, BHXH tỉnh Hà Giang cần:
hiểm xã hội, bảo hiểm thai sản dành cho người dân. Các chương trình này cần
Thứ nhất, chú trọng việc xây dựng các chương trình tìm hiểu về bảo
được xây dựng một cách đa dạng, phong phú, không gò bó mà phải có sự dễ
hiểu, dễ gần và thân thiện với người dân.
Thứ hai, tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến thông qua
các phương tiện thông tin đại chúng. Trong thời đại công nghệ số, con người
dễ dàng nắm bắt thông tin qua các hình thức công nghệ hiện đại. Chính vì
thế, cần nắm bắt tâm lý này để phổ biến các kiến thức cũng như quy định
pháp luật liên quan đến bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thai sản đến với người
dân. Tùy thuộc vào loại đối tượng, có thể sử dụng những phương thức
truyền thông truyền thống (sách, báo, đài) hay phương tiện truyền thông
tuyên truyền trực tiếp đến các đơn vị đã đăng ký kinh doanh nhưng chưa
tham gia BHXH bắt buộc; cung cấp tờ rơi đến các đơn vị sử dụng lao động,
nơi công cộng. Cần đẩy mạnh những chính sách tuyên truyền, phổ biến các
kiến thức về bảo hiểm xã hội cũng như trách nhiệm thực thi bảo hiểm xã hội
đến mọi địa phương trên địa bàn huyện, như: dành 1 buổi /tuần tuyên truyền
hiện đại (trang tin điện tử, mạng xã hội, điện thoại..). Thực hiện công tác
80
phổ biến chính sách bảo hiểm xã hội trên loa đài phát thanh tại các phường,
tổ dân phố trên địa bàn quận thông qua các hình thức bản tin, mẩu chuyện
vui hoặc chuyên mục hỏi đáp, v.v…
Thứ ba, tuyên truyền và khuyến khích tổ chức công đoàn cơ sở phát
huy vai trò như một cầu nối giữa người sử dụng lao động và người lao động
trong việc tìm ra tiếng nói chung trong các vấn đề liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện trong quan hệ lao động. Đồng thời, công
đoàn có trách nhiệm tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hiểu biết về pháp luật
bảo hiểm cho người lao động.
Thứ tư, người cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến cũng cần
thai sản. Có như vậy, người cán bộ mới có thể tuyên truyền, phổ biến một
nắm rõ những quy định của pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
cách chính xác, đúng đắn tinh thần và quy định của pháp luật cũng như giải
đáp các thắc mắc của người dân.
Thứ năm, việc tuyên truyền, động viên phải gắn với kết quả thu nộp,
giải quyết chế độ chính sách ở cơ quan bảo hiểm xã hội nhằm tạo niềm tin
trong nhân dân để họ thấy được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia
bảo hiểm xã hội.
Đa dạng hóa các cách tuyên truyền pháp luật để người dân dễ dàng tiếp
cận và tuân theo pháp luật. Có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả
như mong muốn, đưa chính sách BHXH đi vào cuộc sống của mọi người lao
động trong xã hội.
3.2.2. Tăng cường sát sao trong công tác thu hồi các khoản nợ BHXH
Nhằm xử lý vấn đề nợ đọng, BHXH tỉnh đã thực hiện nhiều biện pháp
như hàng tháng gửi văn bản đôn đốc các đơn vị SDLĐ đang nợ tiền đóng nộp
bảo hiểm, thông báo số tiền phải đóng trong tháng, số còn nợ các tháng trước,
số tiền tính lãi phạt chậm. Sau 2 lần gửi văn bản đôn đốc, nếu đơn vị SDLĐ
81
vẫn không chấp hành đóng bảo hiểm, BHXH tỉnh cử cán bộ chuyên quản đến
lập biên bản đối chiếu thu, yêu cầu chuyển trả theo đúng quy định. Những
đơn vị cố tình chây ỳ, không đóng, đóng không đủ số người theo quy định, có
thời gian nợ đọng kéo dài, BHXH phối hợp cơ quan chức năng như Kho bạc
Nhà nước, Sở LĐ-TBXH, LĐLĐ tỉnh... thành lập các đoàn kiểm tra, thanh
tra, tổ công tác thu nợ, đôn đốc các đơn vị chấp hành.
Ngoài ra, BHXH tỉnh nên kết hợp với Kho bạc Nhà nước ký kết quy
chế phối hợp thực hiện trích tiền từ tài khoản của đơn vị SDLĐ để nộp tiền
BHXH, BHYT chưa đóng, chậm đóng và tiền lãi phát sinh; ký hợp đồng đại
lý thu BHXH tự nguyện, BHYT của người tự đóng và phát triển người tham
công tác với cục Thuế, Hội LHPN, Hội Nông dân tỉnh... Qua đó, công tác đốc
gia BHXH tự nguyện, BHYT qua hệ thống Bưu điện; ký quy chế phối hợp
thu, thu hồi nợ đã có nhiều chuyển biến, một số doanh nghiệp nợ đọng đã
khắc phục nợ kịp thời.
3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm
Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành từ đầu năm 2016 trong đó
tại Điểm d, Khoản 1, Điều 14 quy định quyền của tổ chức công đoàn trong
việc “Khởi kiện ra Tòa án đối với hành vi vi phạm pháp luật về BHXH gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động (NLĐ), tập thể
NLĐ, theo quy định tại khoản 8 Điều 10 của Luật Công đoàn”. Theo đó, tổ
chức công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện doanh nghiệp nợ, trốn đóng BHXH
Để đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động và gia đình người lao
động trong hiện tại cũng như sau này khi hết tuổi lao động, không để tình
trạng “nhờn luật” trong lĩnh vực thu BHXH rất cần có các chế tài đủ mạnh để
xử lý nghiêm các hành vi cố tình chây ỳ, trốn đóng, nợ dây dưa kéo dài
BHXH. Trong thời gian vừa qua, các chế tài xử lý hành vi trên nhìn chung
từ ngày 01/01/2016.
82
còn nhẹ, chưa đủ sức răn đe; số vụ sai phạm, vi phạm Luật BHXH chưa được
đưa ra xử lý trước pháp luật. Để thực hiện nghiêm quyền khởi kiện ra tòa án
các đơn vị sử dụng lao động vi phạm Luật BHXH cần thiết phải khắc phục
những điểm bất hợp lý, chồng chéo giữa Bộ luật Lao động, Luật BHXH, Luật
Công đoàn và Bộ luật Tố tụng dân sự.
Theo đó cơ quan BHXH có quyền áp dụng biện pháp đó là lập hồ sơ,
chuyển LĐLĐ tiến hành các thủ tục khởi kiện đơn vị SDLĐ cố tình không
đóng nộp bảo hiểm cho người lao động.
Tính đến 15/7/2017, BHXH tỉnh đã hoàn tất hồ sơ và chuyển sang Liên
đoàn Lao động tỉnh Hà Giang 12 doanh nghiệp nợ đóng BHXH kéo dài nhiều
còn nhiều vướng mắc, khó khăn, chưa xử lý được doanh nghiệp cố tình vi
năm để khởi kiện ra tòa án. Tuy nhiên đến thời điểm này công tác khởi kiện
phạm Luật BHXH ra tòa theo quy định. Về trình tự, công đoàn cơ sở phải
đứng ra khởi kiện hoặc ủy quyền khởi kiện cho công đoàn cấp trên. Tuy
nhiên, một thực tế khó khăn hiện nay đó là muốn khởi kiện được doanh
nghiệp cố tình vi phạm pháp luật về đóng BHXH ra Tòa án thì phải được
100% người lao động tại đơn vị đó nhất trí làm đơn yêu cầu, điều này rất khó
xảy ra vì NLĐ lo sợ mất việc làm, ảnh hưởng đến nguồn thu nhập của gia
đình hằng tháng…
Công tác thu BHXH là khâu đầu vào rất quan trọng, trước hết là mục
tiêu ổn định và duy trì các nguồn quỹ, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
Doanh nghiệp cố tình nợ đóng BHXH dây dưa kéo dài vô hình chung họ tự
lấy mất đi chính quyền lợi mà đáng ra người lao động trong đơn vị được
hưởng. Hiện nay, toàn tỉnh Hà Giang có gần 1.400 đầu mối thu, trong đó
doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể là 429 đơn vị. 6 tháng đầu
năm 2017, số đơn vị nợ BHXH, BHYT, BHTN kéo dài từ 03 tháng trở lên là
chính đáng của người lao động khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH.
83
182/429 đơn vị, chiếm tỷ lệ 42,4%. Để thao gỡ nút thắt quan trọng này ngoài
việc xây dựng các chế tài đủ mạnh thì rất cần sự vào cuộc mạnh tay hơn nữa,
quyết liệt hơn nữa từ các cấp, các ngành và chính quyền địa phượng trong
tỉnh, có như vậy về lâu dài mới đảm bảo An sinh xã hội trên địa bàn [51].
Cơ quan thanh tra kịp thời phát hiện những hành vi vi phạm, để từ đó
có biện pháp xử lý phù hợp. Làm tốt công tác thanh tra, kiểm tra, cơ quan có
thẩm quyền đã góp phần loại bỏ được những hành vi đi ngược lại với mục
đích mà bảo hiểm thai sản, tạo điều kiện cho người lao động được hưởng
những quyền mà pháp luật dành cho họ, bảo vệ người lao động trong trường
hợp họ cần được bảo vệ khi người sử dụng lao động làm trái những quy định
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử phạt vi phạm pháp luật về
của pháp luật.
chế độ bảo hiểm thai sản trong nhiệm vụ bảo vệ quyền làm mẹ của lao động
nữ. Cần ban hành quy chế kiểm tra, đánh giá trình độ của thanh tra viên lao
động và có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo trình độ chuyên môn cho họ. Xây
dựng các quy định cụ thể và thống nhất về trình tự thanh tra, ban hành quy
chế kiểm tra, đánh giá chất lượng thanh tra viên định kì và có chế tài xử lí
nghiêm khắc đối với những thanh tra viên vi phạm. Thường xuyên tiến hành
kiểm tra tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản đối với người lao động
tại các địa phương, tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp để kịp thời phát hiện
và chấn chỉnh các vi phạm.
- Đối với Tỉnh Ủy, UBND Hà Giang
Tiếp tục quan tâm, chỉ đạo các Huyện, xã, các Sở, Ban, Ngành đoàn thể
và các cơ quan thông tin tuyên truyền địa phương phối hợp với BHXH Hà
Giang tuyên truyền sâu rộng về các chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà Nước về chế độ chính sách BHXH, BHYT đi đôi với việc chỉ
3.2.4. Tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan
BHXH, BHYT trên địa bàn huyện.
84
đạo các ngành chức năng phối hợp kiểm tra thực hiện chế độ chính sách
- Đối với BHXH Hà Giang
Cần thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo chương trình kế hoạch
của BHXH Việt Nam, BHXH Hà Giang đã đề ra, quan tâm hơn nữa đối với
công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, giải quyết chế độ, quyền lợi cho cán
bộ công chức viên chức kịp thời, đúng quy định. Đánh giá công tác từng cán
bộ khách quan, công bằng tạo bầu không khí dân chủ đoàn kết động viên cán
bộ công chức phát huy trí tuệ, khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Phối hợp với các ngành, các cấp, các cơ quan đơn vị để thực hiện tốt
chính sách BHXH. Tăng cường tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận
Tổ chức tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ công chức, các đơn
thức cho các đối tượng tham gia BHXH, BHYT.
vị sử dụng lao động triển khai thực hiện tốt các Nghị định của Chính phủ, đưa
chính sách BHXH, BHYT đến với mọi người dân.
- Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, tổ chức sơ kết, tổng kết và
định kỳ báo cáo kết quả thực hiện về Ủy ban nhân dân tỉnh theo quy định.
Với các giải pháp như trên hy vọng rằng công tác quản lý đối tượng
tham gia BHXH nói riêng và việc thực hiện chính sách BHXH, BHYT nói
chung sẽ đạt được hiệu quả cao nhất để đưa BHXH, BHYT đến với mọi
người dân trong xã hội như trong chiến lược phát triển BHXH Việt Nam đến
năm 2017 đã đề ra.
Bảo hiểm xã hội tỉnh xây dựng các chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền tại
các huyện, thành phố.
- Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh, Báo Hà Giang: Phối hợp với
- Đề nghị Ủy ban MTTQ tỉnh và các tổ chức đoàn thể:
+ Phối hợp tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT, phát
động phong trào và vận động đoàn viên, hội viên, các tầng lớp nhân dân tích
85
cực tham gia BHXH;
+ Phối hợp với các ngành chức năng giám sát việc tham gia BHXH và
đề xuất các cơ chế, chính sách, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Cục thuế, chi cục thuế huyện, thành phố và Sở kế hoạch đầu tư:
Phối hợp rà soát các doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh và mã số thuế trên
địa bàn, có đang hoạt động trên thực tế không để nhanh chóng phát hiện kịp
thời các doanh nghiệp lợi dụng sự kiểm soát không chặt chẽ dẫn đến tình
trạng trục lợi quỹ BHXH. Công tác này cần sự quan tâm phối hợp trong hệ
thống cơ quan Nhà nước, nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động nói chung và
lao động thuộc đối tượng hưởng BHXH thai sản nói riêng.
+ Chỉ đạo tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến chính sách pháp
- UBND các huyện, thành phố
luật về BHXH tới tất cả cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và các
nhóm đối tượng để người dân hiểu được quyền lợi và trách nhiệm tham gia
BHXH. Đưa mục tiêu, kế hoạch, phát triển đối tượng tham gia BHXH, BHYT
là một chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương hàng năm;
+ Chỉ đạo các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn, UBND các xã, phường,
thị trấn phối hợp chặt chẽ với cơ quan BHXH huyện, thành phố trong tổ chức
thực hiện chính sách BHXH; chỉ đạo các ngành liên quan trong việc rà soát, kê
khai lập danh sách mua thẻ BHYT cho các đối tượng được hỗ trợ từ nguồn
ngân sách nhà nước đảm bảo chính xác, không trùng lặp, bỏ sót đối tượng;
cho Phòng Lao động - TBXH các huyện, thành phố để quản lý, theo dõi việc
phát triển đối tượng tham gia BHXH của các đơn vị, cá nhân trên địa bàn;
+ Tổ chức thanh kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo
về BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật;
+ Hàng năm tổ chức đánh giá kết quả việc thực hiện chính sách BHXH
+ Bố trí biên chế trong tổng số biên chế đã được tỉnh giao hàng năm
tích tốt.
86
trên địa bàn; biểu dương khen thưởng kịp thời cho tập thể, cá nhân có thành
3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện cơ sở vật
chất ở hầu hết cơ quan BHXH trên địa bàn tỉnh Hà Giang
Công tác cải cách hành chính là một trong các nhiệm vụ quan trọng
đối với ngành bảo hiểm xã hội, do đó, BHXH tỉnh Hà Giang cần chú trọng
đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trong nội bộ ngành, thực hiện
việc niêm yết các thủ tục quy định về hồ sơ xét hưởng các chế độ BHXH từ
cấp huyện tới các xã. Đặc biệt là tổ chức thực hiện tốt quy trình tiếp nhận,
xét duyệt hồ sơ hưởng các chính sách bảo hiểm xã hội cho NLĐ theo quy
định, giảm bớt các giấy tờ thủ tục không cần thiết, tạo điều kiện giải quyết
chế một cửa liên thông; phân cấp quản lý một số nội dung, nhiệm vụ của
chế độ được thuận lợi, nhanh chóng. Qua đó, tiến tới việc thực hiện theo cơ
ngành cho BHXH huyện; phân công quy định rõ trách nhiệm của người
đứng đầu nhiệm vụ được giao.
Bảo hiểm xã hội tỉnh cần thực hiện tốt quy chế “một cửa” để tiếp nhận
hồ sơ và trả kết quả đã giải quyết thông qua giao dịch điện tử và dịch vụ bưu
chính. Quá trình tiếp nhận hồ sơ có ghi rõ bằng biên bản hoặc phiếu giao nhận
hồ sơ có ghi rõ thời hạn nhận kết quả giải quyết xong chế độ mà người lao
động được thụ hưởng. Trong quá trình giải quyết các chế độ trong thời hạn
ghi trên phiếu, tổ công tác có trách nhiệm phối hợp với các phòng chức năng
để tổ chức luân chuyển chứng từ theo đúng quy định giữa các phòng chức
các phòng chức năng thuộc bảo hiểm xã hội chuẩn bị các điều kiện cần thiết
để chi trả (hồ sơ, danh sách chi trả,…).
Bộ phận “một cửa” cần thực hiện tốt và phát huy hơn nữa các chức
năng và nhiệm vụ của mình, để “một cửa” không chỉ tiếp nhận hồ sơ và trả
kết quả giải quyết mà còn thực hiện việc tư vấn chế độ, chính sách và giải
năng để khi bộ phận tiếp nhận và giải quyết theo quy chế một cửa trả kết quả,
87
đáp cho người lao động những thắc mắc về thủ tục giấy tờ cần có để xét
duyệt chế độ. Có như vậy mới góp phần rút ngắn thời gian giải quyết chế độ
để tổ chức chi trả đúng quy định, kịp thời đến tận tay đối tượng thụ hưởng.
Từ đó, góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả giải quyết công việc của cơ
quan bảo hiểm xã hội, rút ngắn quy trình và đề cao trách nhiệm vật chất ở
mỗi khâu công việc, tiết kiệm thời gian chờ đợi của người được hưởng chế
độ bảo hiểm xã hội.
Đồng thời, các đơn vị BHXH huyện trên địa bàn toàn tỉnh, lập bảng kế
hoạch chi tiết xin kinh phí gửi BHXH tỉnh, để hoàn thiện cơ sở vật chất từ đó
nâng cao năng suất giải quyết công việc của viên chức ngành BHXH
Để chính sách bảo hiểm xã hội nói chung hay chế độ thai sản nói riêng
3.2.6. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực quản lý
đi vào thực tế được nhanh gọn, khách quan, giúp bảo vệ quyền lợi cho người
lao động, đòi hỏi Nhà nước ta cần đổi mới hoạt động thông tin, tuyên truyền,
nâng cao nhận thức của cả người lao động và người sử dụng lao động như: tổ
chức các buổi chuyên đề, hội thảo để nâng cao năng lực quản lý của cán bộ
bảo hiểm, nhằm phân tích, tìm hiểu mặt ưu điểm, mặt hạn chế của chính sách
bảo hiểm xã hội hiện nay, nhằm đưa ra các giải pháp mang tính ưu việt hơn.
Đồng thời, giúp người dân hiểu và nắm vững pháp luật, để các cán bộ quản lý
có thể thực hiện công việc của mình một cách dễ dàng hơn. Cần hoàn thiện
mô hình quản lý theo chiều dọc, lực lượng quản lý cấp cao sẽ quản lý trực tiếp
tình hình hoạt động, rút ra kết quả, hạn chế và đề xuất giải pháp khắc phục
hạn chế đó. Phát triển mô hình quản lý trực tiếp, quản lý chặt chẽ vấn đề giúp
việc thực hiện quy định pháp luật được nhanh gọn, chính xác hơn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có hệ thống kiểm tra, thanh tra, giám sát
việc thực hiện các chế độ bảo hiểm của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
các bộ phận chuyên môn của mình. Theo định kỳ, các cấp đơn vị cần báo cáo
88
của người sử dụng lao động đối với người lao động. Một khi, cấp trên trực
tiếp giám sát hoạt động của cấp dưới, đòi hỏi cấp dưới cần quan tâm, chú
trọng đến công việc của mình hơn, tránh tình trạng bỏ bê công việc, kết quả
công việc không tốt. Qua những hạn chế gặp phải khi áp dụng pháp luật về
chế độ thai sản trên thực tế sẽ có những chính sách điều chỉnh phù hợp và
biện pháp xử phạt hợp lý đối với những trường hợp vi phạm pháp luật. Việc
giám sát này cần phải phối hợp chặt chẽ với hệ thống các cơ quan quản lý nhà
nước về các lĩnh vực khác: cơ quan thuế, cơ quan công an, bộ tài chính,… để
89
thực hiện thu, chi trả, giám sát được thuận lợi hơn.
Kết luận chương 3
Những bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật về bảo hiểm thai
sản đã nêu ở chương 1 và những tồn tại trong việc thực hiện các quy định
pháp luật về bảo hiểm thai sản trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã nêu ở chương 2,
đòi hỏi cấp thiết đặt ra chính là việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định pháp
luật và đề ra các giải pháp thực tiễn áp dụng tại địa bàn. Có như vậy, các quy
định pháp luật bảo hiểm thai sản mới phát huy vai trò là một công cụ quản lý
của Nhà nước; tạo điều kiện giúp cho cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện một
cách có hiệu quả công tác chế độ an sinh xã hội.
Đối với việc hoàn thiện pháp luật, luận văn đã đưa ra kiến nghị sửa đổi
một số quy định của pháp luật, điển hình như: mở rộng đối tượng áp dụng bảo
hiểm thai sản; linh hoạt điều kiện hưởng chế độ; tham gia công ước ILO, v..
Đối với việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bảo hiểm thai sản
trên địa bàn tỉnh Hà Giang, luận văn đề xuất một số giải pháp như: tuyên
truyền, phổ biến pháp luật để nâng cao ý thức của người lao động, người sử
dụng lao động; tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tăng cường
90
công tác thanh tra, kiểm tra về bảo hiểm thai sản, v.v…
KẾT LUẬN
Chế độ thai sản thuộc hệ thống các chế độ BHXH và là một trong
những chế độ được hình thành và phát triển sớm nhất ở nước ta cũng như các
nước khác trên thế giới. Các quy định của pháp luật Việt Nam về chế độ thai
sản khá đầy đủ với những quy định cơ bản về đối tượng được hưởng chế độ,
điều kiện hưởng, thời gian nghỉ hưởng và mức hưởng chế độ thai sản. Những
quy định này có ý nghĩa không chỉ đảm bảo thu nhập cho người lao động khi
trải qua quá trình thai sản, thực hiện chức năng xã hội mà nó còn có ý nghĩa
lai. Ngoài việc tìm hiểu quy định pháp luật hiện hành về chế độ thai sản, khoá
nhân văn rất lớn lao, góp phần để tái sản xuất sức lao động cho thế hệ tương
luận còn đi sâu phân tích những đổi mới của Luật BHXH năm 2014 liên quan
đến chế độ này. Đồng thời, nghiên cứu thực trạng áp dụng chế độ thai sản tại
Tỉnh Hà Giang qua việc tổng quan về tình hình sử dụng lao động nữ qua các
phân tích về cơ cấu giới tính, cơ cấu độ tuổi, tình hình lao động nữ được
hưởng BHXH về thai sản, …
Trong quá trình thực hiện BHXH thai sản tại Tỉnh Hà Giang đã đạt
được một số kết quả quan trọng góp phần hỗ trợ cho rất nhiều người lao động
được đảm bảo quyền lợi của mình. BHXH thai sản đã thực sự trở thành công
người lao động. Điều đó chứng tỏ chế độ thai sản ngày càng đi vào cuộc sống,
khẳng định tính đúng đắn của Nhà nước trong việc điều chỉnh chính sách
pháp luật phù hợp hơn với xu thế phát triển của đất nước. Đối tượng tham gia
BHXH nói chung, bảo hiểm thai sản nói riêng ngày càng tăng; công tác chi trả
các chế độ thai sản tại Tỉnh Hà Giang được chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời đã đảm
bảo ổn định đời sống cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm thai sản; đồng
thời, công tác giải quyết BHXH thai sản cho người lao động từng bước được
91
cụ để thực hiện các hoạt động xã hội qua việc giải quyết chế độ bảo hiểm cho
đổi mới trên cơ sở áp dụng công nghệ thông tin, thực hiện cải cách hành chính
nhằm thực hiện tốt các chế độ bảo hiểm thai sản cho NLĐ.
Để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi chế độ bảo hiểm thai sản ở
Tỉnh Hà Giang, có thể tập trung một số giải pháp sau, đó là: hoàn thiện pháp
luật bảo hiểm thai sản về điều kiện hưởng, thời gian và mức hưởng BHXH
thai sản, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức Công đoàn, hoàn thiện mô
hình quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý, nâng cao hiệu quả công
tác thanh tra, xử lý nghiêm vi phạm, tuyên truyền nâng cao ý thức tuân thủ
92
pháp luật về thai sản.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2014), Quyết định số 1018/QĐ-BHXH ngày
10/10/2014 sửa đổi một số nội dung tại các quyết định ban hành quy
định quản lý thu, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, Hà Nội.
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2015), Quyết định số 959/QĐ-BHXH ngày
09/9/2015 về việc ban hành quy định về quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; quản lý sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 636/QĐ-BHXH ngày
hiểm y tế, Hà Nội.
22/4/2016 về việc ban hành quy định về hồ sơ và quy trình giải quyết
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, Hà Nội.
4. BHXH tỉnh Hà Giang (2015-2017), Báo cảo tổng kết hoạt động ngành
BHXH tỉnh Hà Giang.
5. Bộ Lao động Thương binh và xã hội (2015), Thông tư số 59/2015/TT-
BLĐTBXH ngày 29/12/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, Hà Nội.
6. Bộ Y tế (2016), Thông tư số 14/2016/TT-BYT ngày 12/05/2016 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội thuộc lĩnh vực y
7. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 quy
định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội
bắt buộc, Hà Nội.
8. Chính phủ (2016), Nghị định số 21/2016/NĐ-CP ngày 31/3/2016 quy
định việc thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế của cơ quan bảo hiểm xã
tế, Hà Nội.
93
hội, Hà Nội.
9. Đỗ Thị Dung (2006), “Chế độ Bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm
đảm bảo quyền lợi của lao động nữ”, Tạp chí luật học, (03), tr. 80 - 87.
10. Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương (2011), Pháp luật an sinh xã hội-
kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
11. Lương Thanh Huyền (2016), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thực hiện tại tỉnh Sơn La, Luận văn thạc sỹ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
12. Khuyến nghị 191 - Khuyến nghị về Sửa đổi Khuyến nghị Bảo vệ thai sản
13. Nguyễn Thúy Lâm (2004), “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ thực
năm 1952
trạng pháp luật và phương hướng hoàn thiện”, Tạp chí luật học, (03).
14. Tán Ngọc Lan (2018), Chế độ bảo hiểm thai sản theo pháp luật bảo
hiểm xã hội từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn Thạc sỹ Luật học,
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam
15. Nguyễn Xuân Nga (2005), “Những ý kiến của Công đoàn về dự thảo
Luật Bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Lao động xã hội.
16. Phạm Trọng Nghĩa (2006),“Một số vấn đề cơ bản về an sinh xã hội” Tạp
chí Nghiên cứu luật pháp, (8).
17. Nguyễn Hiền Phương (2015), “Những điểm mới về chế độ bảo hiểm
18. Nguyễn Hiền Phương (2015), Bình luận khoa học một số quy định của
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
19. Nguyễn Hiền Phương (2010), Pháp luật an sinh xã hội – những vấn đề lý
luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
theo Luật bảo hiểm xã hội năm 2014”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 56 - 64.
ngoài theo hợp đồng, Hà Nội.
94
20. Quốc hội (2006), Luật người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
21. Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, Hà Nội.
22. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
24. Xìn Thanh Quyết (2018), Nghiên cứu giải pháp giải quyết việc làm cho lao
động người dân tộc thiểu số tại huyện Xín Mần, tỉnh hà Giang, Luận văn
Thạc sỹ phát triển nông thôn, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
25. Sở LĐTBXH tỉnh Hà Giang (2015-2017), Báo cáo nghiên cứu đánh giá
lực lượng lao động tỉnh Hà Giang.
26. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 1215/QĐ-TTg ngày
Nam đến năm 2020, Hà Nội.
23/7/2013 phê duyệt chiến lược phát triển ngành bảo hiểm xã hội Việt
27. Nguyễn Thị Hoài Thu (2004), "Khắc phục những bất cập, đẩy nhanh tiến độ
soạn thảo, sớm ban hành Luật bảo hiểm xã hội", Tạp chí Bảo hiểm xã hội.
28. Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo
hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
29. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1919), Công ước số 3 - Công ước về sử
dụng lao động nữ trước và sau khi đẻ.
30. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1951), Công ước số 100 – Công ước về
trả công bình đẳng giới giữa lao động cho một công việc có giá trị
31. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 102 – Công ước về
quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội.
32. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 103 – Công ước về
bảo vệ thai sản, xét lại năm 1952.
33. Tổ chức lao động quốc tế - ILO (1952), Công ước số 183 – Công ước về
ngang nhau.
95
sửa đổi công ước thai sản, (đã sửa đổi) năm 2000.
34. Trung tâm nghiên cứu lao động nữ giới, Viện khoa học xã hội - Bộ lao
động và bà FIONAHAWELL tổ chức ILO, văn phòng Bangkock và Hà
Nội (2003), Bình đẳng trong lao động và Bảo trợ xã hội cho phụ nữ và nữ
giới khu vực kinh tế chính thức và phi chính thức, Nxb lao động và xã hội.
35. Trường Đại học Lao động-Xã hội (2011), Giáo trình Bảo hiểm xã hội,
Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội.
36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Quyền của phụ nữ theo pháp luật
các nước ASEAN, Hội thảo khoa học.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật An sinh xã hội,
38. Phạm Thanh Vân (2002), “Thực thi chính sách pháp luật đối với lao
Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.
động nữ trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, (4).
39. Viện Ngôn ngữ học (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
40. Lê Thanh Việt (2008), “Chi Bảo hiểm xã hội đúng- đủ- kịp thời”, Bảo
hiểm xã hội mười năm ngày thành lập.
41. Hoàng Thị Hải Yến (2010), “Chế độ thai sản theo Luật bảo hiểm xã hội
năm 2006 và vấn đề bình đẳng giới”, Tạp chí Luật học, (5), tr.58-64.
42. http://baobaohiemxahoi.vn/vi/tin-chi-tiet-nhung-nguyen-tac-cua-bhxh-
d6f83ea4.aspx.
43. https://luatduonggia.vn/nguyen-tac-co-ban-cua-bao-hiem-xa-hoi-viet-nam/.
44. .http://www.vccinews.vn/news/24203/bao-hiem-xa-hoi-tinh-ha-giang-
doi-moi-de-phuc-vu-tot-hon.html.
45. http://hagiangtv.vn/video-v17529/bao-hiem-ha-giang--ngay-
II. Tài liệu Website
96
2132018.html.
46. http://hagiang.bhxh.gov.vn/dang-bo-bhxh-tinh-ha-giang-tong-ket-cong-
tac-xay-dung-dang-nam-2017/.
47. http://www.dankinhte.vn/vai-tro-cua-bao-hiem-xa-hoi/.
48. http://hagiang.bhxh.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-cong-tac-thi-dua-khen-
thuong-nam-2017-trien-khai-nhiem-vu-nam-2018-cua-cum-thi-dua-so-ii-
bhxh-9-tinh-mien-nui-phia-bac/.
49. http://hagiang.bhxh.gov.vn/.
50. .http://hagiang.bhxh.gov.vn/tinh-hinh-thuc-hien-chinh-sach-bhxh-nhieu-
ket-qua-tich-cuc/.
ly-nhung-mon-no-keo-dai-691460/.
51. http://www.baohagiang.vn/xa-hoi/201612/bao-hiem-xa-hoi-tinh-kho-xu-
52. .http://congdoan.vn/tin-tuc/cong-tac-nu-cong-gioi-510/co-hoi-va-thach-
thuc-voi-lao-dong-nu-trong-thoi-ky-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-
333053.tld.
53. http://www.baohagiang.vn/.
54. http://laodongxahoi.net/xin-man-ha-giang-khuyen-khich-lao-dong-di-
lam-viec-ngoai-tinh-1313128.html.
55. https://www.ilo.org/hanoi/Informationresources/Publicinformation/Press
97
releases/WCMS_243008/lang--vi/index.htm.